🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Cọ Hoang Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Table of Contents Cùng bạn đọc CHƯƠNG I: Bản sắc dân tộc Nhật Bản CHƯƠNG II: Điều hòa phép đối nhân xử thế ở Nhật Bản CHƯƠNG III: Thiên trong đời sống người Nhật CHƯƠNG IV: Tâm lý giới quản lý người Nhật KẾT LUẬN PHỤ LỤC 1 PHỤ LỤC 2 PHỤ LỤC 3 PHỤ LỤC 4 https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn Người Nhật (V.Pronikov - I.Ladanov) NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP TP.HCM & CÔNG TY VĂN HÓA PHƯƠNG NAM PHỐI HỢP THỰC HIỆN https://thuviensach.vn Cùng bạn đọc Việt Nam đang mở cửa về kinh tế. Giới doanh nhân và du khách Nhật hiện tiếp xúc với nước ta ngày càng đa dạng hơn. Chúng ta cần tìm hiểu về người Nhật để góp phần xây dựng mối quan hệ hợp tác và tình hữu nghị giữa hai dân tộc. Tập sách này được biên soạn theo công trình YAPONTSY (“Người Nhật”) của hai học giả từng dày công tìm hiểu về người dân Phù Tang từ hàng chục năm qua là V. Pronikov và I. Ladanov, do Nhà xuất bản “Khoa học” của Liên bang Nga ấn hành lần thứ 2 vào năm 1985, có lược bớt một số phần không cần thiết. Hy vọng bạn đọc sẽ có được trong tay một tài liệu tham khảo phong phú về một dân tộc đã từng làm nên những kỳ tích về kinh tế và canh tân đất nước. NGƯỜI BIÊN SOẠN https://thuviensach.vn CHƯƠNG I BẢN SẮC DÂN TỘC DÂN TỘC NHẬT BẢN 1. CỘI RỄ NGƯỜI NHẬT Vấn đề nguồ n gốc người Nhật hiện vẫn đang gây nên nhiều cuộc tranh cãi, bởi lẽ tuy nhiều giả thuyết và lý thuyết trái ngược hẳn nhau đã được đề ra, nhưng chưa có một giả thuyết hoặc một lý thuyết nào đủ sức lý giải một cách thỏa đáng toàn bộ những dữ kiện khoa học đã tích lũy được từ trước tới nay. Theo giới Nhật học Xô viết, sắc dân Ainu là nền tảng cổ xưa nhất của toàn bộ cư dân Nhật đương đại. Cách sống chính của sắc dân này là săn bắt muông thú, tôm cá và hái lượm hoa quả trong các cánh rừng nằm sâu trong nội địa hoặc ven biển trên các đảo ở phía bắc nước Nhật hiện thời. Người Ainu trên đảo Hokkaido về sau đã hỗn huyết cùng các sắc dân từ duyên hải Đông Á di cư sang. Còn tại Kyushu, Shikoku và Nam phần Honshu, họ hỗn huyết và bị đồng hóa bởi các bộ tộc Nam Đảo (Austronésie) tràn lên. Vào giữa đệ nhất thiên kỷ trước CN, một dòng người nữa (vẫn được mệnh danh là các bộ tộc tiền Nhật) từ Nam phần Triều Tiên vượt qua eo biển Triều Tiên bắt đầu di trú tới các đảo lớn nhỏ trên đất Nhật. Họ mang theo vào nhiều giống gia súc - ngựa, bò, cừu, - và cả nền văn hóa lúa nước bản địa. Quá trình phát triển và ảnh hưởng qua lại giữa nền văn hóa bản xứ (Ainu - austronésie) và nền văn hóa của các bộ tộc di trú đó vẫn tiếp diễn tới đầu thế kỷ thứ V. https://thuviensach.vn Nghề trồng lúa nước từ đó bắt đầu là phương thức sống chính của cư dân tại các đảo Nhật Bản. Sang giai đoạn từ thế kỷ VI tới thế kỷ VII, cư dân Nhật còn tiếp nhận thêm nhiều yếu tố văn hóa cả của Triều Tiên lẫn Trung Hoa. Thế kỷ thứ VIII là giai đoạn đánh dấu sự đồng hóa hoàn toàn các tàn tích Nam Đảo tại Nam phần Kyushu và mở đầu quá trình di dân lên Bắc phần đảo Honshu rừng rú bạt ngàn từ thời bấy giờ. Người Ainu bản địa một phần bị đồng hóa bởi các bộ tộc di trú, một phần bị đuổi ngược trở lên mạn Bắc. Nhật Bản hiện là quốc gia thuần nhất cao độ về phương diện sắc tộc: người Nhật chiếm tới 99% số cư dân. Còn sắc dân Ainu giờ chỉ còn chưa đến 20 ngàn người, sinh sống chủ yếu trên đảo Hokkaido. Ngoài ra, tại đây còn có gần 600 ngàn dân Triều Tiên, đa phần di cư sang trong những năm thế chiến II, và trên dưới bốn mươi ngàn người Nhật gốc Hoa. Số nhân khẩu Âu - Mỹ thường trú tại Nhật chiếm một tỷ lệ hết sức ít ỏi trong cơ cấu cư dân Nhật Bản. LỊCH SỬ XÃ HỘI NHẬT BẢN Người Nhật được sử sách Trung Hoa biên chép từ rất sớm - từ thế kỷ I trước CN. Mãi tới thế kỷ thứ VIII, các niên sử Nhật mới bắt đầu ra đời, biên khảo chủ yếu các huyền tích và truyền thuyết lịch sử dân tộc. Hai trước tác chính thường được nhắc tới nhất là Cổ sự ký (Kojiki) xuất hiện năm 712, và Nhật Bản sử ký (Nihon shoki) hay còn được gọi là Nhật Bản kỷ (Nihongi) , xuất hiện năm 720. Theo thần đạo, - hệ thống tín ngưỡng Nhật, - thì dân tộc Nhật là hậu duệ của nữ thần Mặt trời Amaterasu, người sinh ra vị thiên https://thuviensach.vn hoàng huyền thoại Zimmu (Zimmu-Tenno), lên ngôi năm 660 trước CN, và trị vì “vương quốc Yamato”. Chính vị hoàng đế này là người mở đầu các triều đại thiên hoàng Nhật Bản, thay nhau trị vì xứ sở suốt từ đó đế n tận bây giờ. Người Nhật, cũng tương tự như nhiều sắc tộc Á Đông khác, quen phân định niên đại lịch sử đất nước theo các triều vua. Hiện thời, Nhật Bản mới bước vào triều đại Thiên hoàng Akihito, kế vị vua cha là Hirohito, đăng quang năm 1926 và trị vì cho tới năm 1989. Nhân cách các Thiên hoàng và quyền lực của hoàng đế xưa nay vẫn là nhân tố hệ trọng nhất gắn kết thần dân trong nước và chi phối ý thức dân tộc của người Nhật. Phật giáo từ Ấn Độ được du nhập vào Nhật qua ngả Triề u Tiên và Trung Hoa vào thế kỷ thứ VI. Ngay từ ngày đầu, các giáo sĩ đạo Phật đã thấu hiểu toàn bộ tầm quan trọng và lợi ích của việc hội nhập Phật giáo với Thần đạo trong chừng mực có thể hội nhập được, để khai thác triệt để các giáo lý Thần đạo, đặng truyền bá Phật pháp tại đảo quốc này dễ dàng hơn. Chẳng hạn, một trong những nhà hoạt động Phật giáo nổi tiếng nhất, đại đức Kobo Daishi (774-835), đã minh chứng rằng Thần đạo và Phật giáo là hai tôn giáo rất gần gũi nhau, rằng Thiên chiếu Đại thần Amaterasu chính là hóa thân của Đức Phật. Vì vậy, sau ngày bám rễ được tại Nhật, Phật giáo bắt đầu mang một diện mạo khác hẳn, khác xa với tiền thân của tôn giáo đó, cả tại Ấn Độ lẫn Trung Hoa. Nhà sư Nhật không nhất thiết phải là một giáo phẩm chỉ biết thờ phụng và truyền giảng giáo lý của đức Thế Tôn, mà còn có thể kiêm nhiệm cả công việc thế tục - làm nhà giáo, nhà kinh thương, chính khách hoặc theo đời binh nghiệp, - tùy sở thích. Đó chính là nguyên do giúp Phật giáo thâm nhập và chi phối được mọi lĩnh vực sinh hoạt xã hội tại đảo quốc này. Nhưng có lẽ dấu ấn đậm nét nhất trong tâm trí người Nhật là Khổng giáo, được du nhập sang đất Phù Tang từ thế kỷ thứ IV - V https://thuviensach.vn qua ngả Triều Tiên, rồi sau đó, vào thế kỷ thứ VI, trực tiếp từ Trung Hoa. Ngay từ thời đó, tiếng Hán đã trở thành thứ tiếng của tầ ng lớp học thức Nhật Bản. Tiếng Hán được dùng làm thứ ngôn ngữ chính thức của giới cầ m quyền, thậm chí để sáng tác cả thơ văn. Nếu việc thâm nhập của Khổng giáo đã kéo theo cả việc truyền bá chữ Hán, thì đến lượt mình, chữ Hán - sau này trở nên thông dụng trong giới thượng lưu hơn - đã trở thành phương tiện hỗ trợ đắc lực cho việc truyền bá ảnh hưởng của đạo Khổng. Cho nên, chẳng có gì đáng lấy làm lạ khi thấy các giáo lý đạo Khổng đã sâu rễ bền gốc trong tâm thức người Nhật, bởi lẽ các chủ thuyết của Khổng giáo vốn đặt lên hàng đầ u việc thờ phụng tổ tiên, lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, đức phục tòng của một người dưới đối với người trên, việc giữ nghiêm mọi bổn phận của mỗi người trong xã hội, v.v... Người Nhật đương đại hiện vẫn ứng xử theo đúng các chuẩn tắc xã hội từng được các giáo lý của đạo Khổng ấn định hết sức tỉ mỉ. Phật giáo và Khổng giáo từ lâu đã giữ một vai trò to tát trong việc hình thành hệ kiến trúc thượng tầng tư tưởng và đạo đức độc đáo của người Nhật. Chẳng hạn, Khổng giáo đã dần dà trở thành hệ tư tưởng của giai tầng quân nhân - phong kiến cầm quyền, một đẳng cấp từng chiếm địa vị thượng tôn tại Nhật suốt nhiều năm. Vào thời mạc phủ [1] (shogun) Kamakura (1192-1333), từ giới quý tộc quân nhân phục dịch các mạc phủ, vốn chiếm thế thượng phong, đã nảy sinh một giai tầng mới, gọi là samurai , chủ trương lấy đức “thượng võ” làm nề n tảng xã hội. Buổi đầu, các samurai được cấp ruộng đất để thu hoa lợi. Về sau, mạc phủ Yefsuna (1641- 1680) ra chỉ dụ đoạt lại các khu đất phong đó, biến giới samurai thành đẳng cấp quân nhân chuyên nghiệp hưởng lương bổng do các https://thuviensach.vn tôn chủ ban phát. Chính các samurai bị đoạt lại ruộng đất đó đã hình thành nên một tầng lớp gọi là ronin . Họ không có tôn chủ bảo trợ, nên buộc phải lang thang khắ p nước để tìm cơ hội thi thố võ nghệ và tạo nên một bộ luật đạo đức độc đáo được mệnh danh là bushido (“võ sĩ đạo” - nghĩa đen là con đường của người chiến binh). Dần dà, bộ luật không thành văn này đã trở thành lý tưởng của giới võ sĩ Nhật Bản. Sau ngày mạc phủ Tokugawa thoái vị (1876), đẳng cấp samurai bị thủ tiêu trên danh nghĩa. Nhưng việc đó tuyệt nhiên không gột bỏ được tận gốc các qui phạm đạo đức “Võ sĩ đạo” trong tâm thức người Nhật. Tận trung với tôn chủ, sẵn sàng chết theo tôn chủ, tục harakiri - hết thảy vẫn còn được cổ súy, bất chấp mọi cấm ngăn. Tinh thần thượng võ, đức can trường theo “cốt cách samurai” sở dĩ được người Nhật sẵn lòng chấp nhận và dày công vun trồng, chung qui chỉ vì đó chính là cốt lõi của tinh thần Nhật Bản đích thực. Những đức tính đó đã giúp người Nhật đương đầu được với mọi ảnh hưởng của ngoại bang, nhưng cũng lại chính là nhân tố đã đẩy người Nhật tới chỗ ủng hộ chính sách “bế quan tỏa cảng” nảy sinh vào đầu thế kỷ XVIII. Năm 1611-1614, mạc phủ Yeyasu đã ban hành một loạt sắc luật cấm đạo Thiên Chúa do các giáo sĩ cố tìm mọi cách du nhập vào đất Nhật. Các giáo sĩ dòng Tên, rồi cả các dòng khác nữa, đã lần lượt bị trục xuấ t khỏi đất Phù Tang. Tiếp theo, cả giáo dân cũng bị bắt cải đạo, thậm chí bị hành hình. Năm 1624, người Tây Ban Nha bị cấm lui tới và sinh hoạt tương tự. Từ năm 1633-1636, nhà nước ban hành hàng loạt chỉ dụ cấm người Nhật xuất dương, cấ m cả các Nhật kiều về nước và đưa lên đoạn đầu đài những ai lén lút hồi hương. Năm 1636, giới cầm quyền cho tập trung hết các ngoại https://thuviensach.vn kiều lại, đày họ tới đảo Deshima (thuộc hạt Nagasaki). Năm 1639, việc truyền giảng đạo Thiên Chúa dưới mọi hình thức đều bị nghiêm cấm. Vì thường đưa các giáo sĩ phương Tây sang Nhật, nên tàu bè Bồ Đào Nha thậm chí không được lai vãng tới các hải phận Nhật Bản. Vậy là toàn bộ quần đảo bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Chính sách “bế quan tỏa cảng” đó đã tạo cho Nhật Bản một mảnh đất màu mỡ để vun trồng chế độ gia trưởng và ấn định nghiêm ngặt mọi chuẩn tắc ứng xử giữa các thần dân trong nước với nhau, nói riêng là qui phạm “tận trung” vốn là nền tảng của lệ Zyunshi (ấn định mọi kẻ bề tôi phải chết theo tôn chủ). Đó cũng chính là nền tảng của lệ katakiuchi, ấn định bổn phận của các samurai phải hạ sát kẻ đã giế t hại tôn chủ hoặc con trưởng của tôn chủ. Chẳng hạn, có tới hàng trăm sáng tác văn chương được viết ra nhằm tôn vinh “chiến công của 47 ronin ” đã đồng loạt harakiri để phục hận cho tôn chủ bị giết hại một cách dã man, bởi họ không thể hạ sát kẻ chủ mưu. Chính sách “bế quan tỏa cảng” tuy đã mang nhiều tai họa cho nền kinh tế đất nước, nhưng dẫu sao cũng tạo tiền đề cho người Nhật vun đắp được một bản sắc dân tộc hết sức nổi bật. Nhờ vậy mà vào giữa thế kỷ XIX, khi phải đương đầu với các cường quốc ngoại bang, nề n văn hóa lâu đời của Nhật Bản, từng bén rễ dưới triều Tokugawa, đã vững vàng trước sự xâm nhập của nền văn hóa phương Tây, đồng thời vẫn hấp thụ được những tinh hoa của văn minh Âu - Mỹ. Ngay cả khi cuộc cách mạng tư sản không triệt để 1867-1869 (thường mệnh danh là Meiji [2] ishin - “Minh Trị duy tân”) làm thay đổi tận gốc nề n kinh tế, chính trị và văn hóa, kéo theo những canh tân căn bản về mặt quan hệ xã hội, tâm lý dân tộc Nhật Bản vẫn https://thuviensach.vn chẳng khác trước bao nhiêu. Người Nhật vẫn bảo tồn nguyên vẹn những đặc trưng tâm lý chủ đạo từng hình thành dưới thời “bế quan tỏa cảng”, trong điều kiện quan hệ tôn ti nghiêm ngặt giữa các giai tầng xã hội ngày nào: đức cần cù, óc tổ chức, lòng tận trung, tính kiên định, sức chịu đựng, nếp sống đạm bạc, v.v... Tuy những đức tính trên đây không phải hết thảy đều vững bền như nhau, nhưng nhìn chung, tất cả đều đã để lại những dấu ấn đậm nét cả dưới thời phong kiến lẫn khi Nhật Bản bước sang chặng phát triển hình thái kinh tế tư sản. Đương nhiên, tính kế thừa về tâm lý dân tộc vốn vẫn là con đẻ của tính kế thừa của các thể chế xã hội. Theo khoa học gia Mỹ Douglas Haring, sở dĩ người dân vẫn sống nhẫn nhục suốt 3 thế kỷ ròng rã dưới ách áp bức độc tài, vốn lấy việc triển khai rộng khắp hệ thống mật vụ và chế độ cảnh sát lộng hành làm quốc sách, chung qui chỉ vì tâm lý phục tùng vô điều kiện đã ngấm sâu vào tâm thức người Nhật Bản. Đến lượt mình, tâm lý dân tộc lại là mảnh đất màu mỡ để Nhật Bản xác lập một thể chế tập quyền trên toàn bộ quần đảo vốn dễ cô lập từng đảo một với nhau. Nhật đã mau lẹ tổ chức lại nền công nghiệp, cải tiến nông nghiệp, cải cách cơ cấu xã hội với một tốc độ thần kỳ. Tinh thần thượng võ theo kiểu Samurai đã huy động được mọi tầng lớp cư dân lao vào công cuộc làm “rạng danh dân tộc” Phù Tang. Nhờ vậy, chỉ sau 3, 4 thập kỷ, đất nước đã có những bước tiến vũ bão. Nếu không có những đức tính tương tự, các mối quan hệ tư sản khó lòng đạt được những bước nhảy vọt to tát đến thế sau ngày Nhật Bản chuyển sang con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. https://thuviensach.vn Tháng 8-1945, khi Nhật Bản chiến bại và Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, nhiều người Nhật đã coi biến cố đó là một đại họa của đất nước. Tuy ý thức xã hội buộc phải chuyển hướng đột ngột trong cách thẩm định các giá trị tư tưởng sang một bậc mới, nhưng các chuẩn tắc đạo đức và đạo lý đã thừa hưởng vẫn được bảo tồn trong chiều sâu tâm thức của mọi người. Một loạt kết quả điều tra xã hội học, do Viện Thống kê toán học quốc gia thu thập được kể từ năm 1953 trở đi (cứ 5 năm thì tiến hành một lần), là những bằng chứng hiển nhiên nhất. Theo các số liệu đã công bố thì người Nhật không thích chối bỏ ngay cả những giá trị mà chính họ cũng thừa nhận là đã lỗi thời, nói riêng là chế độ gia trưởng, các tập quán cũ, lối ăn nói kiểu cách trong các nghi thức xã giao, v.v... Chẳng hạn, khi được hỏi: “Theo bạn, sau ngày lấy chồng, nữ giới có nên dồn hết tâm lực vào việc nội trợ không, hay vẫn cứ tiếp tục theo đuổi công danh như trước?” thì 78% nam giới và nữ giới đều cho rằng “họ chỉ nên gánh vác chuyện nội trợ”. Còn câu hỏi “Năng lực trí tuệ phái nam bẩm sinh có trội hơn phái nữ không?”, thì 62% nam giới và 63% nữ giới (trong số 700 đàn ông và 700 đàn bà được hỏi ý kiến) đều nhất trí tán thành: “có”. 