🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Người Đánh Cắp Sự Thật Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Người đánh cắp sự thật Nguyễn Thanh Hiện Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di động Nguồn: http://vnthuquan.net Phát hành: Nguyễn Kim Vỹ. https://thuviensach.vn Mục lục VÀO TRUYỆN ÔNG CHÁU NHỮNG NGƯỜI CON ĐI VỀ PHƯƠNG NAM MỘT CUỘC CÁCH MẠNG LỬA NGUYÊN SƠ DẤU HIỆU CỦA THIÊN TÀI NHẬP VÔ CUỘC PHIÊU LƯU CỦA HOMO SAPIENS KHẢO CỨU ĐỊA LÝ HỌC LỊCH SỬ HỌC THUYẾT CỦA NGƯỜI SẮP CHẾT KIẾM KHÁCH VŨ KHÚC MÁU TỪ TIẾNG CỦA ĐẤT ĐÁ NƯỚC… VÀ LỬA NHỊP ĐIỆU VUI ÂM VANG CỦA CÁCH MẠNG THI CA SẢN PHẨM LỊCH SỬ CUỘC HỘI NGỘ Ở SÔNG LAM ÔNG SÁU MƯƠI LĂM TỔ QUỐC TRỜI SINH VOI SINH CỎ TINH HOA CỦA MỘT DÒNG HỌ DỊCH ÁI TÌNH SỰ BẤT TỬ MỘT VỊ VUA CHƯA CÓ THẦN DÂN NGƯỜI HÁI LƯỢM THIÊN CƠ NHỮNG CON BÒ ĐẤT SÉT MẶC KHẢI https://thuviensach.vn LỜI ĐÙA CỢT NGUYÊN THỦY DI SẢN BỐ CỤC TRẦN GIAN GHI CHÚ CỦA CU CỎ https://thuviensach.vn Nguyễn Thanh Hiện Người đánh cắp sự thật VÀO TRUYỆN Ông Ruông thôi dạy học, nằm nhà đọc sách hơn phần ba thế kỷ. Nói nằm nhà đọc sách hơn phần ba thế kỷ không có nghĩa rời bục giảng, về nhà, ngày ngày ông chỉ làm mỗi công việc là lên giừơng nằm đọc sách. Vì để có thể tồn tại, khi đã thôi dạy học để kiếm cơm, ông cũng phải tuân thủ đúng theo cách tồn tại của mọi người ở làng quê ông. Tức phải đi cày ruộng. Tức cũng tuân thủ đúng theo cách tồn tại của mấy chục đời tổ phụ nhà ông. Ngoài ra, ông còn phải gánh vác nhiệm vụ hậu duệ của một dòng họ dưới mắt người đời chẳng đáng giá mấy, có nghĩa nếu không có dòng họ ấy cuộc đời này cũng chẳng sao. Nhưng dù gì dòng họ ông cũng đã lỡ có mặt ở trần gian, mà đến đời ông dòng họ ông chỉ còn lại mỗi ông, nên ông chẳng nỡ để nó chấm hết: Ông phải có vợ, sinh con nối dõi. Chuyện cày ruộng là chuyện cơm áo, chuyện lớn, chiếm nhiều thì giờ đã đành. Mới đầu ông cho việc cưới vợ sinh con chỉ là việc giản đơn. Không ngờ nó cũng ngốn nhiều thời gian và công sức của ông. Có điều, ông luôn giữ được một nề nếp chắc ít ai giữ được, là lúc đi cày hay lúc ăn nằm với vợ, đầu óc ông vẫn không quên nghĩ đến sách. Quả tình ông cũng có thề trong lòng là chỉ đẻ một đứa, cho khỏi tốn quá nhiều công sức nuôi con, để còn thời giờ đọc sách. Nhưng có lẽ chủ yếu do cơ chế sinh đẻ, vợ ông chỉ đẻ được một lần, với lại vợ ông từ giã ông qua thế giới bên kia cũng hơi sớm. Cũng xin nói thêm, ở làng Dầu của ông, làm sao để làm ăn cho giàu có là cũng khó như việc con trâu chui lỗ trôn kim, nhưng khả năng sinh đẻ có lẽ ít nơi nào sánh kịp. Hầu hết ở trong làng, một đôi vợ chồng cho đến khi không còn đẻ nổi nữa, ít nhất cũng đã đẻ được năm bảy đứa. Ở làng Dầu, khi ông còn dạy học, người ta gọi ông là ông giáo Ruông. Còn khi hết dạy học, ở nhà vừa cày ruộng vừa đọc sách, thì người ta gọi là ông Ruông sách. Nhưng đấy là cách gọi trước mặt ông. Còn khi cảm thấy buồn cười cho một kẻ suốt ngày treo mình trên võng hay nằm vắt chân chữ https://thuviensach.vn ngũ trên giừơng để đọc sách, người ta lại gọi ông là mọt sách. Có lẽ đấy là chỗ người làng chưa chịu hiểu ông. Ông song được là nhờ chén cơm do chính tay ông làm ra, sau đó là do con trai ông làm ra. Ông ăn cơm, chứ không phải ăn sách để sống. Nhưng phải nói một câu, phải nhờ những người như ông, sách mới sống nổi. Cũng có thể nói, sau khi đã có đứa con trai nối dõi, công việc ăn nằm với vợ chỉ còn là việc phụ, là ông đã chuyển sang thời kỳ thực sự ăn nằm với sách. Được chu du thiên hạ bằng sách. Đây là niềm vui ông đã nhận ra lúc ăn nằm với sách. Cứ ở yên một chỗ mà gặp được các vị vua chúa, trông thấy được bao đền đài lăng tẩm của bao đế chế từng tồn tại trong lịch sử loài người. Chỉ ở một chỗ mà nghe được các bậc đại gia trên thế giới cãi vả nhau, vạn hữu biến đổi hay không biến đổi, vật chất với tinh thần là cái nào sinh ra cái nào. Chẳng phải môn đồ của Phật mà ông cũng bày đặt đi hỏi Phật, như người ta nói ông là mọt sách như thế, liệu khi gắng sức tu dưỡng thì ông có vào được niết bàn không, một con mọt sách mà lọt vô niết bàn thì có gì trái khuấy không? Ông đã rất đắn đo trước khi đi hỏi đức Khổng Tử. Nếu là chuyện cao siêu như con người ta có linh hồn không, nếu có, thì sau khi ta chết cái vật thể ấy có đeo đẳng theo mớ xương tàn của ta không, nếu là chuyện đại loại thế, ông đã tìm đến ông Plato hay ông Aristốt của nước Hy Lạp cổ đại, chẳng hạn. Nhưng đây là chuyện đời thường, một trăm phần trăm là chuyện đời thường. Ông biết đức Khổng tử chỉ thích luận bàn những chuyện như khi vào chốn công đường ta có nên nín hơi làm như không thở được hay không, hay ông vua nào nên phò tá, ông vua nào nên tránh xa, lúc nào thì xuất chính, lúc nào thì lui về quê tắm sông, gảy đàn sắt. Cái chính phủ trả lương dạy học cho ông bị đổ. Người đứng đầu chính phủ là ông Diệm thì bị giết. Đã ngồi vào chỗ cao nhất thiên hạ trong nước mà chẳng chắc ăn chút nào, huống hồ là cái ghế ngồi dạy học của ông. Thôi, cứ lui về, cầm lại cây cày tổ phụ để lại, là chắc ăn hơn hết. Ông muốn gặp đức Không tử là để hỏi thử cách xử sự của ông như thế là tiểu nhân hay quân tử. Những chuyện đại loại thế xảy ra khi đọc sách là quá nhiều. Còn đây là chuyện khi nhớ lại ông cứ thấy man mác buồn. Vào một chiều, ông nằm ở võng mắc chỗ nhà cầu, để nghĩ ngợi, chứ không phải đọc sách. Ở https://thuviensach.vn bên ngoài đang xảy ra đủ thứ chuyện. Trời sắp tối mà vợ chồng anh Rác, con trai và con dâu ông, vẫn còn ngoài ruộng. Cặp heo trong chuồng đòi ăn, la hét như ai đương thọc cổ chúng. Đám gà con, con mấy mái gà đẻ, cũng xúm nhau kêu như ong. Cặp bò cày chiều ấy là do thằng cu Cỏ, cháu nội ông, lừa đi ăn ở gò Tháp, thằng Cỏ biến đi đâu chẳng biết, để cặp bò kéo về húc cổng rào rầm rầm. Thường, trong trường hợp này, ông Ruông đi nhốt bò và cho heo gà ăn. Nhưng chiều ấy là do ông mắc đeo đuổi thứ ý nghĩ thật ra chỉ có các vị triết gia hay những nhà khoa học mới dám nghĩ đến. Là tại sao loài người hiện tại cũng chỉ có hai con mắt như nhiều loài thú khác, lại làm chủ được các loài thú? Cớ sao to lớn như con voi, cũng là loài có vú và có hai con mắt như con người, lại không làm được chuyện của con người? Cứ cho là công cuộc lao động làm phát triển bộ não ở loài người. Nhưng loài voi không lao động ư? Cũng lao động tìm kiếm thức ăn, lao động chống chõi với thiên nhiên và các loài thú khác để tồn tại… Nghĩ một hồi ông thấy mệt óc, nhắm cả hai mắt, thôi, không thèm nghĩ nữa. Chợt thấy có ông già râu cũng bạc trắng như râu cha ông hồi ấy. Ông già cầm đầu võng, giục dặc. Cứ tưởng ông Rường sang. Thường, cứ mặt trời sắp lặn, ông bạn hàng xóm ấy lại sang rủ ông ra ngồi ở đồng làng, nhìn rán chiều để đoán thời tiết. Mở mắt nhìn chẳng thấy ai, ông Ruông lại nhắm mắt để thư giãn đầu óc. Nhưng ông già râu bạc lại hiện ra nữa. Đích thị là cha ông. Ông Ruông cứ lim dim mắt nhìn, không dám mở to, vì sợ mất đi hình ảnh người cha yêu quí của mình. Đây là lần đầu, kề từ ngày cha ông mất, ông nhìn thấy lại cha mình. Ông cụ nhìn ông, rồi quay lại, ôm chầm lấy ông nội ông , khóc. Ông nội ông cũng khóc. Rồi quay lại, ôm chầm lấy ông cố của ông. Ông cố ông cũng khóc. Rồi quay lại ôm chầm lấy người đàn ông to lớn ông gọi là ông cao. Ông Ruông thấy các vị tổ phụ của mình khóc nức nở. Chỉ thấy khóc , chứ chẳng nghe tiếng khóc. Ông cứ tiếp tục lim dim mắt để giữ hình ảnh các vị tổ phụ của ông. Đến lúc cố nhìn thử, ông mới nhận ra các vị ấy chẳng người nào còn da thịt. Bốn bộ xương người cứ xoắn lấy nhau, vừa đung đưa, vừa khóc. Một chặp thì biến mất hết. Hình như là biến thành ngọn gió. Vì ông chợt cảm thấy hơi se lạnh. Sát bên ngoài cửa sổ nhà cầu là cây mít https://thuviensach.vn lâu niên do cha ông trồng tự hồi ông cụ còn trai trẻ. Đám lá mít úa rụng, chạm vào nhau lào xào tựa như đang có mưa. Ông Ruông biết đây chẳng phải là mơ (thứ giấc mơ các vị tiểu thuyết gia hay đem vô tiểu thuyết của mình ) Là hoạt động của trí não. Ông luận ra thế. Trí não ông vừa làm một cuộc đi quá xa, trải qua đời cha mình, đời ông nội và ông cố mình, đến tận đời vị tổ phụ thứ tư của mình, tính ra là hơn một trăm năm (bốn thế hệ cha ông ít nhất cũng dài hơn trăm năm ) Trí não cứ theo đà này có ngày tê liệt mất. Mà chết vì tê liệt trí não là chết bất đắc kỳ tử. Luận đến đây ông thấy giật mình. https://thuviensach.vn Nguyễn Thanh Hiện Người đánh cắp sự thật ÔNG CHÁU Đời người rốt cuộc chỉ còn là cơn gió thoảng? Ông Ruông dấu kỹ ý nghĩ chẳng vui trong lúc đi lấy cỏ mồng gà với thằng cu Cỏ. Đến tuổi ông là hay nghĩ ngợi như thế. Không phải sợ chết mà nghĩ tới việc sau khi chết thì hoá thành thứ gì. Sách cũng đã nói nhiều về cái chết. Ông Êpicur của Hy Lạp cổ đại, chẳng hạn, bảo cái chết chẳng làm gì được ta khi ta sống. Nhưng không phải sách, mà là thằng cu Cỏ, cháu nội ông, đã cải tạo cái tuổi già hay nghĩ ngợi của ông. Ngoài việc kể chuyện cho cháu nghe, ông còn cùng thằng Cỏ chơi những trò chơi của đám trẻ nít làng Dầu. Ông cũng không ngờ đến tuổi già lại thấy thích những trò chơi ấy. Chơi với thằng Cỏ là chơi theo mùa. Xuân, đánh trổng đem u. Thu, đá kiện, nhảy chuôn. Đông, mưa dầm, thì ngồi trong nhà đổ bồ. Còn hôm ông dấu kỹ trong lòng ý nghĩ chẳng vui để đi lấy cỏ mồng gà với thằng cu Cỏ thì những cơn mưa đầu mùa đông đã đổ xuống từ lâu. Cỏ mồng gà đang trổ bông đầy các bờ ruộng đồng làng. Cỏ mồng gà trổ bông là đám trẻ làng Dầu bước vào mùa chọi cỏ. Ông Ruông luận về các trò chơi của lũ trẻ làng ông : Đá kiện, nhảy chuôn là cách thử thách của con người trước sự tàn phá của thời gian. Đổ bồ, còn gọi là trỉa bồ, là phản ánh quá trình phân hóa giàu nghèo trong xã hội loài người. Đánh trổng đem u coi như thể nghiệm một tư tưởng về sự biến hoá giữa ngựa và người ( trong trò chơi này, thắng làm người còn thua làm ngựa ) Còn chọi cỏ là chiến tranh theo nghĩa có đánh nhau và có chết ( trong Hồ Sơ Các Bậc Tổ Phụ, khi chép về thời ấu thơ của mình, ông Ruông bàn khá kỹ về các trò chơi của lũ trẻ ở quê ông ) Lúc ông và thằng cu Cỏ lên gò Tháp để bắt đầu cuộc chiến thì mặt trời lên độ cây sào. Theo thuật ngữ của chọi gà cỏ thì sáng ấy ông cháu ông đã gom được đám quân chân xanh, tức đám cỏ vừa mới trổ bông. Bao giờ cũng phải đi lấy cỏ vào sáng sớm như thế để cho cỏ có độ dẻo dai. Nên cuộc https://thuviensach.vn chiến bao giờ cũng xảy ra vào buổi sáng sớm. -Vào trận đi cháu. Xong trận này, ta gầy mấy trận nữa, vì ngày mai trời mưa, ông cháu ta sẽ không ra đồng được. Ông Ruông nói, cứ thấy háo hức như mọi lần sắp vào trận đánh nhau với thằng cháu nội. Thằng Cu Cỏ lấy ra con gà cỏ lớn nhất, nhưng chưa chịu vào cuộc -Ai nói với ông mai trời mưa ? -Mặt trời mới mọc mà đỏ như chảy máu thế là sắp có mưa Ông Ruông nói theo kinh nghiệm đoán thời tiết của người làng Dầu. Nhưng thằng cu Cỏ thì bị cuốn ngay vào chỗ kiến thức coi như hoàn toàn mới lạ với nó. -Ông nói mặt trời chảy máu ? Thằng cu Cỏ ném hết cỏ mồng gà xuống gò Tháp, coi như đơn phương hủy bỏ cuộc chiến, để xông vào tra gạn ông Ruông vì sao mặt trời chảy máu. Nếu bắt đầu bằng việc giảng cho thằng cu Cỏ hiểu mặt trời vốn sinh ra từ một đám tinh vân, ông chẳng thể dẫn tới cái kết cuộc chảy máu -Chúa phán rằng trái đất đứng im. Nhưng có một ông thầy tu lại dám trái lời Chúa, bảo trái đất không đứng im, mà cùng với trăng sao quay chung quanh mặt trời. Ông Ruông quyết định phải bắt đầu câu chuyện kể bằng cuộc đối đầu đầu tiên có vẻ quyết liệt giữa khoa học và tôn giáo ở phương Tây. Nhưng bắt đầu kiểu ấy lại khiến cho thằng Cỏ xoay sang chất vấn ông về lĩnh vực tôn giáo -Ông bảo Chúa phán, mà Chúa là ai, Chúa phán là sao? -Phải. Chúa nói trái đất đứng im, còn mặt trời thì quay chung quanh trái đất. Theo sách vở của người theo đạo Chúa thì Chúa là kẻ làm ra mặt trời, làm ra ông cháu ta, làm ra trái đất nơi ông cháu ta đang chọi gà cỏ . Chúa https://thuviensach.vn lớn vậy, nên lời Chúa nói ra gọi là phán -Cháu hiểu ra rồi. Bữa hôm nay mặt trời chảy máu là cũng do Chúa phán. Ông Ruông bảo không phải thế. Tất cả là tại tòa án của Chúa. Ông lại phải giảng cho thằng Cu Cỏ nghe toà án của Chúa là do những người trên trần gian lập ra để kết tội những kẻ làm trái ý Chúa. Ông thầy tu người Ba Lan có tên Copernic ấy sợ bị kết tội, không dám công bố phát minh của mình. Nhưng gần một trăm năm sau, có một ông khác tên là Galilé đã công bố cho nhân loại biết chuyện quả đất tự xoay tròn một vòng trong một ngày, và đi giáp một vòng quanh mặt trời trong một năm. Toà án của Chúa liền đem ông Galilé ra xử. Sợ bị chém, ông phải rút lại tuyên bố kia trước mặt các quan tòa. Nhưng vừa ra khỏi tòa ông đã nói với mọi người dù gì thì quả đất vẫn quay -Thế là mấy ông quan tòa tức mình đem ông ta ra chém ? Thằng Cu Cỏ có vẻ sốt ruột. Ông Ruông nói không phải Thằng Cu Cỏ tỏ ra nghi ngờ : : -Hay là ông dấu cháu ? -Ông chẳng dấu cháu điều chi. Ông Galilé không hề bị chém. Nhưng mặt trời thì cứ thấy buồn cười. Vì rõ ràng là nó không quay quanh trát đất, mà người ta cứ bảo là nó đang làm chuyện ấy. Mỗi lần nghĩ chuyện ấy, nó lại cười đến chảy nước mắt -Cười mà chảy nước mắt sao ? -Phải. Nước mắt của mặt trời là máu. Như sáng nay đây, ông cháu ta đang nhìn thấy máu của mặt trời -Mà sao ông biết chuyện ấy? Thằng Cỏ có vẻ sợ hãi trước những hiểu biết của ông mình. Còn ông Ruông thì rất vui, vì câu chuyện kể của ông coi như đã thuyết phục được cháu, ông bảo : -Là do mặt trời đã nói cho ông biết. -Mặt trời nói với ông ? Mà nói hồi nào ? -Là vào lúc ông nghĩ về nó Vì không đủ lời lẽ để diễn sự khâm phục trước người ông có vẻ khác https://thuviensach.vn thường của mình, thằng Cỏ cứ nhảy lên la khan : -Ông của cháu lạ lắm… https://thuviensach.vn Nguyễn Thanh Hiện Người đánh cắp sự thật NHỮNG NGƯỜI CON ĐI VỀ PHƯƠNG NAM Không phải đến hôm đi chọi gà cỏ, thằng Cu Cỏ mới gợi cho ông Ruông ý tưởng ấy. Mà đã bao nhiêu năm qua ý tưởng ấy tựa ngọn gió xuân làm cho lòng ông luôn cảm thấy rất vui. Là làm sao cho cuộc đời ông và cuộc đời các bậc tổ phụ ông đều trở nên khác thường đối với đám con cháu nhà họ Lê. Muốn vĩ đại với con cháu chơi, thế thôi. Để chuẩn bị cho sự ra đời của dòng họ Lê của mình, ông Ruông đã phải lùi lại tận thuở con người đầu tiên đặt chân lên miền sông Tượng núi Tượng, nơi chôn nhau cắt rốn của ông. Hóa ra là ông đã làm theo cách của Lý Tế Xuyên, quan Thủ Đại Tạng Kinh Thư Hỏa Chính Chưởng đời Trần hay đời Lýgì đó. Nhờ làm công việc giữ sách giữ lửa ở nơi để đại tạng kinh Phật, Lý Tế Xuyên đã soạn được Việt Điện U Linh, sách chép về các bậc tiền bối thời Việt Nam cổ sơ. Thì ông Ruông cũng nhờ đọc sách mà thấy được các vị tổ phụ của mình. Nhưng phải nói trước hết là nhờ cái rổ trầu của bà nội ông. Những ngày cuối đời, bà nội ông luôn dặn con cháu khi bà chết phải chôn cái rổ ấy theo bà. Hình ảnh cái rổ trầu của bà nội ông đã giúp trí não ông lùi đến tận thời Hùng Vương, vì tục ăn trầu có từ thuở mới lập nước. Rồi từ tục ăn trầu thời Hùng Vương lập nước, ông lại lùi tới tận hôm Lạc Long Quân và Âu Cơ chia con trong sách Lĩnh Nam Chích Quái. Đấy là vào một đêm mùa hạ có gió nam thổi rộ. Đọc xong truyện Họ Hồng Bàng trong Lĩnh Nam Chích Quái, ông Ruông lên võng nằm. Có tiếng biển gào? Không phải. Làng Dầu cách biển Đông những ba mươi cây số làm sao nghe được tiếng biển. Ông Ruông biết đấy là tiếng gió. Nhưng nhắm mắt lắng nghe, thì cứ y như có tiếng biển gào. Hãy dừng lại đi… Là anh Rác, con trai ông, mê ngủ, la hét lũ bò cày? Không phải. Rõ ràng là ông nghe có tiếng ai vừa thét lên giữa tiếng biển gào. Một người con trai đã bước ra khỏi biển, cứ theo hướng sông Tượng núi Tượng mà đi, dáng đi tựa dáng một con rồng. -Cha ta không cho ta đi. Nhưng ta thì ta không thích ở chốn thủy giới https://thuviensach.vn Lúc đến chân núi Tượng, người con trai ấy dừng lại, nói, giọng như tiếng sấm. Thấy dáng đi và nghe giọng nói, ông Ruông biết đấy là một trong năm mươi con trai từng được Lạc Long Quân đưa về thủy giới. Nàng là giống Tiên còn ta là giống Rồng, chẳng thể sống cùng một nơi. Lời Lạc Long Quân nói với Au Cơ trong sách Lĩnh Nam Chích Quái đã làm nảy sinh trong đầu ông những ý tưởng đầy tính sử thi. Thôi thì cha Rồng mẹ Tiên mỗi người một nơi cũng được đi. Nhưng một nửa số con của họ đã lên được đất Phong Châu, lập được nước Văn Lang, làm nên nền văn minh Đông Sơn ở phương Bắc, thì cớ chi nửa còn lại phải theo cha về thuỷ giới? Cho nên ông mới dám nghĩ có một người con trong số con theo Lạc Long Quân đã đến miền núi Tượng sông Tượng để trở thành thủy tổ cư dân nơi đây. Nếu được nói nữa thì