🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nghìn Xưa Văn Hiến - Tập 3 Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Bìa và minh họa: Vũ Xuân Đông Trình bày bìa: Phạm Quốc Cường https://thuviensach.vn Phần 8 Triều Trần đổ nát Núi Lam Sơn dựng cờ cứu nước Sớ chém bảy người https://thuviensach.vn Chu Văn An người làng Quang Liệt nay là xã Thanh Liệt huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội. Thuở nhỏ, An sớm là người có nghị lực, ngày đêm chuyên cần học tập, lại chăm sửa mình cho trong sạch, không cầu danh lợi. Lớn lên đi thi, Chu Văn An đậu Thái học sinh (tiến sĩ) đời Trần. Vốn là người ham đọc sách hơn ham mũ cao áo rộng nên ông không chịu ra làm quan mà lui về mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung, giáp làng Quang Liệt. Cái học của ông chủ ở thực hành, cốt xét cho rõ lẽ, giữ ngay chính lòng mình, trừ gian tà, bỏ thói bậy. Học trò trong nước nghe danh đổ về theo học ông đông lắm. Trọng đạo làm thầy, giữ mình ngay thẳng, ông rất nghiêm nghị với học trò. Nhiều người sau này thành đạt rồi, như Phạm Sư Mạnh người ở Hiệp Sơn (Hải Dương) và Lê Quát người huyện Đông Sơn (Thanh Hóa) đều đỗ Thái học sinh, làm quan đến chức Nhập nội hành khiển (Tể tướng) mà khi về thăm thầy cũng phải quỳ lạy dưới giường. Hễ được thầy bảo ban cho mấy lời thì lấy làm hân hạnh lắm. Bằng có điều gì không phải, thầy liền quở trách ngay, có khi còn quát mắng đuổi đi, không cho vào gặp. Khắp https://thuviensach.vn thiên hạ từ quan đến dân đều tôn quý ông, kính trọng ông như bậc thầy. Tiếng tăm ông lừng lẫy động đến tận cung cấm. Vua Trần Minh Tông hâm mộ, liền vời ông ra làm Tư Nghiệp Quốc Tử Giám, giảng sử sách cho thái tử. Đáp lại thành lý của vua, ông đành rời Huỳnh Cung vào kinh thành nhận chức. Khanh tướng trong triều, nho sĩ bốn phương hay tin ấy đều hoan hỉ. Quan tư đồ Chương Túc Hầu Trần Nguyên Đán(1) làm bài thơ mừng ông, trong có câu: Học hải hồi lan tục tái thuần Thượng trường Sơn Đẩu đắc tư nhân. (Bể học xoay chiều sáng, phong tục trở lại thuần hậu. Trường cao cấp nhất nước mời được ông thầy sáng như sao Bắc Đẩu, vững tựa núi Thái Sơn). https://thuviensach.vn Vua Minh Tông mất, Trần Dụ Tông lên ngôi, chơi bời hư hỏng, phung phí của kho, tàn hại sức dân. Năm Quý Mão (1363), Dụ Tông sai đào hồ lớn ở vườn ngự nơi hậu cung; trong hồ chất đá giả làm núi, bốn mặt khai sông cho nước chảy vào. Trên núi trồng tùng trúc cùng nhiều thứ hoa thơm cỏ lạ, lại thả chim quý, thú hiếm. Phía tây hồ trồng hai cây quế, lập một toà điện gọi là Lạc Thanh điện và gọi hồ ấy là Lạc Thanh Trì. Lại đào một hồ nhỏ khác, bắt nhân dân Hải Đông chở nước biển về đổ vào đó để nuôi các hải vật như đồi mồi, ba ba, cá bể; buộc dân chúng Hoá Châu (Thừa Thiên) chở cá sấu đem về thả. Dụ Tông còn dung túng bọn nịnh thần lộng hành; nghe viên Ngự y Trâu Canh giết trẻ con lấy mật hoà với rượu làm thuốc uống cho khoẻ người; rủ bọn hào phú Đình Bảng (Bắc Ninh), Nga Đình (Hà Tây) vào cung đánh bạc mỗi tiếng bạc đến ba trăm quan để mua vui. Khi ấy, dân bị lụt lội mất mùa, người chết đói đầy đường. Thế mà Dụ Tông vẫn cứ nhơn nhơn, miệt mài hoang chơi không hề lo nghĩ; lũ quyền thần ra sức che đậy, bày trò mua vui xu nịnh nhà vua. Việc triều chính đổ nát, lòng người li tán, dân tình oán hận, nhóm nhau nổi dậy như ong. Đau lòng vì việc nước, Chu Văn An mấy phen mặc triều phục đội mũ, cầm hốt đến trước bệ rồng giập đầu can ngăn. Dụ Tông vẫn không mảy may động lòng, lại có ý lảng tránh, không cho gặp. Chu Văn An bèn viết một tờ sớ dâng vua, xin chém bảy tên nịnh thần để trừ kẻ lộng quyền, giữ yên phép nước. Người đời vẫn gọi biểu ấy là Thất trảm sớ (sớ xin chém bảy người). Sớ đệ vào, Dụ Tông nể bảy người quyền quý đó nên bỏ qua. Chu Văn An thất vọng liền treo trả áo mũ vua ban ở ngoài cửa khuyết(2), bỏ về quê, mở lại trường dạy học. Ít lâu sau, nhân ra chơi vùng Chí Linh (Hải Dương), thấy phong cảnh núi Phượng Hoàng đẹp, ông dời nhà đến ở, tự mệnh danh là Tiều Ẩn(3) làm thơ, dạy học. Dụ Tông có lần tỏ ra hối tiếc, muốn mời ông lại trao cho chức quyền. Ông thấy Dụ Tông vẫn hư hỏng thì cố từ chối, nhất định https://thuviensach.vn không chịu ra. Bà Huệ Từ Thái hậu biết chuyện, mới bảo Dụ Tông: - Người ấy là bậc cao hiền. Nhà vua không thể bắt người ta làm bề tôi được thì làm sao có thể giao chính sự cho người ta. Vua giữ lòng kính trọng, thường sai người đem lễ vật đến ban tặng. Ông đều kiếm cớ chối từ. Lần nào khó từ tạ phải nhận, ông liền đem cho hết. Năm Canh Tuất (1370), ông mất tại nhà riêng ở Chí Linh. Vua Trần Nghệ Tông mới lên ngôi, nhưng vốn mến tài đức ông, nên sai quan đại thần về tận quê ông để tế, lại ban tên thuỵ là Văn Trinh và cho thờ ở Văn Miếu. Bức thư vạn lời N ăm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly cướp ngôi vua Trần. Một viên quan nhà Trần là Bùi Bá Kỳ, bỏ trốn sang nhà Minh, Bá Kỳ xưng là Nam Triều Trung Nghĩa dâng tờ biểu lời lẽ rất thống thiết xin đem quân sang cứu lập lại ngôi vua cho con cháu họ Trần. Bấy giờ vua Minh đang muốn thu phục cả thiên hạ, nay nhân cớ ấy mới bảo bọn Chu Năng, Trương Phụ, Mộc Thạnh: https://thuviensach.vn - Cha con Hồ Đê(4) can tội bội nghịch, quỷ thần không dung. Thế mà thần dân trong nước giấu giếm che chở, vậy thì tất cả nước đều là kẻ có tội, không thể nào tha thứ được. Chu Năng, Trương Phụ đều nói: - Họ Trần được phong, đời đời lo giữ chức phận tiến công. Cha con Hồ Đê làm việc thoán nghịch. Nạn của công thần không thể không cứu; tội của cuồng tặc không thể không trị. Vì nghĩa mà xuất binh, ai dám không theo! Vả chăng, dân nước Nam đời đời đội ơn họ Trần, cái tình đang còn; nay ta ra hịch giúp Trần diệt Hồ, dân Nam tất nhóm nhau bỏ theo thiên triều(5). Họ diệt Hồ xong, tìm bọn kì lão trong nước xướng lên là họ Trần đã tuyệt, ta nhân đấy mà nhập Giao Chỉ vào nội địa. Thế là tốn một công mà lợi hai việc vậy. Vua Minh thấy hợp ý bèn y lời. Cuối năm Bính Tuất (1406) bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh dẫn hơn hai chục vạn quân ồ ạt vào nước ta. Bùi Bá Kỳ cũng theo chân về. Đến ải Pha Luỹ, Trương Phụ treo bảng kết tội Hồ Quý Ly giết vua, nêu danh diệt Hồ giúp Trần, Phụ lại viết lời lẽ xảo trá ấy vào ván gỗ thả xuống sông cho theo dòng về xuôi. Bởi thế, nhiều người nhẹ dạ đã ngã lòng tin theo. Quân nhà Hồ tan vỡ, cha con họ Hồ đều bị bắt. Đầu năm Đinh Hợi (1407), Trương Phụ vờ ra chiếu tìm con cháu họ Trần. Lũ ngụy quan Mạc Thuý giả danh là kì lão nước ta làm tờ biểu tâu lên vua Minh: “Họ Trần không còn ai nữa, mà đất An Nam vốn là đất Giao Châu ngày xưa. Vậy xin đặt làm quận huyện như cũ”. Vua Minh vội xuống chiếu đổi An Nam làm Giao Chỉ và sát nhập vào bản đồ nhà Minh. Bùi Bá Kỳ thì được bổ chức Tham Nghị, làm quan cai trị ở ty Bố Chính(6). Việc bạo ngược ấy của giặc làm người nước ta ai nấy đều căm giận. Khi ấy ở làng Mộ Trạch, phủ Bình Giang (Hải Dương) có một https://thuviensach.vn người tên là Lê Cảnh Tuân. Cảnh Tuân ngày trước vốn chơi thân với Bùi Bá Kỳ thấy vậy bèn viết một bức thư dài vạn lời gửi cho Kỳ. Người đời quen gọi là Vạn ngôn thư. Thư đại lược viết: 1- Nhà Minh đã có sắc ban cho Các hạ(7) theo quân (Trương Phụ) tiến đánh, đợi khi bắt được họ Hồ thì chọn lập con cháu họ Trần làm vua; lại gia thêm tước cho Các hạ ở lại giúp nước. Thế mà nay họ Hồ đã bị bắt, con cháu họ Trần không thấy lập, lại thấy đặt ti Bố Chính, cho Các hạ làm quan cao; còn họ Trần thì chỉ được cái đền thờ với mấy người đến quét tước đèn hương. Vậy Các hạ có thể tâu lại với vua Minh nới lời của quan lại kì lão nước ta kể rằng con cháu họ Trần chưa tuyệt, để nhà Minh ban chiếu sắc khác lập lại ngôi nhà Trần: ấy là thượng sách(8). 