60% số người được hỏi ý kiế n đều cho rằng nên duy trì lối xưng hô quen thuộc, theo đúng tôn ti trật tự xưa nay, và chỉ có 28% phản đối, cho đó là tập quán cổ hủ. Về các vấn đề khác, như phép xử thế, hạnh kiểm và thái độ đối với việc tự vận v.v... sự thể cũng không vượt ra ngoài những xu thế kể trên. TIẾNG NHẬT https://thuviensach.vn Tiếng Nhật hiện là quốc ngữ của 119 triệu người Nhật sinh sống trên quần đảo Phù Tang. Ngoài ra, tại Triều Tiên, HongKong, Đài Loan, Hawaii, Guam và một số vùng tại Brazil lác đác cũng có một vài cộng đồng Nhật kiều vẫn chưa quên hẳn tiếng mẹ đẻ của họ. Tuy cùng sử dụng văn tự tượng hình, nhưng tiếng Nhật vố n khác hẳn tiếng Hán cả về cơ cấu ngữ pháp, từ vựng, lẫn nguồn gốc, bởi lẽ tiếng Hán là một trong những ngôn ngữ phân tích tính điển hình; trong khi đó tiếng Nhật lại thuộc cấu trúc chắp dính (agglutinative), tương tự như các thứ ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Altai. Vốn không có văn tự bản địa, người Nhật phải vay mượn chữ viết tượng hình của người Hán để ghi âm. Do không phù hợp với hệ thống ngữ âm tiếng Nhật, Hán tự đã gây nhiều trở ngại cả cho việc ghi âm, lẫn việc phát âm các văn bản Nhật Bản. Tương tự như chữ Nôm ở ta, các từ tượng hình của tiếng Hán được người Nhật đọc theo lối Nhật và thường biểu thị những sự vật, hiện tượng hoàn toàn khác với nghĩa gốc trong Hán ngữ. Tình trạng đó đã thôi thúc giới học giả Nhật xây dựng một hệ thống văn tự tượng hình khác, ghi âm theo âm tiết, gọi là kana , hình thành từ thế kỷ VIII - IX, để đáp ứng các nhu cầu văn hóa, giáo dục của nước mình. Văn tự kana có hai biến thể: katakana - chủ yếu để ghi các từ vay mượn và hiragana - chủ yếu để ghi các từ thuần Nhật, cùng các phụ tố ngữ pháp đặc thù. Kana là thứ văn tự kết hợp 2 hệ thống chữ viết khác nhau - vừa tượng hình, vừa ghi âm. Nếu lật ngẫu nhiên một trang tạp chí Nhật hiện thời, ta sẽ thấy số lượng các từ ngữ ghi bằng văn tự kana nhiều hơn từ gấp rưỡi https://thuviensach.vn tới gấp đôi các từ tượng hình đích thực. Tỷ lệ này có thể xê xích tùy thể loại văn bản ta chọn. Trước thế chiến I, các tờ báo lớn tại Tokyo sử dụng từ 7.500 - 8.000 chữ vuông. Năm 1872, giới học giả cố giảm bớt số ký hiệu thông dụng xuống còn 3.167. Năm 1946, Bộ giáo dục Nhật qui định rút bớt danh sách kia xuống còn 1.850, đồng thời giản hóa bớt cách viết gần 740 chữ trong số 1.850 chữ đó. Tuy đã được cải cách nhiều lần, nhưng hiện nay số chữ vuông thông dụng trong báo chí Nhật vẫn còn tới từ 4 - 5 ngàn. Còn trong sách báo chuyên môn, số lượng thường phải cao gấp đôi. Văn tự Nhật khiến nền văn hóa Phù Tang rất gần gũi với nền văn hóa khu vực Viễn Đông, bởi đều xây dựng trên chữ viết tượng hình. Riêng hệ thống kana đã mang lại cho văn tự Nhật một bản sắc riêng biệt, - niềm kiêu hãnh của dân tộc Nhật Bản. Bản sắ c đó càng thể hiện rõ nét hơn nữa ở cốt cách giao tế ngôn ngữ đặc thù của khẩu ngữ Nhật Bản, sẽ được bàn kỹ thêm trong các chương tiếp theo. 2. NHỮNG KHẢO CỨU VỀ BẢN SẮC NGƯỜI NHẬT CỦA CÁC KHOA HỌC GIA ÂU - MỸ Bản sắc dân tộc của người Nhật Bản từng thu hút sự chú ý của giới sử học, triết học, tâm lý học nhiều nước từ mấy thập kỷ qua. Tìm hiểu các khía cạnh khác nhau trong sinh hoạt tinh thần người Nhật hiện đang là một thứ thời thượng của các học giả Âu - Mỹ. Dò tìm thực chất của ý thức xã hội dân tộc Nhật, để thấu hiểu đâu là động cơ chi phối cách ứng xử của người Nhật là mục tiêu của trào lưu nói trên. https://thuviensach.vn Phần lớn các tác giả phương Tây đều mắc bệnh chủ quan khi đánh giá tâm lý dân tộc Nhật Bản. Trong các khảo cứu về những khía cạnh khác nhau cấu thành tâm lý người Nhật, họ thường không tính đến đầy đủ các nhân tố xã hội - kinh tế, và ảnh hưởng của chúng đối với đời sống tinh thần người dân xứ sở Phù Tang. Một trong những khảo cứu tiêu biểu nhất về mặt này là cuốn Hoa cúc và thanh kiếm của nhà nữ dân tộc học Mỹ R. Benedict, công bố năm 1947 tại Mỹ. Đây là công trình khảo cứu đầ u tiên về bản sắc dân tộc Nhật, ra đời sau thế chiến và được nhắc đến nhiều tại Âu - Mỹ. Cuốn sách đã được dịch ngay sang Nhật ngữ vào cùng năm đó nhờ sự hỗ trợ đắc lực của bộ chỉ huy lực lượng chiếm đóng Mỹ trên đất Nhật, bởi vì họ hy vọng rằng khi người Nhật thông cảm được quan niệm của R. Benedict, trình bày trong cuốn sách kia, bộ chỉ huy Mỹ sẽ dễ bề cai quản nước Nhật vừa chiến bại hơn. R. Benedict chưa hề đặt chân tới xứ sở hoa anh đào bao giờ. Bà bắt tay viết cuốn sách vào năm 1944, theo đơn đặt hàng của Bộ Tư lệnh Mỹ, với một mục tiêu: Giúp cho các chính khách và giới quân nhân cao cấp có một tài liệu tường minh về người Nhật để họ có thể hoạch định chiến lược và chính sách đối với Nhật Bản trong thời hậu chiến. Nói riêng, bà chỉ chú mục vào những vấn đề đang tranh luận trong giới chính khách và giới quân nhân cao cấp Mỹ, như: Hoa Kỳ nên đối xử thế nào với Nhật Bản trước và sau ngày họ đầu hàng? Trong cuộc tranh luận đó, đã nổi cộm nhiều vấn đề cụ thể sau đây: “Nhật có đầu hàng không nếu Mỹ không can thiệp quân sự? Có nên dội bom Hoàng cung không? Có thể hy vọng gì nơi đám quân nhân Nhật bị bắt làm tù binh? Sau ngày hòa bình, có cần ban hành một quân luật hữu hiệu để duy trì trật tự? Quân đội Mỹ có nên https://thuviensach.vn chuẩn bị để ứng chiến với đám tàn quân Nhật tại từng ngọn đèo, hẻm núi, quyết liều chết kháng cự đến cùng trong các công sự kiên cố? Tại Nhật, liệu có bùng nổ một cuộc cách mạng, tương tự như tại Pháp và Nga sau ngày ký kết hòa bình không? Để chinh phục người Nhật với tư cách một dân tộc có cần dùng một cuộc cách mạng hay chỉ nên sử dụng một biện pháp ôn hòa hơn?”, v.v... Cuốn Hoa cúc và thanh kiếm đã khơi nguồn cho nhiều khảo cứu về bản sắc dân tộc Nhật Bản, tuy rằng giới học giả không thật nhất trí trong việc thẩm định giá trị cuốn sách. Chẳng hạn, vào thập kỷ 50, một số học giả Nhật, nói riêng là nhà tâm lý học Hiroshi Minami, đã bác bỏ một loạt luận điểm của nhà nữ dân tộc học Mỹ; ông cho rằng quan niệm của bà về “người Nhật bình dị”, về nhiều khía cạnh, là sai lạc và lỗi thời. Theo Hiroshi Minami, R. Benedict xét đoán người Nhật chủ yếu qua phim ảnh và văn chương Nhật ra đời từ hồi chưa nổ ra thế chiến II, và bà chỉ được nhìn thấy người Nhật qua các kiều dân Nhật đang sống tại Mỹ. Vì vậy, ý kiến của bà về tâm lý người Nhật mang nặng nhiều định kiến. Việc phê phán của Hiroshi Minami tuy quá gay gắt, song không phải là thiếu căn cứ. Riêng về phần chúng tôi còn muốn chỉ trích R. Benedict là đã vận dụng chưa thật nhuần nhuyễn học thuyết Freud trong việc lý giải các quá trình xã hội: khi vạch rõ tâm lý người Nhật, bà chỉ vận dụng cứng nhắc các mô hình phân tâm học, như “mặc cảm tội lỗi” và “mặc cảm liêm sỉ”, coi đó là “nhân tố văn hóa” chủ đạo. Tuy bà nhận định rất đúng rằng người Nhật không dám bộc lộ hết nhân cách thực, mà chỉ lo chu toàn bổn phận của họ đối với các thành viên trong gia đình, trong tập thể nhóm, trong các cộng đồng lớn nhỏ khác nhau và chỉ bận tâm đến những ai họ thường tiếp xúc, giao lưu, nhưng bà đã khiên cưỡng khi liệt nền văn hóa https://thuviensach.vn Nhật vào loại hình bị “mặc cảm liêm sỉ” chi phối, đối lập với nền văn hóa phương Tây vốn bị “mặc cảm tội lỗi” thao túng. Nếu nhận định như R. Benedict rằng “liêm sỉ” là động lực độc nhấ t của dân tộc Nhật, là cố tình không đếm xỉa gì đến nhân tố chủ đạo, tức phương thức sản xuất, vốn là nền tảng xã hội của sự phát triển loài người nói chung. Hơn nữa, liêm sỉ và tội lỗi, như mọi người đều rõ, là hai ý niệm thuộc phạm trù đạo đức, và theo tâm niệm tâm lý học, là hai dạng cảm xúc thuộc bình diện cá nhân, thể hiện dưới dạng các thẩm định tình cảm của từng cá nhân cụ thể trong từng tình huống cụ thể, chứ tuyệt nhiên không phải cách thể hiện của toàn thể cộng đồng dân tộc, nên về lô gích không thể lấy đó làm luận cứ của tác phẩm. Tuy có nhiều thiếu sót nghiêm trọng, nhưng dẫu sao tác phẩm của Benedict cũng đã mở đường cho hàng loạt công trình khảo cứu về tâm lý dân tộc của người Nhật sau này. Một tác phẩm nữa cũng gây nhiều tiếng vang suốt một thời gian dài là cuốn Người Nhật và người Do Thái của Isaii Ben-Dasan. Cuốn sách ra mắt đúng vào lúc tại Nhật đang diễn ra nhiều biến cố làm chấn động dư luận thế giới. Tháng 11-1970, nhà văn lỗi lạc Nhật Bản là Yukio Mishima đã tự vẫn (harakiri) sau vụ đảo chính thất bại, nhằm thức tỉnh dân tộc Nhật và đề cao tính ngoại lệ của dân tộc Phù Tang. Báo chí cả trong lẫn ngoài nước đều xôn xao quanh vụ tự vẫn này cho tới đầu xuân 1971. Trên trường quốc tế và ngay tại Nhật vào thời kỳ đó cũng bùng lên nhiều vụ “đụng độ” lớn: cuộc “chiến tranh hàng dệt” Nhật - Mỹ, vụ “đồng dollar bị một cơn choáng kinh hoàng”, những đột biến trong mối quan hệ Nhật - Mỹ, Nhật - Trung, v.v... Thế giới bắt đầu tròn mắt thán phục trước những “bước tiến thần kỳ” của nền kinh tế Nhật. Hơn nữa, đó https://thuviensach.vn cũng chính là lúc ngay tại Nhật đâu đâu cũng xôn xao những khẳng định rằ ng dân tộc Nhật đang băng hoại về đạo đức hơn bất cứ bao giờ. Toàn bộ những tình thế đó đã thôi thúc bản thân người Nhật tự đứng ra tiến hành “tái thẩm định các giá trị”, buộc giới học thức thuộc mọi ngành - từ kinh tế học, xã hội học đến tâm lý học - đều phải suy ngẫm trước câu hỏi: nước Nhật sẽ đi về đâu? Rố t cục, tính cách dân tộc Nhật đã trở thành đề tài của cả một loạt khảo cứu, và nổi bật hơn cả là cuốn sách của Ben-Dasan bởi giọng điệu vừa hết sức bất ngờ, vừa hết sức ngược ngạo của tác giả. Chẳng hạn, Ben-Dasan nhận định rằng toàn thể dân tộc Nhật chung qui chỉ là một tổng thể đồng nhất, bao gồm toàn những đệ tử trung thành với cái được mệnh danh là “thuyết duy Nhật” (japonisme), rằng người Nhật không hề có một phát triển thuần Nhật nào hết, rằng họ không đời nào chịu bộc lộ một cách dứt khoát ý kiến chính mình, mà bao giờ cũng là những kẻ xu phụng, gió chiều nào che chiều đó, thế thôi. Ben-Dasan còn chỉ ra tính chất nguyên thủy, mông muội của các quá trình xã hội trong lịch sử Nhật và nhấn mạnh rằng ai cũng có cảm giác là mình có thể thấu hiểu tâm lý người Nhật, mà chẳng cần tiến hành tâm lý khoa học, dù chi tiết hết sức thô sơ. Theo nhận xét rất đích đáng của Hiroshi Minami, cách tiếp cận tùy tiện đó trong khi khảo cứu đặc điểm tâm lý người Nhật đã chứng tỏ rằ ng tác giả không phải là một khoa học gia có thẩm quyền trong địa hạt mình nghiên cứu. Đóng góp đáng kể không thể bác bỏ cho việc khảo cứu nhiều khía cạnh riêng biệt của bản sắc dân tộc Nhật là công trình Nếp suy tưởng của các dân tộc phương Đông của học giả Mỹ gốc Nhật Najime Nakamura. Tác giả đã khảo cứu thấu đáo các nền văn hóa Ấn và Trung Hoa, nhưng dành cho Nhật Bản tới già nửa cuốn sách. H. https://thuviensach.vn Nakamura chỉ rõ: người Nhật đã tỏ ra khôn ngoan rất mực trong việc lựa chọn những gì là tinh hoa trong các nền văn hóa khác, tùy thuộc vào nhu cầu của từng giai đoạn phát triển cụ thể trong tiến trình phát triển lịch sử của quốc gia mình. Chẳng hạn, sau ngày du nhập vào đất nước hồi thế kỷ thứ VI, đạo Phật đã được người Nhật tiếp nhận phải là một tín ngưỡng đất nước họ đang cần tại thời điểm bấy giờ, nghĩa là một hình thái Phật giáo rất giản dị vào buổi sơ khai. Tác giả cũng nêu rõ quá trình Nhật Bản vay mượn vốn kinh nghiệm của các nước lân bang và đồng hóa nó ra sao trên nền tảng văn hóa và truyền thống của chính nó, và quá trình tác động tương hỗ giữa các yếu tố đó diễn ra như thế nào để vừa bảo toàn được văn hóa dân tộc, vừa phát triển năng động các nhân tố mới lạ. Cơ chế này, như ta đã biết, vốn luôn thay đổi trong quá trình lịch sử, nhưng chưa bao giờ vắng bóng tại xứ sở Phù Tang. Học giả Pháp R. Guillain đã tiến hành phân tích sâu sắc cơ cấu công nghiệp và tài chính trong cuốn Nhật Bản: cường quốc thứ ba, công bố năm 1969 tại Paris. Ông nêu rõ những khía cạnh nào trong bản sắc dân tộc đã giúp người Nhật biến quốc gia mình thành một “siêu cường”. Ông đánh giá cao đức cần cù và sự năng nổ của người Nhật, và khen ngợi hết lời lòng yêu lao động của họ, - nhân tố quan trọng giúp người dân ủng hộ mọi tiến bộ kinh tế, tạo cho nền kinh tế Nhật một động thái phát triển đáng thán phục. Theo R. Guillain, Nhật là quốc gia có một nền “văn hóa song tầng”, cho phép hai nền văn hóa cũ và mới cùng chung sống bên nhau. Ông nêu rõ người Nhật sở dĩ vẫn cố bảo tồn các tập tục cổ truyền chung qui chỉ vì họ muốn xa lánh cõi thế tục đầy rẫy cảnh bon chen và lấy làm tiếc về việc người Nhật - “dân tộc giàu bản https://thuviensach.vn sắc nhất thế giới” - đang tự biến mình thành kẻ tòng phạm với lối “buôn tranh bán cướp đầ y tội lỗi”. Theo R. Guillain, chỉ có nền văn hóa cổ truyền mới đủ sức đương đầu với tệ “hiện đại hóa tai hại”, nên “nền văn hóa song tầng” đó phải cần một thời gian dài nữa mới cáo chung. Riêng học giả Mỹ R. Halloran, nhờ được sống nhiều năm trong một gia đình Nhật và cố tìm hiểu mọi ngóc ngách trong nếp sinh hoạt Nhật Bản, nên đã tiến hành một khảo cứu xã hội học giá trị, vốn là nền tảng của tác phẩm Nước Nhật trong trí tưởng tượng của nhiều người và trong thực tế , công bố vào năm 1970 tại Tokyo. Cũng như R. Guilain, nhà học giả Mỹ cho rằng nét độc đáo nổi bật hơn cả của nền văn hóa và bản sắc dân tộc Nhật Bản là sự trung thành với truyền thống và sự năng động trong việc tiếp thu cái mới từ bên ngoài. Theo ông, cái mới nói chung và các yếu tố văn hóa ngoại lai nói riêng, không được người Nhật vay mượn sống sượng, mà bao giờ cũng cải biên và đồng hóa theo một phương thức đặc thù, nhờ vào một cơ chế xã hội - tâm lý riêng, chuyên đáp ứng mục tiêu trên. Cuốn Đông và Tây của S. Gullick là một đóng góp đáng kể nữa vào công cuộc khảo cứu tâm lý - dân tộc. Tác giả đã nghiên cứu một loạt vấn đề liên quan tới phép phân tích tâm lý và các sắc tộc phương Đông, và nhất là dân tộc Phù Tang. Tác giả khảo sát hết sức cặn kẽ quá trình hình thành bản sắc dân tộc Nhật Bản, miêu tả chi tiết hệ thống gia đình người Nhật, các hệ tín ngưỡng, các giá trị dân tộc và xã hội của dân tộc này. Theo tác giả, bản sắc dân tộc Nhật có những đặc điểm vững bền sau đây: lịch duyệt, yêu thiên nhiên, lòng tự tôn và phản ứng tinh nhạy đối với các nhân tố mới đáng du nhập. CỦA CÁC NHÀ KHOA HỌC NHẬT BẢN https://thuviensach.vn Nhật Bản vốn có cả một trường phái độc lập các chuyên gia về tâm lý học dân tộc, và trường phái này đã gặt hái được nhiều thành quả cụ thể trong công cuộc khảo cứu về tâm lý dân tộc mình. Tuy nhiên, các học giả Nhật phần đông đều chú mục vào việc so sánh dân tộc mình với các sắc dân khác theo những đặc điểm cụ thể này hoặc khác về bản sắc dân tộc nói chung, chứ ít chú ý tới các nhân tố tác động tới tiến trình phát triển lịch sử của quốc gia. Chẳng hạn, trong một loạt công trình, học giả Hiroshi Minami cho rằng nét nổi bật hơn cả và hệ trọng hơn cả trong bản sắc dân tộc Nhật Bản là thiên hướng tự chiêm nghiệm. Theo ông, đặc điểm đó sở dĩ đã nảy nở và ăn sâu vào tâm thức người Nhật chung qui chỉ vì Nhật Bản cơ hồ luôn bị các quốc gia khác thách thức, nên người Nhật không còn cách ứng xử nào khác hơn là buộc phải tự suy ngẫm về những hành động của chính mình. Trong cuốn Mười tiểu luận về bản sắc dân tộc, Yaichi Haga có đưa ra những đặc điểm tiêu biểu sau: trung thành với các đại diện hữu trách cai quản đất nước và yêu nước; tôn kính tổ tiên và giữ gìn thanh danh dòng họ mình; trọng thực và thích sống với hiện hữu hơn là với các tín ngưỡng cao siêu; biết thưởng ngoạn các vẻ đẹp thiên nhiên; lạc quan và thích trào lộng; trang nhã và lịch duyệt; ưa tìm tòi và nhạy cảm; thích nếp sống thanh bạch và đạm bạc, lễ phép và xử thế lịch lãm; sống điều độ và giàu lòng vị tha. Riêng Ichiro Kawasaki trong cuốn Nước Nhật không đeo mặt nạ đã mạnh dạn chấn chỉnh những đặc trưng gần như là chính thống trong quan niệm của nhiều người. Vì vậy, cuốn sách đã làm chấn động dư luận trong nước - tác giả đã bóc trần gay gắt một cách đột ngột những nét tiêu cực trong tính cách người Nhật Bản, nhìn người Nhật bằng cặp mắt trái ngược với lối nhìn nhận lâu nay. Thái độ https://thuviensach.vn ngạo mạn và coi thường đồng bào mình đó của tác giả đã gây công phẫn cả cho giới trí thức tiến bộ Nhật Bản. Tuy nhiên, vào năm 1970, tựa hồ vẫn “nối gót Kawasaki”, một học giả khác là Oshamu Takahashi đã công bố cuốn Người Nhật trần trụi , trong đó ông chỉ trích gay gắt thói hám quyền uy, tệ quan liêu và những tật xấu khác của người Nhật. Một số học giả Nhật, trái lại, đã thử khảo sát bản sắc dân tộc mình trong toàn cảnh lịch sử đất nước, đồng thời không quên so sánh nền văn hóa Nhật với các nền văn hóa khác trên thế giới. Trên phương diện này, đáng nhắc nhở nhất là cuốn Cơ cấu ý thức người Nhật và Môi trường và nền văn hóa Nhật đều của Yuji Aida. Ông khảo sát nền văn hóa Nhật trong bối cảnh các nền văn hóa của các sắc tộc khác trên thế giới và phê phán khá nặng nề việc vay mượn vô lố i “thể chế dân chủ thời hậu chiến” của các giới chức Nhật. Ông cũng đề cao đức nhạy cảm của