🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ngược Dòng Thời Gian - Nguyễn Tiến Hùng Ebooks Nhóm Zalo Cuốn sách Ngược dòng thời gian được viết nhằm hai mục đích 1. Tri ân cha, mẹ, anh trai và các thầy, cô giáo đã hết lòng thương yêu, chăm sóc, dạy dỗ tôi từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành. Nhờ công ơn trời biển trên, tôi đã có đủ trí tuệ, nghị lực, và sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ trong một thời gian dài đầy thăng trầm suốt 80 năm của cuộc đời, và đã làm được một số công việc có ích cho quê hương, đất nước. 2. Biểu thị sự ngưỡng mộ của cá nhân tôi, nhân dịp kỷ niệm ngày Nhà Giáo Việt Nam năm 2022, đến tất cả các thầy, cô giáo trên khắp mọi miền của tổ quốc, và xin kính gửi đến các thầy, cô giáo những lời chúc mừng tốt đẹp nhất của một đồng nghiệp. Quý thầy, cô là những tấm gương sáng về đức độ, là những người đang ngày đêm âm thầm, miệt mài làm một công việc tưởng đơn giản nhưng vô cùng phức tạp, dồn hết tất cả tâm tư, tình cảm của chính mình để làm sao có thể dạy dỗ các em thanh, thiếu niên khôn lớn, trưởng thành, làm sao cho đến lúc chính thức bước vào đời, các em đạt được thật trọn vẹn ba chữ T (có tâm thật sáng, có tầm nhìn thật xa, và có trình độ khoa học kỹ thuật thật tiên tiến), với đầy đủ phẩm chất đạo đức, trí tuệ, nghị lực, và sức mạnh để bảo vệ tổ quốc, và xây dựng đất nước ngày một phồn vinh. Thầy giáo Nguyễn Tiến Hùng đang nghỉ dưỡng tại Vũng Tàu Thầy giáo Nguyễn Tiến Hùng đang ngồi làm việc tại tư thất ở thành phố Hồ Chí Minh (Hình chụp tháng 2 năm 2022) Lời giới thiệu từ một đồng nghiệp T ác giả cuốn “Ngược dòng thời gian” là Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hùng, nguyên giảng viên tiếng Anh trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Cuốn sách gồm sáu câu chuyện “đầy ắp những kỷ niệm” của tác giả với những người thân yêu ở quê hương – những lớp người xưa và những lớp “người trẻ”! (vì họ đều đã trên 80 tuổi). Thông qua sáu câu chuyện hiện lên “những hình ảnh sống động về những năm tháng trong cuộc đời của tác giả, gia đình và bạn bè. Tác giả xuất thân từ một gia đình nhà giáo Hà nội gốc, thân phụ ông là một nhà giáo lão thành bắt đầu cuộc đời dạy học từ chức danh hiệu trưởng Trường tiểu học Phúc Xá trên dưới 20 năm, sau đấy tiếp tục nhiệm vụ trọng đại này tại Trường tiểu Hoàng Mai xấp xỉ ngần ấy năm và ở đâu thầy cũng được dân làng kính trọng. Bản thân Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hùng ngay sau khi tốt nghiệp đại học đã theo tiếng gọi của Tổ quốc gia nhập quân ngũ, phục vụ tại chiến trường miền Nam cho tới ngày thống nhất đất nước. Lúc này ông xin ra quân để được tiếp tục nghề truyền thống nhà giáo của gia đình. Ông đã phấn đấu vượt qua rất nhiều khó khăn của cuộc sống mới, kiên cường vượt qua mọi bệnh tật – hậu quả của những năm hoạt động tại chiến trường miền Nam. Xin trân trọng giới thiệu cuốn “Ngược dòng thời gian”, một cuốn sách giúp bạn đọc hiểu được quá trình rèn luyện trong suốt một chặng đường dài trải qua bao thăng trầm của lịch sử nước nhà, phấn đấu từ một chàng trai Hà Nội năm xưa trở thành một nhà giáo có uy tín, tiếp tục tự học và học để vươn lên bảo vệ thành công luận án tiến sĩ ngôn ngữ tại Liên Xô. gậggạ Phó Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn NgọcHùng Lời giới thiệu từ một bạn thân T ác giả cuốn “Ngược dòng thời gian” chính là một người bạn thân của tôi trong suốt bốn năm cùng học lớp Anh văn 4 (niên khóa 1961 – 1965) tại Ban Anh văn, Khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Đọc xong 6 câu chuyện được kể trong cuốn sách của bạn Tiến Hùng, tôi thấy thích vì tôi hiểu được tâm tư của bạn, từ câu chuyện vô cùng cảm động về người cha, người thầy giáo thuộc thế hệ đầu tiên của đất nước Việt Nam được chính phủ Pháp bảo hộ công nhận được phép hành nghề thầy giáo trong khuôn khổ hệ thống giáo dục của chính phủ Pháp từ năm 1918, một người thầy giáo xưa vô cùng mẫu mực, có đức, có tài, đầy tâm huyết, tận tụy trong suốt hơn 40 năm của cuộc đời trong nghiệp thầy để dạy dỗ hết lớp học trò này đến lớp học trò khác nên người hữu dụng cho quê hương, đất nước…, đến câu chuyện về người mẹ của bạn, một bà mẹ cả đời hy sinh để tần tảo vừa nuôi chồng con, vừa báo hiếu cha mẹ và chăm sóc đàn em còn thơ dại chưa được trưởng thành. Tôi suy nghĩ và quá khâm phục cuộc đời của mẹ bạn. Có một cái gì sao giống bài hát Chị tôi của nhạc sĩ Trần Tiến quá! Biết bao chàng trai lịch lãm đến xin cưới hỏi, nhưng mẹ bạn từ chối, không chịu đi lấy chồng vì thương mẹ già cơ cực và vì các em trai, gái còn thơ dại, chưa đủ khôn lớn để ra đối đáp với đời…Nhưng sự khác biệt giữa bài hát Chị tôi và cuộc đời thực của mẹ bạn là ở chỗ từ chỗ bằng mọi giá từ chối, không chịu đi lấy chồng để tập trung lo chuyện nhà, đến chỗ gần tuổi 30, tuổi của một “cô gái đã luống thì”, mẹ mới chịu nghe theo lời khuyên của mẹ già, các anh chị em và bạn bè bước lên xe hoa, và rồi tiếp theo lại còn phải đèo bồng thêm cho đủ “hai gánh nặng trĩu” trên vai, và phải mang vác những gánh nặng đó trong suốt cuộc đời “quá gian nan, vất vả” của mẹ. Tiếp theo là chuyện bệnh tật kéo dài liên miên của bạn tôi, nhưng tôi thấy thích vì bạn Tiến Hùng lúc nào cũng lạc quan chữa bệnh, bằng mọi giá phải vươn lên để hoàn thành nhiệm vụ, làm tốt công việc của một thầy giáo ở một trường đại học nổi tiếng tại thành phố Hồ Chí Minh, một công việc trông bề ngoài có vẻ bình thường, nhưng thực ra bạn đã gặp muôn vàn khó khăn, và gian khổ, rồi cũng lại như những năm xưa đã từng làm tốt trong cuộc chiến, người bạn thân Nguyễn Tiến Hùng của chúng tôi vẫn lại luôn luôn làm tốt nhiệm vụ của mình. Nhưng ấn tượng sâu đậm nhất, vượt trội lên tất cả trong toàn bộ suy tư của tôi, chính là tình cảm bạn bè vô cùng tuyệt vời của hai người bạn rất thân của tôi là Nguyễn Hùng Trí và Nguyễn Tiến Hùng (nhà hai bạn ở Hà Nội chỉ cách nhau một con phố: phố Bà Triệu và phố Bùi Thị Xuân), một mối tình bạn thắm thiết, được trải rộng trên mọi khía cạnh của cuộc sống, được kiểm nghiệm khắt khe thông qua bao thăng trầm của lịch sử, từ thời còn vô tư ngồi trên ghế nhà trường đại học, đến thời binh đao khói lửa, cả hai bạn cùng đi bộ đội, rồi ngay sau đó cả hai lại cùng nhau được vào chiến đấu ở chiến trường Nam bộ (B2) trong hàng chục năm trời, và chính ở trong những vùng chiến sự ác liệt nhất, nóng bỏng nhất của cuộc chiến tranh, tính mạng con người luôn ngàn cân treo trên sợi tóc, tình bạn thân thiết của Hùng Trí và Tiến Hùng lại vượt lên trên tất cả mọi thứ trên đời, đâm hoa kết trái vô cùng tươi đẹp, hiếm có thể tìm thấy được một tình bạn hiện hữu đẹp đến như vậy trên chốn nhân gian này! Tôi nhận thấy 6 câu chuyện trong cuốn sách rất phong phú, sống động thuộc thời xưa, trong chiến tranh cũng như hòa bình, là những tâm tình rất chân thực của người bạn thân của tôi, của chính tác giả Nguyễn Tiến Hùng, về gia đình, bản thân và bạn bè. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc ấn phẩm mới của một người bạn thân, thầy giáo Nguyễn Tiến Hùng. Lê Thụy Ánh Nguyên Giảng viên Bộ môn Anh văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội Lời nói đầu T ôi muốn viết một cuốn sách mang đậm những kỷ niệm của mình trong thuở thiếu thời. Trong trái tim của chúng tôi lúc nào cũng có một góc kỷ niệm để dành tình yêu của riêng mình cho gia đình và thành phố quê hương. Trong toàn bộ sáu câu chuyện được trình bày trong cuốn sách, rải rác lúc ở câu chuyện này, lúc ở câu chuyện kia, bạn đọc đều có thể tìm thấy những tình tiết gắn bó chặt chẽ với từng thời điểm của đời tôi. Ba câu chuyện đầu tiên (1, 2 và 3) kể về cha, mẹ, anh cả tôi, những người thân yêu nhất trong gia đình đã có một tầm ảnh hưởng vô cùng lớn lao trong quá trình tôi khôn lớn và trưởng thành. Đây chính là một cơ sở vững chắc kết hợp với những năm tháng được giáo dục nghiêm túc của các trường từ phổ thông đến đại học đã tạo dựng nên nhân cách của con người tôi. Ba câu chuyện tiếp theo (4, 5 và 6) kể tỷ mỉ về những gì tôi đã được trải nghiệm trong suốt 57 năm đầy thăng, trầm của đời người, ngay sau khi tốt nghiệp đại học, chính thức bước vào cuộc đời kể từ ngày 29 tháng 4 năm năm 1965. Đây là cuốn sách cuối cùng trong chùm tác phẩm của tôi được viết theo thể loại hồi ký, gồm ba cuốn: Ký Ức Hai Góc Đối Chiến; Người Lính Nghiệp Thầy; và Ngược Dòng Thời Gian. Tôi xin thành thật cảm ơn bạn bè và người thân như Phó giáo sư, Tiến sĩ Hà Công Tài, Thạc sĩ ngôn ngữ Bích Thư, Nhà báo Nguyễn Thị Kim Điệp, Nhà báo, Phóng viên Thông tấn xã Việt Nam Nguyễn Quỳnh Vân đã đọc và viết những cảm nhận của mình sau khi đọc bản thảo cuốn sách, đặc biệt đến: 1) Phó giáo sư, Tiến sĩ Khoa học, Nhà giáo ưu tú Nguyễn Ngọc Hùng, nguyên Phó Hiệu Trưởng Trường Đại Học Ngoại ngữ Hà Nội (nay là Trường Đại Học Hà Nội) 2) Cô giáo Lê Thụy Ánh, nguyên Giảng viên Bộ môn Anh văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã góp nhiều ý kiến phản biện tích cực để tôi có thể hoàn thiện tập bản thảo, và đã nhận viết lời giới thiệu cuốn sách Ngược dòng thời gian này. Cuối cùng, tôi muốn dành lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất gửi đến gia đình nhỏ bé vô cùng thân thương của tôi gồm vợ, các con và các cháu, những người hàng ngày động viên không ngừng để tạo cho tôi có niềm vui trong công việc, và kết quả là cuốn sách “Ngược dòng thời gian” được hoàn tất và đã được hân hạnh gửi đến tay bạn đọc ngày hôm nay. Nguyễn Tiến Hùng Câu chuyện số 1 Cha, thầy, bạn Những kỷ niệm trân quý về cha, thầy và bạn T rong gia đình, ba người chủ chốt là cha, mẹ và anh trai cả của tôi đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách, phương pháp nhận thức các mặt tích và tiêu cực trong xã hội. Nhưng tôi phải thừa nhận trong ba người tôi vô cùng kính mến và yêu quý ở trên, cuộc đời và sự nghiệp của cha tôi có một tầm ảnh hưởng cực kỳ lớn lao trong thời tuổi ấu thơ của tôi, đặc biệt trong thời gian tôi theo học bậc tiểu học dưới thời Pháp thuộc (từ năm 1949 đến cuối năm 1954). Trong thời gian này, bất kỳ đi đâu, thăm hỏi bà con, bạn bè ở các nơi cha tôi đã từng đến dạy học nhiều năm như làng Phúc Xá, làng Hoàng Mai, tôi luôn được đi theo cha, thậm chí kể cả những buổi cha tôi lên lớp dạy học ở trường tiểu học Hoàng Mai, tôi cũng đi theo để học “ké”, để được cha kèm cặp thêm. Cha tâm sự vói tôi nhiều điều thú vị, kể tôi nghe nhiều chuyện rất cảm động về hoàn cảnh thiếu thốn của gia đình trong thời niên thiếu, về những cố gắng hết sức mình của ông bà nội trong thời gian phải gồng mình từng bữa để nuôi dưỡng sáu người con (bốn trai, hai gái) trưởng thành, đặc biệt những kỳ vọng của ông nội về kết quả học tập của người con trai thứ tư là cha tôi. Nghe chuyện cha hồi nhỏ, nhiều lúc tôi tự nhủ thầm số anh chị em chúng tôi sung sướng hơn cha nhiều lắm. Cha tôi kể ba người anh trai của cha tôi học không được,ông nội tôi phải cho ba bác chuyển sang tay ngang, đi học nghề tài xế lái xe vận tải. Bác Cả tôi lập gia đình và hành nghề lái xe thuê ở Hà Nội. Do bác cả gái không có con trai (con gái bác cả gái làm ăn rất phát đạt, đặc biệt là chị Thành (tức chị cả Tế, nhà ở phố Hàng Đào) và chị Cả Tước (nhà ở phố Hàng Đường). Lấy bác hai gái, bác Cả tôi sinh hạ được con trai, đặt tên là anh Thuận (chúng tôi gọi là anh Cả Thuận). Bác Hai tôi lang bạt vào lái xe thuê và sinh sống ở Sài Gòn. Sau này không còn việc, bỏ cả vợ con ở trong Nam bộ (trong đó, sau khi hòa bình lại, khoảng đầu tháng 5 năm 1975, tôi có được gặp một chị sống ở Cát Lái, ngoại vi Sài Gòn, còn một chị khác sống ở Đà Lạt, bác Hai quay trở về Hà Nội, mong được cuối đời sống với hai anh con trai, nhưng cũng không dược toại nguyện vì anh con trai cả tên là Du, đi lính cho chính phủ Pháp – Bảo Đại bị chết trong trận Na Sản, còn người con trai thứ hai là anh Phổ đi lính vệ quốc đoàn của cụ Hồ. Sau khi tiếp quản thủ đô, anh Phổ cùng vợ con về sinh sống hình như ở khu vực Lương Yên. Riêng bác Hai, cha tôi giúp cất tặng bác một căn nhà ở trong làng. Bác Hai ở căn nhà này cho đến lúc bác về với Trời, Phật. Các chị con gái khác của bác Hai tôi như chị Phát, chị Trường cũng sống vô cùng vất vả. Bác Ba tôi cũng chuyển sang học nghề tài xế. Học xong, bác lên lái xe thuê ở Tuyên Quang và lập gia đình trên đó. Tôi không biết bác Ba tôi sinh hạ được bao nhiêu các anh, các chị. Nhưng cha tôi kể bác có ba anh con trai, gồm anh Lưu, anh Lãng, và anh Minh. Tôi chưa hề được gặp mặt anh Lưu. Riêng hai anh Lãng và Minh, tôi gặp nhiều lần trước khi tôi đi vào Nam bộ làm việc. Nghe nói các cháu trai và gái (con của hai anh Lãng và Minh) làm ăn thành đạt, chuyên môn giỏi, tôi rất mừng. Ngoài ba người anh trai, cha tôi còn có hai người em gái là cô Nguyễn thị Tần (tức cô Tư Ngọ) và cô Nguyễn Thị Tấn (hình như mọi người gọi cô là cô Hai Đảng) chủ yếu sống với chồng con ở trong làng Hoàng mai, làm nghề trồng rau, củ, qủa v.v..., và hàng sáng các cô cùng con gái gánh rau lên tận Chợ Hôm (gần nhà tôi ở trên phố) bán lẻ. Cô Tần (tức cô Tư Ngọ) tôi được gặp thường xuyên, còn cô Tấn mất sớm, tôi chưa hề được gặp mặt. Riêng về cha tôi, những câu chuyện về thời cha được ông bà nội cho đi học từ những năm đầu tiên của thập kỷ 1910 tôi đều được cha kể cho nghe nhiều lần. Bất kể chuyện gì trong tuổi ấu thơ, nếu tôi không biết, tôi đều hỏi cha và Người luôn giải đáp thật chi tiết từng câu tôi hỏi. Riêng về học ở trường cũng như ở nhà, cha kiểm tra từng bài tập xem tôi làm như thế nào và có thưởng, phạt nghiêm minh. Chỉ riêng về ngoại ngữ, cha trực tiếp dạy tôi tiếng Pháp ngay từ khi tôi bước vào học lớp năm, bậc tiểu học (tức lớp 1 bây giờ). Học hết bậc tiểu học, chuẩn bị lên lớp Đệ Thất, bậc Trung học, trong kỳ nghỉ hè, cha còn mang sách học Toán bằng tiếng Pháp của anh Dũng (anh trai cả trong gia đình) bắt tôi phải tập làm và trả lời bằng tiếng Pháp. Cha tôi có ý định cho tôi thi tuyển vào trường Lycée Albert Sarraut, nhưng chính trong năm học đó không thi tuyển vì chính phủ kháng chiến tiếp quản thủ đô Hà Nội (tháng 10 năm 1954).Sau đó, cha cho tôi thi tuyển vào học trường Trung học Chu Văn An ở Phố Cửa Bắc (sau này trường Chu Văn An mới được chuyển về trường cũ là trường Bưởi ở đầu phố Thụy Khuê, gần chùa Quan Thánh, vì trong chiến tranh, Pháp lấy trường Bưởi làm trại lính). Tôi vô cùng nể phục trình độ tiếng Pháp của cha tôi. Hồi học ở bậc tiểu học, hàng ngày cha tôi dạy tôi tiếng Pháp theo một chương trình riêng, nằm ngoài chương trình học ở nhà trường. Thông thường buổi chiều, lúc rảnh rang, cha tôi thường ra trước cửa gặp gỡ, đàm đạo nhiều lúc cả giờ đồng hồ cùng ông hàng xóm là ông Petite (chồng bác Đức ở 125 Huyền Trân Công chúa – sau này (sau 1955) mới đổi tên là Bùi Thị Xuân), là một viên chức người Pháp. Thấy hai người nói tiếng Pháp “lầu lầu” là tôi đã vô cùng kính nể rồi. Tôi không dám vô lễ so sánh thời xưa với thời nay, nhưng tôi tự hỏi không hiểu có thầy cô giáo nào đang dạy cấp tiểu học nói được ngoại ngữ như tiếng Anh, tiếng Pháp