🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Người Chậm - J. M. Coetzee
Ebooks
Nhóm Zalo
LỜI GIỚI THIỆU
J
ohn Maxwell Coetzee sinh ngày 9 tháng 2 năm 1940 tại Cape Town (Nam Phi). Ông là anh cả trong gia đình có hai anh em. Mẹ ông là giáo viên tiểu học còn cha là luật sư tập sự từng phục vụ trong quân đội Nam Phi tại Bắc Phi và Ý trong những năm 1941 – 1945. Mặc dù cha mẹ không phải dòng dõi người Anh, nhưng J.M Coetzee đã được nói tiếng Anh ở nhà từ nhỏ.
Coetzee bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 1969. Tác phẩm đầu tiên Dusklands, xuất bản tại Nam Phi năm 1974. Tác phẩm Giữa miền đất ấy (1977) đã đoạt giải văn chương Nam Phi, giải CNA, và được xuất bản rộng rãi tại Anh và Mỹ. Danh tiếng của ông được khẳng định nhờ tác phẩm Cuộc đời và thời đại của Michael K (1983).
Sau đó, ông liên tiếp đoạt hai giải Booker cho cuốn Foe (1986) và Thời đồ sắt (1990). Ông cũng được trao tặng Giải Jerusalem năm 1987. Ông đã đạt giải Nobel Văn học năm 2003 cho tiểu thuyết Ruồng bỏ.
Như các tác phẩm văn học lớn khác, Người chậm là cuốn tiểu thuyết đặt ra nhiều câu hỏi nhưng rất hiếm khi đưa ra những câu trả lời, khắc họa chân dung một con người đang tìm kiếm sự thật. Tai nạn của Paul Rayment đã biến đổi tiền đồ của ông, và là một đáp số ông gửi đến cho những mối băn khoăn chung, xác định những thuộc tính của tất cả chúng ta: Cái gì là tốt? Rốt cuộc thì trong đời chúng ta, điều gì là quan trọng nhất? Được yêu thương hay được chăm nom có ý nghĩa hơn? Chúng ta định nghĩa ra sao nơi ta gọi là “tổ ấm”? Bằng giọng văn chắc chắn và kiên quyết, Coetzee vật lộn với các vấn đề này, và cho ra đời một câu chuyện cảm động sâu sắc về tình yêu và cái chết làm người đọc sững sờ ở từng trang.
Từ chối tham dự mọi cuộc phỏng vấn, kể cả khi Giải Nobel văn chương đến với ông, dường như J.M. Coetzee muốn để những tác phẩm nói hộ những điều ông suy nghĩ. Và Slow man (Người chậm) cũng là một tác phẩm như thế.
MỘT
T
ai họa vồ lấy ông từ phía bên phải, đột ngột, bất ngờ và đau đớn như một tia lửa điện, nhấc bổng ông khỏi chiếc xe đạp. Bình tĩnh nào! ông tự nhủ lúc bay trong không khí (bay vèo vào trong không trung sao dễ thế!), thật vậy, ông cảm thấy chân tay mình ngoan ngoãn buông thõng. Giống hệt một con mèo, ông tự nhủ, cuộn tròn rồi nhún chân bật lên, sẵn sàng tiếp nhận điều sắp tới. Tiếp đến là cái từ mềm dẻo lạ thường.
Tuy nhiên, sự việc lại không hoàn toàn như thế. Không hiểu vì đôi chân ông không nghe lời hay vì lúc ấy ông quá choáng váng (ông nghe thấy hơn là cảm thấy sọ mình đập mạnh lên lớp nhựa đường chắc, cứng đơ đơ, như đập vào cái vồ), ông không bật lên bằng chân tí nào, ngược lại còn bị trượt đi nhiều mét, trượt mãi, cho đến lúc ông ngất lịm.
Ông nằm sóng sượt, im lìm. Buổi sáng hôm đó thật huy hoàng. Ánh mặt trời ve vuốt dịu dàng. Nằm sõng soài ra như thế, đợi phục hồi sức khỏe còn tệ hơn. Thực ra có thể còn nhiều thứ tệ hơn là chợp mắt một lát. Ông nhắm mắt, thế giới tròng trành, xoay tròn bên dưới; rồi ông thiếp đi.
Đột nhiên ông chợt tỉnh. Thân thể ông vừa bay trong không khí nhẹ nhõm là thế mà giờ mỗi lúc một nặng nề hơn, nặng đến mức ông không sao nhấc nổi một ngón tay. Có ai đó hiện ra lờ mờ phía trên ông, một người trẻ hơn, tóc thô và xoắn bện thừng.
- Xe đạp của tôi... - ông nói với cậu ta, phát âm khó khăn từng từ, từng từ một. Ông muốn hỏi chiếc xe của mình ra sao rồi, vì một cái xe đạp có thể biến mất trong chớp mắt. Nhưng chưa kịp nói ra những lời ấy, ông lại ngất đi lần nữa.
Ô
HAI
ng được chuyển đi, lắc lư từ bên này sang bên kia. Nhiều giọng nói vọng đến từ nơi xa xăm, tiếng huyên náo tăng thêm rồi hòa thành một nhịp điệu riêng. Chuyện gì diễn ra vậy? Nếu mở mắt ra, ắt ông sẽ biết. Nhưng ông không thể làm thế được. Có cái gì đó đang đến với ông. Mỗi lần một chữ cái, cọc cọc cọc, một bức điện đang được đánh máy xuất hiện trên màn hình màu hồng rung rinh như nước mỗi lần ông chớp mắt, và có lẽ nó hoàn toàn ở bên trong mí mắt ông. E-R-T-Y, các chữ cái viết, rồi đến F-R-I-V-O-L, rồi run rẩy, rồi E, tiếp đến là Q-W-E-R-T-Y, cứ thế, thế mãi.
Frivole. Một thứ giống như sự hoảng hốt lan khắp người ông. Một tiếng rên từ lục phủ ngũ tạng lớn dần và nổ tung khỏi cổ. - Đau lắm à? - có tiếng nói. - Nằm im. - Một mũi tiêm. Ngay lập tức cơn đau, rồi nỗi kinh hoàng và ý thức mất hẳn.
Ông tỉnh lại trong bầu không khí im lìm như một cái kén. Ông thử ngồi dậy nhưng không được; dường như người ông bị đóng chặt trong một lớp bê tông. Xung quanh ông toàn một màu trắng đơn điệu: trần nhà trắng, khăn trải giường trắng, đèn trắng; rồi một màu trắng sần sạn như kem đánh răng cũ bọc kín tâm trí, làm cho ông không thể nghĩ ngợi đến nơi đến chốn và mỗi lúc một thất vọng.
- Chuyện này là gì? - ông nói to hay hét lên, ý muốn nói Các người đã làm gì tôi? hoặc Tôi đang ở đâu thế này? thậm chí là Cái nghiệp chướng gì đã rơi lên đầu tôi thế?
Một phụ nữ trẻ vận đồ trắng không biết từ chỗ nào xuất hiện, đứng lại chăm chú theo dõi ông. Thoát khỏi tình trạng mụ mẫm, ông cố hỏi. Quá muộn rồi! Cô ta mỉm cười và vỗ nhẹ lên cánh tay ông an ủi, rồi bỏ đi làm ông thấy lạ vì cô ta nghe thấy nhưng không cảm thấy.
Nghiêm trọng lắm sao? nếu có thời gian hỏi một câu duy nhất thì đấy là câu nên hỏi, dù ông không muốn nhấn mạnh ý nghĩa của từ nghiêm trọng. Nhưng thôi thúc hơn câu hỏi về bệnh tình nặng nhẹ, hơn cả câu thầm hỏi Chính xác là chuyện gì đã xảy ra với ông ở cái nơi chết tiệt ấy trên đường phố Magill? là cần phải về nhà, đóng cửa lại, ngồi xuống giữa môi trường quen thuộc để hoàn hồn.
Ông cố sờ chân phải, cái chân lúc này đang có dấu hiệu mơ hồ là không hoạt động được, nhưng bàn tay ông không cựa nổi, cứ ì ra. Quần áo của tôi: Có lẽ đấy là một câu mở đầu vô duyên. Quần áo của tôi đâu? Quần áo của tôi đâu, và tình trạng của tôi có nặng lắm không?
Người phụ nữ trẻ trở lại trong tầm nhìn.
- Quần áo, - cố gắng lắm ông mới nói được, ông nhướn lông mày cao hết sức để ra dấu khẩn thiết.
- Ông đừng lo, - người phụ nữ trẻ nói và lại mỉm cười lần nữa, nụ cười của một thiên thần ban phúc lành. - Mọi thứ ổn cả, ông đang được chăm sóc chu đáo. Bác sĩ sẽ đến ngay bây giờ. - Chưa đầy một phút, vị bác sĩ bằng xương bằng thịt đã hiện ra ngay cạnh cô y tá và thì thầm vào tai cô.
- Paul? - người bác sĩ trẻ gọi. - Ông có nghe thấy tôi không? Tôi gọi tên ông đúng không, Paul Rayment?
- Đúng, - ông cẩn thận nói.
- Chúc một ngày tốt lành, ông Paul. Ngay lúc này có thể ông sẽ thấy hơi mờ ảo. Vì ông vừa tiêm một liều morphine. Chúng tôi sắp tiến hành phẫu thuật. Ông đã bị đâm mạnh làm một chân bị hỏng, và tôi không biết ông nhớ được bao nhiêu. Chúng tôi sẽ xem có thể cứu được chừng nào.
Ông lại nhướng cong lông mày:
- Cứu? - ông cố nói.
- Cứu chân của ông, - bác sĩ nhắc lại. - Chúng tôi có thể sẽ phải cắt bỏ, nhưng sẽ cố cứu vãn hết mức.
Lúc này, chắc hẳn biểu cảm trên mặt ông trông tệ lắm, vì viên bác sĩ trẻ làm một việc sửng sốt. Anh ta đưa tay sờ lên má ông, rồi cứ để bàn tay ở nguyên đó, xoa vuốt mái đầu Paul. Một người phụ nữ mới có thể làm như thế, một người phụ nữ giàu lòng yêu thương. Cử chỉ ấy làm Paul bối rối nhưng không thể giằng ra một cách lịch sự.
- Ông có tin tôi trong việc này không? - người bác sĩ hỏi. Paul chớp chớp mắt, lặng đi.
- Tốt. - Anh ta ngừng. - Chúng ta không còn lựa chọn, ông Paul ạ. Đây không phải là một trong những tình thế chúng ta được lựa chọn. Ông có hiểu không? Ông bằng lòng không? Tôi sẽ không buộc ông phải ký vào dòng chấm chấm, nhưng chúng tôi phải được ông đồng ý. Chúng tôi sẽ cố cứu vãn hết mức có thể, nhưng ông đã bị chấn thương nặng và bị hư hại nhiều, ngay lúc này tôi chưa thể nói có cứu được đầu gối ông không. Đầu gối bị dập nát khá nhiều, cả xương ống chân cũng thế.
Dường như biết là điều cần nói đã nói ra, những lời khủng khiếp đã làm Paul tỉnh khỏi giấc ngủ không yên, chân phải ông đau buốt dữ dội. Ông nghe thấy mình thở hổn hển, rồi tiếng mạch đập thình thịch vang lên trong tai.
- Phải, - người bác sĩ trẻ nói và vỗ nhẹ lên má Paul. - Đến lúc rồi. Ông thức giấc, thấy nhẹ nhõm hơn rất nhiều. Đầu óc minh mẫn, ông đúng là mình (Phấn khởi thật! ông nghĩ), dù vẫn còn lơ mơ dễ chịu, ông có thể ngủ trở lại bất cứ lúc nào. Cái chân bị va đập to kềnh càng nhưng không còn cảm thấy đau nữa.
Cánh cửa mở và một nữ y tá xuất hiện, một bộ mặt mới, tươi tắn. - Ông thấy khá hơn chưa? - cô hỏi, rồi nói nhanh.
- Ông đừng cố nói. Lát nữa bác sĩ Hansen sẽ nói chuyện. Trong lúc này có vài việc cần làm. Vì thế tôi đề nghị ông thư giãn trong khi…
Việc cô ta cần làm trong lúc ông thư giãn là cắm ống thông tiểu. Đây là một việc bẩn thỉu, và ông mừng vì một người lạ làm cho ông. Đây là việc phải đến! - ông tự nhiếc mình - Đây là việc phải đến, giá mình để ý một chút trong lúc lang thang! Còn chiếc xe đạp nữa chứ, không biết nó ra sao rồi? Rồi bây giờ mình đi mua sắm như thế nào đây? Chỉ tại mình đi đường Magill! Paul nguyền rủa đường phố Magill, dù ông đã đạp xe qua đó nhiều năm nay mà có bị sao đâu.
Khi anh chàng bác sĩ trẻ Hansen - như anh ta tự giới thiệu - tới, việc đầu tiên là tóm tắt nhanh trường hợp của Paul, nhắc nhở ông về tốc độ, rồi những tin tức cụ thể về cái chân của ông, cả tin tốt lẫn không tốt.
Trước hết là đánh giá tình trạng chung, cân nhắc có thể làm được gì với thân thể con người khi bị ô tô lao vào với tốc độ cao, Paul có thể mừng vì thương tích không nghiêm trọng. Trái lại, ông có thể coi mình là may mắn, được phù hộ. Vụ đụng xe làm ông chấn thương, nhưng ông thoát chết nhờ đội mũ bảo hiểm. Sẽ còn tiếp tục kiểm tra, nhưng không có dấu hiệu chảy máu trong. Còn chiếc ô tô, những chỉ số ban đầu cho thấy không bị hư hại. Ông bị mất máu, nhưng có thể tiếp bù. Nếu ông băn khoăn vì bị cứng hàm, thì hàm không bị vỡ mà chỉ thâm tím. Những vết xây xước trên lưng và cánh tay nhìn thì khiếp nhưng sẽ lành trong vòng một hoặc hai tuần lễ.
Giờ nói đến cái chân bị đâm, anh ta (bác sĩ Hansen) và các đồng nghiệp không thể cứu được đầu gối. Họ đã thảo luận kỹ lưỡng, và một quyết định được nhất trí. Cú va chạm trực tiếp vào đầu gối, nơi hợp thành xương quay, khớp bị vỡ tan và xoắn lại. Nếu bệnh nhân trẻ hơn, có thể tái tạo nhưng phải tiến hành hàng loạt phẫu thuật, cuộc nọ tiếp cuộc kia kéo dài hơn một năm, thậm chí đến hai năm
mà tỷ lệ thành công dưới năm mươi phần trăm, vì thế nhìn chung, cân nhắc đến tuổi tác của ông, kết luận sáng suốt nhất là cắt bỏ đến trên đầu gối, để lại xương đủ dài để lắp ghép. Anh ta (bác sĩ Hansen) hy vọng ông (Paul Rayment) chấp thuận quyết định này.
- Tôi chắc ông có nhiều câu hỏi, - Hansen kết luận.
- và tôi sẵn lòng trả lời, nhưng có lẽ không phải bây giờ; tốt hơn hết là đến sáng, sau khi ông đã ngủ được chút ít.
- Lắp ghép, - Paul nhắc lại một cách khó khăn, tuy nhiên lúc này ông đã hiểu hàm của mình không bị vỡ, chỉ bị thâm tím và ông thấy đỡ lúng túng hơn với những từ khó.
- Lắp ghép. Chân tay giả. Khi vết mổ lành, chúng tôi sẽ tiến hành lắp ghép cho vừa khít. Khoảng bốn tuần lễ, có khi sớm hơn. Chẳng mấy chốc ông sẽ đi lại được. Đi được cả xe đạp, nếu ông thích. Sau một thời gian luyện tập. Ông còn hỏi gì nữa không?
Ông lắc đầu. Sao anh không hỏi tôi trước? Paul muốn nói thế, nhưng nếu thốt ra lời ông sẽ không kìm được, sẽ gào lên mất thôi. - Tôi sẽ nói chuyện với ông vào buổi sáng, - bác sĩ Hansen nói. - Ông đừng thất vọng!
Tuy nhiên thế vẫn chưa hết. Vẫn chưa xong chuyện. Trước tiên là sự nhiêu khê, rồi tiếp đến là chấp nhận sự nhiêu khê ấy. Có nhiều giấy tờ được ký trước khi để ông lại một mình, và những giấy tờ ấy chứng tỏ sự khó khăn đáng sửng sốt.
Ví dụ, về gia đình chẳng hạn. Gia đình ông ở đâu, lúc cần báo tin cho ai? Còn bảo hiểm nữa chứ. Nơi nào chịu bảo hiểm cho ông? Hợp đồng bảo hiểm thanh toán những khoản gì?
Bảo hiểm không thành vấn đề. Ông được bảo hiểm hoàn toàn, trong ví của ông có thẻ chứng minh điều đó, ông sẽ chẳng là gì nếu không cẩn thận (nhưng ví của ông, quần áo của ông đâu?). Gia đình là chuyện ít minh bạch hơn. Gia đình ông có những ai? Trả lời sao
cho đúng đây? Paul có một chị gái. Bà đã mất từ mười hai năm trước, nhưng vẫn sống trong lòng ông, cùng với ông; cũng như ông có mẹ, bà cụ không sống trong lòng ông hoặc cùng ông, mà đang đợi lời gọi của các thiên thần trong mảnh đất của cụ ở nghĩa trang Ballarat. Cha ông còn đợi xa hơn, trong nghĩa trang tận Pau, ông rất ít khi thăm nom. Cả ba người ấy có phải là gia đình ông không? Những người ấy đang sống cuộc đời của mình, còn ông thì đã sinh ra nhưng chưa chết, ông muốn nói thế với bất cứ ai hỏi. Ông mang họ theo cùng mình, vì hy vọng những người ấy sinh ra và chăm sóc ông.
Ông có thể xác định rõ ràng hơn về việc không có vợ và con cái. Tất nhiên ông đã từng kết hôn một lần, nhưng người bạn đời ấy đã không còn là của ông nữa. Bà ta đã trốn khỏi ông, trốn biệt. Bà ta đã xoay đủ kiểu để ông không bắt được, như vậy đấy: Bà đã trốn vào cuộc đời riêng của mình. Bởi vậy, vì những mục đích thực tế, và chắc chắn vì mục tiêu của bản khai, ông là người không kết hôn, độc thân, cô đơn, lẻ loi.
Gia đình: Không, ông viết bằng chữ in, cô y tá theo dõi các câu hỏi khác, rồi ký vào bản khai, cả hai tờ.
- Ngày tháng? - ông hỏi cô y tá.
- Mồng hai tháng Bảy, - cô trả lời. Ông ghi ngày tháng. Chức năng vận động không bị ảnh hưởng.
Paul uống thuốc để dịu cơn đau và ngủ, nhưng ông không ngủ được. Những thứ này - chiếc giường lạ, căn phòng trơ trụi, mùi thuốc kháng sinh và mùi nước tiểu khăn khẳn - rõ ràng không phải giấc mơ, mà là thực, thực hoàn toàn. Nếu cả ngày hôm nay cũng như mọi ngày, nếu thời gian vẫn còn ý nghĩa nào đó thì phải có cảm giác của giấc mơ. Chắc chắn là cái này, lần đầu tiên ông kiểm tra dưới tấm đắp, cái thứ quái gở trắng toát quấn bó vào hông ông dứt khoát không phải chuyện nằm mơ.
Còn một việc nữa, cái việc mà anh chàng thanh niên đeo kính sáng lóa rồ dại nói với vẻ nhiệt tình đến thế, khi nào mới xuất hiện? Trong thời của ông, không thể nhìn thấy một sự lắp ghép trần trụi. Hình ảnh đến trong đầu ông là một cái ống cứng đơ đơ có ngạnh ở đầu giống như cây lao móc và những cái giác hút cao su trên ba cái chân bé xíu. Đây là sản phẩm của Chủ nghĩa Siêu thực. Là cái trò của Dali [1].
Ông đưa bàn tay ra (lần đầu tiên ông nhận ra ba ngón giữa bị buộc vào nhau) và ấn vào cái vật trong lớp trắng toát. Chẳng có cảm giác gì. Giống như một khúc gỗ. Chỉ là một giấc mơ, Paul tự nhủ và chìm vào giấc ngủ sâu nhất.
- Hôm nay chúng tôi sẽ để ông tập đi, - bác sĩ trẻ Hansen nói. - Chiều nay. Không đi dài đâu, chỉ vài bước để ông cảm nhận thôi. Elaine và tôi sẽ có mặt ở đây để đỡ một tay. - Anh ta gật đầu với cô y tá. Y tá Elaine. - Elaine, cô đã bàn với Khoa Chỉnh hình chưa?
- Tôi không muốn đi hôm nay, - Paul nói. Ông đã học được cách nói chuyện qua hàm răng nghiến chặt. Không chỉ vì hàm ông thâm tím, mà một bên răng hàm bị lung lay, ông không thể nhai được. - Tôi không muốn vội. Tôi không muốn lắp chân giả.
- Thế cũng được, - bác sĩ Hansen nói. - Chúng tôi không nói đến việc lắp chân giả, việc đó để sau, đây chỉ là tập thử, bước đầu của việc phục hồi thôi. Nhưng chúng ta có thể bắt đầu vào ngày mai hoặc ngày kia.
Chỉ để ông thấy mất một chân chưa phải là tận thế.
- Để tôi nói lại lần nữa: Tôi không muốn lắp chân giả. Bác sĩ Hansen và nữ y tá Elaine nhìn nhau.
- Nếu ông không muốn lắp chân giả, vậy ông thích gì hơn? - Tôi thích tự chăm sóc bản thân.