người Nhật, sự quan tâm của họ đối với nhu cầu của đồng bào mình, tinh thần biết đặt lợi ích xã hội, đúng hơn là của tập thể, lên trên lợi ích cá nhân. Một học giả Nhật khác là Takeo Doi đã tập trung khảo cứu tâm lý cá nhân người Nhật trong cuốn Cấu trúc “amae” , coi đó như là nền tảng của nền văn hóa dân tộc. Takeo Doi cho rằng amae là cách ứng xử chủ trương “nếu người khác xử tốt với mình thì mình cũng phải đền đáp tương xứng”, và theo quan điểm của ông, đó chính là tình cảm trung tâm của người Nhật. Học thuyết amae là kết quả chắt lọc từ vốn kinh nghiệm điều trị lâm sàng các căn bệnh tâm thần và nâng cảm xúc của từng cá thể lên hàng đặc trưng chung, ấn định cơ cấu tâm lý của toàn dân tộc. Xét trên đại thể, lý thuyết amae có lẽ không thật thỏa đáng, tuy rằ ng lý thuyết này cũng nêu lên được chính xác từng khía cạnh riêng biệt của cơ cấu tâm lý nói chung. https://thuviensach.vn Các khảo cứu của giới học giả Nhật đương đại đa phần đều dựa trên những ý niệm từng được trình bày trong nhiều trước tác của thế kỷ trước, nói riêng là các luận thư kinh điển của Setsurei Miyake. Những luận thư này đã miêu tả rất sinh động những mặt tốt của bản sắc dân tộc Nhật: biết thưởng ngoạn cái đẹp, biết biện biệt phân minh thiện ác, cố xa lánh mọi cám dỗ thế tục phù vân. Các quan niệm của Miyake là chỗ dựa đáng tin cậy và có trọng lượng cho những ai mưu toan muốn đối lập nền văn minh Nhật Bản với văn minh Âu - Mỹ. Chẳng hạn, cuốn Suy ngẫm về nước Nhật trầm lặng, kín tiếng, Tomio Tejuka sở dĩ đã phân tích sâu sắc phận sự của tôn giáo trong cấu trúc bản sắc dân tộc Nhật chính là nhờ đã khai thác triệt để các luận điểm của Miyake. Những tác phẩm nhắc đến trên đây chỉ là một phần hết sức ít ỏi trong vô số các khảo cứu hiện có tại Nhật - đại dương sách vở hiện thời quả tình đang tràn ngập những khảo cứu của các học giả Nhật, trong đó bản sắc dân tộc được chú trọng khai thác từ nhiều góc độ hết sức khác nhau. Chính những ý kiến, những suy ngẫm và kết luận của các tác giả trên đã giúp ích chúng tôi rất nhiều trong việc tìm hiểu bản sắc dân tộc Nhật sắp trình bày dưới đây. 3. NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA BẢN SẮC DÂN TỘC NHẬT Bản sắc dân tộc, như đã nói, là một hiện thực khách quan và thể hiện dưới dạng một hệ thống các nét đặc trưng. Khi bàn về bản sắc dân tộc, nhà sinh lý học vĩ đại Nga đoạt giải Nobel Ivan Pavlov coi bản sắc đó là một dạng của hiện tượng tâm lý tổng quát. Ông viết: “Nếu chỉ hình dung từng đặc trưng rời rạc, chọn ngẫu nhiên, dĩ nhiên, ta sẽ không nêu rõ được bản sắc dân tộc..., mà xét cả một hệ thống các nét đặc thù, rồi phân tích trong hệ thống đó xem điểm https://thuviensach.vn nào là những nét nổi bật, còn điểm nào là những nét thứ yếu, không bộc lộ rõ, có thể bỏ qua”. Căn cứ vào luận điểm này, và dựa trên những nguồn sách vở, những kiến giải của những người từng tiếp xúc nhiều năm với người Nhật, cũng như những quan sát của chính mình, chúng tôi sẽ cố đề xuất một hệ thống những nét tiêu biểu, đặc trưng cho bản sắc dân tộc Nhật. Theo cách phân loại được bộ môn tâm lý xã hội chấp nhận, trong cuốn này chúng tôi cũng chia các đặc trưng thành 3 nhóm theo nguyên tắc: “toàn thể cộng đồng dân tộc - các tập thể nhóm - từng cá nhân”. Theo chúng tôi, bản sắc dân tộc Nhật Bản bao gồm những đặc trưng nổi bật sau đây: a. Đối với toàn thể cộng đồng : yêu lao động, tình cảm thẩm mỹ phát triển, yêu thiên nhiên, trung thành với truyền thống, thích vay mượn, coi dân tộc mình là trung tâm, trọng thực; b. Đối với các tập thể nhóm : tính kỷ luật cao, trung thành với các nhân vật có uy quyền, chu toàn bổn phận; c. Đối với nếp sống thường nhật của từng cá nhân : lịch lãm, chu tất và chỉnh tề, giỏi tự chủ, căn cơ, hiếu học và thích tìm hiểu những điều mới lạ. NHỮNG ĐẶC TRƯNG TIÊU BIỂU CHO TOÀN THỂ CỘNG ĐỒNG Yêu lao động và cần mẫn trong mọi lĩnh vực hoạt động là đặc trưng hệ trọng nhất của bản sắc dân tộc Nhật Bản. Dĩ nhiên, khi nhận định như thế, chúng tôi không hề ngụ ý người Đức, người Mỹ, người Anh vốn thiếu đức tính này. Tuy nhiên, phải thừa nhận lòng yêu lao động của người Đức vốn có một cốt cách khác hẳn người dân xứ sở Phù Tang. Điều độ, căn cơ, tính toán và trù liệu hết thảy mọi thứ - đó là cốt cách yêu lao động tiêu biểu của người Đức. Còn https://thuviensach.vn người Nhật bao giờ cũng lao động hết mình, coi đó là một khoái cảm thượng tôn. Họ cũng bộc lộ cả trong quá trình lao động lòng yêu thích cái đẹp cố hữu, từng đi vào tâm thức họ cùng với sữa mẹ. Tiếng Nhật có từ Furyu , vốn do hai căn tố tạo thành: Fu (“phong” - gió) và ryu (“lưu” - dòng nước). Đấy là từ diễn đạt tình cảm thẩm mỹ của người Nhật. Theo nhà văn Tetsuzo Tanikawa, tình cảm thẩm mỹ là nền tảng của bản sắc dân tộc Nhật, là nét chủ đạo, chi phối mọi đặc trưng còn lại của sắc dân Phù Tang. Theo lời T. Tanikawa, ai cũng biết rõ gia đình Nhật Bản nào, dù nghèo đến mấy, bao giờ cũng có một chậu cảnh và bức họa khổ lớn treo ngay trên trang thờ hoặc ở hốc tường. Thậm chí chỉ có một mẩu đất nhỏ, họ cũng cố sửa sang để biến thành một mảnh vườn con, trồng dăm gốc cây, dựng một trụ đá để đặt một chiếc đèn lồng; những chỗ còn lại đều gắng giữ cho rêu phong xanh biếc. Ngay tại các đô thị sầm uất, ta vẫn có thể bắt gặp nhiều mảnh vườn con kiểu này. Hễ có điều kiện là gia đình nào cũng thích sửa sang một khoảnh vườn con và chăm sóc rất chu tất. Một sở thích nữa cũng sớm hình thành trong tâm thức người Nhật (ở tuổi ngũ tuầ n hoặc ngoài 50) mà ai nấy đều biết là hễ rảnh việc, bao giờ họ cũng dành trọn thời giờ nghỉ ngơi để thưởng ngoạn vẻ đẹp thiên nhiên - ngắm cây cỏ, hoa lá, lắng nghe chim hót, thưởng ngoạn gió, trăng - theo cốt cách Furyu (“phong lưu”). Mọi ấn tượng còn lưu lại trong tâm trí du khách ngoại quốc tới viếng thăm Nhật Bản, vẫn theo nhận định của T. Tanikawa, - từ việc dạy cho phụ nữ cắm hoa, nghệ thuật trà đạo và làm thơ cho tới việc tôi rèn nam giới các môn võ thuật - hết thảy đều liên quan tới cốt cách “phong lưu” của người dân Nhật. https://thuviensach.vn Người Nhật gọi nghệ thuật đấu gươm là kendo (“kiếm đạo”), bắn cung là kyudo (“cung đạo”). Tuy nghĩa đen của chữ do (“đạo”) ở đây vốn là “đường”, nhưng không một người dân Phù Tang nào hiểu nó theo nghĩa đen, mà bao giờ cũng cảm nhận nó với cái nghĩa triết lý: một thứ Đạo luật độc tôn, một nẻo đến độc nhất với mọi sự vật. Với hàm ý triết lý sâu xa đó, “kiếm đạo” và “cung đạo” được người Nhật nâng lên thành một thứ nghệ thuật, phải đáp ứng đầy đủ mọi đòi hỏi của mỹ cảm nói chung. Cho nên, mục tiêu chính của mỗi đường tên không phải là cái đích cần nhắm bắn vào, mà là đích thân việc thủ đắc nghệ thuật của một cung thủ. Khi một cung thủ đã làm chủ được mọi yếu lĩnh và không còn bị ám ảnh bởi ước muốn phải đưa được mũi tên vào đúng hồng tâm bằng mọi giá, thì mũi tên tự khắc sẽ cắm phập vào cái đích dễ dàng, ngoài chủ định của người cung thủ bậc thầy kia. Những nhận định này hoàn toàn có thể đem vận dụng vào các môn võ thuật khác, như karate, judo, aikido ,... (xin xem chi tiết hơn ở chương III). Những chuẩn tắc thẩm mỹ đó, nhìn chung, đều chi phối gần như trọn vẹn triết lý sống của người Nhật - thị hiếu thẩm mỹ đã thâm nhập vào toàn bộ nếp sống của họ từ nhỏ. Suốt nhiều thế kỷ, nước Nhật đã vun đắp mỹ cảm cho thần dân mình, dần dà biến thành một thứ tín ngưỡng lấy cái đẹp làm thần tượng thượng tôn, khiến mọi tầng lớp cư dân đều sùng mộ như nhau về cái đẹp. Tự ngàn xưa, khi dạy viết chữ, người Nhật luôn đòi hỏi con trẻ phải đạt được cả hai yêu cầu: vừa đúng, lại vừa đẹp, - mới bõ công. Chính cách dạy dỗ này đã giúp mọi người hình thành được một cảm thức thẩm mỹ vững chãi từ thuở ấu thơ. Hệ thống văn tự tượng hình vốn phức tạp, phải viết thật chuẩn xác, nên con trẻ không còn con https://thuviensach.vn đường nào khác, ngoài sự gắng sức để vươn tới vẻ đẹp và sức diễn cảm của từng nét chữ tinh vi. Cho nên, việc tập viết được xem như một bài học vỡ lòng về việc rèn luyện khiếu thẩm mỹ cho con trẻ. Người Nhật còn có những sở thích như hanami - ngắm hoa, tsukimi - thưởng nguyệt và yukimi - ngắm tuyết rơi. Những sở thích này trở thành một bộ phận hệ trọng trong cuộc sống thường nhật. Truyền thống sùng mộ cái đẹp được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, để lại dấu ấn sâu đậm trong mọi lãnh vực, thể hiện cả trong tình cảm, trong hành động lẫn ngôn từ. Theo chính người Nhật, cảm xúc thẩm mỹ ngấm vào máu thịt họ chỉ là một thứ tài sản quốc gia trời cho, chứ chẳng có gì đáng thán phục cả, trừ phi bạn bè du khách ngoại quốc tới viếng thăm xứ sở “Mặt trời mọc”. Nhạy cảm với cái đẹp khiến người Nhật hết sức đa cảm. Họ quen nhìn nhận mọi cái thông qua cảm xúc riêng tư, ngay cả khi lẽ ra phải quan sát một cách tỉnh táo, khách quan hơn. Tình yêu đối với cái đẹp, dĩ nhiên mọi dân tộc khác đều có, nhưng ở người Nhật, đó là một bộ phận không thể tách rời với truyền thống dân tộc. Nhìn chung, truyền thống, đúng hơn là sự tôn thờ truyền thống đã thâm nhập vào hành vi, vào dự định và ý nguyện của dân tộc Nhật, đã trở thành nét hệ trọng nhất trong bản sắc dân tộc. Các truyền thống đã hình thành trong xã hội Nhật mang đậm màu sắc kế thừa, giúp cho các yếu tố văn hóa và sinh hoạt trở nên vững chãi hơn. Người Nhật hết sức trân trọng vốn di sản văn hóa của quá khứ, bảo tồn các hình thái sân khấu cổ điển, nghi lễ trà đạo, nghệ thuật cắm hoa ikebana . Ngay trong thế kỷ XX đầy biến động này, họ vẫn cố đi tìm một chỗ dựa trường tồn và tìm thấy chỗ dựa đó nơi các hình thái nghệ thuật cổ truyền có giá trị. Họ hết sức coi trọng hết thảy những gì đã sâu rễ bền gốc trong thời xưa cũ. Đón https://thuviensach.vn năm mới (thường kéo dài cả tuần liền), nhà nhà đều trưng bày nào cành thông (tượng trưng cho sự trường thọ, sự hùng mạnh), nào cành mai và cành tre (tượng trưng cho sự vĩnh hằng và nhân đức); đều treo những túm rạ nhỏ và những băng giấy ngũ sắc dễ thương. Những túm rạ đó về sau sẽ được đốt đi, “đặng trừ tịch”, như tổ tiên họ từng làm từ ngàn xưa vậy. Các giá trị truyền thống của hệ thống gia tộc, tuy xưa nay vẫn mang tính chất thủ cựu, nhưng cho tới giờ vẫn ảnh hưởng hết sức mạnh mẽ đến tâm lý người Nhật. Mọi cá nhân đề u hành động theo một khuôn khổ đã định sẵn - cốt phụng sự gia tộc, lệ thuộc hoàn toàn vào ý định của vị trưởng tộc dòng họ mình. Đối với nền văn hóa trong lục địa, người Nhật không bao giờ gạt bỏ, nhưng cũng chẳng bao giờ chịu nhắm mắt tôn thờ ngay. Ganh đua, đố i thoại là tính chất thường hằng, đặc trưng cho thái độ của họ đối với các nền văn hóa ngoại lai, và càng về sau, càng trở thành nguyên tắc ứng xử chủ đạo của nền văn hóa Nhật. Các yếu tố văn hóa ngoại lai đều được người Nhật nhào nặn lại, mang đến cho chúng những nét mới, rồi mới du nhập vào nước mình, rồi dần dà biến chúng thành một bộ phận hữu cơ của truyền thống Phù Tang. Có thể nói rằng nền văn hóa Nhật là một hệ thống vừa mang tính chất vững bền, vừa mang tính chất “mở ngỏ”, khác hẳn với các quốc gia kiểu Indonesia (với nền văn hóa luôn “mở ngỏ”, nhưng không cân bằng, tuy rằng các truyền thống của Hồi giáo đã giúp nảy nở một xu thế trái ngược) và kiểu Ấn Độ, Trung Hoa (với nền văn hóa “khép kín”, không bao giờ chịu lùi bước trước các ảnh hưởng ngoại nhập). Về mặt tâm lý, tính chất “mở ngỏ” đó đã tạo cho Nhật Bản một mảnh đất phì nhiêu để cộng tồn hai xu thế: vừa bảo tồn truyền thống, vừa hướng ngoại, chuộng những nhân https://thuviensach.vn tố mới, từ ngoại quốc du nhập sang. Bởi vậy, xu thế trọng truyền thống của Nhật Bản là một hiện tượng văn hóa khác lạ. Tại Nhật Bản đương đại, người người hiện vẫn cố bảo tồn các truyền thống cổ, những trang sử xa xưa, những di tích lịch sử ngàn năm. Ai cũng ra công bảo tồn những chuẩn tắc ứng xử, những truyền thống văn hóa bất di bất dịch, từng kế thừa được từ các thế hệ đi trước. Nét tiêu biểu của người dân Nhật là trân trọng nếp sống đã hình thành với tư cách một di sản văn hóa, chú trọng chẳng những tới nội dung cách ứng xử, mà cả hình thức thể hiện ra ngoài, tới cốt cách, tư phong, nhờ vậy nên hình thức ứng xử vẫn không hề bị mai một theo năm tháng. Cuộc sống hiện thời tại Nhật chứng tỏ các truyền thống vẫn còn đầy sức sống cả trong nếp tư duy chính trị, lẫn trong cách ứng xử ngoài đời. Tinh thần tôn trọng truyền thống đã ảnh hưởng rộng khắp đến sinh hoạt chính trị - xã hội của đất nước. Nhờ địa thế đảo quốc và mức độ thuần chủng cao của cư dân, Nhật Bản đã có thể dễ dàng đồng hóa và cải biên dần những ảnh hưởng văn hóa ngoại lai luôn tới tấp dội vào, biến chúng thành những nhân tố tích cực, đáp ứng cho các mục tiêu riêng của dân tộc mình khi cần thiết. Sau ngày “mở cửa” vào nửa sau thế kỷ XIX, người Nhật rất ít khi phải dùng tới các loại rào cản giả tạo để chống trả lại sự tiến công về văn hóa của các ngoại bang. Biết tiếp nhận có chọn lọc các nhân tố văn hóa ngoại quốc, Nhật Bản đã bảo tồn được nề n văn hóa bản địa bằng cách đồng hóa thực sự các nhân tố đó, chứ không bài bác, như nhiều nền văn hóa phương Đông đã buộc phải thực thi để bảo tồn và nuôi dưỡng nền văn hóa bản địa. Người Nhật đã gạn lọc được những tinh hoa của nước ngoài mà giai đoạn phát triển lịch sử lúc bấy giờ thấy cần du nhập cho quốc gia. https://thuviensach.vn Mọi yếu tố của các nền văn hóa khác đều được họ tiếp thu theo kiểu: làm cho chúng dễ thích ứng nhất đối với tình thế đất nước. Nhờ đó các yếu tố vay mượn bao giờ cũng đáp ứng được những mục tiêu thực tiễn trong nước, và về thực chất, ở đây không nên dùng từ “vay mượn”, mà phải dùng từ “chuyển hoán” mới sát nghĩa hơn - chuyển hoán tùy thuộc vào những đòi hỏi này hoặc khác của xã hội Nhật tại thời điểm hữu quan. Nét thể hiện nổi bật trong toàn bộ quá trình này là tư tưởng “lấy dân tộc mình làm trung tâm”. Đó vốn là mảnh đất màu mỡ, nuôi dưỡng một trong các đặc trưng chủ đạo của bản sắc dân tộc Nhật: niềm tự hào về dân tộc. Tinh thần “lấy dân tộc mình làm trung tâm” này của người Nhật vốn bắt rễ từ thuở xa xưa trong lịch sử đất nước Phù Tang. Đó là con đẻ của ý thức tự coi mình là hậu duệ của một tổ tiên siêu việt, của vị trí địa lý và của phương thức sản xuất đặc thù trong nước, cùng toàn bộ tiến trình phát triển xã hội của dân tộc Phù Tang. Phải sống tách biệt với nền văn minh của các châu lục, phải thường xuyên đối đầu với các cuộc xâm chiếm của kẻ thù, khiến người Nhật thiên về hướng khép kín; và hễ càng khép kín, họ càng thôi thúc cho các xu thế dân tộc chủ nghĩa bành trướng mạnh hơn. Rốt cục, hệ thống xã hội - tâm lý vốn phức tạp càng chiếm một vai trò hết sức quan trọng trong tâm thức người Nhật. Trong hệ thống này, ý niệm “chúng ta”, tức người Nhật, trở nên đối lập gay gắt với ý niệm “họ” - tức hết thảy những ai không phải là dân Phù Tang. Người dân Nhật vốn thích hết thảy những gì cụ thể, có hình khối rõ ràng. Những gì mất tính cụ thể, không hiển hiện sẽ không khiến họ quan tâm tới. Người Nhật tự lý giải hiện tượng đó bằng niềm ác cảm của họ đối với những cái mang tính chất trừu tượng. Ngay cả triết học, họ cũng hiểu khác với cách hiểu của các nước Tây phương. Để thâm nhập https://thuviensach.vn vào thực chất sự vật, người Âu châu cho rằng phải tự “tách lìa” chính mình với đối tượng cầ n nhận thức, phải trừu xuất và chiêm nghiệm chúng từ bên ngoài. Chỉ sau khi dùng suy tưởng để nhận thức sự vật theo cách thức đó, người Âu châu mới có được một hình dung cụ thể về chúng, và tác động lên chúng bằng hoạt động thực tiễn hữu quan. Còn người Nhật thì ứng xử khác hẳn: họ thích tự mình thâm nhập vào “lòng” sự vật để tìm hiểu chúng, mà không cần trừu xuất một cách rối rắm. Phương pháp “thẩm nhập” đó họ vay mượn của người Trung Hoa, chủ nhân của lối tư duy hết