ông sẽ nói rằng, sau đó thì bốn mươi chín người còn lại đều ra khỏi biển, đi về đất phương nam. Sau đó nữa thì sao, thì ông bảo là để cho các nhà viết sử nghĩ tiếp. Miền sông Tượng núi Tượng trước năm 111 trước công nguyên là thuộc bộ lạc nào hay quốc gia nào, ông Ruông chẳng thể tra cứu. Nhưng kể từ năm 111 trước công nguyên thì quê ông nằm trong nước Au Lạc, và bị lệ thuộc nhà Hán bên Trung Hoa. Sau đó, đến cuối thế kỷ thứ hai sau công nguyên thì nằm trong nước Chăm Pa. Còn sau đó nữa, đến thế kỷ thứ mưởi lăm, lại thuộc nước Đại Việt tức hậu thân của Au Lạc. Tình trạng lịch sử và địa lý như thế khiến người ta phải nghĩ đến sự lai tạp nhân chủng ở đây. Sự thực, ông Ruông chẳng sợ trong ông có lai máu Hán, hay máu Chăm Pa, vì máu nào cũng là máu người. Có điều, chỉ lo con cháu ông sau này có thể lại có chuyện cãi vã lôi thôi với ai đó về chuyện nguồn gốc dòng giống, nên ông đã để cho một trong những người con của Lạc Long Quân và Au Cơ thẳng đến đây, làm thủy tổ của dòng họ mình. Theo sử sách thì thời Au Cơ và Lạc Long Quân chia con cách thời ông Ruông khoảng hai nghìn rưởi năm. Và theo ông Ruông, vị thủy tổ này mãi hai trăm năm sau ngày đặt chân đến sông Tượng núi Tượng mới sinh con ( vì sao có chuyện trục trặc này, xin sẽ nói sau ). Ông Ruông lại tính đổ đồng các bậc tổ phụ của ông người nào cũng sinh con vào tuổi ba mươi. Như thế, tính từ đời ông ngược đến đời vị thủy tổ là được bảy mươi sáu đời. https://thuviensach.vn Người ta thấy nơi trang đầu Hồ Sơ Các Bậc Tổ Phụ : Người lập hồ sơ : Lê Ruông Trang tiếp theo ( coi như liệt kê tên các vị tổ phụ ) : Thủy tổ họ Lê, tức vị tổ phụ thứ bảy mươi sáu, tức ông Bảy Mươi Sáu, sống vào khoảng thề kỷ thứ V trước công nguyên. Ông Bảy Mươi Sáu sinh ra ông Bảy Mươi Lăm, ông Bảy Mươi Lăm sinh ông Bảy Mươi Bốn, … ông Năm sinh ông Bốn, ông Bốn sinh ông Ba, ông Ba sinh ông Hai, ông Hai sinh ông Một, tức Lê Ruông https://thuviensach.vn Nguyễn Thanh Hiện Người đánh cắp sự thật MỘT CUỘC CÁCH MẠNG Hồ Sơ Các Bậc Tổ Phụ nhất định không phải là gia phả. Ông Ruông không chủ trương chép gia phả. Vì ông đã có một gia phả truyền miệng mỗi lần cha ông răn dạy ông cách làm người lại đem ra nói : Dòng họ nhà ta đời nào cũng chí thú việc cày cuốc Tất nhiên là cha ông phải truyền đạt lại đúng như lời ông nội ông đã truyền đạt cho ông. Theo ông Ruông, bản gia phả là được chép trên nền tảng của cuộc Cách Mạng Đá Mới của loài người, cuộc cách mạng chuyển săn bắn hái lượm sang chăn nuôi trồng trọt. Song, ông không dừng lại ở nghĩa hẹp của các từ. Đời nào cũng chí thú việc cày cuốc không có nghĩa hết thảy các tổ phụ ông đều cầm cày. Ông chỉ giả sử thôi, là có một vị tổ phụ của ông đã làm vua, một ông vua chỉ chăm lo mỗi việc phát triển nông nghiệp trong nước, một ông vua trọng nông, thì đó chẳng phải chí thú việc cày cuốc sao? Nói tóm, nền tảng của gia phả là rất lớn, nhưng lại chưa nói được cái lớn của từng bậc tổ phụ. Ví như ông chỉ đơn cử mỗi việc đặt tên con xảy ra vào đời cha ông ( đời ông Hai ) cũng đủ khiến người ta giật mình. Con trâu là đầu cơ nghiệp. Nông tang là thế. Nhưng ở làng Dầu không cày trâu, mà cày bò. Cha ông sinh con đầu lòng là con trai. Liền đặt tên là Bò, Lê Bò. Tiếp đến là sinh ông, đặt tên là Ruộng, Lê Ruộng (vì sao lại có tên Ruông là cả câu chuyện dài, sẽ nói sau) Tiếp sau đó sinh con gái, đặt tên là Lê Thị Nước. Cuộc sống nhà ông bấy giờ rất thiếu thốn. Mẹ ông bị bệnh sản hậu chết lúc em gái ông mới ba tháng tuổi, nên mấy tháng sau em gái ông cũng chết. Còn anh trai ông cũng chết hồi lên chín vì sốt phát ban, sau cái chết của em gái ông chừng vài năm. Nhưng vấn đề không phải chỗ con cái trong nhà còn được bao nhiêu đứa. Không chết yểu, đến tuổi già cũng chết thôi. Bò, ruộng, nước là những yếu tố cơ bản của văn minh lúa nước, văn minh Lạc Việt. Nói đến bò đến ruộng là nói đến bản sắc của nòi giống. Một người không biết chữ, tức không hề đọc sách, tức không hề biết đến khái niệm bản sắc nòi giống, vậy mà khi đặt tên cho con lại giữ được bản sắc nòi giống. Thế ai dám nói cha ông không phải https://thuviensach.vn là kẻ khác thường? Sự việc này đã để lại ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với ông Ruông. Nên khi sinh con đầu lòng ông đã phải đắn đo suy nghĩ rất nhiều trước khi đặt tên cho con. Thường sinh con giáp tháng, khi cúng đầy tháng , người ta đặt tên con. Đằng này, con sắp thôi nôi, ông Ruông vẫn chưa chọn được tên cho con. Bà Ruông hối thúc. Ông bảo tên gọi của con người là thứ trọng đại, chết xuống mồ đã tám mươi đời người ta vẫn còn nhắc, nên không phải nghĩ là có ngay. Bấy giờ ông đang lao vào sự nghiệp thi ca. Vừa cày ruộng, vừa đọc sách, và sọan thơ. Nếu như ta có sự nghiệp thi ca là cũng chỉ để giúp con cháu ta bình tĩnh hơn khi đối mặt với lịch sử loài người. Ông Ruông ghi trong Hồ Sơ Các Bậc Tổ Phụ. Đấy là lý do khiến ông lao vào việc trước tác. Có thể nói mưu toan trở thành vĩ đại đối với con cháu đã manh nha từ lúc ấy. Dường bấy giờ ông dành hết tâm trí cho việc soạn thơ. Là thứ vật thể vô hình khi được ngôn ngữ thay chỗ cho thì có thể trở thành tiếng nói của thần thánh . Cứ xem quan điểm thi ca này của ông cũng đủ biết ông từng muốn trở thành một thi gia lừng lẫy. Bài ông cho là lớn nhất trong sự nghiệp trứơc tác của mình là nói về cỏ rác. Xin lược qua việc hình thành thi phẩm. Sau cơn bão lớn mùa đông năm ấy, giống cỏ buồn ngủ (tức cỏ mắc cỡ) bỗng xuất hiện ở vùng làng Dầu. Giống cỏ có gốc gác ở núi rừng Trường Sơn rựng đầy mặt đất vườn nhà ông Ruông. Phải mất nửa tháng trời ông mới dẫy hết đám cỏ này. Nhưng sau một cơn mưa nhỏ sau đó, đám buồn ngủ lại mọc lại. Diệt cỏ phải diệt tận gốc. Tuân theo qui luật này, ông chờ cỏ lên cao để nhổ, chứ không dẫy bằng cuốc như trước. Xong, đem phơi khô, rồi đốt. Sau một cơn mưa sau đó, ông Ruông phát hiện thấy đám cỏ mắc cỡ lại mọc lên chính nơi đã đốt chúng thành tro than. Đến lúc ấy thì thi ca xuất hiện : Chẳng ai nhìn thấy Người Nhưng Người có mặt ở khắp nơi Người là cơn gió mạnh mẽ đi ngang qua bầu trời Nhưng cũng e thẹn rụt rè Khi Người từ tro tàn hiện ra trong dáng vẻ của một loài cỏ cây Mang âm hưởng trần gian Có lẽ Người đã có mặt khắp nơi https://thuviensach.vn Bỡi Người là cỏ rác Và chính trong giây phút thi ca này ông nhìn thấy tên đứa con trai đầu lòng của mình : Lê Rác. Bên dưới bài thơ có lời chú : Đây là cuộc cách mạng trong thi ca. Hai lần cách mạng. Một là giải thoát cỏ rác khỏi thân phận thấp hèn. Hai là trao cho cỏ rác một thế đứng mới trong trời đất: Cỏ rác được làm tên gọi con người. Mỗi lần cho con bú, bà Ruông thầm gọi tên con. Chỉ thầm gọi, chứ không dám gọi ra thành tiếng. Từ lúc bước chân về làm vợ ông Ruông, bà đã nghĩ đến chuyện khó nuôi con. Hình ảnh những người anh em ông Ruông đã chết yểu ám ảnh bà suốt thời kỳ mang thai. Theo bà Ruông, việc khó nuôi con đã thành huôn ở nhà này. Có nghĩa, trước đã xảy ra thế thì sau cũng sẽ xảy ra thế. Đâu phải mỗi bà Ruông, mà hầu hết những phụ nữ ở làng Dầu, cùng lớp bà Ruông, khi có chồng con, đều sợ cái huôn khó nuôi con. Để giải thứ tiền lệ có vẻ tiền định này, người ta chẳng màng đến việc sử dụng những thành tựu khoa học. Mà chỉ áp dụng những phương thức mang tính chất tôn giáo dân dã. Như kiêng việc khen ngợi hoặc chửi bới con, kiêng gọi tên con, hay lấy tên những vật dơ bẩn hoặc tên loài súc vật để đặt tên cho con. Nói chung, trong chuyện này thì khoa học chẳng có đất đứng. -Đợi con mình đủ mười tám tuổi mới gọi tên, cũng chẳng muộn. Bà Ruông nói với ông Ruông. Dẫu rất ưng ý khi lấy cỏ rác để làm tên con, bà vẫn phải cẩn trọng như thế. Trong Hồ Sơ Các Bậc Tổ Phụ, ông Ruông chép về bà Ruông như vầy : Khi nghe ta bảo đặt tên con là Rác, bà ấy hài lòng lắm. Trong cuộc cách mạng thi ca của ta, dẫn đến việc đặt tên cho con ta, cỏ rác đã được nâng lên tầm cao quí. Nhưng với cách nhìn về thế giới của bà ấy, cỏ rác là thứ bỏ đi. Lấy tên gọi của thứ bỏ đi làm tên con là để chống lại cái huôn khó nuôi con. Hết thảy những người như bà ấy đều có quan niệm cố cựu như thế. Điều lý thú ở đây là cách mạng lại phù hợp với cố cựu. https://thuviensach.vn Nguyễn Thanh Hiện Người đánh cắp sự thật LỬA NGUYÊN SƠ Ông Ruông cho rằng việc ông cưới bà Ruông làm vợ là một cuộc nhận ra nhau (khác với bao nhiêu cuộc tưởng là nhận ra nhau ) Ta sẽ có một luận văn về tình yêu. Trong Hồ Sơ Các Bậc Tổ Phụ có câu ấy thật. Nhưng không thấy có luận văn nào về tình yêu. Chỉ thấy ông hay nhắc đi nhắc lại về cuộc gặp gỡ giữa ông và vợ ông với giọng điệu vừa như triết nhân vừa như một nhà khoa học hiện đại. Theo cách nhìn của ông Ruông, cuộc gặp gỡ ấy có thể thuật lại như sau : Vào một ngày thuộc hậu bán thế kỷ thứ hai mươi, lúc sao mai còn sáng rực ở chân trời phía tây, có nghĩa còn lâu mới sáng, thì ông Ruông nghe tiếng cha ông gọi: -Dậy rút rơm cho bò ăn đi Ruông Ra ngoài xã hội, ông là Lê Ruông. Nhưng ở trong nhà cha ông vẫn gọi ông là thằng Ruộng. Sở dĩ cha ông gọi ông bỏ rơm cho bò ăn sớm như thế vì đấy là bữa đi cày đầu tiên của mùa cày đầu tiên trong năm, mùa cày vỡ. Sau mấy tháng nghỉ cày bừa, cặp bò cày đâm lười nhác. Rơm đã được cho vào đầy máng, lũ chúng vẫn còn nằm ì trong chuồng. Ông Ruông phải lấy roi cày tặng cho mỗi con một roi, chúng mới chịu đứng dậy. Lúc lũ bò ăn rơm, ông vòng ra hè nhà sau, lấy cây cày ra khỏi hiên hè. Sau hơn một năm vừa cày ruộng vừa đọc sách, ông thấy trí não ông có phần khác so với lúc đi dạy học. Thường là nghĩ được những điều mới mẻ. Nhưng buổi sáng hôm ấy, lúc làm công việc khởi động cho buổi cày đầu tiên trong năm, thì chẳng có điều gì khác lạ xảy ra trong trí não ông. Lúc vác cày, lừa bò gần đến ruộng, ông có nghĩ đến việc các vị vua các triều đại xưa của nước Việt Nam của ông vào mùa cày đầu tiên trong năm cũng xuống đồng đi cày lấy https://thuviensach.vn ngày để mở đầu cho việc cày cấy trong năm của dân trong nước. Nhưng ý nghĩ ấy cũng chẳng phải là dấu hiệu báo trước với ông rằng đấy là một ngày trọng đại trong cuộc đời ông. Mắc bò vào cày đâu đấy xong yên, mặt trời vẫn chưa lên. Buổi sớm tinh mơ của mùa tháng giêng ở miền núi Tượng sông Tượng phải nói là rất tuyệt. Cả màu sắc trời mây, cả không khí để hít thở, thứ gì cũng tuyệt. Ông Ruông cảm thấy người nhẹ nhàng thoải mái, như vừa trải qua một cuộc du sơn ngoạn thủy hào hứng nào đó. Ngay cả tâm trạng này cũng không phải là để báo trước điều trọng đại sắp xảy ra. Đất vừa đủ ướt cho trạnh cày lật được đất là đúng tiêu chuẩn để cày vỡ. Cha ông đi thăm đồng về, bảo mừoi bữa nữa là cày được, sáng ấy là đúng mười bữa. Bước chầm chậm theo đôi bò cày cũng bước chầm chậm theo kiểu thuộc lòng, ông Ruông cứ thấy tức cười thầm. Công việc làm của ông trong những năm tháng trước đấy đâu có mấy khác với công việc làm của đôi bò cày. Kéo cây cày tới đầu bờ thì đôi bò cày tự động quành lại, cày lấp sống thì quành bên phải, bên ví, cày mở rõng thì quành bên trái, bên thá, đâu cần ông hô ví thá. Thì ông cũng vậy, đâu cần ai nhắc, tới giờ là lên lớp, khoa học thường thức thì con trăn con rắn là thuộc lớp bò sát, địa lý thì nước Việt Nam có hình cong chữ S, sử ký thì Bà Trưng quê ở Phong Châu, giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên… tức trích Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca. Giảng bài cho đám học trò tiểu học thì đâu cần phải cho sâu cho rộng. Năm nào cũng quành đi quành lại cách giảng ấy. Có nghĩa, tới bài ấy của môn học ấy, thì lại giảng giải như thế. Tất nhiên là đám học trò dù ít dù nhiều cũng thêm được kiến thức. Nhưng với ông thì không. Dường như là ngồi ở bàn thầy dạy học, ông chỉ làm mỗi công việc nhai lại. Thấy cách kéo cây cày của cặp bò cày, ông thử đem liên hệ với chuyện dạy học của ông, vậy thôi. Như cha của ông, đâu có dạy học, mà cũng mắc phải nhai lại. Cứ ngồi vào mâm cơm, trông thấy mặt ông, là lại nhắc : Mày định không cưới vợ, ở vậy tới già sao Ruộng? Cha của ông cứ mỗi câu ấy nói suốt từ những năm ông ở tuổi hăm chín ba mươi cho tới lúc ông thôi dạy học, ra cày ruộng. Quả tình, cho tới lúc đó, ông cũng chẳng thể giải thích một cách rõ ràng cho người khác hiểu vì sao tới tuổi đó ông vẫn chưa cưới được vợ. Có kẻ thân tình nào gặng hỏi, thì ông lại vừa https://thuviensach.vn đùa vừa thật là chưa nhìn thấy người phụ nữ nào là vợ của mình. Bảo ông Ruông không nghĩ về phụ nữ thì cũng không đúng. Có thể nói như thế này không : chưa có người phụ nữ nào khiến cho ông thấy một người đàn ông thì phải có một người phụ nữ ở bên cạnh? Hay nói theo cách của dân gian là ông chưa gặp được duyên nợ ? Ngay cả những lúc có tâm trạng phấn chấn nhất, ông cũng thường hay nghĩ đến những chuyện chẳng ăn nhập chi với sự thúc bách của cha ông. Như buổi sáng đầu tiên mùa cày vỡ, giữa cảnh trí nên thơ của đất trời, đầu óc ông lại đi xem xét chuyện dạy học của mình trước đấy có giống với chuyện kéo cày của cặp bò cày không. Có nghĩa, cho đến lúc ấy không hề có dấu hiệu nào báo trước đấy là ngày ông đạt được một cuộc tình mà theo ông là mẫu mực nhất trần gian. Dân làng Dầu và dân làng Gàu ( ở phía đông làng Dầu} cùng cày ruộng trên đồng Đất Sét. Chỉ nghe tên gọi thôi cũng đủ biết đấy là thứ ruộng đồng chẳng màu mỡ gì. Ruộng đất cố định bấy nhiêu khoảnh, mà năm nào dân hai làng cũng cho ra đời thêm mấy chục đứa trẻ. Ông Ruông cho đấy là chỗ kỳ diệu của con người. Thêm miệng ăn, nhưng không thêm đất đai trồng trọt, mà vẫn sống được, sống một cách mãnh liệt nữa là khác. Cứ xem quang cảnh mùa cày vỡ trên đồng Đất Sét thì rõ. Chồng cày, đám vợ con thì dọn bờ, cuốc góc. Đến mùa cày đầu tiên trong qui trình trồng trọt, mùa cày vỡ, ở trong nhà ai cày cuốc được đều ra đồng hết. Chẳng có tính toán nào ngoài việc có bao nhiêu sức lực là đổ hết ra ruộng đồng. Cho nên, sau khi rời việc dạy học, ông Ruông cũng bị cuốn hút ngay vào thứ sức sống tạo hóa đã ban tặng riêng cho người làng quê ông. Dừng cày cho bò nghỉ xả hơi là ông lại cầm cây cuốc đi dọn bờ, cuốc góc. Sau này, khi có mưu toan vĩ đại với con cháu, ông mới thấy sức làm lụng của ông lúc đó là quá lớn (Cha của ông lúc bấy giờ không còn cày cuốc nổi nữa, trên khoảnh ruộng nhà chỉ có mỗi mình ông với cặp bò cày) -Vô chuyện cày bừa, ông giáo cũng chẳng kém thua ai Thấy cách làm lụng của ông Ruông, ông già Thạch cày ở ruộng kế bên thỉnh thoảng lại ngưng bò, vói sang, để tỏ khâm phục. Không như ông Ruông một mình một thân với đôi bò cày, ông già Thạch https://thuviensach.vn còn có cô con gái đầu lòng xấp xỉ bốn mươi, chưa chồng con, cùng làm lụng với ông trên đồng ruộng. Theo truyền thống văn hoá dân dã ở miền núi Tượng sông Tuợng, con gái chừng ấy tuổi mà chưa lấy chồng thì được liệt vào danh sách gái lỡ thì. Nói theo nghĩa đen, lỡ thì là đã qua cái thời được đám con trai ngấp nghé, đeo đuổi. Nhưng lại còn có nghĩa là có thể ở vậy tới già. Công bằng mà xét thì con Hai Mén (người ta vẫn gọi cô con gái đầu lòng ông già Thạch như thế) không phải là xấu xí lắm. Có đổ thừa nước da chị ta hơi đen, bắp chân hơi to, hoặc khuôn mặt hơi thô, nên khó lấy chồng, thì cũng chẳng phải là lý do thuyết phục lắm. Bỡi biết bao người phụ nữ cũng có những đặc điểm thế mà vẫn chồng con đàng hoàng. Ơ làng Gàu, ngoài việc ruộng nương, người làng còn có nghề đương gàu tát nước. Gàu của con Hai Mén lỡ thì đó. Lời thiên hạ dùng khen tặng sự khéo tay của cô con gái đầu ông Hai Thạch lại vô tình củng cố cho xu hướng ở vậy tới già của người con gái bất hạnh đó. Ngày ngày đám con trai đàn ông ở các vùng chung quanh vẫn tiếp tục hỏi thăm đường đến nhà con Hai Mén lỡ thì, nhưng không phải là để săn đuổi tình duyên, mà chỉ để mua gàu tát nước. Ơ làng Gàu (cũng như ở làng Dầu ) cũng từng có nhiều người gợi ý cho đám con trai đàn ông trong làng, song, chẳng có anh nào chịu lấy chị. Tất nhiên là chẳng ai dám gợi ý này với ông giáo Ruông, vì người ta cho rằng ông giáo phải có một người vợ cũng gỉoi chữ nghĩa như ông. Lúc còn dạy học, ngày nào ông Ruông cũng ngang qua làng Gàu, thỉnh thoảng lại gặp chị ấy. Đến lúc thôi dạy học, ra cày ruộng, thì gặp nhau hoài, vì ruộng nhà ông với ruộng nhà chị thì liền bờ. Ông Ruông chép trong Hồ Sơ Các Bậc Tổ Phụ : Buổi mai hôm ấy có lũ chim sơn ca hót vang trời. Thường, chúng chỉ hót vào lúc chiều xuống. Nhưng buổi mai ấy lũ sơn ca cứ vút lên bầu trời trên đầu ta mà hót. Đúng vào giây phút trọng đại ấy thì có chim sơn ca hót. Phải. Vào cuối buổi cày đầu tiên mùa cày vỡ ấy thì xảy ra sự việc trọng đại. Gần cuối buổi, ông Ruông tháo cày cho bò nghỉ, rồi đi dọn bờ. Ở ruộng bên, ông giàThạch