- Thế thì hết chuyện, chúng tôi không giục ông đâu, tôi hứa. Bây giờ tôi có thể nói về cái chân của ông được không? Tôi có thể nói với ông về cách chăm sóc nó chứ?
Chăm sóc chân mình ư? Ông giận điên lên, họ không nhìn thấy nó sao? Mày đã gây mê cho tao rồi cắt phăng chân tao và ném vào túi rác để ai đó nhặt rồi quăng vào lửa. Sao mày còn đứng đó nói đến việc chăm sóc chân tao?
- Chúng tôi đã đắp phần cơ còn lại phủ kín đầu xương, - bác sĩ Hansen nói và khum hai bàn tay ra hiệu, - rồi khâu lại. Khi vết mổ lành, chúng tôi hy vọng bắp thịt tạo thành một cái đệm phủ lên xương. Trong vài ngày tới, khi vết thương hồi phục và rời giường bệnh, ông sẽ có chiều hướng bị phù nề và sưng. Chúng tôi cần làm vài việc. Cũng có khi bắp thịt co rút vào hông như thế này, - Anh ta đứng xoay lệch sang một bên, nhô phần đằng sau ra. - Chúng tôi sẽ phải kéo căng ra.
Động tác đó rất quan trọng. Elaine sẽ hướng dẫn ông vài bài kéo căng và giúp đỡ nếu ông cần.
Nữ y tá Elaine gật đầu.
- Kẻ nào đã làm tôi ra nông nỗi này? - ông nói. Ông không thể nói to vì không mở được hàm, nhưng thế lại tiện cho ông, thích hợp với cơn thịnh nộ làm ông nghiến chặt răng. - Kẻ nào đã đâm phải tôi? - Những giọt nước ứ lên trong mắt ông.
Đêm đêm dường như vô tận. Lúc ông quá nóng, lúc lại quá lạnh; cái chân bị bọc kín, ngứa ngáy và không sao với tới được. Nếu nín thở, ông có thể nghe thấy tiếng da thịt bị hành hạ bò như một bóng ma lúc nó cố khít lại với nhau. Bên ngoài cửa sổ bịt kín, một con dế gáy đều đều. Khi giấc ngủ đến đột ngột và ngắn ngủi, dường như phần thuốc mê còn lại trào ra từ phổi rồi lan tỏa khắp người ông.
Ngày cũng như đêm, thời gian kéo dài lê thê. Có một chiếc ti vi để đối diện với giường, nhưng ông chẳng chẳng có hứng thú với những loại tin tức mà ti vi hoặc tạp chí cung cấp, kiểu như Ai là ai? Hội chợ phù hoa. Nhà & vườn Australia. Ông nhìn đăm đăm vào mặt đồng hồ, ghi nhớ vị trí các kim. Rồi nhắm mắt lại, ông cố nghĩ đến những thứ khác - hơi thở của ông, bà nội ông ngồi bên bàn bếp vặt lông gà, những con ong giữa các bông hoa, mọi thứ. Ông mở mắt. Bàn tay ông không cựa quậy. Cứ như chúng phải rẽ đường qua lớp keo.
Đồng hồ đứng yên, còn thời gian thì không. Ngay cả khi nằm đây, Paul vẫn cảm thấy thời gian hoạt động trên người mình như bệnh tật làm hao mòn sức khỏe, giống như vôi đổ lên xác chết. Thời gian gặm nhấm, tàn phá từng tế bào tạo nên con người ông. Các tế bào của ông tắt dần như những ngọn đèn.
Những viên thuốc uống cách nhau sáu tiếng một, làm dịu cơn đau dữ dội đã là tốt, thỉnh thoảng giúp ông ngủ được còn tốt hơn, nhưng chúng cũng khiến tâm trí ông lộn xộn, vừa hốt hoảng vừa sợ hãi những giấc mơ, vì thế ông ngần ngại không muốn uống. Đau đớn cũng chẳng sao, ông tự nhủ, chỉ là một tín hiệu cảnh báo của thân thể lên não. Đau đớn là thực tế, chẳng khác gì một phim chụp X-quang, là thứ có thật. Nhưng lẽ tất nhiên ông lầm. Sự đau đớn là có thực, không cần nhấn mạnh mới làm ông tin, không phải lâu tí nào, chỉ nhoáng một, hai cái; sau đó ông nhanh chóng dẹp được những giấc mơ xấu.
Có người chuyển vào phòng ông, một người đàn ông lớn tuổi hơn Paul, vừa phẫu thuật hông. Ông ta nằm suốt ngày, mắt nhắm nghiền. Thỉnh thoảng, hai cô y tá kéo rèm quanh giường và làm các nhu cầu cho thân thể ông ta.
Hai người không còn trẻ nữa, hai anh già trên cùng một con thuyền. Các nữ y tá rất tử tế, họ ân cần và vui vẻ, nhưng Paul phát hiện ra dưới vẻ nhanh nhẹn của họ là sự thờ ơ với số phận của ông
và người bạn đồng hành - ông không hề nhầm, ông đã nhìn thấy quá nhiều lần trong quá khứ. Ông cũng cảm thấy sự thờ ơ ấy dưới sự quan tâm ân cần của viên bác sĩ trẻ Hansen. Hình như những người trẻ tuổi này dửng dưng một cách vô ý thức, như thể muốn cho các bệnh nhân biết rằng họ chẳng để lại gì cho đám đông nên chẳng cần tính đến. Trẻ vậy mà nhẫn tâm thế! Paul gào lên với chính mình. Sao mình lại rơi vào tay bọn họ kia chứ? Tốt hơn hết là để người già trông nom người già, người hấp hối trông người hấp hối! Là người lẻ loi trên cõi đời này mới khốn nạn làm sao!
Họ nói đến tương lai của ông, họ làm tình làm tội ông vì những bài tập chuẩn bị cho cái tương lai ấy, họ đuổi ông ra khỏi giường; nhưng với ông, hoàn toàn không có tương lai, cánh cửa tương lai đã đóng và khóa lại rồi. Nếu có cách đặt dấu chấm hết cho mình bằng một hành động thuần túy tinh thần, ông sẽ chấm dứt ngay lập tức, không phải khó nhọc thêm nữa. Tâm trí ông đầy chuyện về những con người tự kết liễu đời mình - thanh toán các hóa đơn chu đáo, viết thư tuyệt mệnh, đốt hết thư tình cũ, rồi khi mọi thứ đã đâu vào đấy, mặc bộ quần áo ngày Chủ nhật đẹp nhất và nuốt hết chỗ thuốc ngủ tích cóp cho dịp này, nằm trên chiếc giường gọn gàng, ngăn nắp và tạo nên những nét đặc trưng để quên lãng. Tất thảy bọn họ đều là những nhân vật không được tán dương, khen ngợi. Mình tự giải quyết mà không để lại rắc rối nào. Vấn đề duy nhất họ cần quan tâm là cái xác họ để lại, cái đống da thịt ấy sau một, hai ngày sẽ bắt đầu có mùi hôi thối. Nếu có thể, và nếu được phép, họ sẽ gọi một chiếc taxi đưa đến lò hỏa táng, nằm trước cánh cửa tử, nuốt hết liều thuốc ngủ, rồi trước khi mất hết ý thức, ấn nút đẩy họ vào lửa rồi ra ở đầu kia chẳng còn gì ngoài một xẻng tro gần như không trọng lượng.
Paul tin rằng ông sẽ tự kết liễu nếu có thể, ngay bây giờ. Đồng thời, ông biết mình sẽ không làm như thế. Đây chỉ là vì đau đớn, vì
những đêm không ngủ dài lê thê trong bệnh viện, nơi bị sỉ nhục mà không có chỗ ẩn náu, thoát khỏi cái nhìn trừng trừng tàn nhẫn của lớp trẻ, làm ông ước ao được chết.
Với ông, những hàm ý là người độc thân, cô đơn và lẻ loi khi về nhà vào cuối tuần lễ, là mỉa mai nhất và xếp thứ hai chính là phải lưu lại ở cái miền trắng tuyền này.
- Ông không có gia đình sao? - Janet, cô y tá trực đêm nói, cô tự cho phép mình đùa cợt ông. - Ông không có bạn bè ư? - Cô hếch mũi lúc nói, như thể đây là một trò cười và ông đang lợi dụng mọi người.
- Tôi có nhiều bạn như tôi mong ước, - ông đáp.
- Tôi không phải là Robinson Crusoe [2]. Nhưng tôi không muốn gặp bất cứ ai.
- Gặp gỡ bạn bè sẽ làm ông khá hơn, - cô ta nói.
- Họ sẽ làm ông vui lên. Tôi chắc thế.
- Cảm ơn cô, tôi sẽ tiếp khách khi tôi thích.
Ông vốn không phải là người nóng nảy, nhưng ở nơi này ông tự cho phép mình cáu kỉnh, càu nhàu, giận dữ vì hình như thế mới làm cho những người trông nom ông để mặc ông một mình. Bề ngoài thế thôi, nhưng ông ấy không đến nỗi tồi, ông hình dung Janet cam đoan với các bạn đồng nghiệp. Cái lão già tởm lợm! ông tưởng tượng các đồng nghiệp của cô khịt mũi đáp lại, nhạo báng.
Ông biết đi kèm với mong muốn mình sẽ khá lên là niềm khao khát hiển nhiên với những phụ nữ trẻ này, vì ở các bệnh nhân nam giới, bất kể tuổi tác chừng nào, cũng sẽ xuất hiện những khao khát này vào những lúc phiền phức, phải làm chúng dịu lại nhanh chóng và kiên quyết hết mức.
Thực ra ông không hề có những thèm muốn ấy. Trái tim ông trong trắng như một đứa trẻ. Lẽ tất nhiên, trái tim trong trắng làm ông trở
nên vô tích sự giữa đám nữ y tá, và ông cũng không muốn như thế. Một lão dê già dâm đãng là một phần của cuộc chơi, một cuộc chơi mà ông không muốn tham gia.
Nếu ông không liên hệ với bạn bè, chỉ vì ông không muốn giơ mặt ra trong tình trạng mới mẻ, què cụt và nhục nhã. Nhưng tất nhiên, bằng cách này hay cách khác, mọi người cũng nghe nói đến chuyện đã xảy ra. Họ gửi lời chúc chóng khỏe, có người còn đích thân gọi điện. Trên điện thoại, dễ bịa ra một câu chuyện. Chỉ bị một chân thôi, ông cay đắng nói, hy vọng giữ được tình trạng mập mờ. Tôi sẽ phải đi nạng một thời gian, rồi sau đó đi một chân giả. Chính sự đóng kịch ấy càng khó che giấu hơn, vì ông ghét cay ghét đắng cái vật trì độn mà từ nay ông phải kéo lê cùng ông, cảm nghĩ đó hiển hiện quá rõ ràng trên mặt ông.
Từ khi xảy ra chuyện rủi ro trên đường Magill đến nay, ông không cư xử tử tế, không có khả năng đối phó với tình hình: Rõ ràng là với ông, việc ấy thật vất vả. Một cơ hội vàng biến ông thành tấm gương về một người vui vẻ chấp nhận những ngón đòn cay đắng của số phận, nhưng ông từ chối. Kẻ nào đã làm việc này với tôi? mỗi khi nhớ lại ông đã hét lên với bác sĩ trẻ Hansen, tuy khá thạo việc nhưng cũng khá tầm thường, tưởng ông định nói Ai đã lái xe đâm vào tôi? nhưng thực ra nghĩa là Kẻ nào đã láo xược cắt nghiến chân tôi đi?, ông rất ngượng. Ông chẳng phải người đầu tiên trên đời bị một tai nạn khó chịu, cũng chẳng phải ông già đầu tiên thấy mình trong bệnh viện bị những người trẻ tuổi chăm sóc cẩn thận nhưng vô cùng dửng dưng. Một chân bị mất, mất một chân là gì trong viễn cảnh rộng lớn hơn? Trong viễn cảnh rộng hơn, mất một chân chẳng gì hơn là diễn tập cho việc mất hết mọi thứ. Ông quát vào mặt ai trong cái ngày ông đến đây? Ông định đổ tội cho ai?
Margaret McCord đến thăm ông. Gia đình McCord là bạn thân nhất của ông ở Adelaide; Margaret bối rối khi biết tin quá muộn và
phẫn nộ chính đáng với kẻ nào đã làm ông ra nông nỗi này. - Em hy vọng là anh sẽ kiện, - bà nói.
- Tôi không có ý định kiện cáo, - ông đáp. - Quá nhiều cơ hội cho một vở hài kịch. Tôi muốn trả lại chân tôi, nếu không thì… Tôi để việc này cho nhân viên bảo hiểm.
- Anh nhầm rồi, - bà ta nói. - người lái xe ẩu phải được một bài học. Em tin rằng họ sẽ lắp chân giả cho anh. Bây giờ người ta làm chân tay giả khéo lắm, anh sẽ sớm đi xe đạp được thôi.
- Tôi không nghĩ thế, - ông đáp. - Thế là một phần đời tôi chấm dứt.
Margaret lắc đầu:
- Thật đáng tiếc! Đáng tiếc thật!
Sau này ông ngẫm nghĩ, bà nói năng mới ngọt ngào làm sao. Tội nghiệp Paul, anh đang trải qua cảnh khó khăn biết chừng nào! đấy là điều bà muốn nói và bà biết ông hiểu ý bà. Cuối cùng thì tất cả chúng ta đều phải qua một cái gì đó thuộc loại này, ông muốn nhắc bà.
Ông ngạc nhiên vì cả bệnh viện nhanh chóng chăm lo đến việc lắp ráp chân ông, (“Tuyệt vời!” bác sĩ Hansen dùng một ngón tay với bộ móng được cắt sửa trau chuốt thăm khám đoạn chân còn lại. “Liền rất đẹp. Ông sẽ trở lại là mình thôi”) và trả lời câu hỏi ông sẽ đối phó ra sao khi lại về với cuộc đời.
Sớm sủa một cách sỗ sàng, hay là ông thấy thế, một nhân viên xã hội, bà Putt hoặc Putz đến ngay.
- Ông vẫn còn trẻ vậy, ông Rayment, à Paul, - bà ta nói, cung cách vui vẻ đúng kiểu được huấn luyện khi giao dịch với người già. - Ông muốn giữ nguyên tình trạng độc lập, lẽ tất nhiên là rất tốt, nhưng trong một thời gian ông cần được chăm sóc, chăm sóc đặc biệt, và chúng tôi có thể thu xếp được. Trong tương lai xa hơn, ngay
cả khi ông đã đi lại được, ông vẫn cần có người đỡ đần một tay, mua bán, nấu ăn và giặt giũ, v.v… Ở đấy không có ai ư? Ông lắc đầu, thầm nghĩ thế là hết.
- Không, không có ai, - ông nói, đầy ngụ ý và ông tin bà Putts hiểu, rằng không có người nào quan niệm đấy là bổn phận của người theo đạo Khổng, tận tụy chăm sóc các nhu cầu của ông, nấu ăn hoặc giặt giũ cho ông.
Điều ông thú vị trong câu hỏi là lộ ra tình trạng của ông theo quan sát của bà Putts, ắt hẳn bà đã trao đổi thẳng thắn với các nhân viên y tế, thẳng thắn và thực tế về việc cấp phát cho ông. Từ các cuộc thảo luận thiết thực này, rõ ràng là bà đã rút ra kết luận rằng trong tương lai xa hơn ông sẽ là người không được đỡ đần một tay.
Trong tầm nhìn của ông về một tương lai xa hơn, cái tầm nhìn ông rập theo trong những lúc bình tĩnh, cái tôi tàn tật của ông (từ ngữ ấy khắc nghiệt, nhưng vì sao phải lập lờ nước đôi?) đằng nào cũng cần sự trợ giúp của cái nạng hoặc vài sự trợ giúp khác để được cuộc đời chấp nhận, có lẽ chậm chạp hơn trước kia, nhưng chậm hay nhanh phỏng còn ý nghĩa gì hơn nữa? Nhưng đấy không phải là cách nhìn của họ. Trong mắt họ, hình như ông không phải loại người cụt làm chủ được tình trạng mới mẻ, đã thay đổi của mình và nói chung là đối phó được, mà là loại kém cỏi, loại người nếu thiếu sự trợ giúp chuyên nghiệp sẽ chết dấm chết dúi trong một cơ sở từ thiện dành cho người già và ốm yếu.
Nếu bà Putts sẵn lòng nói thẳng với ông, ông sẽ thẳng thắn với bà. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều đến việc đương đầu, ông sẽ nói với bà. Tôi đã chuẩn bị từ lâu; dẫu cho điều xấu nhất đến rất xấu, tôi cũng sẽ có khả năng tự chăm sóc bản thân. Nhưng luật chơi khắt khe không cho người nào trong số họ được thẳng thắn. Ví dụ, nếu ông nói với bà Putts về nơi cất giấu Somnex ở ngăn tủ trong buồng tắm
của nhà ông, có lẽ bà cảm thấy bị luật chơi ràng buộc và sẽ khuyên ông tự vệ.
Ông thở dài.
- Theo quan điểm của bà, một quan điểm chuyên môn thuần túy, bà gợi ý tiếp theo nên làm gì, thưa bà Putts, Dorianne? - ông nói. - Ông cần người trông nom, đấy là điều chắc chắn, - bà Putts nói. - tốt nhất là một điều dưỡng viên riêng, có kinh nghiệm chăm sóc người yếu. Lẽ tất nhiên ông không phải là người yếu đuối. Nhưng cho đến khi ông đi lại được, chúng ta không nên ứng xử liều lĩnh. - Không, không nên, - ông nói.
Chăm sóc người yếu. Chăm sóc người yếu. Ông không bao giờ cho mình là người yếu đuối, cho đến lúc ông thấy phim chụp X quang. Ông khó mà tin rằng xương bánh chè trên phim kia có thể giữ cho ông đứng thẳng, ông có thể ngã lăn kềnh nếu chúng gãy đánh tách. Người càng cao càng yếu. Quá cao vốn là điểm mạnh của ông. Tôi chưa bao giờ phẫu thuật cho một người đàn ông cao như thế, có đôi chân dài như thế, bác sĩ Hansen nói. Lúc đó ông đã xúc động vì câu nói hớ của anh ta.
- Liệu hãng bảo hiểm của ông có chi khoản chăm sóc người yếu không, Paul? - bà Putts nói.
Một nữ điều dưỡng, lại thêm một nữ điều dưỡng nữa. Một người đàn bà đội mũ trắng nhỏ xíu, đi giày nhẹ lăng xăng trong căn hộ của ông, gọi to bằng giọng vui vẻ, Đến lúc uống thuốc rồi, ông R!
- Không, tôi cho là hãng bảo hiểm sẽ không chi khoản đó, - ông đáp.
- Vậy thì ông sẽ được ngân sách chi khoản này. - bà Putts nói.
T
BA
hật phù phiếm. Ngày hôm ấy ở phố Magill, ông đã bị lợi dụng biết chừng nào, lắng nghe những lời của Chúa rồi gõ lên chiếc máy chữ được che kín của họ! Nhìn lại, ông chỉ có thể mỉm cười. Kỳ quặc làm sao, lỗi thời làm sao, tin rằng con người sẽ trở nên sáng suốt và khi thời khắc ấy đến, linh hồn mình sẽ được xếp hạng. Những con người nào có thể ra đi, trong xó xỉnh nào của vũ trụ, trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời lại quan tâm đến việc kiểm lại mọi thứ để vào thiên đường, nợ ghi vào một cột, có ghi vào cột khác?
Phù phiếm chẳng phải là một từ xấu tóm tắt về ông trước sự kiện ấy và có thể vẫn như thế. Nếu suốt đời ông chưa làm điều gì tai hại đáng kể, thì cũng chưa làm được gì tốt đẹp. Ông sẽ ra đi không để lại dấu vết gì, kể cả một người thừa kế mang tên họ ông. Lướt qua cuộc đời: Như vậy đấy, trong một thời kỳ đã qua, người ta quen xác định những cách sống như của ông: Tìm kiếm điều thích thú, thành công một cách yên lặng, không chú ý đến sự thu hút. Nếu không có gì để lại, ai sẽ công bố lời phán xét một cách sống như thế, rồi đến ngày Phán xét cuối cùng, liệu ông có thoát khỏi sự trừng phạt không. Ông thầm nhủ: Thế là một cơ hội đã bị uổng phí.
Ông chưa bao giờ nghĩ có thể nói đến chiến tranh bằng một từ tốt đẹp, nhưng ở đây, trên giường bệnh, tiêu phí thời gian và là người bị hủy hoại, hình như ông xét lại quan niệm của mình. Trong việc san bằng các thành phố, cướp bóc của cải và sát hại dân lành, trong mọi việc hủy diệt tàn bạo, ông bắt đầu tìm ra một sự khôn ngoan nhất định, dường như lịch sử biết việc mình làm ở mức độ sâu sắc nhất. Vứt bỏ cái cũ, dọn đường cho cái mới! Có lẽ là người ích kỷ, keo kiệt - nó đặc biệt day dứt ông - còn hơn là chết không con cái, tuyệt đường huyết thống, mà huyết thống vốn là nền móng tuyệt vời tạo
nên thế hệ? Nói tóm lại, sống trái tự nhiên còn tệ hơn cả tính bủn xỉn.
Hôm trước khi xuất viện, ông có một vị khách bất ngờ: Chàng trai chẹt phải ông, Wayne Bright hay Wayne Blight gì đó. Wayne bị gọi đến xem ông ra sao, song không thừa nhận có lỗi.