sức cụ thể. Khi tri giác một đối tượng mới, người Trung Hoa bao giờ cũng cố nhớ lại và tìm kiếm những nét tương đồng giữa nó và những gì đã từng gặp trước đây. Khi thấ y cần nhận thức cái mới gặp lần đầu đó, bao giờ họ cũng thử đi tìm những nét cốt lõi chung giữa nó và những sự vật hiện tượng cũ, đã biết, và sử dụng phương thức đó để lý giải thực chất và công năng của cái mới lạ. Xin nêu một vài dẫn chứng, trích từ các luận thư của Tôn Tử bàn về binh pháp: “Đòn đột kích của các đạo quân vốn tương tự như chuyện lấy đá chọi trứng”; “Sức mạnh tựa như chuyện giương cung; còn việc trù liệu cho một đòn đột kích thì cũng tựa như việc buông mũi tên: phải biết chọn đúng tầm, đúng lúc”; “...sức mạnh của kẻ dùng binh biết buộc địch thủ phải nghênh chiến với mình chính là sức mạnh của người biết hích một tảng đá từ trên đỉnh núi cao ngàn trượng bắt nó lăn xuống vực”. Kiểu tư duy cụ thể đó đã để lại dấu ấn cả trong khoa học, nghệ thuật, lẫn trong nếp sống thường nhật của người dân Phù Tang. Tính cụ thể trong cách tư duy của người Nhật, cũng tương tự như người Trung Hoa, vốn là con đẻ của các đặc điểm về ngôn ngữ và văn tự mà họ quen dùng. Sự hình thành của nét đặc trưng được gọi là https://thuviensach.vn óc trọng thực, đến lượt mình, lại là con đẻ của thói quen diễn đạt mọi suy tưởng một cách cụ thể. Khi giải quyết một vấn đề cụ thể này hoặc khác, người Nhật bao giờ cũng dựa vào vốn kinh nghiệm đã tích lũy được trước đây, chứ không phải bằng các suy lý trừu tượng, do họ tự xây dựng nên. Khi vấp phải một tình huống rắc rối, họ thích viện tới các giải pháp lấy tinh thần duy lợi làm cứu cánh. Nhiều học giả, khi khảo cứu bản sắc dân tộc Nhật, thường nhấn mạnh rằng những gì hễ có giá trị thực tiễn thì sẽ được người Nhật chấp nhận ngay, không chút phân vân. Do vậy, họ có một lô gích tư duy độc đáo ít gặp ở các sắc tộc Âu - Mỹ: lấy tình huống làm căn bản, nhiều hơn là căn cứ vào các nguyên tắc đã định hình. NHỮNG ĐẶC TRƯNG TIÊU BIỂU CHO CÁCH ỨNG XỬ CỦA CÁC NHÓM Nhóm là một tập hợp người có những điểm tương đồng nhau, như độ tuổi, nghề nghiệp, giới tính, v.v... Tâm lý học xã hội định nghĩa chặt chẽ hơn: nhóm là một tập hợp thành viên ý thức được rằng mình là hợp phần của tập hợp đó, tuy rằng mức độ đậm nhạt của ý thức này có thể không đồng đều nhau. Ở đây nhóm hiện diện như một “tiểu môi trường” trong đó thể hiện rõ nét một số đặc điểm hết sức cụ thể. Hiện tượng tương tự này vốn tiêu biểu cho một cộng đồng sắc tộc, vốn chỉ khác biệt ở mức độ gắn bó giữa các nhóm khác nhau. Ở Nhật, mức độ gắn bó đó rất mật thiế t, chặt chẽ. Trong hệ thống các đặc trưng tiêu biểu cho cách ứng xử của mỗi nhóm, những nét nổi bật nhất là tính kỷ luật cao, lòng trung thành với các thành viên có quyền uy và ý thức chu toàn các bổn phận đối với toàn nhóm. https://thuviensach.vn Nét nổi bật nhất của tính kỷ luật cao trong mối quan hệ giữa các cá nhân đối với nhau phải nhắc tới trước nhất là ý nguyện tôn trọng tôn ti trật tự giữa các thành viên trong nhóm mình. Cái làm tiền đề cho đặc điểm này là sự tuân thủ nghiêm ngặt quan hệ dưới trên, là chỉ thực thi những gì được toàn nhóm tán đồng, là chu toàn bổn phận của mình và kính nể không chút vụ lợi những thành viên có địa vị và tuổi tác cao hơn mình trong nhóm. Ở Nhật hiện vẫn tồn tại những tổ chức gọi là kyodotai (nghĩa đen là “hiệp hội”, “công xã”, “hội tương ái, tương thân”). Các tổ chức này là sản phẩm trực tiếp của các truyền thống lịch sử lâu đời, đòi hỏi các thành viên phải quy tụ lại cùng nhau để hỗ trợ nhau trong công việc và trong cuộc sống thường nhật trên cơ sở dung hòa lợi ích giữa các thành viên có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Người Nhật chấp nhận các tổ chức đó với tư cách các đơn vị thân hữu. Nét đặc trưng cho mọi tổ chức kiểu này là xu thế hợp nhất rộng khắp mọi thành viên có cùng địa bàn cư trú (làng xã, xí nghiệp...) và luôn mở rộng vòng tay để đón nhận các thành viên sẽ gia nhập vào tổ chức trong tương lai. Nét chủ đạo ngự trị trong các tổ chức này là người thủ lĩnh phải đứng ra đỡ đầu cho mọi thành viên theo lối tộc trưởng của mỗi dòng họ, hướng tổ chức vươn tới những giá trị đặc biệt, tạo cho tổ chức một bầu không khí kết đoàn và thương yêu nhau như anh em một nhà. Hệ thống các quan hệ gắn bó được gọi là quan hệ oyabun - kobun . Oyabun chỉ những thành viên giữ cương vị oya (phụ huynh); còn kobun - các thành viên giữ cương vị ko (con cái). Oyabun - thủ lĩnh tổ chức - phải đứng ra bảo vệ lợi ích của nhóm. Vai trò nhân vật này tương tự như vai trò người cha và trưởng tộc mỗi gia đình. Kobun là toàn thể các thành viên còn lại; họ phải cư xử với nhau như anh em, chị em một nhà, phải tuân thủ vô điều kiện oyabun , để giúp tổ chức https://thuviensach.vn bền vững hơn, và nhờ đó, đem lại cho mọi thành viên những phúc lợi vật chất ngày càng dồi dào thêm. Về cơ cấu tổ chức, các tổ chức này rất giống với các phường hội thời trung đại. Qua suốt nhiều thế kỷ, trong tâm thức người Nhật đã hình thành một nếp nghĩ: phải noi gương các oyabun . Nền móng của quan niệm đó về mối quan hệ giữa người và người là các giáo lý của Đức Khổng Phu Tử, được du nhập vào đất Nhật ngay từ đầu thế kỷ thứ IV. Đạo Khổng đã giúp củng cố thể chế gia trưởng truyền thống và sự bất bình đẳng về xã hội, ấn định nghiêm ngặt các mối quan hệ xã hội bằng cách xác lập một tôn ti khắt khe trong xã hội và gia đình. Ngay từ nhỏ, người Nhật đã được giáo dục một thói quen: đặt lợi ích nhóm lên trên cái “tôi” riêng của bản thân. Họ cũng được dạy dỗ theo tinh thần đừng tách mình ra khỏi gia đình. Những cái cúi đầu chào đầu tiên trong đời, mà trẻ em Nhật được người lớn dạy dỗ, chính là mầm mống gieo vào lòng con trẻ ý niệm về sự phục tùng, về cương vị của đứa trẻ trong nhóm. Những thể chế được ấn định nghiêm ngặt trong cấu trúc xã hội, hệ thống giáo dục gia đình và nền giáo dục quốc dân bao giờ cũng hướng vào mục tiêu: kính nể những nhân vật có quyền uy. Tự ngàn xưa, người Nhật đã đặt lên hàng đầu ý thức “phục tùng vô điều kiện các nhân vật có quyền hành”. Còn những giá trị như thỏa mãn quyền lợi riêng tư và vươn lên những thành đạt trong đời tư là cái giữ vai trò thứ yếu. Việc tôn thờ những người có uy tín, cho tới tận giờ, vẫn được vun đắp bởi nhiều biện pháp đủ các loại, và được coi là một quy phạm xã hội không được phép xao nhãng. Ngay từ thời phong kiến, ở Nhật đã phổ biến rộng khắ p một châm ngôn gồm 5 chữ: hi - ri - ho - ken - ten (phi - lý - pháp - quyền - thiên). Nghĩa câu này có thể diễn đạt tường minh như sau: https://thuviensach.vn điều phi lý phải thuận theo công lý; công lý phải thuận theo luật lệ; luật lệ phải thuận theo quyền uy; quyền uy phải thuận theo Thiên ý (ý Trời). Suốt một thời gian dài, xã hội Nhật đã bền bỉ vun đắp quan niệm cho rằng quyền uy thế tục không bao giờ vượt lên trên Thiên ý, bởi lẽ Thiên ý luôn mạnh hơn, nhưng chống lại quyền uy thế tục là rồ dại.Ý niệm đó đã ăn sâu trong tâm thức người Nhật, bởi lẽ nó vốn bắ t nguồn từ chữ lễ (tiếng Nhật là rei ) của Khổng giáo, vốn ấn định cách xử thế ở đời - cả trong xã hội, tại công sở, cũng như trong đời tư. Giữ đúng chữ lễ là phải nhu thuận, phục tòng và kính nể đối với các nhân vật có uy tín. Nội dung đạo đức Khổng giáo được người Nhật tiếp nhận dưới hình thái sau đây: “Quan hệ giữa người trên với kẻ dưới cũng tương tự như quan hệ giữa gió với cỏ: cỏ phải rạp xuống khi bị gió thổi qua”. Ngay từ thời Tokugawa trị vì, học giả Nhật Zoken Nishikawa đã viết trong cuố n Thân phận người dân quê (1721): “Vì các đẳng cấp hạ lưu không đủ tài để cai quản quốc sự, nên họ phải phục tòng là hợp lẽ”. Năm 1879, bộ trưởng Nội vụ Hirobumi Ito có tuyên bố: “...cho phép nhiều người phán định về chính sách là đẩy quốc gia đến chỗ đại họa nhỡn tiền”. Sự phục tùng đã đan quyện với nỗi sợ hãi trước quyền lực: giới cảnh sát, viên chức quốc gia và quân nhân. Trong cảm nghĩ của người Nhật, quyền uy là một thứ vừa dài, vừa đặc sánh. Gieo rắc cho dân chúng ý nguyện phải nương tựa vào “cái vừa dài, vừa đặc sánh” đó, các giới chức Nhật đã khép được toàn dân vào khuôn khổ chỉ còn biết nhu thuận và phục tùng. Nỗi sợ hãi không sao chế ngự nổi trước giới cảnh sát, trước các viên chức chính phủ vẫn còn nguyên vẹn trong tâm thức người Nhật tới tận ngày nay. Kết quả các cuộc thăm dò dư luận, do Văn phòng https://thuviensach.vn nội các Nhật tiến hành định kỳ, đã nhiều lần xác nhận hiện tượng đó. Trong cuốn Cách thức tiếp xúc với người khác , Masami Shimuzu có khuyên như sau: “Phải nhún nhường tối đa - đó là cách đắc sách nhất để tiếp xúc với các viên chức chính phủ”. Nhiều lời khuyên tương tự cũng được các tác giả khác đưa ra trong những tập sách mới ra mắt gần đây. Phục tùng và nhu thuận trước giới quan chức có quyền hành đã biến thành nét đặc trưng đối với nhiều người dân Nhật, đã trở thành nền tảng của bộ luật không thành văn về cách ứng xử ở đời. (Cố nhiên, mức độ phục tùng và nhu thuận thể hiện đậm nét hơn ở giới nông dân sống tại các tỉnh xa so với giới công nhân làm việc tại các xí nghiệp lớn, hiện đại). Bộ luật này luôn được củng cố thêm bởi ý thức chu toàn bổn phận và nghĩa vụ cá nhân; đồng thời, mọi quy tắc ứng xử bao giờ cũng được hỗ trợ thêm bằng nhiều nghi thức cầu kỳ, kèm theo vô vàn chi tiết hết sức rắc rối mà ai cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt. Những nghi thức đó hiện đã được cải biến cho phù hợp với hoàn cảnh hiện thời, nhưng vẫn chiếm một chỗ đứng nổi bật trên thang bậc các giá trị về nhân phẩm với tư cách “một trọng trách phải thực thi, xuất phát từ ý thức chu toàn bổn phận của mỗi thần dân”. Dĩ nhiên, các đặc trưng vừa kể không phải chỉ tồn tại ở người Nhật, nhưng phải thừa nhận rằng tại Nhật Bản, những đặc trưng này đã chi phối mạnh mẽ hơn nhân cách mỗi người, và thường chế ngự cái “Tôi” riêng của bất cứ ai trong số họ. Ý thức phục tùng chẳng những hình thành ở người Nhật thói quen tuân thủ máy móc, mà còn kìm hãm sự phát huy cá tính của người dân Phù Tang. Những tập sách loại Shingaku (luân lý nhật dụng) ấn hành dưới thời Tokugawa, không nhằm một mục tiêu nào khác hơn https://thuviensach.vn là truyền giảng trong thần dân tư tưởng phục dịch thượng cấp thật tận tụy quên mình. Vì vậy, người Nhật phải biết tự gạt bỏ mọi sở nguyện thầm kín riêng, bởi đó là những sở nguyện vị kỷ; còn đức tính tối thượng theo Shingaku , là đức xả thân vì tôn chủ, hy sinh mọi lợi ích riêng tư. Ý thức phục tùng được vun đắ p qua nhiều thế kỷ, đã nhào nặn người Nhật thành một loại hình tâm lý được gọi là “tâm lý ngoan ngoãn cúi đầu”: cuộc sống và cách ứng xử của cá nhân đều do những quy phạm nghiêm ngặt chi phối: nhất nhất phải theo dù hoàn cảnh có thể đổi khác. Phục tùng bề trên đã ngấm sâu vào tâm thức người Nhật tới mức chỉ cần được một nhân vật có uy tín để mắt tới là ai cũng tự cảm thấy dạt dào một cảm xúc hoan hỷ, giống như cảm xúc mãn nguyện lúc được tuyên dương. NHỮNG ĐẶC TRƯNG TRONG CUỘC SỐNG THƯỜNG NHẬT Lịch lãm, chu tất, nhẫn nại, căn cơ, ham học hỏi và nhiều đặc trưng khác nữa gần gũi với chúng, trên phương diện cuộc sống thường nhật - tất cả đều xoay quanh một đặc trưng cốt lõi: đức tự chủ cao với nhiều sắc thái đa dạng khôn tả. Ở Nhật, ai cũng biết câu châm ngôn: “Một kiếm khách samurai phải sắ c lạnh như thanh gươm đeo bên hông, tuy rằng chàng ta không bao giờ được quên ngọn lửa rèn nên thanh gươm ấy”. Thật vậy, đức tự chủ và điềm tĩnh là những đức tính, mà tự ngàn xưa vẫn được người Nhật coi là đặc trưng hàng đầu của lòng gan dạ. Những đặc trưng của bản sắc dân tộc sở dĩ có được phần lớn chính là nhờ ảnh hưởng của Phật giáo, vốn quảng đức nhẫn nhục, biết tự kiềm chế và luôn điềm tĩnh trước mọi tục lụy dưới trần gian (chi tiết hơn về Phật giáo ở Nhật, xin xem chương III). Vào thời trung đại đòi https://thuviensach.vn hỏi người kiếm khách samurai phải giữ vững nhuệ khí trước những tình thế hiểm nghèo, những đức tính đó đương nhiên phải được coi là những phẩm chất tất yếu của giới samurai. Biết xử thế điềm đạm và ôn hòa là hai đức tính xuyên suốt trong toàn bộ nền văn hóa Nhật, bởi ngay từ nhỏ, người Nhật đã thấm nhuần được thực chất những lời dạy của Lão Tử: “Biết được chỗ cần dừng tất sẽ tránh được hiểm nguy”; “Thấu hiểu được thân phận mình tất khỏi bị sỉ nhục”. Vì vậy, ai cũng tâm niệm suốt đời một lẽ sống khiêm nhường: chớ nên ước ao những gì vượt quá phúc phận mà con tạo đã ban cho. Nhiều nhà văn Nhật, như Kamo-no Chiomei ( “Ước ao được sống trong một túp lều nát” ) và Kemko ( “Ghi chép lúc ngao ngán” ), đã dùng hình thức nghệ thuật để quảng bá ý niệm này, góp phần hình thành một lối ứng xử rất đặc thù ở Nhật. Nhân bàn về vấn đề này, tưởng cũng nên nhắc qua những quy tắc sống được người Nhật tuân thủ rất nghiêm minh: 1. Nhẫn nhục cam chịu với hoàn cảnh đã an bài, dù hoàn cảnh đó có tồ i tệ đến mấy chăng nữa; 2. Cố tìm mọi cơ hội để tuân thủ các quy tắc đã ấn định; 3. Phải biết tự kiềm chế trong lúc hưởng thụ các thú vui; 4. Đầu mối của mọi bất hạnh là ở mình mà ra. Việc tuân thủ những quy tắc đó đã để lại một dấu ấn đậm nét trong cách thẩm định thực tại hết sức đặc biệt. Lâm vào tình cảnh gay cấn, bị các thiên tai trút xuống, người Nhật thích giữ thế thủ hơn là tìm cách đương đầu - chờ cho “mọi thứ tự nó qua đi”. Văn chương, kịch nghệ, âm nhạc lý giải các khái niệm “phúc phận” “định mệnh”, “tiền định” v.v... rấ t được người Nhật đương đại tán thưởng. Thuyết định mệnh, lòng tin vào tiề n định vốn bao giờ cũng phi lý - đã ngấm sâu vào nhiều khía cạnh của cuộc sống người Nhật: theo họ, nhiều biến cố ở đời đều bị chi phối bởi một sức mạnh bí ẩn nào đó mà con https://thuviensach.vn người khó lòng lý giải nổi. Tuy nhiên, bên cạnh cách nhìn nhận đó, ở người Nhật đương đại cũng đang hình thành và phát huy một lối nhìn nhận khác, duy lý hơn đối với thực tại, thường được thôi thúc bởi những lợi ích cá nhân: hiện thời thước đo của cách ứng xử hợp lý là sự thành đạt ở đời. Sự thành đạt đó, theo người Nhật, tùy thuộc trước hết ở đức căn cơ và một phần không nhỏ ở cách cư xử lịch lãm. Cách xử thế lịch lãm, không còn ngờ vực gì nữa, là một trong những chuẩn tắc sống căn bản của người Nhật, là nét bao trùm toàn bộ lối sống của của cư dân Phù Tang. Cách xử thế này ta có thể cảm nhận được rất rõ qua mọi lời ăn tiếng nói, qua mọi cử chỉ, hành vi và thậm chí cả ở lối sai khiến, cầu khẩn nữa. Tại bất cứ đâu - từ ngoài đường, trong công viên cho đế n công sở, - du khách cũng đều có thể bắt gặp những tấm biển lớn nhỏ, căn dặn mọi người hãy xử sự lịch lãm. Một trong những châm ngôn cửa miệng của mọi người là: “Ngoài điều thiện và sự lịch lãm, chớ nên làm một cái gì khác đối với mọi người chung quanh”. Cho nên, du khách chẳng hề ngạc nhiên, khi gặp tại Nhật Bản những cô bán hàng niềm nở, những tài xế taxi tận tâm, những người hầu bàn nhún nhường. Trong tập du ký Cung ứng mọi dịch vụ với nụ cười trên môi , nhà báo Pháp Michel Commors từng viết: “Đây có lẽ là đất nước duy nhất bạn được cung ứng mọi dịch vụ với một nụ cười rất tươi và không đời nào chịu nhận pourboir!”