2- Không thế nữa, xin Các hạ thôi quan chức quay về tình nguyện làm viên quan coi giữ đền thờ họ Trần: ấy là trung sách. 3- Nhược bằng Các hạ cứ tham chức quan cao, tiếc bổng lộc nhiều: ấy là hạ sách vậy. Nếu như Các hạ theo thượng sách thì tôi đây tự ví như những vị nhân sâm, cam thảo, chỉ xác, trần bì đựng trong giỏ thuốc, để tuỳ Các hạ lấy dùng(9). Các hạ mà theo trung sách, tôi xin làm một kẻ bưng khay chén đi theo để Các hạ sai bảo. Còn như Các hạ theo hạ sách, thì tôi xin lui mà tìm nơi vắng vẻ để câu, kiếm chỗ thanh nhàn để cày cho qua đi cái tuổi sống thừa… Bá Kỳ được thư thì giật mình hổ thẹn. Nhưng Kỳ cũng không theo được như trong thơ của Lê Cảnh Tuân để dâng biểu xin vua Minh lập lại nhà Trần. Tuy nhiên, từ bấy giờ, Kỳ cũng không ra nha môn dự việc với bọn quan lại, chỉ ở nhà, thu nạp các triều thần cũ nhà Trần phẫn chí đi ẩn. Tháng Mười năm ấy (Đinh Hợi - 1407), Trần Nguyệt Hồ và Phạm Chấn dấy quân xưng là con cháu nhà Trần, trương cờ Trung Nghĩa nổi lên ở Bình Than (Hải Dương). Trương Phụ ngờ Bá Kỳ hai lòng ngầm https://thuviensach.vn giúp nghĩa quân, liền hạ lệnh tống ngục giải về Kim Lăng (Nam Kinh). Quân Minh đến nhà Kỳ tịch biên gia sản, bắt được bức thư của Lê Cảnh Tuân. Phụ lập tức sai truy lùng ráo riết. Cảnh Tuân phải thay họ đổi tên trốn tránh. Đến năm Giáp Ngọ (1414), nhà Minh đánh dẹp xong các cuộc khởi binh của Trần Ngỗi, Trần Quý Khoáng, mới cho mở trường học ở các phủ, huyện, châu để kén người cho làm nguỵ quan. Cảnh Tuân muốn nhân cơ hội ấy tìm người xướng nghĩa, mưu việc phục quốc, mới dấn thân ra làm chức giáo thụ. Chẳng ngờ, ít lâu sau, việc làm của Cảnh Tuân không lọt qua mắt bọn tay chân giặc. Có kẻ tìm đến cáo cấp với Trương Phụ: https://thuviensach.vn - Người ấy lời lẽ khác thường, không chịu rửa bỏ hết ý nghĩ cũ, không phải là kẻ thực lòng quy phục. Nếu không tra xét rõ tông tích, khám phá hết mưu đồ, e sau này khó tránh khỏi tai hoạ. Phụ vội sai người ngầm lấy bút tích Cảnh Tuân để so, mới biết Tuân chính là người viết bức Vạn ngôn thu. Phụ tức khắc cho quân đến vây bắt giải sang Trung Quốc. Ba con Cảnh Tuân đưa cha đến biên giới đều khóc xin được theo để hầu hạ báo hiếu. ông ung dung gọi các con lại, bảo nhỏ: - Thái Điên là con trưởng nên theo ta. Còn hai con Thúc Hiển và Thiếu Đĩnh phải về phụng thờ tổ tiên mưu việc báo nước! Thúc Hiển, Thiếu Đĩnh vâng lời, vái lạy cha và anh rồi quay về Đông Quan(10), Thượng thư Hoàng Phúc coi cả hai ti Bố Chính và Án Sát muốn thu phục Hiển và Đĩnh, bèn gọi đến cho đi học, hứa nếu thực lòng theo sẽ trao cho chức tước làm quan. Thúc Hiển, Thiếu Đĩnh bấm nhau giả nghe lời để tạm náu mình chờ đợi thời cơ. Được vài năm, nghe tin Lê Lợi dấy binh, hai anh em lập tức bỏ trốn vào Lam Sơn ứng nghĩa, lập được nhiều công. Lê Cảnh Tuân và con là Thái Điên sang Kim Lăng. Nghe Lê Cảnh Tuân, người viết bức Vạn ngôn thư, có tiếng là “trung quán nhật nguyệt” (trong suốt cả hai vầng mặt trăng, mặt trời), vua Minh muốn biết mặt liền cho gọi lên Yên Kinh (Bắc Kinh). Cảnh Tuân vào gặp cứ đứng trân trân, nhất định không chịu quỳ lạy. Vua Minh đỏ mặt quát hỏi: - Ngươi xui Bá Kỳ lập con cháu họ Trần âm mưu làm phản, thế nghĩa làm sao? Cảnh Tuân điềm nhiên đáp: https://thuviensach.vn - Ta là người nước Nam, chỉ lúc nào cũng nghĩ là nước Nam còn! Kẻ lạ vào nhà không phải là chủ thì chó phải cắn. Đó là lẽ đương nhiên, còn hỏi làm gì nữa! Vua Minh giận dữ, tức khắc ra lệnh tống Lê Cảnh Tuân và Thái Điên xuống ngục Cẩm Y. Hai cha con mặt không biến sắc, ung dung bước vào ngục tối, sau đều nhịn ăn mà chết. Gác thù riêng báo đền nước Đ ặng Tất, người huyện Thiên Lộc, phủ Nghệ An (Cao Lộc, Hà Tĩnh), có ba người con trai: Đặng Dung, Đặng Doãn, Đặng Thiết. Tháng Mười năm Đinh Hợi (1407), con thứ vua Trần Nghệ Tông là Trần Quỹ xưng là Giản Định Đế dấy quân ở Trường Yên (Ninh Bình). Vừa nhóm binh, Quỹ liền bị quân Minh kéo đến vây đánh phải chạy về Nghệ An. Đặng Tất vốn là quan nhà Hồ, giặc bức bách quá phải trá hàng, nhận ra làm đại tri châu ở Hoá Châu; nay nghe tin Quỹ khởi nghĩa liền giết sạch bọn quan lại nhà Minh ở đất ấy, đem cả ba con cùng quân sĩ ra tôn phù. Tất gả con gái cho Quỹ và được phong làm Quốc công. Một cựu thần nhà Hồ khác là Nguyễn Cảnh Chân cũng hưởng ứng, đem con là Nguyễn Cảnh Dị về theo. Bởi thế, quân lực của Trần Quỹ dần dần mạnh lên. Năm sau, Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân cùng Trần Quỹ dẫn quân tiến vào chiếm Thuận Hoá, trở ra lấy Tân Bình, Nghệ An, https://thuviensach.vn Diễn Châu, Thanh Hoá rồi ruổi binh ra Bắc. Dân các lộ đều nổi lên, thanh thế to lắm. Vua Minh vội điều động bốn vạn binh, sai Kiềm Quốc công Mộc Thạnh, Binh bộ thượng thư Lưu Tuân sang cứu viện. Đặng Tất, Cảnh Chân đắp luỹ rào chông ở hai bờ và đóng cọc giữa dòng sông Bồ Cô (Ý Yên - Nam Định) để chờ giặc. Mộc Thạnh, Lưu Tuấn cùng bọn Lữ Nghị, Hoàng Phúc đem đại quân thuỷ bộ xuống quyết chiến một trận để phân thắng bại. Hai bên đánh nhau dữ dội suốt một đêm một ngày. Cha con Đặng Tất, Cảnh Chân và các tướng đều dốc lòng trổ sức cự địch, chém được đầu Đô ti Lữ Nghị, Thượng thư Lưu Tuấn, Tham chinh Lưu Dục, Đô chỉ huy Liễu Tống. Mộc Thạnh thua to, trốn thoát được vào tháng Chạp năm Mậu Tý (1408). Trần Quỹ muốn tràn lên vây đánh Cổ Lộng rồi thẳng tiến về Đông Quan, Đặng Tất can: - Xưa Đường Thái Tông dùng binh hay lấy thế chẻ tre để giành thắng lợi vì Thái Tông có quân đông tướng mạnh, binh sĩ được luyện tập, chiến khí lương thực đầy kho. Nay nhà vua đem quân từ xa tới, đánh giặc liền tay không nghỉ, người ngựa đều hao hụt, lương thực vũ khí chưa tiếp tới, binh lính các lộ chưa nhóm xong. Lấy quân mệt nhọc ngoài đường đánh quân liều chết trong thành sao tránh khỏi thất bại! Xin hãy bắt hết giặc còn sống sót trốn tránh để trừ hậu hoạ trước đã, rồi sau sẽ chỉnh đốn quân lực, sửa sang chiến khí tiến ra Bắc cũng không muộn. Vua tôi bàn cãi dùng dằng chưa quyết. Mộc Thạnh được viện binh từ Đông Quan tới đón, liền bỏ thành Cổ Lộng chạy thoát. Việc ấy làm Trần Quỹ phật ý, sinh ra nghi ngờ Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Dưới trướng Trần Quỹ bấy giờ có Nguyễn Quỹ và Nguyễn Mộng Trang. Nguyễn Quỹ, Mộng Trang vốn là kẻ bất tài, theo Trần Quỹ chỉ là hóng hớt hư danh nên bấy lâu vẫn có ý ghen https://thuviensach.vn ghét tị hiềm với Đặng Tất, Cảnh Chân. Nay nhân thế liền ỏn thót gièm pha: - Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân chuyên quyền định đoạt, nếu không sớm tính liệu đi thì sau này khó mà chế(11) được. Trần Quỹ là người hèn kém nhu nhược, chí