vẫn còn tiếp tục cày. Chị Hai Mén, từ sáng giờ vẫn làm công việc dọn bờ. Vừa dọn bơ, ông Ruông vừa nghĩ đến chuyện vợ con, và thấy hơi lo. Như đã nói, ông rất ít khi nghĩ đến chuyện vợ con, không hiểu https://thuviensach.vn sao hôm ấy trong lúc mệt nhọc thế, ông lại nghĩ đến chuyện ấy. Không phải ông lo kiếm không ra vợ, vì ra ngoài xã hội ông thấy còn khối đàn bà con gái chưa chồng. Ông lo là khi có vợ tất phải sinh con, có con tất phải lo nuôi con, thế chẳng còn thì giờ để đọc sách. Chính ông vui sống được sau khi thôi dạy học là nhờ vừa cày ruộng vừa đọc sách. Chợt ông nghĩ ra được một giải pháp mà ông cho là lưỡng tiện. Cứ lấy vợ, song, đừng sinh con. Như thế vừa làm cho cha của ông vui, vừa còn có thời giờ để đọc sách. Lúc cái giải pháp này lóe ra trong trí não thì ông Ruông chống cuốc , đứng thẳng người lên, nhìn sang bên ruộng ông già Thạch. Chị Hai Mén vẫn cặm cụi dọn bờ, sắp làm đến đoạn bờ ngang với đoạn bờ ông đang làm. Lúc ấy thì ông già Thạch đã tháo bò cày, đi cuốc góc. Cứ lấy vợ mà đừng sinh con là tiện nhất. Ông lập lại ý nghĩ ấy ở trong đầu đúng vào lúc chị Hai Mén đã tiến đến đoạn bờ ngang với nơi ông đang đứng nghĩ ngợi. Ông Ruông chép trong Hồ Sơ Các Bậc Tổ Phụ : Có một thứ lửa bí ẩn chất chứa sẵn trong trái tim ta và trong trái tim nàng, đến lúc ấy thì phụt cháy lên. -Em Hai -Anh giáo. Vì chép ra thành chữ nên phải có trứơc sau như thế. Sự thật thì ta với nàng cùng lúc thốt ra như thế. Những lời ấy thật ra chỉ là biểu hiện của thứ lửa nguyên sơ tiềm ẩn trong trái tim ta và trong trái tim nàng. Lời là lửa. Thốt ra thế là để thông báo cho nhau biết rằng cả ta và cả nàng đã cùng lúc nhận ra ngọn lửa ấy. Ở một chỗ khác trong Hồ Sơ Các Bậc Tổ Phụ ông Ruông còn bảo lúc hai người giáp mặt nhau (và nhìn nhau) chính là lúc cả hai cùng bị một thứ lực bí ẩn chi phối, ông chép : Ta nghe người lảo đảo, tựa hồ nơi trái tim nàng đang tỏa ra một sức hút mãnh liệt làm lung lay toàn bộ tâm trí ta. Và ta tin là nàng cũng thế, cũng đang bị một thứ lực tương tự đang tỏa ra từ nơi trái tim ta, vì ta trông thấy người nàng cũng lảo đảo. Và rồi, cả ta lẫn nàng cùng chồm qua con bờ nhỏ, ôm chầm lấy nhau, cùng lúc khẽ kêu lên : anh giáo-em Hai. Ngay tối hôm ấy, ông Ruông nói với cha mình : https://thuviensach.vn -Con đã quyết định rồi, là sẽ cưới con Hai Mén con ông già Thạch ở làng Gàu Cha ông Ruông có cảm thấy bị choáng váng, song đã liền lấy lại bình thường. Nếu là trước đấy, lúc cha ông còn đi cày nổi, chắc ông đã hét lên : Hết con gái hay sao mày đi cưới gái lỡ thì? Nhưng bấy giờ thì cha của ông đã yếu lắm, chẳng biết sẽ theo ông bà vào lúc nào. Nên vấn đề bây giờ không phải là lỡ thì hay không lỡ thì. Mà làm sao trước lúc chết, cha của ông được nhìn thấy mặt đứa cháu nối dõi. -Con cưới đứa nào cũng được. Nhưng phải sinh cho cha một thằng cháu trai Như vậy là đương nhiên ông Ruông phải hủy bỏ cái giải pháp lưỡng tiện đã nghĩ được hồi lúc sáng. https://thuviensach.vn Nguyễn Thanh Hiện Người đánh cắp sự thật DẤU HIỆU CỦA THIÊN TÀI Phải nói đến lúc có mưu toan trở nên vĩ đại với con cháu, ông Ruông mới thấy chỗ lớn lao trong việc cưới vợ của mình. Chính là ông đã làm rung rinh khái niệm siêu hình về gái lỡ thì đã tồn tại bao nhiêu đời ở miền sông Tượng núi Tượng chưa ai phản bác nổi. Và ông đã quyết định kể lại toàn bộ sự việc này cho thằng Cu Cỏ nghe, vì nó là cháu đích tôn, phải biết những sự kiện trọng đại đã xảy ra trong đời các bậc tổ phụ của nó. -Thiên hạ ngã ngửa ra khi thấy ông làm đám cưới với bà nội cháu. Ông kết thúc câu chuyện bằng câu này. Lập tức thằng Cỏ đem những kiến thức vốn có của nó ra để vừa bình luận vừa chất vấn về cuộc cưới vợ của ông. -Vậy là bữa đó có cả người lớn lẫn trẻ nhỏ trong làng đến ngõ nhà mình chờ xem mặt cô dâu. -Phải. Có cả trẻ nhỏ lẫn người lớn -Rồi khi cô dâu đến thì cả người lớn lẫn trẻ nhỏ đã giật mình ngã ngửa ra hết Thằng Cu Cỏ nói, vừa dựa vào kiến thức rút được từ những lần đi xem đám cưới trong làng, vừa dựa vào câu nói của ông mình. Ông Ruông không cho là cháu ông dám chế nhạo ông : -Ai bảo cháu là thiên hạ giật mình ? -Thì ông mới nói ra chứ ai. Ông bảo thiên hạ ngã ngửa ra, thế không phải giật mình là gì? -Không phải vậy đâu. Ý của ông khác kia -Không giật mình, tự nhiên ngã ngửa hay sao? Mà cháu đoán ra rồi -Cháu đoán thế nào? -Vì tức cười quá, không chịu được, thiên hạ ngã ngửa ra hết. Đến lượt ông Ruông bị thằng Cu Cỏ thu hút -Mà sao cháu cứ nhìn râu ông thế? Còn vì sao thiên hạ lại tức cười đến ngã ngửa ra hết ? https://thuviensach.vn Thằng Cỏ vẫn cứ chăm chắm nhìn vào bộ râu của ông nó (mà nó vẫn cho là ở trong làng chẳng có râu người nào đẹp hơn) -Hỏi ông làm sao mà không tức cười. Cả người lớn cả trẻ nhỏ đều ngã ngửa ra cười, ông biết không, vì chú rể là ông của cháu, lại có râu -Ừ. Cứ cho là thế Ông Ruông cứ chiều theo cách bình luận của cháu -Ông nói cứ cho là thế là sao? Cháu thì chưa bao giờ thấy đám cưới nào chú rể có râu. -Ừ. Có lẽ là thế. -Cháu vẫn chưa hiểu ông nói thế là sao. Hay là lúc làm đám cưới với bà nội cháu thì ông chưa có râu? -Chắc là thế -Tức là lúc ấy, ông cũng giống như cháu, là còn nhỏ, chưa có râu. Ông Ruông vẫn chiều theo cách bình luận của cháu , đáp : -Phải rồi. Cháu cứ nói tiếp đi -Cháu biết trước mà. Là khi cô dâu đến, cả người lớn cả trẻ nhỏ đều ngã ngửa ra cười, vì cô dâu đã lớn ầm, mà chú rể là ông của cháu lại giống như cháu, là còn nhỏ, chưa có râu. Ông Ruông định giảng giải cho thằng Cu Cỏ hiểu ý nghĩa mấy từ ‘’ngã ngửa ra”, nhưng nó đã không để ông nói -Nhưng như thế thì không được. Cháu chưa bao giờ thấy có đám cưới nào có chú rể còn nhỏ như cháu. Hay là ông còn dấu cháu một điều? -Ông dấu cháu điều gì nào? -Có đấy. Ông vừa nói với cháu là ông đã ôm bà nội cháu ở ngoài ruộng có phải không? -Phải. -Thế lúc cô dâu đến thì chú rể có làm như thế không? Tức là ông cũng ôm bà nội cháu, y như hôm ở ngoài ruộng ? -Chuyện này thì không có đâu -Đấy, cháu biết mà. Là ông đã dấu cháu chuyện này -Nhưng nếu có chuyện này thì sao? -Nếu có chuyện này thì cháu đoán ra rồi. Là lúc ấy ông cũng có râu như https://thuviensach.vn bây giờ. -Nhưng sao cháu cứ thắc mắc là lúc ấy ông đã có râu hay chưa? -Phải, vì còn thắc mắc, nên cháu chưa có ý kiến dứt điểm với ông. Còn bây giờ thì cháu đóan ra rồi. Thằng Cu Cỏ chợt nhìn ông Ruông, và bật cười Ông Ruông cũng bật cười -Sao cháu nhìn râu ông rồi cười ? -Hỏi ông làm sao không cười. Cháu thì chưa bao giờ thấy có đám cưới nào chú rể đã có râu mà đi ôm cô dâu trước mặt cả người lớn cả trẻ nhỏ ở trong làng. Cách chất vấn và bình luận của thằng Cu Cỏ khiến ông Ruông không còn dám chắc là lúc ông cưới bà Ruông thì mình đã có râu hay chưa. Một cuộc tình lớn tựa một tác phẩm văn chương lớn, bàn mãi không hết. Ông Ruông đã dùng phương pháp so sánh đó, và cho rằng cháu ông cũng có thể gọi là một nhà biện luận trẻ tuổi. Nhưng để sự nhận định của mình chắc ăn hơn, ông còn phải tiếp tục chất vấn cháu ông về vấn đề có râu hay chưa có râu. -Theo cháu thì người có râu với người chưa có râu khác nhau ở chỗ nào? Thằng Cu Cỏ nhìn ông với vẻ làm như giờ nó là ông, là người lớn, còn ông là nó, là trẻ thơ : -Ông hỏi cháu câu hỏi khác đi. -Còn câu hỏi đó thì sao? -Chuyện đó ông đã biết, còn hỏi cháu làm gì? -Để biết cháu suy nghĩ thế nào. -Cháu thấy hơi lo -Cháu lo gì? -Người già thì hay lẫn lộn -Có lẽ là vậy. Nhưng cháu hãy trả lời câu hỏi của ông đi đã. -Ông bảo người có râu thì khác với người chưa có râu ? -Phải -Thế cháu chưa có râu thì cháu có phải là người hay không? -Cháu tuy chưa có râu, nhưng cũng là một con người https://thuviensach.vn -Tức là có râu hay chưa có râu đều là con người ? -Phải. -Thế sao con dê ông Hai Rường cũng có râu nhưng ai cũng kêu nó là con dê, cháu chẳng nghe ai nói nó là con người? Ông Ruông hơi choáng một chút trước câu hỏi của cháu. Không phải vì giận, mà vì mừng. Tra vấn của thằng Cu Cỏ mang màu sắc của một triết học mới mẻ. Có phải ở một bình diện nào đó người ta có thể xem con người cũng là con dê, và con dê cũng là con người? Một tra vấn có tính cách ngoại lý. Ông Ruông thật sự vui mừng, vì có thể nói rằng ông đã nhìn thấy được dấu hiệu thiên tài ở cháu ông. https://thuviensach.vn Nguyễn Thanh Hiện Người đánh cắp sự thật NHẬP VÔ CUỘC PHIÊU LƯU CỦA HOMO SAPIENS Đến lúc có mưu toan vĩ đại với con cháu thì trí não ông Ruông hoạt động một cách khác thường. Chỉ mỗi một lời không bình thường của ai đó (thốt lên nơi trang cổ thư chẳng hạn ) cũng đủ khiến ông vươn tới những miền ý tưởng xa lạ. Với thằng cu Cỏ là một ví dụ. Ông ghi trong Hồ Sơ Các Bậc Tổ Phụ : Cách nói năng của thằng Cu Cỏ khiến ta phải nghĩ đến một dòng tư duy nằm bên ngoài hết thảy các dòng tư duy cố cựu của nhân loại. Ngay sau lời này là truyện chép về ông Bảy Mươi Sáu với đầu đề có vẻ như lạc lõng : Nhập Vô Cuộc Phiêu Lưu Của Homo sapiens. Ông Bảy Mươi Sáu rời bỏ cha mình là chấp nhận một cuộc sống trần gian như những người anh em của ông ở nước Văn Lang ở phương bắc. Giờ đây, công việc đầu tiên của ông là học cách hội nhập vào thế giới loài người. Điều này có nghĩa, ông từ chốn vĩnh hằng tụt xuống làm thành viên của nền văn minh kim khí của nhân loại. Miền núi Tượng sông Tượng lúc bấy giờ chưa có người ở, nhưng muông thú và cỏ cây thì không thiếu loài nào. Ông Bảy Mươi Sáu thuần hóa một đôi bò rừng để kéo cày.Và trút bỏ móng rồng để làm lưỡi cày lưỡi cuốc , vì chưa tìm ra được đồng và sắt. -Lũ ngươi hãy gắng giúp ta làm ra cơm áo. Ông nói với lũ bò cày. Chúng chỉ hếch mũi lên, khịt, rồi thè lưỡi liếm cánh tay rám nắng của ông. Từ phút ấy, một thứ vật thể người đời gọi là cô đơn bắt đầu xâm nhập vào ông Bảy Mươi Sáu. -Hãy nói giúp ta, nó là cái gì vậy? Ông hỏi lũ bò mỗi khi cảm thấy bứt rứt, mong có ai đó để chuyện trò. Thứ cô đơn nguyên thủy, nó chỉ là vậy. Nhưng về sau, vào thời văn minh hiện đại, người ta mô tả nó bằng những lời lẽ hơi khó hiểu một chút, rồi đem chép thành sách vở tràng giang đại hải, cũng cốt để cho cuộc nhân https://thuviensach.vn sinh thêm phong phú đấy thôi. Sự thật thì thứ cô đơn nguyên thủy này chẳng có trở ngại nào đối với ông Bảy Mươi Sáu. Mỗi lần nó xâm nhập vô ông thì ông lại đi chuyện trò cùng lũ bò. Nhưng có một thứ luôn gây trở ngại đối với ông là khái niệm về sự vĩnh hằng. Nắng hạn, lúa héo khô dần, rồi chết. Bị ngã xuống suối, một trong hai con bò cày bỏ ăn, rồi chết, ông phải bỏ ra công sức thuần hóa một con bò rừng khác. Đến như đám gà con, con của mái gà ông mới nuôi để làm thực phẩm, chỉ qua một đêm mưa gió cũng chết hết. Tại sao lại có sự chết? Ông chưa quen được với điều này, vì chưa gạt bỏ được khái niệm vĩnh hằng ra khỏi ký ức. Một thứ vật thể khác, gọi là nỗi buồn, lại bắt đầu xâm nhập vào ông. Đến lúc này ông không hỏi lũ bò nữa, mà quyết định phải ra đi. Ông quyết định phải đi cho thật xa, đến những nơi có đủ các hình thái sống của loài người, để học cách tồn tại ở trần gian. Chính bộ tộc người ông gặp đầu tiên đã dạy ông về cách ăn nói. Mọi người trong bộ tộc đều bỏ chạy khi ông mới mở miệng hỏi: đây là nơi đâu? Cái giọng nói gây giông sấm mưa bão của Lạc Long Quân di truyền cho ông đã làm hại ông. Nhưng trí tuệ Au Cơ, trí tuệ của mẹ ông, mách bảo với ông rằng hãy im lặng để nghe người khác nói. Quả tình, theo cách ấy, ông đã chuyển được giọng nói to lớn do cha ông truyền lại sang giọng nói của người trần thế. Người ta đã nghe theo lời ông đi tìm đồng và sắt về làm dụng cụ cày cuốc, và chặn sông suối lại để lấy nước trồng lúa. Đến lúc này thì ông không còn lấy làm lạ lắm khi thấy trong bộ tộc có người chết. Một đứa trẻ lên năm đã chết vì bệnh thiên thời. Có người chết thì phải khóc hay sao? Sau đó không lâu, trong cuộc hành trình học làm người trần thế, có lần trông thấy con nai con lạc mẹ, đói sữa, sắp chết ở khu rừng nọ, ông đã khóc, là nhờ tình cảm thương xót đã thâm nhập vào ông. Ông Ruông đã để cho ông Bảy Mươi Sáu đi theo ngả mà sau này, vào thế kỷ thứ XII sau công nguyên, vua Jayavarman VII của đế quốc Ang Co đã cho đắp thành đường nối kinh đô Ang Co của ông với Vijya, kinh đô nước Chăm Pa, thuộc quốc của đế quốc Ang Co. Đi theo ngả ấy là theo hướng mặt trời lặn. Hướng đi Tây Á. Đây là cơ duyên. Vừa ra khỏi bộ tộc người ông gặp đầu tiên, ông Bảy Mươi Sáu đã gặp một người có nước https://thuviensach.vn da đen sáng đang đi ngược về phía ông, có vẻ rất vội. -Ông định đi về hướng đó sao? Ông lão hỏi. Ông Bảy Mươi Sáu gật đầu, đáp -Phải -Ở đó đạo đang suy vi. Ông nên đi hướng khác thì tốt hơn. Ông lão chỉ nói bấy nhiêu, rồi vội vã ra đi Đạo nào đang suy vi thì ông Bảy Mươi Sáu chẳng lưu tâm. Chỉ cần đến đó, nơi có sự suy vi, chỉ những nơi như thế mới giúp ông loại được khái niệm vĩnh hằng ra khỏi ký ức của mình. Qua khỏi một con sông lớn, con sông lớn đầu tiên ông gặp, ông Bảy Mươi Sáu lạc vào một nơi người ta đang nhảy múa ca hát -Xin cho biết đường đến nơi đạo đang suy vi Ông Bảy Mươi Sáu hỏi một cụ già, có lẽ là người đứng đầu bộ tộc đang ngồi xem bọn người kia ca hát Ông cụ nghe hỏi, ngửa cổ cười to, rồi bảo : -Ở đây chỉ có sự vinh quang. Bọn ta vừa cho bọn chúng một trận nên thân. Ông Bảy Mươi Sáu nhìn thử thì thấy có cả đàn ông, đàn bà, có cả lũ chó heo gà vịt, tất cả đều bị trói, đặt cạnh bọn người đang nhảy múa. -Chỉ cần chỉ cho hướng đi đến đó thôi. Ông Bảy Mươi Sáu nhắc lại yêu cầu của mình Ông cụ nạt: -Ta đã nói ở đây chỉ biết có mỗi sự vinh quang trong chiến thắng mà thôi. Qua khỏi con sông lớn thứ hai ông gặp trong cuộc hành trình, ông Bảy Mươi Sáu đã ở lại rất lâu với những tộc người mà sau này các nhà dân tộc học của nền văn minh hiện đại gọi là tộc người Môn. Ở đây chẳng có đạo nào suy vi. Ngược lại, đạo của đức Thế Tôn (người Môn gọi đạo ấy là đạo của đức Thế Tôn) là đang ở vào thời hưng thịnh. Ông Bảy Mươi Sáu thấy người Môn gọi người đứng đầu liên minh các bộ tộc của mình là vua. Đức vua vạn tuế. Đó là lời thần dân chúc tụng vua. Có nghĩa, ở nơi đây vẫn có mặt của khái niệm vĩnh hằng. Ông Bảy Mươi Sáu lại phải tiếp tục đi. Qua khỏi con sông lớn thứ ba ông gặp trong cuộc hành trình, ông Bảy https://thuviensach.vn Mươi Sáu lại cũng gặp người Môn. Gần hai trăm năm, ông vẫn lẩn quẩn sống trên phần mặt đất có ba con sông lớn, kể từ đông sang tây, theo cách đặt tên của các nhà địa lý học là Mê Kông, Salween vàIrrawaddy. Có bao nhiêu thế hệ nằm xuống. Còn ông Bảy Mươi Sáu thì vẫn y nguyên như ngày mới rời khỏi miền núi Tượng sông Tượng. Như thế là ông chưa thực sự hội nhập vào thế giới loài người. Một hôm, ông ngồi ở bờ con sông Irrawaddy nghĩ ngợi về điều mà người Môn cho là do đức Thế Tôn nói ra : Không có thực tại mà chỉ có ảo ảnh. Ông nhắm mắt nghĩ mãi vẫn không hiểu. Lúc mở mắt ra thì thấy mình đã ngồi trên một ngọn núi phủ đầy tuyết. -Thưa, đây là nơi đâu? -Đừng hỏi. Người đàn ông có khuôn mặt quá gầy ra hiệu ông Bảy Mươi Sáu đừng hỏi gì thêm, rồi tiếp tục ngồi im trong tư thế thiền định. Đành phải chờ thôi. Ông Bảy Mươi Sáu đã ngồi chờ trong suốt bảy ngày đêm. Chứ còn biết làm cách nào hơn. Núi thì cao, rậm, mà đường đi chẳng thấy. -Ta xem anh cũng là kẻ có duyên với đạo pháp Đến lúc này người đàn ông có khuôn mặt quá gầy mới mở mắt nhìn ông Bảy Mươi Sáu, nói, và bắt đầu thuyết giảng -Thời đó không có chết, vậy mà không có gì làbất tử, không phân biệt ngày và đêm, cái Nhất, cái Độc Nhất, không có hơi mà tự thở lấy được, ngoài Cái Đó ra không có cái gì khác nữa. -Nhưng đấy có phải là đạo đang suy vi? Gần hai trăm năm tìm kiếm, giờ mới gặp người nói về đạo, ông Bảy Mươi Sáu không thể ngồi chờ nghe cho hết bài thuyết giảng. -Anh bảo suy vi ư? Có hàng vạn người trên thế giới này đang tìm đến với đấng Chí Tôn Người đàn ông có khuôn mặt quá gầy vẫn ung dung điềm tĩnh giảng cho ông Bảy Mươi Sáu nghe về lẽ đạo ông đang theo đuổi. -Nhưng đấng Chí Tôn là ai? -Là cái Một, cái Nhất, cái Độc Nhất, là đấng Brahman, mà Brahman cũng là Atman. Cả đời ta chỉ mong muốn mỗi điều là được trở về với Đại Ngã. https://thuviensach.vn -Nhưng Đại Ngã nó là gì vậy? -Cũng tương tợ như sự vĩnh hằng vậy. Biết đây không phải là thứ đạo đang suy vi ông tìm kiếm, ông Bảy Mươi Sáu đã xin người đàn ông có khuôn mặt quá gầy chỉ cho đường xuống núi. Người ta bảo khi đế quốc Ba Tư xâm chiếm xứ này đã đổi tên sông Sindhu (chỉ có nghĩa là sông ) thành Hindu, và gọi tất cả miền bắc An Độ là Hindustan, nghĩa là xứ các con sông. Ông Bảy Mươi Sáu thấy nước sông Hindu còn nhuộm đỏ máu. Còn ở hai bên bờ thì có nhiều nấm mồ mới đắp. -Tất cả những thứ đó là do ta làm ra đó. Mà