. Lối xử sự lịch duyệt quả tình đã thâm nhập vào mối quan hệ giữa người hầu phòng và khách trọ, giữa người tài xế taxi và khách đi đường, giữa chủ hiệu hoặc người bán hàng với khách, dù lạ dù quen. Chẳng hạn, ngay cả khi ghé vào một cửa hiệu nhỏ đang vắng khách, đúng vào lúc người bán hàng đã nhân cơ hội đó để tìm chỗ https://thuviensach.vn nghỉ kín đáo, người mua bao giờ cũng lịch sự gọi người bán bằng câu: Gomen kudasai! (“Xin anh (cô) thứ lỗi cho!”). Khách có thể chọn xem thứ cần mua bao lâu tùy thích, hỏi han đủ mọi chi tiết vặt vãnh, và bao giờ cũng được giải đáp bằng những lời lịch sự không ngờ. Nhưng trước lúc cầm lên bất cứ vật gì, người Nhật bao giờ cũng không quên xin lỗi và dạm hỏi ý chủ nhân trước đã. Ăn nói lịch duyệt là lối xử sự không thể thiếu được trong quan hệ giao tế tại Nhật Bản. Nhiều du khách mới tới Nhật lần đầu đã phải sửng sốt với lối trần thiết nhà cửa, trang phục và tiện nghi của người Nhật Bản: mọi thứ đều ngăn nắp, trật tự và sạch sẽ khác thường. Trong cuốn Ghi chép về Nhật Bản , N. Fedorenko đã phác họa lại một bức tranh hết sức sinh động về đặc trưng này trong bản sắc dân tộc Nhật: “Chúng tôi đi vào genkan - một loại phòng ngoài bé nhỏ trong nếp nhà người Nhật. Sàn genkan rải một lượt sỏi dày, màu xám và nâu nhạt. Tiếp đó là bước lên một chiếc bục gỗ, cao hơn mặt sàn, tựa như một sàn diễn trong nhà hát ở ta. Chúng tôi bỏ lại ở đây áo khoác ngoài và cởi luôn đôi giày theo lệ cổ, rồi đặt lên một súc gỗ tròn, bào nhẵn, mũi hướng ra ngoài, để lúc ra về có thể xỏ ngay chân vào. Không ai nỡ kéo lê đôi giày lấm bụi lên mặt sàn ở phòng trong, vốn sạch như lau như li... Xong, bạn xỏ vào chân đôi dép lê, bước hẳn vào phòng trong. Nhưng tới lúc đặt chân lên các vuông chiếu, chúng tôi lại phải cởi dép, tuy rằng mặt sàn gỗ bóng lộn, không vương lấy một hạt bụi nhỏ. Đi lại trên những vuông chiếu lót sàn đó, người Nhật chỉ dám để lại dưới chân một loại tất riêng - gọi là tabi - hoặc đôi tất thông thường”. Đương nhiên, chỉ những ai khá giả mới đủ điều kiện để giữ một thứ sạch sẽ lý tưởng đó, chứ người nghèo thì cửa nhà giản dị hơn. Tuy https://thuviensach.vn vậy, cố vươn đến cái lý tưởng kia là một khát vọng của hết thảy mọi người dân xứ mặt trời mọc. Cẩn thận, ưa sạch sẽ, cùng với tính căn cơ, có thể coi như một thứ bệ phóng, giúp người Nhật làm chủ nhanh chóng những kỹ năng sản xuất lừng danh, cho phép họ chế tạo được những sản phẩm chính xác và hoàn hảo đáng kinh ngạc, trở thành mục tiêu ganh tỵ của nhiều hãng ngoại quốc. Đương nhiên, ở đây còn phải kể đến một đức tính quí giá nữa của người Nhật: đức hiếu học. Những đặc trưng hình thành nên bản sắc dân tộc Nhật, về bản chất, cũng mang tính chất xã hội, tương tự như của bấ t cứ cộng đồng sắc tộc nào. Phương thức sản xuất, điều kiện và hoàn cảnh sống của người Nhật là tác nhân thúc đẩy họ xác lập cho mình một phong cách thể hiện đặc thù các năng lực nhận thức vốn có ở mọi người nói chung. Dù mới gặp người Nhật lần đầu, ai cũng dần thấy rõ ngay lòng hăm hở, khát vọng nhận thức thực chất sự vật của họ. Nhưng cũng đừng quên xu thế trọng thực, đầu óc thực tiễn là những nét điển hình, đặc trưng cho đức hiếu học của người dân Phù Tang. Cầm lên tay một sản phẩm lạ, bao giờ người kỹ sư Nhật cũng cố “nắm bắt” lấy sản phẩm đó trong sự thống nhất giữa hai mặt: hình thức và nội dung. Lòng hiếu học của người Nhật là con đẻ của nếp tư duy cụ thể, vốn là sản phẩm trực tiếp của giáo lý nhà Phật mà họ được dạy dỗ từ nhỏ. Phật giáo Nhật Bản luôn cố tìm mọi cách đoạn tuyệt với những giáo lý trừu tượng, mang đậm màu sắc phân tích tính, vốn có ở các tông phái khác của tôn giáo này. Nét thường hằng của Phật giáo là dung dị, cụ thể, khúc chiết, không thiên về triết lý cao xa. Các bậc https://thuviensach.vn uyên thâm về Phật giáo bao giờ cũng cố dạy cho các môn đồ cách giao tế “đối diện tâm đàm” “đừng vụ vào lời lẽ”. Xin dẫn một trong những ngụ ngôn nổi danh của Phật giáo, đã minh họa rất đạt cho giáo lý chủ trương phải hòa đồng làm giữa một chủ thể và khách thể nhận thức: “Có lần, một chú cá nhỏ tâu lên với nữ hoàng cai quản Thủy cung rằng: “Ngày nào tôi cũng nghe tiếng gọi của biển cả, nhưng biển ở đâu thì tôi chẳng tường”. Nữ hoàng đáp ngay: “Ngươi vẫn sinh sống, bơi lội cư ngụ giữa lòng biển cả đấy thôi. Biển vừa ở bên ngoài ngươi, vừa nằm trong chính ngươi”. Bấy giờ chú cá nhỏ mới giác ngộ được điều không sao hiểu ra. Người Nhật học cách nhận thức sự vật mà không cần viện đến phép trừu xuất; vì vậy, đức hiếu học của họ luôn mang tính cụ thể, tường minh. Có lẽ đó là ngọn nguồn trực tiếp đẻ ra những nét đặc thù trong khát vọng sáng tạo của người dân Nhật Bản. 4. NGƯỜI NHẬT TRONG NẾP SỐNG SINH HOẠT THƯỜNG NHẬT Diện mạo tâm lý của người Nhật đương đại vốn cũng được ấn định bởi các đặc điểm về văn hóa dân tộc, - một nền văn hóa mang tính chất vững chãi, bất chấp mọi thay đổi trong cuộc sống xã hội, - giống hệt như bất cứ đại diện của cộng đồng sắc tộc nào. Sở dĩ có sự thể đó là do lịch sử, ngôn ngữ, và tâm lý của dân tộc, vốn là bộ đỡ của nền văn hóa của mọi sắc dân. Quá trình hiện đại hóa và vay mượn, không hề làm lung lay những nền móng sâu xa của tâm lý dân tộc, hiện vẫn bộc lộ rõ nơi tâm thức người Nhật đương đại, thông qua cách ứng xử được toàn thể cộng đồng chấp nhận. Muốn hình dung cụ thể hình ảnh người Nhật đương đại, điều cần xét đến trước nhất là họ xử thế ra sao trong các hoàn cảnh https://thuviensach.vn sống khác nhau, và “giao tế” như thế nào với những gì vây quanh họ trong cuộc sống thường nhật hiện nay. Như chúng ta đều biết, người Nhật hiện chưa định chối bỏ những gì họ đã thân quen. Mọi thứ trong nếp nhà dân tộc đều vẫn y nguyên như ngày xưa cổ. Trên tokonoma - trang thờ - vẫn trưng một bình hoa và vẫn treo một bức liễn nhiễu ( kakemono ), vẽ một phong cảnh hoặc viết một câu danh ngôn bằng đại tự, như tổ tiên họ từng làm. Cố nhiên, ngôi nhà dân tộc giờ đây còn được trần thiết thêm những vật dụng do nền văn minh hiện đại chế tác ra. Nhưng những thứ đó không bao giờ được kê đặt vào những chỗ tổ tiên họ từng dành cho các cổ vật thông dụng. Lệ thường, người Nhật chẳng biết đặt máy thu hình vào đâu, bởi trong nhà quả tình không dành sẵn chỗ cho thứ vật dụng tân tiế n đó. Trong số liệu thống kê tại Nhật hiện vẫn còn ngót 60% cư dân đang cư ngụ tại các nếp nhà cổ truyền. Cửa nhà kiểu đó thì các vật dụng cổ truyền đương nhiên vẫn chiếm địa vị thượng tôn. NGƯỜI NHẬT TRONG NẾP NHÀ DÂN TỘC Số liệu thống kê cho thấy: nhiều nếp nhà tiêu biểu cho lối kiến trúc dân tộc hiện đã mục nát, tuy rằng phần đông cư dân vẫn thích số ng trong những nếp nhà nhỏ bé kia. Tại nông thôn và các thị trấn nhỏ, ít bị ảnh hưởng tác động bởi nền văn minh tiên tiến, các phòng ốc trong các kiến trúc cổ vẫn còn giữ nguyên phong vị dân tộc. Nhưng tại các đô thị sầm uất thì những nếp nhà kiểu đó đã bị các kiến trúc hiện đại lấn át hầu như hoàn toàn. Tuy chỉ được ghé thăm vài giờ hoặc lưu lại vài ngày, nhưng nhiều ký giả đều thán phục cách thiế t kế, nội thấ t của các nếp nhà truyền thống, và nhất là sự ngăn nắp ngự trị tại đó, mặc dù phải thừa nhận thẳng thắn rằng đây không phải là nơi cư ngụ thật tiện nghi. Chính người https://thuviensach.vn Nhật cũng chia sẻ ít nhiều với họ ý kiến trên. Còn dân thị thành thì ngày càng có nhiều người công khai cho biết: họ thích các căn hộ hiện đại hơn nếp nhà dân tộc. Nói như vậy không có nghĩa là người Nhật thiên về xu thế vọng ngoại - ngả sang các chuẩn tắ c Âu-Mỹ. Không, ngay trong các cao ốc hiện đại, họ vẫn cố bảo tồn tinh thần dân tộc cổ truyền. Cách thiết kế của kiến trúc dùng làm nơi cư ngụ, trong chừng mực nhất định, vẫn bị các khuôn mẫu tâm lý quen thuộc chi phối rất đậm nét. Kết cấ u chống đỡ chủ chố t của ngôi nhà truyền thống là bộ khung, lắp ghép từ những súc gỗ thô, và tựa lên nhiều hàng cột nâng. Lối kiến trúc này khiến cho nếp nhà hết sức vững chãi, ít có nguy cơ bị sụp xuống do động đất. Tường chịu lực được thay bằng nhiều tấm khung hình lưới mắt cáo, rồi dán giấy đục phủ lên mặt ngoài. Những khung này có thể xê dịch dễ dàng; thậm chí không cần trổ cửa sổ, nếu tháo dỡ bớt đi một vài bức khung kia. Mái nhà thường rất lớn để che ánh nắng trưa gay gắt, nhưng lại không cản trở ánh nắng chiều, nắng sớm dịu mát. Cả vách trong lẫn vách ngoài thường không bao giờ quét vôi - cố nhiên, phần bên trong bao giờ cũng được gia công kỹ lưỡng cho tăng vẻ mỹ quan; còn phần bên ngoài thì phó mặc cho chính thiên nhiên hoàn thiện giùm. Dáng dấp chung của nếp nhà và cảnh quan chung quanh rất phù hợp với một quan điểm thẩm mỹ của dân tộc Nhật, gọi là wabi : dung dị nhưng thanh tao - tựa hồ muốn thi vị hóa vẻ thanh bạch vậy (chi tiết hơn về quan điểm wabi , xin xem chương III). Mái nhà lợp bằng lau sậy, xạm dần đi cùng với thời gian, càng tôn thêm vẻ wabi , đồ ng thời cũng tôn thêm phong vị cổ kính, u hoài - tiế ng Nhật gọi là sabi . Nhưng loại mái nhà đó rất dễ bắt lửa, gây https://thuviensach.vn hỏa hoạn, nên hiện thời được thay dần bằng mái ngói. Tuy vậy, sắc ngói cũng xạm dần cùng năm tháng nhiều khi bị rêu phong, - nên vẫn không đi ngược lại quan điểm wabi (người Nhật xưa nay vốn cố tránh các màu sắc chói gắt). Dẫu sao mái ngói vẫn không đắc dụng lắ m, vì hai lẽ: vừa đắt tiền, lại vừa quá nặng đối với cơ cấu chống đỡ. Bởi vậy, người Nhật ngày càng dùng nhiều loại mái tôn không sơn, vừa nhẹ, vừa bền, vừa phù hợp với phong vị wabi . Nhưng từ giữa những năm 60 trở đi, dân chúng bắt đầu chuộng loại mái nhà màu rực rỡ, chói gắt. Nếu nằm lọt trong một thành phố lớn, ngôi nhà dân tộc thường không còn những vuông sân nhỏ vây quanh, nên con trẻ phải chơi ngay giữa mặt đường. Chỉ những ai dư giả mới dám bỏ tiền ra mua thêm đấ t, dựng lên một hàng giậu rào quanh, và biến ngay những vuông đất kia thành một mảnh vườn nhỏ với trụ đá để đặt ngọn đèn lồng, rồi cho dựng thêm một trà thất nhỏ, nếu đất còn dư. Nhưng ngay cả khi không còn một mẩu đất thừa nào nữa, người Nhật vẫn cố tìm mọi cách để tạo dựng những kiến trúc nhỏ, trông tựa như một khoảnh vườn cỏn con, và tại đó thế nào cũng bài trí một vài tảng đá thô theo mô thức các thạch viên (vườn đá) nổi tiếng. Trong hoàn cảnh đô thị, người Nhật khó lòng có đất để dựng lên một nhà để xe riêng. Vì vậy, việc tậu xe riêng tuy giá cả không đắt lắm, nhưng lại ít được ai nghĩ tới, bởi lẽ để xe cộ ngoài đường rất bất tiện: phố xá vốn rất hẹp. Tại nhiều đô thị sầm uất, chỉ những ai có chỗ để xe (gara) mới dám tậu xe hơi. Nếp nhà dân tộc nào ở Nhật thường cũng có một lối vào trước mặt tiền, xây cao hơn mặt đấ t, gọi là genkan , để làm nơi cởi giày, và hai phòng liền vách nhau, sàn phòng trải chiếu ( tatami ), cùng một nhà bếp nhỏ, một phòng toalet và một buồng tắm. Ngăn cách giữa https://thuviensach.vn các phòng là những tấm bình phong bằng giấy bồi có thể xê dịch dễ dàng. Nếu dẹp bỏ những bức bình phong kia, ta sẽ có ngay một diện tích rộng bằng cả diện tích nếp nhà đang cư ngụ. Một trong hai gian phòng nói trên được dùng làm phòng khách. Ở đây, bao giờ cũng được trần thiết một tokonoma , xây liền vào vách tường. Bầu không khí ngự trị trong nếp nhà dân tộc Nhật nhìn chung là bầu không khí thể hiện tinh thần kính nể rất mực - thậm chí có thể nói là thượng tôn - đàn ông, coi họ như người nuôi sống toàn gia - nghiêm cẩn, hợp lý, không một thứ gì thừa - tất cả nhằm tạo cho chủ nhân gia đình cảm giác mình là chúa tể trong cái giang san nhỏ bé đó. Còn nữ chủ nhân chỉ được dành cho một góc cỏn con là gian bếp - nơi họ chỉ có một bổn phận là làm việc tận tụy hết mình để phục dịch chồng con, suốt ngày hầu như chỉ tất bật chạy xuống chạy lên trong nhà, chẳng còn biết một thứ gì khác nữa ngoài xã hội. Sáng, nếu tốt trời, nữ chủ nhân sẽ mở hết các cửa ra để thông thoáng toàn bộ căn nhà. Rồi lau chùi sạch sẽ mọi thứ đồ đạc, bàn tủ, khung cửa và quét sàn cho sạch bóng. Trước, chỉ có gió lùa là trợ thủ của nữ chủ nhân; giờ, máy hút bụi là kẻ tôi mọi đắc lực. Tiếp đó, bà lại lầm lũi một mình rửa dọn, giặt giũ, là ủi... Bà đặc biệt nâng niu các dụng cụ làm bếp, rửa đi rửa lại, đánh tới đánh lui, treo lên hạ xuống luôn tay, gian bếp được bà chăm chút lâu hơn các nơi khác, bởi chỉ nơi đó, người phụ nữ Nhật mới cảm thấy mình là chủ, là kẻ cai quản hết thảy mọi thứ. Vậy là sau vài tiếng, nếp nhà đã sạch như lau như li, mọi thứ đều bóng lộn và được xếp đặt tinh tươm, ngăn nắp, đâu ra đấy. NGƯỜI NHẬT TRONG CÁC CĂN HỘ TẠI ĐÔ THỊ Tại các đô thị Nhật Bản hiện có nhiều kiểu căn hộ thông dụng, như kiểu 2, 3, 4 và 5 phòng. Đó là nơi cư ngụ của đại bộ phận cư dân ở https://thuviensach.vn đây. Kiểu thường gặp nhất là các căn hộ 2 và 3 phòng cỡ nhỏ. Diện tích mỗi phòng vào khoảng hơn 12 mét (sáu tatami , như người Nhật vẫn nói). Căn hộ hai phòng có thể có hai loại: loại có một căn bếp nhỏ và loại có một gian bếp, đủ chỗ cho cả gia đình ngồi ăn cơm. Các căn hộ 3, 4, 5 phòng cũng có hai kiểu bếp tương tự. Kích thước mỗi phòng dĩ nhiên tùy thuộc vào thu nhập của từng gia đình. Giới doanh gia và quí tộc đương nhiên đều sống trong những căn hộ hết sức trang trọng, rộng thênh thang. Diện mạo các căn hộ ở đô thị, trên thực tế, đều giống hệt nhau và rất ít phù hợp với vẻ đẹp truyền thống của các căn nhà dân tộc cổ kính. Kích thước các căn hộ đều chật, bởi tủ nào, giá nào cũng đầy ắp các ngăn lớn nhỏ đủ loại. Trên giá, trên tivi, trên piano - đâu đâu cũng trưng bày la liệt các loại búp bê, những con thú nhỏ bằng sứ, bông hoặc cao su. Loại búp bê bày trên piano hầu hết đều là sản phẩm của Pháp. Lệ này ra đời kể từ khi loại nhạc cụ đó xuất hiện lần đầu trên thị trường Nhật, và búp bê Pháp là một trang trí bất di bất dịch trên mọi hình thức quảng cáo piano tại xứ sở Phù Tang. Nhìn chung, các căn hộ còn được trang hoàng bằng nhiều vật phẩm khác nữa: các loại đĩa kiểu có hình vẽ, ảnh chụp, tranh khắc lồng khung, v.v... Búp bê và những con thú bằng sứ, bông hoặc cao su là loại tặng phẩm phổ biến nhất của người Nhật. Giới dân tộc học coi đó là dư âm của hình thái thờ cúng linh vật từng ăn sâu vào tâm thức người Nhật tự bao giờ. Những thứ quà tặng này, dù có gây nên bao điều bất tiện cho chủ nhân các căn hộ chật chội, song người Nhật không bao giờ chịu giã từ chúng; trái lại, họ vẫn gìn giữ cùng với các vật chủ hàng năm (xem phần phụ lục 2), ngay cả khi dời nhà đến nơi khác. https://thuviensach.vn Bốn vách tường các căn hộ cỡ nhỏ đều bị tủ, giá, bàn làm việc chiếm lĩnh gần hết, vì ở đây không trần thiết các hốc tường truyền thống. Trang thờ và trà thất thì hiện giờ chỉ các căn hộ nhiều phòng mới có, nên đều là những thứ “xa xỉ” đối với loại căn hộ cỡ nhỏ 2 phòng. Ngắm cách trang hoàng các căn hộ đô thị, du khách sẽ thấy ngay bàn tay của phái nữ giữ vai trò chính yếu tại đây: từ đồ vật tới màu sắc (màu hồng chiếm ưu thế) đều là sở thích của phái đẹp. Dụng cụ làm bếp, chén bát thường đều cùng màu. Chỉ những tủ sách, chất đầ y các loại sách báo về doanh nghiệp và những chai rượu mạnh, cổ bịt giấy thiế c màu vàng tươi, là cho thấy sự hiện diện của đàn ông. Nói chung, các nữ chủ nhân chỉ nhân nhượng cho phái mạnh là dành một góc phòng nhỏ bé để họ còn có chỗ ngả lưng nghỉ ngơi, thư giãn gân cốt. Vì vậy, chủ nhân bị tước đoạt đi thế thượng phong của họ đối với phụ nữ khi sống tại các căn hộ đô thị. Nói cho công bằng, họ chỉ nhân nhượng phụ nữ về mặt trang trí, sắp xếp về mặt đồ đạc thôi, chứ không hề chịu lép vế chút nào, bởi họ luôn tìm mọi cách để tránh “áp lực” của vợ trong các trò tiêu khiển giữa cánh tu mi nam tử. Nói theo ngôn từ khoa học thì các đô thị Nhật là nơi đang diễn ra quá trình thực thi công cuộc giải phóng phụ nữ, nâng phụ nữ lên ngang hàng với nam giới. Cấu trúc của các căn hộ đô thị tựa hồ đang hỗ trợ đắc lực cho quá trình trên: không có phòng khách, nam giới không có chỗ để tiếp đãi bạn bè ý hợp tâm đầu và cũng không còn chỗ để giải trí. Thành thử họ phải tìm đến các quán bia, các hộp đêm... Còn phụ nữ, vẫn như thời xa xưa, chủ yếu phải cáng đáng hết vai trò người nội trợ thu xếp việc nhà. Phận sự của họ là giữ cho cửa https://thuviensach.vn nhà ngăn nắp, dạy dỗ con cái. Tuy nhiên, họ ngày càng bị thế giới bên ngoài cuốn hút nhiều hơn. Số phụ nữ Nhật đi làm ngày càng đông. Không rõ đó là do hoàn cảnh kinh tế hay do căn hộ chật hẹp, nhưng dẫu sao việc tiêu chuẩn hóa diện tích các căn hộ cũng là nhân tố đã dự phần vào xu thế đó. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, người đàn bà Nhật vẫn là hiện thân của sự sạch sẽ lý tưởng trong mọi căn hộ, là tấm gương về sự dung dị và trang nhã, và diện mạo của các căn hộ đô thị thường không khác biệt nhiều lắm so với diện mạo các nếp nhà dân tộc cổ truyền. Quyền bình đẳng nam nữ được luật định đã mở ra cho phái yếu Nhật Bản nhiều lĩnh vực hoạt động mới mẻ. Bộ dân luật ban hành năm 1947, về hình thức đã đem lại cho phái nữ nhiều quyền lợi và nhiều tự do hơn: được học hành, được làm việc trong các tổ chức xã hội này hoặc khác. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn lâu người phụ nữ Nhật mới được giải phóng hoàn toàn. Hệ thống ie (“gia tộc”) cổ truyền vẫn còn chi phối đậm nét tâm lý gia đình người Nhật, như thời xưa. Vốn bao hàm nhiề u nghĩa - “gia tộc” “cửa nhà”, “dòng dõi”, “công việc tề gia nội trợ” - hệ thống ie buộc mọi gia đình Nhật không được để cho huyết thống của dòng họ bị gián đoạn. Ie , theo quan niệm cổ truyền, chính là trụ cột của ý thức hợp quần, nhóm họp những người có quan hệ huyết thống lại thành một tập thể nhỏ, với người đứng đầu là vị trưởng tộc. Trong xã hội Nhật đương đại, ie mở rộng dần phạm vi, tương đương với các hãng, các công ty, tập hợp hết thảy với những người được hãng, công ty thuê thành một tập đoàn kinh doanh, với chủ hãng, chủ công ty giữ địa vị tương đương với trưởng tộc. https://thuviensach.vn Trong tiến trình phát triển, ie có thể chuyển thành một dạng mới, gọi là dozoku (gia tộc mở rộng), gồm một gia đình chính và các gia đình bàng hệ (gọi là bunke ), tức các nhánh đàn em trong gia tộc hữu quan. Các bunke luôn trung thành với gia đình chính; và đến lượt mình, các gia đình chính cũng có bổn phận phải chăm sóc các gia đình bàng hệ. Đó là toàn bộ nền tảng ý thức hệ của quan niệm vẫn được mệnh danh là “nước - nhà” “dân tộc - gia đình”. Hệ thống ie vốn theo thể chế phụ quyền hiện vẫn đè nặng lên vai người phụ nữ Nhật, nhưng gánh nặng đó thao túng tới mức nào còn tùy thuộc vào giai tầng của người phụ nữ kia: ai xuất thân từ các gia đình công nhân nghèo và nông dân phải thường gánh chịu nặng hơn những chị em cùng giới, xuất thân từ các gia đình thành thị sung túc. Các gia đình kinh tế và xã hội tại Nhật thời hậu chiến đã để lại một dấu ấn rõ nét lên điều kiện sống của người dân. Phụ nữ Nhật hiện đứng trước nhu cầu cấp thiết của xã hội: thị trường lao động đang rất cần nhân lực. Tiến trình đô thị hóa ngày một mạnh và các quan hệ hàng hóa giữ vai trò ngày một tăng tại thôn quê đang dồn thể chế gia trưởng ie tới chỗ tan rã và đẩy mạnh việc hình thành những tế bào nhỏ hơn, gọi là gia đình hạt nhân, thay thế cho các đại gia tộc. Tất cả các nhân tố đó đã dẫn tới hậu quả: qui mô gia đình ngày càng nhỏ dần đi. Chẳng hạn, nếu năm 1973, mỗi gia đình Nhật bình quân gồm tới 5,45 nhân khẩu, thì vào cuối năm 1985, con số sẽ chỉ còn là 3,11 mà thôi. NGƯỜI NHẬT NGOÀI XÃ HỘI https://thuviensach.vn Cách ứng xử của người Nhật ngoài xã hội khác hẳn với cách ứng xử quen thuộc ở bên ta. Hai vợ chồng rất ít khi cùng sóng bước bên nhau lúc rời khỏi nếp nhà mình. Thường thường, người chồng bao giờ cũng cố “đơn thương độc mã” xuất hành, không dắt theo vợ. Những cuộc dạo toàn gia vào ngày chủ nhật đang là hiện tượng ngày càng phổ biến hơn. Còn vào ngày thường, bao giờ người chồng cũng đi giải trí cùng bè bạn - chứ không đưa vợ con theo. Theo số liệu thống kê đáng tin cậy, chỉ già nửa đàn ông có vợ con thuộc tầng lớp trung lưu là về nhà trước 9 giờ tối. Trong các tầng lớp khá giả, tỷ lệ này giảm xuống còn 10%. Đàn ông Nhật rất ngán ngẩm với cảnh qua thời giờ trong 4 bức tường tại các căn hộ đô thị, và chỉ thích nghỉ ngơi ở nơi khác. Kế thừa óc “trọng nam khinh nữ” của tổ tiên họ, người đàn ông Nhật cho rằng phải quanh quẩn ở nhà với vợ con vào mỗi tối là gánh nặng đáng buồn. Điều họ thích là đổ về những nơi thoáng đãng trong các đô thị, lui tới các xóm Bình Khang. Xử sự khác đi là hạ phẩm giá một đấng nam tử, tự đánh mất cương vị chủ nhân gia đình. Từ lâu, “đi chơi” tối đối với phần đông nam giới là một hợp phần cơ hữu của lối sống Nhật. Sở thích đó thu hút cả những bậc “mày râu” thích đi “giải muộn”, lẫn những người chỉ giản dị muốn đàm đạo với bè bạn cùng giới, cùng nghề. Hoàng hôn vừa ngả bóng là những người thích đi giải phiền đã đua nhau kéo tới các khu du hí. Trong số này có không ít những người chỉ muốn thư giãn gân cốt sau một ngày dài làm việc căng thẳng tại các công, tư sở hoặc xí nghiệp. Hơn nữa, họ còn phải cố giữ các mối quan hệ xã hội, từng gắn bó họ với các đồng sự, đồng nghiệp kia. Giết thời giờ bên chén rượu với các đồng sự, đồng nghiệp chính là cách để giữ bền https://thuviensach.vn các mối quan hệ thân hữu tại nhiệm sở. Thông thường, công nhân, viên chức là những khách quen của nhà hàng hạng trung. Họ chỉ cần đặt chân tới đó là đám tiếp viên đã bưng ngay đến tại bàn một cốc sakê hoặc một chai bia - khách cứ việc bệ vệ gieo người xuống ghế và trao đổi cho nhau những tin tức này nọ. Họ thường trò chuyện với nhau về đủ mọi thứ trên đời: nào là ta thán về các ông “sếp” nhiễu sự, nào khuyên răn nhau, nào mời mọc nhau - những lời khích lệ thân tình, những cái vỗ vai động viên cứ thi nhau tuôn chảy như suối. Có lúc, câu chuyện chuyển sang đề tài thẩm định hoặc phê phán những điều chướng tai gai mắt, những cách xử sự không ổn - nhưng trong suốt buổi, không bao giờ người ta thấy họ để lộ một chút lo âu hoặc buồn phiền: người Nhật vốn quen nhìn đời bằng cặp mắt điềm nhiên. Nhân thể cần nói thêm, với giới doanh nhân, những cuộc “dạo chơi” đó không khiến hầu bao họ vơi bớt, bởi mọi phí tổn đều do hãng đài thọ. Điều thú vị là cảnh sinh hoạt về đêm kia tại các đô thị lớn thường “ngắn chẳng tầy gang”: chỉ tấp nập chừng ba tiếng - từ 8 tới 11 giờ đêm - là chấm dứt. Khách chơi đêm phần đông đều hối hả về nhà trước 11 giờ. Sau giờ đó, nhiều tụ điểm đều vắng ngắt, và cảnh sát bắ t đầu các cuộc tuần tra, đột kích vào các khu ăn chơi. Ngoài đủ các thứ trò vui tầm thường, Tokyo về đêm là một mẫu mực đích thực về các loại hình nghệ thuật dân tộc: các rạp ca kịch cổ điển, các rạp múa rối và các phòng hòa nhạc dân tộc thường trình diễn tới tận khuya, và đâu đâu cũng chật ních người xem, người nghe. Tại các nhà tắm công cộng . Tắm ở Nhật không chỉ đơn thuần là một cách giữ vệ sinh cho châu thân. Đây là hình thái giúp người dân https://thuviensach.vn có dịp thư giãn cơ bắp, để cả thể xác lẫn tâm hồn thêm thanh sạch, - một nghi lễ được gọi bằng danh từ misogi (tẩy uế bằng nước). Tắm vừa là cách giữ vệ sinh, vừa là nghi lễ, vừa là liệu pháp trị bệnh cổ truyền. Người Nhật rất năng lui tới các nhà tắm công cộng. Được tắm sau giờ làm việc, đối với nhiều người, tựa như được ghé lên thiên đàng. Vừa tắm họ vừa trò chuyện, tranh luận và giải quyết những vấn đề hệ trọng chưa tìm thấy lối ra. Họ cho rằng lúc thanh thản sẽ dễ thỏa thuận được nhiều chuyện khúc mắc. Nhà tắm chính là nơi người Nhật không cần dè giữ, không còn bị câu thúc và mặc tình cho tính cách bộc lộ hết ra ngoài. Khó hình dung một đô thị Nhật nào thiếu vắng các nhà tắm công cộng - sento . Các sento thường có thể là những tòa nhà đồ sộ hoặc hai tầng, sừng sững những ống khói vút cao. Mỗi nhà tắm có thể phục vụ hàng ngàn người/ngày. Khách thường đổ tới đặc biệt tấp nập vào lúc trời sắp tối. Phụ nữ, trẻ con và người già cả bao giờ cũng tới sớm hơn, trước giờ cao điểm. Lệ thường, các sento mở cửa đón khách từ 3 giờ chiều tới nửa đêm. Sento nào cũng chia đôi: nửa dành cho nam, nửa cho nữ. Trước lúc vào phòng tắm, có một phòng riêng để cởi dép, giày. Kế đến là phòng thu tiền, rồi phòng cởi quần áo. Mỗi người sẽ được phát cho một chiếc giỏ riêng để cất quần áo vào, xong đặt lên những dãy giá cao. Hoàn tất mọi thủ tục, khách sẽ tiến vào phòng tắm để tắm rửa, nghỉ ngơi, ngâm mình trong nước khoáng tuyền cho cơ bắp thư giãn. https://thuviensach.vn Trong phòng tắm, thường có một dãy rộng, chứa từ 10 - 20 người. Dọc tường có thiết kế sẵn vòi nước nóng, lạnh, để khách dùng bọt biển kỳ cọ cho sạch thân thể, dội lại nước nóng, trước lúc nhảy xuống những chiếc bồn kia. Nước trong bồn bao giờ cũng nóng già, nhưng người Nhật đã quen, và chính trong làn nước nóng đó, người ta mới thấy thích thú và trò chuyện với nhau hồ hởi. Ai mới tới lần đầu phải tập cho quen đi đã bằng cách lắng tai nghe câu chuyện; về sau, khi đã thích nghi, mới tự góp chuyện với người xung quanh. Đề tài câu chuyện thôi thì đủ thứ: từ những lời quảng cáo về răng giả tới những biến cố quốc tế mới đây. Chẳng phải vô cớ mà ở Nhật rất thông dụng thành ngữ: “tin nhà tắm” (tựa như “tin vỉa hè” ở ta). Giữa giờ giải lao, ngoài hành lang các cuộc họp, người ta thường kháo nhau, đại để như: “Hôm qua, tôi nghe đằng nhà tắm người ta đồn rằng...”. Nhà tắm, đúng hơn là các bồn nước nóng, theo người Nhật, chính là nơi thích hợp nhất để giải quyết các vấn đề nan giải, đàm luận về chính trị và triết lý. Nhà tắm cũng là nơi các tính cách khác nhau dễ được san bằng trong chừng mực nhất định. Người Nhật vốn xử thế rất dè giữ nơi đông người, và bao giờ cũng cố che đậy bản diện thực của họ dưới “40 lớp y trang”. Khách ngoại quốc thường rất kinh ngạc với cảnh người Nhật vận veston, cà-vạt tề chỉnh vào những hôm oi bức tới mức du khách chỉ muốn xoay trần cho đỡ bức bối. Phơi trần châu thân trước thiên hạ là chuyện đi ngược với bản sắc dân tộc Nhật. Nhưng vào nhà tắm công cộng, họ rất dễ dàng bỏ hết mọi lớp áo quần. Về nhiều phương diện, đó là nơi họ phơi bày thế giới nội tâm không chút dè giữ. Ta dễ có ấn tượng: họ đã trở nên những người hoàn toàn khác, sau khi cởi bỏ hết trang phục trên người tại đây. https://thuviensach.vn Giá tiền trả cho mỗi lần tắm không lấy gì làm đắt, nên khách có thể thuê thêm một sansuke , giúp kỳ lưng và xoa bóp phục dịch rất tận tụy. Dịch vụ này thường do thanh niên trai tráng đảm đương. Họ chỉ khác khách hàng ở một chiếc khố nhỏ, mặc trên người. Sansuke phục vụ cho cả hai giới, bởi người Nhật cho rằng đó không phải là công việc của phái yếu. Người Âu châu không chịu nổi nhiệt độ nước trong các bồn tắm ở Nhật, nên muốn thử, họ phải tập một thời gian. Sở thích đó của người Nhật, theo chính họ, rất khó lý giải. Nhưng nguyên do rõ ràng là thời tiết ở đất nước Phù Tang: về mùa đông, nước nóng là phương thuốc diệu kỳ; còn về mùa nực, nước nóng giúp cơ thể cảm thấy mát mẻ sau lúc tắm gội. Tuy mỗi người lý giải một cách, song về mùa nào họ cũng thích tắm nước nóng. Ngay cả những người có phòng tắm hiện đại tại gia, họ cũng khó giã từ thói quen lui tới các nhà tắm công cộng “đầy quyến rũ” kia. Tại các nếp nhà truyền thống, người Nhật cũng trần thiết một phòng tắm nhỏ bằng gỗ, bồn tắm chỉ đủ chỗ để ngồi. Hiện thời, họ dùng đủ thứ chất liệu để làm bồn tắm, với đủ mọi kích thước to nhỏ khác nhau. Tại các căn hộ đô thị, buồng tắm được tiêu chuẩn hóa, đủ chỗ cho một người nằm. Vòi búp sen không ai dùng. Nhưng dù có bồn tắm tiêu chuẩn, ai cũng thích tới nhà tắm công cộng. Những năm gần đây, các giới chức kinh đô đã cho khánh thành tới mấy nhà tắm rộng thênh thang. Thậm chí, còn cho xuất bản một tờ báo mang tên Nyuyoku times ( “Thời báo nhà tắm” ), ra hằng ngày, bán được tới 2400 bản trong tổng số 3.000 tại các nhà tắm công cộng. Ban biên tập cố giúp độc giả thấu hiểu các “thể thức cư https://thuviensach.vn xử tại nhà tắm” thậm chí còn cho in “thơ về nhà tắm” như bài dưới đây: Xem kìa! Lạ đời chưa? Một chàng bờm dài Lẻn vào phòng tắm nam! Nhiều cuốn nội quy nhà tắm đã được soạn thảo, và được công bố, sau khi các cố vấn của tòa thị chính về vấn đề nhà tắm công cộng đích thân chỉnh lại hẳn hoi. Có lần, các vị cố vấn đó đã đề xuất với chính quyền thành phố một quy định bổ sung: bắt khách để tóc dài phải trả thêm lệ phí. Người Nhật gọi đùa quy định đó là “lối đối xử kỳ thị tại nhà tắm công cộng”. Xem vậy đủ thấy vai trò to tát của nhà tắm tại Phù Tang. Trong giới geisha . Chiết tự từ geisha , ta sẽ thấy từ này gồm hai từ căn: gei - “nghệ”, sha - “gia (người)”. Như vậy, giesha là từ chỉ những “nghệ gia” thuộc phái đẹp, cho nên chẳng phải cô gái Nhật nào thích cũng đều có thể trở thành geisha . Theo nhiều học giả, từ này ra đời lần đầu trong tiếng Nhật từ nửa sau thế kỷ XVIII. Nói cách khá, nghề này xuất hiện khác muộn tại đất Nhật, tuy rằng nhiều niên sử Nhật thế kỷ thứ XI - XII đã có chép về các kỹ nữ trẻ đẹp, chuyên đảm đương các phận sự như geisha ngày nay. Geisha là giới bao giờ cũng tác động mạnh tới trí tưởng tượng của du khách ngoại quốc. Một học giả Nga từng viết về họ như sau: “ Geisha là những thiếu nữ có học vấn nhất tại Nhật Bản. Họ ăn nói sắc sảo, am hiểu văn chương nước nhà, vui tươi và nhanh trí lạ thường, nên bạn không thể không thán phục trước toàn bộ vẻ quyến https://thuviensach.vn rũ của họ. Họ sẽ hát, ngâm thơ và trình diễn các trích đoạn hay nhất của những vở kịch với một tài nghệ đã trở thành kinh điển của đất Phù Tang. Tuy vui đùa với bạn chẳng chút gượng gạo, đố i đáp rất có duyên, nũng nịu với bạn rất thân tình, nhưng họ không bao giờ chịu để mất phẩm giá của người thiếu nữ đoan chính. Geisha khác với gái bán phấn buôn hương một trời một vực: đó tuyệt nhiên không phải bổn phận của họ, bởi họ là những kỹ nữ được mời tới giúp vui và phô diễn tài nghệ cho khách sang, với tiền thù lao tính theo giờ... Muốn đãi bạn bè một buổi tiệc, người Nhật sẽ tổ chức tại trà thất và mời các geisha tới giúp vui, chứ không bắt vợ con phải vào hầu hạ”. Các geisha hiện thời, đương nhiên, không còn giữ nguyên vẹn những cốt cách như nhà học giả thế kỷ trước vừa ca ngợi. Tài nghệ diễn tấu của họ đã sa sút đi nhiều. Tuy vậy, giới geisha vẫn được đề cao, và cố nhiên, còn được duy trì về lâu về dài. Nói tới hai tiếng geisha hiện thời sẽ gợi lên trong cảm nghĩ người Nhật cả một loạt ấn tượng nhiều màu nhiều vẻ. Để trở thành một geisha là chuyện chẳng đơn giản, bởi lẽ nghệ thuật đó đòi hỏi mỗi thiếu nữ phải có cả một loạt tri thức và kỹ năng. Trước đây, nhiều cô phải học nghề từ nhỏ, có khi mới 7, 8 tuổi. Hiện thời, chính phủ ấn định độ tuổi là 16. Phần lớn, họ đều là con gái các viên chức phục dịch tại các nhà hàng và trà thất. Thông thường thì người mẹ sẽ truyền lại nghề cho chính đứa con gái nào có nhan sắc, tài hoa. Mới vào nghề các cô phải học ca, học vũ, học nghệ thuật diễn xướng, học đàn và trau dồi vốn học vấn cho thật sâu rộng. Nghệ thuật trò chuyện là bộ môn rất được coi trọng. Các geisha tương lai phải tới sống và trau dồi nghề nghiệp tại các khu dành cho giới mình. Tại Kyoto, các geisha mới học nghề được gọi là maiko , còn https://thuviensach.vn Tokyo - là oshiaku . Ai cũng phải mặc kimono , thắt những dải thắt lưng rộng bản gọi là obi , chải tóc cao - để phân biệt với các geisha đã thành thục. Người Nhật chỉ thuê các geisha tới giúp vui cho các cuộc dạ yến cực sang. Trong lúc khách thưởng thức sơn hào hải vị, họ phải đùa vui cùng khách, ca hát và múa các điệu vũ cổ truyền cho khách xem. Không khí bữa tiệc, nhờ vậy, đỡ câu thúc và khách khứa dễ cảm thấy phấn chấn. Khách ngoại quốc dĩ nhiên khó lòng cảm nhận được trọn vẹn mọi sắc thái tinh tế, bởi lẽ ít ai được sành tiếng Nhật và hiểu hết mọi hàm ý sâu xa trong những câu đối đáp lời ít ý nhiều. Khi hoàn thành chương trình dự tính, họ được tự do và có thể xử sự theo sở nguyện riêng. Một geisha đích thực thường không bao giờ trao thân cho khách khứa tới dự tiệc hôm đó. Tuy nhiên, giới geisha hiện thời có tới 5, 7 hạng. Những thiếu nữ kém tài thường chỉ làm bổn phận vẫn được gọi là “ geisha chăn gố i”. Chính hạng này đã khiến du khách ngoại quốc hình dung sai