với người bản xứ “làu làu” như cha tôi từ hồi được bổ nhiệm đi dạy tiểu học thời Pháp thuộc từ những năm thập niên 1920 của thế kỷ trước hay không? (cách đây đúng 100 năm). Tôi phải thành thật thú nhận rằng chính trong thời gian sáu năm của thời thơ ấu (1949 - 1954) đã để lại những kỷ niệm rất đẹp, những kỷ niệm đã hằn lên thật sâu đậm không bao giờ phai mờ trong tiềm thức của tôi về cách đối nhân, xử thế với các tầng lớp nhân dân trong xã hội của cha tôi thông qua những việc làm, cách tiếp cận và sự giúp đỡ mọi người không phân biệt giàu, nghèo, sang, hèn của Người ngay trong thế giới nhỏ bé hàng ngày đến dạy học trò tại hai làng Phúc Xá và Hoàng Mai, về phẩm chất đạo đức cao quý của một thầy giáo, một người lúc nào cũng tận tâm, tận lực, tìm mọi cách dạy dỗ các thế hệ học trò thân yêu trở thành những công bộc phục vụ đắc lực cho dân, cho nước. Nếu được Trời, Phật cho phép, từ đáy lòng, tôi kính xin Cha kính yêu cho đứa con trai này được coi Người không những là một người cha, một người thầy giáo, mà còn là một người bạn thân thiết nhất trong đời, và chính NGƯỜI đã giúp con vượt mọi khó khăn trong cuộc đời của con thông qua những trải nghiệm, thử thách đầy ắp những kỷ niệm không thể nào quên trong quá trình 80 năm con khôn lớn và trưởng thành. Cha kính yêu, người đã ảnh hưởng vô cùng lớn lao trong quá trình tôi khôn lớn và trưởng thành, thầy giáo dạy trường Tiểu học Phúc Xá và trường Tiểu học Hoàng Mai Thầy Nguyễn Tiến Duyến (1900 – 1983) Sáng ngày mồng một Tết Tân Sửu (2020), tôi thức dạy từ 5g30. Ngồi suy nghĩ một lúc, tôi quyết định mở máy laptop, khai bút đầu năm mới bằng viết một câu chuyện về người cha yêu quý của tôi, một thầy giáo thuộc thế hệ đầu tiên được nhà nước Pháp bảo hộ thừa nhận đủ tư cách là giáo viên trong hệ thống giáo dục của Pháp từ năm 1918. Đó chính là thầy Nguyễn Tiến Duyến, người thầy giáo đã từng dạy trường tiểu học ở các làng Phúc Xá và Hoàng Mai, thành phố Hà Nội, mỗi trường trên dưới 20 năm. Cha kính yêu của tôi Hoàn cảnh gia đình và con đường học vấn của cha Cha tôi sinh năm 1900 trong một gia đình viên chức nghèo ở Làng Hoàng Mai, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông. Sau chính quyền Pháp bảo hộ đổi huyện Hoàn Long thành đại lý Hoàn Long, thuộc thành phố Hà Nội (hiện nay làng Hoàng Mai trở thành Phường Hoàng Văn Thụ, Quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội). Tuy sống trong gia đình viên chức nghèo, nhưng cha tôi rất chịu khó học, và học rất giỏi, cả làng ai cũng biết. Nghe cha tôi kể khi đi học, cha luôn đứng nhất lớp, năm nào cũng được phần thưởng, ông nội tôi rất quý cha tôi và dồn mọi sức lo cho cha tôi ăn học. Đến năm 18 tuổi, cha đã đậu bằng Thành Chung. Sau đó, cha tôi làm đơn, xin đi dạy học. Đơn xin việc được chấp nhận, cha tôi trở thành giáo viên thuộc thế hệ đầu tiên được chính phủ Pháp bổ nhiệm đi dạy học ở các trường tiểu học nằm trong hệ thống giáo dục của chính phủ bảo hộ Pháp tại Hà Nội. Cha tôi kể rằng thời cha tôi đi học, hệ thống giáo dục phổ thông Pháp-Việt chưa được xây dựng hoàn chỉnh, còn nhiều chỗ chắp vá. Lúc đầu chỉ có bậc Tiểu học, học trong 06 năm, gồm lớp Đồng Ấu (Cours Enfantin) ; lớp Dự Bị (Cours Préparatoire); lớp Sơ Đẳng (Cours Élémentaire); lớp Nhì năm thứ nhất (Cours Moyen 1ère année); lớp Nhì năm thứ hai (Cours Moyen 2è année) ; và lớp Nhất (Cours Supérieur) Trong Hệ Tiểu học, ba lớp đầu được gọi là bậc Sơ Học. Học xong lớp Sơ Đẳng, học sinh phải thi lấy bằng Sơ Học Yếu Lược (Primaire Élémentaire). Những học sinh được tuyển thẳng lên lớp Nhì năm thứ nhất không bắt buộc phải thi Sơ Học Yếu Lược. Học hết lớp Nhất học sinh được thi bằng Tiểu Học Yếu Lược hay Sơ Đẳng Tiểu Học (Certificat d’Études Primaire Franco-Indigène, viết tắt là CEPFI). Sau khi có bằng Sơ Đẳng Tiểu học (CEPFI), nếu muốn được bổ nhiệm làm giáo viên Bậc Sơ Học, học sinh đó bắt buộc phải học thêm một năm lớp Sư phạm (Cours de Pédagogie). Riêng đối với học sinh muốn được dự tuyển học lên lớp trên thuộc bậc Cao Đẳng Tiểu Học, đương nhiên phải có bằng Sơ Đẳng Tiểu Học. Đúng vào năm cha tôi thi đậu bằng Sơ Đẳng Tiểu Học, chính phủ Pháp cho phép tuyển sinh Hệ Đào tạo Cao Đẳng Tiểu Học tại các trường Collège ở thành phố, học trong 4 năm. Cha tôi nộp đơn xin dự tuyển học khóa Cao Đẳng đầu tiên. Kết thúc khóa học, bố tôi thi lấy bằng Cao Đẳng Tiểu Học (Diplôme d’Étude Primaire Supérieurs Franco-Indigène), hay còn gọi tên khác là Bằng Thành Chung. Cha tôi tâm sự, sau khi lấy được Bằng Thành Chung, cha phải đi xin việc làm để giúp đỡ ông bà. Hơn nữa, muốn học thêm cũng không được, vì thời gian đó chưa có chương trình đào tạo Bậc Trung Học, hay còn gọi bậc Tú Tài Pháp-Việt (Enseignement Secondaire). Theo cha tôi, ở Việt nam, bắt đầu khoảng từ năm học 1937- 1938, chương trình giáo dục Pháp-Việt mới được xây dựng hoàn chỉnh trong khung học 13 năm. Nếu cha tôi muốn học tiếp, cha tôi phải xin thi tuyển vào Hệ đào tạo Trung Học, hay còn gọi là Hệ Tú Tài Pháp-Việt, và nếu đỗ, cha tôi phải học thêm ba năm nữa. Thông thường, học xong hai năm đầu, học sinh được phép thi lấy bằng Tú Tài phần thứ nhất (Baccalauréat, 1ère partie). Đậu xong bằng này, học sinh được học tiếp năm thứ ba không phải thi tuyển. Năm thứ ba được chia làm ba ban: Toán, Khoa Học, Triết. Ngoài ban mình học, học sinh được phép thi tốt nghiệp các ban khác nhưng phải tự học thêm những môn mà ở ban mình theo học không có. Học sinh cũng được phép thi bằng Tú Tài Pháp. Học xong năm thứ 3 trung học, học sinh được thi lấy bằng Tú Tài Toàn Phần (Certificat de Fin d’Études Secondaire Franco Indigènes). Cha tôi kể thời gian đó cha tôi đã lập gia đình, có vợ, có con nên không thể nào có thể theo học tiếp được, vì phải đi làm kiếm tiền lo cho gia đình. Dành trọn cuộc đời cho sự nghiệp làm thầy Từ khi bắt đầu được bổ nhiệm làm thầy giáo dạy bậc tiểu học (từ năm 1918), cha tôi đi dạy ở nhiều trường trong phạm vi của Huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông. Sau này (từ tháng 8/1942), Huyện Hoàn Long biến thành nhượng địa của Pháp, gọi là Đại lý đặc biệt Hoàn Long, trực thuộc Thành phố Hà Nội. Mỗi khi kể chuyện về đời đi dạy học, cha thường kể nhiều đến những kỷ niệm về cuộc đời dạy học trong quá trình dạy ở Trường Tiểu Học Phúc Xá khoảng trên dưới hai mươi năm với chức danh Hiệu trưởng kiêm giáo viên (trước 1946) và ở Trường Tiểu Học Hoàng Mai khoảng gần hai mươi năm, với nhiệm vụ Hiệu trưởng kiêm giáo viên từ sau năm 1948. Do cha tôi đã từng dạy học nhiều năm ở hai trường trên nên nhiều thế hệ khác nhau đã từng theo học cha tôi ở làng Phúc Xá và Hoàng Mai quen biết cha tôi, coi cha tôi như người ông, người cha và thường xuyên đến thăm cha tôi. Trường Tiểu Học Phúc Xá Trường Tiểu Học Phúc Xá nằm trên khu bãi bồi của Sông Hồng. Cha tôi kể rằng các bô lão trong làng cho biết ngày xưa làng này tên là làng An Xá, thuộc thành Đại La. Sau vua Lý thái Tổ cho xây thành, buộc dân làng phải di ra bãi đất bồi ở Sông Hồng. Thời vua Lý Thần Tông, vua ra sắc chỉ đổi tên làng An Xá thành làng Cơ Xá. Dân sống ở đây rất cơ cực, đất đai không trồng lúa được, chủ yếu trồng dâu, nuôi tằm. Vì sống quá cơ cực nên sau này người dân xin vua Duy Tân (1911) đổi tên từ làng Cơ Xá thành làng Phúc Xá để mong xóa bỏ được nỗi cơ cực trong cuộc sống, và để cầu Trời khấn Phật ban cho dân được nhiều hồng phúc. Theo Phó giáo sư Tiến sĩ khoa học Nguyễn Ngọc Hùng, nguyên Phó hiệu trưởng trường Đại học Ngoại ngữ Hà nội, một vài nhà Hà Nội học cho rằng khi buộc dân phải di dời ra khu bãi đất bồi ở sông Hồng để nhường đất xây thành Đại La, vua Lý Thái Tổ ban tên làng mới là Cơ Xá với ý nghĩa CƠ là cơ động chứ không phải là CƠ CỰC vì khi nước ở sông Hồng dâng lên, dân làng có thể cơ động biến bất cứ vật gì nổi để thoát lũ. Nghe mấy ông nghiên cứu về Hà Nội học nói vậy thì phải ngồi dựa cột mà nghe vì tôi tuy dân chính gốc Hà Nội từ biết bao đời nay, có bao giờ đi sâu vào khía cạnh nghiên cứu của các ông đâu mà tranh luận. Nhưng suy đi, nghĩ lại, tôi thấy dân sau này xin vua Duy Tân (năm 1911) đổi tên thành làng Phúc Xá nghe hợp lý hơn, ấm cúng hơn vì người dân ở thời nào cũng vậy chỉ mong được nhiều hồng phúc trong cuộc sống mà thôi. Sau ngày hòa bình lập lại, thống nhất đất nước, tôi ở lại thành phố Hố Chí Minh để tiếp tục nghề dạy học của cha tôi ở trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Cho đến nay, tôi đã xa Hà nội 55 năm rồi. Thành phố Hà Nội nay đã thay đổi nhiều. Ranh giới địa chính các làng, xã ven thành phố Hà Nội trước kia không còn nữa. Tôi hỏi nhiều người dân gốc Hà Nội hiện trường Tiểu học Phúc Xá có còn hay không? Và câu trả lời là không biết. Nhiều người cho tôi hay ngày xưa làng Phúc Xá còn có Phúc Xá Hạ, Phúc Xá Nam, Phúc Xá Tây, Phúc Xác Bắc Biên và Phúc Xá Trung Hà. Theo bản đồ Hà Nội hiện nay, Phúc Xá Hạ thuộc quận Ba Đình, Phúc Xá Nam thuộc phường Đống Mác quận Hai Bà Trưng, Phúc Xá Tây là An Dương thuộc quận Tây Hồ, và Phúc Xá Bắc Biên, Phúc Xá Trung Hà thuộc phường Ngọc Thụy. Như vậy theo phân chia địa chính hiện hữu, không còn làng Phúc Xá như trước kháng chiến toàn quốc năm 1946 nữa. Tôi cho rằng chắc hầu hết dân làng Phúc Xá ngày xưa theo học ở trường Tiểu học Phúc Xá là dân ở Phúc Xá Bắc Biên và Phúc Xá Trung Hà, vì tôi còn nhớ nghe được loáng thoáng các câu chuyện các cụ bô lão tâm sự với cha tôi mỗi khi ghé qua nhà tôi chơi, thường nhắc nhiều đến bà con, bè bạn ở làng Ngọc Thụy. Đến nay đường làng ở Phúc Xá Bắc Biên, Phúc Xá Trung Hà đã trở thành đường phố khang trang, có nhiều nhà cao tầng thuộc Phường Ngọc Thụy, Quận Long Biên. Tôi còn được biết tháng 2 năm 2020, theo quyết định của UBND thành phố Hà Nội, Phường Ngọc Thụy, Quận Long Biên đã được sắp xếp, sáp nhập lại còn 26 tổ dân phố. Trên địa bàn phường, hiện có 9 trường học công lập (2 trường trung học cơ sở, 3 trường tiểu học) rất nổi tiếng trong đào tạo học sinh giỏi ở quận cũng như ở thành phố. Tôi rất mong trường tiểu học Phúc Xá ngày xưa khi cha tôi từng dạy nay là một trong những trường kể trên. Ngày 20 tháng 6 năm 2021, trong lúc cả thành phố Hồ Chí Minh đang căng mình chống dịch Covid-19, trên facebook, trong phần dành cho “”Những người bạn yêu Hà Nội”, tình cờ tôi thấy tấm ảnh chụp cổng làng Phúc Xá – Ngọc Thụy của bạn Trong Tan Ngo đăng lên (xin lỗi tôi không biết bạn bao nhiêu tuổi để xưng hô cho phải phép, nhưng tôi mạnh dạn dùng chữ “bạn” vì tôi chắc có lẽ bạn nhỏ tuổi hơn tôi, vì năm nay tôi đã ở ngưỡng cửa của tuổi 80 rồi!). Thấy bức ảnh chụp cổng làng Phúc Xá (mặc dù qua tấm ảnh chụp, cổng làng mới được xây lại khá đồ sộ, nguy nga), tôi mừng quá vì chính cái ngôi làng cha tôi đã từng đến dạy học cả hai chục năm trời từ ngày xửa ngày xưa… đến nay vẫn còn tồn tại. Cơ may làm sao gần đây (sau Tết Nhâm Dần – 2022) tôi còn được biết Phó giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Ngọc Hùng chính là dân gốc làng Cơ Xá - Ngọc Thụy. Vợ chồng PGS TS cho tôi biết ngày xưa cụ Ngô Tuấn (sau được đổi tên mang dòng họ nhà vua là cụ Lý Thường Kiệt) có thời gian sinh sống ở làng Cơ Xá – Ngọc Thụy. Chính Phó giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Ngọc Hùng và một vài thành viên trong dòng họ NGUYỄN NGỌC đã có công đòi lại nơi thờ cụ Lý Thường Kiệt bị xuống cấp để xây lại khang trang thành Cơ Xá Linh Từ (công trình 1000 năm Thăng Long ở số 4 phố Nguyễn Huy Tự, Phường Hai Bà Trưng, Hà Nội). Hiện PGS TSKH Nguyễn Ngọc Hùng là một thành viên trong Ban quản lý đền thờ cụ Ngô Tuấn. Trường tiểu học Hoàng Mai Trường Tiểu Học Hoàng Mai thời Pháp thuộc ở ngay trung tâm làng Hoàng Mai, đối diện với Ủy ban Xã Hoàng Mai, thuộc Quận Hoàn Long, thành phố Hà Nội. Sau khi tiếp quản Hà Nội, nhà nước đổi tên là làng Hoàng Văn Thụ vì trên cánh đồng làng, Pháp đã lập trường bắn để xử bắn lãnh tụ Đảng Cộng Sản Đông Dương là ông Hoàng Văn Thụ (hiện trường đã được đổi tên thành Trường tiểu học Hoàng Văn Thụ, số 19/160 phố Hoàng Mai, Phường Hoàng Văn Thụ, Quận Hoàng Mai, Hà Nội). Ngôi trường tiểu học nằm ngay ở trung tâm của làng Hoàng Mai. Thông thường khi cha tôi đến trường dạy học, tôi thường được cha cho đi cùng, bắt tôi ngồi cuối lớp, để tiện kèm cặp thêm về hai môn toán và văn. Thực ra từ thời cuối vua Lê, làng Hoàng Mai, quê hương của chúng tôi, là một xã thuộc Tổng Hoàng Mai, Huyện Thanh Trì, Phủ Thường Tín, Tỉnh Hà Đông. Từ năm 1915, Huyện Thanh Trì được đổi tên thành Huyện Hoàn Long, Tỉnh Hà Đông.Từ tháng 8/1942, Huyện Hoàn Long được nhập lại vào thành phố Hà nội. Sau tiếp quản thủ đô (tháng 10/1954), làng Hoàng Mai được đổi tên thành Làng Hoàng Văn Thụ. Tháng 10/1990, xã Hoàng Văn Thụ được chuyển thành phường Hoàng Văn Thụ, thuộc quận Hai Bà Trưng. Từ tháng 11/2004 đến nay, phường Hoàng Văn Thụ thuộc quận Hoàng Mai. Tháng 12 năm 1946, toàn quốc kháng chiến, gia đình tôi tản cư về làng Thường Xuyên, Tỉnh Hà Đông. Khoảng cuối năm 1947, cha tôi bị ốm rất nặng.Mẹ tôi phải thuê người cáng cha trên võng, dắt díu cả gia đình tôi (lúc đó có năm anh em chúng tôi gồm ba trai và hai gái) trở lại Hà Nội để chữa bệnh cho cha tôi. Giữa năm 1948, cha tôi khỏi bệnh, tiếp tục xin đi dạy học ở Đại lý Hoàn Long, thành phố Hà Nội. Lần này, chính quyền Pháp bảo hộ bổ nhiệm cha tôi về làm Hiệu trưởng ở ngay chính trường tiểu học của quê chúng tôi là làng Hoàng Mai. Trở về quê nhà dạy học, được gặp lại họ hàng, bà con, cô bác thân quen, cha tôi vô cùng phấn khởi, ngày đêm cùng các thầy, cô giáo khác làm việc hết sức mình để xây dựng nhà trường. Bằng bề dày kinh nghiệm làm hiệu trưởng ở trường tiểu học Phúc Xá gần hai mươi năm, cha tôi cùng đội ngũ thầy, cô giáo đã xây dựng Trường Tiểu Học Hoàng Mai thành một trường học khang trang, mẫu mực, đào tạo được nhiều học sinh giỏi cho thành phố Hà Nội. Nếu tôi nhớ không nhầm, trường của cha tôi đã được bác Tống Từ Ninh, Giám đốc Ty Tiểu học Hà nội (thời Pháp đô hộ) đến thăm và khen ngợi nhiều lần. Những năm từ 1950 đến cuối năm 1954 (năm tiếp quản thủ đô), chương trình giáo dục của chính phủ Pháp bảo hộ có một chút thay đổi về khung chương trình, từ chế độ đào tạo 13 năm xuống còn 12 năm, cụ thể như sau: -Hệ giáo dục tiểu học gồm 5 năm học thay vì trước phải học 6 năm. Cụ thể có các lớp Năm; Tư; Ba; Nhì và Nhất. Học xong lớp Nhất học sinh sẽ dự thi lấy Bằng Tốt Nghiệp Tiểu Học. - Hệ giáo dục trung học bao gồm: Hệ giáo dục trung học đệ nhất cấp gồm 4 năm học với các lớp Đệ Thất; Đệ Lục; Đệ Ngũ và Đệ Tứ. Học xong lớp Đệ Tứ, học sinh dự thi lấy Bằng Tốt Nghiệp Trung Học Đệ Nhất Cấp. Hệ giáo dục trung học đệ nhị cấp gồm 3 năm học với các lớp đệ Tam, Đệ Nhị và Đệ Nhất. Điểm nổi bật là từ lớp Đệ Tam trở đi bắt đầu học phân Ban (Ban A đi chuyên sâu vào các môn Toán, Lý; Ban B đi chuyên sâu vào các môn Sinh; Hóa; và Ban C đi chuyên sâu vào ngoại ngữ (hai môn ngoại ngữ bắt buộc). Sau khi học hết lớp Đệ Nhị, học sinh dự thi lấy Bằng Tú Tài 1 (Tú Tài bán phần), và sau khi học hết lớp Đệ Nhất, học sinh dự thi lấy Bằng Tú Tài 2 (Tú Tài toàn phần). - Hệ giáo dục Đại Học: Muốn thi vào Đại Học, học sinh phải có Bằng Tú Tài 2 (Tú Tài toàn phần), và tùy theo ban ngành đã học, xin dự thi vào chuyên ngành học sinh đã chọn khi bước vào học Hệ Giáo dục Trung Học đệ nhị cấp. Tóm lại, chương trình cắt giảm đi một lớp Nhì (lớp Nhì năm thứ nhất (Cours Moyen 1ère année) và lớp Nhì năm thứ hai (Cours Moyen 2è année) của Hệ Tiểu Học cũ gộp lại làm một lớp), và tên gọi các lớp thuộc các hệ đào tạo mới này tuy có khác với hệ đào tạo cũ, nhưng về đại thể, chương trình đào tạo và các bộ sách giáo khoa được sử dụng để dạy học vẫn theo chương trình cũ của Pháp, không thay đổi nhiều. Những suy tư của cha tôi về giáo trình dạy học thời xưa Cha tôi kể rằng về giáo trình dạy học, các tỉnh, thành phố phải sử dụng duy nhất Bộ sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư và Luân Lý Giáo Khoa Thư do Nha Học Chánh Đông Pháp (của nhà nước bảo hộ Pháp), giao cho các học giả uyên bác thời bấy giờ là các ông Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, và Đỗ Thận cùng biên soạn. Ngoài ra, còn một số sách giáo khoa khác như Toán, Văn học Việt nam, Lịch Sử Việt nam, Điạ lý Đông Dương, Tiếng Pháp v.v…sử dụng để dạy các lớp của Bậc Tiểu Học đều do Nha Học Chính Đông Pháp chủ trì biên soạn và xuất bản, bán rẻ cho học sinh. Riêng từ Bậc Cao Đẳng Tiểu Học trở lên, toàn bộ các lớp phải dùng sách giáo khoa xuất bản tại Pháp. Nhìn chung, trong việc quản lý giáo dục từ việc triển khai dạy học đến tài liệu sử dụng để dạy học đã được chỉ đạo khá chặt chẽ, đã tạo cho người dân có một lòng tin vào chất lượng học tập của con em mình ở nhà trường. Hơn nữa, nhìn vào đội ngũ giáo viên được đào tạo bài bản, có tâm huyết trong nghề “gõ đầu trẻ” cũng làm yên lòng bố mẹ học trò trong việc giao con em mình cho các thày dạy dỗ. Cha tôi hết lời ca ngợi tâm huyết của các học giả, nhà văn, nhà giáo dục như các ông Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận, những người đã dày công biên soạn và để lại cho con cháu một bộ hai cuốn sách vô cùng sâu sắc mà cũng rất giản dị, trải rộng ra khắp lĩnh vực của cuộc sống đời thường nhưng luôn bảo đảm tính khoa học, tính logic của bộ giáo trình. Trong từng bài học, các tác giả yêu cầu thầy giáo lên lớp phải dạy làm sao để học sinh có thể thực sự cảm nhận được là các cháu được thầy yêu thương, chăm sóc, dạy bảo không khác chi cha mẹ các cháu ở nhà. Thật vậy, những bài học đầu tiên trong bộ sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, từ cuốn dành cho lớp Đồng Ấu, cho đến lớp Dự Bị và lớp Sơ Đẳng, từng bài một đều mở dần ra một chân trời vô cùng sáng sủa, rộng rãi, khái quát nhiều quan hệ của cuộc sống đời thường của một con người. Các em học để biết yêu kính tổ tiên từ trong tâm khảm. Các em học để kính trên, nhường dưới, sống hòa thuận, có trước, có sau. Thậm chí trong bộ sách, các tác giả chỉ ra rất rõ những mối quan hệ trong cuộc sống không chỉ riêng giữa con người với con người mà còn cả với cảnh vật xung quanh, với những con vật nhỏ bé như con gà, con chim, con cóc, con trâu v.v…Các tác giả nêu bật thiên nhiên là chốn nâng đỡ cuộc sống con người, là nơi sự sống phát sinh và phát triển. Điều cha tôi rất tâm đắc là sau từng bài tập đọc, các tác giả tóm lược lại ý nghĩa của bài bằng một câu rất đơn giản, mang tính chất giáo dục cao về đạo đức, luân lý, rất dễ cho học sinh “nhập tâm”, không cần phải giải thích. Thí dụ: “Công Cha như núi Thái Sơn Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra” “Học trò phải biết ơn Thầy” “Tiên học lễ, Hậu học văn” “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn” “Anh em như thể tay chân” “Cờ bạc như bác thằng bần” “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” “Khôn ngoan đối đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau” “Bàu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” v.v… Cha tôi rất thích giảng cho học sinh những bài tập đọc có giá trị giáo dục cao về lẽ sống làm người. Chẳng hạn, bài tập đọc mở đầu cho cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư, lớp Sơ Ðẳng, nhằm nhắc nhở học sinh phải đi học đúng giờ: “Xuân đi học coi người hớn hở, Gặp cậu Thu đi ở giữa đàng, Hỏi rằng: " Sao đã vội vàng, Trống chưa nghe đánh, đến tràng làm chi ?” Hay bài học thuộc lòng trong cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư, lớp Dự Bị: "Con cò mà đi ăn đêm": "Con cò mà đi ăn đêm Ðậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao. Ông ơi ông vớt tôi nao! Tôi có lòng nào, ông hãy xáo măng. Có xáo thì xáo nước trong, Ðừng xáo nước đục đau lòng cò con". Cha luôn ca ngợi người mẹ đẹp tuyệt vời qua hình ảnh “Con Cò” đã được nhân cách hóa trong bài ca dao. Con cò trong mắt của nhân dân ta chính là hình ảnh của người mẹ. Mẹ tần tảo suốt ngày đêm để nuôi dưỡng con có khác gì thân cò lặn lội ngày đêm để nuôi đàn cò con. Trong cuốn Luân lý giáo khoa thư, các tác giả chia làm ba chương cho mỗi lớp: Chương đầu tiên nói về bổn phận của đứa trẻ trong gia đình và ở nhà trường; Chương thứ hai nói về những tính tốt và xấu của đứa trẻ, và Chương thứ ba nói về bổn phận của các cháu với xã hội. Những bài học về Luân lý được đan xen rất khéo, rất công phu với những bài tập đọc trong bộ Quốc Văn Giáo Khoa Thư, làm sống động từng bài học bằng những tóm lược rất tinh vi của các tác giả, có giá trị giáo dục cao với học sinh. Cha tôi thường nói là một thầy giáo, phải tinh ý thấy được ý đồ của các tác giả và phải dạy làm sao cho các cháu thấm được những ý tưởng trên để trở thành “cái cốt lõi” trong cuộc sống, ngõ hầu các cháu trở thành người “lương thiện”, người “tử tế” trong tương lai, một khi các cháu trưởng thành, Ngay trong phần đầu cuốn sách, các tác giả căn dặn thầy giáo phải dạy học sinh làm sao để khi ở nhà phải là đứa con có hiếu, khi đến trường phải là một học sinh tốt, và khi ra đường phải là một đứa bé nết na. Thực ra, để phát triển giáo dục cho một quốc gia, ngoài việc biên soạn một bộ sách giáo khoa công phu, có tính khoa học và tính hiện đại cao, còn phải tính đến phương pháp triển khai thực hiện có hiệu quả bộ sách giáo khoa, cách quản lý trong quá trình thực hiện ở cơ sở dạy học, và cao hơn hết là trình độ của những người trực tiếp thực hiện giảng dạy bộ sách giáo khoa đó (ở đây tôi muốn nói đến ba chữ “T“ gồm TRÌNH ĐỘ, TÂM và TẦM của thầy giáo). Tôi còn nhớ vào một buổi tối khoảng đầu năm 1963, anh ruột tôi là anh Dũng tâm sự với tôi về chuyện gia đình, có thắc mắc không hiểu lý do gì mà cha tôi suốt đời dạy học, luôn một chương trình dạy giống nhau, nếu có khác thì cũng chỉ một tý chút thôi, mà chiều nào cha tôi cũng ngồi miệt mài soạn bài không những cho hôm sau mà thậm chí nhiều lúc cho cả tuần sau để lên lớp dạy học sinh. Điều đáng chú ý là cha tôi ngồi soạn một giáo án lên lớp cho một môn học rất công phu, viết nắn nót từng chữ rất đẹp, sử dụng cả bút máy màu đỏ gạch từng phần với thời lượng bao nhiêu phút cha sẽ dành để giảng từng phần cho học sinh. Tôi mang thắc mắc của anh Dũng ra hỏi. Cha tôi ngồi trầm ngâm một lúc rồi nói: “Đây chính là nghệ thuật sư phạm, con ạ! Lên lớp dạy học phải có “hồn”, người thầy giáo không phải là một cỗ máy, vô tri, vô giác. Muốn trở thành người thầy giáo được người đời thừa nhận thì trước hết phải là một người thầy giáo có tư cách đạo đức tốt, phải biết thương yêu học sinh, coi các em như con, cháu trong nhà, và thực sự phải có trách nhiệm cao khi lên lớp dạy dỗ các cháu để sau này các cháu trở thành người hữu dụng cho quê hương, đất nước. Cha ngồi soạn giáo án tỷ mỷ từng bài của sách giáo khoa là muốn làm sao truyền đạt được càng nhiều càng tốt những ý tưởng uyên bác của các tác giả đến với từng học sinh. Làm sao bài soạn để dạy học sinh hôm nay có thể giữ lại để năm sau dạy, hả con?, trong khi mỗi năm một thay đổi, cuộc sống của nhân dân ở từng nơi, ở từng vùng miền có nhiều điểm không giống nhau, trình độ học vấn, trình độ văn hóa của phụ huynh cũng như học sinh từng khu vực, trong một chừng mực nào đó, cũng khác nhau. Làm thầy giáo, cha phải hiểu thật thấu đáo những vấn đề này để dạy học sinh bài nào nên học trước, bài nào nên học sau, và dạy làm sao cho học sinh thấy được cái cần phải học, nghĩa là phải đạt được kết quả tốt nhất mà người thầy giáo mong muốn.” Những lời tâm sự của cha tôi cho đến nay tôi gần 80 tuổi, cả cuộc đời làm nghề thầy giáo, giờ đây tôi mới thấm được một cách trọn vẹn, đầy đủ ý nghĩa thế nào là “tâm”,“tầm” và “đức độ” một thầy giáo và tôi mới thực sự hiểu được lý do tại sao cha tôi chỉ là một ông giáo dạy ở trường tiểu học bình thường như bao ông giáo khác mà được biết bao thế hệ học trò vô cùng kính trọng và yêu quý, coi bố tôi như người ông, người cha, người chú trong gia đình mình. Tham gia thường xuyên dạy các lớp tu nghiệp cho đồng nghiệp tại trường tiểu học Lê Ngọc Hân Hàng năm, cứ mỗi kỳ nghỉ hè, do cha tôi là thế hệ giáo viên đầu tiên của nhà nước Pháp bảo hộ, nên Ty Tiểu Học Hà Nội điều động cha tôi và các bác giáo viên khác cùng thế hệ với bố tôi như bác Hợi, bác Kim, bác Thành v.v… đi giảng các lớp Tu nghiệp cho các thầy cô thuộc ngạch Hương Sư trong khoảng hai tháng tại Trường Tiểu Học Lê Ngọc Hân ở phố Lò Đúc, Hà Nội. Đây chính là những khóa bồi dưỡng, trao đổi trong đội ngũ giáo viên về kinh nghiệm sư phạm trong thực tiễn dạy học ở các trường tiểu học trong toàn thành phố. Dành mọi nỗ lực, tâm huyết cho nghiệp làm thầy… Tôi luôn nhớ trong thời gian dạy học ở Trường Tiểu Học Hoàng Mai, ngoài các bài lên lớp, cha tôi thường sưu tầm những vở kịch ngắn có tính giáo dục cao cho các anh, các chị lớp Nhất tập đóng kịch bằng thơ, nhằm củng cố lại kiến thức của các bài tập đọc và các bài luân lý cha tôi đã dạy họ trên lớp. Nhiều buổi chiều, các anh, các chị đến nhà tôi để cha tôi trực tiếp hướng dẫn. Tôi nhớ nhiều nhất là vở kịch ngắn chỉ trích một anh chàng “rởm đời”, được cha mẹ cho lên tỉnh ăn học, có được một chút chữ nghĩa vào đầu, đã ngạo mạn, chê bai mọi người là “nhà quê”, khinh bỉ mọi người “ngu dốt” ra mặt, nhưng rồi cuối cùng khi anh bị sa cơ, thất thế, chính những người ”nhà quê” lại cứu mang, đùm bọc anh. Vở kịch bằng thơ lục bát này sau được diễn không những ở trên lớp mà còn được diễn công khai ở sân trường để học sinh các lớp khác và cha mẹ học sinh đến xem, được mọi người tán thưởng. Tôi rất thích vở kịch “Rởm Đời” này, đặc biệt là anh Cam, học sinh lớp Nhất niên khóa 1953-1954, người đóng vai chính của vở kịch. Nhiều hôm ở trên lớp, cha tôi còn tổ chức cho các anh, các chị tập kể lại các câu chuyện đã học trong bộ sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, nhưng phải có điệu bộ, phải diễn tả tình cảm như thật, chẳng hạn như kể lại câu chuyện anh chàng hà tiện đang đi trên đò qua sông, chẳng may bị rơi xuống sông. Anh không biết bơi, ngụp lặn liên tục.Những người đi đò kêu cứu, hứa ai cứu được anh sẽ được thưởng tiền. Họ đưa ra mức tiền thưởng từ 10 quan tiền xuống dần đến còn 3 quan tiền, nhưng mỗi lần ngoi lên khỏi mặt nước, anh chàng tuy có tiền, nhưng rất hà tiện, không chịu chấp nhận lời đề nghị của bà con đi đò, tuyên bố một câu xanh rờn: “Ba quan tiền đắt quá, thà chết còn hơn!” Đôi lúc để kiểm tra kiến thức của học sinh, cha tôi lại tổ chức thi “Ai là người giỏi nhất lớp? ” bằng cách yêu cầu học sinh đọc thuộc lòng, làm bộ điệu tay chân và qua nét mặt để diển tả cảm xúc của mình khi trình bày bài thơ “Qua Đèo Ngang Tức Cảnh” của Bà Huyện Thanh Quan. Sau khi chấm điểm phần đầu tiên qua cách trình bày bài thơ và cách diễn tả cảm xúc của học sinh, cha tôi chuyển sang phần kiểm tra kiến thức của học sinh bằng cách hỏi nhiều câu hỏi về hoàn cảnh ra đời của bài thơ, tâm tư của tác giả khi sáng tác bài thơ v.v… Qua Đèo Ngang Tức Cảnh (Bà Huyện Thanh Quan) Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chen lá đá chen hoa Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác ven sông chợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Dừng chân đứng lại: trời, non, nước Một mảnh tình riêng ta với ta. Sáng tạo đầy dụng ý khi lên lớp dạy học trò Tôi sẽ thấy cực kỳ có lỗi nếu không nhắc lại một tình tiết rất nhỏ trong dạy học của cha tôi ở vùng tạm chiếm. Thông thường khi đến dạy cho các anh, các chị lớp Nhất ở Trường Tiểu học Hoàng Mai, cha cho tôi đi theo để học thêm. Tôi còn nhớ, có lần cha tôi giảng về cách tìm trọng lượng (poid), tỷ trọng (densité) và thể tích (volume) mà các anh, các chị học sinh không thể nào hiểu được, cha tôi nói bỏ tiếng Pháp đi và thay bằng tiếng Việt theo công thức như sau: Poid = Phạm; Volume =Văn; Densité= Đồng. Như vậy, muốn tìm Phạm phải lấy Văn nhân lên với Đồng (Văn x Đồng); muốn tìm Văn phải lấy Phạm chia cho Đồng (Phạm : Đồng), và muốn tìm Đồng thì phải lấy Phạm chia cho Văn (Phạm : Văn). Thế là các anh, các chị trong lớp hiểu và làm được bài.Ngồi học “lóm” trong lớp, tôi cũng biết như vậy, có biết gì đâu. Chỉ sau khi tiếp quản thủ đô, tôi mới biết Phạm Văn Đồng chính là tên ông Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của chính phủ cách mạng. Ôi, thật tuyệt vời, cha của tôi! Trong vùng tạm chiếm, chỉ cần sơ hở một chút là bị cảnh binh bắt, mà cha tôi ngang nhiên “dám” dạy học trò như vậy! Ngổn ngang trăm bề trước cảnh bạn bè, họ hàng nội ngoại, kẻ ở lại, người ra đi… Trước ngày tiếp quản thủ đô, khoảng từ giữa tháng 8 năm 1954 trở đi đến ngày 10 tháng 10 năm 1954, Hà nội vô cùng chộn rộn, với đủ thứ tình cảm hỗn độn của kẻ ở lại miền Bắc hay người ra đi, vào miền Nam sinh sống. Gia đình tôi ở lại miền Bắc theo chính phủ cụ Hồ với lý do rất đơn giản vì chúng tôi được đoàn tụ trở lại trong đại gia đình lớn của họ ngoại (bà ngoại, các bác, các chú, các dì, các cậu, các mợ, các em v.v…đang ở ngoài vùng tự do, sắp trở về Hà nội). g g g ự p ộ Sau tiếp quản thủ đô (sau ngày 10 tháng 10 năm 1954), cha tôi thuộc diện “công chức lưu dung” của chính phủ Pháp bảo hộ, nhưng được nhà nước cách mạng sử dụng lại, tiếp tục làm nghề dạy học, và được bố trí làm tiếp hiệu trưởng trường Tiểu học Hoàng Mai. Nghe nói trước khi nghỉ hưu một hai năm gì đó, cha tôi còn được nhà nước bố nhiệm làm hiệu trưởng trường Tiểu học Trung Hiền (hiện ở số 10 ngõ Trại Cá, phố Trương Định, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội). Tình nghĩa bạn bè luôn trọn vẹn thủy chung, trước sau như một, mặc dù kẻ ở Bắc, người trong Nam Tôi không bao giờ quên được sau khi cuộc chiến kết thúc, hòa bình được vãn hồi, giang sơn liền một giải, qua địa chỉ của các tấm bưu thiếp gửi từ trong Nam ra ngoài Bắc của các bác giáo cùng thế hệ cho cha tôi (thời kỳ những năm từ 1955 đến 1960, dưới chế độ chính phủ Ngô Đình Diệm ở miền Nam), cha tôi căn dặn tôi phải đi tìm, giúp cha đến thăm hỏi các bác. Tôi đã tìm đến các địa chỉ trên các tấm bưu thiếp của bác Thành, bác Kim nhưng không thể gặp được vì hai bác không còn ở những địa chỉ trên. Riêng khi tôi đến khu Bàn Cờ tìm bác giáo Hợi, do địa hình ở khu này rất quanh co, nên tôi phải nhờ nhân dân quanh khu vực chỉ, và cuối cùng tôi