ngươi từ đâu đến? Một người tuổi trẻ mắt rất sáng đã chận ông Bảy Mươi Sáu lại, hỏi. -Thưa, kẻ này mới từ trên núi Himalaya xuống -Ta chẳng cần ngươi nói có theo đạo Vêda hay không, mà chỉ muốn biết người là dân xứ nào. Ông Bảy Mươi Sáu đã nghĩ ra được câu trả lời mà ngẫu nhiên lại trùng hợp với cách đặt tên đất của ngưới Ba Tư -Thưa, kẻ này từ nước Tượng đến. -Được, ta cũng chẳng cần biết nước Tượng là ở đâu. Mà ngươi đã biết ta là ai chưa? -Thưa chưa -Không biết cũng phải thôi, vì ngươi đang bị đạo ấy mê hoặc. Ta là vị đại đế cả xứ Hindustan này kính phục. Là Alexandre Đại Đế của nước Đại Hy Lạp, rõ chưa? Trí tuệ Au Cơ liền mách bảo ông Bảy Mươi Sáu đấy là một vì vua mạnh. -Nhưng có phải ngài đến xứ sở này là để làm công việc là làm cho thật nhiều người chết ? -Chớ nói thế . Các chiến binh của ta nghe được sẽ cười ngươi là giống dân dã man. Ta đến xứ sở này là để truyền bá những điều cao cả của người Hy Lạp, truyền bá văn minh, nói rõ hơn là truyền bá lý trí Hy Lạp, rõ chưa ? -Nhưng lý trí Hy Lạp là gì vậy ? -Là những khả năng mà chỉ ngừơi Hy Lạp ta mới có, là những lý lẽ của óc não con người mà chỉ có người Hy Lạp mới thấy được, ngươi đã hiểu chưa? https://thuviensach.vn -Như vậy, máu của người Hindustan chảy trên sông Hindu là cũng do lý trí Hy Lạp tạo nên? -Để thấy được ánh sáng ấy, tất nhiên phải đổi chừng ấy máu. Ông Bảy Mươi Sáu rất vui vì đã gặp được người chỉ cho ông biết một khái niệm mới của trần gian : khái niệm lý trí. Với sự thu nhận của trí não ông lúc ấy thì khái niệm ấy có thể thu nạp hay loại bỏ những khái niệm khác, và cùng lúc có thể tạo ra vĩnh hằng và hủy diệt. Thế còn tìm chi nơi có thứ đạo đang suy vi?. Ông nghĩ ngợi, rồi lên đường, quay trở về miền sông Tượng núi Tượng của mình. Về tới bộ tộc người ông gặp đầu tiên, ông đã cưới một phụ nữ trong bộ tộc đó. Người ta kể cho ông nghe câu chuyện cổ tích rằng ngày xưa có chàng trai xưng là người miền núi Tượng sông Tượng đã đến dạy cho dân bộ tộc việc cày cấy, rồi âm thầm ra đi, chẳng biết đi đâu. -Chắc cũng lẩn quẩn trong cõi thế gian này thôi. Ông Bảy Mươi Sáu vui vẻ bảo mọi người. Ông và vợ ông cũng vui vẻ cho ra đời mấy chục đứa con. Để cho thế gian thêm phần vui vẻ, ông tặng cho con ông mỗi đứa một tên họ riêng. Đó là những bậc tổ phụ của cư dân miền núi Tượng sông Tượng. Trong đó có một người mang họ Lê, tức vị tổ phụ thứ bảy mươi lăm của dòng họ Lê Ruông. Ông Ruông cho rằng chỉ vài trăm năm mà ông Bảy Mươi Sáu đã thuộc hết tính nết loài người và hiểu được lý trí là gì, là quá vĩ đại. Thì cứ nghĩ xem. Các vị tổ phụ loài người, các vị homo sapiens, xuất hiện vào thời băng giá, thời địa chất Plêixtôxen, cách thời ông Bảy Mươi Sáu đến mấy trăm ngàn năm. Phải đến mấy trăm ngàn năm mày mò trong cuộc tiến hóa, loài người mới có được chừng ấy tính nết, và làm được những cuộc phiêu lưu như vua Alexandre của nước Hy Lạp cổ đại đã làm. https://thuviensach.vn Nguyễn Thanh Hiện Người đánh cắp sự thật KHẢO CỨU ĐỊA LÝ HỌC LỊCH SỬ Dõi theo sử sách để tìm lại chỗ đứng cho các bậc tổ phụ của mình, đấy là cách làm của ông Ruông. Và để cho con cháu nhà họ Lê thấy được cha ông mình đã sống trong một miền đất như thế nào, ông đã bỏ công làm một khảo cứu về miền sông Tượng núi Tượng qua các thời. Tức khảo cứu địa lý học lịch sử. Trước khi đi vào phần chính của khảo cứu, tức sự thay đổi qua các thời, ông Ruông phóng một cái nhìn tổng thể từ khởi thủy đến hiện tại. Chữ khởi thủy ông dùng ở đây có tính cục bộ, có nghĩa chỉ cho thời ông Bảy Mươi Sáu xuất hiện. Từ thời ông Bảy Mươi Sáu xuất hiện cho đến hiện tại, miền đất này chưa hề bị chia tách. Chỉ xảy ra điều khi thì được sáp nhập vào khi thì bị tách ra khỏi một miền rộng lớn hơn, mỗi lần có chuyện nhập vào hay tách ra như thế thì lại được đứng vào một đất nước mới, ở dưới sự trị vì của một ông vua mới, một vị nguyên thủ quốc gia mới. Đây là nét tổng thể thứ nhất của miền sông Tượng núi Tượng, ông Ruông gọi là sự ưu đãi của lịch sử. Nét tổng thể thứ nhì là sự bình yên trong lĩnh vực địa chất. Miền sông Tượng núi Tượng nằm trong dải đất Đông Nam Á, thuộc nền lục địa cổ Lôraxia, nên rất ít xảy ra những biến cố lớn về địa chất. Chưa thấy có sử sách nào nói về động đất ở miền này. Lâu lâu cũng có xảy chuyện làm rúng động làng xóm, để lại những dư chấn đến năm mười năm sau, ví như việc ông cưới bà Ruông. Nhưng đấy là những hiện tượng xã hội chứ không phải hiện tượng địa chất. Nét tổng thể thứ ba coi như một phát hiện mới của ông Ruông. Về mặt thổ nhưỡng, miền sông Tượng núi Tượng thuộc vùng đất cát pha. Bên dưới tầng cát pha là tầng đất sỏi. Mưa nhiều, nước rút rất chậm. Nắng gắt, đất rất chóng khô. Những yếu tố này vô cùng bất lợi đối với trồng trọt. Qua các thời, cũng có những nổ lực cải tạo đồng ruộng, nhưng chỉ là cải tạo tầng canh tác mỏng ở trên mặt. Còn tầng đất sỏi bên dưới, là nền tảng của https://thuviensach.vn thiên nhiên, thì con người không nỡ. Vì muốn cải tạo tầng đầt này là phải hốt nó đi, có nghĩa sẽ biến đồng ruộng thành một cái hồ chứa mênh mông. Thổ nhưỡng như thế, nên sản lượng bất cứ loại cây trồng nào cũng thấp. Trong khi đó sản lượng con của dân cày ruộng thì luôn tăng. Cho nên thời nào cũng nghèo đói. Và do nghèo đói, con người ở đây đã không ngừng tư duy trong cuộc mưu sinh. Từ đó mới có nền văn minh nông nghiệp vào loại sớm nhất của nhân loại. Như vậy là nghèo đói đã sinh ra văn minh. Nét tổng thể thứ tư là sự độc đáo trong cách đặt tên đất tên làng. Là gắn với một ngành nghề có vẻ hiếm hoi, hay gắn với tên một nhân vật có hành tung khác thường nào đó. Chẳng hạn làng của ông Ruông có tên làng Dầu. Rừng núi Tượng có nhiều cây dầu rái. Dân làng Dầu phần lớn là những thợ lấy mủ dầu rái. Có một thời trong vận tải đường thủy (cả sông lẫn biển ) người ta dùng thuyền nan trét bằng dầu rái. Một thời, khi chưa có đèn điện, người ta thắp sáng bằng đèn dầu rái. Những cây đèn được chế tạo bằng cách đem mủ dầu rái trộn với mùn cưa hay gỗ vụn, gói lại bằng lá đèn thành những đòn bánh như bánh tét, khi thắp lên xóm làng cũng sáng trưng như thắp điện. Ông Ruông bảo nếu không có điện thì làng ông vẫn chẳng sợ, vì ở đây đã sẵn có một nền văn minh bản địa về thắp sáng. Như thế, khi nghe gọi làng Dầu, người ta lập tức hiểu rằng nơi đó có liên quan đến việc sản xuất dầu rái. Còn khi nghe gọi làng Gàu, làng Nong thì biết ở đó có những người đương gàu múc nước, đương nong nia, thúng mủng. Nhưng khi nghe nói đồng ông Cộ người ta liền bị kích thích phải tìm hiểu sự tích về một con người sống cùng thời với Vương Mãng bên Tàu. Vương Mãng khi được ngôi vua thì làm biến pháp kinh tế. Còn ông Cộ, theo tương truyền, là người đã chế ra cái xe cộ bánh ngang, xe giống hệt chiếc giường nằm đặt ngửa, để vận chuyển than, củi từ rừng núi Tượng về. Đồng ông Cộ là do ông ấy khai phá. Như thế là vào đầu công nguyên, ở vùng đất này đã có phát minh cơ giới. Ta lấy làm tự hào vì đã được sinh ra ở một miền đất có một nền văn minh bản địa lâu đời như thế. Thời cổ xưa có lắm người học rộng, tài cao. Có người làm quan đến cấp triều đình. Lại có người là tướng đánh giặc rất giỏi. https://thuviensach.vn Có điều ta lấy làm lạ vì sao một vùng đất cái gì cũng có vẻ khác thường, cái gì cũng có vẻ độc đáo như vậy, văn minh mà sinh từ nghèo đói là không khác thường là không độc đáo hay sao, một vùng đất như vậy mà lại không có ai ra làm vua. Mà thôi, không có ai ra làm vua cũng được đi. Nhưng con người ở đây thì luôn tư duy về sự tồn tại, mà lại không sản sinh được một vị triết gia nào, nghĩ cũng lạ. Đang phóng cái nhìn tổng thể về đất quê của mình, ông Ruông đãdừng lại để mở ngoặc đơn, ghi nguồn hứng khởi bất chợt của ông. Đoạn văn trên là ở trong ngoặc đơn Còn sau đây là sự thay đổi qua các thời. Trước năm 111 trước công nguyên có sự kiện trọng đại là sự xuất hiện của ông Bảy Mươi Sáu. Căn cứ vào các tài liệu khảo cổ học, ông Ruông thấy miền núi Tượng sông Tượng của ông nằm trong vùng văn hóa Sa Huỳnh. Cũng theo phát hiện khảo cổ học thì từ những ngàn năm trước công nguyên cư dân của văn hóa Sa Huỳnh đã sống đan xen với cư dân văn hoá Đông Sơn có nguồn gốc ở phương bắc. Như thế, khi ông Bảy Mươi Sáu xuất hiện ở đây thì cả một vùng rộng lớn chung quanh đã có những cư dân mang sắc thái đa văn hóa. Vì không thể tra cứu được lúc bấy giờ miền núi Tượng sông Tượng thuộc bộ tộc nào hay quốc gia nào, nên ông Ruông gọi thời này là thời chưa có chánh phủ. Các cổ thư Việt Nam và Trung Hoa đều chép rằng vào năm 111 trước công nguyên, nhà Hán của Trung Hoa đã chiếm được nước Au Lạc, và tiến chiếm thêm một miền nữa ở phía nam Au Lạc đặt tên là quận Nhật Nam để sáp nhập vào hai quận cũ của Au Lạc là Giao Chỉ và Cửu Chân. Ông Ruông tra cứu thấy miền đất quê ông lúc ấy là cực nam của huyện Tượng Lâm, mà Tượng Lâm là huyện cực nam của quận Nhật Nam. Như thế, vào năm 111 trước công nguyên, miền núi Tượng sông Tượng thực sự được đứng vào một đất nước có tên tuổi hẳn hoi là Au Lạc, và là biên cảnh phía nam của Au Lạc. Có điều nước Âu Lạc lúc ấy không còn được vua Thục trị vì, mà do vua Hán cai trị. Nói là cai trị, thực chất thì người Hán chỉ giữ các https://thuviensach.vn chức thứ sử, thái thú, tức chức trưởng châu, trưởng quận, còn các địa phương thì vẫn còn giữ nguyên bộ máy hành chánh cũ. Ngồi ở kinh đô Trường An, rồi kinh đô Lạc Dương, vua Hán chỉ huy các vị thứ sử và thái thú làm công việc Hán hóa người Au Lạc. Nhưng rốt cuộc thì người Au Lạc vẫn nói tiếng Au Lạc, vẫn ăn ngủ, đi đứng, nghĩ ngợi theo cách Âu Lạc. Vào cuối thế kỷ thứ hai sau công nguyên, ở huyện Tượng Lâm có một người, sử cũ gọi là Khu Liên, đã kêu gọi đồng bào mình đứng lên phá ách cai trị của nhà Hán, rồi thành lập một nước mới là nước Chăm Pa. Từ đó thì miền núi Tượng sông Tượng của ông Ruông lại tách ra khỏi Au Lạc đề đứng vào Chăm Pa. Từ cuối thế kỷ thứ hai đến cuối thế kỷ thứ mười lăm sau công nguyên, ông Ruông gọi là thời kỳ lịch sử có nội dung phong phú. Trong khi những người Âu Lạc ở Nhật Nam thành lập được nước mới, thì những người Âu Lạc các quận Giao Chỉ và Cửu Chân phải tiếp tục chống cuộc xâm lược của người Trung Hoa, đến thế kỷ thứ mười mới giành được chủ quyền, và sang thế kỷ mười một thì triều Lý lấy tên nước là Đại Việt. Ông Ruông bảo có thể nói đến thế kỷ thứ mười một sau công nguyên thì nước Âu Lạc cũ đã trở thành hai nước mới là Đại Việt và Chăm Pa. Bấy giờ ở phía nam Chăm Pa đã có nước Phù Nam có nền văn minh rất sớm và rất hiếu chiến. Và hậu thân của Phù Nam là Chân Lạp và Ăng Co. Trong thế kỷ mười một thì các vua Lý của Đại Việt đã đánh nhau với các vua Sinhavarman II (Sạ Đẩu) và Rudravarman III (Chế Củ) của Cham Pa. Trong thế kỷ mười hai thì vua Suryavarman II của Ang Co rủ vua Indravarman III của Cham Pa tiến đánh Đại Việt. Nhưng sau đó thì vua Suryavarman II lại quay lại chiếm Cham Pa. Rồi sau đó nữa thì lại đến lượt vua Indravarman III đánh chiếm Ang Co. Trong thế kỷ mười bốn, vua Chăm Pa Sinhavarman III (Chế Mân) cưới công chúa Huyền Trân, con gái vua Trần Nhân Tông của Đại Việt. Nhưng sau đó thì vua Chế Bồng Nga của Chăm Pa lại cướp phá kinh đô Thăng Long của Đại Việt. Ông Ruông bảo cũng chỉ vì chuyện muốn nới rộng bờ cõi mà có sự bất hòa giữa ba nước đó. Hay cũng có thể là do nước nào cũng muốn làm minh chủ vùng đất Đông Nam Á này.Vào cuối thế kỷ mười lăm, triều Lê của Đại Việt đã lấy được đất của Chăm Pa từ huyện Tượng Lâm cũ https://thuviensach.vn trở ra. Như thế là miền núi Tượng sông Tượng của ông Ruông lại nằm trong Đại Việt, tức trở về với đất cũ Âu Lạc. Trong thế kỷ mười bảy ở Đại Việt có xảy chuyện phân tranh giữa hai họ Trịnh, Nguyễn. Họ Trịnh làm chúa ở phía bắc nước, gọi là Đường ngoài. Họ Nguyễn làm chúa ở phía nam nước, gọi là Đường trong. Miền núi Tượng sông Tượng của ông Ruông nằm ở Đường trong. Nhưng dù là Đường trong hay Đường ngoài thì cũng vẫn là Đại Việt. Đầu thế kỷ mười chín thì triều Nguyễn đổi tên nước thành Việt Nam, rồi Đại Nam, rồi lại Việt Nam. Đến hậu bán thế kỷ hai mươi, trong cuộc chiến tranh chống việc xâm lược của người Pháp và người Mỹ, đất nước có bị phân thành hai miền nam bắc, đất quê ông Ruông nằm ở miền nam, nhưng dù là miền nam hay miền bắc thì cũng vẫn là Việt Nam, hậu thân của Đại Việt. Như thế, kể từ cuồi thế kỷ mười lăm trở về sau thì miền núi Tượng sông Tượng không còn có cảnh nhập vào hay tách ra khỏi một miền rộng lớn hơn như những thế kỷ trước đó Ông Ruông cho là đất quê ông đã gặp may. Trải mấy nghìn năm thanh bình thì ít, chiến chinh ly loạn thì nhiều, thế nhưng miền sông Tượng núi Tượng của ông đã không bị xóa sổ, có nghĩa cái địa danh ấy vẫn còn tồn tại trên đời này. Nhưng ông nói đây cũng là nằm trong cái may chung của đất nước. Là vào cuối đại Cổ Sinh thì nền móng đất nước Việt Nam của ông đã hình thành xong. Tức đất đai cơ bản của đất nước đã nhô lên khỏi đại dương nguyên thủy. Nếu không, thì chưa chắc các chu kỳ tạo núi trong các đại Trung Sinh và Tân Sinh sau đấy đã để cho một dãi đất như thế tồn tại trên mặt đất này. https://thuviensach.vn Nguyễn Thanh Hiện Người đánh cắp sự thật HỌC THUYẾT CỦA NGƯỜI SẮP CHẾT Khi nghiệm lại cái may chung của đất nước, ông Ruông càng thấy qúi dòng họ của mình. Dòng họ Lê của ông tồn tại cho đến đời ông là quá kỳ diệu. Ở miền núi Tượng sông Tượng biết bao dòng họ nay chỉ nghe nói đến mồ mả chứ chẳng còn người nào. Nên ông có nảy ý muốn các bậc tổ phụ của mình đều trở nên vĩ đại đối với con cháu nhà họ Lê là cũng phải thôi. Có một vị tổ phụ, nếu không có ý này nọ của ông Rường hàng xóm, ông Ruông đã xếp vào hàng các nhà xã hội tầm cỡ thế giới. Đó là vị tổ phụ thứ ba của dòng họ Lê, ông Ba, tức ông nội ông Ruông. Trong Hồ Sơ Các Bậc Tổ Phụ, ông Ruông mở đầu truyện chép về ông nội mình như sau : Nếu như một vì vua muốn nới rộng đất nước mình đang trị vì, thì ông nội ta cũng muốn nới rộng khoảnh ruộng ông đang cày. Bỡi vì nới, tức là làm cho hơn cái đương có (rộng hơn, dài hơn, nặng hơn, … ), được coi như một thứ xu hướng khó có thể tránh được, hoặc có thể nói là không thể thiếu được trong cuộc tồn sinh của muôn loài. Nhưng có điều chắc chắn không phải vì ham muốn giống vua mà ông Ruông xếp ông nội mình vào hàng các nhà xã hội. Cũng đều là nới, nhưng theo ông Ruông thì nới nước đơn giản hơn nhiều so với nới ruộng. Thì cứ việc gây sự với một nước láng giềng, hoặc một nước nào đó không láng giềng cũng được (nước ông Ruông nói ở đây là khái niệm bao gòm cả đất đai và người ở) rồi xua quân đánh chiếm, thắng, tất sẽ được thêm đất thêm dân. Đại để xưa nay, nới nước là vậy. Tất nhiên là khi gây sự, người ta phải viện đến một thứ lý do nào đó thuộc hạng mục chính nghĩa, tức không thuộc phi nghĩa, tức cũng không thuộc vô nghĩa, hoặc là https://thuviensach.vn nhân danh một học thuyết, một lý thuyết nào đó, cũng nằm trong hạng mục không phải phi nghĩa hay vô nghĩa. Có nghĩa, dù hành động gây sự đó là phi nghĩa hay vô nghĩa thì cũng nói làm sao cho trở thành chính nghĩa. Điều này kể ra cũng dễ làm thôi, bỡi vì nói chẳng qua là cách kết hợp các hình thức ngôn ngữ theo ý muốn chủ quan của người nói. Các cuộc nới nước diễn ra trong những thế kỷ qua hầu như được tiến hành cùng một cách thức ấy, nếu có khác là khác về nơi chốn diễn ra. Như vậy nới nước đã trở thành một kinh nghiệm lịch sử, thứ kinh nghiệm luôn hấp dẫn những kẻ thích qui hoạch lại thế giới. Trong khi đó thì chưa hề có một đúc kết nào về việc nới ruộng. Không thể đi gây sự với ruộng bên, như gây sự với nước láng giềng, bỡi không thể gây sự với đất đai. Và cũng không thể nới ruộng bằng cách lùa bò sang cày ở ruộng bên. Ông nội ông Ruông sống trải qua bốn triều vuaThành Thái, Duy Tân, Khải Định và Bảo Đại. Luật vua cũng như lệ làng (tức luật bất thành văn) thời ấy chưa để cho ai nới ruộng theo cách cứ việc lùa bò đến cày ruộng người khác theo kiểu xua quân sang nước khác trong việc nới nước. Nói gút lại, nới ruộng là công việc làm tùy thuộc mỗi hoàn cảnh trong cuộc sống. Có thể nới ruộng chỉ là ước mơ của cả một đời người. Có thể nới ruộng là làm công việc mua thêm ruộng. Trường hợp nới ruộng này chỉ xảy ra khi có tiền bạc và có người muốn thu hẹp ruộng, tức có người bán ruộng. Cũng có thể nới ruộng bằng cách sinh con cho đông để nhận được nhiều ruộng công điền. Trường hợp này thì lệ thuộc vào chế độ ruộng đất của nhà nước. Việc nới ruộng của ông nội ông Ruông lại lệ thuộc vào những con bờ của khoảnh ruộng độc nhất của ông. Trong bốn khoảnh liên bờ với ruộng ông có một khoảnh là của ông nội ông Rường. Phải