lạc về giới geisha Nhật Bản. Thời gian biểu của các geisha thường rất chặt chẽ. Sáng - học ikebana , nghệ thuật dâng trà, pha trà, múa hát... Sau đó là bữa ăn trưa đạm bạc, rồi học cách trò chuyện với các bạn đồng nghiệp tới 3 giờ chiều. Đúng 3 giờ chiều, mỗi cô phải bắt tay ngay vào việc điểm trang để chuẩn bị cho các buổi tiếp tân tối hôm đó. Họ thường mất vô khối thời giờ vào việc trau chuốt, bởi phải hoàn tất hàng trăm thứ việc linh tinh - từ cọ rửa cặp gót sen cho tới chuyện chải tóc. Nhờ vậy, dung mạo cô nào cũng đầy quyến rũ, thừa sức làm xiêu lòng bất cứ vị khách nào. https://thuviensach.vn Cho mãi tới những năm gần đây, các geisha đều không hề biết đến tiền, bởi mọi phí tổn đều do một tổ chức riêng đứng ra bao. Tối, tùy theo thư thỉnh cầu, họ sẽ được chỉ vẽ “đường đi nước bước” cho tối hôm đó, rồi lên xích lô, tới địa chỉ đã định (cho tới tận giờ, họ vẫn chỉ sử dụng thứ phương tiện giao thông thô sơ đó). Tiệc tàn, họ lại nhận được những “chỉ vẽ” mới về cách thức dùng thời giờ với vị khách nào. Lương bổng, họ thường được nhận vào mỗi cuối tháng. Mức lương cao thấp tùy thuộc vào tuổi tác, tài nghệ, danh tiếng và hàng loạt nhân tố khác nữa. Hiện thời, geisha vẫn được coi là những phụ nữ tự do. Giới geisha hiện nay, ngoài các môn thể thao cổ điển, họ còn được phép đánh golf và giải trí tùy sở thích. Thậm chí họ còn được phép lái xe hơi. Theo số liệu thống kê, tại Tokyo những năm cuối thập niên 80 có tới 5 ngàn geisha hành nghề. Còn trên toàn quốc, con số vào khoảng 35 ngàn có lẻ. Theo nhiều tài liệu, số geisha chuyên nghiệp đang ngày càng ít. Nhiều người dự đoán là tới cuối thế kỷ này, ở Nhật sẽ không còn nghề geisha . Đó là quan điểm thật khó đồng tình, bởi lẽ giới geisha mang lại cho công nghiệp giải trí Nhật một phong vị hết sức độc đáo, vẫn được toàn thể giới mày râu đất nước Mặt trời mọc giữ gìn nâng niu rất mực, coi như một truyền thống vô song. [1] Mạc phủ là hình thức cai trị trong đó toàn bộ quyền hành trong nước đều tập trung vào tay các thủ lĩnh quân đội, gọi là shogun. Dưới thời các mạc phủ thống trị, Nhật hoàng thực tế chẳng có chút quyền hành gì, tuy rằng tất cả các mạc phủ đều vẫn tôn thờ Thiên hoàng và không hề tranh giành về phần họ uy danh “thiên tử” vốn có của các hoàng đế Nhật. https://thuviensach.vn [2] Meiji (Minh Trị) là cách gọi của hậu thế để tôn vinh Thiên hoàng Mutsuhito (trị vì từ 1868-1911) sau ngày hoàng đế qua đời. https://thuviensach.vn CHƯƠNG II ĐIỀU HÒA PHÉP ĐỐI NHÂN XỬ THẾ Ở NHẬT BẢN Chỗ dựa được chúng tôi sử dụng để phân tích cách thức điều hòa hành vi xã hội của người Nhật trong chương này là luận điểm phương pháp luận tổng quát Mác-xít về bản chất xã hội của con người. K. Marx viết: “Mỗi cá nhân là một thực thể xã hội . Vì vậy, mọi biểu hiện trong sinh hoạt của từng cá nhân - ngay cả khi đó không phải là những biểu hiện trực tiếp trong tập thể, cùng tiến hành với cá nhân khác - vẫn là những biểu hiện của sinh hoạt xã hội, và khẳng định cho nếp sinh hoạt nói trên”. Trong hoạt động xã hội, mỗi người đều dự phần vào các mối quan hệ phức tạp với các cá nhân khác. “Hoạt động sống của mỗi một cá nhân thế nào, - Marx và Engels khẳng định, - thì bản thân cá nhân đó cũng đều sẽ như thế đó”. Hoạt động sống cũng thể hiện cả trong lố i sống của cá nhân; mà lối sống chính là tấm lăng kính khúc xạ các mối tương quan qua lại về kinh tế, chính trị, tư tưởng và tâm lý của cá nhân đó. Mọi đặc điểm của lối sống Nhật phần nhiều đều bộc lộ qua cách nhận thức hệ thống các phương thức điều hòa hành vi đã hình thành trong nền văn hóa Nhật tự ngàn xưa. Truyền thống tôn giáo của Nhật là chiếc chìa khóa thần tình giúp ta khám phá nhiều khía cạnh của thực tại Nhật Bản. 1. TÔN GIÁO, CÁC ĐẤNG THẦN LINH, CÁC NGẪU TƯỢNG Ở NHẬT https://thuviensach.vn Những cuộc thăm dò dư luận chính thức, vẫn được nhiều cơ quan khoa học khác nhau thường xuyên tiến hành tại Nhật, chứng tỏ rằng: người Nhật như cơ hồ không theo một tôn giáo nào. Có tác giả thậm chí còn xếp người Nhật vào nhóm các tộc người vô thần, nhưng thông thường hơn - vào nhóm “đồng nhất về tôn giáo”. Song theo xác tín của chúng tôi, đó là một cách nhìn nhận quá đơn giản, phản ánh không chính xác lắm, thậm chí có thể nói hoàn toàn không chính xác về khía cạnh đó của ý thức xã hội người Nhật Bản. Tình cảnh ngược đời đó, ngay từ thế kỷ trước, đã từng được nhiều học giả Nga chỉ ra. G. Vostokov, chẳng hạn, từng viết như sau: “...nếu hỏi một người Nhật là họ theo tôn giáo nào, anh sẽ rất dễ bối rối, vì họ thường trả lời anh như sau: theo tục lệ, lúc mới sinh, họ đều được bồng đến một nhà thờ Thần đạo để xin đặt tên, nhưng lúc họ được đưa ra nghĩa trang, thì theo sau quan tài họ là các sư, sãi Phật giáo. Giữa hai thời điểm đó, họ có thể trở thành một tín đồ Thiên Chúa ít lâu. Trong hệ thống các giáo lý thịnh hành tại Nhật, hệ thống giữ vai trò chủ đạo là một tôn giáo mà chỉ Nhật Bản mới có: đạo Shinto - tức Thần đạo. Shinto (Thần đạo - “đường của các đấng thần linh”) - là tôn giáo lâu đời nhất của Nhật Bản. Tuy ngọn nguồn của Thần đạo hiện chưa ai biết rõ, song chẳng một ai nghi ngờ một sự thật hiển nhiên: Thần đạo nảy sinh và phát triển ở Nhật vào thời kỳ đảo quốc này bắt đầu vượt ra ngoài tầm ảnh hưởng của Trung Quốc. Người Nhật thường không mấy ai theo đuổi kỳ vọng đi sâu vào thực chất và nguồn gốc của Thần đạo. Song đối với mỗi người dân Nhật, tôn giáo này vừa là lịch sử, vừa là truyền thống, lại vừa là đích thân cuộc sống của đất Phù Tang. Thần đạo mang dáng dấp https://thuviensach.vn một thiên huyền tích cổ xưa. Mục tiêu và ý nghĩa của Thần đạo chính là nhằm khẳng định tính độc lập của lịch sử Nhật cổ đại và nguồn gốc con thần cháu thánh của dân tộc Nhật. Theo Thần đạo thì Thiên hoàng ( midako ) là hậu duệ của thần Trời, còn mỗi người Nhật Bản lại là hậu duệ đệ nhị đẳng của các đấng thần linh - kami . Với người Nhật, kami có nghĩa là hồn thiêng của tổ tiên, của các đấng anh hùng, của các vị thần linh cao cả... Thế giới của người Nhật là nơi cư ngụ của các kami . Người Nhật mộ đạo nào cũng nghĩ rằng sau khi chết, họ sẽ trở thành một trong số các kami đó. Thần đạo không giống các tôn giáo khác ở chỗ chỉ tôn thờ một đấng toàn năng độc nhất, mà chủ yếu chủ trương thờ phụng tổ tiên và qui phục thiên nhiên. Thần đạo không bắt tín đồ theo một giới răn nào, ngoài việc phải giữ cho tâm hồn thanh tịnh và chớ làm phương hại tới sự hài hòa tự nhiên giữa muôn vật. Một qui tắc đạo đức chung độc nhất của Thần đạo là: “Hãy hành động hợp với các qui luật của trời đất, đồng thời cố gìn giữ các qui luật xã hội”. Theo các quan niệm Thần đạo thì người Nhật nào bẩm sinh cũng đều thấu hiểu lẽ thiện ác; vì thế, ai bẩm sinh cũng đều biết thi hành các bổn phận của chính mình trong xã hội, bởi nếu không thế, họ sẽ “thua kém cả thú vật, vốn không ai dạy dỗ cho cách hành xử hợp với đạo trời”. Những giáo lý của Thần đạo, chúng ta có thể tìm đọc trong Kojiki (“Cổ sự ký”), viết năm 712, và Nihongi (“Niên sử Nhật Bản”), viết năm 720. Kojiki là kinh thư của Thần đạo, tuy rằng theo S.A. Arutyunov và G.E. Svetlov, không nên hiểu theo nghĩa như Thánh kinh (Bible) đạo Thiên Chúa hoặc kinh Coran đạo Hồi. N.I. Conrad viết: “ Kojiki là cuốn sách gối đầu giường của mọi người Nhật. Đó là cội rễ của hết thảy những gì hình thành nên cái cốt lõi của tinh thần dân tộc Nhật https://thuviensach.vn Bản, thuần khiết nhất và không chút pha tạp với bất cứ dân tộc nào, Kojiki là chiếc chìa khóa... giúp ta hiểu đích thân nước Nhật, đích thân người Nhật Bản. Qua Kojiki , chúng ta có thể nhận biết được cả “thời đại các đấng thần linh... Không thể tiếp cận được cái “gốc gác Nhật Bản” còn lưu lại cả trong xã hội Nhật hiện đại, nếu không chịu khó tìm đọc bộ sách đó”. N.I. Conrad còn nêu tiếp: “ Kojiki hợp nhấ t hai ý niệm - ý niệm thống nhất về huyết thống của cộng đồng và ý niệm về quyền chính của các đấng bề trên. Ý niệm thứ nhất được phản ảnh trong quan niệm: toàn thể cộng đồng dân tộc là một quần thể đồng chủng, là hậu duệ của một tổ tiên, do các thần linh, các tù trưởng, các hoàng đế sinh ra. Ý niệm thứ hai được phản ảnh trong quan niệm cho rằng quyền chính của các thần linh, tù trưởng và hoàng đế chung qui đều là sự thác mệnh của các đấng thần linh tối thượng”. Các niên sử Nhật đều ghi rõ: trước buổi khai thiên lập địa là Hỗn mang. Về sau mọi thứ mới được an bài đâu ra đấy: trời đất biện biệt, âm dương hình thành. Âm - hiện thân nơi nữ thần Izanami ; dương - nơi chồng của vị nữ thần Izanami, là nam thầ n Izanagi đầy quyền thế. Họ sinh hạ được một con gái - nữ thần Mặt trời Amaterasu, và hai con trai - thần Mặt trăng Tsukiyomi và thần Phong Thủy Shusanoo. Amaterasu và Shusanoo kình địch nhau, lao vào một cuộc huyết chiến. Nữ thần Amaterasu thắng, ở lại trên trời; còn Shusanoo thì bị đuổi xuống dương gian, trị vì xứ Ijumo. Về sau, con trai thần Shusanoo là Okuninushi được phong vương, thống lĩnh xứ Ijumo. Nhưng Amaterasu bất bình, đuổi Okuninushi khỏi ngai vàng, trao lại quyền bính cho cháu trai mình là Ninigi cai quản. Để xác nhận quyền bính, nữ thần trao cho Ninigi ba món linh https://thuviensach.vn vật: chiếc gương soi (biểu tượng của dòng dõi thần linh), thanh gươm (biểu tượng của sự hùng mạnh) và viên ngọc quí (biểu tượng của sự thần phục). Ninigi sinh hạ Jimmutenno (dịch sang tiếng Việt có nghĩa là “Hoàng đế”; tước vị này vẫn còn giữ nguyên tới tận bây giờ), vị hoàng đế huyền thoại đầu tiên của nước Nhật, mở đầu các triều đại vua chúa Nhật - Mikado , tức các Thiên hoàng ngày nay. Chiếc gương, thanh kiếm và viên ngọc quí, tự ngàn xưa, đã là gia huy của các triề u vua Nhật, và truyền thống đó vẫn giữ tới bây giờ và rất được kính nể. Do là dòng dõi của các thần linh, nên trong ý thức của người Nhật, hoàng đế cũng cùng huyết thống với toàn thể thần dân. Hoàng đế, do đó, là người đứng đầu đại gia đình dân tộc Nhật Bản. Ngay các Shogun, trị vì trong suốt hơn 300 năm tại Nhật Bản, cũng tự coi mình là hậu duệ của Mikado . Được Thần đạo tôn vinh, ý niệm “Mikado” cho đến bây giờ vẫn còn hiện hữu nguyên vẹn trong ý thức người Nhật, tuy rằng sức điều tiết hành vi xã hội của ý niệm đó, cố nhiên, chẳng còn giữ được địa vị tối thượng như trước nữa. Người Nhật ngày nay, bề ngoài tựa hồ không còn coi trọng ý niệm đó nữa, song trong tiềm thức ai cũng thần phục Mikado . Tại các đền thờ Thần đạo hiện vẫn còn tổ chức đủ các loại lễ tiết lớn nhỏ (theo một vài tài liệu thống kê, số lượng tính ra có tới trên dưới 100 ngàn), để tỏ lòng tôn kính hoàng gia. Thần đạo đã hình thành được trong ý thức người dân Nhật một cách nhìn nhận đặc biệt đối với thế giới sự vật, thiên nhiên và quan hệ giữa người với người. Cách nhìn nhận đó lấy 5 quan niệm dưới đây làm nền tảng. https://thuviensach.vn Quan niệm thứ nhất hiện hữu vốn là kết quả của tiến trình tự phát triển của thế giới. Thế giới vốn tự nó sinh ra và được sắp đặt đâu ra đấy, hết sức hoàn hảo. Nhân tố điều tiết hiện hữu, theo Thần đạo, vốn xuất phát nơi tự thân thế giới, chứ không phải do một đấng bề trên tối thượng nào cai quản cả, như quan niệm của các tín đồ Thiên Chúa hoặc đạo Hồi. Ý thức tôn giáo của người Nhật, do hình thành trên cơ sở đó, nên dân Nhật phần lớn đều sửng sốt trước câu hỏi của người châu Âu: “Thế ông không tin Thượng Đế sao?” hoặc “Đâu là đức tin của ông? Chẳng lẽ ông không hề có một đức tin nào cả?”. Quan niệm thứ hai nhấn mạnh vào sức mạnh của sự sống. Tương truyền, cuộc giao phối đầu tiên là cuộc giao hợp giữa các đấng thần linh. Vì thế cho nên tính dục và tội tổ tông truyền không bao giờ lởn vởn trong ý thức người Nhật Bản. Theo nguyên lý đó, hết thảy những gì là tự nhiên đều phải kính trọng; và chỉ đáng khinh rẻ những gì là “không thanh sạch”, cũng như tất thảy những gì “không thanh sạch” nhưng không thể tẩy rửa được mà thôi. Đó chính là chiều hướng mà những nghi lễ trong các đền đài Thần đạo cố vươn tới: cốt khơi dậy nơi mọi người ý thức phục thiện, và khuyên người ta nên tìm mọi cách cải hóa mình để thích ứng với cộng đồng và với thế giới. Nhờ đó mà người Nhật rất dễ dàng tiếp nhận hầu hết những gì là hiện đại, miễn sao những thứ đó phải được “tẩy rửa”, được hiệu chỉnh cho phù hợp với truyền thống dân tộc mình. Quan niệm thứ ba chủ trương coi trọng sự thống nhất của thiên nhiên và lịch sử. Trong thế giới quan của mình, Thần đạo không hề phân chia giữa giới hữu sinh với vô sinh; đối với mọi tín đồ Thần đạo, cả muông thú, cả cỏ cây, lẫn đất đá... hết thảy đều thuộc giới hữu sinh; trong toàn thể vũ trụ cũng như trong bản thân https://thuviensach.vn con người, nơi bất cứ thứ gì cũng đều hiện hữu các đấng thần linh Kami . Có người còn cho rằng mỗi một chúng ta đều là một Kami , hoặc đúng hơn đều có các Kami ngự trị bên trong, hay rốt cục, ai rồi cũng đều có thể hóa thành một Kami sau lúc chết... Theo Thần đạo, thế giới các Kami không phải là âm thế, tách biệt hẳn với cõi con người. Các Kami luôn hợp nhất với mỗi người, vì vậy con người không cần phải đi tìm sự cứu rỗi ở thế giới bên kia hoặc ở bất cứ đâu khác cả. Theo Thần đạo, chỉ cần tìm cách hòa hợp với các Kami trong cuộc sống thường nhật là tự khắc sẽ được cứu rỗi sau ngày nhắm mắt xuôi tay. Quan niệm thứ tư liên quan đến hệ thống đa thần linh. Thần đạo vốn nảy nở từ nhiều linh vật tại các địa phương, của dòng dõi và các bộ tộc trong nước. Các nghi lễ nguyên thủy mang tính chất phù phép của Thần đạo chỉ được qui về một mối duy nhất từ thế kỷ V - VI, khi triều đình bắt đầu bắt tay giám sát hoạt động của các đền thờ Thần đạo khắp gần xa. Vào đầu thế kỷ VIII, hoàng đế đã cho lập một ban chuyên trách, để coi sóc hoạt động của Thần đạo, tới đầu thế kỷ thứ X, thì còn lập hẳn một một danh mục các đấng thần linh cần thờ cúng của Thần đạo (gồm tới 3132 chư vị). Về sau, danh mục trên cứ ngày càng dài thêm dần. Quan niệm thứ năm có liên quan tới nền tảng tâm lý dân tộc. Theo quan niệm này, các chư thần của Thần đạo - Kami - không sinh hạ loài người nói chung, mà chỉ sinh hạ người Nhật Bản mà thôi. Do vậy nên trong ý thức người Nhật, ngay từ lúc sinh thành, ai cũng nhận thức được rằng mình vốn là tín đồ Thần đạo từ lúc mới lọt lòng mẹ. Đó là cội nguồn của hai nhân tố hết sức hệ trọng, vốn chi phối việc điều tiết hành vi của người Nhật hiện thời. Một, là các Kami chỉ gắn bó với dân tộc Nhật; hai, là sẽ rất nực cười, nếu https://thuviensach.vn một người ngoại quốc lại thầ n phục Thần đạo, và sẽ rất vô lý dưới mắt người ngoại quốc, nếu kẻ đó đem giáo lý Thần đạo đi rao giảng cho người các nước lân bang. Đồng thời, Thần đạo không hề ngăn cản người Nhật tôn thờ và rao giảng một tôn giáo khác không phải là Thần đạo của đất Phù Tang. Chính vì lẽ đó nên hầu như người dân Nhật nào cũng vừa là tín đồ Thần đạo, lại vừa là tín đồ một tôn giáo khác - chẳng chút đắn đo. Nếu thống kê số giáo dân Nhật theo từng tôn giáo, ta sẽ được một con số cao hơn gấp bội số dân trong nước hiện thời. Việc thờ cúng linh vật trong Thần đạo khiến mỗi đền đài cụ thể có thể cúng bái một vị thần riêng, chẳng hề được thờ phụng tại một đền thờ nào khác cả. Các nghi lễ của các đền thờ Thần đạo, về thực chất, là cúng dường các chư thần của địa phương mình. Hệ thống nghi lễ giản dị, không đòi hỏi các tín đồ một sự giới răn nào, ngoài việc mang lễ vật tới và hành lễ rất đơn giản. Đó là nguyên nhân quan trọng nhất, giúp Thần đạo trường tồn suốt nhiều thế kỷ. Đối với người Nhật, nhất là những người Nhật sống tại các miền thôn dã, thì ngôi đền làng mình, cùng các lễ hội hằng năm là một bộ phận không thể thiếu được trong nếp sinh hoạt của chính mỗi người. Đời của các bậc tổ tiên họ cũng đã từng diễn ra y hệt như đời họ giờ đây, không cần một mảy may