- Cháu muốn thấy ông tiến triển ra sao, ông Rayment, - Wayne nói. - Cháu thực sự tiếc việc đã xảy ra. Thực rủi ro. - Anh chàng Wayne không phải là người khéo nói; mỗi lời bày tỏ của cậu ta là sự thoái thác cẩn thận, như thể cậu ta được dặn phòng này đặt máy ghi âm. Thực ra, sau này ông mới biết cha của Wayne ở trong hành lang suốt cuộc thăm hỏi để nghe trộm. Chắc chắn ông ta đã dạy dỗ Wayne từ trước: “Con phải tỏ ra kính trọng lão già, nói con rất tiếc, nhưng bằng bất cứ giá nào cũng không nhận con đã làm sai.”
Cha con họ nói riêng với nhau, làm sao cho ông ta không thể hình dung rõ ràng vụ đụng xe trên đường phố đông đúc. Nhưng luật pháp là luật pháp: Ngay các ông già ngớ ngẩn đi xe đạp cũng có quyền không bị xô ngã, Wayne và cha cậu thừa biết điều đó. Họ run cả người khi nghĩ đến ông ta hoặc công ty bảo hiểm có thể thưa kiện. Vì thế Wayne phải lựa chọn lời lẽ hết sức thận trọng.
Thật đen đủi quá. Ông có thể nghĩ ra hàng loạt câu trả lời, bắt đầu là Nào ai học được chữ ngờ, Wayne, chỉ là lái kém thôi. Nhưng phải dùng cái gì để giữ lợi thế với cậu trai không có khả năng sửa chữa thứ cậu đã đâm phải? Đi đi, đừng mắc thêm tội nữa: Lúc này đấy là điều hay nhất ông nghĩ ra. Lời tuyên bố chính thức kiểu dạy đời, cổ lỗ ấy chỉ làm hai cha con nhà Blights cười suốt trên đường về nhà. Ông nhắm mắt lại, mong Wayne biến đi.
Sự tình cờ là thứ xảy ra không dự tính trước, không ngờ. Theo định nghĩa ấy thì ông, Paul Rayment, rõ ràng là tình cờ. Còn Wayne Blight thì sao? Wayne cũng tình cờ sao? Làm sao ông có thể nghĩ về Wayne như thế, lúc cậu ta lái xe phóng vọt ra đâm sầm vào khối
da thịt con người mềm mại trong tiếng nhạc ầm ầm? Chắc chắn là bất thình lình, bất ngờ và không dự tính trước rồi, nhưng cái kiểu ấy rõ ràng là không hay. Có thể nào nói việc xảy ra ở giao điểm tai hại ấy là việc đã xảy ra với Wayne? Nếu có xảy ra điều gì, thì theo quan điểm của ông, là do Wayne đã gây ra cho ông.
Ông mở mắt. Wayne vẫn đứng cạnh giường, mồ hôi đọng từng giọt ở môi trên. Tất nhiên rồi! Ở trường, Wayne bị nhắc đi nhắc lại rằng không được ra khỏi lớp cho đến khi giáo viên ra hiệu giờ học kết thúc. Wayne nhẹ cả người khi cuối cùng được thoát khỏi trường, khỏi các giáo viên và đủ thứ khác, khi cậu có thể nhấn bàn chân lên ga, gió lùa qua cửa xe và cảm thấy gió táp vào mặt, nhai kẹo gôm, mở nhạc to tùy thích, gào lên với những ông già “Đ.m mày!” khi lao hết tốc lực qua họ! Bây giờ thì cậu ở đây, đeo bộ mặt tỏ ra kính trọng, dò dẫm tìm lời ra vẻ hối lỗi.
Vậy là vấn đề nan giải đã xong. Wayne đợi một tín hiệu, còn ông thầm mong Wayne xéo ngay ra khỏi đời ông.
- Cậu đến là tốt rồi, - ông nói. - nhưng tôi đau đầu và cần ngủ. Chào nhé.
BỐN
B
à Putts giới thiệu cô điều dưỡng ban ngày tên là Sheena. Trông Sheena trạc mười chín, nhưng trên giấy tờ chứng nhận thì cô hai chín tuổi. Cô mũm mĩm, béo tốt, mỡ màng và nặng nề nhưng dưới vẻ ngoài ấy là tính vui vẻ cố hữu. Ông không thích cô ngay lập tức, ông không muốn có cô, nhưng bà Putts nài ép:
- Trước đây Sheena đã làm điều dưỡng viên cho nhiều người cụt chân cụt tay. Ông sẽ là kẻ ngốc khi không nhận cô ấy. Vậy là ông chịu thua. Đến lượt bà Putts thừa nhận ông không cần thuê điều dưỡng ban đêm, miễn là ông đăng ký với một dịch vụ cấp cứu và lúc nào cũng mang theo máy nhắn tin.
Ông ủng hộ ý của bà Putts vì ông tin một người có khả năng như bà ắt phải có ý kiến xác đáng. Bà Putts là một bộ phận trong hệ thống phúc lợi xã hội.
Phúc lợi xã hội nghĩa là chăm sóc những người không thể tự chăm sóc bản thân. Nếu bà Putts đã quyết là ông không có khả năng tự chăm sóc mình, rằng ông cần được che chở, thì ông phải trông cậy vào đâu? Ông không có đồng minh để chiến đấu nhân danh ông. Ông chỉ có một mình.
Cũng có thể ông đánh giá quá cao sự quan tâm của bà Putts. Ông gần như lạc hậu về những vấn đề phúc lợi, chăm nom và nghề điều dưỡng. Trong cõi đời can đảm mới mà cả ông và bà Putts cùng được khai sáng, khẩu hiệu của nó là Không can thiệp vào việc người khác!, có lẽ bà Putts không coi mình là người quản lý ông, cũng chẳng quản lý được em trai bà hoặc bất cứ ai. Nếu trên cõi đời này, người què cụt, ốm yếu, nghèo khổ hay người vô gia cư mong được ăn những thứ bỏ đi trong thùng rác và trải chăn ở chỗ gần lối
vào nhất, hãy để mặc họ làm thế: Cứ để mặc họ rúc sát vào nhau, nếu đến sáng hôm sau họ thức dậy còn sống là may cho họ rồi. Khi xe cứu thương đưa ông về nhà, Sheena đã đợi sẵn. Cô đã sắp xếp lại phòng ngủ cho ông, giám sát người quét dọn, chỉ dẫn chỗ cho thợ lắp chấn song, nói chung là chăm nom mọi việc. Cô đã thảo lịch trình ngày-tiếp-ngày cho các bữa ăn, bài tập, và cái mà cô gọi là SC - chăm sóc phần chân còn lại -, cô đính lên tường bên trên đầu. Tất cả gồm ba bản, một cho giữa buổi sáng, một vào buổi trưa, một vào buổi chiều, ghi “THỜI GIAN RIÊNG”, là khoảng thời gian cô rút vào bếp nghỉ cho khỏe người. Cô để vật dụng của cô vào một cái giá trong tủ lạnh đề “ĐỒ DÙNG RIÊNG”. Để không héo hon vì buồn chán, cô bật radio trong bếp, xen kẽ các quảng cáo ầm ĩ và tiếng nhạc thình thịch. Khi ông yêu cầu cô vặn nhỏ tiếng đi, cô vặn nhỏ; tuy vậy, ông vẫn nghe thấy mà không căng thẳng.
Thử nghiệm đầu tiên về sức mạnh thể chất của ông là Sheena đỡ khuỷu tay ông, còn ông cố dùng toilet. Động tác ngồi xuống làm ông thất vọng: Chân trái, cái chân còn lại mềm như bún. Sheena bĩu môi:
- Trở về giường ngay, - cô nói. - tôi sẽ lấy “bô tí” cho ông. Cô gọi bô cho người ốm là “bô tí”, gọi dương vật của ông là “thằng cu”. Đang lau người dở chừng bằng miếng bọt biển, trước khi làm đoạn chân bị cắt cụt, cô dừng lại và nói líu lo:
- Bây giờ nếu ông ấy muốn Sheena rửa ráy cho thằng cu, ông ấy phải rất ngoan đấy, - cô nói. - Nếu không thì ông ấy tưởng Sheena là một trong các cô gái hư. Những cô gái hư ra hư nhé. - Rồi cô đùa cợt vỗ nhẹ lên cánh tay ông, ra dấu đấy chỉ là một câu đùa.
Ông chịu đựng Sheena đến cuối tuần lễ, rồi gọi điện cho bà Putts: - Tôi muốn đề nghị Sheena không trở lại, - ông nói. - Tôi không thể chịu được cô ấy. Bà tìm cho tôi người khác vậy.
Hóa ra việc đuổi Sheena không đơn giản như vậy. Đến lúc sự hãnh diện thành thạo tay nghề của cô dịu đi, ông phải xùy tiền ra trả hai tháng lương. Ông tự hỏi trong sự nghiệp điều dưỡng của cô, đã bao lần cô có những vụ tương tự. Có lẽ radio chỉ là một mẹo chọc tức ông, cả kiểu nói chuyện bi bô cũng vậy.
Sau Sheena, ông được nhiều nữ điều dưỡng của các nơi môi giới chăm sóc, họ tự gọi mình là nhân viên tạm thời và mỗi lần đến một hoặc hai ngày.
- Bà có thể tìm cho tôi một người làm thường xuyên được không? - ông hỏi bà Putts qua điện thoại.
- Tôi đang bị đòi hỏi quá nhiều, - bà Putts nói.
- Hiện nhu cầu chăm sóc người ốm rất lớn. Ông hãy kiên nhẫn, ông là danh sách loại A đấy.
Niềm hoan hỉ thoát khỏi bệnh viện của ông kéo dài không lâu. Ông rơi vào tâm trạng u ám, và tâm trạng ấy không rời ông. Ông không ưa bất cứ cô nhân viên tạm thời nào, không thích bị đối xử như một đứa trẻ hoặc thằng ngốc, không thích cái kiểu hoạt bát, vui vẻ họ nói với ông.
- Hôm nay ông thấy thế nào? - họ nói. - Thế thì tốt. - họ nói, dù ông chẳng buồn trả lời.
- Bao giờ chúng tôi lắp chân giả nào? - họ nói. - Mang chân mới tốt hơn đi nạng nhiều, thực đấy. Rồi ông sẽ thấy.
Vì cáu kỉnh, ông trở nên sưng xỉa. Ông muốn chỉ có một mình; ông không muốn trò chuyện với ai; ông bị những cơn ông cho là khóc không nước mắt. Giá như có nước mắt thật nhỉ! ông nghĩ. Giá mình có thể cuốn trôi trong nước mắt! Ông mong đợi những ngày khi vì lý do này khác, không một ai đến chăm nom ông, dẫu như thế có nghĩa là ông phải ăn bánh bích quy và uống nước cam.
Ông đổ tại thuốc giảm đau làm ông rầu rĩ. Sự buồn bã trong đầu hay nỗi đau trong xương làm ông thao thức suốt đêm, cái nào tệ hơn? Ông cố không uống thuốc và phớt lờ cơn đau. Nhưng nỗi buồn không tan. Nỗi buồn như đọng lại, trở thành một phần của thời tiết.
Trong những ngày xa xưa, những ngày trước khi bị tai nạn, ông không hề có cái gọi là tính u sầu. Có thể ông cô đơn, nhưng chỉ như các động vật giống đực thích sống một mình. Ông có nhiều chuyện để bận rộn. Ông mượn sách ở thư viện, ông đi xem phim, ông tự nấu ăn, nướng lấy bánh mì; ông không có ô tô riêng, nên ông đi xe đạp hoặc cuốc bộ. Nếu sống kiểu ấy làm ông thành người lập dị thì là lập dị trong giới hạn của một người Úc ôn hòa. Ông cao hơn tầm trung bình, mảnh khảnh, chân dài, ông giữ được sức khỏe dẻo dai; ông thuộc loại đàn ông có thể kéo dài tính lập dị và đủ thứ khác đến năm chín mươi tuổi.
Ông có thể sống đến chín mươi tuổi, nhưng nếu chuyện đó xảy ra không phải là do chọn lựa. Ông đã không còn cử động thoải mái và thật ngớ ngẩn nếu tưởng rằng sẽ có lúc hồi phục mà không cần đến chi giả. Ông sẽ không bao giờ leo lên đồi Black được nữa, không bao giờ đạp xe đến chợ để mua bán, lại càng không thể lao xe đạp xuống những đoạn đường cong ở Montacute. Vũ trụ đã thu hẹp trong căn hộ này và trong khu nhà, hoặc là bao quanh cả hai và sẽ không mở rộng ra nữa.
Một cuộc sống hạn chế. Socrates [3] sẽ nói về việc này như thế nào nhỉ? Có lẽ là: Một cuộc sống bị hạn chế thì không đáng sống chăng? Những người ra tù, thoát khỏi những năm tháng nhìn chằm chằm vào bức tường trơ trụi, sẽ không bị nỗi u sầu chiếm lĩnh tâm hồn. Vậy mất một chi thì có gì đặc biệt? Hươu cao cổ mà mất một chân chắc chắn sẽ toi mạng; nhưng những con hươu cao cổ không có sự trung gian của Nhà nước hiện đại, hiện thân là bà Putts, trông coi phúc lợi xã hội cho chúng. Sao ông không an lòng với cuộc sống
bị hạn chế, bình thường trong cái thành phố chẳng mấy thân thiện với người già cả ốm yếu?
Ông không thể trả lời những câu hỏi như thế.
Ông không thể trả lời vì không có tâm trạng mà giải đáp. Chính vì thế mà ông thành người rầu rĩ: Còn xa mới đến mức xử sự và cảm xúc của một người tài trí (Sao không thế này? Sao không thế nọ?) ông, ông, cái tôi mà lúc ông gọi là mày, lúc ông xưng là ta, bao gồm cả bóng tối, sự tĩnh lặng, sự tuyệt giống. Ông không phải là người có trí tuệ phóng theo cách này cách khác nhưng là người cả nghĩ, nhức nhối suốt đêm.
Tất nhiên ông không phải là trường hợp đặc biệt. Ngày nào chả có người bị cụt tay cụt chân hay không sử dụng được chân tay. Lịch sử đầy rẫy những thủy thủ một tay và các nhà phát minh ngồi xe lăn, các nhà thơ mù và cả những ông vua điên. Nhưng trong trường hợp của ông, sự cắt bỏ hình như đã tách quá khứ khỏi tương lai, hoàn toàn sạch sẽ đến mức tạo nghĩa mới cho từ mới. Sự cắt bỏ này biểu hiện bắt đầu một cuộc đời mới. Nếu từ trước đến nay anh là một con người, có cuộc sống của một con người, thì từ nay trở đi có thể anh là một con chó với cuộc sống của một con chó. Một giọng nói cất lên từ tâm trạng u ám.
Ông có tuyệt vọng không? Ông có muốn chết không? Đấy có phải là sự xuống dốc không? Không. Câu hỏi ấy là sai. Ông không muốn cắt cổ tay, không muốn nuốt hai mươi tư viên Somnex, không muốn lao qua ban công. Ông không muốn chết vì không muốn gì hết. Nhưng nếu ngẫu nhiên Wayne Blight lao vào ông lần thứ hai, hất ông bay tung trong không khí dễ dàng, ông tin chắc sẽ không cứu lấy thân mình làm gì nữa. Không lăn tròn theo gió, không co chân để bật dậy. Nếu có ý nghĩ cuối cùng, nếu có thời gian cho một ý nghĩ cuối cùng, thì đó là: Ý nghĩ cuối cùng là thế này đây.
Rã rời: từ ngữ đó của Homer [4] trở lại với ông. Ngọn giáo xé toang lồng ngực, máu vọt ra, chân tay rã rời, thân xác lăn quay như con búp bê gỗ. Vậy đấy, chân tay ông hiện giờ rã rời và tâm hồn ông cũng rệu rã. Tinh thần ông sắp sụp đổ.
Người thứ hai của bà Putts xin làm cả ngày là Marijana. Chị gốc người Croatia, theo chị cho biết trong cuộc phỏng vấn. Chị rời mảnh đất chôn nhau cắt rốn từ mười hai năm trước. Chị đã được đào tạo tại Đức, ở Bielefeld; từ khi đến Australia chị đã có bằng của miền Nam Australia. Ngoài việc làm y tá riêng, chị còn làm quản gia để “kiếm thêm”. Chồng chị làm việc trong nhà máy lắp ráp ô tô, họ sống ở Munno Para, phía bắc Elizabeth, cách thành phố này nửa giờ xe. Họ có một con trai học trung học, một con gái học tiểu học, đứa thứ ba chưa đủ tuổi đến trường.
Marijana Jokić là một phụ nữ có bộ mặt mềm mại, không hẳn trạc lứa trung niên, phô cái eo đầy đặn của người đàn bà có chồng. Chị mặc đồng phục xanh da trời làm ông thấy nhẹ nhõm sau mọi thứ tuyền màu trắng, dưới cánh tay có những mảng ẩm ướt. Chị nói tiếng Anh nhanh, gần như giọng Úc pha âm điệu Slavơ du dương, dùng lẫn lộn a và the, mang màu sắc tiếng lóng chắc là lây các con, còn bọn chúng ắt là vớ được của lũ bạn học. Ông không quen với ngôn ngữ phong phú kiểu ấy, song khá thích thú.
Theo thỏa thuận giữa ông và chị Jokić có bà Putts làm trung gian, chị sẽ đến làm cho ông sáu ngày một tuần, từ thứ Hai đến thứ Bảy, trong những ngày ấy chị tha hồ thể hiện mọi kỹ năng chăm sóc thành thục của chị. Ngày Chủ nhật, ông sẽ cầu viện dịch vụ khẩn. Chừng nào khả năng đi lại của ông còn hạn chế, chị không chỉ là điều dưỡng mà còn chăm sóc các nhu cầu hằng ngày của ông như mua sắm, nấu ăn và quét tước dọn dẹp cho ông.
Sau chuyện rủi ro với Sheena, ông không mấy hy vọng vào người đàn bà miền Balkan này. Tuy nhiên, trong những ngày sau đó, ông
miễn cưỡng cảm tạ việc chị tới. Chị Jokić - tức Marijana - hình như có khả năng trực cảm biết ông muốn gì và không muốn gì. Chị đối xử với ông không như với một ông già ngớ ngẩn run lẩy bẩy, mà như với một người vướng víu trong cử động vì bị tổn thương. Chị kiên nhẫn, không hề líu lô, chị giúp ông tắm rửa. Khi ông nói muốn ở một mình, chị biến ngay.
Ông nằm dựa đầu; chị mở băng đoạn chân cụt, đưa một ngón tay lướt trên bề mặt nhẵn nhụi.
- Khâu đẹp lắm, - chị nói. - Ai khâu đây?
- Bác sĩ Hansen.
- Hansen. Tôi không biết Hansen. Nhưng khá lắm. Một nhà phẫu thuật giỏi. - Chị thận trọng đưa một bàn tay nhấc đoạn chân cụt như một quả dưa hấu. - Làm tốt đấy.
Chị xoa xà phòng và lau rửa. Nước ấm dội vào, trông rõ màu hồng-và-trắng. Nó bắt đầu ít giống khúc giăm bông sấy, mà giống một con cá vùng nước sâu mù lòa hơn. Ông nhìn lảng đi. - Chị đã thấy nhiều thứ bị làm hỏng rồi ư? - ông hỏi.
Chị mím môi, xòe hai bàn tay, cử chỉ ấy làm ông nhớ tới mẹ. Có thể, cử chỉ ấy nói, tùy theo.
- Thế chị đã thấy nhiều… cái này chưa? - Ông sờ nhẹ bằng đầu ngón tay.
- Chắc chắn rồi.
Ông chú ý tránh cuộc trao đổi có thể bị hiểu lập lờ.
Ông không gọi nó là chân cụt. Ông không thích gọi là gì hết; ông muốn không nghĩ đến nó, nhưng không thể được. Nếu ông có một cái tên cho nó, thì là khúc giăm bông. Khúc giăm bông giấu vẻ lạnh nhạt dễ chịu, khinh khỉnh.
Ông chia những người ông phải tiếp xúc thành hai loại: Một vài người đã nhìn thấy nó, số còn lại - may mắn thay - sẽ không bao giờ
thấy. Ông thương xót thấy Marijana nhanh chóng và dứt khoát rơi vào loại thứ nhất.
- Tôi không bao giờ hiểu vì sao người ta không thể để đầu gối lại, - ông phàn nàn với chị. - Xương phát triển đồng thời. Dù khớp bị vỡ tan, họ có thể làm lại được chứ. Nếu tôi biết mất một đầu gối khác biệt đến thế này, tôi sẽ không bao giờ bằng lòng. Họ chẳng nói gì với tôi hết.
Marijana lắc đầu:
- Tái tạo là một phẫu thuật khó, rất khó. Phải ra, vào bệnh viện trong nhiều năm. Ông biết đấy, vì thế họ không thích phẫu thuật tái tạo cho các bệnh nhân già. Chỉ làm cho người trẻ thôi. Ông nghĩ sao hả? Ông thấy thế nào?
Chị xếp ông vào lớp người già, những người không có cơ cứu vãn, - cứu khớp đầu gối, cứu sống. Ông tự hỏi, vậy chị ta xếp mình vào lứa nào: Lứa trẻ? không-già? không già không trẻ? hay chẳng bao-giờ-già?
Ông hiếm khi thấy người tận tụy trong công việc như Marijana. Bản danh sách đi mua sắm khi trở về mỗi thứ đều đính theo hóa đơn, đánh dấu chu đáo, nếu chị thay đổi khoản nào đều ghi lại rõ ràng theo lối chữ cổ, số 1 có ngạnh, số 7 có gạch ngang, số 9 có móc. Chị nấu nướng ồn ào, các bữa ăn rất ngon miệng.