nói rằng ông nội ông Rường cũng là người có đầu óc làm ăn (nói theo ngày nay là có tư duy kinh tế) chẳng kém ông nội ông Ruông. Phải nới rộng diện tích ruộng để tăng sản phẩm thóc. Cả ông nội ông Ruông cả ông nội ông Rường đều đặt ra kế hoạch nới ruộng bằng cách bớt bờ. Mà trong bảy bờ ruộng của hai khoảnh đó thì chỉ có mỗi cái bờ chung của hai khoảnh đó là lớn nhất. Điều này có nghĩa là hai ông đều có kế hoạch xén bớt cái bờ chung đó. Nhưng nới https://thuviensach.vn ruộng theo cách đó không phải là công việc làm giữa thanh thiên bạch nhật. Có nghĩa người này làm công việc này trong lúc không có người kia. Có nghĩa là lén lút. Đến lúc nhìn thấy cái bờ ruộng chung đó còn quá mỏng thì cả hai đều cảm thấy hoảng hốt (không có bờ thì lấy cái gì để phân biệt ruộng tôi ruộng anh) nên cả hai liền tung ra thứ ngôn ngữ nhằm ngăn chận việc làm của đối phương, nói rõ ra là chửi rủa, là nguyền rủa. Ông nội ông Ruông nói về ông nội ông Rường : -Đấy là giống người không còn biết liêm sỉ. (Cũng còn công nhận là con người. Chỉ có điều là con người không còn phân biệt sai đúng) Ông nội ông Rường nói về ông nội ông Ruông : -Đấy không phải là giống người. (Không còn công nhận là con người) Tất nhiên là người này nói về người kia trong lúc không có người kia. Sở dĩ những lời ấy tới tai hai người là nhờ người làng thuật lại. Cho đến hôm cái bờ chung đó đổ thì cả hai đều nhận ra rằng những lời nguyền rủa nhau kia là hoàn toàn vô ích. Bỡi những lời ấy có độc địa đến mấy, hay tàn nhẫn đến mấy, thì cũng chẳng thể thay được cái bờ ruộng chung. Như thế là phải giăng dây để thay cho bờ. Nhưng cây lúa lại mọc lan, phân bón ruộng bên này lại chảy qua bên kia. Về cây lúa mọc lan, để mùa lên dễ thu hoạch, hai ông đã gieo hai giống lúa khác nhau. Và cả hai đều không dùng phân bón nữa. Cho nên mùa lên, thóc của cả hai khoảnh đều chỉ còn một nửa. Từ đó, hai người không còn để trông thấy mặt nhau. Còn lòng thù hận thì mỗi ngày như một to lớn thêm. Cho đến khi có một người trong làng muốn giảng hòa hai ông, đã đem hai khoảnh ruộng của mình đổi lấy hai khoảnh ruộng không còn bờ chung ấy, niềm thù hận trong hai con người đó vẫn chẳng giảm chút nào. Rồi cả hai đều già yếu, không còn ra ruộng nổi nữa. Rồi ông nội ông Ruông ngã bệnh nặng. -Hãy sang nói với ông ấy cho cha được nhìn thấy mặt trước lúc chết. Ông nội ông Ruông nói với người con trai lớn nhất, tức nói với vị tổ phụ thứ hai, tức cha ông Ruông, tức Lê Hượt. https://thuviensach.vn Ông nội ông Rường sang. Dường niềm thù hận biết hai con người này chẳng còn sống bao lâu nữa, nên đã bỏ tìm đến những kẻ khác. -Ở trong làng bấy lâu nay tôi cũng như người đã chết. Vì có bao giờ ông trông thấy tôi đâu. Ông nội ông Ruông khóc, nói. Ông nội ông Rường cũng khóc : : -Thì tôi cũng như ông đấy thôi. Vì bấy nay ông có trông thấy tôi đâu. -Nghĩ chuyện cũ cứ thấy tiếc cho ông và tôi -Phải. Giá đừng xảy chuyện ấy. Ông nội ông Ruông vì bị xúc động, nấc mấy tiếng. -Đừng ông. Đừng chết Ông nội ông Rường có vẻ hoảng sợ. Nhưng ông nội ông Ruông đã chết thật. Điều đáng nói là trước khi trút hơi cuối cùng, ông đã nói được một câu, tuy chưa phải là trọn câu, cũng có thể nói là có thể để đời. -Giá như cả thế gian không cần đến cơm gạo… Khi nhắc chuyện cũ, ông Rường và ông Ruông đã có cuộc tranh cãi khá bề thế về nghĩa của lời trăn trối nói trên. Ông Rường : -An cơm gạo thì sao? Còn không ăn cơm gạo thì sao? Ông Ruông : -Không ăn cơm gạo là chuyện lớn, ta sẽ bàn sau. Còn ăn cơm gạo thì như tôi với ông. -Như tôi với ông là sao? -Là như ông với tôi. -Ông không được nói cù xây -Chẳng phải như tôi với ông là cũng giống như ông với tôi hay sao. Tức là tôi với ông có lúc thì thân tình nhau, đến mức như anh em một nhà, nhưng có lúc cũng giận hờn nhau, cũng cãi nhau chí chóe, và biết đâu chừng lại dẫn đến thù địch nhau như ông nội ông và ông nội tôi. Có phải như tôi với https://thuviensach.vn ông đại khái là thế hay không? -Thế theo ông, khi ăn cơm gạo thì con người ta có thể thân nhau mà cũng có thể thù nhau -Hay nói một cách hay hơn, khi con người còn cần đến cái ăn cái mặc thì cũng có thể nhường cơm xẻ áo cho nhau, mà cũng có thể chém giết nhau. -Cứ cho là thế. Còn không ăn cơm gạo thì sao? -Theo ông thì sao? -Thì chết chứ sao. Như thế là trước khi chết, ông nội ông lại ước muốn mọi người trên thế gian đều chết. -Đấy chỉ là cách cắt nghĩa của ông. -Thế theo ông, ông nội ông nói thế là sao? -Ông từng đi lính Tây, sang tận châu Âu châu Phi, chắc ông đã nghe nói đến những nhà xã hội Âu Mỹ, tức những người đã đưa ra những học thuyết để xây dựng xã hội loài người. -Có phải ông muốn cho rằng ông nội ông cũng là nhà xã hội? -Phải. Khi sắp bước qua cõi khác, ông nội tôi đã nhìn thấy được một cách tồn tại của loài người không cần đến cơm gạo. Vì tồn tại theo cách này thì con người không còn thù hận , chém giết nhau. Ông cũng chớ nên hỏi thế thì ăn gì để sống. Đây là học thuyết. Là lý thuyết. Còn thực hiện thế nào thì hậu thế chúng ta phải nghĩ ra. -Có nghĩa ông nội ông cứ việc đưa ra những lý lẽ tốt đẹp cao siêu, rồi chết, mặc cho người ta có theo được hay không, chẳng cần biết. Chính là ông Ruông sợ đám con cháu nhà họ Lê của mình cũng nghĩ như ông Rường, nên đã không xếp ông nội mình vào hàng những nhà xã hội tầm cỡ của thế giới. https://thuviensach.vn Nguyễn Thanh Hiện Người đánh cắp sự thật KIẾM KHÁCH Như thế là sau khi tranh cãi với ông Rường, ông Ruông đã giải mã được lời trăn trối của ông nội mình. Ông Rường làm ra vẻ là mình cũng đồng tình với cách giảng giải đó, nhưng sự thật thì vẫn còn khúc mắc trong lòng. -Có phải ông đã nghĩ ra chuyện học thuyết này nọ, rồi đem gán cho công nghĩ ngợi của ông nội mình? Ông Ruông nói: -Muốn nghĩ được những chuyện như thế, đòi hỏi người đó phải là kẻ đi nhiều, và nghe thấy được nhiều. Mà tôi thì không phải là loại người đó. Câu nói này lập tức làm trổi dậy trong ông Rường niềm tự hào của một người coi như đã đi khắp năm châu bốn biển. Mười bảy tuổi ông Rường đi cạo mủ cao su ở một đồn điền cao su ở Nam Kỳ. Chủ đồn điền là một người Pháp da trắng ra tận miền núi Tượng sông Tượng để mộ phu. Người làng vì ghét tụi thực dân, khuyên cha mẹ ông Rường đừng cho ông đi. Song, ông đã trốn nhà ra đi. Ở đồn điền cao su, ông bị thực dân Pháp bắt vào lính viễn chinh với cái tên mới Lê Vi, và được đưa sang châu Phi. Thế chiến thứ hai bùng nổ. Đơn vị lính viễn chinh của ông ở Angiêri lại được đưa qua nước Pháp để đánh nhau với Hítle. Như thế là cuộc phiêu bạt của ông Rường đã trải qua các biển Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Đại Tây Dương, và Địa Trung Hải, và trải qua các đất nước thuộc châu Á, châu Phi và châu Âu. Chiến tranh thế giới kết thúc, người Pháp trả ông về nước. Về đến quê là ông lập tức đem ra áp dụng những điều đã nghe thấy ở xứ người. Trước nhất là việc thắp sáng. Đêm đến thì người làng Dầu tụ tập ở sân nhà ông để tận hưởng niềm vui được ngồi dưới thứ ánh sáng sang trọng của cây đèn măng sông. Không phải có trăng là quên đèn. Có nghĩa vào những đêm có trăng, ông Rường vẫn đốt đèn măng https://thuviensach.vn sông lên cho bà con trong làng tới chơi. Con người thuộc thời văn minh là không nên đứng ở giữa trời để tắm nước giếng. Đây là lời khuyên đầu tiên của ông đối với bà con trong làng. Nhà tắm của ông kiến trúc như sau : Vách mầm trỉ trét đất, như vách nhà ở. Bồn chứa nước là chiếc chum sành đặt ở bên trên đầu vách. Chum có đục lỗ ở đáy, và có nút nhét. Khi tắm, mở nút nhét ra, thôi tắm thì nhét nút lại. Nước giếng là múc bằng gàu, rồi đứng lên ghế để đổ vào chum. Có ai hỏi có phải bên Tây người ta cũng làm thế hay không. Thì ông bảo cứ xem đấy thì rõ. Nhưng người đến xem đông nhất là lúc ông khai phá vùng rừng núi Tượng tiếp giáp với đồng Đất Sét để lập trang trại chăn nuôi. Một trăm con gà mái đẻ đợt đầu gần cả nghìn gà con. Quả là ở miền sông Tượng núi Tượng cả nghìn đời qua chưa ai làm được như ông. Có điều, do thiếu thức ăn và thuốc men, nên sau đó không lâu cả gà mẹ lẫn gà con đều chết sạch. Nhưng vấn đề không phải gà chết, mà là đầu óc đáng nể của một con người biết ứng dụng những thành tựu của văn minh. Những ngày cuối đời, niềm vui của ông là được kể cho mọi người nghe những gì ông đã nghe được, đã nhìn thấy được ở xứ người. Có dịp là bao nhiêu kiến thức lập tức được sắp xếp lại thành lớp lang. Châu Au châu Phi là những xứ sở thế nào. Thế chiến là sao. Đó là những câu chuyện tràng giang đại hải, nhưng lúc nào cũng có lời bình luận hẳn hoi. -Nếu tôi nói không sai thì ông là người đang truyền bá học thuyết nghe nhìn Ông Rường là cực kỳ thích câu nói ông Ruông đã dành riêng cho mình. Bữa đó là đang bàn về ông nội ông Ruông. Nhưng cũng chỉ vì một câu nói khác của ông Ruông, ông Rường đã khoái chí nói leo qua chuyện thế chiến. -Một triệu lính Đức đổ vào Ba Lan. Chưa đầy một tháng, Hít le đã chiếm xong nước ấy. Thế là thế chiến bùng nổ. -Tôi đọc sách cũng có biết chuyện ấy. -Nhưng đấy chỉ là sách. Còn tôi đây, nếu không nhìn tận mắt, thì cũng được nghe tận tai. -Phải. Tôi chỉ nhờ sách mà biết, không thể đem ra so với ông. -Ông biết không, lúc Hít le chưa chiếm Ba Lan, mới dọa sáp nhập Áo vào Đức, các vị thủ tướng Anh thủ tướng Pháp đã sợ cuống lên. Thủ tướng Anh https://thuviensach.vn một ngày đi không biết mấy lượt, hết đến Viên lại quay lại Béc lanh, máy bay tốn không biết bao nhiêu là xăng. Này, ông đã già rồi, hãy giao nước Áo cho người khác. Ông Săm béc lanh nói. Nước mắt của vị quốc trưởng thất thế chảy ướt hết bài diễn văn từ chức. -Chắc là ông đang nói đến việc thủ tướng Chamberlain khuyên bảo quốc trưởng Áo Schuschnigg hãy làm theo yêu sách của Hitle ? -Đúng rồi. Hiểu biết của ông cũng rộng đấy. Bấy giờ thì đám lính Pháp ở Ang giê ri cười mũi, vì nghe đâu thời xưa đế quốc Phổ Áo cũng đã làm khổ nước Pháp. Nhưng điều làm tôi tức cười là khi nghe Đức đổ bộ Pháp, chiếm được Pa ri, thì bọn họ lại khóc. -Chứ ông bảo bọn họ phải cười hay sao? -Tôi đâu có bảo bọn họ phải cười. Là tôi thấy tức cười. Vì chuyện cười khóc ở thế gian là mỗi người theo mỗi cách. -Ông cứ làm tôi phải nghĩ ngợi. -Phải. Những người Pháp đứng trên đất nước họ đang chiếm đóng để khóc cho đất nuớc mình bị chiếm đóng. Những người Ang giê ri cũng đứng trên đất nước đang bị chiếm đóng của mình để khóc cho đất nước mình bị chiếm đóng. Nước mắt nào lại chẳng mặn. -Còn ông, chắc làbấy giờ chẳng còn nước mắt để khóc -Bấy giờ ở châu Âu lắm chuyện nực cười lắm. Lúc nước Pháp gặp hoạn nạn thì nước Anh muốn nuốt nước Pháp. Đức ký với Anh ký với Pháp ký với Nga, là không xâm phạm nhau. Nhưng đánh Anh đánh Pháp đánh Nga thì vẫn cứ đánh. Lúc xảy thế chiến thứ hai, chỉ trong vòng ba bốn năm, nước Pháp có đến ba bốn ông chính phủ. Lúc mới nổ chiến tranh là chính phủ Đa la đi ê, rồi Rây nô. Lúc Đức đã chiếm Pháp là chính phủ Pê tanh. Sau đó thì đơn vị lính hỗn hợp của bọn tôi ở Ang giê ri có cả người Việt Nam, người Ang giê ri, người Ma rốc, người Tuy ni di, người Pháp da trắng, người Pháp da đen, đạo thiên chúa có, đạo Hồi có, sau khi đầu hàng quân đồng minh, sau một đêm ngủ dậy, lại được nghe tuyên bố rằng từ bữa ấy bọn tôi thuộc chính phủ của những người Pháp tự do, đứng đầu chính phủ tự do đó là tướng Đờ Gôn. https://thuviensach.vn -Mỗi lần nghe ông kể chuyện, tôi lại thấy ông như một pho sử sống. -Chuyện đó đã rõ. Chỉ cần nói thêm với ông rằng Phan Rường thời trai trẻ đã dự vào trang sử oanh liệt của nước Phờ răng xe. -Ông muồn nói đến việc giải phóng nước Pháp khỏi ách phát xít Đức hồi năm bốn mươi bốn? -Phải. Từ ĐịaTrung Hải đổ bộ lên bờ biển phía nam Pháp. Rồi thọc sâu vào thung lũng sông Rôn, tiến về phía bắc. Rồi sau đó là hội quân ở Dijon. -Có nghĩa cánh quân đồng minh đổ bộ ở nam Pháp đã gặp cánh quân đồng minh đổ bộ ở Normangdi, bắc Pháp. -Phải. Tập đoàn quân thứ nhất của Pháp. Đó là đơn vị chiến đấu của tôi trong cánh quân đồng minh đổ bộ ở nam Pháp. Việc đuổi quân quốc xã ra khỏi nuớc Pháp trong đó có công của tôi. -Thì xưa nay ở làng ta có ai phủ nhận chuyện đó đâu. -Nhưng sẵn cuộc đây tôi phải tuyên bố thêm với ông rằng, việc tham gia đánh bại thằng cha Hít le, thằng cha đốt dân Do Thái, thằng cha đã làm chết mấy chục triệu người trên thế giới, là tôi đã dự vào trang sử oanh liệt của lịch sử thế giới. -Chuyện đó thì có thể nói như vậy. Vì bấy giờ cả thế giới chống phát xít, chứ riêng gì đám lính viễn chinh của ông. Nhưng chuyện dự vào trang sử nước Pháp thì phải xem xét lại. -Phải xem xét lại? Nhưng tại sao? -Lẽ ra lúc ấy ông phải làm công việc đuổi đám Pháp thực dân ra khỏi đất nước ông, chứ không phải sang giữ nhà cho nước Pháp, có phải vậy không? -Phải. -Thế đấy. Ông có tham chiến, nhưng là bị đưa đi tham chiến. Nên công của ông ở nước Pháp là công của một kiếm khách. -Là kiếm khách? Nhưng là kiếm khách của ai? -Thì cứ coi như là kiếm khách của Đờ Gôn. Lại một câu nói nữa của ông Ruông làm cho ông Rường thấy khoái chí. Sau cuộc chuyện trò ấy ông Rường đi khắp làng trên xóm dưới để nói cho mọi người biết một thời ông từng là kiếm khách của tướng Đờ Gôn.. https://thuviensach.vn Nguyễn Thanh Hiện Người đánh cắp sự thật VŨ KHÚC MÁU Sau cuộc chuyện trò ấy thì ông Ruông cảm tác được thơ : Là tên lính thuộc địa đi canh giữ thuộc địa Anh đang mất tất cả Cái đơn giản nhất là tên gọi của anh Cũng mất Nói chi cái lớn lao là tổ quốc Bỗng chiến tranh thế giới nổ ra. Anh liền bước vô trang sử oanh liệt của nhân loại. Phẩm giá con người liền được trả lại cho anh Ông Ruông làm thơ là để tặng ông Rường. Nhưng thơ lại tác động lại ông. Cả ngày lẫn đêm, ông bị ám ảnh bỡi một cuộc chiến ông nhớ là mình đã đọc ở đâu đó. Ông Rưởng sang: -Thơ ông làm cho tôi đã có kẻ đem ra bình đấy. -Bình như thế nào? -Cứ theo lời lẽ của thơ, người ta luận ra rằng nhờ có Hít le xâm lăng nước Pháp, tên lính thuộc địa là tôi mới lấy lại được phẩm giá làm người. Như thế chẳng khác nào nói Hít le đã mang lại phẩm giá cho tôi. Ông nghe có buồn cười không? -Nghe cũng buồn cười. Ông Ruông chỉ nói thế, rồi tiếp tục tìm kiếm gì đó trong đám sách ở trên giá. -Ông đang có chuyện gì phải không? -Đang chờ một vị kiếm khách -Một vị kiếm khách? Mà vị kiếm khách ấy là ai? Ông Ruông vẫn chúi mắt vô sách : https://thuviensach.vn -Sắp nhìn thấy rồi. Đừng hỏi Ông Rường quần ra nhà sau, nói riêng với vợ chồng anh Rác : -Coi chừng cha lũ bay sắp lâm bệnh đó. Theo tao, không chừng là bệnh lọan sách cũng nên. Vợ chồng anh Rác rất lo. Nhưng thằng cu Cỏ thì cứ theo nài nĩ ông nó : -Ông dẹp hết sách đi, kể chuyện sứ nhà trời với con rắn lừa đảo cho cháu nghe thôi. -Ừ, rồi ông sẽ kể. Phải khất với cháu, vì ông đang bị cuốn hút vào cuộc chiến giữa hai vương quốc Ăng Co và Chăm Pa Kinh đô Vijaya năm 1176. Quốc vương Indravarman III hỏi người tạc tượng: -Ta lên ngôi đến nay đã mười năm, ngót mười năm người vẫn chưa làm xong tượng thần vũ nữ là cớ làm sao? Người tạc tượng đăm nhìn về ngọn tháp phía nam kinh thành : -Thưa đức vua, sở dĩ phải phá đi làm lại như thế vì mỗi lần khắc xong lại thấy hình dạng thần nữ apsaras chưa hiện lên đầy đủ trong bản khắc. -Ngươi dựa vào đâu để nói thế? -Thưa, dựa vào trái tim hèn mọn của kẻ tiện dân này. Mười năm thầm yêu người vũ nữ nô lệ trong đám vũ nữ chốn cung đình Vijaya, người tạc tượng cố thể hiện trong bản khắc của mình một nụ cười huyền diệu mà lạnh lẽo u buồn. Mười năm để tạc một nụ cười của người con gái mình yêu. Và chàng đã làm được. Và cũng chỉ có mỗi mình nàng là nhận ra điều ấy -Hãy nói ra lời chàng dấu kín với em tự bấy nay. Nàng quì xuốn g chân chàng, nói. Người tạc tượng cũng quì, ôm lấy vũ nữ : -Em là thần nữ apsaras của ta, mãi mãi là của riêng ta Kinh thành không phải xôn xao vì cuộc tình của hai người, mà vì thần vũ nữ apsaras trẻ trung lộng lẫy đang hiện lên nơi tường thành kinh đô Vijaya. -Chính bàn tay ngươi đã tạo cho vương quốc ta nét kiều diễm của trần gian. https://thuviensach.vn Công lao kia là đáng giá ngàn vàng. Vua Chăm Pa lệnh cho quan giữ kho của triều xuất đúng một nghìn cân vàng để thưởng công người tạc tượng. Người tạc tượng cũng mang đúng một nghìn cân vàng lại trả cho vua. -Như thế là sao? Hay cho rằng chừng ấy vàng là chưa xứng với công lao của ngươi? -Thưa đức vua, nếu gộp hết của cải làm ra từ đời vị thủy tổ của dòng họ tiện dân đến đời kẻ tiện dân này thì cũng chưa bằng một phần nhỏ số vàng kia. Nhưng thưa đức vua, có một thứ còn quí hơn vàng kẻ tiện dân này luôn mong mỏi. -Nó là thứ gì vậy? -Thưa, không còn là thân nô lệ Quốc vương Indravarman III nhìn