cố gắng nào hết. Và cả họ hàng thân thích của họ, lẫn bà con lối xóm nữa, hết thảy đều cũng sống như thế, hành động và ứng xử như thế, tự ngàn xưa. Tuy giữa các đền đài cụ thể vốn có những nghi lễ khác hẳn nhau như thế, song mọi đền thờ Thần đạo đều có một số nét chung nhất định. Sỡ dĩ có được thành quả đó chính là nhờ chính quyền trung ương đã ra công chấn chỉnh các nghi lễ thờ cúng (như những cố gắng diễn ra sau ngày Minh Trị trùng hưng năm 1868) hoặc https://thuviensach.vn thậm chí còn cố biến Thần đạo thành quốc giáo. Tuy nhiều công cuộc chấn chỉnh không thành công, song Thần đạo đã trở nên nền nếp hơn trước đây. Điều đó thể hiện trước hết ở việc hình thành hệ thống đào tạo các hàng giáo phẩm Thần đạo ( Kannushi ), chuyên coi sóc việc cúng tế tại các đền đài lớn nhỏ. Chức Kannushi phần nhiều đã kế thừa theo lối cha truyền con nối trong suốt nhiều năm ròng. Thần đạo mãi tới những năm hậu chiến mới bị tách khỏi nhà nước, sau ngày Nhật Bản ban hành hiến pháp 1946. Việc cúng tế thông thường là mỗi tín đồ bước đến trước điện thờ, bỏ một ít tiền vào một cái thùng lưới, đoạn quì lạy, rồi vỗ khẽ tay vài bận, xong thì đọc kinh (hoặc khấn vái lâm râm). Ngoài lễ chính, các đền thờ còn có thể tổ chức nhiều loại lễ hội khác nữa. Chẳng hạn, lễ matsuri hằng năm các nơi tổ chức một lần, nhưng có nơi cử hành tới hai lần. Lễ này gắn chặt với các công việc nông tang, gặt hái, cũng như với những ngày giỗ kỵ của từng ngôi đền hoặc từng vị thần của làng xóm. Lễ thường được cử hành rất tưng bừng, náo nhiệt. Các hàng giáo phẩm bao giờ cũng thông báo ngày cử hành chẳng những cho các tín đồ năng lui tới, mà cả cho các tín đồ khắp các vùng lân cận đến tham dự. Lễ matsuri thường thu hút rất đông tín đồ và khách thập phương. Họ đến dự lễ hoặc dự các trò vui, tổ chức sau khi hành lễ. Có nơi vào dịp này còn tổ chức cả vũ hội hóa trang. Tuy mỗi ngôi đền Thần đạo chỉ chuyên thờ một vị thần, nhưng cơ cấu các đề n đài ít nhiều đều giống hệt nhau. Phần chính ở mỗi ngôi đền là honden (điện thờ), nơi đặt các shintai (bài vị của vị thần mà bản đền thờ phụng). Liền với honden là haiden - tức nhà https://thuviensach.vn nguyện. Đền không có chân dung các chư thần, nhưng một vài nơi có trang trí thêm bằng hình vẽ những con mãnh sư hoặc các muông thú khác nhau. Trong đền Inari thường vẽ hình hồ ly; đền Hie - hình khỉ, vượn; còn đền Kasuga - hình hươu nai. Những muông thú đó thường được coi là tín sứ của từng chư thần. Tất cả những đặc điểm đó chứng tỏ Thần đạo vốn có quan hệ mật thiết với vô vàn các tín ngưỡng dân gian ở Nhật. CÁC TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN Ở NHẬT BẢN Tín ngưỡng dân gian thường được hiểu là những hình thái thờ cúng không có liên quan tới một giáo hội cụ thể. Tín ngưỡng dân gian là một tập hợp những ý niệm và hành động cúng bái dựa trên các thiên kiến, các tín điều dân dã, v.v... Tuy khác với việc thờ phụng các linh vật trong đền miếu, nhưng mối liên quan giữa tín ngưỡng dân gian với hình thái cúng bái này tỏ ra hiển nhiên tới mức chẳng cần bàn cãi. Chẳng hạn, việc thờ cúng giống hổ, cáo như một linh vật đã hình thành ở Nhật ngay từ thời xa xưa. Theo người Nhật, hồn thiêng của giống hổ, cáo có thể hiện hình trong thể phách và lý trí con người. Ở Nhật, ta có gặp nhiều đền, miếu lập riêng, chuyên tụ tập những người tự thấy tâm tính họ tương tự như các tập tính của loài cáo. Dưới sức thôi miên của tiếng trống nhịp nhàng và tiếng hú gọi các vị phẩm cai quản các đền miếu đó, những tín đồ có “tâm tính hổ, cáo” tức thì rơi vào trạng thái ngây ngất xuất thần... Họ có cảm tưởng linh hồn của giống cáo đã nhập vào thể phách họ. Vì vậy, những người có “tâm tính hổ, cáo” thường tự coi họ như những cô đồng, cậu đồng, có tài tiên đoán được tương lai của bất cứ ai. Nhà Đông phương học nổi tiếng Mỹ S. Gullick có tả lại một cuộc gặp mặt với một “cô đồng” loại đó trong cuốn East and West , xuất bản tại New York năm 1961. https://thuviensach.vn Khảo cứu tâm lý người Nhật, S. Gullick đã bỏ khá nhiều công sức để đi khắp đó đây trên đất Phù Tang. Một hôm, ông được mời tới thăm một nếp làng nhỏ nổi danh, vì có một “cô đồng” già sinh sống tại đó chuyên thờ phụng giống hổ, cáo. Sau khi hẹn trước, S. Gullick đã cùng người dẫn đường Nhật Bản bước vào nếp nhà xiêu vẹo của “cô đồng” này. Cả hai cung kính cúi chào, nhưng nữ chủ nhân không hề đáp lễ, vẫn cứ chễm chệ trên một tấm phản rộng, lặng lẽ chỉ cho khách hai vuông chiếu nhỏ, trải dưới sàn nhà, rồi sai người mang tới cho khách hai cốc trà nóng, ướp hương. Bên ngoài nắng chói chang, nhưng trong nhà bóng tối vẫn ngự trị, khiến cả hai chẳng ai nhìn rõ được mặt chủ. Người dẫn đường, sau khi nhấp vài ngụm trà nóng, liền nói rõ cùng chủ nhân: vị khách cùng đi là một nhà du lịch phương Tây, nghe danh bà ta được thần Inari ban cho tài tiên tri, nên liền tìm đến để nhờ bà ta cho biết hậu vận tốt xấu. Không hề thốt ra một lời nào hết, bà đồng già liền ngoảnh mặt về hướng Đông, với tay cầm lấy một chiếc trống cơm, gõ nhẹ mấ y nhịp, đoạn vừa lẩm nhẩm hát, vừa lầu bầu trong cổ họng những lời đầy cổ ngữ, khiến cả hai vị khách đều chẳng hiểu gì hết, tuy cả hai đều cố gắng lắng tai nghe, như muốn nuốt lấy từng lời. Khấn cầu xong, bà già liền ra hiệu là bà đã được thần mách bảo hết mọi lẽ về hậu vận. Khách cung kính đặt lên chiếc bàn nhỏ, kê ngay trước mặt bà đồng nọ, một món tiền nhỏ, gói trong một vuông giấy bản trắng tinh, rồi cúi rạp người chào, xong bước ra. Bà đồng nọ vẫn không buồn đáp lễ, trái với phép xã giao của người Nhật nhất là với nữ giới. https://thuviensach.vn Người Nhật dẫn đường, khi ra đến ngoài, liền rầu rĩ nói lại cho S. Gullick những điều bà đồng nọ tiên đoán về hậu vận của ông. Bà ta cho hay: Trên đường về Mỹ, ông sẽ bị đắm tàu, nhưng vẫn thoát nạn; ngoài ra, ông còn bị cháy trụi ngôi nhà đang cư ngụ, nhưng ông vẫn không khánh kiệt, mà còn giàu hơn xưa, và sẽ cưới được một người vợ đẹp như tiên giáng trần. Ít lâu sau, S. Gullick cho biết: không một điều tiên đoán nào ứng nghiệm cả, lúc ông về lại quê quán. Sói cũng là giố ng vật được người Nhật thờ cúng từ thuở xa xưa. Mãi gần đây, nhiều người vẫn còn tin rằng sói chính là thần núi Okami rất linh thiêng. Hằng năm, người Nhật vẫn cầu xin thần Okami che chở cho lúa má, hoa màu và cả chúng dân lam lũ tránh khỏi mọi tai họa. Chẳng hạn, dân chài hiện vẫn cầu xin thần luôn ban cho họ thuận buồm xuôi gió. Tại nhiều tỉnh, dân chúng vẫn coi sói là chủ soái của muôn thú trên đời. Hễ gặp thiên tai, bao giờ người ta cũng cầu thần sói phù hộ cho. Có nơi còn cầu khẩn thần sói chữa trị bệnh tật hoặc ngăn chặn dịch tễ. Nhiều người hiện vẫn thờ cúng giống sói và cầu khẩn ngay cả trong các đền miếu Thần đạo họ thường lui tới cúng dường. Tại một số miền trên đất Nhật, nhất là các vùng ven biển, tự thuở xa xưa, dân chúng còn thờ phụng giống rùa biển. Ngư dân ngày nay vẫn coi rùa ( Kame ) là thần biển, chuyên phù hộ họ trong những dịp ra khơi. Rùa biển nhiều con rất to. Nếu mẻ lưới nào kéo lên được một con rùa lớn, chuyến ra khơi đó tất sẽ trúng lớn. Người ta sẽ thận trọng lôi con vật ra khỏi mành lưới, rồi đặt lên cát và cho uống rượu sake. Xong, lại thả rùa xuống biển. Những vùng quen ăn thịt rùa biển, thì chỉ những “đồ tể chuyên nghiệp” mới dám làm thịt https://thuviensach.vn con mồi. Nghề làm thịt rùa là nghề gia bảo, cha truyền con nối tại một số địa phương. Nhiều nơi, người Nhật còn thờ cả rắn và tôm, cua. Nói chung, đó là những món ăn được người Nhật rất ưa thích, nhưng có những giống rắn và tôm cua thì được coi là linh vật, như rắn tanis và một vài loài sống trong sông hồ, ao chuôm. Một số học giả cho rằng truyền thống thờ tanis ở Nhật vốn vay mượn của người Trung Quốc. Tương truyền tại vùng Aizu xưa có một ngôi đền thờ Wakamiya Hachima, xây trên một ngọn đồi thấp, dưới chân đồi có hai vuông ao to. Ai câu được dưới hai vuông ao đó một con rắn tanis , thì đêm về thế nào cũng chiêm bao và nghe thấy tiếng con vật đòi thả về. Nhiều người vì ốm đau lâu, đã cố tìm mọi cách bắt bằ ng được một con rắn tanis lên, để hễ nghe con vật đòi thả về, thì xin con vật cho sức khỏe mình bình phục, rồi mới thả. Sách thuốc Nhật Bản xưa ghi rõ: rắn tanis là phương thuốc công hiệu để chữa các chứng đau mắt. Cũng có truyền thuyết cho rằng tanis chỉ là thuốc chữa đau mắt công hiệu đối với những ai không bao giờ ăn thịt giống vật này. Nhiều nơi ở Nhật vẫn còn tin giống cá thiêng okoze (tức stingfish, stonefish). Giống cá nhỏ này được truyền tụng trong nhiều truyền thuyết, coi là hóa thân của thần đồi núi. Bắt được cá okoze , người ta lập tức gói ngay vào một tờ giấy trắng, rồi khấn thầm đại để như sau: “ Okoze, hễ ngươi cho ta nhiều mẻ lưới nặng tay, ta sẽ cho ngươi được thấy lại ánh sáng”. Nhiều ngư dân còn phơi khô cá okoze rồi đem treo trước cửa, với hy vọng con vật sẽ ban cho mình nhiều may mắn, ngăn tà ma gieo họa cho gia đình. Khi gặp nạn, ngư dân thường hứa với thần biển sẽ dâng lên thần một con okoze , nếu được thần gia ân cứu mạng cho. https://thuviensach.vn Không ít người Nhật hiện vẫn tin rằng giống chuồn chuồn voi tombo sẽ đem lại cho họ may mắn và sung túc, bởi lẽ giống vật này thường được liên tưởng tới lòng gan dạ và thậm chí cả quốc túy, quốc hồn Nhật Bản. Tombo là giống vật được coi là có tinh thần thượng võ, vì thế, từ xa xưa nhiều người vẫn thích dùng các đồ vật có vẽ chạm hình tombo . Phong tục này vẫn còn được lưu truyền tới tận ngày nay: hình thêu tombo vốn nảy sinh từ thời cổ đại, khi người Nhật vẫn gọi xứ mình là “đất tombo ”. Hiện vẫn còn gặp trong văn chương từ tombo như một uyển ngữ để chỉ Nhật Bản. Từ thời cổ, cá mập ( same ) vẫn được dân Nhật coi là giống vật có sức mạnh như thần linh, tức kami . Truyền thuyết về giống cá này hiện còn lưu truyền trong nhiều sách vở. Tương truyền một con cá mập đã đớp mất của một thiếu nữ một bên đùi. Người cha bèn mang ngay lễ vật ra biển, cầu xin thần biển báo thù cho cô con gái hẩm hiu. Thoáng chốc, ông già đã nhìn thấy dưới biển một đàn cá mập đông đúc truy đuổi con cá ác độc nọ. Ông phóng thuyền đuổi theo, giết chết con ác thú, mổ bụng, và tìm lại được một bên đùi đứa con tội nghiệp của mình. Ngư dân tin rằ ng cá mập có thể cứu họ trong phong ba, thậm chí còn dìu người chết đuối, cõng vào tận bờ, để dân làng cấ p cứu cho kẻ mắc nạn. Họ cho rằng theo sau những con cá mập thần nọ là những đàn cá, mà họ ao ước. Vì thế, ai may mắn gặp được linh ngư, thế nào cũng đánh bắt được những mẻ lưới nặng tay. Thịt một số loài cá mập còn được người Nhật dùng làm thức ăn, y như giống cá khác. Trước cổng nhà người Nhật tại một số địa phương, nhất là các vùng quê hẻo lánh, hiện còn thấy gia chủ treo những mai cua khô rất to ( kani ). Đó là thứ bùa hộ mệnh, giúp họ trừ ma tà, dịch tễ. https://thuviensach.vn Tương truyền có lần cua còn bò cả lên bờ một địa phương chưa từng thấy cua sinh sống bao giờ. Ngư dân liền bắt lấy, đem phơi khô, rồi treo lên ngọn cây. Từ đấ y, dân trong vùng không còn bị ma tà tới ám nữa. Trong dân gian hiện còn truyền tụng một dã truyện, kể rằng chính các dũng sĩ của Taira, sau khi bị phái Minato đánh bại, đã cùng nắm tay nhau nhảy xuống biển và hóa thành giống vật đó. Bởi thế, tại nhiều vùng thôn dã, dân chúng còn cho rằng bụng cua trông chẳng khác mấy gương mặt người. Song song với việc thờ cúng các giống muông thú, người Nhật còn thờ phụng các đồi núi, sông ngòi, các khối đá, các cây cổ thụ v.v... Thiên nhiên tự ngàn xưa đã là nguồn sống chính của người dân quê, nên từ lâu, thiên nhiên đã được họ thờ phụng, cúng tế rất sùng kính. Mỗi khối đá, mỗi gốc cổ thụ... đều có thể gợi lên trong lòng người dân những khoái cảm đích thực. Trong các số giống cây đó, cây liễu đương nhiên đã giữ một địa vị rất mực tôn nghiêm. Người Nhật coi giống liễu rủ ( yanagi ) là linh mộc. Những cành liễu mảnh yểu điệu, đung đưa mỗi khi có gió nhẹ, bao giờ cũng gợi được trong lòng người Nhật những khoái cảm thẩm mỹ cao cả. Liễu từng được bao nhà thơ ca ngợi, từng được bao họa sĩ đưa vào tranh, và họ đã để lại nhiều kiệt tác vô giá. Những gì là kiều diễm và duyên dáng đề u được người Nhật đem ví với liễu yanagi . Nhà thơ Yosha Buson (1716-1783) có một bài thơ ba câu nổi tiếng, ca ngợi liễu, vẫn được coi là kiệt tác không tiền khoáng hậu: Yanagi chiri Shimizu kare ishi Tokorodoko... https://thuviensach.vn (Liễu rủ, Suối khô, Những khối đá trần trụi...) Bài thơ được đính kèm một chú giải ngắn. “Viết nhân dịp viễn du tại tỉnh Shimotsuke vào thượng tuần tháng chín, khi tôi đứng dưới một gốc liễu tên là Yugio, ngắm cảnh vật phơi bày trước mặt”. Cây liễu tả trong bài là cây liễu lừng danh, từng được nhiề u nhà thơ Nhật cảm tác trong nhiều sáng tác của họ. Người Nhật coi yanagi là giống cây đem lại may mắn và thành đạt. Cành liễu vẫn được dùng làm thứ đũa quí, chỉ được đem ra ăn vào dịp Tết Nguyên đán. Người Nhật thích gỗ liễu, vì lẽ một súc liễu có thể chìm nhanh xuống đáy sông, hồ. Họ còn cho rằng liễu thậm chí còn tiên đoán được nắng mưa: trước lúc mưa xuống, lá liễu bao giờ cũng vươn cao, như thể hoan hỉ đón mừng dịp mặt đất được rửa sạch mọi ố tạp. Nước Nhật hiện còn giữ nhiều hình thái tín ngưỡng dân gian khác nữa, thiên hình vạn trạng. Những hình thái đó luôn thay đổi theo thời gian, như nhiều yếu tố cốt lõi vẫn nguyên vẹn suốt từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Buổi đầu, các hình thái tín ngưỡng của Nhật vốn chịu nhiều ảnh hưởng của các tôn giáo từ lục địa du nhập vào. Chứng cớ, có thể lấy việc thờ cúng kosin để minh họa. Kosin (năm Thân) là tên gọi một chi trong lịch pháp cổ, thịnh hành ở Nhật cho tới 1873. Việc thờ cúng giống khỉ vốn liên quan với Lão giáo, được du nhập từ Trung Hoa sang từ trước công lịch. Theo các đạo sĩ thì vào đêm giao thừa trước thềm năm Thân, linh hồn bí ẩn sống trong thể phách ta chỉ chờ ta đi ngủ là rời ngay thể phách để https://thuviensach.vn bay lên thiên giới, tâu lại hế t với Ngọc Hoàng những tội lỗi ta đã phạm. Căn cứ vào những lời tâu lại đó, Ngọc Hoàng có thể rút tên ta ra khỏi sổ sinh tử, vì vậy, họ khuyên ta không được ngủ vào đêm giao thừa. Tục lệ đó từng lan rộng khắp đất Nhật. Dần dà, nhuốm thêm cả màu sắc của Thần đạo và đạo Phật du nhập sau này. Năm tháng đã loại bỏ dần màu sắc tôn giáo, nhưng tục lệ trên vẫn được bảo tồn tại Nhật, cho tới tận ngày nay, khiến nhiều người vẫn thức suốt đêm giao thừa trước thềm năm Thân. Để khỏi bị ngủ thiếp đi, người Nhật thường quây quần lại bên nhau uống rượu và tiệc tùng tới tận sáng bạch. Tại nhiều địa phương ở nông thôn, người ta còn dựng lên những ngọn chòi cao mỗi lần đón năm Thân tới. Ngay cả những người không tin vào ma thuật của thần Khỉ cũng coi những ngọn chòi đó như một thứ bùa hộ mệnh, ngăn mọi tai họa hiểm nghèo. Tại các miếu mạo, người dân Nhật cũng thờ cúng cả những vị thần vẫn được thờ cúng tại các chùa chiền. Chẳng hạn, tại Nhật, đền miếu nào cũng đều thờ một vị thần của đạo Phật là Jijo. Thần được gọi là người đỡ đầu cho con trẻ và những kẻ đi xa, trừ bệnh tật, bảo thọ và hộ mệnh... Trước sân một ngôi chùa lớn tại Tokyo hiện có dựng một pho tượng thần Jijo lớn, quanh người quấn những sợi dây bện bằng rơm. Pho tượng đó mang tên Shibarare Jijo - “thần Jijo quấn rơm”. Những ai bị mất của, nếu đến quấn thêm dây quanh người thần và hứa sẽ tháo ra, kẻ đó thế nào cũng được thần phù hộ, giúp cho tìm lại báu vật bị mất. Giới nghiên cứu hiện chia các tín ngưỡng dân gian Nhật Bản thành mấy loại dưới đây: linh vật phù hộ việc canh tác và đánh bắt, linh vật chữa bệnh, linh vật đỡ đầu (che chở ta khỏi dịch tễ và các tai họa khác), linh vật che chở tổ ấm gia đình (tránh cho khỏi bị tai họa và https://thuviensach.vn