khí thấp như ngọn cỏ. Khi nhà Hồ bị diệt, Quỹ vội ra hàng nhà Minh. Nhưng vì Quỹ cũng được họ Hồ phong tước vương nên lại sợ giặc Minh vin cớ đó mà bắt giải về Kim Lăng, bèn bỏ trốn. May sau được Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân tôn phù, ra công giúp rập, Quỹ mới có được cơ ngơi to lớn. Bởi thế, khi nghe bọn Quỹ, Trang nói vậy, Trần Quỹ chợt lo sợ, vội nghe theo. Quỹ giả vờ mời Đặng Tất, Cảnh Chân đến bàn việc quân. Tất, Chân lòng ngay dạ thẳng được vua gọi thì về. Vừa vào đến thuyền, Trần Quỹ sai người mai phục sẵn, đổ ra chém chết Đặng Tất ngay trên thuyền. Cảnh Chân đi sau, thấy vậy kinh hoảng vội quay đầu chạy. Quỹ hô tay chân đuổi theo, giết nốt. Đặng Dung nghe tin dữ thì bưng mặt khóc oà lên ba tiếng rồi lau ráo nước mắt, bảo tướng sĩ dưới quyền: https://thuviensach.vn - Vận nước không may, anh hùng ôm hận. Thương thay, thương thay! Tướng sĩ Hoá Châu nhiều người tức giận, muốn tính chuyện trả thù cho chủ soái, nói: - Việc nước chưa xong lại nghe lời xu nịnh mà giết bề tôi trung, vua thế để sao được! Đặng Dung nghiêm sắc mặt mắng: - Hiếu nhưng phải lấy trung làm trọng. Nợ nước chưa đền, giặc thù còn kia, sao lại xui ta nghĩ đến chuyện nhà mà quên nợ nước. Thế sao gọi là hiếu được! Đoạn dịu giọng bảo: - Nhà vua cầm cương mà không biết ngựa nào là ngựa hay. Dẫu có nhọc lòng đến mấy cũng chỉ tốn sức. Ta đi thôi, tìm minh chúa(12) mà tôn phù! Dứt lời, cùng hai em dẫn quân bản bộ bỏ đi ngay. Cảnh Dị cũng kịp đến hợp quân theo về Nghệ An. Đầu năm Kỷ Sửu (1409), Đặng Dung, Cảnh Dị ra Thanh Hoá rước cháu nội vua Trần Nghệ Tông là Trần Quý Khoáng vào Chi La (Hà Tĩnh) và lập làm vua. Quý Khoáng lên ngôi đặt niên hiệu là Trùng Quang Đế, phong Đặng Dung làm Đồng binh Chương sự, Cảnh Dị làm Thái bảo, Nguyễn Suý làm Thái phó. Bấy giờ, ngoài Bắc thì có Trần Quỹ, ở Nghệ An thì có Trần Quý Khoáng. Thấy thế, Đặng Dung mới bàn với Cảnh Dị và Nguyễn Suý: - Một nước mà hai vua thì lòng người khó theo. Giản Định và Trùng Quang tuy là hai nhưng đều là con cháu một họ Trần. Nên https://thuviensach.vn đưa Giản Định về hợp lại cùng lo toan việc nước cho dân biết mối quy tụ mà chuyên tâm tôn phù. Dị và Suý cũng nói: - Giản Định là con thứ tiên đế, Trùng Quang là cháu nội. Ta nên tôn Giản định làm Thái Thượng Hoàng, Trùng Quang thì giữ ngôi vua. Thế là vừa đúng theo thường điển bản triều(13) lại vừa hợp với tôn ti hoàng tộc. Mọi người đều khen phải, cử Nguyễn Suý dẫn đoàn du binh đi đường tắt ra Ngự Thiên (Thái Bình) bất ngờ đánh úp, bắt được Giản Định Trần Quỹ đưa về Nghệ An. Đặng Dung, Cảnh Dị được tin, vội đem quân ra ngoài thành lạy chào. Trần Quỹ thấy Đặng Dung, Cảnh Dị mặc võ phục đeo gươm, oai phong lẫm liệt thì sợ hãi không yên. Đặng Dung, Cảnh Dị biết ý, sau này mỗi khi có việc vào chầu đều bỏ hết võ phục, khí giới không mang. Tướng sĩ biết chuyện, ai cũng khen lắm. Từ khi thu về một mối, quân lực nghĩa quân càng mạnh, thanh thế càng lớn. Minh Thành Tổ phải hai lần cử Trương Phụ làm tổng binh cầm bốn năm vạn quân sang cứu khốn cho Mộc Thạnh, Hoàng Phúc. Đặng Dung khi thì giữ cửa Hàm Tử, cùng với Cảnh Dị trấn ở Bình Than quyết chiến với giặc, khi lui về đóng cọc lấy đá lấp cửa bể Thần Đầu để cự địch, lại hợp với Cảnh Dị nhiều phen tung quân thuỷ ra Bắc đánh phá. Giặc Minh bị tổn hại rất nhiều, vất vả và lao đao mà vẫn không làm gì được Đặng Dung, Cảnh Dị. Bởi thế, khi bị vua Minh gọi về, Trương Phụ lo lắm, vội dâng biểu tâu rằng: “Nay vì thủ lĩnh giặc là Trần Quý Khoáng, đảng giặc là Nguyễn Suý, Hồ Cụ, Nguyễn Cảnh Dị còn ở Diễn Châu, Nghệ An bức gần Thanh Hoá; Đặng Dung lãnh quân lấp cửa bể Thần Đầu, cửa sông Phúc Thành, chiếm giữ các đường xung yếu ở Thanh Hoá, ra vào cướp phá cửa bể Đại An. Nay điều hết quan https://thuviensach.vn quân về, sợ rằng Kiềm Quốc công Mộc Thạnh binh ít không địch nổi”. Mãi sau này, xong việc Bắc chinh đánh Thát Đát (Mông Cổ), đầu năm Quý Tỵ (1413), Trương Phụ mới dồn hết đại binh cùng bọn Mộc Thạnh, Hoàng Phúc, Phương Chính, Tiết Tụ, Chu Vinh, Trần Húc, Chu Quảng, Hoa Anh, Sư Hựu, Dương Hồng, quân đông tướng mạnh chia hai đường thuỷ bộ đánh tràn vào Thanh Hoá, Nghệ An, Hoá Châu. Nghĩa quân tan vỡ dần. Đặng Dung, Cảnh Dị, Nguyễn Suý rước Quý Khoáng lui về Thuận Châu (Quảng Trị), bày trận ở sông Ái Tử (một nhánh sông Thạch Hãn) để cự địch. Giặc tung hết quân kị, quân thuỷ bộ ồ ạt tiến đánh. Quân ta chống lại quyết liệt. Một đêm, Đặng Dung dẫn quân cảm tử dùng thuyền nhỏ tiến thẳng vào đại bản doanh của Trương Phụ đánh úp. Quân Dung phóng lửa đốt thuyền giặc rồi vác dao kiếm trèo lên chém giết. Dung cưỡi một chiếc thuyền nhẹ xông trận, dùng cung tên bắn ngã nhiều tên. Thấy một chiếc thuyền rất to, trên có lá cờ suý, biết là thuyền Trương Phụ, Đặng Dung xách gươm nhảy sang định bắt sống. Tiếc thay, Đặng Dung không nhận được mặt Trương Phụ. Trong lúc Đặng Dung đang ngợ tìm, Trương Phụ nhanh chân lẻn ra, nhảy vội xuống một chiếc thuyền con trốn thoát. Sau bữa đó, Phụ căm tức thấu xương, càng thúc quân cố chết mà đánh. Nghĩa quân thế yếu, quân ít, sau tan vỡ hết, bị bắt bị giết rất nhiều. Đặng Thiết, em Đặng Dung cũng bị giặc bắt ở trận ấy. Đến tháng Chín, Trương Phụ xua quân đánh dồn nghĩa quân lên rừng sâu. Quân Trương Phụ bổ vây bốn phía, Đặng Dung và em là Đặng Doãn, Nguyễn Cảnh Dị và Nguyễn Suý liều chết phá vây, song không thành, đều lần lượt bị giặc bắt. Cảnh Dị bị thương nặng vẫn chỉ vào mặt Trương Phụ mắng: - Chính ta muốn giết ngươi bây giờ lại bị ngươi bắt! https://thuviensach.vn Đoạn, không ngớt lời chửi Trương Phụ. Phụ tức điên người bèn sai moi gan, chặt đầu Cảnh Dị để trả thù. Ít lâu sau, Quý Khoáng cũng bị bắt nốt. Trương Phụ đưa tất cả về Đông Quan. Tháng Tư năm Giáp Ngọ (1414), Phụ sai người giải Quý Kháng, Đặng Dung, Nguyễn Suý sang Yên Kinh. Giữa đường, đánh lừa quân canh, Quý Khoáng nhảy xuống sông tự tử. Đặng Dung cũng gieo mình theo xuống nước. Còn Nguyễn Suý, quân canh thấy thế thì giữ chặt. Nguyễn Suý bị giam cầm ngặt quá, không làm gì được bèn giả bộ thản nhiên nói cười, ngày ngày cùng quân canh đánh cờ vui vẻ. Dần dần quen nhờn, quân canh vô ý, Suý vác bàn cờ đập vỡ đầu quân canh rồi cũng trẫm mình xuống dòng nước. Trước đó ít lâu, sau mấy trận giao phong thất bại, thấy việc nước khó thoát khỏi cảnh đắm chìm, Đặng Dung ngậm ngùi gửi nỗi hận vào thơ: Thù nước chưa xong đầu đã bạc Gươm mài mấy độ bóng trăng soi. Ăn cỗ đầu người https://thuviensach.vn Bấy giờ là vào mùa hạ năm Quý Tỵ (1413), Trương Phụ cùng lũ Mộc Thạnh, Trần Húc, Dương Hồng, Chu Quảng… dồn hết quân hùng tướng mạnh vào đánh Nghệ An. Thanh thế giặc lớn lắm. Quân ta địch không lại. Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị. Nguyễn Suý phải rước vua Trùng Quang lui về Hoá Châu (Quảng Bình) định dựa vào thế hiểm trở của đất ấy mà cố thủ. Trương Phụ chiếm Nghệ An nhưng chỉ được toà thành không, còn vua tôi Trùng Quang thì đã cao bay xa chạy nên Phụ tức lắm, quyết đuổi theo vây bắt. Mộc Thạnh can: - Hoá Châu núi cao biển rộng, chưa dễ mà lấy được. Trần Húc cũng bàn thêm: - Từ khi thủ lĩnh giặc là Quý Khoáng nổi lên, quan quân đã mấy lần vào đánh dẹp, chưa lần nào chiếm được Hoá Châu vì chỗ ấy đất hiểm, dễ bị phục binh. Trương Phụ vẫn khăng khăng: https://thuviensach.vn - Tôi sống được là ở Hoá Châu, tôi có chết cũng là ở Hoá Châu. Hoá Châu chưa bình xong thì tôi còn mặt mũi nào trông thấy Chúa thượng nữa. Khi ấy, dưới trướng Phụ có tên ngụy quan là Phan Liêu, con Phan Quý Hựu. Hựu trước cũng vác gươm theo hầu Trùng Quang được phong làm Thiếu bảo. Đến năm Nhâm Thìn (1412), Hựu làm phản, đem Liêu ra hàng. Cha chết, Liêu được Trương Phụ cho thay cha làm tri phủ Nghệ An. Nay thấy bọn Mộc Thạnh, Trần Húc can ngăn, Liêu sợ Phụ nghe theo mà rút quân về Bắc, nghĩa quân từ Hoá Châu lại ra, tất Liêu không thoát khỏi tội mất đầu như bọn Trần Nhật Chiêu, Phạm Thế Căng năm nọ. Liêu vội vàng đem tất cả binh tình của nghĩa quân và địa thế núi sông miền Thuận Hoá nói hết với Trương Phụ. Bởi thế, Phụ càng nhất định đánh Hoá Châu. Tin Trương Phụ đang sửa soạn gấp để tràn tới Hoá Châu làm kinh động vua tôi Trần Trùng Quang. Nhà vua vội triệu tướng sĩ lại bảo: - Việc nước phải khi bất lợi, quân số hao hụt, mười phần không còn đến ba bốn, lương thực khí giới đều vơi cạn. Tình thế bức bách, các khanh có kế gì cứu nguy, cứ nói. Thái bảo Nguyễn Cảnh Dị tâu: - Bấy lâu Minh Thành Tổ vẫn có ý muốn chiêu dụ. Nay nên cử người đi sứ dâng biểu cầu phong, giả xin thần phục làm kế hoãn binh để nới bớt sự kiềm chế của Trương Phụ. Vua hỏi: - Ai vì ta làm việc ấy? https://thuviensach.vn Quần thần đang chọn người để tiến cử thì một viên quan bước ra nói: - Thần tuy bất tài, nhưng cũng xin được làm việc ấy. Mọi người đều nhìn xem ai, hoá ra Nguyễn Biểu. Biểu là người xã Bình Hồ, huyện Chi La, phủ Nghệ An (Đức Thọ, Hà Tĩnh) đậu Thái học sinh cuối đời Trần, làm quan đến chức Điện tiền thị ngự sử. Giặc Minh sang cướp nước, Biểu lui về quê nhà ngấm ngầm chiêu mộ hương binh chờ dịp dấy quân. Năm Kỷ Sửu (1409), nghe tin Đặng Dung, Cảnh Dị lập cháu Trần Nghệ Tông là Trần Quý Khoáng làm Trùng Quang Đế, xướng nghĩa cần vương ở huyện nhà, Biểu tức khắc dẫn hương binh đến hưởng ứng. Từ bấy giờ Biểu luôn ở bên vua dốc sức giúp rập, một lòng trung trinh báo đền nợ nước. Trùng Quang thấy Biểu nhận đi sứ thì mừng lắm, thân đến bên cầm tay nói: - Khanh đi sứ, trẫm còn mong mỏi gì hơn nữa. Hiềm một nỗi, Trương Phụ là kẻ hung ác bạo ngược lại đang đắc chí, tất sẽ ỷ thế làm càn. Bởi vậy, khanh đi chuyến này lành ít dữ nhiều, nên thận trọng giữ mình. Nếu như trời còn phù hộ nước Nam ta, việc nước mà thành, công ấy quả là hiếm có vậy. Nguyễn Biểu tâu: - Nước địch đè lấn, vua phải lo thì bề tôi có lỗi. Thần chịu ơn dày của nước, nghĩa phải ra đi, lo việc ứng đối, dẫu có chết chắc sẽ không để nhục mệnh vua. Dứt lời, Nguyễn Biểu xin sửa soạn đi gấp. Vua tôi đều bịn rịn. Nhà vua cảm khái vì lòng trung nghĩa của Nguyễn Biểu sắp dấn thân vào hang hùm để lo việc nước, mới làm một bài thơ quốc âm tiễn biệt: https://thuviensach.vn Mấy vần thơ cũ ngợi hoàng hoa Trịnh trọng rày nhân mở khúc ca Chiếu phượng mười hàng tơ cặn kẽ Vó câu ngàn dặm tuyết xông pha Tang bồng đã bấm lòng khi trẻ Khương, quế thêm cay tính tuổi già Việc nước một mai công trọn vẹn Gác Lân danh tiếng rọi lâu xa.(14) Nguyễn Biểu ứng khẩu hoạ lại để tạ ơn: Tiếng Ngọc từ vâng trước bệ hoa Ngóng tai đồng vọng thuở âu ca Đường mây vó kí lần lần trải Ải tuyết cờ mao thức thức pha Há một cung tên lồng chí trẻ Bội mười vàng sắt đúc gan già Hổ mình vả thiếu tài chuyên đối Dịch lộ ba ngàn dám ngại xa.(15) https://thuviensach.vn Nguyễn Biểu đến Nghệ An, quân Minh ra giữ lại, đưa Biểu vào gặp Trương Phụ. Phụ dàn quân bản bộ hai hàng, gươm tuốt trần, đứng suốt dọc đường từ cổng thành vào quân trướng. Nguyễn Biểu đi người không, theo sau chỉ có một quân hầu bưng hòm sắc đựng tờ biểu. Quân giặc đứa nào cũng trừng mắt nhìn, sát khí đầy mặt. Nguyễn Biểu vẫn thản nhiên đi đứng đường hoàng. Phụ ngạo nghễ ngồi trên ghế cao tiếp Biểu, định bắt Nguyễn Biểu đứng ngoài sân để làm nhục. Nguyễn Biểu biết ý, khoát tay gạt hàng gươm của lũ vệ sĩ, ung dung bước lên ngang bàn Phụ. Phụ quát lớn: - Vào gặp đại thần của thiên triều sao không lạy? Nguyễn Biểu bình thản như không, đáp: - Ông vâng mệnh thiên tử mang chiếu sang đây để tìm họ Trần. Ta cũng vâng mệnh vua Trần cầm biểu đi sứ để cầu phong. Ông là bề tôi, ta cũng là bề tôi mà lại buộc nhau lạy, xưa nay có việc ấy không? Vả lại, nếu ta cư xử với ông theo lễ vua tôi, e rằng tội chiếm đoạt ngôi vua vượt ra ngoài phận bề tôi của ông khó tránh. Biết Nguyễn Biểu đáo để, chẳng phải tay vừa, Trương Phụ lảng qua chuyện khác. Phụ hạch: https://thuviensach.vn - Sao chúa ngươi dám phản nghịch, lỗi đạo với thiên tử? Nguyễn Biểu nói: - Thiên tử xuống chiếu xuất binh sang đây, nói là để phù giúp vua Trần nước tôi diệt nhà Hồ chiếm đoạt. Nay nhà Hồ đã dẹp xong, vua nước ta là con cháu họ Trần ứng mệnh thiên tử ra nhận chiếu để lấy lại nước cũ. Thế sao gọi là nghịch được? Phụ tức lắm đập bàn quát tháo: - Được. Để xem ngươi còn làm phách nói cứng nữa không? Nói đoạn hầm hầm bỏ vào. Lát sau, quân Minh dọn cơm rượu mời Nguyễn Biểu: - Quan tổng binh tôi thết tiệc ông. Nhìn mâm cơm chỉ có chai rượu với liễn sứ lớn đựng một đầu người nước ta bị giặc giết đem nấu chín, Nguyễn Biểu hiểu ý. Ông nén giận, mặt không biến sắc, điềm nhiên thò đũa khoét hai con mắt bỏ vào miệng ăn như không. Đoạn, nâng chén rượu cười ha hả: - Mấy khi ta được xơi thịt người Ngô(16)! Rồi gật gù vuốt râu, lớn tiếng ngâm vang một bài thơ quốc âm tức cảnh: Ngọc thiệt trân tu đã đủ mùi Gia hào thêm có cỗ đầu người Nem công chả phượng còn thua béo Thịt gu gan lân vẫn kém tươi https://thuviensach.vn Cá lõi lộc minh so cũng một Vật bày thỏ thủ bội hơn mười Kia, kia ngon ngọt tày vai lợn Tráng sĩ như Phàn tiếng đề đời(17) Trương Phụ không khuất phục được Nguyễn Biểu thì càng tức nhưng cũng thầm phục Biểu, bèn thả cho đi, Phan Liêu biết tin vội vàng đến xin ra mắt, ton hót với Phụ. Liêu nói: - Biểu đến gặp tướng quân: trước uy vũ mà không chịu khất, không lạy tướng quân như lạy chủ, không chịu hạ chủ là kẻ phản nghịch, lại giỏi ứng đối, khí phách ngang tàng. Biểu chính là bề tôi nanh vuốt của Quý Khoáng. Sao tướng quân lại thả hổ về rừng? Trương Phụ nghe vậy thì giật mình tỉnh ngộ, vội sai quân kị tức khắc đi đường tắt đuổi theo. Thấy quân Minh hùng hổ lao tới, Nguyễn Biểu biết không thoát bèn ung dung đứng lại bên bờ sông Lam, cắn ngón tay lấy máu viết lên thành cầu bảy chữ: “Thất nguyệt, sơ nhất nhật, Nguyễn Biểu tử” (Ngày mồng Một tháng Bảy, Nguyễn Biểu chết). Đến quân trướng của Trương Phụ, Nguyễn Biểu phẫn uất giận tròn xoe đôi mắt, chỉ vào mặt Phụ mắng luôn: - Trong bụng toan tính việc đánh chiếm nước người ta, ngoài mặt lại phô trương là quân nhân nghĩa; trước nói lập con cháu họ Trần, bây giờ lại đặt quận huyện; không những cướp bóc của cải lại còn giết hại nhân dân, bọn mày thật là lũ giặc bạo ngược. Trương Phụ tức điên người, thét võ sĩ lôi Nguyễn Biểu ra trước cửa chùa Yên Quốc dưới chân núi Thành Sơn để chém đầu. Trên đường đi, Nguyễn Biểu vẫn không ngớt lời chửi mắng giặc… https://thuviensach.vn