cũng tìm gặp được bác giáo trong một con hẻm nhỏ. Bác giáo gặp tôi rất vui mừng và rất lạ, mặc dù bác xa Hà nội 21 năm trời, nhưng khi tôi nhắc đến cha tôi và đến thời gian tôi đến nhà để bác dạy dỗ tôi thêm, bác nhớ ra ngay, và bác kể cho tôi rất nhiều kỷ niệm ngày xưa, thời Pháp thuộc, cùng học và cũng có lúc cùng dạy với cha tôi. Bác vô cùng xúc động, có lúc bác khóc, vì bác không thể ngờ rằng con trai người bạn thân cả gần nửa thế kỷ trước, lại có thể tìm đến thăm được bác chỉ một tuần sau ngày hòa bình lập lại, thống nhất đất nước. Sau này, khi ra thăm cha, mẹ và gia đình ở Hà Nội, tôi có kể cho cha tôi nghe về gia đình bác Hợi. Chỉ tiếc là khi tôi đến thăm, lúc đó mắt bác bị lòa, không nhìn được rõ tôi, chỉ ngồi nghe tôi nói chuyện, rồi khóc. Sau này, khoảng giữa năm 1976, tôi ghé tới thăm bác, nhưng gia đình bác đã chuyển đi ở nơi khác, không còn buôn bán ở khu chợ Bàn Cờ nữa. Cha kính yêu về với tổ tiên, để lại niềm thương tiếc vô hạn cho biết bao thế hệ… Tất cả những điều tôi trình bày về người cha vô cùng kính yêu, một thầy giáo tiểu học rất bình thường, nhưng có một cuộc sống giản dị, chân tình và đẹp, cái đẹp đức độ ẩn dấu bên trong “đậm chất” lịch lãm của cư dân Hà Nội băm sáu phố phường, được minh chứng rất “chuẩn” khi cha tôi từ giã cõi đời năm 1983 (hưởng thọ 83 tuổi). Đến viếng và tiễn đưa thầy giáo về an táng tại quê nhà ở làng Hoàng Mai có rất nhiều thế hệ học trò, đủ cả nam, phụ, lão, ấu, nhiều người tuổi 60 đến hơn 70 tuổi, trong đó có một học trò cũ là một người đương nhiệm có chức vụ lớn trong bộ máy nhà nước, quỳ khóc trước linh cữu cha tôi. Hai ngày trước khi di quan về làng, có khoảng mười cụ, ăn mặc áo dài đen, đội khăn xếp đen, xếp hàng ngay ngắn, từng người đến viếng cha tôi. Sau đó, các cụ khoanh tay xin phép mẹ tôi cho các cụ phóng một tấm hình lớn (vẽ truyền thần) để đưa thầy giáo về quê. Mẹ tôi vô cùng cảm kích về tình nghĩa thày trò của các cụ, đồng ý để cụ làm theo ý nguyện. Thế là trong đám tang đưa cha tôi về làng, tấm hình lớn vẽ truyền thần được để ở một nơi rất trang trọng, mọi người đến đưa tang, ai cũng khen tấm hình lớn quá đẹp. Đoàn người tiễn đưa cha tôi về nơi yên nghỉ cuối cùng rất đông, xếp hàng trật tự, đi dọc phố Bùi Thị Xuân.Gia đình chúng tôi vô cùng xúc động trước tình cảm của các thế hệ học trò, của họ hàng, của bà con khu phố đã dành cho cha tôi trước lúc Người đi xa, về cõi vĩnh hằng. Chúng tôi càng cảm động hơn khi linh cữu cha tôi vừa được đưa về nơi chôn rau cắt rốn, hầu như cả làng Hoàng Mai gồm đủ thành phần già, trẻ, lớn, bé chạy ra ngoài đồng để tiễn đưa người thầy giáo của ông họ, của cha họ, của ngay chính bản thân họ, của con, của cháu họ, được chở về chôn cất ngay tại quê nhà ở Thôn Đông, Làng Hoàng Mai. Đây chính là nơi an nghỉ cuối cùng của một con người mà họ luôn kính trọng, tự hào và biết ơn khi nói đến cha tôi, một người con đã được sinh ra và lớn lên ở quê nhà, và đã dành gần suốt một đời tận tâm, tận lực dạy dỗ họ, con cháu họ đạo “làm người” tại ngay chính ngôi trường của làng mang tên “Trường Tiểu Học Hoàng Mai”. Thật là một kỷ niệm đẹp của mọi người đối với cha tôi lúc Người vĩnh biệt cõi đời này. Hình cha tôi chụp tháng 10 năm 1955 (chụp sau tiếp quản Hà Nội đúng một năm) Câu chuyện số 2 Bác tổ trưởng dân phố C huyện về bác tổ trưởng dân phố trong thời còn chiến tranh đã xa xôi lắm rồi, cách đây trên nửa thế kỷ ở ngay chính mảnh đất quê tôi, khu phố Bùi Thị Xuân, thành phố Hà Nội. Bây giờ, thành phố này đã thay đổi nhiều lắm, nếu ai đi xa khoảng một nửa thế kỷ như tôi, khi trở lại thăm nơi chôn rau cắt rốn của chính mình, không thể tránh khỏi ngỡ ngàng. Trời đất ơi! sự đổi thay của Hà Nội không khác chi ở các thành phố lớn khác trong nước, chẳng hạn như ở thành phố Hải Phòng, Quảng Ninh, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ…Thôi thì cơ man nào là người. Người ở đâu đến ngụ cư mà đông đúc quá vậy? Làm sao còn có thể tìm lại tiếng chuông kêu leng keng của tầu điện chạy dọc hồ Hoàn Kiếm đi thẳng đến chợ Đồng Xuân, rồi chạy đến ga cuối cùng ở Bưởi, hay những buổi chiều êm ả, đạp xe bát phố với bạn bè quanh các đường phố thủ đô, được ngắm cảnh đẹp và được thưởng thức mùi hoa sữa khi chạy xe dọc con phố Phan Đình Phùng… Giọng nói của người dân thủ đô cũng đổi thay, ít thấy nhẹ nhàng, êm dịu, hoặc ăn nói “mát mẻ”, đặc biệt khi góp ý kiến với ai “giọng ngọt ngào” mà người bị góp ý ngồi cứ đực mặt mà nghe, không dám giận hờn. Bây giờ, về lại thành phố quê nhà, tôi gặp đủ các chất giọng vùng miền từ Bắc vào Nam, nhất là đi qua các khu trung tâm mua sắm ở thủ đô, người ta có thế đứng ngớ ra vì nghe tiếng Việt mà rất khó hiểu vì giọng nói rất nặng của các bác, các cô là những chủ nhân của các cửa hàng. Đó là giọng của những cư dân có gốc gác từ các vùng dọc Thanh Hóa xuống Nghệ An,Hà Tĩnh, hoặc từ vùng Quảng Nam, Quảng Trị, Quảng Ngãi v.v…chuyển đến ngụ cư, sau một thời gian làm ăn phất lên, nhiều tiền lắm của, mua nhà ở ngay trung tâm buôn bán, còn các cư dân Hà Nội ngày xưa gần như hầu hết đã bán nhà để lại của cha mẹ ở các phố Hàng…, nay được dịp rủ nhau leo chót vót lên trời, sống ở các chung cư cao tầng, thỏa thích ngắm trăng và cảnh vật Hà Nội về đêm, thanh thản thả hồn vào thế giới đầy mộng mơ của chính mình. Xe cộ thời buổi này nườm nượp khắp hang cùng ngõ hẻm, đủ các loại xe sang, giàu, nghèo, hèn. Mặc dù về thăm thành phố quê hương, nhưng bây giờ khi đi ra đường một chút, tôi thấy hoa cả mắt, chẳng biết đi đứng ra sao. Nhưng nói gì thì nói, tôi thấy cần nhắc lại một vài câu chuyện kỷ niệm ngày xưa một chút để anh chị em chúng tôi được dịp may ôn lại những giây phút không thể nào quên và trong một chừng mực nhất định, có thể cho phép chúng tôi được tự hào, hãnh diện về những kỷ niệm nho nhỏ nhưng vô cùng đáng yêu của chính chúng tôi trong những năm của các thập niên 1950, 1960, và rồi như hồi xưa “bọn trẻ chúng tôi ” thường tỉnh bơ, nói: “Cứ vô tư kể cho nhau nghe những câu chuyện kỷ niệm ngày xưa. Chẳng có gì ghê ghớm để phải ảnh hưởng đến hòa bình thế giới đâu!” Bác tổ trưởng dân phố trong thập niên 1960 Bác tổ trưởng dân phố tôi sẽ giới thiệu ở đây chính là mẹ tôi, Bà Lê Vũ Thị Mỹ, sinh năm 1912 tại làng Yên Phụ, một ngôi làng rất đẹp, nằm trên một bán đảo nhỏ nhô ra Hồ Tây. Hiện tại toàn bộ làng Yên Phụ cổ đã trở thành Khu dân cư số 4 thuộc Phường Yên Phụ, Quận Tây Hồ, Hà nội. Làng Yên Phụ của mẹ tôi ngày xưa là một làng trồng hoa, trồng cây cảnh và nuôi cá cảnh nổi tiếng khắp kinh thành Thăng Long. Điểm nhấn của ngôi làng cổ Yên Phụ là ngôi đình nằm ngay trung tâm làng với dáng vẻ bề thế, uy nghi, nằm giữa mênh mang sóng nước, mặt đình nhìn ra hồ Ao Vả, lưng đình quay về phía hồ Tây với một kiến trúc thờ cực kỳ độc đáo, có một không thể có hai, ở nước ta. Câu chuyện mẹ tôi kể về gia đình ông bà ngoại Mẹ tôi kể rằng chính trong ngôi nhà cổ nằm cặp Hồ Tây này, gia đình ông bà ngoại chúng tôi tuy không phải quá khá giả, nhưng lúc nào cũng vui vẻ, hạnh phúc, con cái quây quần bên cha mẹ, bảy anh chị em (dì Loan và dì áp út là dì Nhâm mất lúc còn trẻ, nên không kể ở đây) luôn chịu thương, chịu khó, bảo ban lẫn nhau, đùm bọc lẫn nhau, không quản ngại khó khăn, giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt trong phạm vi cố gắng cao nhất của từng người, để có thể giúp nhau xây dựng cơ đồ, sự nghiệp của từng người trong gia đình thật tốt, làm bà ngoại tôi yên tâm, vui lòng lúc tuổi già (ông ngoại tôi mất năm 60 tuổi, bà ngoại tôi lúc đó 53 tuổi). Người trong làng gọi ông ngoại tôi là ông Ký Uông, chắc ông có đi làm cho chính quyền Pháp bảo hộ thời đó nên người dân mới gọi như vậy. Ông ngoại tôi có hai vợ. Bà cả sinh được hai người con gái là bác Thảo (tức bác Tham Dương) và bác Nghiêm (tức bác Tham Tuấn). Do muốn có con trai nối dõi tông đường nên ông lấy bà ngoại tôi là bà Nguyễn Thị Duyệt làm vợ thứ. Bà ngoại tôi sinh hạ được mười người con gồm hai trai và tám gái, lần lượt là bác trai Mẫn (con trai cả), bác gái Trang (tức bà Phán Giang), mẹ tôi tên là Mỹ (tức bà Giáo Duyến), dì Trà (tức bà Phán Trường), dì Khang (tức dì Tuyết hay Triệu), dì Vĩnh (tức dì Kính, cậu Lân, dì Nhâm (mất lúc còn trẻ), dì Loan (mất lúc còn trẻ) và dì út Khánh. Bà ngoại kể chuyện về gia đình, về vai trò của mẹ tôi Bà ngoại tôi vô cùng vất vả, một mình tần tảo ngược xuôi, lo chăm sóc, nuôi dạy dỗ mười người con (sau còn tám), đặc biệt phải lo chu đáo cho hai người con trai ăn học là bác cả Mẫn (con trai cả) và cậu Lân. Ông ngoại tôi dành tình thương hết mực cho hai người con trai, đặc biệt là bác cả Mẫn, một niềm đầy tự hào và hy vọng của ông ngoại vì bác cả đẹp trai, học giỏi. Riêng cậu Lân còn quá nhỏ, khi cậu ra đời ông đã 50 tuổi, và lúc ông mất, cậu mới có 10 tuổi. Sau khi ông ngoại mất, gánh nặng gia đình đè nặng trên vai bà ngoại tôi. Lúc bà còn sống (trước 1958), bà kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện trong gia đình. Đi đâu thăm họ hàng, đi chùa chiền, bà cũng cho tôi đi theo. Tôi còn nhớ rằm tháng nào bà cũng ghé thăm Chùa Đông Hạ (khu ngõ Bà Triệu), lễ chùa và thường được sư trụ trì mời ăn cơm chay. Hồi tiếp quản Hà nội đâu có phải dễ dàng được đi xem ciné ở rạp Majestic (hiện nay là rạp Tháng Tám ở phố Hàng Bài) hay rạp Đại Nam (ở Phố Huế, gần chợ Hôm). Thỉnh thoảng loa phóng thanh của khu phố thông báo đoàn chiếu bóng lưu động của thành phố có chiếu phim phục vụ đồng bào buổi tối ở bãi Vân Hồ (bãi đối diện với Trường Tiểu Học Vân Hồ, nơi tôi theo học thời còn ông Bảo Đại). Thế là chiều tối, sau khi ăn cơm xong, hai bà cháu tôi lại dìu dắt nhau đi xem ciné, mang theo hai cái ghế nhỏ để hai bà cháu ngồi xem phim. Phim hồi đó toàn phim của Trung Quốc như Đổng Tồn Thụy, Bạch Mao Nữ v.v…, hy hữu lắm đồng bào Thủ Đô mới được đội chiếu bóng lưu động của nhà nước “chiêu đãi”, cho coi “nhãn mắt” một bộ phim chiến đấu của hồng quân xô viết trong đại chiến thế giới lần 2. Hàng ngày đi học về, tôi thường hay ngồi chơi, nói chuyện với bà. Bà kể cho tôi nghe đủ mọi thứ chuyện, nào là chuyện khi ông ngoại mất đi, bà, mẹ tôi (lúc đó mẹ mới 23 tuổi) và các bác, các dì, cậu Lân xoay sở sống vả học hành ra sao, chuyện cậu Lân “đòi” mẹ tôi đi hỏi con gái cưng của một bà bạn lớn tuổi bán hàng vải gần sập hàng của mẹ tôi làm vợ lúc cậu chưa đầy 20 tuổi, chuyện các dì lập gia đình, chuyện cả nhà bà ngoại đi tản cư, chạy giặc Pháp năm 1946 ở trên Làng Vo (nghe nói làng Vo ở Huyện Đại Tử, Tỉnh Thái Nguyên) v.v… Bà tôi kể, lúc ông ngoại mất, bà mới ngoài 50 tuổi. Một mình bà tần tảo, buôn bán nuôi cả gia đình đông con vô cùng khó khăn. Bà Cả (tức vợ chính thất của ông ngoại) xuất thân từ một gia đình khá giả, chỉ phải nuôi hai bác gái là bác Trang và bác Nghiêm nên không có khó khăn nhiều. Bà ngoại luôn khen mẹ tôi rất có hiếu, thương cha, thương mẹ. Khi nói chuyện về mẹ tôi đã hy sinh quyền lợi của cá nhân mình, cùng với bà chăm sóc, nuôi dưỡng các em ăn học, nhiều lúc bà khóc. Bà tôi kể lúc ông ngoại mất, nhiều người đến gặp bà, đánh tiếng xin hỏi mẹ tôi về làm vợ (lúc đó mẹ tôi tuổi đã lớn, 23 tuổi, đã là cái tuổi người đời gọi là “gái già”, vì thông thường hồi đó con gái lập gia đình thường ở tuổi mười tám, đôi mươi), trong đó có nhiều ông tham, ông phán, ông ký, nhưng mẹ tôi không chịu, dứt khoát không lập gia đình, ở nhà buôn bán để phụ bà ngoại nuôi các em. Bác Trang lúc đó đã lập gia đình và về sống với chồng là bác Phán Giang ở thành phố Nam Định. Trong gia đình, bác Mẫn cũng đã học thành đạt, làm việc trong Tòa Công Sứ và đã lập gia đình. Như vậy, sau khi ông mất, ngoài hai người anh (bác Mẫn) và chị (bác Trang) đã lập gia đình, mẹ tôi là chị lớn nhất trong nhà. Bà tôi kể lúc mẹ con chưa đầy hai mươi tuổi đã buôn bán hàng vải rất có uy tín (hình như bà nói mẹ tôi lúc đó buôn bán vải ở Chợ Ngọc Hà). Bạn hàng cùng buôn bán rất quý trọng mẹ tôi. Một mình mẹ tôi bán hai sập vải, có các dì Trà, dì Khang, dì Vĩnh ra phụ giúp. Cậu Lân đi học về thường chạy thẳng ra sập hàng với mẹ tôi. Riêng dì út Khánh còn nhỏ, ở nhà, không ra ngoài chợ. Một điều rất đặc biệt, mẹ tôi rất có uy với các dì, được các dì mến phục và khi mẹ tôi giao việc gì các dì vâng lời, làm đâu ra đấy, được mẹ tôi yêu quý. Riêng đối với cậu Lân và dì út Khánh, mẹ tôi luôn dành một tình cảm vô cùng đặc biệt, và vì cậu và dì út còn nhỏ nên mẹ tôi thương yêu và chiều đến mức nhiều lúc bà phải la rày mẹ tôi. Rồi lần lượt các dì khôn lớn, đến tuổi lập gia đình, mẹ tôi cùng bà luôn lo các đám cưới cho các dì thật chu toàn, không để thiếu thốn, kém cạnh người khác. Cậu Lân, đi học về, chạy ngay ra với mẹ tôi, được mẹ tôi mua cho đủ thứ. Một bà bạn cũng khá lớn tuổi bán ở sập hàng gần mẹ tôi có một cô con gái rất xinh làm cậu tôi chết mê, chết mệt. Không hiểu cậu Lân và cô gái xinh đẹp kia yêu thương nhau lúc nào mà mới mười tám tuổi, cậu đã nằng nặc đòi mẹ tôi, thay mặt bà, đánh tiếng xin cầu hôn. Thương và chiều cậu hết mức, mẹ tôi đã nhờ người đánh tiếng xin bà bạn đó cho cậu làm đám cưới với con gái cưng của bà. Cuối cùng, bà bạn đồng ý. Đám cưới được tổ chức trọng thể mặc dù câu Lân lập gia đình trong lúc còn đi học, chưa đi làm. Năm 20 tuổi (năm 1945), câu mợ đã sinh con gái đầu lòng. Gần ba mươi tuổi mẹ tôi mới chấp nhận đi lấy chồng Cuối năm 1940, có một bà trong làng Hoàng Mai, bạn hàng của mẹ tôi, giới thiệu mẹ cho bố tôi. Gặp mẹ lần đầu tiên, bố tôi ưng ý ngay. Trở về nhà, bố tôi nhờ người mai mối, đến xin bà ngoại cho được cưới mẹ tôi (lúc đó mẹ đã 29 tuổi ta, gần tuổi ba mươi). Lúc đầu, mẹ không chịu, sợ đi lấy chồng, bà tôi vất vả. Hơn nữa trong nhà, cậu Lân và dì út Khánh còn quá nhỏ. Mẹ tôi thực tâm không muốn rời xa nhà, xa bà ngoại và các em. Nhưng sau, nhiều người khuyên mẹ, kể cả bà ngoại, các bác, các dì, và bà con, bạn bè buôn bán quen biết, mẹ tôi chấp nhận để bố tôi làm lễ cưới vào khoảng đầu năm 1941. Lấy chồng xong, hai vai mẹ lại oằn lên hai gánh nặng trĩu Lấy chồng xong, mẹ tôi lại tất bật, một mặt phải lo cho gia đình chồng, một mặt phải lo phụ giúp bà ngoại tiếp tục chăm sóc nuôi dạy các em còn chưa trưởng thành. Sau đó là những năm vô cùng vất vả, vừa làm hết sức để cùng cha tôi lo toan gia đình hai bên, vừa sinh con liên tục, hầu như năm nào cũng sinh con, nào là tháng 4 năm 1942 sinh con gái, nào là tháng 7 năm 1943 sinh con trai, nào là tháng 3 năm 1945 sinh con trai và rồi đến tháng 8 năm 1946, sinh em gái. Kháng chiến toàn quốc (ngày 19 tháng 12 năm 1946), mẹ tôi lại phải gồng gánh đưa cả gia đình đi chạy giặc Pháp, tản cư xuống làng Thường Xuyên, Huyện Thường Tín, Tỉnh Hà Đông, xin tá túc nhà ông Tiếu, một bạn hàng thưởng lên nhận hàng nhuộm vải cho mẹ tôi ngày trước ở Hà nội. Cuối năm 1947, cha tôi bị bệnh nặng, mẹ tôi phải thuê người cáng cha nằm trên võng và dắt díu năm con nhỏ về lại nhà số 599 phố Bạch Mai (sau này đổi số nhà là 74 Phố Hoàng Mai) để chữa bệnh cho cha. Giữa năm 1948, cha tôi khỏi bệnh, tiếp tục làm đơn xin đi dạy học lại và