người tạc tượng : -Ta chỉ có vàng để cho ngươi. Còn thứ ngươi muốn thì phải cầu xin đấng Brahma. Vương quốc Chăm Pa và vương quốc Ang Co năm 1177. Vua Indravarman III muốn đất nước mình phía tây phải đến tận sông Salween và bán đảo Malaixia. Có nghĩa phải đánh chiếm vương quốc Ang Co. Hết thảy đàn ông trong nước, chẳng chừa ai, phải cầm gươm ra trận. -Ta cũng thân nô lệ như em, nên có chết trong lần chinh chiến này thì cũng chẳng phải là sự mất mát lớn lao gì đối với vua. Người tạc tượng nói với người con gái mình yêu. Nàng chỉ còn biết khóc để thay lời tiễn biệt. Vua Indravarman III bận áo cổ bối bạch diệp ra khỏi hoàng cung, thổi ốc, đánh trống, tức thì năm nghìn thị vệ theo hầu. Và đấy là chuyện thật: Ông đã đốt cháy kinh thành Angco Wát. Nơi đền Bantay Samrê đám vũ nữ của vua Ăng Co phải cử vũ khúc mừng thần vương mới của đất nước Ăng Co. -Kể từ nay lũ ngươi được trở về quê quán làm ăn sinh sống và sinh con đẻ cái. Trong niềm vui biên cương của đất nước được nới rộng, vua Indravarman III đã để cho người tạc tượng và người con gái chàng yêu được làm người không phải nô lệ. https://thuviensach.vn Vương quốc Chăm Pa và vương quốc Ang Co năm 1181. Ở miền núi Tượng sông Tượng người tạc tượng đã khắc xong tượng thần vũ nữ ở bệ tháp thần Shiva. -Em là nữ thần apsaras của ta, mãi mãi là của ta, nên hình ảnh em phải có mặt ở mọi nơi chốn trên mặt đất này. Người tạc tượng nói với với người con gái mình yêu, bấy giờ đã là vợ chàng. Ở đất nước Ang Co , Jayavarman VII đã mở trận thủy chiến trên sông Tônlêsáp. Tàu chiến của Chăm Pa bị đốt. Trên đất liền, bộ binh Chăm Pa cũng bị bại. Những gì của Ăng Co, Chăm Pa phải trả lại cho Ang Co. Đến lúc này cứ coi như huề nhau. Chăm Pa chiếm Ăng Co trong bốn năm, cũng bằng thời gian vua Suryavarman II (ông vua hùng cường của Ăng Co) chiếm Chăm Pa trước đó. Vua Jayavarman VII đào hồ chứa nước, đào kênh dẫn nước, cố làm cho ruộng đồng được nhiều thóc, xây thêm đền đài chùa tháp, cố làm cho kinh đô Ang Co mỗi ngày một to lớn hơn. Và có một thứ mỗi ngày cũng một to lớn hơn ở trong lòng vua : Muốn biến Chăm Pa vĩnh viễn thành thuộc quốc của ông. Vương quốc Chăm Pa và vương quốc Ang Co năm 119O. Lịch sử loài người như một cuộc chơi luôn làm náo động mặt đất. Trong cuộc chơi xảy ra vào năm 1190 thì vua Jayavarman VII đã thực hiện được phần đầu giấc mộng của ông. Vua Chăm Pa Indravarman IV đã bị bắt làm tù binh. Còn dân Chăm Pa thì bị bắt làm phu và làm lính. Làm lính đi chiếm đất người Lào ở thượng nguồn sông Mêkông, lấn đất người Môn ở lưu vực sông Irrawaddy. Làm phu đi đắp đường nối kinh đô Ang Co với Vijaya, đi xây đền Bayon, xây Angco Thom. -Ngày trước, đức vua Chăm Pa đã cho kẻ tiện dân được trở về miền sông Tượng núi Tượng này để sinh sống làm ăn. Người tạc tượng nói với thuộc hạ của vua Jayavarman VII. Nhưng người ấy bảo giờ chàng là thần dân của vua Ang Co, phải làm theo https://thuviensach.vn ý muốn của vua Ang Co, tức phải tiếp tục làm công việc tạc tượng ở kinh đô Ang Co. -Nay chàng phải đi làm thân nô lệ cho vua khác tức sẽ đi vào kiếp khác. Hai ta cũng đã có con trai nối dõi. Nên em xin đi trước chàng đây. Nói xong lời ấy, nàng liền tự vẫn. Đêm đêm có tiếng hát cất lên nơi khu đền Bayon ở đất nước Ang Co. -Apsaras, em mãi mãi là của ta, mãi mãi là của riêng ta. Dân kinh đô Ang Co ai nghe được cũng thầm nguyện cầu, vì cho rằng đấy là tiếng nói của một vị thần đa tình nào đó đang dạo chơi trên bầu trời kinh đô. Nhưng cũng lắm kẻ phát hiện ra rằng đây là tiếng hát của người tạc tượng mới từ Chăm Pa đưa đến để xây đền Bayon. Có một đêm, đám lính canh của vua Jayavarman VII vì nể người tạc tượng tài hoa đã cho chàng vào gặp vua Chăm Pa. -Là ngươi đó ư? Lịch sử đối với ta tựa một vũ khúc nhiều tầng cảnh. Ta vừa làm con đại bàng uốn lượn trên nỗi khiếp sợ của nhân gian, vừa làm con chuồn chuồn gãy cánh, không phải bay, mà trườn bò trên đất. Vua Indravarman IV nhìn người tạc tượng, rưng rưng nước mắt. Chàng cũng nhìn vua : -Thưa, có phải đức vua muốn nói là người đang vất vả sống những ngày như xưa kia ở đất nước Chăm Pa kẻ tiện dân này đã sống. Vua Chăm Pa gạt nước mắt : -Thì ngươi chẳng phải cũng đương là thân nô lệ đó sao? Người tạc tượng ngước mặt lên bầu trời sao : -Kẻ tiện dân này sắp thóat được rồi -Thoát bằng cách nào? -Thưa, xóa bỏ cả sự sống lẫn sự chết. Sáng hôm sau người ta phát hiện thấy tất cả các tượng thần Shiva và Vichnu ở khu đền Bayon đều bị chặt cụt đầu. Còn người tạc tượng thì đang ôm chặt lấy tượng thần vũ nữ chàng vừa mới tạc xong. Máu từ nơi lưỡi kiếm đâm xuyên ngực chàng vẫn còn chảy nhuộm đỏ cả người chàng lẫn tượng thần vũ nữ apsaras. https://thuviensach.vn Sau đó thì đám vũ nữ kinh thành Vijaya đã chế ra được một vũ khúc mà khi xem cứ thấy như máu đương tuông trào ra từ những xiêm y. Người tạc tượng ông Ruông tả trên là vị tổ phụ thứ bốn mươi ba của dòng họ ông. https://thuviensach.vn Nguyễn Thanh Hiện Người đánh cắp sự thật TỪ TIẾNG CỦA ĐẤT ĐÁ NƯỚC… VÀ LỬA Mẹ bảo khi sinh ta ra, ta đã khóc như mọi đứa trẻ khác. Thế gian nói đó là tiếng khóc chào đời. Nhưng ta thì ta biết đó không phải là khóc. Dường mọi sinh vật trên mặt đất này khi chào đời đều lặng lẽ. Chỉ có con người là không lặng lẽ. Có thể là Chúa, Phật biết trước thế gian là khổ ải là tội lỗi, nên khi chào đời đã khóc. Còn ta thì mù tịt, chẳng biết chi về chốn ta đương dấn thân vào. Từ lòng mẹ bước ra, ta chỉ cảm nhận được mỗi điều là mình vừa từ ngôi nhà bé nhỏ bước ra giữa trời đất mênh mông. Và trong khoảnh khắc tiếp xúc với đất trời ấy ta đã thốt ra tiếng nói đầu tiên. Một phần thịt xương của cha ta của mẹ ta đã cấu thành nên ta, một sinh thể đương có mặt tại trần gian. Mà thịt xương của cha mẹ ta là một phần của vũ trụ đại khối. Cho nên bấy giờ, tiếng nói đầu tiên của ta cơ hồ như tiếng của đất đá nước …và lửa. Chẳng chút ẩn ý, ta cứ nằm ngo ngoe cựa quậy giữa ánh sáng của buổi ban mai đang ùa đến quanh ta (ta đã được sinh vào buổi ban mai) Có lẽ đấy là công việc làm đầu tiên của đời ta. Phải, công việc làm đầu tiên của đời ta là ngo ngoe cựa quậy. Nếu nói cho ra vẻ một chút thì đó là thái độ phớt lờ trước sự thế. Bấy giờ, từ bà đỡ đến cha ta và bà nội ta đều cuống lên. Bà đỡ vội vội vàng vàng cắt rún, băng rún, rồi lau rửa cho ta. Cha ta chạy đi tìm áo quần cho ta, la toáng lên : Chỉ có áo, còn quần đâu chẳng thấy hữ mẹ thằng Bò? Còn bà nội thì hô hoán rằng bàn tay của ta là giống rặt bàn tay cha ta. Là do mắt mủi bà bấy giờ đã yếu mới nhận xét thế, chứ sự thật bàn tay ta cũng giống rặt bàn tay mẹ ta, bỡi bàn tay của cha mẹ ta và của ta đều đủ năm ngón. Trong khi cả nhà cuống lên, vì mừng có vì lo cũng có, thì ta cứ tự nhiên nhi nhiên nằm ngo ngoe cựa quậy. Mà cũng phải thôi. Bấy giờ cái sinh thể nhỏ bé ấy chẳng qua là một phần vũ trụ đại khối vừa mới được tách ra. Cho nên việc ngo ngoe cựa quậy của ta lúc bấy giờ cũng chẳng chút mưu toan như việc mưa rơi, nước chảy. Cho đến lúc mẹ nhay vú vào miệng ta thì ta mới bắt đầu nhận ra giữa mình và những người chung quanh là có mối liên hệ thân thiết. Ta vừa nuốt ngụm sữa đầu tiên thì nghe https://thuviensach.vn có bàn tay ai vừa vỗ nhẹ lên mông ta, vừa lắc lắc người ta. Vì mắc bú, không thể nhìn được, nhưng ta đoán chắc đó là bàn tay của mẹ ta. Tiếp theo, ta nghe mẹ bảo : bú cho no rồi ngủ nghe cục cưng của mẹ. Liền sau đó ta nghe cha ta hỏi : mẹ thằng Bò giờ ăn cháo hay ăn cơm? Mẹ ta bảo đẻ xong phải ăn cháo, nhưng cứ ăn cơm để có sữa cho con bú. Nửa khuya hôm ấy, mẹ ta vì mệt, lăn ra ngủ, quên cho ta bú, ta đã khóc thét lên. Cả cha ta lẫn bà nội ta đều chạy vào buồng ở cữ của mẹ ta. Mẹ thằng Bò dậy cho con bú đi. Cha ta gọi mẹ ta. Còn bà nội thì mắng mẹ là đồ ham ngủ. Mẹ vội vã ôm ta vào lòng. Tại mẹ thôi, con trai của mẹ đừng giận nữa. Mẹ ta vừa vỗ về, vừa nhay vú vào miệng ta. Lập tức ta hiểu ra mình bấy giờ là ông vua con trong nhà. Mà đã vua thì phải tỏ rõ quyền hành của vua. Lập tức ta nhả vú ra, và khóc thét lên. Mẹ ta cũng lập tức nhay vú vào miệng ta trở lại, và cất tiếng ru. Cái thằng này lớn cũng là thứ ngang bướng. Nghe cha ta nói thế, ta rất muốn cãi, ngặt vì đương bú. Ngang bướng là tính nết cần phải có của loài người, là đức tốt, sao lại gọi thứ nọ thứ kia? Ta đang tức, muốn cãi, thì cha ta đã cúi xuống, hôn từ những ngón chân cho đến mu bàn chân của ta, hôn thật là lâu. Vừa hôn, cha ta vừa ca cẩm : Bú cho no rồi ngủ, nghe ông trời con của cha. Giọng nói của cha ta có vẻ là rất thật. Ta nghĩ, chỉ trong chốc lát, từ ông vua con trong nhà, ta đã nhảy lên làm ông trời con, nên hết tức, mà cảm thấy rất vui. Ba ngày tuổi ta đã bắt những người thân trong nhà ca ngợi mình. Cha ta bận việc ruộng đồng, nên mẹ ta chỉ ở cữ ba ngày là ra ngoài để lo việc trong nhà. Bà vừa quét dọn, nấu nướng, vừa trông chừng ta. Nằm một mình ta đã cố nghĩ ra một việc làm gì đó cho đỡ buồn. Nhưng thử hỏi trình độ ta lúc ấy có thể làm được gì ngoài việc nằm ngửa ra, co tay chân mà giãy đập lên giường. Ta cứ co tay co chân lên, giãy đập liên hồi. Mẹ ta thấy thế liền khen : Con của mẹ múa võ giỏi lắm. Làm như thế thì gọi là giỏi ư? Ta nghe khoái chí ghê gớm. Nhưng mẹ ta chỉ nói thế rồi lại đi lo công việc của bà. Ta liền dùng lại sách lược mấy hôm trước là khóc thét lên. Thật tình mà nói, tới lúc đó ta cũng chỉ có mỗi sách lược đó để đối phó những người thân trong nhà. Mẹ ta liền quay lại chỗ ta : Múa võ nữa đi con, múa nữa cho mẹ coi đi. Còn lâu ta mới làm nữa. Ta chẳng thèm giãy đập, mà cứ khóc thét lên. Dù mẹ đã ẵm ta, nhay vú vào miệng ta, https://thuviensach.vn nhưng ta cứ khóc thét lên cho đến lúc cha ta ở ngoài đồng về. Sao thế hữ mẹ thằng Bò? Mẹ vội ra hiệu cho cha ta im. Rồi đặt ta xuống giừơng lại : Con của mẹ giỏi lắm, múa võ giỏi lắm. Cha ta cũng phụ họa vào : Ừ, múa võ cho cha coi, con của cha giỏi lắm. Lần này là tới ba lần khen ta giỏi. Và ta liền nằm ngửa ra mà giãy đập liên hồi trong niềm kiêu hãnh. Bảy tháng tuổi ta đã biết cách làm cho cha mẹ ta phải đáp ứng yêu cầu chẳng mấy chính đáng của mình. Bấy giờ là đã sang đông, mưa bay gió bấc, thời tiết chẳng mấy thích hợp với đám trẻ sơ sinh. Ta cũng bị ấm đầu sổ mũi và ho. Mẹ ta đi xin lá hẹ về chưng với đường phèn cho ta uống. Lần đầu tiên trong đời ta được uống thứ nước ngọt thơm gấp trăm lần sữa mẹ. Việc ấm đầu sổ mũi đã giảm thấy rõ. Nhưng ngặt nỗi ta cứ thấy thèm thứ nước đường phèn chưng với lá hẹ. Làm cách nào để được uống thứ nước ấy nữa? Ta nghĩ mất nửa ngày mới tìm ra được sách lược mới. Chờ cho đến lúc mẹ cho ta bú ta mới thực hiện được sách lược mới ấy. Mẹ vừa nhay vú vào miệng ta thì ta liền nhả ra, và ho. Ta ho thật là lâu. Cứ gân cổ mà ho. Nước mắt nước mũi của ta bắt đầu trào ra. Và mồ hôi ở đầu ở trán ta cũng bắt đầu rỉ ra. Cha thằng Bò đâu, vào xem con đây này. Mẹ ta quýnh quáng gọi cha ta. Thằng nhỏ bị cảm lại rồi, mà lần này nặng hơn đấy. Nghe cha ta nói, ta mừng vô kể. Song, để chắc ăn hơn, ta đã quyết định lần này phải lấy thật nhiều hơi để ho cho lâu cho cha ta thấy. Có điều, đến lúc ấy ta cũng đã thấm mệt, nên chỉ ho được hai ba tiếng là lăn ra giừơng mà thở. Nhưng cũng chính nhờ việc lăn ra giừơng mà thở ta đã được uống thứ nước đường phèn chưng lá hẹ trong bốn hôm liền. Bảy tuổi thì lời ta nói ra đám trẻ trong làng răm rắp nghe theo. Bỡi đó là tiếng nói của một bậc quân vương. Bấy giờ thì anh Hai Bò của ta đã chín tuổi. Phải nói là nhờ anh ấy ta mới được địa vị ấy. Tiếc một điều, lúc ta đạt được vinh quang thì anh không còn. Truyền cho ta cách tranh ngôi vua xong thì anh ấy mất. Thời ấy ở làng Dầu trò chơi chọi gà cỏ của bọn ta được coi như một hội vui mang bản sắc văn hóa bản địa. Đến mùa cỏ mồng gà nở thì tâm trạng bọn ta phức tạp lắm. Thấp thỏm lo, mà lại rất háo hức. Bỡi cuộc chiến ấy lại là một cuộc chơi. Từ việc chọn cỏ đến cách thức đánh nhau đều nói lên tầm trí tuệ và phong cách sống của mỗi đứa trẻ tham gia vào cuộc chiến. Có đứa thua trận lại thấy rất vui vì được https://thuviensach.vn tiếp tục đi hái cỏ mồng gà mới. Có đứa thua thì buồn đến bỏ cơm nước. Có đứa thua thì về nhà thuật cho cha mẹ nghe cảnh bại trận của mình với thái độ căm thù, đôi khi sự căm thù này còn truyền sang cho các bậc cha mẹ. Ta là một trong những đứa nếm mùi thất bại. Trong mùa chọi gà cỏ năm ấy ta luôn bại trận. Và đã đem nỗi căm thù không đội trời chung với đám trẻ trong làng ra nói với anh Hai Bò. Mày phải nghe cho kỹ đây. Hãy kẹp cho thật chặt con gà cỏ vào giữa ngón trỏ và ngón giữa. Đánh một cái là rút lui ngay. Nói rõ hơn, tiến một và lùi một. Tiến với lùi là liên nhau, không ngớt, và phải nhanh như chớp mắt. Không phải con gà cỏ ra trận. Mà là hai ngón tay của mày ra trận. Anh Hai Bò tóm lược chiến thuật chiến lược cho ta nghe. Mấy ngày sau thì anh lên sốt phát ban, và mất. Ta bỏ ra một năm để luyện hai ngón tay ra trận. Mùa chọi gà cỏ tiếp sau đấy ta đánh gục toàn bộ đám trẻ trong làng. Mấy trận đầu là ta làm tướng thống lĩnh đám quân cỏ của mình để lập những chiến công vang dội. Nhưng sau đấy thì bọn chúng bảo ta là vô địch, thôi, không cần tham chiến nữa, mà làm trọng tài cho chúng đánh nhau từng cặp một. Ta bảo là mình không hơi sức đâu để làm chuyện ấy. Tao làm vua. Còn lũ bay chia ra năm bảy phe, mỗi phe có một đứa làm tướng để chỉ huy đánh nhau. Vua nói phe này thắng là thắng, nói thua là thua. Ta nói. Tất cả bọn chúng cùng ứng lên : Hoan hô anh Ba Ruộng ( lúc ấy ta còn mang tên Ruộng). Hoan hô vua cỏ (vua chọi gà cỏ được chúng gọi tắt là vua cỏ) Như thế là ta cho hai phe một đánh nhau, tướng đánh với tướng, quân đánh với quân. Nhưng sau một chặp, khi đã nổi máu hăng, chúng đánh nhau loạn xạ. Đám gà cỏ rơi loạn xạ. Chẳng đứa nào trong phe biết phe mình thắng hay thua. Nhưng đã có ta là vua. Khi vua hô phe này thắng, phe kia thua, thì lập tức bọn thắng xông vào bắt bọn thua làm ngựa cho chúng cỡi dạo chơi trên chiến địa. Đó là luật. Suốt mùa chọi cỏ ấy ta kiêu hãnh ngắm nhìn nỗi thống khổ của lũ bại trận. Mười bảy tuổi ta hiên ngang bước vô lĩnh vực tình cảm gái trai.Và vẫn giữ nguyên niềm kiêu hãnh trước nỗi thống khổ của lũ con gái choai choai trong làng đương tuổi dậy thì. Bọn chúng có âm thầm đeo đuổi ta không, ta chẳng cần bíết. Nhưng ta thì vô cùng thích thú khi nghĩ rằng bọn chúng đang khổ đau, vì ta chẳng chịu mở lời với bất cứ đứa con gái nào. Thật khó kể ra hết những sản https://thuviensach.vn phẩm của niềm kiêu hãnh đã theo suốt cuộc đời ta. Cho nên vào những ngày cuối đời ta có nảy ý muốn vĩ đại với con cháu chơi thì cũng chẳng có gì là lạ. Những lời trên được chép trong Hồ Sơ Các Bậc Tổ Phụ, ngay sau chuyện chép về vị tổ phụ thứ bốn mươi ba. Bên dưới có ghi chú thế này : Tiểu sử Lê Ruông từ lúc mới sinh đến mười bảy tuổi, hay Một góp phần nghiêm túc vào cuộc chơi nhân thế. https://thuviensach.vn Nguyễn Thanh Hiện Người đánh cắp sự thật NHỊP ĐIỆU VUI Thằng cu Cỏ là cực kỳ khoái chuyện làm vua cỏ. Khi nghe ông Ruông nói phải bỏ ra một năm luyện hai ngón tay để thắng toàn bộ lũ trẻ trong làng để làm vua cỏ, thằng cu Cỏ đã đi đến quyết định : -Cháu cũng phải làm vua cỏ thôi. Ông Ruông bảo đó là thú chơi hồi nhỏ, nhưng giờ thì ông cũng còn rất thích. -Nhưng cháu thì không cò con như ông đâu. Đã làm vua thì không thèm làm vua ở trong làng. -Thế cháu định làm vua ở đâu ? -Đã vua thì phải là vua của hết thảy lũ nhỏ. Tức đứa nào chơi chọi cỏ là phải tôn cháu làm vua. -Như thế là cháu phải đánh thắng lũ nhỏ ở bất cú xứ nào biết chơi trò chọi cỏ? -Thì cháu đã nói phải là vua của hết thảy lũ chọi cỏ kia mà. -Có phải cháu muốn nói hết thảy lũ nhỏ biết chọi cỏ trên thế gian này ? -Ông nói đúng đấy. -Nhưng giả sử bên Tây bên Tàu cũng có lũ chọi cỏ thì làm sao cháu đi tới đó để đánh nhau với chúng ? -Cháu biết ông nghĩ không ra mà. Là cháu sẽ làm thế này. Cứ đứng ở gò Tháp ở làng mình mà khiêu chiến. Đứa nào đến thì bị cháu đánh gục. Tất nhiên là bọn ở bên Tàu bên Tây là không thể sang tới làng mình. Nhưng đã không đến thì coi như thua. Ông Ruông cho là trong chuyện làm vua cỏ thì cháu ông là đứa có chí lớn. Ngay việc tập luyện ra trận nó cũng có phát kiến mới hơn ông. Ông thì ông luyện hai ngón tay bằng cách gõ lên cỏ. Nhưng đến thằng Cỏ thì nó gõ lên vật cứng. Suốt ngày cháu ông cứ ngay hai ngón tay ấy ra mà gõ lên bàn lên ghế. Đến bữa, ngồi trong mâm ăn, nó còn gõ lên cả chén đũa. Chuyện https://thuviensach.vn ruộng bò heo qué choán hết trí não vợ chồng anh Rác, nên anh chị ấy chẳng thể nhìn thấy được mưu đồ của con. Cho đến hôm phát hiện ra hai