Vua Trùng Quang hay tin thì vật mình than khóc và thân làm bài văn tế tế Nguyễn Biểu, một tấm gương nghĩa liệt đời Hậu Trần. Truyền thuyết về chiếc gươm thần của Lê Lợi Ô ng tổ của Lê Lợi là Lê Hối vốn người làng Như Áng, huyện Lương Giang, phủ Thanh Hoa(18). Một hôm, Lê Hối đến chơi Lam Sơn thấy chim bay hàng đàn, liệng quanh dưới núi Lam Sơn như vẻ dòng người hội họp, liền nói rằng: - Chỗ này tốt đây! Rồi nhân đó dời nhà đến ở. Ba năm gây nên sản nghiệp, con cháu ngày một đông, tôi tớ ngày một nhiều. Từ bấy giờ, họ Lê đời đời làm quân trưởng một phương. https://thuviensach.vn Đến đời ông Lê Lợi là Lê Đinh và đời cha là Lê Khoáng thì cơ nghiệp đã bề thế giàu có. Hai anh chết sớm, Lê Lợi một mình thừa kế tất cả cơ nghiệp của ông cha để lại. Sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên giữa buổi gian nan, căm giặc Minh cuồng bạo lấn hiếp, Lê Lợi chuyên tâm đọc sách thao lược, lại dốc hết tiền của để hậu đãi khách khứa, chiêu nạp kẻ hiền tài. Quân Minh biết tiếng, nhiều lần lấy quan tước để dụ dỗ. Lê Lợi đều từ chối và càng nuôi chí bền, ẩn giấu vào núi rừng, chăm nghề cày cấy. Ông thường nói với mọi người xung quanh: - Làm trai sinh ra ở đời nên cứu nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời. Chứ đâu lại chịu bo bo làm đầy tớ người ta! Hiềm một nỗi, bấy giờ quân thù đương mạnh. Họ Trần ở ngôi cầm quyền gần hai trăm năm. Con cháu nhà vua là Trần Quỹ và Trần Quý Khoáng đều xưng đế hưng binh, mưu lấy lại nước, có lúc đã oanh liệt. Thế mà cũng không khỏi thất bại, ngôi báu nát chìm. Huống chi, Lê Lợi lực lượng phỏng có là bao, anh hùng hào kiệt theo về nào đã có mấy! Bởi thế, ông còn đắn đo suy xét lẽ hưng phế, nghiền ngẫm kĩ binh thư, đợi thời cơ giết giặc. Tương truyền, có người em họ của Lê Lợi là Lê Thận một hôm đi đánh cá ở sông Chu. Thận chèo thuyền ra sông thả lưới. Lát sau kéo lên, thấy nằng nặng Thận đã có ý mừng. Tưởng được mẻ cá lớn, không ngờ chỉ có một thanh sắt nằm trong lưới. Lê Thận bực mình bèn quăng xuống sông rồi chèo ra chỗ khác quăng lưới. Lại kéo phải thanh sắt ấy. Đến lần thứ ba, Thận lạ lắm, cầm thanh sắt lên xem. Té ra một lưỡi gươm trên khắc bốn chữ, hai chữ đã mờ không rõ, còn hai chữ kia Thận đọc được là Thuận Thiên. Lê thận nghĩ thầm: - Thuận Thiên là tuân theo mệnh trời. Cứ như ý này tất sắp có minh chúa ra giúp dân dẹp loạn. https://thuviensach.vn Nghĩ đoạn, Thận vội giấu lưỡi gươm đem về, không nói với ai. Hôm Lê Lợi đến chơi, Lê Thận kéo tay vào buồng kín kể lại và lấy cho xem. Lưỡi gươm bỗng toả hào quang lấp loáng, lồ lộ hiện ra đủ bốn chữ Thuận Thiên Lê Lợi. Thận vừa sợ vừa mừng, hai tay nâng gươm đưa cho Lê Lợi. Lê Thận nói: - Không ngờ minh chúa lại là tôn huynh. Thật là đại hồng phúc cho họ Lê ta. Trời đã muốn, xin tôn huynh dấy nghĩa cứu muôn https://thuviensach.vn dân, trước rửa mối thẹn nghìn thu cho nước, sau là dựng nên công oanh liệt ngàn năm. Lê Lợi cũng thấy trong lòng phấn chấn, mới lựa lời cảm tạ, nhận gươm ra về. Đến nhà, thấy vợ là bà Trần Thị Ngọc Trần đêm khuya vẫn chưa đi ngủ, Lê Lợi hỏi: - Có chuyện gì đấy? Bà vợ đáp: - Lạ lắm. Trên cây đa trước nhà có cái gì sáng như đèn, lại có tiếng chân người rậm rịch. Lê Lợi trèo lên xem, hoá ra một chuôi gươm nạm ngọc. Đem xuống đóng vào lưỡi gươm kia thấy vừa như đúc, Lê Lợi càng khấp khởi mừng thầm: - Hẳn là trời cho ta gươm báu!. ∗ ∗ ∗ Mười mấy năm nếm mật nằm gai, một gươm đại định dẹp phăng giặc giã, mở nền thái bình muôn thuở. Ngày 15 tháng Tư năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi lên ngôi hoàng đế tại điện Kính Thiên ở thành Đông Đô (Thăng Long). Nhớ lại chuyện xưa, mới đặt niên hiệu là Thuận Thiên. Một ngày kia, nhân buổi đẹp trời, nhà vua ngự giá ra chơi hồ Tả Vọng ở kinh thành. Thuyền rồng đi đến giữa hồ. Bỗng từ dưới nước nổi lên một con rùa vàng rất to. Rùa bơi đến trước thuyền rồng cúi đầu như có ý bái lạy. Đoạn, cứ hướng về phía nhà vua mà chầu. Lấy làm lạ, vua rút gươm ra, chỉ Rùa Vàng phán hỏi. Bỗng Rùa Vàng cất tiếng nói như người : - Việc nước đã xong, xin bệ hạ hoàn lại kiếm thần. https://thuviensach.vn Vua tung gươm, Rùa Vàng há miệng đớp ngang lưỡi kiếm rồi lặn xuống nước, biến mất. Vua sai tát hồ thử tìm, song cả rùa và gươm đều không thấy. Từ bấy giờ mới gọi hồ Tả Vọng là hồ Hoàn Kiếm (hồ Trả Gươm). Ấy là vì dân gian quá sùng kính người anh hùng và sự nghiệp của người đã cùng toàn dân đuổi giặc cứu nước nên mới đặt ra truyền thuyết đó. Núi Lam Sơn dấy nghĩa V ùng Lam Sơn xưa lắm rừng rậm, nhiều đồi cao núi hiểm. Phía tây bắc Lam Sơn có núi Dầu. Núi Dầu có rừng cây chàm màu lam sum suê che phủ, bởi thế dân mới gọi là núi Lam (Lam Sơn). Việc dựng nước mở đất của nhà Lê phát tích từ núi ấy. HỘI THỀ LŨNG NHAI Bấy giờ là vào đầu năm Bính Thân (1416). Trang trại của Lê Lợi ở Lam Sơn tấp nập người ra vào. Nghĩa sĩ các nơi nhiều người đã lục tục kéo đến, xin làm môn khách(19). Bà con gia đình Lê Lợi, như Lê Thạch, Lê Khôi, Lê Khang, Lê Khiêm là cháu nội; Đinh Lễ, Đinh Liệt là cháu ngoại; Trần Hoành, Trần Vận là bố vợ và anh vợ cùng hợp với đám môn khách hăm hở mưu việc lớn. Ngặt vì khi ấy, bọn ngụy quan đã bắt đầu nghi ngờ, thường tung thám tử đến Lam Sơn để dò xét, hoặc giả làm người có nghĩa khí trà trộn vào đám môn https://thuviensach.vn khách để dò la. Lại hiềm một nỗi nghĩa sĩ bốn phương kẻ sang người hèn, mỗi người mỗi nết, hoặc vốn là quý tộc như Trần Nguyên Hãn; dòng dõi khoa bảng như Nguyễn Trãi, Phạm Văn Xảo; có tiếng văn học như Lê Văn Linh hoặc là con người thứ dân đi buôn như Nguyễn Xí, Lưu Nhân Chú; làm người ở chăn trâu như Trịnh Khả, Nguyễn Chích; chài lưới trên sông như Nguyễn Thận… Đám Lê Lai, Lê Sát, Lê Ngân, Lê Lý, Lê Văn An, Lê Liễn, Bùi Quốc Hưng, Trịnh Võ, Trương Lôi, Trịnh Đồ… cũng về quần tụ. Lê Lợi đều hậu đãi ân cần, ngày đêm dò xem ý tứ nhưng vẫn chưa thật tỏ tường. Bèn hội cả lại, ướm hỏi: - Tôi bấy lâu ôm tài chứa khí, bức bối mà không được cởi mở, mới phải trốn vào rừng núi khẩn hoang dựng nghiệp. Các ông mến tiếng mà lận đận về đây hợp sức. Giờ nên làm gì có ích? Có người nói: - Tôi nghe Lam Sơn đất hiểm dân giàu, trại chủ là người biết dốc của nhà mà đãi khách một cách nhún nhường, lại lấy việc của thiên hạ làm trách nhiệm của mình, đó là tư cách của bậc đế vương nên mới họp nhau lại tôn phù làm minh chủ. Lê Lợi thủng thỉnh đáp: - Ý ông thì thế. Chỉ sợ nhiều người khác chí. Mọi người đều nói: - Không phải. Lũ chúng tôi tâm đã đồng, chí đã quyết, xin minh chủ cho lập đàn thề để rõ lòng thành thực, dứt mối hồ nghi. Lê Lợi cả mừng nói: - Được như vậy thì trời cũng giúp vì, việc nước hẳn có cơ hưng khởi, nghiệp lớn chắc có thể thành được. https://thuviensach.vn Đoạn, bàn cách chọn nơi lập đàn thề cùng nhau mưu việc nổi binh. Có tiếng người nói: - Bên kia Như Áng có núi Đồi Đá, trên đỉnh có khoảng đất rộng và bằng, dân bản địa gọi đất ấy là Lũng Nhai. Có thể lên đó mà tế cáo trời đất được. Mọi người nhìn xem ai, hoá ra Lê Lai và các con là Lê Lô, Lê Lộ, Lê Lâm. Nhóm Lê Sát, Lê Ngân, Lê Lý, Lê Văn An, Nguyễn Thận vốn người vùng Lam Sơn nên quen thạo địa hình đều đồng