được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng Trường Tiểu học Hoàng Mai. Mẹ tôi lại tiếp tục gây dựng lại cơ đồ. Mới đầu mẹ tôi bán một sập vải ở Chợ Mơ (ngày nay là chợ Bạch Mai) cùng với cô Dần (em họ của cha). Buôn bán thời Pháp thuộc: Nền kinh tế thị trường Sau gần một năm, mẹ tôi tách ra, chuyển lên bán ở Chợ Đồng Xuân, gần sập hàng của bác Yến (nhà ở khu chợ Châu Long), là một người bạn thân của mẹ tôi từ hồi trước khi chạy tản cư. Đầu tiên, mẹ tôi sang lại một sập hàng. Sau đó, mẹ sang tiếp sập bên cạnh, bán liền một lúc hai sập hàng vải, có đủ mặt hàng rất sang như tơ, lụa, nhung, len, dạ của các cửa hàng xuất nhập khẩu Tân Vinh và Tố Tân từ phố Hàng Đào chuyển qua, lụa bombay Ấn Độ ở cửa hàng của hai chú người Ấn độ, bạn hàng thân thiết của mẹ tôi, từ cửa hàng số 30 phố Hàng Đường chuyển qua. Mẹ tôi thuê riêng anh Vạn chuyên lo gánh hàng cho mẹ buổi sáng sớm từ kho hàng nhà các chú người Ấn đô (phố Hàng Đường) sang sập ngoài chợ để bán hàng và chiều tối, anh Vạn lại gánh hàng cất vào kho (anh Vạn là người thân tín, mẹ tôi coi như con trai trong nhà. Sau này, anh về quê ở Vạn Phước lập gia đình, mẹ tôi lo rất chu đáo đám cưới cho anh và sau đó, anh Vạn cho em trai là anh Ất lên giúp mẹ tôi gánh hàng và trông coi hai sập vải ngoài chợ mỗi khi mẹ bận tiếp khách). Đầu năm 1950, cha mẹ tôi chuyển lên phố, mua căn nhà số 123 phố Duvigneau (sau này đổi tên là phố Huyền Trân Công Chúa, và sau giải phóng đổi tên là phố Bùi Thị Xuân) để tiện cho mẹ đi chợ, buôn bán, không phải đi quá xa. Khoảng tháng 07 năm 1950, mẹ tôi sinh hạ thêm một em gái. Từ khi chuyển nhà lên phố, mẹ tôi buôn bán khá phát đạt, chủ yếu các mối hàng từ Hải Phòng (bác Tham Tuấn có một cửa hàng rất khang trang ở phố Trại Cau và bác Lùn (bạn hàng của mẹ) từ Hải Phòng lên cất hàng và phân phối cho khách không những ở Hải Phòng mà còn ở các tỉnh lớn khác ở miền Bắc và thậm chí vào cả đến một số tỉnh ở miền Trung và miền Nam), hoặc từ Nam Định (bác Phán Giang có cửa hàng bán vải có tiếng là Cửa hàng Vạn Thịnh ở số 192 Phố Khách, và một số bạn hàng quen biết của mẹ tôi từ thành Nam lên cất hàng). Hàng hóa các bác và các bạn hàng ở Hải Phòng, Nam Định, và một vài tỉnh, thành phố lên cất chủ yếu là hàng lụa bombay của Ấn Độ và hàng tơ, lụa, nhung, len, dạ, của các cửa hàng Tân Vinh và Tố Tân ở phố Hàng Đào. Trong những năm 1951 và 1952, mẹ tôi buôn bán rất có uy tín. Các chú bạn hàng người Ấn Độ muốn rủ mẹ chung vốn làm một cửa hàng lớn hơn nhưng cha tôi không đồng tình vì tình hình chiến sự cuối năm 1952 phát triển có chiều hướng xấu đi, mặt trận đang lan rộng ở nhiều nơi tại miền Bắc. Lính Pháp thua trận kéo về Hà nội. Cướp bóc xảy ra thường xuyên. An ninh trong thành phố nhiều lúc không được bảo đảm. Cuối năm 1952 mẹ tôi sang giúp dì Trà một sập hàng ngồi cách mẹ tôi khoảng 20m để dì buôn bán cho có thêm đồng ra, đồng vào, phụ giúp gia đình. Dì Trà là em gái kế mẹ tôi, đẹp gái nhất nhà. Gia đình dì Trà thuê căn nhà số 117 phố Huyền Trân Công Chúa (cạnh tiệm bánh mỳ bánh ngọt Đông Hải) để được ở gần mẹ tôi cho có chị có em. Như vậy nhà dì Trà cách nhà 123 của chúng tôi đúng ba căn gồm các nhà số 119 ; 119B ; và 121. Mẹ tôi tâm sự với tôi dì Trà không thạo buôn bán, lên chợ Đồng Xuân mẹ kèm cặp để tránh phải ở nhà, bị cụ Năm (mẹ chồng) hành hạ. Chú Phán Trường (chồng dì Trà) ủng hộ ý kiến của mẹ tôi sang một sập hàng cho dì tập buôn bán để tránh suốt ngày phải nghe “tiếng chì, tiếng bấc” của bà mẹ chồng là cụ Năm. Trong thời gian bà ngoại và gia đình các bác, các dì tản cư lên làng Vo (Thái Nguyên), qua người trung gian của gia đình, mẹ tôi thường xuyên biết được tin tức của bà ngoại và gia đình ở chiến khu. Thỉnh thoảng dì Khang về Hà nội vừa để thăm mẹ, dì Trà và gia đình tôi ở Bùi Thị Xuân, vừa để nhận tiền của mẹ tôi gửi biếu bà ngoại và các bác, các chú, các cô dùng để chi tiêu cho cuộc sống hàng ngày của đại gia đình đang tản cư ở Làng Vo, tỉnh Thái Nguyên. Trong năm 1953 và đầu năm 1954, tình hình chiến sự ở miền Bắc chuyển hướng tích cực có lợi cho ta. Quân đội Pháp và quân đội Quốc gia Việt Nam của ông Bảo Đại thất bại thảm hại trên nhiều mặt trận ở miền Bắc cũng như nhiều nơi khác. Để gỡ thế bí về quân sự, Pháp buộc phải mở mặt trận Điện Biên Phủ vào đầu năm 1954 nhằm kéo chủ lực ta lên vùng Tây Bắc để dùng thế mạnh của những đơn vị lê dương thiện chiến kết hợp với vũ khí hiện đại tiêu diệt nhanh bộ đội chủ lực của ta nhằm giải quyết dứt điểm cuộc chiến đang bị sa lầy trên khắp chiến trường Đông Dương. Thất bại liên tiếp trên các mặt trận vào năm 1954 tác động rất mạnh đến đầu não của Pháp và chính quyền Bảo Đại ở Hà Nội. Từng đoàn xe cam nhông chở lính Pháp và lính Quốc gia Việt Nam của ông Bảo Đại dầm dập từ nhiều hướng chạy qua thành phố ngày và đêm để lên mặt trận. An ninh tại thành phố không bảo đảm, cướp bóc xảy ra ở nhiều nơi, thậm chí ngay cả trong thành phố. Đương nhiên trong hoàn cảnh thành phố như vậy, buôn bán của mẹ tôi gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt sau khi Pháp bị thất thủ tại mặt trận Điện Biên Phủ (ngày 7 tháng 5 năm 1954), các chú Ấn Độ, bạn hàng của mẹ tôi tâm sự có ý định bán tống bán tháo cho hết hàng, đóng cửa tiệm, trở về thành phố Bombay (Ấn Độ) làm ăn. Đại đa số các cửa hàng xuất nhập khẩu tơ, lụa, nhung, dạ nổi tiếng ở Hà Nội là những bạn hàng thân thiết của mẹ tôi cũng có ý định di cư vào Sài gòn làm ăn cho an toàn hơn. Mẹ tâm sự với tôi, các bác bạn hàng thân thiết (kể cả hai chú Ấn độ, chủ cửa hàng lụa Bombay ở 30 phố Hàng Đường) căn dặn mẹ tôi nếu gia đình chuyển vào Sài Gòn, ngay khi đến nơi, ổn định nhanh chóng chỗ ở, rồi liên lạc ngay lập tức với các bác, các chú để thiết lập ngay đường dây kinh doanh mới, đừng để mất thời cơ. Đứng trước tình hình nước sôi, lửa bỏng, buôn bán lại gặp đủ thứ khó khăn, mẹ tôi lại sinh thêm một em bé gái một vài tháng trước khi chính phủ kháng chiến tiếp quản thủ đô Hà Nội. Thế là khó khăn chồng chất khó khăn, buộc cha mẹ tôi phải quyết định con đường đi của cả gia đình: di cư vào Sài Gòn hay ở lại Hà Nội. Mẹ tôi tâm sự với tôi rằng hoàn cảnh buôn bán của mẹ trong lúc chập choạng, tranh tối tranh sáng như vậy, nếu so với các bạn hàng khác, là khá thuận lợi. Nhưng kinh nghiệm buôn bán của mẹ từ năm 15 tuổi (lúc đó mẹ tôi đã là chủ một sập hàng vải ở chợ Ngọc Hà) cho đến nay mẹ đã 52 tuổi, tuy có trong tay hai sập hàng vải, tơ lụa, len dạ lớn, có uy tín ở chợ Đồng Xuân, mẹ đã từng trải qua biết bao đắng cay trong nghề bán buôn, bán lẻ các mặt hàng cao cấp này. Thông thường mẹ buôn bán thuận lợi, bán đắt hàng, bạn hàng ở các tỉnh, các thành phố ở nhiều vùng, miền và các mối lái đến cất hàng nườm nượp. Nhưng nếu thời cuộc không thuận lợi cho kinh doanh, buôn bán lúc lên, lúc xuống, thuế má lại tăng vọt, nhiều lúc phải ôm hàng trong nhiều ngày. Nếu vốn liếng của mình không được dồi dào, phải bán tống bán tháo đi để lấy tiền chi phí cuộc sống hàng ngày, thì chỉ trong một thời gian ngắn, hai sập hàng cao ngất nghểu, sẽ xẹp xuống rất nhanh, và nếu không có ý chí, không có bản lĩnh trong kinh doanh, chỉ có một con đường duy nhất là phá sản. Mẹ tôi nói các bạn hàng thân thiết của mẹ cũng như các chú Ấn Độ, chủ của tiệm tơ lụa Bombay số 30 Hàng Đường, muốn mẹ vào Sài Gòn để cùng nhau gây dựng cơ đồ, vì khi di cư vào trong đó, lạ nước lạ cái, không quen biết nhiều, nếu không chụm lại giúp đỡ nhau thì không thể tồn tại và phát triển kinh doanh được. Nhưng mẹ tôi tự đặt ngược vấn đề để tính toán kỹ càng đường đi nước bước trong tương lai gần nhất. Mẹ tôi giả thiết nếu làm ăn thất bại ở trong đó, thì bạn bè dù thân thiết đến mấy cũng chẳng còn tình nghĩa gì đâu, ai mà cứu mang mình mãi được. Bản thân mình phải tìm cách tự xoay sở mà thôi, không thể dựa dẫm được ai đâu, thậm chí kể cả đó chính là những người thân thiết, ruột thịt trong nhà. Hơn nữa, cha tôi là thầy giáo, ở đâu cũng đi dạy học, lương “ba cọc ba đồng”, làm sao với đồng lương ít ỏi của cha tôi đủ nuôi sống cả nhà, nếu mẹ không chung lưng, gánh sức với cha. Cha tôi cứ ngồi than ngắn thở dài, chẳng biết tính toán ra sao cho khỏi bị mắc lừa. Cha nói làm sao có thể đặt lòng tin tuyệt đối vào chính phủ Pháp và ông Bảo Đại khi họ hứa đưa gia đình tôi vào Sài Gòn bằng máy bay và bố trí nơi ăn, chốn ở đàng hoàng, có việc làm ngay. Nếu gia đình tôi nghe theo lời họ, vào đến thành phố Sài Gòn xa lạ, không quen biết một ai, không bà con thân thích,lại chưa được bố trí nơi ăn chốn ở như đã hứa, hoặc nếu họ không bố trí cho dạy học ở Sài Gòn, mà điều đi dạy học ở một tỉnh lạ hoắc, nơi có chiến sự đang diễn ra giữa chính phủ Bảo Đại và các giáo phái Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo v.v…thì gia đình phải làm gì để sinh sống tại các tỉnh xa lạ ở Nam Việt. Cha tôi cho rằng dù đi đâu chăng nữa, cha cũng chỉ có một nghề duy nhất là nghề dạy học. Vậy tại sao không dạy học tại quê nhà, nơi đã có nhà cao cửa rộng, nơi đã có anh chị em, bạn bè thân thiết, mà phải lại chạy vào đến tận vùng đất Sài Gòn để dạy học? Mẹ tôi quen làm ăn với các bạn hàng lớn trong nam, ngoài bắc, nên suốt ngày cứ ngồi suy nghĩ ngẩn ngơ, chẳng biết tính toán sao cho đúng với hoàn cảnh cụ thể lúc đó. Trong lúc cha mẹ tôi đang bàn đi tính lại, để có một quyết định đi hay ở dứt khoát, thì ngay đầu tháng 7 năm 1954 dì Khang từ vùng tự do ở Thái Nguyên xuống Hà Nội tìm cách vận động gia đình tôi bằng mọi giá phải ở lại Hà Nội để được gặp bà ngoại và toàn bộ anh chị em trong đại gia đình họ ngoại sắp trở về quê hương làng Yên Phụ, Hà Nội. Khoảng từ giữa tháng 8 năm 1954 trở đi đến ngày 10 tháng 10 năm 1954, Hà Nội vô cùng chộn rộn, với đủ thứ tình cảm hỗn độn của kẻ ở lại miền Bắc, người di cư vào Nam. Đặc biệt ngay trong các gia đình trí thức, các gia đình công chức thời Pháp, những cuộc tranh luận nảy lửa đi vào Nam hay ở lại miền Bắc đã liên tục diễn ra. Nhiều gia đình bạn bè của cha mẹ tôi đã phải ly tán không phương cứu vãn, chia năm sẻ bảy, cha mẹ, con trai, con gái mỗi người đi một ngả, chẳng ai chịu nhường nhịn ai (đặc biệt trong các gia đình có con là các anh chị đã đến tuổi trưởng thành).Đương nhiên, trong bối cảnh như vậy, gia đình tôi không thể nào trở thành ngoại lệ. Trên thực tế, vào thời điểm ngay từ đầu tháng 8 năm 1954, Pháp đã lập một cầu hàng không lớn nhất nhì thế giới, dài trên 1.200 km đường chim bay, nối liền sân bay Tân Sơn Nhất (Sài Gòn) ra các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai (Hà Nội) và Cát Bi (Hải Phòng), hàng ngày có thể chuyên chở một vài ngàn người. Bên cạnh di chuyển vào Nam bằng máy bay, đại đa số người dân bình thường ở các thành phần khác muốn di cư vào Nam phải đi bằng đường biển, xuống tàu Há Mồm (Landing Ship hay Tank, viết tắt là LST) đậu ở ngoài khơi Vịnh Bắc bộ (khu vực Cảng Hải Phòng). Cũng trong thời gian trên, Bác Tham Tuấn từ Hải Phòng mang theo cả con trai là anh Trí lên Hà nội chơi, hỏi ý kiến mẹ tôi có đi vào Sài Gòn hay ở lại Hà nội. Bác rất phân vân, nhưng bác trai đã quyết đưa gia đình di cư vào nam và không còn cách lựa chọn nào khác, bác phải theo chồng và gia đình vào Sài Gòn. Bác Phán Giang từ Nam Định chạy lên Hà Nội vừa để đón con trai cả là anh Nam đào ngũ khỏi quân đội Bảo Đại, mới trốn khỏi trại lính của chính quyền Bảo Đại ở tỉnh Phúc Yên và đang tá túc tại nhà tôi, để đưa anh trở về nhà ở Nam Định, vừa để hỏi ý kiến mẹ tôi về việc đi Nam hay ở lại miền Bắc. Thảo luận lên, thảo luận xuống, cuối cùng cha mẹ tôi quyết định dứt khoát ở lại Hà Nội để được đoàn tụ với đại gia đình từ chiến khu trở về để mẹ tôi có dịp gặp lại bà ngoại và anh chị em trong đại gia đình ở làng Yên Phụ năm xưa. Sau khi cha mẹ quyết định ở lại miền Bắc làm ăn, mẹ tôi tâm sự với tôi: “Mẹ tính kỹ rồi, Hùng ạ! Đi theo các bạn hàng vào Sài Gòn buôn bán, có khi làm ăn phất lên, mẹ cũng có thể có một hoặc hai cửa hàng như các bác bạn hàng thân quen của mẹ đấy. Nhưng rồi cha con vào đó nhỡ bị điều động đi các tỉnh dạy học thì tính thế nào? Mẹ làm ăn thì đương nhiên phải ở thành phố lớn, an ninh phải bảo đảm. Thế là gia đình lại phải ly tán hay sao? Sự thật cha mẹ cũng chẳng ham muốn thật giàu có để làm gì. Mẹ bàn với cha phải luôn cố gắng làm ăn cho gia đình mình đủ ăn, đủ mặc, con cái được học hành đến nơi đến chốn là cha mẹ mãn nguyện rồi. Nhà mình là một khối, gắn bó suốt đời với nhau, không thể ly tán người ở chỗ này, kẻ ở chỗ khác được. Đời mẹ, do ông bà nghèo, mới lên 13 tuổi, mẹ đã phải nghỉ học, đi phụ bán hàng vải ở chợ Ngọc Hà để kiếm tiền phụ giúp ông bà ngoại nuôi các em ăn học. Mẹ rất thương bà ngoại. Bây giờ nhà mình mà vào Sài Gòn thì liệu cho đến lúc nào mẹ mới có thể được gặp lại bà ngoại, các gia đình bác Mẫn, cậu Lân, cô Khang, cô Vĩnh, cô Khánh. Vì thế, mẹ cho ý kiến của cha mẹ không vào Sài Gòn mà ở lại Hà Nội để được gặp lại bà ngoại và đại gia đình mẹ ở Yên Phụ là thích hợp với hoàn cảnh gia đình nhà mình, là đúng đạo lý làm người, con ạ!” Theo hiệp định Genève, Pháp rút quân khỏi miền Bắc Việt nam, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời phân chia hai miền Nam Bắc, và chính thức ngày 10 tháng 10 năm 1954 là ngày chính phủ kháng chiến tiếp quản Hà Nội. Cả gia đình bà ngoại tôi từ chiến khu trở về Hà Nội. Căn nhà 123 Bùi Thị Xuân vui như ngày hội vì cả đại gia đình mẹ tôi hầu hết đều về ở tại căn nhà trên, chờ nhà nước sắp xếp nhà cửa (nếu các bác, các chú là cán bộ nhà nước) hoặc tìm thuê một căn nhà thích hợp tạm để ở và sinh sống. Đây cũng chính là thời gian tôi sống, gắn bó với bà ngoại nhiều nhất (lúc này tôi mới 11 tuổi), được bà rủ đi hết chỗ này đến chỗ khác thăm họ hàng và bà con quen biết của bà trước khi chạy loạn. Gia đình các bác, các dì ở tạm trong nhà tôi trong một thời gian ngắn rồi cũng sắp xếp được chỗ ở riêng cho từng gia đình mình. Mẹ tôi mời bà ngoại và dì Khánh ở lại với gia đình tôi. Sau tiếp quản Hà Nội: Kinh tế thị trường chuyển dần sang kinh tế quốc doanh Từ cuối năm 1954 trở đi, các cửa hàng vải trên các phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Đường không có hàng, buôn bán gặp nhiều khó khăn. Các cửa hàng xuất nhập khẩu các loại hàng nhung, lụa, len, dạ sang trọng đóng cửa nhiều vì họ đã di cư vào Nam. Riêng cửa hàng của bác Tân Vinh còn ở lại miền Bắc, hàng hóa cũng chẳng còn bao nhiêu. Sau kỳ cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, cửa hàng của bác là Cửa hàng công tư hợp doanh. Các cửa hàng lụa Bombay của Ấn Độ không còn nữa, các chủ cửa hàng đã về nước, không còn buôn bán tại Hà Nội nữa. Hai sập hàng vải của mẹ tôi trước giải phóng cao là như vậy, nhưng đến đầu năm 1955 sẹp hẳn xuống. Mẹ tôi lại chuyển sang buôn bán hàng vải nội địa, buôn bán có tính cách cầm chừng. Ngoài ra mẹ tôi thấy các dì quá khó khăn về kinh tế nên có giúp đỡ các dì mỗi người một số vốn để buôn bán, đỡ một phần nào cho gánh nặng gia đình. Nhưng như các cụ nói buôn bán phải có “duyên” bán hàng, nên chẳng dì nào thành công trong nghề buôn bán cả. Hơn nữa, sau giải