Với các bạn gọi điện hỏi thăm, ông nhắc đến Marijana là cô điều dưỡng ban ngày.
- Tôi đã thuê một cô điều dưỡng ban ngày rất thạo việc, - ông nói. - Cô ấy giúp cả việc mua sắm và nấu ăn.
Ông không gọi chị là Marijana, phòng hờ có vẻ quá thân mật, trong câu chuyện với chị, ông vẫn gọi chị là chị Jokić, còn chị gọi ông là ông Rayment. Nhưng với bản thân, ông gọi chị là Marijana không e dè. Ông thích tên đó, có bốn âm tiết đầy đủ, rõ ràng. Buổi
sáng Marijana sẽ ở đây, ông tự nhủ khi cảm thấy đám mây buồn bã lại sà xuống. Hãy vui lên nào!
Ông không biết ông thích người phụ nữ trong Marijana có bằng ông thích tên chị không. Nói cho khách quan, chị không phải là người hấp dẫn. Nhưng bầu bạn với ông, chị dường như khéo léo bãi bỏ giới tính. Chị nhanh nhẹn, làm việc hiệu quả và vui vẻ:
Đấy là bề ngoài chị phô ra với ông, người thuê chị, trả tiền cho chị và phải được hài lòng. Thế nên ông bỏ cả tính cáu kỉnh, hễ gặp chị là ông mỉm cười. Ông thích chị nghĩ ông chịu đựng sự rủi ro của mình một cách can đảm; ông thích chị nghĩ tốt về ông, kính trọng ông. Nếu chị không đùa bỡn, ông cũng không để tâm. Như thế còn hay hơn kiểu trò chuyện làm duyên về “thằng cu” của ông.
Một vài buổi sáng, chị mang đứa con bé nhất đi cùng, nó chưa đến tuổi đi học. Mặc dù sinh trưởng ở Australia, tên đứa bé là Ljuba, Ljubica. Ông thích và tán thành cái tên ấy. Nếu ông không nhầm, tiếng Nga lyubov nghĩa là tình yêu. Giống như gọi một cô gái là Amour vậy.
Con đầu lòng của chị là con trai, vừa tròn mười sáu tuổi, chị kể với ông thế. Mười sáu, chắc chị phải lấy chồng sớm. Ông duyệt lại những phỏng đoán về chị. Hơn cả hấp dẫn, chị là trường hợp một người phụ nữ tốt nết, khỏe khoắn, vững vàng, tóc màu nâu hạt dẻ, mắt đen, nước da nâu vàng nhạt hơn là vàng bủng; một người phụ nữ xử sự khéo, vai vuông vắn, ngực nhô ra đằng trước. Kiêu hãnh, ông nghĩ, và tìm một từ tiếng Anh dành cho chị. Răng chị vàng vì nicotine, là điểm thiếu sót khách quan duy nhất. Chị hút thuốc lá theo kiểu châu Âu cũ, dù vì lợi ích của ông, chị lánh ra ban công.
Còn đứa con gái nhỏ thực sự xinh đẹp, có những lọn tóc xoăn đen nhánh, nước da hoàn mỹ, mắt sáng lấp lánh, ắt phải là người thông minh. Sát bên nhau, hai mẹ con tạo thành một hình ảnh đẹp. Và hòa thuận. Trong lúc nấu ăn, Marijana giúp đứa trẻ nướng những
cái bánh quy nhỏ hoặc bánh quy gừng. Những tiếng thì thào đều đều vọng ra từ trong bếp. Người mẹ và con gái: Những nghi thức của nữ tính đang được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác.
NĂM
N
hiều tuần lễ trôi qua; ông yên ổn trong chế độ chăm sóc của Marijana. Sáng sáng chị giúp ông tập đi, xoa bóp các cơ đã hoặc đang hao mòn, kín đáo giúp ông những việc ông không thể làm một mình, những việc có thể ông chưa bao giờ học làm. Khi ông muốn lắng nghe, chị sẵn sàng trò chuyện về công việc của chị, về những trải nghiệm của chị ở Australia. Khi ông lãnh đạm, hình như chị cũng sẵn lòng im lặng.
Tất cả những gì ở thân thể mình mà ông hằng yêu thích, nay đã không còn. Ông cũng chẳng buồn uốn nắn hay xoay chuyển điều đó theo hướng tích cực. Con người đã từng là ông nay chỉ còn là một hoài niệm, một hoài niệm chóng phai. Ông vẫn có cảm giác con người phải có một tâm hồn sống động, còn ông giờ đây chỉ là một cái bị đựng xương và máu mà ông buộc phải tha lôi.
Trong tình trạng như vậy, cứ như xui khiến không nghĩ đến mọi thứ phải chăng. Nhưng ông cưỡng lại sự cám dỗ. Ông cố duy trì sự đứng đắn, và Marijana ủng hộ ông. Khi phải lõa lồ, ông nhìn lảng đi để chị thấy ông không nhìn thấy chị nhìn ông. Việc gì phải làm kín đáo, chị cố hết sức làm cho kín đáo.
Ông làm mọi việc để cố giữ nguyên là một con người, dẫu là một con người bớt sự đồng cảm. Ông tự hỏi chị đạt được sự tế nhị này ở đâu, sự tế nhị mà những người đến trước chị thiếu khủng khiếp? Ở trường điều dưỡng Bielefeld chăng? Có lẽ vậy, nhưng sự phỏng đoán của ông xuất phát từ nguồn gốc sâu xa hơn nhiều. Một phụ nữ đoan trang, ông tự nhủ, hết sức tử tế. Marijana Jokić bước vào đời ông như một trong những điều tốt đẹp nhất đến với ông.
- Nếu đau ông bảo tôi nhé, - chị dặn lúc miết ngón tay cái xuống cơ đùi đã bị cắt ngắn. Nhưng chưa đau bao giờ; hoặc nếu có thì nỗi
đau ấy giống sự sung sướng đến mức ông không thể nói nó khác ở chỗ nào. Một trực giác, ông nghĩ. Bằng khả năng trực giác thuần khiết và giản dị, hình như chị hiểu cảm nghĩ của ông, thân thể ông đáp ứng ra sao.
Một người đàn ông và một người đàn bà trong một chiều ấm áp sau cánh cửa khóa chặt. Họ có thể làm tình cũng chẳng sao. Nhưng không có gì giống thế hết. Chỉ là sự quan tâm, chăm sóc bệnh nhân.
Một câu trong sách giáo lý vấn đáp từ nửa thế kỷ trước trở lại tâm trí ông: Ở đó không có gì ngoài đàn ông và đàn bà, nhưng… Nhưng gì nhỉ, sẽ là gì khi chúng ta vượt ra ngoài giới hạn đàn ông và đàn bà? Không thể để ý nghĩ nguy hiểm ấy hình thành. Một trong nhiều điều huyền bí.
St. Paul đã giải thích ở thế giới bên kia mọi tình yêu rất thuần khiết, chỉ là tình yêu Chúa, không bạo liệt, không tàn phá, và ông vững tin vào điều đó - St. Paul là tên thánh của ông.
Than ôi, ông chẳng phải là siêu nhân, mà chỉ là loại đàn ông thất bại khi làm điều mà đàn ông trên cõi đời này đều làm: Tìm kiếm một nửa của mình, trung thành với nàng và ban phúc cho nàng bằng hậu thế, lớp hậu thế theo biểu tượng hoặc có lẽ theo Anh em Aloysius (ông quên mất là Aloysius nào) phát ngôn lời của Chúa. Một người đàn ông không hoàn toàn là đàn ông, một người đàn ông mô phỏng giống như một bức tranh mô phỏng; một bóng mờ của người đàn ông đang tiếc nuối nhìn lại quãng thời gian không sử dụng triệt để.
Ông bà của Rayment có sáu người con. Cha mẹ ông có hai. Ông chẳng có người nào. Sáu, hai, một hoặc không: Ông nhìn mọi thứ quanh ông như một chuỗi khốn khổ lặp lại. Ông hay nghĩ đó là một cảm giác điên rồ: Trong một thế giới quá đông dân, không con là một ưu điểm rõ ràng, giống như sự yên bình, sự độ lượng. Lúc này ông thấy trái ngược hẳn, không con giống như sự rồ dại, rồ dại khủng khiếp, thậm chí là tội lỗi. Còn gì tốt đẹp hơn là thêm một cuộc
đời, thêm một sinh linh? Thiên đường sẽ lấp đầy sao được khi cõi trần ngừng gửi linh hồn?
Khi ông đến cổng thiên đường, Thánh Paul (với các linh hồn mới khác có thể là Peter nhưng với ông, là Paul) sẽ đợi ông. - Xin Cha ban phúc cho con vì con là kẻ có tội, - ông sẽ nói thế. - Con mắc tội gì vậy, con của ta?
Lúc đó, ông sẽ không nói năng gì, chỉ xòe hai bàn tay không. - Con là kẻ đáng thương, - Thánh Paul sẽ phán, - Con thật đáng thương. Con không hiểu con đã không tạo ra sinh mạng là món quà lớn hơn hết thảy sao?
- Thưa Cha, khi còn sống con không hiểu, nhưng bây giờ khi con hiểu ra thì đã quá muộn; xin Cha tin con, con rất ăn năn, rất tiếc cho con, và cay đắng nữa.
- Vào đi, - Thánh Paul nói và đứng tránh sang một bên, - trong ngôi nhà của Chúa có đủ chỗ cho tất cả mọi người, kể cả một con chiên cô đơn, khờ dại.
Marijana sẽ làm ông suy nghĩ đúng đắn, nàng Marijana theo Công giáo Croatia, nếu ông gặp chị đúng lúc. Marijana và chồng chị đã sản sinh ra ba đứa con, ba linh hồn cho thiên đường. Người phụ nữ sinh ra là để làm mẹ. Marijana phải giúp ông thoát khỏi cảnh không con cái. Marijana có thể làm mẹ của sáu, mười, mười hai và vẫn còn lại tình yêu, tình mẹ. Nhưng lúc này đã quá muộn rồi, buồn biết chừng nào, hối tiếc biết chừng nào!
Ô
SÁU
ng ra viện với đôi nạng trên cánh tay và một thứ gọi là khung Zimmer, một cái khung nhôm bốn chân dùng trong nhà. Người ta bảo ông được mượn thiết bị này và sẽ trả lại khi ông chuyển động khá hơn hoặc khi ông qua đời.
Còn cần nhiều phụ kiện khác (ông phải xem quảng cáo), từ một thiết bị bổ sung bánh xe và phanh cho khung Zimmer bốn cạnh, đến một cái xe có động cơ chạy pin, tay lái và mũ mưa có thể gập vào, dành cho những người què đã tiến bộ. Tuy nhiên, nếu ông muốn có một trong những phụ kiện khác thường đó, ông phải mua.
Dưới sự chăm sóc của Marijana, cái mà chị thích gọi là chân ông ngày nối ngày đỡ dần nhức nhối và sưng phồng. Đôi nạng trở thành nhu cầu tự nhiên thứ hai, dù ông cảm thấy dựa vào khung an toàn hơn. Khi ông có thể lang thang một mình từ phòng này sang phòng khác bằng nạng, điều ông nghĩ đến làm ông bồn chồn không yên là bài tập. Hằng tuần, ông đến bệnh viện kiểm tra. Một trong những vị khách đi cùng thang máy với ông là một bà già, lom khom, mũi khoằm, da ngăm ngăm của người vùng Địa Trung Hải. Bàn tay bà nắm chặt lấy một phụ nữ trẻ hơn, giống bà như một bản sao, nhỏ nhắn, gần như ảm đạm, đội mũ rộng vành và đeo kính râm che hết phần trên gương mặt. Ép sát vào người phụ nữ trẻ, ông có thời gian hít đầy phổi mùi nước hoa thơm ngát đượm hương hoa dành dành và trước khi họ đi ra, ông chú ý thấy kỳ lạ thay, cô ta mặc áo trái, lời chỉ dẫn giặt khô thò ra như một lá cờ nhỏ trơ trẽn.
Một giờ sau, trên đường ra khỏi tòa nhà, ông trông thấy hai người ấy lần nữa, trong khoảng thời gian ngắn ngủi ở cửa xoay. Lúc ra đến đường phố, ông chỉ nhìn thấy cái mũ đen rộng vành nhấp nhô trong đám đông.
Hình ảnh họ vương vấn mãi trong ông: Người phụ nữ đóng vai nữ chính, mặc vội vàng bộ áo vương giả trong cơn mộng du vui sướng. Có lẽ không còn đủ trẻ để đóng vai công chúa, nhưng dù sao vẫn hấp dẫn: da thịt mềm mại, mảnh dẻ, ngực nở, loại phụ nữ ông hình dung ngủ đến tận trưa, rồi ăn sáng bằng kẹo trên cái đĩa bạc do một nô lệ trai bé nhỏ quấn khăn turban hầu hạ. Mặt nàng làm sao mà phải che giấu?
Nàng là người phụ nữ đầu tiên gây cho ông sự thèm muốn tình dục, kể từ khi bị tai nạn. Ông mơ thấy không biết vì sao nàng ở đấy tuy vẫn không lộ diện. Trong im lặng hoàn toàn, có tiếng nổ vang, mặt đất mở toang và ùa thẳng đến chỗ ông. Hai sóng bụi rộng mênh mông dâng lên trong không khí. Ông thử chạy nhưng chân ông không nhúc nhích. Cứu tôi với! ông thì thào. Bà già có cặp mắt đen mờ đục đăm đăm nhìn thấu qua ông. Bà ta lẩm bẩm nhắc đi nhắc lại một từ ông không hiểu nổi, hình như là Toomderoom. Mặt đất dưới chân ông nứt toác, ông đâm nhào xuống.
Margaret McCord gọi điện. Bà xin lỗi vì không liên hệ, bà hiện ở ngoài thành phố. Bà có thể đưa ông đi ăn trưa vào Chủ nhật được không? Họ sẽ đi ô tô đến Thung lũng Barossa. Đáng tiếc là chồng bà không đi cùng họ được, ông ta đang ở nước ngoài.
Ông muốn đi lắm, ông đáp, nhưng than ôi, ông thấy chiếc ô tô dài phóng hơi khiếp.
- Vậy em sẽ ghé qua chỗ anh nhé?
Nhiều năm trước, sau khi ông ly hôn, ông và Margaret đã có cuộc chơi bời ngắn ngủi. Theo Margaret, người mà ông không nhất thiết phải tin, chồng bà không hay biết gì về sự gần gũi này.
- Sao lại không nhỉ? Chủ nhật nhé. Đến ăn trưa. Tôi có bánh nhân thịt trộn gia vị ngon tuyệt vời làm ở nhà.
Họ ăn ngoài ban công, trong buổi chiều khá mát mẻ, giữa tiếng chim hót như lời từ biệt và những ngọn nến thơm mùi sả lung linh trên bàn. Họ hơi gượng gạo: Cái sự xảy ra giữa họ không có nghĩa là đã quên. Margaret không đả động gì đến người chồng vắng mặt.
Ông kể cho Margaret về thời gian ông bị Sheena áp chế, về bà Putts, nhân viên an sinh xã hội, người đã chuẩn bị cho ông một thế giới bên kia tránh tình dục về mọi mặt, một đề tài bà thấy mình quá ngại phải nhắc đến, hoặc có thể bà ta cho rằng không thích hợp với một người ở tuổi ông.
- Chuyện ấy mà không thích hợp? - Margaret hỏi.
- Nói thật xem nào?
Thật ra ông không thể kể với bà, ông đáp. Nếu bà hỏi, thì ông không phải là người bất lực. Cột sống và các dây thần kinh liên quan của ông không bị tổn hại. Câu hỏi chưa được giải đáp là liệu ông có khả năng thực hiện các động tác mà bạn tình đòi hỏi hay không. Câu hỏi thứ hai có liên quan là liệu sự lúng túng và ngượng ngập có thể ảnh hưởng đến niềm khoái lạc không.
- Em đã nghĩ đến - Margaret nói - những tình huống miễn cho anh phải đóng vai có chân tay khỏe mạnh. Còn câu hỏi thứ hai của anh, làm sao anh biết được nếu không thử? Nhưng vì sao anh lại lúng túng kia chứ? Có phải anh mắc bệnh phong đâu. Anh chỉ là người cụt thôi. Những người cụt vẫn khá lãng mạn đấy. Nghĩ đến những bộ phim về chiến tranh xem: những người đàn ông từ mặt trận về nhà với cặp mắt mù lòa hoặc tay áo rỗng ghim chéo qua ngực hoặc đi nạng. Phụ nữ rất xúc động vì họ.
- Chỉ là một người cụt ư, - ông nói.
- Vâng. Anh là nạn nhân của một vụ tai nạn, một vụ đụng xe. Chẳng có gì phải ngượng, chẳng có gì đáng trách. Sau đó anh có một chân bị cắt cụt. Một phần chân thôi. Một phần của bộ phận thân
thể mụ đi. Thế thôi. Anh vẫn còn sức khỏe. Anh vẫn là anh. Anh vẫn là người đàn ông điển trai, khỏe mạnh như xưa. - Bà mỉm cười với ông.
Họ có thể thử ngay lúc đó, trong phòng ngủ, cả hai người, thử xem ông có còn là người đàn ông trước đây, thử xem bị mất một phần thân thể có ảnh hưởng nhiều đến sự sung sướng không.
Ông tin chắc Margaret không phản đối. Nhưng khoảnh khắc ấy trôi qua và họ không chộp lấy, sau này nhớ lại, ông thầm cảm ơn. Ông không muốn thành đối tượng của bất cứ người phụ nữ nào bố thí cho chút tình, dù người ấy có nhân hậu đến đâu. Ông cũng không muốn lộ mình trước cái nhìn chằm chằm của một người ngoài, dù Margaret là bạn từ thời xưa, dù bà khẳng định thấy người cụt rất lãng mạn, nói gì chứ cái thân hình mới mẻ không đẹp đẽ này của ông, không chỉ cái đùi bị cắt cụt cuồng nhiệt mà cả các cơ mềm nhũn và cái bìu nho nhỏ khiêu dâm đã căng phồng trên bụng ông. Nếu ông lại lên giường với một người phụ nữ, ông chắc chắn sẽ làm chuyện đó trong bóng tối.
- Tôi có một vị khách, - ngày hôm sau ông kể với Marijana. - Thế ạ? - Marijana nói.
- Có thể còn nhiều khách khác nữa, - ông nói quả quyết. - Tôi muốn nói là phụ nữ.
- Đến sống với ông? - Marijana nói.
Sống với ông ư? Ý nghĩ ấy chưa bao giờ thoáng qua óc ông. - Tất nhiên là không, - ông nói. - Chỉ là bạn bè, bạn nữ thôi. - Thế thì tốt, - chị nói và bật máy hút bụi.
Té ra Marijana không quan tâm nhiều lắm đến việc ông có đàn bà trong căn hộ. Ông làm gì trong thời gian riêng của ông không phải là việc của chị. Dù sao chăng nữa, thì ông có thể làm được gì?
Không giống Margaret, Marijana chẳng bao giờ nhìn ông như ông đã từng ra sao. Với chị, ông chỉ là một bệnh nhân mới nhất, một ông già da xanh xao, cơ bắp chùng lỏng, phải chống nạng. Tuy vậy, ông cảm thấy ngượng trước Marijana và cả trước con gái chị, như thể sự tươi khỏe của mẹ và sự trong sáng thiên thần của đứa trẻ là lời phán quyết chung về ông. Ông tránh cái nhìn chăm chú của đứa trẻ, ẩn trong chiếc ghế bành ở góc phòng khách, dường như căn hộ này là của hai mẹ con, còn ông là kẻ quấy rầy, là loài gặm nhấm nào đó bị tìm thấy trên đường vào.
Chuyến thăm của Margaret đã khuấy động một loạt mộng tưởng hão huyền về đàn bà. Tất cả những giấc mơ này đều nhuốm màu sắc tình dục; trong vài giấc mơ, ông và đàn bà còn lên giường. Trong những giấc mơ này, không nói tới tấm thân mới mẻ và bị cắt xẻo của ông, thậm chí không nhìn thấy; mọi sự đều tốt đẹp, y như trước kia. Nhưng người đàn bà với ông không phải là Margaret. Hầu hết là người đàn bà ông nhìn thấy trong thang máy, người đeo kính đen và mặc áo trái. Áo em kìa, ông nói, để anh giúp em sửa lại nào. Nàng đưa tay gỡ cặp kính. Được thôi, nàng nói. Giọng nàng trầm trầm, cặp mắt nàng là những cái vũng đen ngòm mà ông bị nhấn chìm trong đó.
BẢY
L
úc làm việc, Marijana không đội mũ y tá mà trùm khăn giống các bà nội trợ khác ở vùng Balkan. Ông ưng cái khăn, vì ông tán thành bất cứ dấu hiệu nào cho thấy chị không từ bỏ hoàn toàn cuộc đời cũ để ủng hộ cái mới. Ngoài các tội phạm chiến tranh đủ loại và tay vợt tennis có cú phát bóng kinh người, (tên anh ta cứ trượt khỏi đầu ông, Ilja? Ilić, Roman Ilić?), với ông dân Croatia là một đám vô danh. Người Nam Tư lại khác. Trong những ngày ông còn ở Nam Tư, ông phải băng qua đường với hàng tá người Nam Tư, nhưng lẽ tất nhiên chưa bao giờ ông hỏi họ thuộc loại người Nam Tư nào.