thanh khen: - Phải đấy, phải đấy! Mùa xuân năm ấy, Lê Lợi cho đắp đất làm đàn cao một trượng(20), trên có bàn thờ hương khói nghi ngút, cờ xí cắm la liệt; gia binh lực sĩ gươm tuốt trần dàn hàng đứng xung quanh; lại có bốn thớt voi trực hai bên tả hữu, nghi vệ rất oai nghiêm. Giờ ngọ, Lê Lợi khăn áo chỉnh tề, thiên tư tuấn tú khác thường, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, bước đi như rồng, dáng đi như hổ dẫn đầu một đoàn mười tám nghĩa sĩ thay mặt mấy trăm người có mặt ngày ấy, tiến lên đàn cao. Lê Lợi đứng giữa, các nghĩa sĩ sắp xếp thứ tự đứng sau. Ngài thắp hương làm lễ tế cáo trời đất, hướng về bốn phương lạy tám lạy. Đoạn, cao giọng đọc lời thề, tiếng nói như chuông: - Trại chủ Lam Sơn là Lê Lợi cùng bọn Lê Lai, Nguyễn Thận, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Trịnh Khả, Trương Lôi, Trịnh Đồ, Lê Liễn, Bùi Quốc Hưng, Nguyễn Chích, Võ Uy, Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú, Trịnh Võ, Trần Nguyên Hãn, Lê Lý, Lê Sát, Lê Ngân họp nhau kết nghĩa ăn thề nguyện đồng cam cộng khổ, sống chết có nhau quyết trừ loạn lớn, cứu trăm họ khỏi hầm tai vạ. Nếu ai manh tâm phản trắc, làm sai lời ước thì trời đất, quỷ thần tru diệt, làm cho chết đến cả họ hàng thân thích. Nếu chúng tôi lòng thành một dạ, sắt son một chí, xin trời đất quỷ thần đều phù hộ, khiến cho https://thuviensach.vn nghiệp lớn chóng thành, muôn dân sớm được thấy lại uy nghi nước cũ. Kính trời, đất, quỷ, thần cùng soi xét. Dứt lời, các quản tượng gióng một hồi cồng âm vang cả một vùng. Lê Lợi cùng mười tám nghĩa sĩ đều lần lượt uống mỗi người một li rượu hoà máu đỏ, để tỏ lòng giữ lời thề ước. Sử gọi đó là hội thề Lũng Nhai. DỰNG CỜ KHỞI NGHĨA Từ bữa ấy, mười tám nghĩa sĩ Lũng Nhai chia nhau đi sắm sửa khí giới, luyện tập quân sĩ, chỉnh đốn hàng ngũ, mưu việc nổi binh. Nhân tài tuấn kiệt kéo đến ngày một đông, quân lực ngày một mạnh, thanh thế ngày một lớn. Ngụy quan Lương Nhữ Hốt tham chính phủ Thanh Hoa lo sợ, mới lên thành Tây Đô mật báo với Nội quan nhà Minh là Mỹ Kỳ. - Chúa Lam Sơn chiêu vong nạp bạn, đãi ngộ quân sĩ rất hậu, chí nó không phải nhỏ. Nếu giao long được gặp mây mưa thì tất không phải là vật trong ao đâu. Nên sớm trừ đi, chớ để lo về sau. Mã Kỳ vốn là đứa kiêu căng, nghe Nhữ Hốt cáo cấp thì vênh mặt nói: - Đám củi mục ấy liệu làm gì được ta mà ông đã vội cuống quýt? Cứ để chúng nhóm lại cho đông như cá theo đàn chui vào lưới, bấy giờ chỉ việc cất vó một mẻ là xong hết! Đoạn, tung thám tử ráo riết đi dò la, lại ngầm sửa soạn động binh, chờ được dịp là cất quân. Lê Lợi biết vậy bèn họp tướng sĩ lại bàn việc hưng binh khởi nghĩa. Lê Lợi nói: https://thuviensach.vn - Bọn ta sinh ra gặp thời loạn lớn, giận quân giặc cường bạo lấn hiếp nên ẩn náu vào núi rừng nuôi chí bền, gây binh lực, lo cứu nạn nước, mưu việc yên dân. Nay xem xét kĩ mọi lẽ hưng vong, thấy đã đến lúc ra tay cứu khốn phò nguy, nên hiệu gậy làm cờ dấy nghĩa. Ta dấy quân đánh giặc không phải vì tham phú quý, mà vì muốn cho ngàn đời sau biết rằng ta không chịu thần phục quân giặc tàn ngược. Các ông nghĩ thế nào? Tướng sĩ đồng thanh hưởng ứng. Lê Lợi lại nói: - Vận nước đang nghiêng ngửa, muôn dân thì khốn cùng chẳng khác gì kẻ chết đuối mong người đến cứu. Kẻ thức giả nỡ lòng nào mà điềm nhiên nâng chén cười đùa, ngất ngưởng vui xuân, chờ hết ngày khai hạ mới động đến việc cứu nước, vớt dân. Người xưa nói: “Người quân tử thấy cơ(21) thì làm, không chờ đến cuối ngày”. Tết Nguyên đán năm nay, ta định ăn tết một hôm. Mồng Hai sẽ làm lễ tế cờ xuất quân. Có nên không? Mọi người đều nói: https://thuviensach.vn - Nên lắm, nên lắm! - Xin theo, xin theo! Nguyễn Trãi đứng lên nói: - Từ khi giặc Minh tràn sang lấn hiếp, nước Nam ta thành không có chủ, người nước ngày đêm nóng lòng mong tìm được chúa. Xin minh chủ hãy làm lễ tấn tôn trọng thể để làm sáng rõ danh nghĩa đối với cả nước, mà dân chúng thì được vui mừng biết nước Nam đã có chúa để tôn phù. Lê Lợi nói: - Ta là người mặc áo vải chuyên nghề cày cấy, nay vì trừ bạo mà nổi binh, lòng không nghĩ đến việc xưng bá, xưng vương. Mọi người đều khẩn khoản nài ép. Hồi lâu, Lê Lợi đành chiều ý nhận lời. Tướng sĩ vui mừng bái lạy. Đúng ngày mồng Hai Tết năm Mậu Tuất (7 - 2 - 1418), Lê Lợi cho lập đàn cao dưới chân núi Dầu, dựng cờ tế cáo trời đất. Trước lễ đàn, ba mươi nhăm tướng sĩ chia hai ban văn võ đứng trực hai bên; bên dưới, hai phía tả hữu là hai đội nghĩa binh, dũng sĩ, mỗi đội hai trăm người dàn hàng, gươm giáo sáng loà. Giờ thìn (7giờ - 9 giờ), Lê Lợi cưỡi voi trắng, mặc áo vàng dẫn đội tượng binh tất cả mười bốn thớt voi chiến tiến vào lễ đàn. Theo sau là đội thiết kị hai trăm lực sĩ kiếm tuốt trần đi hộ vệ. Lê Lợi rời voi, bước lên đài cao, rút gươm chỉ lên trời mà truyền rằng: - Thuận theo ý trời, đáp ứng lòng dân, trại chủ Lê Lợi làm lễ tự tôn hiệu là Bình Định Vương. Từ khắc này, tự nhận trách nhiệm trừ bạo ngược lấy lại nước. Tướng sĩ dưới cờ, nhân dân bốn cõi hãy cùng ta đồng tâm hiệp lực, trên dưới một lòng lấy đại nghĩa mà thắng https://thuviensach.vn hung tàn, đem chí nhân để thay cường bạo để rửa nỗi nghìn thu hổ thẹn, để mở nền muôn thuở thái bình, dựng nên công oanh liệt ngàn năm, cùng các triều Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước. Tướng sĩ quân binh ngót hai ngàn người dưới cờ đều “Dạ” ran rầm trời. Bấy giờ, quân Vương tuy ít nhưng đều là quân hùm gấu, tướng sĩ đều là tướng vuốt nanh, một người có thể địch trăm người. Bởi thế, chỉ mươi ngày sau, quân Bình Định Vương khai binh ở Lạc Thuỷ, tung gươm chớp mắt chém ba ngàn đầu giặc. Nội quan Mỹ Kỳ cầm năm vạn quân trong tay mà phải dẫn tàn quân chạy thục mạng. Lê Lai liều mình cứu chúa B ấy giờ là tháng Tư năm Kỷ Hợi (1419) Bình Định Vương lại bị hãm lần thứ hai ở núi Chí Linh. Lần này, quân Minh bao vây ráo riết, quyết bắt Vương bằng được. Quân chúng trùng trùng điệp điệp, ngày đêm sục sạo, đến con chim sẻ cũng khó lòng bay lọt. Quân của Vương cùng đường hết lối, lương thực cạn dần. Thế bại vong chỉ còn trong gang tấc. Bình Định Vương vội họp tướng sĩ lại mà rằng: https://thuviensach.vn - Vận nước nghiêng ngả ngàn cân treo sợi tóc. Ai có kế gì hay, cứ nói. Mưu sĩ có kẻ bàn: - Chúa công còn, sơn hà xã tắc còn. Bởi thế, giặc Ngô cứ nhắm bóng mặt trời(22) mà dõi tìm vây bắt, mong triệt nguồn tai hoạ. Bây giờ tìm được người hao giống, ăn mặc giả Chúa công, gióng trống mở cờ tháo chạy. Giặc bất ngờ tưởng thực, đổ xô nhau đuổi bắt lĩnh thưởng. Ta nhân đó lén chạy ngược đường, tất thoát. Vương khen phải, nói: - Ai có thể làm như Kỷ Tín(23) ngày xưa, để ta ẩn náu trong núi rừng mưu tính việc nước về sau? Tướng tá đương bàn định, ai nấy đều hăng hái, bỗng có người đứng phắt lên nói: - Chỉ sợ Chúa công không tin cậy. Tôi xin làm việc đó! Mọi người đều sửng sốt, cùng nhìn xem kẻ vừa nói là ai. Thì ra Lê Lai, một nghĩa sĩ người Mường trong đám thập bát (18) anh hùng tế cờ tại hội thề Lũng Nhai mấy năm trước. Lê Lai người làng Dựng Tú, sách(24) Đức Giang, huyện Ngọc Lặc, Thanh Hoá. Anh ruột là Lê Lam và ba con của Lê Lai đều ra ứng nghĩa, tôn phù Lê