phóng Hà Nội, chính phủ kháng chiến tập trung phát triển nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, không mặn mà với việc phát triển kinh doanh của các hộ cá thể riêng lẻ, nên buôn bán không dễ dàng như thời Pháp thuộc. Buôn bán càng lúc càng khó khăn. Tổng số hàng của mẹ tôi được cơ quan có chức năng đến kiểm tra rất cụ thể, trên cơ sở khai báo của mẹ tôi. Nếu khai báo không rành mạch, thiếu trung thực, chủ cơ sở kinh doanh phải bị phạt tiền, nhiều khi bị đình chỉ kinh doanh, hàng hóa được nhà nước trưng thu về kho và trả tiền lại cho thân chủ theo giá quy định. Hàng tháng mẹ tôi phải báo cáo thu, chi, một tháng lời được bao nhiêu để Cơ quan Thuế nhà nước xét duyệt và quyết định số tiền mẹ phải đóng thuế hàng tháng. Từng ngày, mua bán từng thước vải phải có hóa đơn, chứng từ lưu trữ để cuối tháng nộp cho cơ quan thuế kiểm tra xem cơ sở kinh doanh khai báo có trung thực, có chính xác hay không. Mẹ đi bán hàng từ sáng đến tối, mệt vô cùng. Nhưng khi ăn cơm tối xong, mẹ lại ngồi với tôi (lúc này tôi mới 12 tuổi, học lớp Đệ Thất) tính toán lại sổ sách. Tôi tuy nhỏ, nhưng mẹ rất tin tưởng, để tôi làm thư ký, kế toán cho mẹ (đương nhiên cuối cùng có bố tôi kiểm tra). Tôi ngồi làm báo cáo số lượng hàng mẹ đã bán và số hàng tồn kho cho mẹ hàng ngày, hàng tuần và hàng tháng. Hầu như cứ mười ngày hoặc nửa tháng một lần, tôi đi chiếc xe đạp Super Globe lên mua hóa đơn và đóng dấu Phòng thuế vào hóa đơn cho mẹ ở cơ quan Thuế tại phố Hàng Bồ để mẹ có hóa đơn hợp pháp bán hàng. Buôn bán ế ẩm, không có hàng mua thêm vào, hàng bán ra tèo tọp, lại quá nhiều thể thức khai báo, nên mẹ tôi thu vén ổn thỏa, rồi xin nghỉ bán hàng, giao trả hai sập hàng cho nhà nước vào đầu năm 1956. Dì Trà, Bác Yến cũng dẹp luôn sập bán hàng vào thời điểm đó. Theo tôi, mẹ xin nghỉ kinh doanh là đúng thời điểm vì sau này đâu có háng hóa gì bày bán nhiều ở các phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Đường. Hơn nữa vào những năm 1960, nhà nước thực hiện tem phiếu cho từng cán bộ, từng công nhân viên, từng hộ gia đình, đâu còn có gì mà mua với bán ngoài những mặt hàng nằm trong “tiêu chuẩn”. Mẹ tôi rất khổ tâm vì căn nhà của ông bà ngoại ở làng Yên Phụ trong chiến tranh bị bom đạn làm hư hỏng hoàn toàn, phải xây cất lại. Mẹ muốn đứng ra bỏ tiền xây cất lại căn nhà để thờ cúng tổ tiên, nhưng lúc đầu có một thành viên trong gia đình có ý kiến không đồng thuận nên nguyện ước của mẹ tôi bị chựng lại. Chính điều này làm cho bà ngoại tôi rất buồn. Sau một năm mẹ tôi kiên trì thuyết phục và được hầu hết mọi người trong gia đình ủng hộ, nhất là cậu Lân, nên vị thành viên đó mới chấp thuận cho cha mẹ tôi đứng ra cùng anh chị em trong nhà xây cất nhà thờ tổ tiên tại chính miếng đất của ông bà ở làng Yên Phụ. Mẹ tôi rất vui khi căn nhà ở làng Yên Phụ đã xây xong khá khang trang. Bà ngoại mãn nguyện vì căn nhà hai ông bà đã từng trong một thời gian dài nuôi dạy con cái lên người đã được xây cất lại đẹp, hoành tráng. Bác Mẫn đưa ngay gia đình về ở, trông nom nhà cửa và thờ cúng tổ tiên. Sau này, hàng năm cứ đến ngày giỗ, ngày Tết, mẹ tôi và các bác, các chú, các dì lên tập trung tại nhà bác cả, tổ chức cúng, giỗ ông bà, tổ tiên rất đầm ấm và vô cùng vui vẻ. Thông thường buổi tối trước ngày giỗ, mẹ tôi về nhà ở Yên Phụ để gặp gia đình bác Mẫn, các em gái và cậu Lân. Cả gia đình quây quần trong ngôi nhà đầy kỷ niệm, cùng nhau ôn lại những chuyện ngày xưa và rồi để sáng hôm sau, mọi người thức dạy sớm, theo sự phân công của mẹ tôi, chuẩn bị làm cỗ cúng các cụ. Bà ngoại tôi khoảng đầu năm 1957 không ở nhà tôi nữa. Bà lên ở nhà số 30 ngõ Vạn Kiếp (cặp hông một bệnh viện thời Pháp thuộc gọi là Bệnh viện Đặng Vũ Lạc, sau này gọi là Bệnh viện C) để sống với dì Út Khánh. Đây là căn nhà của gia đình dì Trà để bà ngoại, dì út Khánh (lúc này chưa lập gia đình) và gia đình cậu Lân ở. Lúc này bà tôi không còn mạnh khỏe như hồi mới giải phóng (bà đã 76 tuổi ta), đi đứng khá khó khăn. Năm sau (1958) bà tôi vĩnh biệt cõi đời, hưởng thọ 77 tuổi. Sau khi bà ngoại mất, dì Khánh và gia đình cậu Lân vẫn tiếp tục ở căn nhà trên. Đến khi dì Khánh lập gia đình với chú Tạo, sinh em bé gái đầu lòng, cả nhà dì Khánh chuyển về ở hẳn tại căn nhà thuộc ngõ Phố Đội Cấn, Hà Nội. Riêng căn nhà số 30 Phố Vạn Kiếp, mẹ tôi kể, vợ chồng dì Trà sang tên, bán cho cậu Lân theo kiểu vừa bán, vừa tặng em trai để cậu ổn định cuộc sống gia đình,vì cậu tôi đi bộ đội, sau chuyển ngành về làm quản lý dụng cụ, sân bãi tại Sân vận động Hàng Đẫy, lấy đâu ra nhiều tiền mà mua nhà. Sau tiếp quản Hà Nội (sau tháng 10 năm 1954), cha tôi vẫn đi dạy học ở trường cũ, tuy tiền lương vẫn được chính phủ cách mạng quy đổi sang đồng tiền của cách mạng, giữ mức lương như trước kia chính phủ Pháp bào hộ trả, còn cán bộ kháng chiến chỉ được tính lương theo tiêu chuẩn số lượng ki lô gạo như trong kháng chiến. Cha tôi tâm sự với tôi cách trả lương này làm cha tôi rất khổ tâm vì không lĩnh lương thì không được, gia đình lấy gì mà sống, nhưng lấy một số tiền khác biệt so với số gạo cán bộ cách mạng được nhận thì thấy nhục nhã. Vì thế, mỗi khi đến kỳ nhận lương, cha tôi ký vội cho nhanh, rồi cầm gói tiền cho vào cặp, không dám đếm lại vì rất ngại sợ người ta không ưa khi nhìn thấy mấy ông thầy giáo “lưu dung” đếm tiền. Sự cách biệt về lương của “công chức lưu dung của Pháp” và của cán bộ kháng chiến được duy trì trong một thời gian ngắn rồi hủy bỏ, sắp xếp lại lương một cách bình đẳng, theo quy định mới của nhà nước. Dẹp cửa hàng, ở nhà vừa làm nội trợ, vừa làm công việc khu phố. Từ năm 1957 trở đi, mẹ tôi ở nhà làm nội trợ, tham gia công tác khu phố rất tích cực, được bà con yêu mến. Trong khoảng gần chục năm sau này, Hà nội như một đại công trường lao động xây dựng với sự hưởng ứng, tham gia đóng góp công sức của tất cả các tầng lớp nhân dân. Các công trình xây dựng thủ đô như Công trường mở rộng đường Cổ Ngư ra phía Hồ Tây thành đường Thanh Niên, Công trình mở rộng khu vực đền Voi Phục, xây dựng Công viên Thủ Lệ, Công trình trồng cây phi lao, gây rừng dọc theo Sông Nhuệ ở khu Cầu Diễn (sau này gọi là Rừng Thanh niên), Công trường nạo vét hổ Bảy Mẫu ở phía nam thành phố để xây dựng Công viên Bảy Mẫu với những hàng cây, những luống hoa đầy mầu sắc và hương thơm v.v… luôn làm cuộc sống của người dân nhộn nhịp suốt tuần, đặc biệt vào những ngày thứ bảy và chủ nhật, những ngày lao động xã hội chủ nghĩa của các tầng lớp nhân dân thủ đô. Tại các khu phố, mỗi nơi đều có tổ chức hoạt động riêng theo các tổ dân phố, có phong trào thi đua xây dựng tổ dân phố gương mẫu chấp hành chính sách của nhà nước, xây dựng tổ dân phố văn minh, sạch đẹp. Hàng tuần, mỗi khu phố đều tổ chức tổng vệ sinh đường phố, quét vôi trắng vỉa hè, dọn dẹp các bãi rác công cộng v.v…Sau này khi chiến tranh phá hoại của bọn xâm lược mở rông ra đến miền Bắc với những trận ném bom phá hoại vô cùng dã man của bọn xâm lược xuống các khu công nghiệp trọng điểm, các vùng dân cư đông đúc, trong nhân dân nổi lên phong trào thanh niên “Ba Sẵn Sàng”, phụ nữ “Ba Đảm Đang”, vai trò của các tổ dân phố rất quan trọng trong việc động viên bà con gương mẫu tham gia các phong trào yêu nước này. Tại khu phố Bùi Thị Xuân của chúng tôi, mẹ tôi tham gia các phong trào ở địa phương rất nhiệt tình, luôn có tinh thần trách nhiệm cao. Năm 1960, mẹ được bà con tín nhiệm bầu làm tổ trưởng dân phố. Lúc đầu mẹ tôi không dám nhận sợ không đủ trình độ gánh vác công việc của khu phố. Sau được bà con góp ý, hứa hẹn mỗi người một chân, một tay, giúp đỡ để mẹ làm tốt nhiệm vụ tổ trưởng và đặc biệt cha tôi hứa sẽ giúp mẹ tôi hết mình làm công việc của “thư ký” và “cố vấn” cho mẹ ở từng buổi họp của khu phố, mẹ nhận với bà con làm tổ trưởng. Tôi thật sự khâm phục khi thấy mẹ tôi làm rất tốt nhiệm vụ của một tổ trưởng dân phố. Tổ dân phố của mẹ luôn được biểu dương hàng năm. Mỗi lần nói chuyện với tôi, ông Sự, tổ phó phụ trách bảo vệ dân phố, luôn nói về mẹ tôi với một lòng kính trọng. Ông nói ai ai trong khu phố cũng yêu quý mẹ tôi vì mẹ tôi chân tình, luôn giúp đỡ mọi người và luôn vô cùng gương mẫu, đã nói là làm, không quản ngại khó khăn gì cả. Nghe ông nói, tôi rất tự hào về mẹ. Làm tổ trưởng được khoảng trên dưới ba năm, mẹ xin nghỉ để nhường cho các cô trẻ hơn, có trình độ hơn, đảm trách công việc tổ trưởng dân phố. Từ năm 1961 đến tháng 4 năm 1965 tôi theo học đại học, ở nội trú trong Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội, Khu Cầu Giấy, hàng tuần chỉ về nhà một hoặc hai lần, nên tâm sự với mẹ không được nhiều như trước. Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đi bộ đội biền biệt cả chục năm trời, phải xa cha mẹ và gia đình cho đến khi sau hòa bình lập lại, thống nhất đất nước, tôi mới được phép về nhà. Đây là Tết Nguyên đán đầu tiên tôi được ăn Tết Bính Thìn (năm 1976) với bố mẹ và gia đình sau gần mười năm xa cách. Cuộc sống của gia đình sau chiến tranh, đặc biệt khi cha mẹ tôi đã về già Trong thời kỳ hậu chiến (từ tháng 5 năm 1975), cuộc sống của nhân dân từ Bắc vào Nam bước vào thời kỳ “thắt lưng, buộc bụng” rất vất vả. Cha mẹ khuyên tôi công tác ở xa, cha mẹ không góp ý với tôi được nhiều, tôi phải tập trung giải quyết công việc gia đình trong đó, đừng lo nghĩ quá nhiều vế cuộc sống của cha mẹ. Cha tôi nói: “Ở ngoài này, cha mẹ đã có kế hoạch rồi, dè sẻn cũng đủ tiền ăn đến lúc cha mẹ từ biệt cõi đời này, kể cả tiền ma chay nữa, con ạ! Cứ mỗi buổi chiều, ngồi ngắm nhìn gia đình từng đứa con chuẩn bị bữa ăn chiều mà cha mẹ đau lòng. Có cặp vợ chồng gọi là ăn bữa chiều, nhưng thực ra chúng nó đứng gần bể nước, và vào mồm thật nhanh tô mỳ sợi chẳng hề có một miếng thịt. Cha mẹ nhìn chúng nó ăn uống mà ứa nước mắt. Cha mẹ bây giờ phải tần tiện, thu vén làm sao cho đủ sống, không muốn để các con phải lo, mà thực ra lương nhà nước trả các con hàng tháng như vậy làm sao các con nuôi nổi cha mẹ?” Một lần tôi ra Hà Nội công tác thấy cha mẹ già, ăn uống quá kham khổ, tôi không đành lòng. Tôi có tâm sự điều này với Anh Dũng. Ngồi trầm ngâm một lúc, anh cho rằng cách giải quyết tốt nhất là cha mẹ bán căn nhà 123 Bùi Thị Xuân để mua một căn nhà nhỏ hơn, lấy ra một số tiền để cha mẹ bồi dưỡng lúc tuổi già. Tìm mua một căn nhà mặt tiền, diện tích nhỏ hơn một chút, thích hợp để bố mẹ và hai người em là gia đình chú Bình và cô Điệp ở. Còn ở ngoài này, anh Dũng đã có căn phòng của Sở Thể dục thể thao, chị Chi đã có nhà tập thể ở trường Đại học Bách Khoa, cô Đính đã có nhà chồng ở phố Cửa Đông. Riêng tôi ở Sài gòn, cũng có chỗ ở rồi. Trao đổi với tôi, anh Dũng cho rằng ở nhà này chỉ có tôi đề xuất ý kiến này may ra cha mẹ nghe theo vì anh biết cha mẹ rất thương và quý mến tôi, nhất là tôi đi lính xa nhà biền biệt cả hơn mười năm trời mới trở về nhà. Tôi suy nghĩ trong hai ngày liền, thấy điều anh Dũng nêu ra là hợp lý, vì vấn đề mấu chốt là cha mẹ đã già rồi, phải có tiền để tẩm bổ thêm, để mua thuốc chữa bệnh. Con cái lớn rồi, đã yên bề gia thất, ráng tự lo liệu mà sống. Của cải của cha mẹ để lại sau khi qua đời là “lộc” cha mẹ cho, thực chất là tạo “phước đức”” cho con cái. Tôi mang ý kiến của anh Dũng ra bàn với cha mẹ. Ngồi trầm ngâm một lúc, cha tôi nói: “Hùng ạ, cha mẹ biết con ở xa, nói ra điều này là con lo cho cha mẹ. Cha mẹ cám ơn con. Nhưng cha mẹ không thể chiều lòng để theo ý của con được, vì Hùng thấy đấy cuộc sống của anh chị em con với đồng lương nhà nước trả không đủ nuôi sống mình như thế này thì làm sao cha mẹ ngồi ăn cơm có thể nuốt trôi được một miếng thịt hay một miếng cá, trong khi các con, các cháu cứ phải sáng cũng như trưa, cũng như chiều ăn toàn rau xanh, lúc thì luộc, lúc thì xào và một vài bát cơm không độn khoai, thì độn mỳ, hoặc độn sắn, hả Hùng? Rồi con tính tiếp xem, khi cha mẹ quy tiên, nhà cửa chật hẹp, con cái, họ hàng bên nội cũng như bên ngoại đến viếng, phải đứng cả ở ngoài đường hay sao?” Cha mẹ tâm sự như vậy, tôi không thể không đồng ý. Sau này, tôi nói với anh Dũng không nên đề xuất ý kiến này nữa vì cha mẹ không chịu đâu. Sau khi cha tôi qua đời (ngày 16 tháng 4 năm 1983), mẹ tôi bị suy sụp hẳn, sức khỏe yếu đi rất nhiều, chân bị thấp khớp hành hạ, đi lại rất khó khăn. Những năm cuối của thập niên 1980, mẹ tôi bị liệt, không còn đi lại được nữa, mọi thứ từ ăn uống, đến đi tiểu và đại tiện, đến tắm rửa hàng ngày đều do các con thay nhau chăm sóc mẹ. Bác sĩ đến thăm bệnh cho mẹ vô cùng ngạc nhiên và thán phục anh chị em tôi về việc chăm sóc mẹ lúc tuổi già. Bác sĩ cho rằng anh chị em tôi phải tắm rửa cho mẹ rất sạch sẽ vì mẹ tôi nằm liệt trên gường gần một năm trời không hề không có mùi hôi, da thịt vẫn sạch sẽ như những người bình thường. Mẹ từ giã trần thế trong niềm thương tiếc vô hạn của mọi người Một điều rất đặc biệt khoảng đâu tuần cuối tháng 6 năm 1989, Cậu Lân và tôi đều được gia đình ở Hà Nội thông báo mẹ tôi trở bệnh năng, hai cậu cháu sắp xếp công việc ra ngay để kịp gặp mẹ tôi. Tôi vội vã chạy lên trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh gặp anh Lý Hòa, Hiệu trưởng, xin anh cấp cho một giấy giới thiệu đặc biệt đề nghị Hàng Không Việt Nam bán một vé máy bay ra công tác gấp ở Hà nội. Ra đến nơi bán vé, họ trả lời tôi tất cả các vé cho các chuyến bay (sáng, trưa, chiều và tối) ngày hôm sau không còn vé, chỉ còn một hay hai vé cho hai ngày gần cuối tuần. Tôi sốt ruột muốn đi ngay nên hỏi họ có còn vé VIP (hạng Business) buổi sáng hôm sau không? Họ trả lời còn đúng hai vé VIP cho chuyến bay 06g30 sáng hôm sau, ngày 24 tháng 6 năm 1989. Tôi mua ngay một vé VIP, chịu tiền gần gấp đôi vé thường. Riêng cậu Lân tôi lúc đó đã về hưu (lúc đó cậu 64 tuổi), có nhiều thời gian, nên ra xếp hàng để mua vé về Hà Nôi. Chờ đợi cả buổi sáng cậu mới được ưu tiên mua vé ra Hà Nội vào chuyến bay lúc 06g30 sáng ngày 19 tháng 7 năm 1989. Thế là tôi về thăm mẹ trước Cậu Lân gần một tháng trời (khoảng thời gian này đi lại tuyến đường hàng không Hà Nội-Sài Gòn rất khó khăn, chủ yếu dành cho cán bộ đi công tác và phải đăng ký trước cả tháng trời mới có thể có vé máy bay. Nhiều cán bộ không thể chờ đợi được, phải giải quyết đi công tác bằng phương tiện vận chuyển đường bộ (đi xe đò hoặc đi xe lửa). Trưa ngày 24 tháng 6 năm 1989, đúng 11g00, tôi đã về tới nhà ở Bùi Thị Xuân. Bước vào nhà, tôi thấy đầy đủ các chú Triệu, chú Tạo, chú Kính, dì Trà, dì Khánh, và một số anh chị em trong gia đình đang đứng quanh giường, gọi mẹ liên tục nhưng không hề thấy mẹ trả lời, nét mặt mẹ không hề thay đổi. Thấy tôi, dì Trà ôm tôi mếu máo khóc, rồi gọi mẹ tôi: ”Chị Mỹ ơi, thằng Hùng, con trai chị từ Sài gòn về thăm chị này!” Tôi đến ngay mẹ, tay ôm mẹ. Nét mặt mẹ lúc đó dãn ra, mỉm cười. Dì Trà lại mếu máo khóc: ”Chúng em đến thăm chị từ sáng đến giờ, hỏi chị cũng chẳng thèm nói. Khi con trai chị về, chị biết, chị vui, chị cười, Chúng em giận chị rồi. Chúng em về đây để chị vui vẻ với con trai mới về, chị nhé!” Sau đó các chú, các dì ra về. Tôi mang ba lô lên gác, cất dọn