ngón tay của con trai bị sưng vù, chị Rác mới la toáng lên. Thằng Cỏ vội ra hiệu cho mẹ im, vì sợ lũ nhỏ trong làng biết được. -Nhưng mày chơi trò gì để dập cả tay ? Anh Rác có vẻ giận lắm. Thằng cu Cỏ đáp như chẳng có chi xảy ra : -Thì hồi nhỏ cha cũng bị dập tay như con chứ khác gì. Mà cũng đúng vậy thôi. Anh ấy đi tìm dầu nóng xoa chỗ sưng cho con, sau đấy thì lại chúi đầu vào công việc ruộng nương, coi như chẳng có chi xảy ra. Vấn đề ở đây là có sự chao đảo trong mưu đồ của thằng cu Cỏ. Bấy giờ là đang giữa mùa hạ. Còn lâu mới đến mùa cỏ mồng gà trỗ bông. Có nghĩa thằng cu Cỏ còn khối thời gian để luyện hai ngón tay ra trận. Có điều là càng luyện, hai ngón tay càng sưng to, và nghe nhức nhối. -Hồi ông luyện tập thì tay có sưng như cháu không? Nghe thằng cu Cỏ hỏi, ông Ruông biết là cái chí làm vua của cháu không còn nguyên như trước, ông nói : -Ông luyện thì tay không sưng. Nhưng chủ yếu là làm cho hai ngón tay ấy dẻo dai, để ra trận, chứ sưng hay không sưng thì đâu có quan trọng gì. -Nghe nhức thế này, cháu sợ không luyện được nữa. -Có nghĩa cháu không còn muốn là vua của hết thảy lũ nhỏ trên thế gian ? -Nhưng có vua nào khỏe hơn vua cỏ không ông ? -Không vua nào khỏe hết. Để ông kể vài ông vua nữa cho cháu nghe. Vua ở triều đình lo việc trị dân trị nước này.Vua ở trong tuồng hát để diễn tuồng này. Nhưng đấy là chuyện của người lớn. -Đấy là những trò chơi của người lớn? -Cứ cho là vậy. -Thế thì ông phải chỉ cho cháu trò chơi nào không làm vua mà cháu cũng sai khiến được hết thảy lủ nhỏ. https://thuviensach.vn Rốt cuộc ông Ruông đã phải dạy cho thằng cu Cỏ cách làm giàu trong trò chơi đổ bồ. Sự thật thì ông không có ý định làm cho cháu ông tiêm nhiễm tư tưởng làm giàu. Mà cốt để xiển dương trí tuệ của ông Hai Bò, anh ông. Binh pháp chọi cỏ với Phương thức làm giàu là hai thứ di sản trí tuệ ông Hai Bò để lại cho ông tự thời ông còn thơ ấu. Thằng Cỏ là cháu đích tôn, lẽ đương nhiên nó phải thừa hưởng những thứ đó.Theo ông Ruông, trò chơi này phải xuất hiện khi văn minh nông nghiệp đã đạt đến đỉnh cao. Có nghĩa khi lúa thóc làm ra ăn không hết, con người phải nghĩ đến cách cất giữ. Bồ, lẫm, bịch là những kiểu kho chứa thóc dư ở miền núi Tượng sông Tượng (bồ đương bằng tre, lẫm ghép bằng ván, còn bịch trét bằng đất) Thoạt nhìn, người ta dễ nghĩ trò chơi này là phỏng theo việc cất giữ lúa thóc của những cư dân nông nghiệp. Đây là trò chơi tay đôi. Mỗi bên có năm chiếc bồ con và một chiếc bồ cái. Bồ của hai bên được xếp trên một vòng tròn khép kín, theo thứ tự năm bồ con –bồ cái, rồi năm bồ con-bồ cái. (bồ được tượng trưng bằng những vòng tròn nhỏ vẽ trên mặt đất, hoặc là những hầm nhỏ khoét sâu xuống đất ) Mở đầu cuộc chơi thì hai đối thủ là đang sống trong chế độ công xã nguyên thủy. Có nghĩa của cải làm ra thì được chia đều : số thóc đựng trong tất cả các bồ là bằng nhau. Và đây là luật chơi : Người đổ bồ đầu tiên hốt hết thóc trong bất cứ bồ con nào của mình cầm trên tay, rồi theo thứ tự trên vòng tròn, rải số thóc đó vào tất cả các bồ, mỗi lần rải là một hạt. Rải đến hạt thóc cuối cùng thì hốt hết thóc ở bồ kế cận để rải tiếp, nếu bồ kế cận là bồ cái thì chỉ có quyền nhặt mỗi một hạt rải lên bồ kế cận, rồi lại hốt hết thóc ở bồ kế cận bồ đó, để rải tiếp. Luật chơi qui định rằng, khi rải hạt thóc cuối cùng mà gặp bồ kế cận là bồ trống, thì thóc ở bồ kế cận bồ trống đó là thuộc tài sản của người đổ bồ. Còn như gặp hai bồ trống liên tiếp thì coi như hỏng, chẳng thu được gì. Người đổ bồ thứ hai cũng thao tác y như người đổ bồ thứ nhất. Cứ luân phiên nhau mà hành động như thế cho đến khi thóc trong tất cả các bồ đã thành tài sản riêng của hai người, những chiếc bồ lúc ấy chỉ còn là bồ không, hoặc chỉ còn vài hạt thóc. Cuối cuộc chơi là một cảnh đời có người giàu kẻ nghèo. Đôi khi, tất cả thóc trong các bồ chỉ thuộc về một người, còn người kia thì trắng tay. Nhưng đấy là theo đúng luật chơi, giàu nghèo là không đoán trước được. https://thuviensach.vn Còn muốn chắc chắn trở thành giàu có trong cuộc chơi thì lại theo phương cách của ông Hai Bò. Cũng là do bàn tay mà làm nên sự nghiệp thôi. Thay vì rải xuống mỗi bồ đựng thóc một hạt thóc theo luật định, ta có thể không rải hạt nào, hoặc rải nhiều hơn một hạt, để làm sao khi rải hạt cuối cùng thì gặp một bồ trống. Sự giàu có là tùy thuộc vào bàn tay tài hoa của ta trong quá trình làm ra của cải. Có nghĩa là làm sao cho đối phương của ta tin rằng mỗi lần rải thóc ta chỉ rải mỗi một hạt. -Như thế là ăn gian Vừa nghe xong cách thức làm giàu, thằng cu Cỏ đã kêu lên. Ông Ruông phải giải thích với cháu : -Đấy cũng là luật chơi. Trên đời này có nhiều luật chơi lắm. Theo luật nào, là tùy thích của cháu thôi Tất nhiên là thằng cu Cỏ theo luật của ông Hai Bò. Bấy giờ đương giữa mùa hạ, nên các loại hạt cây ( cò ke, bồ lời, thầu đâu …) rất hiếm. Ông cháu phải dùng sỏi sạn để thay cho thóc ( thường thì đám trẻ ở miền núi Tượng sông Tượng hay dùng các hạt cây để tượng trưng cho thóc) Cuộc chơi giữa hai ông cháu xảy ra nơi nhà bếp, từ lúc vợ chồng anh Rác đi làm ruộng buổi chiều. Thằng cu Cỏ luôn là kẻ phát tài. Còn ông Ruông ván nào cũng trở thành kẻ khánh kiệt. Theo luật chơi, cứ kết thúc một ván, thằng cu Cỏ lại sai ông đi tìm sạn sỏi về rải đều lại các bồ chứa thóc. Cho đến lúc vợ chồng anh Rác đi làm ruộng về thì thằng Cỏ giàu nứt đố đổ vách. Sỏi sạn nó thu được thành một đống to. -Thôi, mai chơi tiếp. Giờ trả nhà bếp cho mẹ cháu nấu cơm chiều. Ông Ruông nói, rồi lên võng nằm. -Mày hết chuyện chơi rồi hay sao, Cỏ ? Đi làm về đã mệt, lại thấy sỏi sạn vung vãi đầy nhà, chị Rác tức quá, đòi đánh thằng Cỏ. Chẳng dám nói dám rằng, thằng Cỏ lặng lẽ dọn hốt mớ của cải thu được trong cuộc chơi, rồi đến nói nhỏ vào tai ông Ruông: -Mai có chơi đổ bồ, ông cũng phải ăn gian như cháu, không thì cháu chẳng thèm chơi đâu. Nhưng đến lúc ngồi vào bữa ăn tối, nó lại rỉ tai ông : https://thuviensach.vn -Để cháu coi lại đã Ông Ruông hỏi coi lại cái gì. Thằng Cỏ nói là nó sẽ tiếp tục luyện hai ngón tay để làm vua cỏ, chứ không thèm chơi trò giàu nghèo nữa. Ông Ruông cho là có sự lưu chảy mạnh mẽ trong suy nghĩ của thằng cu Cỏ. Chấp nhận đó, rồi phủ nhận đó. Tình hình đó ông gọi là nhịp điệu vui. https://thuviensach.vn Nguyễn Thanh Hiện Người đánh cắp sự thật ÂM VANG CỦA CÁCH MẠNG THI CA Theo ông Ruông, sở dĩ trong suy nghĩ có sự lưu chảy thế là để nhận thức sáng hơn, chứ không phải để làm cho tối tăm đi, mà ông gọi là nhịp điệu chẳng vui. Tất nhiên chẳng ai dại gì để lâm vào nhịp điệu chẳng vui. Nhưng rồi vẫn cứ lâm vào mà sinh bao rối rắm. Ví như anh Rác, con trai ông, có một năm đương cày ruộng yên ổn, bỗng nảy ra ý muốn lúa gặt được phải dư ăn dư để, chứ không phải thiếu trước hụt sau như bấy lâu, bằng cách thay giống lúa mới. Có điều đám ruộng nhà ông chẳng chìu theo ý con trai ông. Kết quả là thóc gặt được chỉ còn một nửa. Có nghĩa năm ấy nhà ông thiếu lúa ăn trầm trọng. Chị Rác đương chửa thằng Cỏ mà cũng phải cùng chồng vào rừng núi Tượng chặt củi trộm để bán mua gạo nấu. Trời chẳng dung kẻ gian phi. Kiểm lâm bắt được, thu cả củi cả rựa, còn bắt vợ chồng anh làm bản kiểm điểm, cam đoan không tái phạm. Bảo vệ rừng là bảo vệ sự sống của chúng ta. Mấy ông kiểm lâm giảng giải. Nhưng trước mắt thì cái hậu quả do phá rừng chưa thấy, mà chỉ thấy hết gạo nấu, nên những kiểm điểm cam đoan vừa ráo mực, vợ chồng anh đã tái phạm. Lần này là bị phạt tiền. Có nghĩa cái nhịp điệu chẳng vui đang diễn ra trong suy nghĩ của vợ chồng anh ấy gòm hai nội dung : Một là không bám vào rừng núi Tượng coi như vô phương cứu chữa bệnh thiếu ăn. Và hai là bán hết đám gà heo vẫn chẳng đủ trả khoản tiền mượn bà con lối xóm để nộp phạt kiểm lâm. Ở trong bụng mẹ, thằng Cỏ nóng lòng trước cảnh rối rắm của đám nhân loại trong nhà mình, đã ra đời sớm hơn một tháng. -Thằng con của con là đứa có hiếu. Biết sinh đúng lúc để chia xẻ nỗi khổ của nhà ta. Anh Rác nói với ông Ruông. Chị Rác cũng phụ họa : -Từ hôm bị kiểm lâm phạt, không đi củi nữa, đêm nằm nghe nó đạp dữ quá, https://thuviensach.vn con cũng có nghĩ là nó nôn nóng muốn ra đời. Dù nhà thêm miệng ăn, nhưng chính nhờ sự có mặt của đứa con trai đầu lòng, vợ chồng anh Rác đã đổi được thứ nhịp điệu chẳng vui trong suy nghĩ sang nhịp điệu vui. Sắp đến ngày cúng đầy tháng cho con, anh Rác nói với ông Ruông : -Để không quên hiếu hạnh của con, vợ chồng con muốn đặt tên cho thằng nhỏ là thằng Sớm. Ông Ruông tính ra thằng cu Cỏ sinh sau anh Rác đúng mười tám năm, tám tháng Hơn mười tám năm qua cuộc cách mạng thi ca của ông đã tạo cho cỏ rác một thế đứng rõ ràng trong hoàn vũ. Có lẽ Người có mặt ở khắp nơi bỡi Người là cỏ rác… Những vần thơ vẫn còn làm rạo rực lòng ông. Một đời người thừa hưởng thành quả cách mạng do kẻ khác làm ra đã là quá lớn. Đàng này lại do chính tay ông làm ra. Ông Ruông nói với con trai trong niềm xúc động mười tám năm trước : -Cha phải giảng nghĩa cho con nghe. Xưa, nước mình có ông Lý Văn Phức sưu tập được hai mươi bốn gương hiếu hạnh mà chép thành sách Nhị Thập Tứ Hiếu. Nhưng cha thấy không có sự hiếu hạnh nào trong sách ấy giống với hiếu hạnh của thằng con của con. Cha nghĩ thế nào cũng có người chép chuyện hiếu hạnh của nó vào sách. Còn việc đặt tên cho nó cha đã có chủ trương Anh Rác có vẻ sốt ruột : -Thế cha định đặt cho nó tên gì ? -Con là Lê Rác, thì nó là Lê Cỏ Anh Rác liền thưa : -Con có nghe mẹ kể hồi ấy sợ cái huôn khó nuôi con bà nội để lại, nên khi sinh con ra, cha đã lấy cỏ rác mà đặt tên cho con. Nhưng vợ chồng con thì khác với cha mẹ hồi ấy. Nghe nói cha mẹ gần bốn mươi mới đẻ ra con, nên con ốm yếu, sợ khó nuôi là phải. Còn giờ vợ chồng con mới mười tám đã chửa đẻ. Thằng con của con tuy có thiếu tháng, nhưng cha cũng thấy nó khỏe quá trời, sợ gì? Chị Rác cũng thêm vào : -Mới chửa nó ba tháng, con đã đi chặt củi. Gánh gánh củi ứ hự mà còn leo https://thuviensach.vn dốc. Bị kiểm lâm bắt, phải chịu đói cả đêm. Mà nhà mình có lúc nào ăn no đâu. Thằng con của con đã quen cực khổ từ trong bụng mẹ, không dễ gì đau ốm, cha đừng lo. Ông Ruông nói : -Lũ con hiểu sai ý cha rồi. Không phải sợ nó khó nuôi mà đặt tên là Cỏ. Anh Rác nói: -Con đã lỡ mang danh là rác rồi. Cha hãy thương cháu nội, kiếm cho nó tên gì nghe cho khá hơn Ông Ruông nói: -Con chưa rõ là tại cha chưa lần nào giải thích cho con rõ. Rác của con không phải là rác như mẹ con từng nói với con. Mà là do một cuộc cách mạng mà có. Anh Rác có vẻ sợ hãi, ngồi im xo, chẳng còn dàm nhắc lại ý kiến của mình. Phải nói đã hơn mười tám năm mà nguồn thơ trong ông Ruông chẳng hề suy giảm. Do thiếu sữa bú, thằng Cỏ vừa mút vú mẹ vừa khóc la thế nhưng chẳng ảnh hưởng chi tới cảm hứng của ông. Ông ngâm nga bài Cỏ Rác đến ba bốn bận, rồi nói : -Có cuộc cách mạng thi ca của cha mới có tên con. Và nay mới có tên thằng con của con. https://thuviensach.vn Nguyễn Thanh Hiện Người đánh cắp sự thật SẢN PHẨM LỊCH SỬ Nói tóm lại, tên gọi của anh Rác và của thằng cu Cỏ là sản phẩm cách mạng. Còn vì sao ông Ruông vốn tên Ruộng lại thành Ruông là trường hợp đặc biệt, phải kể ra dài dòng một chút mới rõ được. Có nghĩa phải lùi lại tận thuở ông Ruông mới chào đời thì mới hiểu được chuyện này. Ông Ruông sinh đúng vào năm vua Bảo Đại lên ngôi. Khi có mưu toan trở nên vĩ đại với con cháu, ông mới nghiệm ra là mình với vua có cùng một ngôi sao chiếu mệnh. Có điều chiếu vào vua thì vua gặp chuyện òi ọp. Cụ thề là vua bị truất ngôi. Còn chiếu vào ông thì ông lại hiển hách. Có thể người ta đặt vấn đề về cái ghế ngồi dạy học của ông, cho rằng đó cũng là chuyện òi ọp. Nhưng xin nhắc lại việc rời khỏi ghế dạy học là do ông tự quyết định, chứ không phải bị truất, nên không thể nói là òi ọp. Trong việc khai sinh cho ông, cha của ông là ông Hai Hượt có gặp chút khó khăn ở đình làng. Song, đó là do thằng con trai ông hương bộ Quứt muốn bắt bí ông hương bộ chơi, nên cũng không thể nói là òi ọp. -Đứa đầu là Bò, đứa tiếp theo là Ruộng, ông đặt tên con vậy là hợp với việc nông tang. Ông hương bộ Quứt nói. Ông Hai Hượt cho đó là lời của kẻ có chữ nghĩa nói với kẻ không có chữ nghĩa, chứ không phải khen. -Thưa thầy hương bộ, do nghĩ không ra tên gì khác, nên cứ dựa vào chuyện ruộng nương cày bừa mà đặt, vậy thôi. -Được rồi. Giờ ta mắc lên phủ, mai ông ra đây, ta vào sổ bộ cho Sự thật ông hương bộ Quứt không lên phủ, mà do sáng đó viên thư ký của ông không thèm ra đình làng làm việc. Cha ông Ruông về thì có mấy người nữa đến. Kẻ xin chứng giấy mua đất, người xin chứng phân thơ chia ruộng https://thuviensach.vn cho con. Ông hương bộ đều hẹn mọi người qua sáng mai, rồi tuốt về nhà. -Mẹ nó có biết thằng Út đi đâu không, sao sáng nay không ra đình ? Bà hương bộ cũng xẳng lại chồng : -Sổ bộ giấy tờ thì bắt con trai làm. Còn lương tiền có đồng nào thì đem dưng cho mấy con mẹ góa chồng với sòng cờ bạc. Có, ông hương bộ Quứt có cờ bạc trai gái, song đấy không phải là chỗ sở trường của ông. Sở trường của ông là biết cách xoay trở để giữ chỗ ở chính trường. Cảnh quan trường ở làng coi vậy mà cũng đủ các khía cạnh của cảnh quan trường ở tỉnh hay ở phủ huyện, thậm chí cũng quyết liệt như ở triều đình. Phải nói ở làng Dầu bấy giờ ông Quứt là kẻ duy nhất có thể làm hương bộ, chức việc làng lo về các thứ giấy tờ sổ bộ của làng. Nhưng vốn liếng chữ Hán của ông, nhờ nó ông mới được bầu vào chức ấy, lại là thứ sắp bị bãi bỏ. Như thế khi chữ quốc ngữ theo mẫu tự La Tinh được thay hẳn chữ Hán trong tất cả các giấy tờ sổ bộ thì chắc hẳn ông không thể ngồi ở ghế hương bộ. Để đối phó với cái tương lai quá gần và quá trắc trở này, ông đã đem thế chấp một khoảnh ruộng tư, lấy tiền thuê hẳn một thầy dạy học ở phủ đến nhà dạy cho ông chữ quốc ngữ. Chí thì lớn đấy, nhưng đám chữ nghĩa ấy chẳng thể nằm lại nơi đầu óc một người vốn quen nghĩ ngợi về mấy bà góa còn trẻ với cảnh thắng bạc ở các sòng bài. Có nghĩa đọc theo thầy giáo thì được, song, đọc xong thì đám chữ nghĩa ấy tuột khỏi đầu óc ông. Lập tức ông chuyển chỗ học cho đứa con trai út (những anh chị của nó đều bám lấy việc ruộng nương) Bà Quứt mừng, vì thấy chồng biết lo cho tương lai của con. Nhưng thằng Út vừa biết đọc biết viết thì ông Quứt cho ông thầy nghỉ dạy. -Bắt đầu từ hôm nay con ra đình làng với cha Nghe ông Quứt bảo, thằng Út không hiểu : -Ra đình làng chi? -Làm việc làng chứ chi Tất nhiên là thằng con trai út tám tuổi của ông hương bộ Quứt thích làm việc làng hơn là ngồi học chữ. Ông Quứt bắt đầu làm lại các sổ bộ đinh điền thuế má của làng. Ông đọc https://thuviensach.vn cho thằng út sao chép lại. Với trình độ của nó thì công việc ấy có khó khăn. Nhưng rồi hai cha con cũng mày mò làm được. Lúc có lệnh bỏ hẳn chữ Hán thì ông hương bộ Quứt đã hoàn tất bộ hồ sơ giấy tờ lưu của làng bằng chữ quốc ngữ. Và những sự kiện mới về hộ tịch thì được vô sổ bộ mới cũng bằng chữ quốc ngữ. Quan thư lại ở phủ về xem xét việc thực thi văn tự mới, thấy làng Dầu đã đi trước một bước thế, đã ban lời khen tặng : -Đây là công lớn của các hương chức của làng. Song phải nói một câu là nhờ có sự tận tụy của vị hương bộ biết quí trọng văn tự của nước nhà. Lời khen này đã khiến cho các hương chức của làng phải nghĩ ngợi. Làm được việc ở làng, mà có uy tín trên phủ thế, không khéo ông Quứt sẽ đắc cử vào chức lý trưởng của làng vào khóa tới. Các vị toa rập nhau để hất chân ông Quứt khỏi chính trường, song chẳng tìm ra cách. Hai cha con cùng làm việc cho dân mà chỉ hưởng một suất lương thì sai ở chỗ nào? Ông Quứt nhìn thấy chức hương bộ đương kiêm của ông vững như bàn thạch. Và ông cũng quyềt định trong khóa tới chỉ ra tranh cử chức hương bộ, vì biết chắc ở làng Dầu ngoài cha con ông chẳng còn ai biết chữ quốc ngữ. Ở trong làng mọi người đều biết cha con ông đã học thứ văn tự mới ấy với một ông thầy rước tự trên phủ về. Nhưng chẳng ai biết là ông chẳng học được chữ nào. Và cũng chẳng ai biết thằng út của ông đã học tới đâu. Ông hương bộ Quứt giờ đâu kém quan trên phủ, vì ra đình làng ngồi làm việc có thư ký ghi chép sổ sách. Điều ông lo không phải là sự tranh ghế của các đồng liêu. Cái ghế hương bộ của ông có vững hay không là do thằng Út của ông quyết định. Mới đầu thằng Út rất khoái khi nghe người ta gọi mình là ông chức việc làng con ( người ta cũng bắt đầu gọi ông Quứt là ông chức việc làng cha) Nhưng rồi ngày nào cũng chúi mắt chúi mũi vô mấy thứ giấy tờ sổ bộ, nó đâm chán, bỏ đi chơi với lũ nhỏ trong xóm. Ông Quứt đòi đánh đòn, thằng Ut vẫn tiếp tục bỏ việc ở đình làng. Cuối cùng ông phải