Lợi. Bình Định Vương thấy Lê Lai xin nhận thì ứa nước mắt nói: - Tướng quân không tiếc cái chết để ta được yên, đó là công của tướng quân để lại muôn đời. Đoạn, cứ ôm lấy Lê Lai không nỡ rời. Tướng tá quân thần ai cũng khóc. Lê Lai vái lạy Bình Định Vương mà thưa: https://thuviensach.vn - Tình thế gấp lắm rồi, để tôi đi. Xin Chúa công gắng chí khắc phục gian nan, cứu muôn dân, lấy lại nước thì tôi dẫu chết, xương vẫn không nát. Vương đành gạt nước mắt, cởi mũ áo thân mặc cho Lê Lai. Lai quỳ xuống lạy tạ rồi lĩnh mệnh lui ra, điểm lấy năm trăm quân cảm tử và hai thớt voi, lập tức lên đường. Vương và các tướng tiễn ra tận ngoài doanh trại, mới quay vào. Lê Lai cưỡi voi, thúc quân, trống giong cờ mở, nhằm thẳng hướng đại binh giặc xông tới, thét lớn: - Chúa Lam Sơn chính là ta! Quân Minh các ngả đang sục sạo lùng kiếm, thấy thế mừng rỡ đều đổ xô lại vây bắt. Lê Lai không ham đánh chỉ chống đỡ qua quýt, đoạn hô cướp đường tháo chạy. Giặc trúng kế tin thật, đuổi theo ráo riết, không kịp cắt đặt nhau ở lại vây hãm. Lê Lai cùng quân sĩ vừa chạy vừa đánh trả dữ dội. Quân giặc chết nhiều, nhưng quân Lê Lai cũng bị thiệt hại to. Sau ông bị giặc bắt. Biết bị lừa, giặc giết ông ngay tại trận để trả thù. Dân địa phương kể rằng giặc chém chết ông ở một cái cầu bên sông rồi đem bêu đầu ở cây đa, để dân chúng lấy đó làm gương mà sợ hãi. Chẳng dè, đêm đến, dân làng Mơ bên cạnh cầu rủ nhau ra lấy trộm đầu và thây ông, đem vào rừng mai táng. Người đi đưa đám ông đông như nêm cối, chen chúc nhau mà đi. Vùng ấy sau https://thuviensach.vn dân đến ở, họp thành làng, gọi là Làng Chen. Còn chiếc cầu nơi Lê Lai mất, dân làng gọi là cầu Lai. Lê Lai mất vào ngày 21. Mười lăm năm sau, Lê Lợi mất vào ngày 22. Hằng năm, cứ đến hai ngày ấy, ở Thanh Hoá dân gian nói là trời đất đều u ám như sầu thương nhớ tiếc hai vị anh hùng. Bởi thế mới lưu truyền câu: Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi để ghi lòng tạc dạ. Chuyện ông Hầu, Bà Hầu L ê Lợi khi còn ở Lam Sơn có lần đánh nhau với quân Minh bị thua, quân tướng bỏ chạy tán loạn cả. Quân Minh đuổi theo rất gấp. Lúc chạy qua một cánh đồng, thấy một ông già đang cùng vợ lom khom tát nước bắt cá ở trên bờ ruộng, vua liền chạy tới, cởi ngay áo, xuống ruộng bắt cá với hai ông bà già. Quân Minh đuổi đến nơi hỏi ông lão: - Lão già kia, có thấy Lê Lợi chạy qua đây không? https://thuviensach.vn Ông lão đáp: - Lê Lợi nào? Không thấy! Nhà vua ngảnh tai lên nghe. Bà lão liền mắng: - Thằng kia sao không bắt cá đi? Việc gì đến mày! Quân Minh thấy thế không nghi hoặc gì nữa bèn bỏ đi. Đến chiều tối, ông bà già mời vua về nhà nghỉ. Nhà nghèo không có gà vịt, chỉ nuôi được một con hầu (khỉ), hai ông bà mới đem giết thịt để làm cơm. Lúc bưng cơm lên chỉ có đĩa cá giếc nướng và bát canh thịt hầu. Hai ông bà cung kính nói: - Khi sớm, tình thế bức bách phải tuỳ cơ ứng đối nên trót lời phạm thượng(25), xin Chúa công tha lỗi. Giờ xin tạm dùng cơm kẻo đói. Tiếc rằng nhà nông thanh bạch giản dị không có gì kính dâng. Vua đáp: https://thuviensach.vn - Đa tạ chủ nhân. Tấm lòng trung nghĩa của chủ nhân ta đã rõ, không cần phải thanh minh nữa. Công ơn tôn phù này tất có ngày đền đáp. Về sau, khi đã lấy lại được nước, vua sai sứ giả đi tìm thì ông bà lão đã mất. Vua Lê thương tiếc bèn xuống dụ cho nhà Thái miếu khi làm lễ tế thì khấn hai ông bà lão về cùng hưởng, tục vẫn gọi là Ông Hầu, Bà Hầu. Cỗ tế hai ông bà già, ngoài những thức tam sinh(26) ra, thế nào cũng làm thêm một đĩa cá nướng và một bát canh thịt hầu, giống như bữa ăn khi xưa đã dâng vua. Múa hát đuổi được giặc L àng Đặng Xá trước thuộc về phủ Kiến Xương (nay là xã Trung Nghĩa, Tiên Lữ, Hưng Yên). Bấy giờ, làng có con sông con chảy quanh uốn éo như dải lụa trắng. Điểm xuyết trên tấm lụa là những chiếc thuyền câu đi lại an nhàn. Đôi bờ tre xanh rủ bóng, trẻ đến chăn trâu gõ sừng, thổi sáo. Ngoài ruộng, chim đồng bay lượn, https://thuviensach.vn ngô lúa tốt tươi. Nước non phong cảnh thật hữu tình. Đặng Xá lại nổi tiếng là đất vũ nhạc. Những đêm trăng, gương treo đầu cành, trai gái trong làng họp nhau hát múa. Tiếng trống bập bùng, tiếng đờn khoan nhặt cầm nhịp cho điệu múa uyển chuyển, ứng hoà với điệu hát thanh nhã. Trội nhất trong đám là một cô gái xinh đẹp nết na, người làng quen gọi là Ả Đào (có sách chép tên là Đào Thị Huệ). Đương khi thanh bình vui vẻ, thình lình một hôm giặc Minh kéo về cắm đồn dựng trại. Giặc tung quân bắt người cướp của, tàn hại cả cỏ cây gia súc. Đặng Xá bỗng chốc trở nên tiêu điều xơ xác. Đàn ông trai tráng trong làng trôi nổi đi hết: họ đi tìm minh chúa để cứu làng giữ nước. Chỉ còn đàn bà con gái ở lại. Biết Đặng Xá nổi danh về ca múa, giặc bắt gái làng đánh đàn hát múa hầu rượu. Đùa bỡn chán, say rượu, giặc đều chui vào túi màn ngủ, chỉ để một tên ở ngoài thắt túi, xong thì ngồi canh gác. Chẳng là giặc sợ vùng ấy lắm muỗi nên mới thế. Dân Đặng Xá họp nhau lại bàn bạc. Một người khơi mào: - Giặc Ngô đến cướp nước cướp làng. Nay phải đêm ngày đàn hát hầu hạ chúng thì còn mặt mũi nào! Có người nói: - Đàn ông trai tráng bỏ vắng cả. Bọn ta là phận gái chân yếu tay mềm biết xoay xở làm sao? Bàn tính chưa ngã ngũ thì có một người lên tiếng nói: - Tôi có cách! Mọi người nhìn xem ai, hoá ra là Ả Đào. Ả Đào ra ngoài ngó trước ngó sau, rồi vào vẫy mọi người lại nói cho nghe, bảo: “Cứ thế, cứ thế!” Ai cũng hớn hở, gật đầu khen phải. https://thuviensach.vn Từ bữa ấy, Ả Đào trổ sức đàn ngọt hát hay, bưng cơm chuốc rượu cho giặc tỏ ra rất ân cần chiều chuộng. Quân Minh say rượu ngon, mê sắc đẹp đều xiêu lòng, bèn cho Ả Đào được tự tiện ra vào đồn trại, bất kể ngày đêm. Lại tin cẩn sai thắt túi cho cả bọn, không cắt quân canh gác nữa. Ít hôm sau, quãng nửa đêm. Ả Đào dắt mấy người bạn gái vào, lẳng lặng khiêng đi một túi có tên giặc đã chuốc rượu say, ngủ như chết. Họ đem quẳng xuống con ngòi, cho chết trôi ra sông Cái mất tăm. Cứ thế, mỗi đêm một tên; giặc không hay biết gì hết. Lính chết nhiều. Sau, tướng giặc thấy hao hụt quá, vội sai lùa quân vào một mảnh ruộng, bốn bề có đắp tường đất cao thành một khuôn vuông (gọi là đấu đong quân) cho xếp hàng ken lại để xem thiếu đủ. Hắn giật mình, thấy mỗi ngày quân xếp thưa dần rồi vơi hẳn. Không biết nguyên cớ thế nào, cho là Đặng Xá dữ đất, giặc vội vã nhổ trại rút đi. Đặng Xá thoát nạn. Sau này, khi việc nước đã xong, bốn phương thái bình, dân làng Đặng Xá nhớ công ơn người con gái tài sắc trí dũng ấy liền đặt tên thôn làng ở là thôn Ả Đào. Đến khi nàng mất, lại lập ngôi đền để thờ, nay vẫn còn ở làng Đào Xá. Và xã Trung Nghĩa nay cũng vẫn còn di tích đấu đong quân giặc không kịp phá khi bỏ chạy, in dấu vết kinh hoàng để lại ngàn năm. https://thuviensach.vn Tay không cũng đoạt thành https://thuviensach.vn ừ năm Đinh Hợi (1407), tướng Minh là Mộc Thạnh sai lấy đất ở núi Bô và phá tháp Chương Sơn ta xây từ thời Lý để đắp thành Cổ T Lộng bên bờ sông Đáy, giữa cánh đồng Lai Cách, huyện Ý Yên (Nam Định). Thành rộng hơn trăm mẫu, hào luỹ kiên cố, trấn giữ con đường trọng yếu từ thành Đông Quan vào Thanh Hoa. Giặc từ thành Cổ Lộng thả quân