Marijana lắp vào chỗ nào trong bức tranh Nam Tư, Marijana và người chồng lắp ráp ô tô? Họ chạy trốn những gì khi bay khỏi đất nước cũ? Hay chỉ vì chán ngấy nền nếp, họ gói ghém đồ đạc và vượt biên tìm kiếm cuộc sống mới khấm khá hơn, yên bình hơn?
Nếu không tìm thấy cuộc sống yên bình và khấm khá hơn ở Australia, thì tìm thấy ở đâu?
Marijana kể với ông về đứa con trai tên là Drago, nhưng bạn bè đều gọi cậu là Jag. Nhân ngày tròn mười sáu tuổi, chồng chị đã mua cho Drago một chiếc xe máy. Theo Marijana, đây là một sai lầm lớn. Hiện giờ tối nào Drago cũng ra ngoài, bỏ bê bài vở, bỏ cả bữa ăn. Cậu và các bạn lang thang ở các phố sau, đua xe, tháo phanh và Trời biết còn những trò gì nữa. Chị sợ Drago bị gãy chân gãy tay hoặc còn tệ hơn.
- Con chị là thanh niên, - ông bảo Marijana. - Nó đang thử thách bản thân. Chị không thể ngăn bọn trẻ khám phá giới hạn của chúng. Chúng muốn nhanh hơn. Chúng muốn mạnh hơn. Chúng muốn được ngưỡng mộ.
Ông chưa bao giờ gặp Drago, và chắc không bao giờ muốn. Nhưng ông thích hành vi của Marijana, sự trong sáng của chị: Chị quá lịch sự nên không khoe con trai, thay vào đó chị phàn nàn về tính ương bướng, sự bất cần của nó, về việc nó sẽ hủy hoại chị mất thôi.
- Nếu chị muốn Drago thấy một con quỷ dạ xoa, thì hôm nào đưa Drago đến đây, - ông gợi ý, không hoàn toàn nghiêm túc. - Tôi sẽ chỉ cho cậu ấy cái chân tôi.
- Ông cho là nó sẽ nghe lời ư, ông Rayment? Nó sẽ chẳng nói gì, đây chỉ là tai nạn xe đạp thôi.
- Tôi cũng sẽ cho cậu ấy xem cái xe đạp còn lại những gì. Ông vẫn còn cái xe đạp trong phòng chứa đồ dưới cầu thang, bánh sau gập làm đôi, chân chống mắc kẹt vào nan hoa. Chẳng ai thèm lấy cái của đó, cái ngày trên phố Magill, dẫu nó nằm lăn lóc bên vệ đường đến tận tối. Sau đó cảnh sát mang nó đến. Họ tháo cái hộp nhựa buộc trên giá đèo hàng đựng một phần các thứ mua buổi sáng: một hộp đậu xanh bị lõm, một phần tư kilô phó mát mềm của Pháp đã chảy dưới nắng rồi đông lại. Ông vẫn giữ cái hộp như một vật lưu niệm, một di vật. Nó đặt trên một cái giá trong bếp. Ông sẽ chỉ cái hộp cho Drago, ông bảo Marijana thế. Hãy hình dung nếu đấy là sọ của cháu, - ông sẽ nói với cậu. Rồi thêm, - Đừng bực mình với mẹ cháu. Bà ấy lo cho cháu. Mẹ cháu là một phụ nữ tốt bụng. Mẹ cháu mong cháu có cuộc sống dài lâu và hạnh phúc. Hay có khi ông không nên nói câu mẹ cậu là người phụ nữ tốt. Nếu ngay cả đứa con trai mà còn không biết, thì ông, một người lạ nói với cậu sao được?
Ngày hôm sau, Marijana mang đến một bức ảnh: Drago đứng cạnh cái xe máy nói trên, đi giày ống, mặc quần jeans bó, mũ bảo hiểm đeo ở cánh tay vẽ phù hiệu một tia chớp. Cậu ta cao to, vạm vỡ so với tuổi mười sáu, có nụ cười quyến rũ. Một người trong
mộng, thời xưa các cô gái hay nói thế, cũng như mẹ cậu ắt được gọi là một quả đào tơ. Chắc chắn anh chàng này sẽ làm tan vỡ nhiều trái tim đây.
- Con trai chị có kế hoạch gì không? - ông hỏi.
- Nó muốn vào Học viện Quân sự. Nó muốn gia nhập Hải quân. Nó có thể giành được học bổng.
- Thế còn con gái lớn của chị?
- À, nó còn quá trẻ nên chưa có dự định gì, đầu óc nó còn ở đâu đâu.
Lúc này chị hỏi ông, một câu hỏi làm ông sửng sốt mãi: - Ông không có con sao, ông Rayment?
- Không, Trời ạ, không. Chúng tôi, vợ tôi và tôi, không có con. Tâm trí chúng tôi bận bịu nhiều thứ khác, nhiều hoài bão khác. Rồi trước khi hiểu ra, chúng tôi đã ly hôn.
- Rồi sau này ông có hối hận không?
- Trái lại, tôi càng ngày càng lo nghĩ hơn, nhất là khi về già. - Còn vợ ông? Bà ấy có lo không?
- Vợ tôi đã tái hôn. Bà ấy lấy một người đã ly dị, có con riêng. Họ có chung một đứa con và trở thành một trong những gia đình hiện đại phức tạp, người nọ gọi người kia bằng tên thánh. Vì thế vợ tôi không buồn phiền về việc chúng tôi, tôi không có con. Vợ cũ của tôi ấy. Tôi không liên hệ với bà ấy nhiều. Đấy không phải là một cuộc hôn nhân hạnh phúc.
Tất cả đều có giới hạn, những gì diễn ra giữa họ, trong một giới hạn riêng, vô cảm. Đối thoại giữa một người đàn ông và một người đàn bà, người đàn bà ngẫu nhiên là y tá, giúp việc mua bán, giặt giũ và mọi việc nói chung, hiểu rõ nhau hơn trong một đất nước mọi người đều bình đẳng, đều trung thực. Marijana là dân Công giáo. Ông chẳng theo tôn giáo nào. Nhưng ở nước này ai cũng tốt với
nhau, dù là tín đồ Công giáo hay vô thần. Marijana có thể không tán thành cả những người có gia đình lẫn người không gia đình mà không có con, nhưng chị đủ tế nhị để giữ kín trong lòng. - Vậy ai sẽ chăm nom ông?
Một câu hỏi kỳ cục. Câu trả lời rõ ràng là: Trong thời gian trước mắt, cô là người trông nom tôi, cô hoặc bất cứ ai tôi thuê để làm việc đó. Nhưng sẽ có cách hiểu câu hỏi ấy nhân từ hơn, ví dụ: Vậy ai sẽ đến ở với ông và giúp đỡ ông?
- Ồ, tôi sẽ tự chăm sóc mình, - ông đáp. - Tôi không muốn có tuổi già dài lê thê.
- Ông có gia đình ở Adelaide không?
- Không, không ở Adelaide. Tôi có gia đình ở châu Âu, nhưng tôi không liên hệ với họ lâu rồi. Tôi sinh ra ở Pháp. Tôi chưa kể với cô à? Tôi được mẹ và bố dượng tôi đưa đến Australia từ hồi còn bé. Tôi và chị gái tôi. Tôi lên sáu, còn chị tôi lên chín. Bây giờ chị ấy mất rồi. Chị tôi mất sớm vì ung thư. Vì vậy tôi chẳng có gia đình chăm sóc.
Họ ngừng những trao đổi riêng tư ở đây, ông và Marijana. Nhưng câu hỏi của chị vang mãi trong trí ông: Ai sẽ chăm sóc ông? Ông nhìn chằm chằm vào chữ chăm sóc, dường như chúng khó hiểu thêm. Ông nhớ lại khi ông còn nhỏ ở Lourdes, họ có một con chó nằm trong giỏ ho những cơn cuối cùng, các chi giật giật. Thôi được, Je m’en occupe: Ta sẽ giải quyết việc này, đến một lúc nào đó, cha của Paul nói rồi cầm cả chó và giỏ ra khỏi nhà. Năm phút sau, Paul nghe thấy một tiếng súng đanh gọn từ trong rừng, và từ đó trở đi cậu bé không bao giờ nhìn thấy con chó nữa. Ta sẽ giải quyết việc này: Ta sẽ làm, ta sẽ chịu trách nhiệm, ta sẽ làm cái việc phải làm. Chắc chắn loại chăm sóc bằng một phát súng ấy không có trong đầu Marijana. Dù sao chăng nữa, nó nằm gọn trong một câu, đợi thoát ra. Vậy, câu trả lời của ông: Tôi sẽ tự chăm sóc mình có nghĩa gì?
Một cách khách quan, lời lẽ của ông có ý nghĩa gì đâu? Việc chăm sóc mà ông nói là mặc bộ quần áo đẹp nhất, nuốt hết những viên thuốc đã cất giấu, chiêu bằng sữa nóng, mỗi ngụm hai viên, rồi nằm lên giường, hai tay khoanh lại trên ngực sao?
Ông có nhiều nỗi ân hận, lòng ông tràn ngập thương tiếc, đêm đêm chúng trở về với ông như bầy chim đang đậu. Nỗi ân hận lớn nhất của ông là không có lấy một đứa con trai. Có một đứa con gái cũng tốt, con gái có sự lôi cuốn riêng, nhưng ông không có con trai mới là điều thực sự mất mát. Nếu ông và Henriette có một đứa con trai ngay từ hồi họ còn yêu hoặc say mê nhau, hoặc còn quan tâm đến nhau, đứa con trai ấy bây giờ khoảng ba chục tuổi, là một người đàn ông thực thụ trong nhà. Có thể là kỳ quặc, nhưng là sự kỳ quặc có thể hình dung ra. Hình ảnh hai người - cha và con - ra ngoài đi dạo, tán gẫu chuyện này chuyện nọ, chuyện của đàn ông, chẳng có gì nghiêm túc. Trong lúc chuyện phiếm, ông tình cờ thốt ra lời về thời điểm chuyển giao, một trong những kiểu nói quanh co mà có nhiều lúc không thốt nổi những lời lẽ chính xác. Con trai ông, đứa con trai trong tưởng tượng của ông, hiểu ngay lập tức: Chuyển giao gánh nặng, chuyển giao sự nối tiếp, là việc của một ngày nào đó.
- Hứ, - con trai ông, thằng William hay Robert hoặc tên là gì đấy, sẽ nói. - Vâng, con xin nhận, bố đã làm tròn bổn phận chăm sóc con, bây giờ đến lượt con. Con sẽ trông nom bố.
Việc đó không ngoài phạm vi cần có của một người con trai, ngay cả khi đã muộn màng. Ví dụ, ông có thể xác định (nhưng làm thế nào đây?) một đứa trẻ mồ côi ngỗ ngược, một Wayne Blight còn non nớt và được đề nghị ông nhận làm con nuôi và mong được chấp nhận, dù hệ thống phúc lợi do bà Putts đại diện giao phó đứa trẻ trông nom một ông già cô đơn và tàn tật sẽ là số 0, còn ít hơn cả số 0. Hoặc ông có thể hình dung (nhưng làm thế nào đây?) một phụ nữ trẻ mỡ màng, ông cưới cô ta hoặc trả tiền cho cô ta, hay nói khác đi
là thuyết phục cô ta đồng ý sinh cho ông một đứa con trai, hoặc thử cấy phôi một đứa trẻ trai vào dạ con cô ta.
Nhưng đấy không phải là đứa con ông muốn. Thứ ông muốn là một đứa con trai, một đứa con trai đích thực, là con trai và là người thừa kế, một bản sao trẻ trung hơn, khỏe khoắn hơn, giỏi giang hơn của ông.
“Thằng cu” của ông. Nếu ông muốn tôi rửa ráy thằng cu cho ông, Sheena nói thế trong lúc riêng với ông, ông phải yêu cầu đấy. Liệu ông có cái đó trong thằng cu, trong cái cơ quan sinh dục kiệt quệ của ông, để làm cha một đứa trẻ không? Liệu ông có tinh trùng, có đủ ham muốn xác thịt để đưa tinh trùng vào đúng chỗ không? Trong hồ sơ bệnh án hình như không cho biết điều đó. Bệnh án hình như chỉ ra rằng sự phun trào say đắm không phải là nhu cầu tự nhiên của ông. Một sự trìu mến dễ chịu, một sự thèm muốn nhục dục dù nhẹ nhàng - chính là điều Margaret McCord sẽ nhớ về ông, bà và đến nửa tá phụ nữ khác, chưa kể vợ ông.
Thực ra, ông chỉ là một loại người tình. Ông không bao giờ được một lời trìu mến ngoài việc là người “có khả năng”. Một người đàn ông thú vị để ôm ấp trong một buổi tối lạnh giá, loại bạn trai bạn lên giường một cách lơ đãng, để rồi sau đó băn khoăn tự hỏi thực ra đã xảy ra chuyện gì.
Nói tóm lại, không phải là một người đàn ông say đắm. Ông không dám chắc ông thích những tình cảm nồng nàn, hoặc tỏ ra nồng nàn. Tình cảm nồng nàn là một miền xa lạ, một tai họa khôi hài nhưng không tránh khỏi, giống như bệnh quai bị mà con người mong trải qua trong lúc vẫn còn trẻ, trong trạng thái nhẹ hơn, đỡ tai hại hơn, để sau này không bị những di chứng nghiêm trọng hơn. Những con chó dính chặt lấy nhau trong lúc đi tơ, răng nhe ra, lưỡi thè lè thảm hại.
TÁM
-
Ông có muốn tôi phủi bụi cho sách không? Lúc ấy là mười một giờ sáng, và Marijana có vẻ đã rảnh việc.
- Hay lắm, nếu chị muốn. Chị có thể dùng máy hút bụi, gắn cái vòi này vào.
Chị lắc đầu:
- Không, tôi phủi bụi sạch hơn. Ông là người mê sách, đừng để bụi phủ lên sách.
Người mê sách: Đấy là cách người Croatia gọi người yêu sách chăng? Mà mê sách có nghĩa gì nhỉ? Là người cứu sách khỏi sự lãng quên ư? Là người giữ sách mà không bao giờ đọc? Sách xếp thành hàng từ sàn đến trần trong phòng làm việc của ông, ông sẽ chẳng bao giờ đọc lại, không phải vì chúng không đáng đọc mà vì thời gian của ông đang cạn kiệt dần.
- Một nhà sưu tập sách, ở đây chúng tôi gọi như thế. Chỉ có ba giá sách từ đây đến đây là bộ sưu tập đúng nghĩa. Đây là những quyển sách của tôi về nghệ thuật nhiếp ảnh. Còn lại là sách làm vườn hoặc sách thông thường. Không, nếu tôi cứu cái gì thì đó là những bức ảnh chứ không phải sách. Tôi giữ ảnh trong tủ này. Chị có thích xem không?
Ông có hàng trăm bức ảnh và bưu ảnh về cuộc sống trong các lán trại thợ mỏ ở Victoria và New South Wales xếp trong hai cái tủ kiểu cổ bằng gỗ tuyết tùng. Có cả một mớ ảnh về miền Nam Australia. Vì lĩnh vực này không phổ biến, thậm chí chưa được xác định rõ ràng, bộ sưu tập của ông có lẽ là giá trị nhất trong nước, thậm chí trên thế giới.
- Tôi bắt đầu thu thập chúng từ những năm 1970, khi mới có ảnh thế hệ đầu tiên. Hồi đó tôi vẫn hăng hái đến các cuộc bán đấu giá.
Các di sản của người đã khuất. Bây giờ tôi chán rồi. Ông rút một tập ảnh là trung tâm bộ sưu tập cho chị xem. Vì có nhà nhiếp ảnh đến thăm, một số thợ mỏ mặc bộ quần áo ngày Chủ nhật đẹp nhất. Những người khác hài lòng với chiếc sơ mi sạch, tay áo xắn cao để lộ cánh tay nở nang, có người để lộ chiếc khăn quàng cổ. Họ đứng trước máy ảnh với vẻ tin cậy trang nghiêm là vẻ rất tự nhiên của đàn ông thời Victoria, nhưng ngày nay hầu như nó đã biến mất khỏi mặt đất.
Ông xếp hai bức ảnh của Fauchery.
- Chị xem này, - ông nói. - Đây là ảnh của Antoine Fauchery. Anh ta chết trẻ, nếu không có thể trở thành một trong những nhà nhiếp ảnh vĩ đại. - Ông xếp bên cạnh vài bức ảnh tục tĩu: Lil phô hết chiều dài đùi lúc cô nắm lấy cái nịt tất; Flora để trần, ngoái qua bờ vai trần tròn trĩnh, mỉm cười bẽn lẽn. Các cô gái nào đó, tươi tắn vì đồ trang sức, phấn khởi vì được tiền, tối tối Chủ nhật đến chơi trò mèo chuột.
- Đấy là việc ông làm ư, - Marijana nói khi xem xong. - Hay lắm. Thật là tốt khi ông gìn giữ lịch sử. Đừng cho Australia là đất nước không có lịch sử, chỉ có toàn bụi rậm với những đám dân di tản. Như tôi vậy. Như chúng ta. - Chị tháo khăn trùm đầu: Chị lắc cho tóc tung tơi, mượt mà buông xuống lưng làm ông mỉm cười.
Như chúng ta: Ai là chúng ta? Marijana và gia đình Jokić; hay Marijana và ông?
- Nước này không chỉ có bụi rậm, Marijana, - ông dè dặt nói. - Không, tất nhiên là không, mà là các thổ dân. Nhưng tôi nói đến châu Âu, đến kiểu họ nói ở châu Âu. Họ nói: Nào bụi rậm, rồi Thuyền trưởng Cook [5], rồi dân di cư, vậy thì lịch sử ở đâu? [5]Thuyền trưởng James Cook (1728-1779): nhà thám hiểm và hàng hải Anh, nổi tiếng vì ba chuyến khảo sát ở Nam Thái Bình Dương và các con đường thủy ở Bắc Mỹ.
- Ý chị là các thành lũy và nhà thờ ư? Dân di cư không có lịch sử của riêng họ sao? Chẳng lẽ các người dừng lịch sử lại khi di chuyển từ điểm này đến điểm khác trên địa cầu?
Chị gạt những lời quở trách sang một bên, nếu đấy là lời trách móc.
- Ở châu Âu, người ta nói Australia không có lịch sử vì ở Australia, ai cũng là người mới. Đừng tưởng anh mang lịch sử này lịch sử nọ đi cùng, ở Australia anh bắt đầu từ số 0. Không lịch sử, anh hiểu không? Đấy là điều người ta nói ở đất nước tôi, ở Đức và trên toàn châu Âu cũng thế. Họ bảo, vì sao anh muốn đến Australia? Giống như anh đến vùng sa mạc, đến Qatar, đến các nước Ả Rập, các nước có dầu. Họ bảo anh chỉ đi kiếm tiền. Vì thế rất hay là còn có người giữ những bức ảnh cũ, cho thấy Australia cũng có lịch sử. Những bức ảnh này đáng tiền đấy chứ?
- Đúng, chúng đáng tiền lắm.
- Vậy ai được hưởng, sau ông?
- Chị định nói là sau khi tôi chết? Chúng sẽ sung vào Thư viện Quốc gia. Mọi việc đã được thu xếp cả rồi. Thư viện Quốc gia ở đây, ở Adelaide.
- Ông không bán à?
- Không, tôi không muốn bán, nó sẽ là một di sản.
- Nhưng chúng đề tên ông kia mà?
- Thực tế là bộ sưu tập đề tên tôi. Di sản của Rayment. Vì thế trong tương lai bọn trẻ con sẽ thì thầm với nhau “Ông ấy là ai nhỉ, ông Rayment ấy? Ông ấy có nổi tiếng không?”
- Nhưng còn ảnh nữa, chứ không chỉ là tên? Ảnh của ông Rayment. Ảnh không giống tên, nó sinh động hơn. Nếu không, giữ ảnh làm gì?
Rõ ràng là chị có quan niệm riêng về việc này. Nếu tên tuổi cũng hay ho như ảnh, thì việc gì phải giữ ảnh? Vì sao lại giữ ảnh của những người thợ mỏ đã chết này, vì sao không chỉ phân loại tên của họ và trưng bày trong hộp kính?
- Tôi sẽ hỏi các nhân viên thư viện, - ông nói. - tôi sẽ biết ý kiến của họ về việc này. Nhưng không phải là ảnh tôi như tôi bây giờ, Chúa tha thứ cho chúng ta. Mà như tôi trước kia.
Phủi bụi sách là việc vặt mà những người đàn bà quét dọn trước kia tự nguyện làm thêm, họ chỉ đưa cái phất trần trên gáy sách, còn Marijana làm như một công việc chính. Bàn và tủ được phủ kín báo; rồi mỗi lần nửa giá, các quyển sách được đưa ra ban công, lau bụi từng quyển, còn các giá sách được lau sạch bong.
- Có chắc là sách được xếp lại theo trật tự như cũ không? - ông lo lắng xen vào.
Chị ban cho ông một cái nhìn miệt thị làm ông nao núng. Người đàn bà này lấy đâu ra nhường ấy sinh lực? Làm sao chị trông nom được nhà cửa của chị? Ông J sẽ đối phó ra sao? Hay chỉ với mình ông, ông chủ Australia của chị, để chứng tỏ chị sẵn sàng cống hiến cho đất nước mới của chị?