nhờ bà Quứt dỗ ngon dỗ ngọt, nó mới chịu đi làm việc trở lại. Có nghĩa cha ông Ruông phải ra đình làng đến bảy lượt mới gặp được viên thư ký của thầy hương bộ. -Ông ngồi xuống đây, khai ra tên họ với ngày sinh tháng đẻ của thằng con ông, để thằng con ta nó vào sổ bộ. https://thuviensach.vn Ông hương bộ Quứt bảo. Ông Hai Hượt có thấy nể trong lòng khi thấy đứa con trai út có chữ nghĩa của thầy hương bộ ngồi chễm chệ trên chiếc ghế chức việc làng. Song chớ lầm tưởng rằng vì quí chữ nghĩa, mà về sau ông đã cho ông Ruông đi học chữ. Chuyện ông Ruông học chữ là cũng do cái tên khai sinh của ông, chuyện mười tám năm sau. Còn lúc ấy thì ông Hai Hượt cầm chắc đến kỳ cấp phát công điền nhà ông được thêm một suất vì cái tên Lê Ruộng đã được thằng con út ông hương bộ Quứt ghi vào sổ bộ. Suốt mười tám năm cái tên khai sinh ấy nằm ngủ yên trong sổ bộ, vì các hương chức của làng chưa một lần gọi đến (khi có đợt cấp phát công điền, người ta chỉ đếm số đầu người chứ không cần đến tên họ những người ở trong hộ) Nếu như không có chuyện thập bát thành đinh ( mười tám tuổi thì thành công dân của nước) chắc cái tên ấy vẫn chưa được đụng đến. Quan lục lộ ở phủ về lấy dân đinh mới ở làng Dầu để đi làm đường ở phủ. Bấy giờ thì con trai út ông Quứt đã trúng cử vào ghế hương bộ của làng (sau mười tám năm tiếp tục làm thư ký cho cha, vì ông Quứt đã đắc cử ghế hương bộ ba khóa liền) -Lê Ruông không có mặt hay sao? Viên lục lộ gọi tên ông Ruông đến năm lượt vẫn không thấy ai ra trình diện, nên có vẻ tức . -Lê Ruông có cha tên là Lê Hượt có mặt đấy không? Đến lúc ấy ông Ruông mới bước ra khỏi đám thanh niên mới tới tuổi đinh ở trong làng -Tôi là con ông Hượt đây. Nhưng tên tôi không phải là Ruông. Viên lục lộ trừng mắt đám thanh niên làng đang ồ lên cười, rồi nhìn vào mặt ông Ruông : -Mày bảo không phải tên Ruông, vậy mày tên gì? -Thưa, tên Ruộng. Viên lục lộ liền quay qua thầy hương bộ tuổi trẻ : -Anh coi lại sổ bộ thử có lầm lẫn hay không ? Bấy giờ ở làng Dầu ai lại chẳng biết ông Hai Hượt chỉ còn mỗi một người con trai duy nhất có tên là Ruộng. Và thầy hương bộ trẻ tuổi bấy giờ mới https://thuviensach.vn vỡ lẽ ra là mười tám năm trước, lúc làm thư ký cho cha mình, chính tay thầy đã ghi vào sổ bộ như thế. Thầy đã ghi là Lê Ruông, chứ không phải là Lê Ruộng. Nhưng đây là tại cha thầy đã bắt thầy đi làm thư ký trong lúc thầy chưa thông thạo cái thứ chữ quốc ngữ rắc rối ấy. Anh con trai út của thầy cựu hương bộ nghĩ vậy, rồi dõng dạc tuyên bố : -Cứ chiếu theo sổ bộ của làng thì mày là Lê Ruông, còn ở nhà mày là thằng Ruộng hay thằng gì, đấy là chuyện ở nhà mày. Nay đúng mười tám tuổi, thành đinh, phải đi phu dịch, thế thôi. -Nhưng đấy không phải tên của tôi, thì thằng Ruộng này không đi. Thấy ông Ruông nói cứng, thầy hương bộ tuổi trẻ cũng nói cứng : -Mày đã thành dân đinh mà không đi phu dịch là chống lại triều đình, nhà nước sẽ trị tội mày. Tất nhiên là ông Ruông chẳng dại chi để người ta làm mất đi uy thế của một chàng trai vốn rất kiêu hãnh ở trong làng (kiêu hãnh cả với đám con trai cùng lứa trong lĩnh vực cày bừa, kiêu hãnh cả với đám con gái choai choai đương tuổi dậy thì trong lãnh vực tình ái) Ông Hai Hượt rất tức cha con ông hương bộ Quứt, nhưng chẳng biết làm cách nào hơn là chửi bóng chửi gió. Đến lúc nghe ông Ruông nói sẽ đi học chữ quốc ngữ thì ông đổ hết sự tức giận lên đầu con trai : -Mày đi học chữ để thay tên đổi họ người khác, để biến sống thành chết có phải không? Nhưng lòng kiêu hãnh của ông Ruông đã khiến ông đi đến quyết định là phải trở thành một chàng trai có chữ nghĩa. Cái tên Ruộng, thôi, cứ dành riêng cho cha ông gọi. Giờ ông là Lê Ruông, cái tên Ruông đã được ghi vào sổ bộ của nước nhà, thì Lê Ruông phải là một kẻ có chữ nghĩa. Mới đầu là đi học lỏm ở nhà ông giáo Lựu ở làng Gàu, bấy giờ đang mở lớp dạy tư để dạy chữ quốc ngữ cho lũ trẻ con các nhà khá giả ở miền núi Tương sông Tượng. Nhớ được mặt mấy chục chữ cái thì ông bán nhín lúa nộp cho ông giáo Lựu để làm học trò chính thức của ông ta.Việc cày bừa không bỏ mà https://thuviensach.vn học được chữ thì cha ông hết đường cản. Còn ông giáo Lựu thì không làm cách nào để cản đám học trò nhỏ của ông không ồ lên cười mỗi lần nhìn thấy ông Ruông uốn môi uốn lưỡi để ráp vần quốc ngữ. Nhưng phải thừa nhận ông là kẻ tài hoa. Lúc làng Dầu của ông cùng với cả nước cùng lúc tiến hành ba cuộc chiến chống giặc xâm lược Pháp, chống giặc đói và chống giặc dốt, thì ông vừa là chiến sĩ trên mặt trận chống giặc đói, tức tiếp tục cày bừa, vừa là chiến sĩ trên mặt trận chống giặc dốt, tức làm thầy giáo dạy chữ quốc ngữ cho bà con trong làng. Danh xưng ông giáo Ruông tồn tại cho đến khi triều ông Diệm đổ. Ông Ruông xem đi xem lại trong tiếng Việt thì thấy từ Ruông không có nghĩa nào cả. Nhưng nếu không có giai đoạn lịch sử ông Quứt làm hương bộ, thằng con trai út tám tuổi của ông làm thư ký cho ông, thì không có tên Lê Ruông. Nói tóm, tên Ruông của ông là do lịch sử mà có. Ruông tuy vô nghĩa, nhưng là con đẻ của lịch sử nên cũng hiển hách chẳng kém Ruộng là một trong những yếu tố của văn minh Lạc Việt. https://thuviensach.vn Nguyễn Thanh Hiện Người đánh cắp sự thật CUỘC HỘI NGỘ Ở SÔNG LAM Khi luận ra thế, ông Ruông cảm thấy cảm hứng lịch sử của mình tăng rất cao. Đến nỗi lúc đọc xong những trang sử thời Trịnh Nguyễn của nước ông thì ông thấy vị tổ phụ thứ mười một của nhà họ Lê bước đi ngờ ngờ trong trí não ông. Ông Ruông chép trong Hồ Sơ Các Bậc Tổ Phụ : Sử văn làm nảy sinh trong trí não ta một cuộc trông thấy vô cùng kỳ thú. Thoạt đầu là ta nghe thấy tiếng nước vỗ vào những con thuyền thủng nát đang bồng bềnh trên dòng sông Lam, xứ Nghệ. -Ngươi muốn tìm ai? Có ai đó hỏi, giọng như đang loãng ra. Nếu ta không chú ý thì cứ nghĩ đó là tiếng nước vỗ mạn thuyền. Ta đáp là chẳng tìm ai cả. Giọng nói kia lại cất lên : -Nơi này từng là chiến địa, ngươi có biết không? Tất nhiên chuyện ấy thì ta đã rõ. Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư các sử thần triều Lê Trịnh soạn, và sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục các sử thần triều Nguyễn soạn, đều chép về cuộc chiến tranh 1627- 1672 giữa hai họ Trịnh Nguyễn. Trong cuộc chiến gần nửa thế kỷ này thì trận giao tranh ở hai bên bờ sông Lam, Nghệ An, là dai dẳng nhất. Ta nói là nhờ đọc sách mà biết được trận đánh ấy mở đầu vào năm At Mùi, 1655, kết thúc vào năm Canh Tý, 1660, quân Nguyễn đã tiến sâu vào đất của vua Lê chúa Trịnh, chiếm được 7 huyện phía nam sông Lam, nhưng rốt cuộc quân Trịnh đã lấy lại . -Ngươi đến nơi này là để coi thử sách nói có trúng không? Giọng nói kia dường đang cô đọng lại thành những lời đầy hàm ý. Ta bảo là chẳng việc chi phải làm chuyện ấy. Chỉ do đọc sách, rồi tình cờ https://thuviensach.vn dừng lại chốn này thôi. -Cuộc nhân sinh chỉ là chuyện tình cờ. -Với mọi thứ trong cuộc đời này? -Phải. Ngay cả việc ngươi được sinh ra. -Nhưng đấy là ai? Là đang ở đâu trò chuyện cùng kẻ này ? -Ta là ai ư ? Trước hết ngươi nên biết ta với con sông Lam này là mãi mãi gắn kết nhau. Kiểu nói năng ấy khiến ta phải truy tìm lại trong sử sách. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của các sử thần triều Lê Trịnh chép : Đinh Dậu, 1657, mùa hạ, tháng sáu, Thái bảo phú quận công sai bọn Lê Thì Hiến, Hoàng Nghi Giang, Đặng Thế Công đều đem các quân chia đường vượt sông Lam… Mậu Tuất, 1658, mùa thu, tháng bảy, giặc vượt sông Lam xâm lấn xã Mỹ Dụ. Canh Tý, 1660, mùa thu, tháng tám, Nguyễn Phúc Tần ở châu Hóa sai bè lũ là Thuận Nghĩa, Chiêu Vũ vượt sông Lam xâm phạm xã Mỹ Dụ,…thống suất Trịnh Đống sai bọn Hoàng Nghĩa Giao tiếp chiến, phá được, giặc chết đuối rất nhiều… Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục của các sử thần triều Nguyễn chép : Mậu Tuất, 1658, tháng chạp, mùa đông, Trịnh Căn sai bọn Đào Quang Nhiêu, Đặng Thế Công chia đường sang sông Lam đánh nhau với quân Nguyễn Hữu Tiến ở Tuần Lễ… Canh Tý, 1660, tháng tám, mùa thu, Trịnh Căn sai tướng qua sông Lam đánh nhau với quân Nguyễn Hữu Dật ở Lãng Khê, tướng bên Trịnh bị thua… quân Trịnh sợ hãi, tan vỡ, chết hại rất nhiều… -Có phải đấy là oan hồn của kẻ đã ngã xuống trong trận chiến trên sông Lam thuở ấy ? Ta hỏi mà lòng cảm thấy không yên. Bỗng như có ai vụt hiện lên trong trí não mình. -Chớ nghĩ lung tung. Oan hồn là không thuộc về kẻ đã chết. Ta rất vui vì đã nhìn thấy kẻ trò chuyện cùng ta. -Nhưng thưa tiền bối, kẻ này chưa rõ thuở ấy tiền bối là người của Nam Hà hay của Bắc Hà. https://thuviensach.vn Ta lập tức liệt kẻ trò chuyện cùng ta vào lớp tiền bối. Và ông ta cũng lập tức nghiêm mặt với ta : -Hơn ba trăm năm qua ta đã gặp hết thảy những người của thời xa xưa đó, chẳng ai mở miệng hỏi ta là người của Nam Hà hay của Bắc Hà. -Ngay cả các chúa Nam Hà và các chúa Bắc Hà ? -Phải. Các ông ấy lâu lâu lại bày các cuộc đại hội nghị để đám dân Đại Việt thuở ấy có dịp gặp nhau. -Tiền bối nói là các vị ấy cùng đứng ra để làm các cuộc hội nghị ? -Phải. -Có nghĩa là họ chẳng còn thù hận nhau ? -Ngươi chớ lẫn lộn chuyện trần gian với chuyện của cõi chết. Ông ta nói xong lời này thì mỉm cười với ta, khiến ta bối rối. Cõi chết là nơi chẳng còn thù hận ? Thế cuộc phân tranh kia là do nguyên cớ nào? Chẳng lẽ đánh nhau mấy chục năm là để được về một thế giới chẳng còn thù hận? Ta rất muốn biết là ông ta có gặp các vị sử thần triều Nguyễn và triều Lê Trịnh không, để biết các vị ấy đã nghĩ thế nào về cuộc phân tranh các vị đã chép thành sử sách -Có. Mỗi lần gặp bọn ta, tức là gặp đám binh lính đã chết trong cuộc phân tranh, thì các ông ấy lại nhắc rằng sở dĩ thế gian có chuyện chém giết nhau cốt là để cho mặt đất không còn buồn tẻ như lúc chưa có loài người. Ông ta nói. Một cách nhìn thế gian của những sử gia đã chết? Ta định phải tranh cãi về chuyện này, nhưng ông ta đã nói tiếp : -Ngươi lấy làm lạ có phải không ? Chẳng ai ngu ngốc muốn có chiến tranh, hay điên khùng đi ngợi ca cái chết. Nhưng quả tình từ hôm ta chết, ta lại hiểu thế gian hơn. Ta có cảm tưởng ông ta vừa nói vừa dộng đầu gậy chống xuống đất. Nhưng khi cố chú tâm nhìn thì không phải. Kẻ trò chuyện cùng ta chỉ vào trạc ngoài bốn mươi. Có nghĩa là còn quá trẻ so với ta. Lòng ngưỡng mộ khiến ta dồn hết cả tâm trí vào con người đã nằm xuống hơn ba trăm năm trước. Và ta chợt cảm thấy hoảng hốt : -Thưa, có phải tiền bối chẳng còn đủ đôi cánh tay ? https://thuviensach.vn Bây giờ thì không phải ông ta mỉm cười, mà cười thoải mái, nói : -Ta bị chúa Nguyễn sung vào lính năm Ất Mùi,1655. Trong trận đánh đầu tiên đó ta đã bị quân của chúa Trịnh chặt mất một cánh tay. Nhưng mãi đến trận đánh năm Canh Tý,1660, ta mới bị quân Trịnh giết chết ở sông Lam -Có nghĩa vào năm đó quân Trịnh đã chặt cánh tay còn lại, và tiền bối đã chết. -Không phải. Ta chết là do chiến thuyền của ta bị trúng đạn. Còn cánh tay kia là do người bạn đồng ngũ của ta đã chặt. -Một kẻ phản bội. Ta buột thốt. Và ông ta lại cười thoải mái -Đã nói chém giết nhau cốt là để cho thế gian thêm vui vẻ, thì chẳng ai phản bội ai hết. Người bạn đồng ngũ và cùng làng với ta thả xác ta xuống sông Lam, và chỉ dấu được mỗi cánh tay ấy để đem về cho vợ con ta. Cũng may là trước lúc nằm xuống, ta đã có đứa con trai để nối dõi. -Nhưng làm sao đã chết màtiền bối còn biết được những chuyện xảy ra sau đó ? Ta phải hỏi vì cảm thấy có điều gì không ổn trong cách mô tả của ông ta. Và lần này quả thật là ta thấy sợ : Đột nhiên ông ta chòm người về phía ta. Và chăm chắm nhìn ta, vừa nghiêm nghị vừa thân thiết. -Đừng sợ. Rồi ngươi cũng phải chết như ta, như vợ con ta. Chính bọn họ đã kể cho ta nghe những gì đã xảy ra sau khi ta chết. Ta chết lúc ngoài bốn mươi. Còn bọn họ thì sống cho tới già mới chết. Hoá ra lúc gặp lại nhau thì vợ con ta lại già hơn ta. -Có nghĩa sau khi chết thì tiền bối vẫn giữ nguyên như khi mới chết ? -Phải. Người còn sống thì già. Còn kẻ đã chết thì trẻ mãi. -Nhưng kẻ hậu sinh này chưa hiểu vì sao không đem về quê hương một phần nào khác của thân thể tiền bối, mà lại là cánh tay ? Ta hỏi. Và có cảm tưởng ông ta đang đưa hai tay lên trời để khoác một vòng thật lớn trước khi nói. -Là cơ nghiệp, ngươi biết không? Cánh tay của ta là để cầm cây cày tiếp https://thuviensach.vn nối cơ nghiệp của dòng họ Lê ở miền sông Tượng núi Tượng. Nên dù chỉ là xương cốt của mỗi cánh tay cũng phải được nối tiếp theo xương cốt của các bậc tổ phụ họ Lê ở nơi đó. Ngươi là con cháu nhà họ Lê, ngươi phải biết điều đó. Ông ta nói là ông đã nhìn thấy ta tự lúc ta đang đọc sử văn thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Còn ta thì hầu như đang chết lặng trong nỗi mừng vui. Là tổ phụ của ta ư ? Sau ba trăm năm rời khỏi thế gian, một kẻ lam lụ đã trở nên minh triết? -Kẻ hậu sinh này có mắt để đọc sử sách, mà chẳng nhận ra tổ phụ mình, tội đáng muôn chết. Ta phải gắng lắm mới nói được lời này. -Không sao, không sao … Giọng ông ta như cứ loãng ra. Và ta lại nghe có tiếng nước vỗ mạn thuyền. https://thuviensach.vn Nguyễn Thanh Hiện Người đánh cắp sự thật ÔNG SÁU MƯƠI LĂM Từ cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn, ông Ruông lội ngược lịch sử nước ông, để xem các cuộc chiến trước đó có quả như lời các vị sử gia đã chết hay không. Và ông đã đụng phải cây trụ đồng của Mã Viện. Xin nhắc lại : Năm 111 trước công nguyên vua Vũ Đế nhà Tây Hán (Tiền Hán) sai phục ba tướng quân Lộ Bác Đức sang đánh chiếm Au Lạc và chiếm miền đất phía nam Âu Lạc lập thêm quận Nhật Nam để gọp vào Giao Chỉ, Cửu Chân thành bộ Giao Chỉ ( tức nước Au Lạc mở rộng ) Trong đó, Tượng Lâm là huyện cực nam của quận Nhật nam, đến cuối thời Hậu Hán thì thành nước Lâm Áp. Năm 40 trước công nguyên Hai Bà Trưng cầm đầu dân ba quận, đánh đưổi quan lại nhà Tây Hán, giành độc lập cho Au Lạc. Năm 43 trước công nguyện vua Quang Võ nhà Đông Hán (Hậu Hán) sai phục ba tuớng quân Mã Viện đem hai vạn quân sang chiếm lại Au Lạc. Hai Bà Trưng chết, nước Au Lạc lại trở thành thuộc địa của đế quốc Trung Hoa như trước đó. Mới đầu ông Ruông có hơi bực mình với cây trụ đồng đó. Nhưng về sau ông lại thấy hứng thú khi bàn về nó. Cái vật thể bằng đồng đó là được Mã Viện chôn để đánh dấu phạm vi của đế quốc Trung Hoa lúc đó. Chỉ trời mới biết ông có chôn cây cột móc đó đúng ở biên giới đế quốc mà Lộ Bác Đức đã chinh phục được một trăm rưởi năm trước hay không. Tất nhiên là Mã Viện phải chôn cây cột móc đó ở một nơi cụ thể nào đó (nếu như đó là chuyện thực). Nhưng những thế kỷ về sau thì cây trụ đồng đã mọc lên ở những nơi khác nhau. Để chứng minh cho việc mọc lung tung của cây trụ https://thuviensach.vn đồng, ông Ruông đã dẫn ra một số trích dẫn cổ sử Trung Hoa trong các cổ sử Việt Nam. Theo sách Thông Giám, sử nhà Tuỳ (518-618), thì Lưu Phương đánh Lâm Ap, đuổi quá cột đồng Mã Viện tám ngày đến kinh đô nước ấy ( như thế cây trụ đồng này ở phía bắc Tượng Lâm ) Theo Đỗ Hựu trong sách Thông Điển, sử nhà Đường (618-906), thì phía nam Lâm Ap đi hơn hai nghìn dặm có cột đồng của Mã Viện. (cây trụ đồng này thì ở phía nam Tượng Lâm) Theo sách Minh Thống Chí, sử nhà Minh (1368-1644), thì cột đồng ở trên động Cổ Sâm, châu Khâm (cây trụ đồng này thì ở phía bắc nước Âu Lạc ) Cứ theo những tư liệu trên, ông Ruông đúc kết thành hai kiểu trụ đồng : một là mọc trong nội địa Âu Lạc, hai là mọc ở bên ngoài Au Lạc. Điều này có nghĩa là sau khi Mã Viện không còn, các nhà chép sử Trung Hoa muốn qui hoạch lại nước Au Lạc thời thuộc Đông Hán. Quá khứ là chẳng thể cãi với các nhà chép sử. Nên vị nào phóng khoáng thì cho đất nước của tổ tiên ông Ruông phình ra một chút, vị nào keo kiệt thì bắt nó teo lại. Riêng tác giả cây trụ đồng ở châu Khâm thì có cách làm rất lạ. Trụ đồng mà mọc ở châu Khâm (một châu của Trung Hoa sát phía bắc Au Lạc) thì chẳng phải là xẻo bớt đất Trung Hoa để đắp vô Au Lạc hay sao? Luận đến đây ông Ruông cảm thấy cây cột móc biên giới của Mã Viện có vẻ lung linh. Khi thì hiện lên chốn này, khi hiện lên chốn kia. Ông nghĩ tiếp, thì thấy những cây cột móc biên giới của những nước khác hóa ra cũng có vẻ lung linh. Như khi chúng hiện lên chốn khác thì xứ Gaul liền biến thành một tỉnh của nước Ý, lục quốc Hàn, Ngụy, Triệu, Tống, Tề, Sở liền biến thành nước Tần. Điều này cũng có nghĩa là vào năm 51 trước công nguyên Cêsar đã qui hoạch lại Tây Âu, và vào năm 241 trước đó Tần Thủy Hoàng đã qui hoạch lại Trung Hoa. Cêsar của nước Ý, Tần Thủy Hoàng của Trung Hoa, hay Cyrus của Ba Tư, hay Alexand của Hy Lạp, chỉ là những ví dụ thuộc thời cổ đại. Có https://thuviensach.vn