đồ đạc, rồi xuống ngồi đút cơm cho mẹ tôi. Lúc đó chị Chi cũng từ Trường Bách Khoa tới, em Đính cũng mới xuống lo tắm rửa cho mẹ. Riêng em Bình lúc này đang công tác ở Tiệp Khắc, không có nhà. Em Điệp chắc bận việc ở cơ quan, buổi chiều tôi mới gặp khi em về nhà. Buổi tối hôm đó, gia đình tôi tụ họp tại nhà Bùi Thị Xuân. Anh Dũng rất vui khi bất ngờ thấy tôi đã ra ngay được Hà Nội. Cả nhà ngồi trao đổi với nhau về tình hình sức khỏe của mẹ, ý kiến của bác sĩ. Tất cả đều nhất trí tập trung mọi sức lực chăm lo tốt nhất cho mẹ. Tôi không có đi chơi đâu, suốt ngày quanh quẩn bên mẹ, đút cơm cho mẹ ăn từng bữa một. Có lần thấy có hàng bánh đúc đi qua, tôi gọi mua, rồi đút một chút xem mẹ có ăn được không. Tôi thấy mẹ ăn ngon lành, tôi rất mừng, nhưng không dám cho mẹ ăn nhiều sợ có chuyện gì xảy ra, chắc chắn tôi sẽ bị bác sĩ và anh chị em trong nhà “cạo đầu “mất. Khi chị Chi và các em đến chăm sóc mẹ, tôi nói sáng đút cơm cho mẹ xong, tôi còn cho mẹ ăn thêm bánh đúc và mẹ ăn rất ngon. Mọi người la tôi ẩu, cho mẹ ăn như vậy, bánh đúc có vôi mà dạ dày mẹ lại không tốt, nhỡ có chuyện gì thí tính làm sao? Tôi cười và nói mẹ đâu có làm sao. Ở nhà với mẹ được hai mươi mốt ngày, thấy mẹ khỏe ra, da đỏ hồng, thỉnh thoảng mẹ nói thì thào được, tôi khá yên tâm, nghĩ mẹ mình chắc chưa có mệnh hệ gì đâu. Trong trường đại học ở TP. HCM chuẩn bị tổ chức Hội nghị Khoa Học vào cuối tháng 7 năm 1989, tôi phải về sớm để chuẩn bị cho hội nghị của Khoa Ngữ Văn Anh. Tôi bàn với anh chị em trong nhà về tình hình sức khỏe của mẹ và chuẩn bị phải quay về thành phố Hồ Chí Minh. Trước khi đi, tôi ngồi một lúc lâu với mẹ tôi, nói chuyện thật chậm để mẹ hiểu và thông cảm cho tôi vì công tác, tôi không ở lại Hà Nội với mẹ được lâu hơn. Trở về Sài Gòn ngày 16 tháng 7 năm 1989, tôi tới thăm Cậu Lân và kể cậu nghe về tình hình sức khỏe của mẹ tôi. Cậu tôi cười và nói động viên tôi chắc mẹ chưa đến nỗi nào đâu. Chiều ngày 18 tháng 7 năm 1989 tôi xuống thăm cậu và gửi cậu một vài món quà về biếu mẹ và anh chị em ở Hà nội vì cậu sẽ bay chuyến 6g30 sáng ngày hôm sau ra ngoài đó. Ngay sáng ngày 20 tháng 7 năm 1989, cậu xuống thăm mẹ tôi. Các anh chị em trong nhà cho cậu biết mẹ mới trở bệnh lại khoảng hai ngày, nằm mê mệt, không ăn uống gì. Sức khỏe của mẹ yếu đi nhiều so với đầu tuần trước, khi tôi còn ở ngoài Hà Nội. Cậu nói với tôi nhìn mẹ con nằm không động đậy, thở thoi thóp làm cậu khóc, nước mắt cứ trào ra. Hôm lên máy bay để ra Hà Nội thăm mẹ tôi, ngồi trên máy bay, linh tính mách bảo, cậu thấy bồn chồn như có điều gì chẳng lành đang xảy ra ở ngoài nhà tại Hà Nội. Xuống máy bay, em Việt ra đón, đưa cậu về chỗ em nghỉ ngơi. Sáng hôm sau, cậu xuống thăm mẹ tôi rất sớm và trào nước mắt khi nhìn thấy mẹ tôi đã chuyển sang bệnh nặng rồi. Mẹ tôi mất ngày 22 tháng 7 năm 1989 (nhằm ngày 20 tháng 06 Âm lịch). Cậu Lân cho tôi hay sở dĩ anh Dũng không gửi điện tín (telegram) báo tin mẹ ra đi cho tôi vì tôi vừa mới ra với mẹ cả ba tuần rồi. Hơn nữa đi lại quá khó khăn, tôi không cách nào về kịp để vĩnh biệt mẹ tôi được, vì ở Hà Nội lúc đó có quy định các đám tang phải giải quyết gọn trong 24 giờ sau khi mất, không được để lâu cả ba ngày như ngày xưa. Em Bình, cũng trong hoàn cảnh như tôi, đang công tác ở Tiệp Khắc, không thể trở về tiễn biệt mẹ được. Cậu tôi cho biết đám tang của mẹ được anh Dũng và anh chị em trong gia đình tổ chức rất chu đáo, bà con lối xóm, bạn bè của mẹ, và các bác, các cô, các chú, các dì, các em và các cháu họ nội và họ ngoại đến đầy đủ, tiễn đưa mẹ con về nơi an nghỉ cuối cùng ở làng Hoàng Mai. Mộ mẹ tôi nằm cạnh mộ bố. Trước khi tiễn biệt, chú Triệu đọc một bài điếu văn rất cảm động, nêu bật công đức của mẹ tôi với gia đình trong dòng họ nội và ngoại. Mẹ tôi suốt đời tận tụy, lúc nào cũng hết sức ngoài chăm lo cho cha, mẹ, anh chị em trong đại gia đình Yên Phụ còn chăm lo cho chồng, con cái trong gia đình riêng của mình hết sức chu đáo. Mẹ là một tấm gương sáng chói cho mọi người noi theo, không ai có thể so sánh được với mẹ. Cậu tôi nói “ông Trời” có mắt cho cậu tôi ra Hà Nội đúng lúc mẹ tôi hấp hối. Chắc đúng là như vậy, vì khi đi đăng ký vé máy bay, cậu được ưu tiên mà phải chờ đợi gần tháng trời. Còn tôi đi theo kiểu “công văn hỏa tốc” mới nhanh được như vậy. Cậu khuyên tôi không nên buồn vì chuyện không ra dự đám tang của mẹ được. Cậu đã làm nhiệm vụ thay tôi tiễn biệt mẹ, tiễn biệt người chị ruột yêu quý nhất của cậu về cõi vĩnh hằng. Ở Ở thành phố Hồ Chí Minh, tôi thường xuyên xuống thăm Cậu ở Đường Nguyễn Tri Phương nối dài (khu doanh trại Bộ Tư lệnh Công Binh trước kia của VNCH) cho đến khi cậu bị bạo bệnh, vĩnh biệt bạn bè, vợ con và các cháu trong gia đình chỉ sau Tết Âm lịch năm 2002 đúng mười ngày. Tôi luôn nhớ khi đến thăm, Cậu thường kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện về mẹ. Cậu nói mẹ không những là chị ruột mà cậu luôn coi mẹ tôi như người mẹ thứ hai vì cậu lớn lên, có vợ con, trưởng thành được như ngày nay là nhờ có mẹ. Điều tôi khẳng định là cậu nói rất thật lòng, rất trân quý mẹ tôi vì sau khi mẹ mất, trên bàn thờ ông bà ngoại ở nhà cậu tại thành phố Hồ Chí Minh chỉ duy nhất có ảnh của mẹ tôi được đặt thứ ba về phía bên trái, bên cạnh ảnh của ông bà ngoại. Khi kể về thời kỳ kháng chiến chống Pháp, cậu tôi nói nếu không có tiếp tế thường xuyên của mẹ tôi thì cả đại gia đình bà ngoại ở Làng Vo lấy tiền đâu mà sinh sống. Cậu còn nói mẹ luôn cho cậu tiền tiêu thường xuyên, và gửi cho cậu mọi thứ khi cậu cần. Cậu cười nói, đi đánh nhau lúc nào vất vả nguy hiểm thì thôi, khi nào có dịp tranh thủ về thăm bà ngoại và gia đình vài ba ngày thì cậu vẫn ghé qua một vài nơi “vùng đệm” ăn phở bò và uống cà phê như thời gian cậu còn ở Hà Nội thời Pháp tạm chiếm. Nhớ đến cậu, tôi không bao giờ quên được câu nói vô cùng trân trọng và quý mến của cậu đối với mẹ, mỗi khi cậu kết luận những câu chuyện kể về mẹ: “Con có một người Mẹ và Cậu có một người Chị trên cả tuyệt vời!” Cậu tôi nói rất “chuẩn”. Đối với tôi, đúng như cậu đã ca ngợi, mẹ tôi là người tuyệt vời nhất của anh chị em trong đại gia đình ở phố Bùi Thị Xuân chúng tôi. Mẹ đã để lại muôn vàn kỷ niệm vô cùng yêu thương không bao giờ phai mờ được trong tâm khảm của anh chị em chúng tôi. Mẹ tôi, Bà Lê Vũ Thị Mỹ, Tổ trưởng dân phố Bùi Thị Xuân (1912 - 1989) Một số hình còn lưu lại về cha mẹ và gia đình chúng tôi ở căn nhà phố Duvigneau ngày xưa tại Hà Nội Căn nhà ở phố Duvigneau (sau được đổi tên là Huyền Trân Công Chúa, rồi tiếp theo là Bùi Thị Xuân), là nơi gia đình tôi sinh sống từ năm 1950. Cây ổi trước cửa nhà được cha tôi trồng kể từ khi tôi vào Nam bộ cuối năm 1967. Cha trồng cây ổi để nhớ ngày tôi ra đi. Tôi xa nhà bao nhiêu năm thì cây ổi trước nhà sống được bấy nhiêu năm. Chiếc cầu thang làm bằng gỗ lim, bóng nhẫy và đen mun theo năm tháng của thời gian.Chính gầm cầu thang được xây dựng kiên cố này là hầm trú ẩn của cha mẹ tôi trong những đợt Mỹ ném bom hủy diệt khu phố Khâm Thiên, bệnh viện Bạch Mai và một số khu dân cư khác ở Hà Nội …cuối năm 1972. Cha mẹ kính yêu của chúng tôi, thầy giáo Nguyễn Tiến Duyến (50 tuổi) và bà Lê Vũ Thị Mỹ (38 tuổi) (Hình chụp năm 1950 tại Hiệu ảnh Ngọc Dung, phố Huế, Hà Nội, nhìn xéo từ Chợ Hôm sang) Hình gia đình chúng tôi chụp tại hiệu ảnh phố Hàng Trống, Hà Nội khoảng cuối năm 1953. Câu chuyện số 3 Thầy giáo dạy nghề Những kỹ sư các khóa đầu tiên sau tiếp quản Hà Nội N gười thầy giáo dạy nghề đó là chính là kỹ sư cơ khí Nguyễn Tiến Dũng, 27 tuổi (thực ra lúc đó anh đã 30 tuổi, nhưng do ở trong vùng tạm chiếm, gia đình phải làm khai sinh rút đi ba tuổi để trốn đi lính trong thời Pháp thuộc), chuyên ngành chế tạo máy. Anh là sinh viên khóa 4, Khoa Cơ khí của Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội. Trường Đại học Bách Khoa Hà nội được thành lập năm 1956, do thầy Giáo sư, Viện Sĩ Trần Đại Nghĩa làm Hiệu trưởng đầu tiên. Ngay năm 1956, trường đã thành lập Liên khoa Cơ - Điện. Từ năm 1960, trường tách hai ngành Cơ khí và Luyện kim ra khỏi Liên khoa Cơ – Điện, thành lập một liên khoa mới có tên là Liên khoa Cơ khí – Luyện kim. Sáu năm rưỡi sau (tháng 8 năm 1966), Liên khoa Cơ khí – Luyện kim tách ra thành ba khoa riêng biệt: Khoa Chế tạo máy, Khoa Động lực và Khoa Luyện kim. Kỹ sư Nguyễn Tiến Dũng là sinh viên Khóa thứ tư (1959 – 1963) của Khoa Cơ Khí. Sau khi tốt nghiệp, anh được phân công về nhận công tác ở nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo, Phố Đoàn Trần Nghiệp, Khu Hai Bà, TP. Hà Nội. Anh được nhà máy bố trí công việc tại Phân xưởng Động cơ Diesel (máy dầu) và Động cơ xăng. Thực chất hai loại động cơ này có nhiều điểm giống nhau. Đó là cả hai loại động cơ đều dùng nhiên liệu hóa lỏng, đều là động cơ đốt trong, và đều hoàn tất công việc trong bốn kỳ gồm quá trình nạp; nén; nổ; và xả, tương ứng với hai vòng quay của trục khuỷu động cơ. Sự khác biệt cơ bản của hai loại động cơ trên nằm ở ba đặc điểm chính, bao gồm loại nhiên liệu sử dụng; hệ thống cung cấp nhiên liệu và kiểu cách đốt cháy nhiên liệu. Sở dĩ tôi biết “hơi bị kỹ” về ngành nghề của anh Dũng vì anh ấy là anh ruột, rất thân với tôi. Trước khi thi tuyển, anh trao đổi với tôi rất nhiều về ngành này. Tôi học sau anh khoảng hai khóa học đại học, nên cũng quan tâm đến ngành chế tạo máy. Hơn thế nữa, nếu sau này không được nhà nước cho phép thi tuyển vào ngành Y Khoa theo nguyện vọng của tôi và cũng là nỗi ao ước của bố mẹ, chắc chắn tôi sẽ xin thi vào ngành của anh vì ngay từ nhỏ tôi rất mê lái xe hơi. Tôi còn nhớ hồi anh Dũng thi đậu Bằng Diplome (Trung học đệ nhất cấp), do chính phủ Pháp – Bảo Đại tổ chức vào cuối tháng 5 năm 1954) tại Trường Trung học Chu Văn An (lúc đó trường ở Phố Cửa Bắc), cha tôi rất vui và rất tự hào về kết quả học tập của con trai cả của mình. Nghe đồn em San, con chú Quyến cũng thi đậu Bằng Diplome, cha tôi chạy ngay lên nhà thím Quyến ở phố Hàng Đường, thăm gia đình và chúc mừng em San (chú Quyến tôi mất đã lâu. Thím ở vậy, không tái giá, nuôi con ăn học). Bố rất vui, nói với thím Quyến rằng phải cho hai anh em Dũng và San học thành tài, phải tạo điều kiện cho hai anh em học tiến lên càng cao càng tốt! Sau tiếp quản Hà Nội (tháng 10 năm 1954), hệ thống giáo dục Việt Nam chịu ảnh hưởng của ba hướng đào tạo hoàn toàn khác nhau: 1) Chế độ giáo dục 12 năm của Pháp; 2) Chế độ giáo dục thu gọn lại, đào tạo chỉ trong 9 năm ở vùng chiến khu, và 3) Chế độ giáo dục 10 năm của Liên Xô và các nước trong phe Xã hội chủ nghĩa. Vị Tư lệnh ngành Giáo dục lúc đó là Thầy Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên, Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà Sử học, Nhà Dân tộc học, Nhà Giáo dục học, Nhà nghiên cứu văn hóa Việt nam, phải giúp chính phủ đưa ra quyết định lựa chọn tốt nhất, thích hợp cho nền Giáo dục Việt nam (Thày Huyên là Bộ trưởng Giáo dục lâu đời nhất, liên tục trong 28 năm 350 ngày, kể từ tháng 11 năm 1946 đến tháng 10 năm 1975). Năm học đầu tiên sau tiếp quản thủ đô (1955 – 1956), anh tôi theo học Lớp Đệ Tam B2 của trường Trung học Chu Văn An (sau trường chuyển từ Phố Cửa Bắc về Khu vực Trường Bưởi cũ, phố Thụy Khuê, Hà nội). Từ niên khóa 1956 – 1957 trở đi, trong hệ thống giáo dục có sự chuyển làn sang hệ đào tạo 10 năm của Liên Xô, cụ thể Hệ đào tạo Cấp 1 (trước là Hệ đào tạo Tiểu học) rút đi một năm, chỉ còn bốn năm học với các tên gọi là lớp 1, lớp 2, lớp 3 và lớp 4. Hệ đào tạo Cấp 2 (trước là Hệ Đào tạo Trung học Đệ Nhất cấp) rút đi một năm, chỉ còn ba năm học với các tên gọi là lớp 5, lớp 6 và lớp 7. Hệ Đào tạo Cấp 3 (trước là Hệ Đào tạo Trung Học Đệ Nhị cấp) giữ nguyên ba năm, với các tên gọi lớp 8, lớp 9 và lớp 10. Theo đúng sự chuyển làn trong Hệ Đào tạo Giáo dục, niên khóa 1956 - 1957, anh Dũng chuyển sang học lớp 9B2, và tiếp theo, niên khóa 1957 - 1958 anh học lớp 10B2 của Trường Trung Học Chu Văn An. Sau khi thi tốt nghiệp Phổ thông trung học, anh tôi nộp đơn xin thi tuyển vào Trường Đại Học Bách Khoa. Trúng tuyển, anh trở thành sinh viên Khóa 4 của Khoa Cơ khí từ năm 1959. Năm 1963, tốt nghiệp đại học, anh về nhận công tác tại nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, Hà Nội. Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo: Vừa làm, vừa học để nhanh chóng tiếp cận với khoa học tiên tiến… Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo Hà Nội, đứa con đầu lòng của ngành cơ khí nước ta, được thành lập trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp với lực lượng công nhân ban đầu chỉ vẻn vẹn có sáu hoặc bảy người và một ít công cụ sản xuất vô cùng thô sơ. g Nhà máy phát triển được sản xuất trong chiến tranh chủ yếu dựa vào nhiệt tình yêu nước và kinh nghiệm lâu năm trong nghề của số anh em công nhân ít ỏi trên. Lúc đó, trình độ của cán bộ và công nhân toàn nhà máy không ai có trình độ trung cấp hoặc cao cấp về kỹ thuật. Sau khi tiếp quản thủ đô (sau tháng 10 năm 1954), nhà máy tập trung lấy việc bồi dưỡng trình độ khoa học, kỹ thuật cho cán bộ và công nhân là nhiệm vụ hàng đầu. Trình độ văn hóa của cán bộ, công nhân sau giải phóng quá yếu, người khá nhất mới học xong cấp 1. Chính vì vậy, nhà máy đặt nhiệm vụ trọng tâm tập trung triển khai công tác bổ túc văn hóa thật đa dạng, phấn đấu mỗi người mỗi năm lên một lớp. Ban Giám đốc nhà máy cùng các phòng chức năng phân phối thời gian thật thích hợp với từng loại cán bộ, công nhân, phù hợp với điều kiện và tổ chức sản xuất của nhà máy. Cụ thể công nhân làm theo ca được bố trí giờ học theo ca (có đủ các lớp từ sáng đến tối; ít người hay nhiều người cũng tổ chức lớp học); cán bộ chuyên môn, hành chính theo học bắt buộc các lóp học các buổi tối thứ hai và thứ năm hàng tuần. Lúc ban đầu triển khai, nhà máy tập trung mở các lớp dạy văn hóa lớp 1, thậm chí mở cả một vài lớp vỡ lòng. Dần dần theo năm tháng, nhà máy mở tiếp các lớp cao hơn, rồi sau lên các lớp cấp 2, rồi các lớp cấp 3. Chủ trương “vừa học, vừa làm” của nhà máy được anh chị em cán bộ và công nhân ủng hộ vì thực chất mọi người không có điều kiện học tập trung. Đến thăm nhà máy vào những năm này, ai cũng nhận ra một không khí náo nhiệt khác thường trong phong trào thi đua vừa lao động sản xuất, vừa học tập bổ túc văn hóa. Nhà máy đã mời được một nguồn giáo viên khá dồi dào, có chất lượng từ các Trường Đại Học Bách Khoa, Trường Đại Học Kinh tế - Kế hoạch, và một số kỹ sư có nhiều kinh nghiệm thực tế đang làm việc ở trong nhà máy. Thành công của nhà máy là đã kết hợp được hai nguồn giáo viên, tạo ra một sự gắn bó chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành với một nội dung lên lớp sát với thực tế sản xuất của nhà máy, tạo được nguồn cảm hứng học tập của cán bộ, công nhân trên lớp học. Kỹ sư Nguyễn Tiến Dũng về nhận nhiệm vụ ở Nhà máy Trần Hưng Đạo đúng vào thời điểm nhà máy rất cần sự đóng góp về năng lực và trí tuệ của anh. Bắt tay vào làm việc, anh thanh niên trên 25 tuổi này suốt ngày tham gia hết công việc này đến công việc khác của nhà máy. Nhiều