Trong cái ngày lau bụi cho sách ấy, ông hơi chú ý đến Marijana, ban đầu chỉ vì tò mò, rồi trở thành một cái gì đó hơn thế. Ông bắt đầu nhìn thấy trong con người chị không phải là sắc đẹp mà ít ra là sự hoàn hảo của một loại phụ nữ nào đó. Khỏe như ngựa, ông nghĩ khi nhìn đôi bắp chân khỏe khoắn và vùng hông chắc nịch lúc chị chuyển động, vươn tới các giá sách trên cao. Khỏe như một con ngựa cái.
Hay mọi thứ lơ lửng trong không khí suốt bao tuần lễ qua bắt đầu tụ lại ở Marijana? Sự lắng đọng này, tình cảm này có tên là gì nhỉ? Nó không giống sự thèm muốn. Nếu ông phải chọn một từ, ông sẽ
nói đó là sự ngưỡng mộ. Có khi sự thèm muốn phát triển là do ngưỡng mộ, hay chúng là hai loại khác hẳn nhau? Liệu ông có thích nằm kề sát nhau, ngực áp ngực với một người đàn bà mà ngưỡng mộ là chính không?
Không chỉ là một người đàn bà, mà là một phụ nữ có chồng, ông không được quên điều đó. Một ông Jokić của Marijana đang sống và thở cách đây không xa lắm. Liệu ông Jokić - Pan Jokić hoặc Gospodin Jokić hoặc bất cứ tên là gì đó - có nổi điên lên khi phát hiện ra ông chủ của Marijana đắm đuối mơ màng giữa ban ngày ban mặt về việc nằm ngực áp ngực với chị, sẽ nổi một trong những cơn thịnh nộ mãnh liệt của vùng Balkan, đã sản sinh ra những mối thù truyền kiếp và những thiên anh hùng ca? Ông Jokić có cầm dao đuổi theo ông không?
Ông biến Jokić thành chuyện đùa vì ông ghen với anh ta. Hơn hết thảy, Jokić có người đàn bà đáng ngưỡng mộ này còn ông thì không. Jokić không chỉ có cô ta, mà còn có con với cô ta, những đứa con do cô ta sinh ra: Con bé Ljubica đáng yêu, đứa con gái giữa chắc chắn là xinh đẹp, tên nó là gì ông không nhớ ra; cậu con trai bảnh bao với chiếc xe máy. Jokić có tất cả, còn ông có gì? Một căn hộ đầy sách và đồ đạc. Một bộ sưu tập ảnh, tượng người chết, những thứ sau khi ông qua đời sẽ phủ đầy bụi trong tầng hầm của thư viện cùng bao di vật không quan trọng khác, vốn chỉ làm phiền các nhà sưu tầm hơn là giá trị của chúng.
Giữa đám ảnh Fauchery, ông không lấy ra cho Marijana xem một tấm đã ám ảnh ông sâu sắc. Đó là ảnh một người đàn bà và sáu đứa trẻ túm tụm trên ngưỡng cửa một túp lều trát bùn, vách liếp. Có thể nói là một người đàn bà và sáu đứa con, hoặc người phụ nữ lớn tuổi nhất không có đứa con nào, mà là vợ hai, phải gánh vác mọi việc, trông kiệt cả sức sống, mòn mỏi cả con người.
Cả bọn đều có vẻ giống nhau: Không thù địch với người lạ có cái máy ảnh, trước khi chụp đã chúi đầu vào dưới mảnh vải đen; nhưng đều sợ hãi, cứng cả người như những con bò ở cổng lò mổ. Ánh sáng chiếu thẳng vào mặt họ, làm rõ nét từng vết bẩn trên da và quần áo họ. Bàn tay đứa bé nhất đưa lên miệng, ánh sáng phơi ra một thứ két lại, trông càng giống bùn hơn. Sao bức ảnh này lại giữ lâu đến thế, phơi bày sự mong mỏi trong những ngày đó mà ông không thể đoán ra.
Không chỉ có bụi rậm, ông muốn kể với Marijana. Cũng không chỉ có thổ dân Úc. Không phải là số 0 của lịch sử. Nhìn này: Đấy là nơi chúng ta xuất xứ, từ túp lều lạnh lẽo, ẩm ướt, đầy khói và tiều tụy, từ những người phụ nữ mắt đen vô vọng, từ sự nghèo khổ và lao động nặng nhọc vì dạ dày trống rỗng. Mỗi người có một quá khứ, một câu chuyện của riêng họ. Lịch sử của chúng ta, quá khứ của chúng ta.
Nhưng đấy có phải là sự thực không? Liệu người đàn bà trong ảnh có nhận ông - chàng trai từ Lourdes của rặng núi Pyrenees ở Pháp, có bà mẹ chơi dương cầm nhạc của Fauré [6]- là người của họ không?
Là lịch sử mà ông muốn khẳng định vì công việc của ông không phải là cuối cùng với người Anh và Ireland, những người nước ngoài tách biệt?
Mặc dù sự có mặt khỏe khoắn của Marijana, hình như ông lại mấp mé bờ vực của một trong những cơn tồi tệ lần nữa, một trong những cơn tự thương thân rồi biến thành tâm trạng rầu rĩ. Ông muốn nghĩ chúng xuất phát từ một nơi nào khác chẳng hạn. Ông không thích nghĩ chúng xuất phát từ trong lòng ông và là một phần của ông.
Số phận đem cơ hội đến, còn ta phải tận dụng cơ hội mình có. Không được rên rỉ, không được than phiền. Ông thường tin rằng đó
là triết lý sống của ông. Vậy sao ông không cưỡng lại được những cú lao vào tình trạng mơ hồ?
Câu trả lời là ông đang suy sụp. Ông chẳng bao giờ được là ông như cũ. Chẳng bao giờ ông lại có được sức bật ngày trước. Mọi thứ trong ông có nhiệm vụ phục hồi cơ thể sau những cuộc tấn công dồn dập, trước tiên là trên đường phố, rồi sau đó trong phòng mổ, cơ thể ông đã quá mệt mỏi vì công việc, vì quá sức. Các bộ phận khác trong người ông cũng thế, tim, phổi, cơ bắp, não. Chúng làm việc cho ông chừng nào còn có thể; giờ đây chúng muốn nghỉ ngơi.
Một hồi ức trở lại với ông về bìa cuốn sách ông quen dùng, một ấn bản nổi tiếng của Plato. Bìa trình bày một cỗ xe song mã, một con ngựa ô có cặp mắt sáng lóe, lỗ mũi loe phồng tiêu biểu cho thói ăn ngon mặc đẹp, còn con ngựa bạch vẻ mặt hiền hòa hơn, có thể dễ dàng nhận thấy tiêu biểu cho những đam mê cao quý hơn. Đứng trên cỗ xe song mã là một chàng trai để trần nửa người, có cái mũi Hy Lạp điển hình, tay nắm chặt dây cương, một dải lụa buộc ngang trán, tiêu biểu cho những ham muốn của bản thân, tự xưng là Tôi. Vậy đấy, nếu có cuốn sách của ông, viết về ông, về cuộc đời ông, hình ảnh sẽ buồn tẻ hơn trên cuốn Plato rất nhiều. Ông, người có tên là Paul Rayment, sẽ ngồi trên một cái xe buộc vào một đám những con ngựa nhỏ chuyên kéo xe, thở hổn hển cũng chỉ kéo nổi tải trọng của chúng. Sau sáu chục năm sáng sáng thức giấc, nuốt món cháo yến mạch, đi tiểu, đi ngoài xong là lao vào công việc ban ngày, cỗ xe của Paul Rayment thấy thế là đủ lắm rồi. Đã đến lúc nghỉ ngơi, chúng nói, đến lúc được ra đồng cỏ rồi. Nếu bị từ chối, được lắm, chúng sẽ gập chân lại và nằm đè lên dây cương. Nếu ngọn roi bắt đầu quất vào mông, cứ để mặc cho nó rít.
Mệt tâm, mệt đầu, mệt cả thân xác, và nếu nói thật thì ông chán ngấy bản thân, chán cả trước khi Chúa truyền cơn giận của Người qua “thiên sứ” Wayne Blight làm ông ngã. Ông chẳng bao giờ làm
nhẹ sự kiện đó, ngón đòn đó. Nó là một tai họa trọn vẹn. Nó thu hẹp thế giới của ông, biến ông thành một tù nhân. Nhưng thoát chết ắt hẳn đã thức tỉnh ông, mở ra nhiều cánh cửa trong lòng ông, phục hồi cảm giác ham sống của ông. Song nó không làm mới được tâm trạng ông. Ông bị mắc trong cái tôi trước kia, chỉ càng u ám hơn, buồn thảm hơn mà thôi. Đủ để làm con người lao vào rượu chè.
Một giờ chiều, Marijana vẫn chưa xong với các quyển sách. Ljuba, thường ngày là đứa trẻ ngoan - nếu vẫn được phép chia trẻ con thành loại ngoan và hư - bắt đầu khóc nhai nhải.
- Cứ để việc đó lại. Ngày mai làm nốt, - ông bảo Marijana. - Tôi làm nhoáng nữa là xong, - chị đáp. - Có lẽ ông cho cháu nó cái gì ăn.
Ông muốn cho Ljuba ăn, nhưng ăn gì? Trẻ nhỏ thích bỏng ngô, bánh quy, bánh ngô nướng rắc đường, trong chạn của ông có gì không nhỉ?
Ông thử khuấy một thìa đầy mứt mận vào hộp sữa chua. Ljuba nhận và có vẻ thích.
Cô bé ngồi cạnh bàn bếp, ông đứng bên cạnh, dựa vào cái thứ Zimmer sáng chế.
- Mẹ cháu giúp ông nhiều lắm, - ông nói. - Ông không biết xoay xở ra sao nếu không có mẹ cháu.
- Có thật là ông có một cái chân giả không? - cô bé nói từ dài một cách ngẫu nhiên, dường như nó nói từ đó hằng ngày. - Không, đây là cái chân ông vẫn có, chỉ ngắn hơn thôi. - Nhưng ở trong tủ ở phòng ngủ của ông. Ông để chân giả trong tủ à?
- Không, ông e là không, trong tủ chẳng có thứ ấy đâu. - Ông có bắt vít vào chân không?
- Bắt vít à? Không, không có vít. Chân ông hoàn toàn tự nhiên. Nó có xương bên trong, giống như chân cháu và chân mẹ cháu. - Thế cái chân giả của ông không có vít à?
- Không, theo ông thì không. Vì ông không có chân giả. Sao cháu hỏi thế?
- Bởi vì… - cô bé không nói thêm.
Một cái vít trong chân ông. Có lẽ trước kia Marijana đã săn sóc một người đàn ông chân có nhiều vít, bu lông, chốt, thanh chống, móc chằng làm bằng vàng hoặc titan, một người đàn ông có chân được tái tạo, phần thưởng mà họ không dành cho ông vì ông đã quá già, không bõ công và chi phí. Có lẽ đấy là lời giải thích.
Ông nhớ hồi còn nhỏ, ông được nghe câu chuyện về một người phụ nữ trong lúc lơ đãng đã đâm kim khâu bé xíu vào trong lòng bàn tay. Vì không để ý, chiếc kim chui vào mạch máu rồi trong một thời gian nhất định đã đâm thủng tim và giết chết bà ta. Câu chuyện có ý đe cậu bé Paul phải cẩn thận với các thứ kim, nhưng khi nhớ lại, ông thấy giống chuyện bịa hơn. Thép thực sự ghét sự sống sao? Cây kim có thể chui vào mạch máu thật sao? Làm sao người đàn bà trong truyện lại không nhận thấy thứ vũ khí kim loại bé xíu chu du trong cánh tay lên tận nách, lượn theo đường vòng nách rồi đâm thẳng xuống con mồi đang đập thình thịch ở hướng nam? Ông có nên kể lại chuyện này cho Ljuba, truyền lại sự khó hiểu của nó không?
- Không, - ông nhắc lại. - Trong người ông không có cái vít nào. Nếu có vít ông sẽ thành người máy mất. Nhưng ông không có đâu. Nhưng Ljuba chẳng quan tâm đến cái chân cũng như chân máy nữa. Cô bé chép môi ăn hết hộp sữa chua và đưa cánh tay áo lau miệng. Ông với cái khăn giấy lau môi cho Ljuba, còn cô bé để ông lau. Sau đó, ông lau sạch cánh tay áo cho cô bé.
Đây là lần đầu tiên ông đặt ngón tay lên đứa trẻ. Cổ tay con bé nằm rũ trong bàn tay ông giây lát. Thật hoàn hảo: Không có từ nào để tả. Chúng đến từ dạ con cùng mọi thứ mới mẻ, mọi thứ sắp xếp đâu vào đấy.
Ngay cả trong những người bị hư hại, chân tay hoặc bộ não khác thường vẫn có nét sắc sảo, từng tế bào vẫn khỏe khoắn, tươi mới, sạch sẽ như trong ngày ra đời. Mỗi lần sinh nở là một điều kỳ diệu mới mẻ.
CHÍN
M
argaret đến thăm ông lần thứ hai, lần này không báo trước. Hôm đó là Chủ nhật, chỉ có mình ông trong nhà. Ông mời trà song bà từ chối. Bà đi quanh căn phòng, đứng lại sau ghế ông ngồi, vuốt tóc ông. Ông im lìm như một tảng đá.
- Thế là hết hở Paul? - bà hỏi.
- Hết cái gì?
- Anh thừa biết em định nói gì. Anh định chấm dứt việc sinh hoạt tình dục? Cứ nói thẳng ra đi, để em còn biết đường ăn ở sau này. Margaret không phải người ăn nói quanh co. Ông vẫn thích điểm ấy của bà. Nhưng ông biết trả lời sao đây? Phải, tôi phải chấm dứt cuộc sống tình dục, từ nay trở đi hãy đối xử với tôi như một hoạn quan? Ông nói vậy sao được khi thực tế có thể không như thế? Vậy sự thực ra sao? Nhỡ con ngựa ô say đắm của ông lại khịt mũi vùng lên thì sao? Thời xế chiều của đàn ông mà.
Xuống đấy, nhưng cũng lên ngay đấy!
- Margaret, - ông nói, - hãy cho tôi thời gian.
- Thế người giúp việc ban ngày của anh thì sao?
- Margaret nói, đánh trúng vào điểm yếu. - Anh và cô giúp việc có ăn ý không?
- Cảm ơn em, cô giúp việc ban ngày và tôi hòa thuận. Nhưng với cô ấy, tôi chỉ là người sáng sáng không ra được khỏi giường. Với cô ấy, tôi có thể là chết trong cảnh như vẫn đọc trên báo, hàng xóm ngửi thấy mùi khó chịu và gọi điện báo cảnh sát phá cửa.
- Đừng quá thống thiết thế, Paul. Chẳng ai chết vì bị cắt cụt một chân.
- Đúng, nhưng người ta có thể chết vì dửng dưng với tương lai.
- Thì cô giúp việc của anh phải cứu đời anh chứ. Thế là hay đấy. Cô ta đáng được tặng huân chương. Cô ta đáng được tiền thưởng. Bao giờ em mới được gặp cô ta đây?
- Đừng xúc phạm thế, Margaret. Em hỏi tôi một câu hỏi, và tôi đang cố trả lời thành thật.
Nhưng Margaret không nao núng:
- Bây giờ em đi đây, - bà nói. - Anh không phải đứng dậy, em sẽ ra một mình. Khi nào anh lại sẵn sàng cho xã hội loài người, cứ gọi cho em nhé.
Trong các buổi vật lý trị liệu, bác sĩ báo trước với ông rằng các cơ đùi sẽ có phản ứng dữ dội, kéo vùng hông và dương vật về phía sau. Ông dựa vào cái khung, đưa bàn tay rảnh thăm dò phần dưới lưng. Liệu ông có thể cảm thấy bắt đầu nhô ra về phía sau không? Nửa cái chi xấu xí này có trở nên xấu hơn không?
Giá như ông nhượng bộ và thuận cho lắp chân giả, sẽ có lý do mạnh hơn để tập đoạn chân còn lại. Còn thế này, đoạn chân ấy chẳng ích lợi gì cho ông. Mọi thứ ông làm với nó là mang nó đi loanh quanh như một đứa con không mong muốn. Nó muốn co vào, phản ứng, rút lại, cũng chẳng có gì lạ.
Nhưng nếu cái thứ bằng da bằng thịt còn kháng cự, thì một cái chân đúc bằng nhựa màu hồng, đầu có khớp nối, dưới có hình giày, một công cụ buổi sáng lắp vào, buổi tối tháo ra và buông lên sàn, còn phản ứng nhiều hơn biết chừng nào! Ông nhún vai khi nghĩ đến điều đó; ông chẳng muốn làm gì với nó nữa. Đi nạng còn hơn. Đi nạng ít ra còn có cảm giác thật.
Dù sao chăng nữa, mỗi tuần một lần ông cũng cho phép xe ô tô ghé qua đón ông đến lớp phục hồi ở phố George, Norwood do một phụ nữ tên là Madeleine Martin điều hành. Lớp có độ nửa tá người
cụt khác, tất cả đều ngoài sáu mươi. Ông không phải là người duy nhất không lắp chân giả, nhưng là người duy nhất từ chối. Madeleine không thể hiểu nổi cái mà bà gọi là thái độ của ông. - Trên phố có nhiều người ông không thể nhận ra họ đeo chân giả, vì họ đi đứng tự nhiên, - bà nói.
- Tôi không muốn trông tự nhiên, - ông nói. - Tôi thích cảm thấy tự nhiên hơn.
Bà lắc đầu, mỉm cười hoài nghi:
- Đây là một chương mới trong đời ông, - bà nói.
- Chương cũ đã khép lại rồi, ông phải nói lời từ biệt với nó và chấp nhận cái mới. Chấp nhận, đó là tất cả những gì ông cần làm. Rồi sau đó, mọi cánh cửa ông tưởng như đóng lại sẽ mở ra. Ông sẽ hiểu thôi.
Ông không đáp.
Ông có thực sự muốn cảm thấy tự nhiên không? Ông có cảm thấy tự nhiên trước khi xảy ra sự cố trên đường phố Magill không? Ông không biết. Nhưng có lẽ không biết mới là thứ cảm thấy tự nhiên. Thần Vệ nữ Milo có cảm thấy tự nhiên không? Bất chấp không có cánh tay, Vệ nữ Milo vẫn là một vẻ đẹp lý tưởng của phụ nữ. Tương truyền trước kia nàng có tay nhưng bị gãy, và sự mất mát đó chỉ làm cho vẻ đẹp của nàng thêm thấm thía. Nếu như ngày mai người ta phát hiện thực ra thần Vệ nữ do một người cụt tay làm mẫu, ắt nàng sẽ bị tống xuống tầng hầm ngay lập tức. Sao vậy? Vì sao hình ảnh chắp vá của một người phụ nữ được ngưỡng mộ lại không phải là hình ảnh của một người phụ nữ rời từng đoạn, chưa nói đến việc đoạn tay cụt được khâu lại gọn gàng?
Ông sẽ phải làm rất nhiều thứ mới đạp xe được xuống phố Magill lần nữa, để gió táp vào mặt. Ông sẽ phải làm rất nhiều, cái chương hiện giờ đã đóng lại mới được mở ra lần nữa. Ông ước giá Wayne
Blight không bao giờ ra đời. Thế là xong. Nói cho thỏa. Nhưng ông giữ mồm giữ miệng.
Các chi có ký ức của nó, Madeleine nói với cả lớp, và bà nói đúng. Lúc ông dấn một bước trên nạng, nửa người bên phải vẫn đu theo một vòng cung để cái chân cũ đu theo; đêm đêm bàn chân lạnh lẽo của ông vẫn tìm kiếm người anh em lạnh lẽo của nó.
Madeleine nói với họ rằng công việc của bà là lập lại chương trình cũ vì hiện giờ bộ nhớ lỗi thời ra lệnh cho chúng ta phải giữ thăng bằng ra sao, đi ra sao, chạy ra sao.
- Đương nhiên chúng ta muốn giữ lại bộ nhớ cũ, - bà nói. - Nếu không, chúng ta sẽ không phải là con người. Nhưng chúng ta không nên bám lấy chúng khi chúng cản trở tiến trình của chúng ta. Không giữ, khi chúng chắn đường chúng ta. Các vị có đồng ý với tôi không? Chắc chắn là có rồi.
Giống hệt các nhân viên y tế ông gặp gần đây, Madeleine đối xử với những người già giao cho bà trông nom như thể họ là trẻ con - những đứa trẻ không được lanh lợi, có phần uể oải, có phần lờ đờ cần phấn chấn lên. Bản thân Madeleine chưa đến sáu mươi, có khi chưa đến năm mươi hoặc bốn nhăm; chắc chắn bà ta nhanh nhẹn như một con linh dương.
Madeleine dùng khiêu vũ để tái lập trình cho bộ nhớ của cơ thể. Bà cho họ xem băng video những người trượt băng trong các bộ áo bó chặt màu đỏ thắm hoặc vàng, trượt thành vòng thòng lọng, vòng tròn, đầu tiên là chân trái rồi đến chân phải theo nhạc nền của Delibes [7].
- Hãy nghe xem, hãy để giai điệu thấm vào các vị, - Madeleine nói - để âm nhạc thấu suốt cơ thể các vị, để nó nhảy múa trong người các vị. - Xung quanh ông, những người cùng lớp đã lắp chân giả cố ra sức bắt chước động tác của người trượt băng. Vì ông không thể
làm thế, - không thể trượt băng, không thể khiêu vũ, không thể đi lại, thậm chí không thể đứng thẳng mà không cần giúp - ông nhắm mắt lại, bám lấy chấn song và lắc lư theo nhịp nhạc. Ở tận nơi nào đó, trong một thế giới tưởng tượng, ông đang tay nắm tay cô giáo duyên dáng của ông trượt quanh sân băng. Tất cả những cái này là trò thôi miên đây! ông thầm nghĩ. Kỳ quặc làm sao; lỗi thời làm sao!
Chương trình cá nhân của ông (mỗi người có một chương trình cá nhân) gồm những bài tập thăng bằng.
- Chúng ta sẽ tập thăng bằng lại, - Madeleine giải thích - với cơ thể mới của chúng ta. - Bà gọi như thế đấy: Cơ thể mới của chúng ta, chứ không phải là cơ thể cũ bị cắt xén của chúng ta.
Cũng như trong bệnh viện người ta gọi là thủy liệu pháp thì Madeleine gọi là vật liệu-nước. Trong một cái vũng hẹp trong căn phòng đằng sau, ông nắm chấn song và đi trong nước.
- Giữ chân cho thẳng, - Madeleine nói. - Cả hai chân. Giống như cái kéo vậy. Cắt, cắt, cắt.
Hồi xưa, ông sẽ ngờ vực những người như Madeleine Martin. Nhưng lúc này, Madeleine Martin là tất cả mọi thứ để ông tin. Vì thế khi ở nhà, lúc có Marijana quan sát lúc không, ông tập hết bài tập trong chương trình cá nhân, thậm chí còn lắc lư-theo-nhạc.
- Tốt lắm, rất tốt cho ông, - Marijana nói và gật đầu. - Ông theo nhịp điệu là tốt lắm đó. - Nhưng chị chẳng buồn giấu vẻ chế nhạo của người có nghề trong giọng nói.
Tốt ư? ông muốn nói với chị. - Có thật không? Tôi không chắc là tốt cho tôi. Làm sao mà tốt được, khi tôi thấy toàn bộ việc này từ đầu chí cuối chỉ là nhục nhã? Nhưng ông không nói ra lời. Ông nén mình lại. Ông đã bước vào cái miền nhục nhã này; cái nơi là nhà mới của ông; ông sẽ không bao giờ ra khỏi; tốt hơn hết là im miệng; tốt hơn hết là chấp nhận.
Marijana thu thập hết quần của ông và đem về nhà. Hai ngày sau chị mang lại, ống bên phải đã gập lại và khâu gọn gàng. - Tôi không cắt đi đâu, - chị nói. - Nhỡ ông thay đổi ý kiến và lắp chân giả. Chúng ta xem nào.
Chân giả, chị phát âm từ này như thể nó là tiếng Đức. Thesis, antithesis, rồi prosthesis. [8]
Vết mổ cho đến lúc này không gây rắc rối gì và ông tưởng đã lành, nay bắt đầu ngứa ngáy. Marijana rắc bột kháng sinh lên và băng lại, nhưng vẫn tiếp tục ngứa. Ban đêm mới thật khổ. Ông phải cố thức để khỏi gãi. Ông thấy vết thương như một viên đá quý lớn cháy rực trong đêm tối, vừa là lính gác lẫn tù nhân, ông buộc phải núp mình bảo vệ nó.
Cơn ngứa giảm, nhưng Marijana tiếp tục chăm sóc đặc biệt cho đoạn chân cụt, rắc thuốc bột, trông nom.
- Ông có nghĩ chân ông lại mọc ra không, ông Rayment? - một hôm chị hỏi, hoàn toàn bất ngờ.
- Không, tôi chưa bao giờ nghĩ thế.
- Có chứ, có khi thỉnh thoảng ông nghĩ như thế. Giống trẻ con ấy mà. Trẻ con tưởng cắt cụt đi, nó lại mọc. Ông có hiểu ý tôi không? Nhưng ông không phải là trẻ con, ông Rayment. Vậy sao ông không muốn lắp chân giả? Hay ông bẽn lẽn như một cô gái? Có thể ông nghĩ, ông đi trên phố, ai cũng nhìn ông. Ông Rayment kìa, ông ta chỉ có một chân! Không phải thế đâu. Không đúng thế đâu. Chẳng ai nhìn ông hết. Ông lắp chân giả, chẳng ai nhìn ông. Không ai biết. Không ai để ý.
- Tôi sẽ suy nghĩ, - ông nói. - Còn nhiều thời gian mà. Mọi thời gian trên đời.
Sau sáu tuần lễ thủy liệu pháp, lắc lư và tái lập trình, ông bỏ lớp của Madeleine Martin. Ông gọi đến trường của bà sau giờ làm việc
và để lại tin nhắn trong máy. Ông nghĩ cả đến việc gọi cho bà Putts. Nhưng biết nói gì với bà Putts? Trong sáu tuần lễ, ông đã sẵn sàng tin vào Madeleine Martin và cách chữa trị bà đưa ra, chữa trị cho bộ nhớ cũ. Bây giờ ông không tin bà ta nữa. Thế thôi, chẳng có gì hơn. Nếu trong ông còn chút lòng tin, nó đã chuyển sang Marijana Jokić, chị không có trường lớp, không lời hứa hẹn, chỉ có sự chăm sóc.
Ngồi vắt vẻo lên thành giường ông, vừa ép bàn tay trái lên háng ông Marijana vừa quan sát, gật gù lúc ông uốn cong, duỗi thẳng và quay tròn khúc chân cụt. Bằng động tác ép nhẹ, chị giúp ông mở rộng độ uốn. Chị xoa bóp bắp thịt nhức mỏi; chị lật ông nằm sấp và xoa bóp phần dưới lưng.
Từ sự đụng chạm với bàn tay chị, ông học được mọi thứ ông cần biết: Chị không hề khó chịu với tấm thân bị hủy hoại và ngày càng nhẽo này; chị sẵn sàng nếu có thể, và nếu ông cho phép, truyền qua các đầu ngón tay một lượng dồi dào sức khỏe và sự tươi tắn cho ông.
Đấy không phải là một cách chữa trị, không làm vì tình yêu, mà chắc chỉ là thông lệ chăm sóc chính thống, nhưng thế là đủ. Nếu có tình yêu thì chỉ về phía ông thôi.
- Cảm ơn chị, - ông nói lúc hết giờ, ông nói mà có cảm giác chị nhìn ông hơi chế nhạo.
- Ông đừng lo, - chị đáp.
Một buổi tối, sau khi Marijana ra về, ông gọi một chiếc taxi, rồi một mình men cầu thang đi xuống, nắm chặt thành cầu thang, toát mồ hôi vì sợ cái nạng trượt mất. Lúc chiếc taxi đến, ông đã ra đến phố.
Trong thư viện công cộng, - may mắn thay, ông không phải rời tầng trệt - ông tìm thấy hai cuốn sách về Croatia: Một cuốn hướng dẫn đến Illyria và bờ biển Dalmatian, còn một cuốn hướng dẫn đến
Zagreb và các nhà thờ ở đấy; cũng có một số sách về Liên bang Nam Tư và các cuộc chiến tranh gần đây. Tuy nhiên chúng cũng không giúp ông hiểu gì về tính cách và con người Croatia.
Ông xem một cuốn sách nhan đề Các dân tộc ở Balkan. Khi taxi đến, ông đã xong và đợi.
Các dân tộc ở Balkan: Giữa Đông và Tây, tiêu đề đầy đủ là thế. Xem để hiểu gia đình Jokić cảm thấy ra sao khi còn ở quê hương: Bị kẹt giữa Chính thống giáo phương Đông và Công giáo phương Tây. Vậy họ cảm thấy như thế nào ở Australia, nơi phương Đông và phương Tây có ý nghĩa hoàn toàn mới? Cuốn sách có nhiều trang ảnh đen-trắng. Một trong những bức ảnh chụp hai cô gái nông dân khăn trùm đầu đang dắt lừa chất củi nặng trĩu theo con đường mòn trên núi lởm chởm đá. Cô gái trẻ hơn mỉm cười bẽn lẽn trước ống kính, để lộ cái răng hổng. Các dân tộc ở Balkan xuất bản từ năm 1962, trước khi có Marijana trong bụng mẹ. Không ai biết ngày tháng các bức ảnh. Hai cô gái ấy bây giờ chắc đã làm bà, có khi đã chết và được chôn cất. Con lừa cũng thế. Đây là thế giới mà Marijana ra đời, một thế giới xa xưa của những con lừa, dê, gà, của những cái xô lấy nước sáng sáng băng phủ kín, hay chị là một đứa con trong thiên đường của những người lao động?
Có lẽ gia đình Jokić mang theo bộ sưu tập ảnh riêng của mình từ đất nước cũ: lễ rửa tội, lễ kiên tín, lễ cưới, những buổi họp mặt của gia đình. Thật tiếc là ông không được xem. Ông có khuynh hướng tin vào những bức ảnh hơn lời nói. Chẳng phải vì ảnh không thể lừa dối mà vì chúng đã được để trong buồng tối, hãm và không thể thay đổi. Trong khi đó, các câu chuyện hình như lúc nào cũng thay đổi - ví dụ chuyện cái kim trong mạch máu, hoặc chuyện ông và Wayne Blight chạm trán nhau trên đường phố Magill chẳng hạn.
Máy ảnh có khả năng nắm bắt hình ảnh trong ánh sáng và biến nó thành thực thể, với ông dường như là một thiết bị siêu hình hơn
là cơ học. Nghề đầu tiên của ông là kỹ thuật viên trong buồng tối; thích thú lớn nhất của ông luôn là công việc trong buồng tối. Khi hình ảnh xuất hiện như một bóng ma dưới bề mặt dung dịch, khi những nét sẫm trên giấy bắt đầu khít lại với nhau và trở nên sinh động, đôi khi ông rùng mình ngây ngất, như thể ông có mặt trong ngày khai thiên lập địa.
Chính vì thế sau này ông bắt đầu mất hứng trong nghề nhiếp ảnh: Trước tiên là khi bắt đầu có ảnh màu, rồi khi nó thành đơn giản vì phép màu cũ của dung dịch nhạy sáng dần dần hết thời, nổi lên sự say mê sắp xếp kỹ thuật hình ảnh không cần các chất, những hình ảnh có thể lóe trong thinh không mà không cần hãm lại ở bất cứ đâu, có thể cho vào máy và chui ra từ bộ phận điều khiển của máy, không đúng với sự thực. Lúc đó ông từ bỏ việc ghi chép thế giới bằng hình ảnh, và chuyển sang cứu vãn quá khứ.
Có thể nói gì về sự ham mê bẩm sinh của ông với màu đen, trắng và các sắc độ xám hơn là thích thú cái mới? Có phải phụ nữ không hiểu ông, nhất là vợ ông, chính là những cái đó: màu sắc, sự chân thật?
Ông kể với Marijana rằng ông gìn giữ những tấm ảnh cũ vì độ trung thực của chúng, những người đàn ông, đàn bà, trẻ con được mời xuất hiện trước ống kính người lạ. Nhưng không hoàn toàn vì thế. Ông cũng giữ gìn chúng vì độ trung thực của bản thân các tấm ảnh, những bức ảnh in từ âm bản, phần lớn là những tấm cuối cùng, độc nhất. Ông cho chúng vào một nơi yên ổn và ngắm nghía chúng chừng nào có thể, chừng nào ai cũng có thể làm thế, vì chúng được cất giữ ở nơi tốt đẹp sau khi ông qua đời. Có lẽ đến lượt một người xa lạ hiện vẫn chưa ra đời sẽ tìm ra và giữ gìn một bức ảnh của ông, của Rayment tuyệt giống trong Di sản Rayment.
Còn về chính kiến của gia đình Jokić cũng như chỗ thích hợp họ có thể chiếm giữ trong bức tranh khảm về lòng trung thành và sự thù
địch của Balkan, ông không bao giờ căn vặn Marijana và cũng không hề có ý định làm thế. Với phần lớn những người di cư, cảm giác về đất nước cũ của họ chắc chắn lẫn lộn. Chồng sau của mẹ ông là một người Hà Lan, ông ta đưa mẹ con ông từ Lourdes đến Ballarat, giữ một bức ảnh đóng khung Nữ hoàng Wilhelmina đứng trong phòng khách, cạnh pho tượng nhỏ bằng thạch cao Đức Mẹ Đồng trinh Maria. Sinh nhật Nữ hoàng, ông ta thắp một cây nến trước ảnh Nữ hoàng, như thể bà là một vị thánh. Châu Âu bất trung, ông ta thường nói vậy về châu Âu; bức ảnh Nữ hoàng chứa đựng phương châm Trouw, niềm tin, lòng trung thành.
Tối tối ông ta vội vàng bật radio sóng ngắn, cố bắt qua những tiếng tách tách lời này lời nọ của Đài Hilversum. Đồng thời, ông ta thất vọng với đất nước ông mới tin, so với ý niệm ông đã hình thành từ xa. Mặc dầu người vợ còn hồ nghi và hai đứa con riêng không vui vẻ, Australia ắt phải là mảnh đất có nhiều cơ hội. Nếu các thổ dân không thân thiện, nín lặng khi có mặt họ hoặc chế nhạo thứ tiếng Anh ấp úng của họ cũng chẳng sao: Thời gian và sự làm việc chăm chỉ sẽ mài mòn thái độ thù địch. Ông ta vẫn giữ niềm tin khi Paul gặp ông ta lần cuối, đã chín mươi tuổi, nhợt nhạt như một cây nấm, lê bước giữa các chậu cây trong nhà kính xiêu vẹo. Vợ chồng Jokić ắt phải giữ một kiểu niềm tin nào đó như của ông già Hà Lan kia. Trong khi các con họ, Drago, Ljuba và đứa kia nữa, sẽ hình thành một hình ảnh riêng về Australia, đầy đủ hơn và nhạt nhẽo hơn.
MƯỜI
M
ột buổi sáng Marijana xuất hiện cùng một thanh niên cao ráo. Đấy là Drago, cậu thanh niên trong ảnh, không thể nhầm được. - Con trai tôi đến xem chiếc xe đạp của ông, - Marijana nói. - Biết đâu nó có thể sửa được.
- Được. Tất nhiên rồi. (Nhưng ông tự hỏi, ông có nói gì với chị về việc ông muốn sửa cái xe đạp tan nát ấy không nhỉ?). - Chào Drago, rất vui được gặp cậu, cảm ơn cậu đã đến. - Ông moi chiếc chìa khóa phòng kho ở đống chìa khóa trong ngăn kéo, đưa cho cậu ta. - Cậu xem thế nào. Tôi thì thấy cái xe ấy không sửa được rồi. Khung bị cong. Cược mười ăn một rằng trục xe bị gãy. Nhưng cứ ngó xem.
- OK, - cậu thanh niên nói.
- Tôi đưa nó đến nói chuyện với ông, - Marijana nói khi chỉ còn lại họ. - Như ông đã nói.
Như ông đã nói? Ông có thể nói gì nhỉ? Ông nên cho Drago một bài học về an toàn trên đường chăng?
Câu chuyện mà Marijana bịa ra với con trai làm ông mất cả buổi sáng hiện ra từng mẩu một: Ông Rayment có một cái xe đạp muốn sửa để bán đi, nhưng ông không chỉ què mà còn vụng về nên không thể tự sửa được.
Kiểm tra xong, Drago quay lại và báo cáo. Cậu không thể nói ngay khung xe có gãy hay không. Cậu có nhiều bạn, trong số đó một người có xưởng sửa chữa có thể uốn lại hình dạng cũ và phun sơn. Tuy nhiên, một bánh xe mới, moayơ, đĩa và bộ phanh mới nhất định sẽ làm ông, ông Rayment, có một chiếc xe đạp tuy cũ nhưng tốt.
Đây là một lời khuyên rất biết điều. Đây là điều lẽ ra ông nên nói. - Cảm ơn cậu đã xem hộ, - ông nói. - Mẹ cậu kể với tôi là cậu mê xe máy lắm.
- Vâng, bố cháu mua cho một chiếc Yamaha 250 phân khối. - Thế thì tốt, - ông bắt gặp cái liếc nhìn của Marijana, cậu con trai ra vẻ không để ý. Chị còn muốn ông nói gì nữa đây? - Mẹ cháu bảo ông đã bị tai nạn khá nặng, - chàng trai gợi ý. - Phải. Tôi đã phải nằm viện một thời gian.
- Chuyện xảy ra như thế nào ạ?
- Tôi bị một chiếc ô tô húc phải khi tôi đang rẽ. Người lái xe nói không nhìn thấy tôi. Cậu ta nói tôi không ra hiệu xin đường. Nói cậu ta quáng mắt vì nắng.
- Thế thì tệ quá.
Một khoảng im lặng. Cậu trai đã tiếp thu bài học ông muốn cậu biết chưa? Marijana đã đạt điều chị muốn chưa? Ông ngờ là chưa. Chị muốn ông nói nhiều hơn nữa, căn dặn cậu trai đừng gây tai họa cho những người đi xe đạp, và với những người đi xe máy cũng thế; đừng mang những đau đớn của người bị thương và nỗi nhục của người què quặt về nhà. Nhưng ông có cảm giác chàng trai này thích nói ngắn gọn và không muốn nghe thuyết giáo. Thực ra, nếu Drago có thông cảm với ai trong vụ đụng xe ở đường Magill, cậu ta sẽ thông cảm với Wayne Blight là người trẻ hơn, phóng nhanh sau tay lái nhiều hơn với Paul Rayment, ông già đãng trí cưỡi xe đạp.
Marijana còn muốn ông đưa ra những thay đổi lớn lao gì nữa? Chị thực lòng muốn cậu thanh niên đẹp trai, khỏe mạnh và sôi nổi này dành các buổi chiều ở nhà với sách vở trong lúc các bạn cậu vui đùa bên ngoài ư? Để chiếc Yamaha sáng choang trong ga ra rồi đi xe buýt? Drago Jokić là một cái tên trong thiên sử thi dân gian. Ballad về Drago Jokić.
Ông hắng giọng:
- Drago, mẹ cậu muốn tôi nói riêng với cậu vài lời. Marijana rời phòng. Ông quay sang cậu trai:
- Drago, tôi chẳng là gì với cậu, chỉ là một người được mẹ cậu chăm sóc và tôi rất biết ơn. Nhưng mẹ cậu yêu cầu tôi nói chuyện với cậu và tôi đã đồng ý. Tôi muốn nói với cậu rằng nếu như tôi có thể xoay ngược đồng hồ lại trước khi xảy ra tai nạn, tôi sẽ làm ngay, hãy tin tôi đi. Cậu có thể không nghĩ thế lúc nhìn tôi, nhưng tôi đã trải qua một cuộc sống sôi nổi. Bây giờ thậm chí tôi không thể đến cửa hàng. Tôi phải phụ thuộc vào người khác từ các việc nhỏ nhất. Mà chuyện đó xảy ra chỉ trong tích tắc, chẳng biết từ đâu. Vậy đấy, nó cũng có thể xảy ra với cậu rất dễ dàng. Đừng mạo hiểm với cuộc đời, con trai ạ, không đáng thế đâu. Mẹ cậu muốn cậu đi xe cho cẩn thận. Mẹ cậu là người tốt, bà ấy yêu cậu. Cậu hiểu không?
Nếu ông được đề nghị đoán trước, ông sẽ nói rằng chàng trai Drago sẽ ngồi suốt lúc nghe giảng giải, mắt nhìn xuống, cắn cắn lớp biểu bì quanh móng tay, mong ông già chấm dứt cho nhanh và nguyền rủa mẹ đã đưa cậu đến đây. Nhưng sự thể lại chẳng giống thế chút nào. Suốt lúc ông nói, Drago nhìn thẳng vào ông, một nụ cười yếu ớt, không thân thiện nở trên đôi môi rõ nét của cậu.
- OK, - cuối cùng, cậu nói. - Lời nhắn đã được nhận rồi. Cháu sẽ cẩn thận. - Rồi, sau một lát ngừng. - Ông thích mẹ cháu phải không? Ông gật. Ông có thể nói nữa, nhưng lúc này một cái gật là đủ. - Mẹ cháu cũng thích ông.
Marijana cũng thích ông. Trái tim ông căng phồng lên quá cỡ. Tôi không chỉ thích, mà tôi yêu cô ấy! - những lời đó suýt buột ra. - Tôi cố giúp mẹ cậu, thế thôi, - thay vào đó, ông nói. - Vì thế tôi mới nói chuyện với cậu. Tôi không cho là trò chuyện có thể cứu được cậu, mà vì chuyện này, - ông vỗ nhẹ vào bộ hông méo mó, đùa, - có thể xảy ra, cậu không thể đoán trước, không thể ngăn lại. Nhưng nó có thể giúp mẹ cậu. Có thể giúp bà biết rằng cậu biết bà
yêu cậu và muốn cậu an toàn, muốn đến mức nhờ một người lạ là tôi đây nói thêm một lời. OK?
Có những lời mà tự chúng, rồi đằng sau, bên dưới hoặc xung quanh đều có mục đích. Lúc nói, ông nhận thấy cậu trai ngắm môi ông, gạt lời lẽ sang một bên như thể chúng là những sợi tơ nhện, điều chỉnh tầm nghe. Sự tôn trọng của ông với cậu tăng rất nhanh. Chàng trai này chẳng phải tầm thường! Cậu ta ắt phải bị thánh thần ghen tị. Ballad về Drago Jokić! Mẹ cậu lo lắng cũng chẳng có gì lạ. Một cú điện thoại vào lúc sáng sớm: “Bà Jokić phải không? Bà có cậu con trai tên là Drago? Đây là bệnh viện Gumeracha”. Giống một cây kim hoặc một mũi kiếm đâm vào tim. Đứa con đầu lòng của chị.