lúc đến 21h00 anh mới về nhà ăn cơm chiều. Cơm phần anh thường xuyên phải ủ lại cho khi anh về còn nóng. Ăn cơm xong, nghỉ ngơi một chút, anh lại thức khuya soạn bài cho các lớp bổ túc anh sẽ dạy ngày hôm sau. Nói chuyện với anh, thấy anh lúc nào cũng vui vẻ với đủ loại công việc anh đang làm ở nhà máy, tôi cũng thấy vui. Anh rất thích thú với công việc ở phân xưởng động cơ diesel và máy nổ vì anh được trải nghiệm những kiến thức mà anh đã học ở đại học. Ngay ở những lớp bổ túc văn hóa ban ngày cũng như ban đêm tại phân xưởng, anh luôn lồng giữa kiến thức văn hóa chung và kiến thức chuyên môn để lên lớp làm các bác, các chú, các anh, các chị công nhân rất thích, rất quý thầy giáo kỹ sư trẻ, luôn vui tính, yêu đời và có trình độ. Nhà tôi ở phố Bùi Thị Xuân. Đi xuống cuối phố, qua khỏi ngã tư Bùi Thị Xuận – Tô Hiến Thành là đến nhà máy. Anh tôi luôn mặc một bộ quần áo xanh công nhân, đội mũ casquette xanh (mũ công nhân), đi đôi dép cao su đen đi làm. Trông anh chẳng khác các bác, các chú công nhân trong nhà máy. Tôi nhớ một buổi chiều, trên đường trở về nhà, anh đi cùng với một bác công nhân già, vừa đi vừa tranh luận rất sôi nổi về động cơ vĩnh cửu. Bác công nhân khẳng đinh trên thế giới phải có có động cơ vĩnh cửu. Anh Dũng nói về lý thuyết cũng như trên thực tế không thể có động cơ vĩnh cửu. Cuộc tranh luận chưa ngã ngũ thì đã về đến nhà, anh hẹn bác ngày hôm sau sẽ trao đổi tiếp. Chiều hôm đó, anh ngồi ăn cơm với gia đình, có cả bố và mẹ tôi cùng tất cả anh chị em. Tôi hỏi anh chuyện gì mà anh và bác công nhân tranh luận hăng vậy. Anh kể lại chuyện động cơ vĩnh cửu rồi nói bác đó hăng lắm, học ở lớp không nghỉ ngày nào, luôn nêu rất nhiều thắc mắc, nhiều lúc không biết giải thích sao cho bác hiểu. Anh tỏ vẻ rất quý bác. Anh nghĩ hồi nhỏ, bác không có điều kiện được đi học nên bây giờ được học văn hóa thì đã lớn tuổi. Tôi góp ý với anh nên coi ý kiến của bác là có phần khả thi, tiếp tục để bác nghiên cứu cho bác phấn khởi, thậm chí để bác lên báo cáo trong hội nghị cải tiến khoa học kỹ thuật của nhà máy cho có khí thế, cho cuộc tranh luận với nhiều cán bô kỹ thuật khác trong nhà máy thêm phần “chất lượng”, để rồi chính bác sẽ là người đưa ra kết luận cuối cùng. Anh Dũng hoàn toàn đồng ý với tôi về cách giải quyết câu chuyện “động cơ vĩnh cửu” này. Vừa sản xuất, vừa chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ Trong lúc phong trào thi đua lao động sản xuất rộng khắp trên các lĩnh vực nông, công nghiệp và các ngành phụ trợ khác của nền kinh tế đang hừng hực diễn ra tại khắp nơi trên đất Bắc, người dân ở hậu phương làm việc hết sức mình để ủng hộ tiền tuyến đánh giặc trong những năm đầu của thập niên 60, chính phủ Mỹ dựng lên “Sự kiện Vịnh Bắc bộ”, cho phép chính thức leo thang cuộc chiến tranh ra miền Bắc bằng cách cho không quân Mỹ ném bom tàn phá thị xã Hòn Gai và các vùng phụ cận ngày 05 tháng 08 năm 1964, với một vu không bỉ ổi “trả thù hai cuộc tấn công của Hải Quân Nhân Dân Việt nam vào hai ngày 02 tháng 08 và ngày 04 tháng 08 năm 1964 vào hai tàu khu trục USS Maddox và USSTurner Joy của Hải quân Mỹ”. Sau “Sự kiện Vịnh Bắc bộ”, toàn miền Bắc chuyển sang vừa lao động sản xuất, xây dựng kinh tế vững chắc, để chi viện cho tiền tuyến phía Nam, vừa chuẩn bị tích cực đáp trả lại cuộc chiến tranh phá hoại dã man, một cuộc chiến leo thang ra miền Bắc của chính phủ Mỹ. Nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo không có loại trừ. Ngoài các công việc thường ngày sản xuất và học tập nâng cao kiến thức, nhà máy phải nhanh chóng củng cố và phát triển đội dân quân tự vệ. Hầu như tất cả các cán bộ, công nhân của nhà máy đều rất hăng hái xin vào đội dân quân tự vệ, hăng say tập luyện quân sự, tập thao tác các loại súng chiến đấu như súng cao xạ, súng CKC, súng AK….(tất nhiên ngoài giờ sản xuất và học văn hóa). Anh Dũng trở thành một chiến sĩ cùng nhóm công nhân của phân xưởng động cơ máy Diesel và máy nổ, phụ trách một khẩu súng cao xạ của nhà máy. Thời gian này, tôi ít có dịp tâm sự nhiều với anh vì tôi đang học năm cuối cùng ở Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội, hàng tuần chỉ được về thăm nhà vào chiều thứ bảy và quay lại trường vào chiều tối chủ nhật. Bố mẹ tôi nói nhiều hôm anh xuống nhà máy liên tục, ăn cơm rất trễ vì quá nhiều công việc. Có đêm báo động, còi hú vang lên khắp thành phố, anh lại vội vàng chạy tới nhà máy trực chiến cùng đồng đội. Tốt nghiệp đại học, tôi gia nhập quân đội vào ngày 29 tháng 04 năm 1965. Mặc dù đến năm 1967 tôi mới được điều động vào chiến trường Nam bộ, nhưng trong những năm chưa vào chiến trường, tôi đi công tác nhiều nơi trên đất Bắc, ít khi ở nhà được lâu, nên ít được gặp anh. Anh Dũng tiếp tục say mê ngày đêm trong công tác ở phân xưởng, trong giảng dạy các lớp bổ túc, và đặc biệt sau này với một công việc rất mới, cùng bạn bè trong phân xưởng thường xuyên lên nóc nhà máy bất kể ngày, đêm trực chiến bên cạnh khẩu pháo cao xạ luôn được lau chùi rất sạch sẽ. Tuy chiến tranh nhưng vẫn tích cực chuẩn bị cho xây dựng đất nước trong tương lai. Mặc dù chiến tranh ngày càng khốc liệt ở hai miền Nam - Bắc, nhưng chúng ta luôn chuẩn bị tích cực cho việc xây dựng đất nước thời kỳ hậu chiến. Theo thỏa thuận giữa hai chính phủ nước ta và Tiệp Khắc, một đoàn cán bộ, công nhân kỹ thuật chuyên ngành cơ khí được cử sang học và thực tập cách quản lý, điều hành một nhà máy cơ khí hiện đại tại nước bạn trong ba năm (từ tháng 10 năm 1967 đến tháng 10 năm 1970). Kỹ sư Nguyễn Tiến Dũng, anh trai của chúng tôi, được nhà máy giới thiệu đi học khóa này và chính thức được Bộ Cơ Khí và Luyên Kim phê chuẩn. Tôi nghe nói anh sang công tác ở Tiệp khắc đạt chất lượng giỏi. Ở nước bạn, ngoài học và tự học thêm từ chuyên môn bằng tiếng Tiệp Khắc, anh nói được một chút tiếng Nga, tiếng Anh và đặc biệt anh nói thông thạo tiếng Pháp nên được các kỹ sư Tiệp Khắc, nhất là những kỹ sư lâu năm, nhiều kinh nghiệm, rất kính nể và họ rất thích trao đổi chuyên môn với anh bằng tiếng Pháp. Sự thân thiết và kính trọng anh đến mức độ các kỹ sư lớn tuổi trên đôi lúc mời anh về nhà chơi, ăn tiệc tại gia đình mỗi khi có dịp. Họ tâm sự họ rất thích nói chuyện bằng tiếng Pháp với anh tôi vì ở đất nước họ, tầng lớp trí thức trẻ ngoài tiếng Tiệp Khắc, họ thường nói tiếng Nga và thi thoảng, một chút tiếng Anh, rất hiếm người nói được tiếng Pháp. Sống và làm việc cùng với các anh, các chị trong đoàn, nhiều chuyến đi dã ngoại, anh tôi đảm trách luôn nhiệm vụ phiên dịch từ tiếng Tiệp Khắc sang tiếng Việt và từ tiếng Việt sang tiếng Tiệp Khắc cho anh chị em trong đoàn, đặc biệt trường hợp các anh, các chi muốn đi mua sắm tại các cửa hàng. Học và thực tập ở Tiệp Khắc đến khoảng tháng 10/1970, anh Dũng trở về nước. Ngày 4/3/1973, trong bức thư gửi vào cho tôi ở Chiến trường Sài Gòn – Gia Định, anh cho tôi hay đã trở về nước, và thời gian này anh đã chuyển sang dạy nghề, làm việc tại Hà Nội, không còn làm ở cơ quan cũ. Anh cả tôi, thầy giáo dạy nghề, Kỹ sư Nguyễn Tiến Dũng đang làm việc tại thủ đô Prague – Tiệp Khắc (năm 1968) Những năm cuối cuộc chiến… Trong năm 1973, qua các thông tin chính thức trên báo chí, cũng như nghe đài Tiếng nói Việt nam ở Hà Nội, nhân dân ta biết được âm mưu và ý đồ của Nixon nhằm phá hoại hiệp định Paris, kéo dài cuộc chiến tranh, tạo nên những chiến thắng giả tạo để hỗ trợ ông ta bước vào Nhà Trắng một nhiệm kỳ nữa. Chính phủ ta mở một cuộc tổng động viên chưa từng có, huy động sức người và sức của cho tiền tuyến để đập tan ý đồ đen tối của ông Nixon, và đánh một đòn chí tử, quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra chỉ thị mỗi nhà, không loại trừ một gia đình nào, phải có người ra tiền tuyến đánh giặc cứu nước. Ngay con trai thủ tướng cũng ra chiến trường. Tôi nghe nói khoảng tháng 9 năm 1973, cơ quan anh Dũng điều động anh đi vào chiến trường miền Nam công tác. Anh chuẩn bị sẵn sàng lên đường, không hề vương vấn điều gì. Cha tôi không được vui khi nghe tin anh bị điều đi công tác ở miền nam. Hơn nữa, lúc đó có tin đồn tôi đã hy sinh ở sông Vàm Cỏ Đông làm cha tôi đứng, ngồi không yên. Đang buồn, ngồi chờ đợi tin tức hư, thực ra sao về thằng con trai thứ hai đang ở chiến trường nam bộ (B2), lại nhận được tin anh Dũng được điều động vào nam công tác. Cha tôi suy nghĩ, cho rằng mấy ông cán bộ tại cơ quan của anh làm sai chỉ thị của Thủ tướng, bèn lên cơ quan anh đang làm việc, phản đối kịch liệt. Đại diện Vụ Tổ chức Cán bộ ra tiếp, xin lỗi bố tôi và hứa sẽ giải quyết, bố trí người thay thế anh Dũng và khẳng định với cha tôi anh sẽ không phải đi chiến trường nữa, vì gia đình đã có người đang ở miền nam rồi. Sau sự kiện này, anh Dũng phải kiểm điểm trước cơ quan, nhận khuyết điểm không tìm cách ngăn cản, để cha tôi lên làm ầm ĩ ở cơ quan với những phát ngôn không có lợi. Sau đó, anh bị điều xuống Nam Hà làm lao động chân tay ở một công trường trong một thời gian không xác định. Ông Hiệu trưởng Trường Dạy nghề Nam Hà quen biết anh, xin cơ quan cho anh về giảng dạy tại trường ở Nam Hà. Thế là từ giữa năm 1974, anh được chính thức điều về dạy nghề tại trường trên (thực ra số giáo viên đào tạo nghề như anh là của quý, không có nhiều), nhưng với điều kiện phải cắt hộ khẩu xuống Nam Hà và lương tháng do địa phương trả. Đề cập đến “dạy nghề”, một công việc anh Dũng làm say mê, đầy tâm huyết cả một cuộc đời, cần phải hiểu rằng ngay sau khi tiếp quản thủ đô, ngày 18 tháng 5 năm 1955, chính phủ đã thành lập Vụ Quản lý nhân công, trực thuộc Bộ Lao động để quản lý và đào tạo nghề cho công nhân. Từ cuối năm 1968 trở đi, nhu cầu đào tạo công nhân kỹ thuật càng ngày càng tăng về số lượng nên ngày 9 tháng 10 năm 1969, chính phủ quyết định thành lập một cơ quan quản lý và đào tạo công nhân kỹ thuật lớn hơn gọi là Tổng cục đào tạo công nhân kỹ thuật, trực thuộc Bộ Lao Động. Những năm sau hòa bình lập lại, thống nhất đất nước, do nhu cầu đào tạo số lượng lớn công nhân kỹ thuật trong toàn quốc, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra quyết định ngày 24 tháng 6 năm 1978, tách Tổng cục đào tạo công nhân kỹ thuật ra khỏi Bộ Lao Động, thành lập Tổng Cục Dạy Nghề (cấp ngang Bộ), trực thuộc Chính phủ, sau này là trực thuộc Hội Đồng Bộ Trưởng. Tôi nghe nói thủ tướng đã mời đích danh chú Hạnh, nguyên xứ ủy nam kỳ, làm Tổng Cục Trưởng. Điều khá khôi hài là sau khi hòa bình được vãn hồi trên đất nước, chuyện anh Dũng bị điều đi lao động công trường một thời gian chẳng ai buồn nhắc tới, coi đó như một sự kiện hy hữu, có tính “lịch sử”. Năm 1976, anh Dũng được chính thức điều về Hà Nội, làm chuyên viên trong bộ phận theo dõi quá trình đào tạo và phát triển của hệ thống dạy nghề trong toàn quốc tại Tổng cục đào tạo công nhân kỹ thuật thuộc Bộ Lao động, nhưng anh vẫn chưa được chuyển hộ khẩu trở lại Hà Nội, vả vẫn phải nằm trong biên chế của Trường Dạy nghề Tỉnh Nam Hà, hàng tháng phải đi xe đạp xuống Tỉnh Nam Hà lĩnh lương. Anh Dũng công tác như vậy trong gần hai năm, không ca thán một lời, vẫn như hồi nào, rất tích cực và luôn có tâm huyết trong lĩnh vực chuyên môn. Đến năm 1978, về nhận nhiệm vụ Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Dạy Nghề trực thuộc chính phủ, tôi được biết chú Hạnh đã ạy g ự ộ p ợ ạ nhanh chóng giải quyết trường hợp “hy hữu và khá bất hạnh” của anh, yêu cầu cấp có thẩm quyền trả hộ khẩu cho anh về lại Hà Nội và hàng tháng anh chính thức lĩnh lương tại cơ quan đang quản lý anh là Tổng Cục Dạy Nghề ở Hà Nội. Được làm lại nghề cũ: Chuyên viên dạy nghề Được trở lại vị trí làm việc sở trường của mình, anh Dũng lại nhiệt tình, lao vào mọi công việc liên quan đến đào tạo, đến dạy nghề. Anh cùng với đồng nghiệp như anh Thào, anh Nghĩa, anh Vỵ, Anh Nhiên v.v…đi kiểm tra các cơ sở dạy nghề liên tục từ Bắc vào Nam, được các cơ sở dạy nghề khắp nơi kính trọng. Tết Bính Tý 1976, tôi trở về nhà ăn Tết sau gần 9 năm biền biệt xa cách cha mẹ và gia đình. Tôi và anh Dũng ngồi tâm sự rất lâu trong đêm giao thừa ở trên phòng của anh tại gác hai. Tôi hỏi anh về sự vụ cha tôi lên làm ầm ĩ trên cơ quan cuối năm 1973 và chuyện về anh phải đi lao động ở công trường gần nửa năm trời. Ngồi trầm ngâm một lúc, anh cho tôi hay chuyện cha tôi lên cơ quan anh làm ầm ĩ về vụ anh được điều vào công tác ở chiến trường cuối năm 1973, anh không hề hay biết. Trong thâm tâm, anh không hề có ý định từ chối, không đi công tác ở miền nam. Anh nói ngoài chuyện cha mẹ già, anh có vướng bận vợ con gì đâu. Hơn nữa, chuyện anh được cử sang Tiệp Khắc thực tập ba năm trời, được hưởng sung sướng hơn những người khác rồi, thì việc đi công tác miền nam là chuyện đương nhiên, có gì đâu phải thắc mắc. Biết bao gia đình có đến hai hoặc ba người con đang ở chiến trường phía nam chứ đâu chỉ có riêng một mình gia đình nhà ta. Anh cười nói rằng, với những trường hợp từ chối đi công tác ở miền nam, khoảng 99% bị nhà nước sa thải khỏi cơ quan. Điều này đã được kiểm chứng hoàn toàn chính xác thông qua câu chuyện về một anh bạn thân của tôi. Chính anh đã viết thư gửi qua bưu điện, khuyên em trai tìm cách từ chối đi bộ đội vào những năm 1972-1973, và cuối cùng qua khâu kiểm duyệt, chuyện khuyên em trai bị bại lộ và anh đã bị sa thải, không được tiếp tục làm việc ở Bộ Ngoại Thương nữa. Anh Dũng nói với một tấm lòng khoan dung, độ lượng : “Em tính, quyết định điều động đi công tác ở miền nam phải do Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ ký. Nếu hủy quyết định thành ra ông ta quan liêu, trực tiếp thừa nhận “khuyết điểm”, thiếu trách nhiệm, hồ đồ trong việc cử người đi công tác ở miền nam hay sao?” Chuyện cơ quan không cử anh đi công tác ở miền nam nữa, và cũng không đặt vấn đề kỷ luật sa thải chính là một thiện chí “sửa sai”. Họ chỉ ra một quyết định điều động anh đi lao động ở một công trường dưới Nam Hà. Anh biết cuộc đời đang gặp khó khăn, nhưng anh vui vẻ chấp nhận, chẳng muốn nghĩ làm gì cho mệt xác, vì xét cho cùng, trong bối cảnh chiến tranh đang ngày càng diễn ra vô cùng ác liệt, chẳng một ai có thì giờ đứng ra bênh vực mình đúng hay sai cả. Tôi đồng tình và vô cùng cảm phục với cách suy nghĩ có tình, có lý của anh. Sau này, tôi nghe anh kể Tổng Cục Dạy Nghề được tổ chức lại, trở thành Vụ Dạy Nghề trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo (bắt đầu từ năm 1987). Anh Nguyễn Tiến Dũng lại được trở về công việc ngày xưa, là một chuyên viên dạy nghề. Anh luôn làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, được bạn bè, đồng nghiệp trong Nam, ngoài Bắc quý mến. Tôi cảm nhận rất rõ điều này mỗi khi tôi ra công tác ở Hà Nội, được hân hạnh gặp gỡ những đồng nghiệp của anh. Mỗi khi các anh nói chuyện về trình độ chuyên môn kỹ thuật, về tư cách đạo đức của anh Dũng, những bạn bè đồng nghiệp đều luôn tỏ ra kính trọng và quý mến anh, cụ thể như các anh Vụ phó Nghĩa và Thảo, các anh Hải (sau ngày hòa bình lập lại, được điểu về làm Giám đốc Sở Lao động và Thương binh xã hội Tỉnh Đồng Nai), Vỵ, Nhiên v.v…