Marijana trở lại, Drago đứng lên:
- Giờ con phải đi, - cậu nói. - Tạm biệt mẹ. - Cậu cúi xuống từ tầm cao, chạm môi vào trán mẹ. - Tạm biệt ông Rayment. Cháu rất tiếc vì cái xe. - Rồi cậu đi.
- Nó chơi tennis rất cừ, - Marijana nói. - Bơi rất giỏi. Giỏi mọi thứ. Rất thông minh. - Chị mỉm cười mệt mỏi.
- Marijana thân mến của tôi, - ông nói - khi xúc cảm tăng cao, ông tự nhủ, trong lúc xúc cảm tăng cao người ta có thể được tha thứ vì lỡ lầm trong những thuật ngữ kỳ quặc biểu thị sự thương mến - Tôi chắc cháu nó sẽ ổn thôi. Tôi tin chắc nó sẽ có cuộc sống dài lâu, hạnh phúc và trở thành một đô đốc hải quân, nếu nó muốn thế.
- Ông nghĩ thế sao? - Nụ cười không tắt trên môi chị, nhưng lúc này hiển hiện một niềm vui thuần khiết: Bất chấp thực tế là đôi bàn tay ông vô dụng và là một người què, chị tin rằng ông có khả năng đoán trước tương lai. - Thế thì hay quá.
MƯỜI MỘT
N
ụ cười của Marijana cứ vương vấn trong trí ông, dẫn đến một sự thay đổi đầy mong mỏi, thôi thúc. Mọi sự buồn rầu, mọi bóng mây u ám tan ngay lập tức. Ông là người thuê Marijana, là ông chủ của chị, là người trả tiền để chị làm việc, nhưng hằng ngày trước khi chị đến, ông rối rít quanh nhà, cố hết sức cho mọi thứ gọn gàng ngăn nắp. Ông còn mua cả hoa, làm căn phòng buồn tẻ sáng bừng.
Tình trạng thật buồn cười. Ông muốn gì ở người đàn bà này? Chắc chắn là ông muốn chị cười lần nữa, cười với ông. Ông muốn giành được một chỗ trong trái tim chị, dù bé nhỏ. Ông có muốn thành người tình của chị không? Có, ông muốn, trong một cảm xúc nhiệt thành. Ông muốn yêu, muốn thương mến chị và các con chị, Drago, Ljuba và đứa thứ ba, đứa mà ông chưa nhìn thấy. Còn với chồng chị, ông thề là chưa hề thoáng có ý định thâm hiểm. Ông mong chồng chị mọi điều hạnh phúc và may mắn. Dù sao chăng nữa, ông sẽ cho hết mọi thứ để được làm cha những đứa con xinh đẹp, tuyệt vời ấy và làm chồng Marijana, cùng làm cha, cùng làm chồng nếu cần thế, hoàn toàn thuần khiết, hoàn toàn trên lý thuyết nếu cần. Ông muốn chăm sóc họ, tất cả bọn họ, che chở và cứu rỗi họ.
Cứu rỗi họ khỏi cái gì? Ông không thể nói, vẫn chưa nói. Nhưng ông muốn cứu Drago hơn hết thảy. Ông sẵn sàng đứng giữa Drago và tiếng sét ghen tị của thánh thần, giơ bộ ngực của chính mình ra hứng chịu.
Ông giống như một người đàn bà chưa bao giờ sinh hạ một đứa con, đã quá già để làm việc ấy, nay đột nhiên có ham muốn mãnh liệt và cấp bách được làm mẹ. Thèm muốn đến mức có thể ăn trộm con người khác, thèm muốn đến điên rồ.
MƯỜI HAI
D
ạo này Drago ra sao? - ông hỏi Marijana, cố thản nhiên hết mức.
Chị nhún vai chán nản.
- Kỳ nghỉ cuối tuần này nó sẽ cùng các bạn đến bãi biển Tunkalooloo. Ông nói cái tên ấy thế nào nhỉ - Tunkalooloo? - Tunkalilla.
- Chúng đi bằng xe máy. Toàn lũ bạn rồ dại, những đứa con trai liều mạng. Tôi hoảng lắm. Y như một băng cướp. Bọn con gái cũng thế, ông không thể tin nổi chúng trẻ như thế nào. Tôi mừng vì tuần trước ông đã nói chuyện với nó.
- Có gì đâu. Chỉ là mấy lời như người cha thôi.
- Vâng, nhà tôi không có được những lời dạy bảo như ông nói, đấy là cái khó của anh ấy.
Đây là lần đầu tiên chị lên tiếng phê phán người chồng vắng mặt. Paul đợi thêm, nhưng không có gì nữa.
- Đây không phải là đất nước dễ chịu cho một thanh niên sinh sống, - ông thận trọng đáp. - Một xu hướng mạnh mẽ lan tràn. Nhiều sức ép lên một chàng trai nổi bật có nhiều thành tích của đàn ông, những môn thể thao mang tính đàn ông. Phải là một người liều lĩnh. Mạo hiểm. Chắc chắn là khác hẳn với đất nước cũ của chị.
Đất nước cũ của chị. Bây giờ ông thấy những lời đó có vẻ hạ cố. Vì sao thanh niên ở đây không giống nơi quê hương nhà Jokić? Ông biết gì về các loại đức tính đàn ông ở Đông-Nam châu Âu? Ông đợi Marijana nói là ông đúng. Nhưng đầu óc chị đang ở tận đâu đâu.
- Ông nghĩ sao về trường nội trú, ông Rayment?
- Tôi nghĩ sao ư? Tôi cho là trường nội trú rất đắt. Tôi cũng cho là một sai lầm, sai lầm tệ hại khi tin rằng trong trường nội trú bọn trẻ được canh chừng cả ngày lẫn đêm, yên trí chúng không bị tổn hại. Nhưng ở trường nội trú cũng có thể được giáo dục tốt, hoặc trong các trường nội trú tốt hơn, đó là điều chắc chắn. Chị định cho Drago vào đấy à? Chị đã kiểm tra lệ phí chưa? Chị nên làm điều ấy trước tiên. Lệ phí có thể cao, cao đến vô lý, thực tế là cao vô cùng.
Ông cố nén không nói: Cao đến mức loại ngay những đứa con có cha lắp ráp ô tô kiếm sống. Hoặc có mẹ làm việc chăm sóc người già.
- Nhưng nếu chị nghĩ đến việc này một cách nghiêm túc, - ông dấn tới, dù trong lúc nói ông cảm thấy điều mình nói là khinh suất, nhưng ông không thể ngừng lại. - và nếu Drago thực lòng muốn vào trường nội trú, tôi có thể giúp đỡ về tài chính. Chúng ta cứ coi là một khoản cho vay.
Im lặng trong giây lát. Thế là đã nói ra rồi, ông nghĩ. Không còn lùi được nữa.
- Chúng tôi đang mong cháu nó có thể được học bổng, cả môn tennis và mọi thứ khác nữa, - Marijana nói, có lẽ chị chưa thấu hiểu lời ông và ẩn ý sau đó.
- Phải, chắc là có khả năng được học bổng, chị cứ xem xét cho kỹ.
- Hoặc chúng tôi có thể đi vay, - Dường như lúc này lời ông nói mới vang đến tai chị, lông mày chị cau lại. - Ông có thể cho chúng tôi vay được chứ, ông Rayment?
- Tôi có thể cho anh chị vay. Không lấy lãi. Bao giờ Drago kiếm được tiền, các vị sẽ trả.
- Sao lại thế?
- Đây là một khoản đầu tư cho tương lai của nó. Cho tương lai của tất cả chúng ta.
Chị lắc đầu.
- Sao lại thế? - chị nhắc lại. - Tôi không hiểu. Hôm nay là một trong những ngày chị đưa Ljuba đi cùng. Mặc tạp dề màu đỏ, hai chân duỗi dài trên sofa, một chân đi tất đỏ, một chân đi tất màu tía, cánh tay buông thõng bên sườn, nếu không có cặp mắt đen láy tinh nhanh người ta có thể nhầm cô bé là một con búp bê.
- Chắc chị phải biết chứ, Marijana, - ông thì thào. Miệng ông khô khốc, tim ông đập thình thịch, ông sợ hãi và hồi hộp như lúc mười sáu tuổi. - Phụ nữ bao giờ cũng biết.
Chị lại lắc đầu lần nữa. Hình như chị thực sự bối rối. - Tôi không hiểu mà.
- Tôi sẽ nói riêng với chị.
Chị nói thầm với con bé. Ljuba ngoan ngoãn cầm cái ba lô màu hồng xinh xắn của nó và lon ton đi vào bếp.
- Thế, - Marijana nói. - Giờ thì ông nói đi.
- Tôi yêu em. Thế thôi. Tôi yêu em và muốn tặng em chút gì đó. Em cứ mặc tôi.
Hồi ông còn bé, trong những cuốn sách mẹ ông đặt từ Paris đóng trong hộp các tông màu nâu có dấu Hiệu sách Hachette và một hàng tem in hình Marianne nghiêm nghị đội mũ Phrygia [9], những cuốn sách làm mẹ ông thở dài trong phòng khách ở Ballarat, các cánh cửa chớp khép chặt để chống nóng hoặc chống lạnh. Cậu bé Paul đọc thầm theo mẹ, bỏ cách quãng những từ không hiểu và mầy mò mãi xem nghĩa là gì làm mẹ cậu hài lòng đến thế, chắc sẽ viết rằng môi Marijana cong lên khinh thị, có khi môi còn cong lên trong lúc mắt lấp lánh vì hân hoan thầm kín. Nhưng khi đã hết tuổi thơ, ông không còn tin vào thế giới của Hachette nữa. Nếu từng có - ông ngờ
điều này lắm - một quy tắc về các vẻ mà khi hiểu thấu rồi, người ta có thể đọc được những chuyển động thoáng qua của môi và mắt người, thì nay nó cũng cuốn theo chiều gió rồi.
Sự im lặng bao trùm, và Marijana không làm gì để phá vỡ. Nhưng ít nhất chị cũng không quay gót. Dù chị có cong môi lên hay không, hình như chị sẵn sàng nghe lời tuyên bố khác thường và không đúng quy tắc này.
Lẽ tất nhiên, việc ông nên làm là ôm lấy người đàn bà này. Ngực áp ngực để chị không hiểu lầm ông. Nhưng muốn ôm lấy chị, ông phải gạt cái nạng ngớ ngẩn sang một bên mới đứng dậy được; và nếu làm thế, ông sẽ lảo đảo, có khi ngã. Lần đầu tiên ông hiểu rõ cảm giác của cái chân giả, cái chân có cơ chế khóa chặt đầu gối, làm cánh tay tự do.
Marijana khua khua bàn tay như đang lau kính cửa sổ hoặc quất cái khăn rửa bát.
- Ông muốn trả tiền cho Drago vào trường nội trú? - chị nói và tình trạng mê mụ như vỡ ra.
Đấy có phải là điều ông muốn: Trả tiền cho Drago vào trường? Phải. Ông muốn Drago được học hành đến nơi đến chốn, rồi sau đó, nếu cậu còn ôm ấp hoài bão, nếu biển là niềm say mê thực sự của trái tim, cậu có đủ điều kiện để trở thành một sĩ quan hải quân. Ông cũng muốn Ljuba và chị nó được lớn lên sung sướng, có mơ ước riêng. Hơn hết thảy, ông muốn mở rộng sự che chở nhân từ của mình. Ông muốn được yêu thương người đàn bà, người mẹ tuyệt vời này. Tất cả là thế. Vì nó, ông sẽ trả mọi giá.
- Phải, - ông nói. - Đấy chính là điều tôi muốn nói. Chị bắt gặp cái nhìn chăm chú, thẳng thắn của ông. Dù ông không dám thề, song ông tin là chị đỏ mặt. Rồi chị nhanh chóng rời khỏi phòng. Một lát sau, chị quay lại. Chị đã bỏ chiếc khăn trùm màu đỏ, tóc chị lay động mềm mại. Một tay chị dắt Ljuba, tay kia cầm cái ba lô màu hồng. Chị
nói thầm vào tai con. Đứa trẻ, ngón tay cái ngậm trong miệng, quay ra nhìn ông tò mò.
- Mẹ con tôi phải về, - Marijana nói. - Cảm ơn ông. - Hai mẹ con biến trong chớp mắt.
Ông đã làm việc đó. Ông, một ông già có những ngón tay nổi u, đã thú nhận tình yêu của mình. Nhưng ông có dám hy vọng vào người đàn bà này, người ông không hề đắn đo suy tính trước, không hề lưỡng lự chôn vùi mọi hy vọng, liệu chị có đáp lại tình yêu của ông không?
MƯỜI BA
N
gày hôm sau Marijana không đến. Ngày thứ Sáu chị cũng không đến. Sự u ám ông tưởng đã tan vĩnh viễn, nay trở lại. Ông gọi điện đến nhà Jokić, nghe một giọng nữ nhưng không phải Marijana (tiếng ai? của cô con gái kia chăng?) trên máy trả lời tự động.
- Paul Rayment đây, gọi cho Marijana - ông nói.
- Có thể cho tôi nói chuyện với chị ấy được không?
Không có tín hiệu.
Ông ngồi xuống viết một bức thư. Marijana thân mến, ông viết, tôi e rằng chị đã hiểu lầm tôi. Ông xóa chữ tôi và viết ý tôi. Nhưng chị có thể hiểu lầm ý gì? Ông viết, bắt đầu một câu mới Khi gặp chị lần đầu, tôi đang trong tình trạng tan vỡ. Câu này không đúng. Đầu gối và triển vọng của ông vỡ tan chứ không phải là tình trạng của ông. Nếu ông biết có từ miêu tả tình trạng của mình khi gặp Marijana, ông cũng sẽ biết ý nghĩa của nó, vì là hôm nay. Ông xóa chữ tan vỡ. Nhưng thay bằng chữ nào đây?
Trong lúc ông đang xao động thì chuông cửa reo. Tim ông nảy lên. Sau tất cả, chả lẽ một từ rắc rối, một lá thư phiền hà lại hóa ra vô ích sao?
- Ông Rayment? - có tiếng nói trong điện thoại ở lối vào. - Elizabeth Costello đây. Tôi có thể nói chuyện với ông được không? Elizabeth Costello, bà ta có là ai đi nữa cũng đang ung dung trèo lên cầu thang rồi. Lúc đến cửa bà thở hổn hển: Ông sẽ miêu tả bà là một phụ nữ trạc sáu mươi, (sau này mới biết bà đã ngoài sáu mươi), mặc bộ váy lụa sặc sỡ, cắt thấp ở đằng sau để lộ một phần vai đầy tàn nhang chẳng mấy hấp dẫn.
- Tim tôi yếu, - bà ta vừa nói vừa thở hổn hển. - cũng rách việc gần bằng (bà dừng lại để thở) một cái chân tồi.
Nhận xét có vẻ không thích hợp và bất lịch sự của một người lạ làm ông sửng sốt.
Ông mời bà ta vào và mời ngồi. Bà nhận một cốc nước. - Tôi sắp nói tôi từ Thư viện Quốc gia đến, - bà nói. - Tôi sắp giới thiệu tôi là một trong những người tình nguyện của Thư viện, đến vì mục đích sử dụng vật quyên góp của ông về mặt vật chất, tôi định nói về mặt kích cỡ để chúng tôi có thể lên kế hoạch. Sau rồi mới biết thực ra tôi là ai.
- Bà không phải là người của Thư viện?
- Không. Đấy chỉ là chuyện bịa.
- Vậy bà là...?
Bà ta liếc nhìn khắp phòng khách, có vẻ ưng.
- Tên tôi là Elizabeth Costello, - bà nói. - như tôi đã nói. - Chà, vậy bà chính là Elizabeth Costello ấy ư? Tôi xin lỗi, tôi không ngờ. Xin bà tha lỗi.
- Không cần đâu. - Lún sâu trong chiếc sofa, bà ta vùng vẫy đôi chân. - Chúng ta vào việc nhé? Đây không phải là việc tôi làm trước đây, ông Rayment ạ. Ông đưa tay cho tôi được không?
Ngay lập tức, Paul cảm thấy bối rối. Đưa tay ông cho bà ta? Bà duỗi bàn tay phải và ông nắm lấy. Bàn tay đàn bà đầy đặn và khá mát mẻ nằm yên trong tay ông giây lát, và ông bực mình vì tay ông xanh xám do không hoạt động quá lâu.
- Thế đấy, - bà nói. - Ông thấy không, tôi là kẻ khá đáng ngờ đấy. - Và thấy ông lúng túng. - Ý tôi là muốn tự thăm dò xem ông thuộc loại người nào. Tôi muốn biết chắc chắn, - bà tiếp, và lúc này ông thực sự không hiểu bà. - là thân thể chúng ta sẽ không trải qua cùng nhau. Đương nhiên là vô tội rồi. Chẳng ai trong chúng ta là hồn ma, tại sao tôi không nghĩ thế chứ? Chúng ta sẽ làm nhé?
Bà lại nặng nề ngồi xuống, kênh ngang vai lên và bắt đầu đọc thuộc lòng: “Tai họa vồ lấy ông từ bên phải, đột ngột, bất ngờ và đau đớn như một tia chớp điện, nhấc bổng ông khỏi chiếc xe đạp. Bình tĩnh nào! ông tự nhủ lúc bay trong không khí, và vân vân”.
Bà ngừng lại và dò xét gương mặt ông, như đo ảnh hưởng của bà.
- Ông có biết lần đầu tiên nghe thấy những lời này, tôi tự hỏi điều gì không, ông Rayment? Tôi tự hỏi, Sao mình lại cần người đàn ông này? Sao không để ông ta yên, thanh thản lao xuống trên chiếc xe đạp, quên hẳn Wayne Bright hay Blight, chúng ta cứ gọi là Blight, rồ lên từ đằng sau hại đời ông ta và làm ông ta ngã nhào, đầu tiên là nằm viện rồi sau đó trở lại trong căn hộ này với những bậc thang bất tiện? Paul Rayment là ai với mình?
Cái người đàn bà lỗ mãng này là ai mà mình phải mời vào nhà? Mình xua bà ta đi bằng cách nào bây giờ?
- Trả lời câu hỏi của bà như thế nào nhỉ? - ông thận trọng nhắc lại. - Tôi là ai với bà?
- Ông đã đến với tôi, - bà ta nói. - Trong một số mặt nhất định, tôi không kiềm chế nổi những thứ đến với mình. Ông đến cùng với vẻ tái nhợt, tư thế lom khom trên đôi nạng, với bộ sưu tập ảnh phong phú và nhiều thứ khác nữa. Cùng với anh chàng tị nạn Miroslav Jokić người Croatia, phải, Miroslav chính là tên anh ta, bạn bè đều gọi là Mel, và bắt đầu gắn bó với vợ anh ta.
- Đấy không phải là mới bắt đầu.
- Đúng thế chứ. Với một người ông thổ lộ mọi cảm xúc thay vì giữ kín trong lòng, dù ông không có ý định và ông biết ông không có ý định xem kết quả sẽ ra sao. Hãy nghĩ cho kỹ đi, Paul. Ông có ý định nghiêm túc khi rủ rê người làm thuê của mình bỏ gia đình và chung sống với ông không? Ông có nghĩ sẽ mang lại hạnh phúc cho cô ta
không? Con cái cô ta sẽ giận và hoang mang, chúng sẽ không nói chuyện với cô ấy nữa; cô ấy sẽ nằm suốt ngày trên giường ông, khóc nức nở và không thể nguôi. Ông có thích như thế không? Hay là ông có những dự định khác? Hay ông xếp đặt cho Mel đi lướt sóng rồi mất tích, để vợ con lại cho ông?
Trở lại câu hỏi đầu tiên của tôi. Ông là ai hở ông Paul Rayment, và khuynh hướng thiên về tình cảm say đắm của ông có gì đặc biệt? Ông có cho mình là người đàn ông duy nhất trong tuổi xế chiều, có thể nói tận cuối buổi rồi mà vẫn chưa hề tìm thấy một tình yêu đích thực? Ông Rayment ạ, những câu chuyện rẻ tiền như thế này rất dễ kiếm. Ông sẽ biến mình thành một vụ nổi đình đám đây.
Elizabeth Costello: ông chợt nhớ ra bà ta là ai. Trước kia ông đã cố đọc tác phẩm của bà, một cuốn tiểu thuyết, nhưng đành bỏ dở vì ông thấy không hấp dẫn. Thỉnh thoảng bắt gặp những bài viết của bà về sinh thái học và quyền lợi của động vật trên báo, ông thường bỏ qua vì chẳng mấy quan tâm. Có thời bà ta nổi tiếng vì chuyện này chuyện kia nhưng hình như tất cả đã qua rồi, hay có thể đấy chỉ là cuộc tấn công ồ ạt của phương tiện truyền thông. Tóc hoa râm, mặt xám xịt và như bà ta nói, tim yếu. Bà ta đang thở dốc. Bà ta đang ở đây, thuyết giảng cho ông, bảo ông phải sống ra sao!
- Bà muốn tôi làm cho vụ này thành cái gì? - ông nói. - Chuyện của tôi đáng để bà quan tâm thế ư?
- Tôi nên hiểu thế nào đây? Ông nghĩ một cái gì đi chứ! Mụ đàn bà ngu xuẩn! Ông những muốn tống cổ bà ta đi. - Cố lên nào! - bà ta giục.
Cố? Cố cái gì? Cố lên nào! chỉ nên nói câu ấy với một người đàn bà đang đau đẻ.
- Xé toang cái màn chí tử, - bà ta nói. - đường phố Magill chính là cánh cổng dẫn đến cái chết: Ông cảm thấy ra sao lúc ông bay trong