ra quanh vùng tha hồ cướp phá, lại bày đặt ra phép trình báo để hạn chế việc đi lại, đề phòng dân Đại Việt nhóm nhau nổi dậy. Lại nghiêm cấm rất ngặt việc đánh rèn giáo mác, cất giữ gươm đao, chế tạo thuyền xe, để triệt nguồn vũ khí của dân ta. Pháp luật hà khắc, tội ác không cùng của chúng làm người người đều căm giận, chỉ lăm le tính việc khởi sự, rình khi hỏi tội. Bấy giờ, gần thành Cổ Lộng có làng Chuế Cầu. Ở đấy có một người đàn bà có nhan sắc, lại có chí lớn mưu mẹo hơn người. Bà ấy họ Lương lấy chồng cùng làng tên là Đinh Tuấn. Thấy giặc Minh mỗi lúc một rông rỡ, bạo ngược, bà Lương giận lắm mới bảo chồng: - Tang bồng giúp nước là chí con trai, canh cửi tảo tần là phận con gái. Nhưng ngày xưa đã có Bà Trưng, Bà Triệu là nhi nữ mà vượt cả đàn ông, đến nay còn truyền tụng. Nay nước mất, thứ người bỏ đi còn biết lo nạn nước. Tôi thiết tưởng gái cũng như trai, đều phải mưu việc nước. Ông Đinh thấy vợ có chí khí thì mừng lắm, mới bảo: - Nếu nàng quả có chí theo đuổi như Bà Trưng, Bà Triệu, tôi đây cũng được thơm lây. Bà Lương nói: - Ông hãy ngầm chiêu tập nghĩa sĩ, sửa soạn vũ khí sau này tất có phen dùng đến. Còn tôi sẽ tìm cách lọt vào thành mua chuộc lấy lòng, dò xét binh tình, để mai kia làm nội ứng. https://thuviensach.vn Ít hôm sau, ngoài thành Cổ Lộng thấy dựng lên một quán hàng. Chủ quán là một người đàn bà xinh đẹp. Người đó chính là bà Lương. Có nhan sắc, lại chào mời vồn vã trà quý rượu ngon đều sẵn, nên quán bà Lương tấp nập khách ra vào, số đông là quân Minh. Bà rất chiều khách, khách hàng ai cũng thích. Chẳng mấy chốc, bà được lòng khắp mặt tướng sĩ thành Cổ Lộng. Giặc cho bà ra vào tự ý, không chút gì nghi hoặc. Bởi thế, bao nhiêu kho tàng lương thực, vũ khí, chỗ nào giặc thả chông rào luỹ, đồn trại quân tướng giặc ở đâu… bà đều biết hết, rõ như lòng bàn tay. Khi ấy, vua Lê đã lấy xong Thanh Nghệ, Tân Bình, Thuận Hoá. Nhà vua đóng quân ở Lỗi Giang (Thanh Hoá) sửa soạn tiến ra Đông Quan nên tung thám tử đi do thám dò xét tình hình. Một hôm, quân canh vào báo có một người đàn bà ở Cổ Lộng muốn xin ra mắt hiến việc cơ mật. Vua mừng lắm, vội bảo cho vào. Người đàn bà toan sụp lạy, Lê Lợi xua tay cho miễn. Vua hỏi: - Bà lận đận trèo đèo lội suối vào đây có việc gì thế? Người ấy đáp: - Tôi người làng Chuế Cầu giáp thành Cổ Lộng. Nghe nói Ngài sắp ra Đông Quan. Đánh Đông Quan tất không bỏ qua được thành Cổ Lộng. Bởi thế, tôi lặn lội vào đây xin giúp Ngài một tay lấy thành. Người ấy chính là bà Lương. Bà kể hết sự tình đầu đuôi. Bà lại cho Lê Lợi biết quân Minh còn tin cẩn giao cho bà tối tối vào thắt túi màn cho chúng chui vào ngủ khỏi muỗi. Bà nói: - Đêm ấy tháng ấy, tôi sẽ bỏ thuốc ngủ vào rượu cho chúng uống, lại thắt chặt túi để phòng xa; đoạn đốt lửa mở cổng thành. Bấy giờ, Ngài kíp đem quân đến hưởng ứng tất đoạt thành dễ như thò tay lấy đồ vật trong túi. https://thuviensach.vn Lê Lợi đang nửa tin nửa ngờ; vừa lúc, thám tử về nói rõ binh tình giặc ở Cổ Lộng và lòng dân trong vùng. Vua thấy hợp với lời bà Lương thì cả mừng, thật bụng tin theo. Vua bảo: - Ta không ngờ trong đám phụ nữ lại có người chí khí thế, mưu lược thế. Ví bằng đánh úp được giặc, để ta có lối tiến ra Bắc, tất có trọng thưởng. Bà Lương nói: - Tôi là phận gái, chuyến này nếu may giết được giặc dữ thì cũng là do uy đức của đại vương, tôi nào có công trạng gì. Đến ngày mật ước với vua Lê, bà Lương cùng với một số bạn hàng vẫn ra vào phục dịch trong thành Cổ Lộng, đem thịt béo rượu ngon đến thết quân Minh, nói là quà biếu nhân ngày giỗ. Giặc vẫn thường được biếu xén nhiều lần nên không nghi hoặc, nay vớ được bữa thịnh soạn, vội bỏ cả tuần phòng chúi đầu vào chè chén. No say bí tỉ, lại ngấm thuốc ngủ, giặc chui cả vào túi lè nhè sai thắt. Chớp mắt doanh trại giặc trong thành Cổ Lộng đều vang ầm tiếng ngáy. Bà Lương vội làm ám hiệu. Tức thì, toán quân sĩ do Đinh https://thuviensach.vn Tuấn chồng bà chỉ huy phục sẵn bên ngoài, bèn trèo vào, chất củi đốt lửa, đoạn mở toang cổng thành đón quân tướng vua Lê. Lê Khôi, Đinh Liệt, Đinh Lễ, Nguyễn Xí cùng năm nghìn quân được Lê Lợi phái đến, ung dung tiến vào. Chuyến ấy, vua lấy được thành Cổ Lộng, phên giậu của Đông Quan, mà không tốn một hòn tên mũi đạn. Vua bèn giao cờ kiếm cho vợ chồng bà Lương ở lại giữ thành, lại sai Nguyễn Trãi ghi công, đợi khi đánh đuổi hết quân Minh sẽ định thưởng. Sau này, khi lấy xong được nước, đầu năm Mậu Thân (1428), vua Lê hội quần thần ở điện Giảng Vũ để thưởng công lao đánh giặc. Vua bảo: - Trẫm khởi binh tự Lam Sơn dẹp quân Minh, cứu sinh linh, chỉ mong cho chóng thành công. Sở dĩ lâu ở Thanh Hoá, không thẳng ra lấy Đông Quan được là vì có thành Cổ Lộng ngăn lối. May có một người đàn bà bày mưu giúp sức khiến trẫm sớm phá được thành, để quân ta có lối ra Bắc. Thật là một kỳ công hiếm có. Vậy ý trẫm muốn thưởng trước. Các khanh bàn nên thế nào? Vua truyền gọi bà Lương đến tỏ ý phong thưởng. Bà Lương lạy tâu: - Thần thiếp phận hèn bồ liễu, vốn người thôn dã. May mà làm nên công trạng cũng là do uy trời của đức vua, thần thiếp nào có tài cán gì. Vả lại, thần thiếp vốn người chất phác quê mùa, không dám dự quan cao chức trọng. Chỉ xin dân áo vải nước Nam từ nay được thái bình yên ổn, thế là mãn nguyện. Vua bảo: - Con gái có công to mà không khoe khoang thật còn hơn con trai một bậc! Nhưng khanh đã tự nhận là thôn, dã, trẫm cũng lấy cảnh https://thuviensach.vn thôn dã mà thưởng lộc cho, lại phong thêm tước lộc nữa, ý khanh thế nào? Bà Lương tâu: - Bệ hạ đã ân tứ mà phong thưởng, thần thiếp nào dám trái ý thánh thượng. Nay sinh quán thần thiếp, đất hẹp dân nhiều, cúi xin bệ hạ cho mở rộng ruộng đất, miễn sai dịch cho dân xã quê hương để truyền ơn mưa móc của bệ hạ mãi về sau. Vua khen ngợi và chuẩn y, bèn phong cho chồng bà làm Kiến Quốc công Trung dũng công thần, phong cho bà làm Kiến Quốc Trinh liệt phu nhân, ngôi ở trên tước hầu bá. Lại cấp cho bà hai trăm mẫu ruộng tốt ở phía đông thành Cổ Lộng, để dân làng Chuế Cầu có thêm ruộng cày cấy. Năm Thuận Thiên thứ năm (1432), bà Lương mất. Vua Lê Thái Tổ sai quan về tận quê bà, làm lễ tế theo tước vương, lại cấp thêm một trăm mẫu ruộng để dân làng Chuế Cầu dùng vào việc thờ cúng. Sau, vua Thánh Tông lại lập đền thờ ở làng. Đền ấy nay vẫn còn. Vua sai viết một bài minh mười hai câu ghi công đức của bà. Bài minh ca ngợi: Vĩ đại thay, người đàn bà giỏi Chí khí mạnh ngang vạn quân!... Chiến thắng Tốt Động, Chúc Động https://thuviensach.vn Đầu năm Bính Ngọ (1426), tin bất lợi ở Nghệ An, Thanh Hoa, Thuận Hoá, Tân Bình từ Giao Chỉ do tổng binh Trần Trí báo về Yên Kinh, làm náo động cả triều đình. Minh Tuyên Tông nhận biểu cáo cấp và xin viện binh của Trần Trí thì tức giận, hạ lệnh cách chức bọn Trần Trí, Phương Chính, đoạn hội triều thần lại nhất định cử viện binh đi đánh dẹp. Tuyên Tông chọn Vương Thông, phong chức tổng binh, lĩnh ấn Chinh đi tướng quân; cho Đô đốc Mã Anh làm tham tướng, Binh bộ thượng thư Trần Hiệp làm tham tán quân vụ, cầm năm vạn quân từ Quảng Tây kéo sang. Lại sai Đô ti Vân Nam là Vương An Lão dẫn một vạn quân từ Vân Nam xuống trước. Vương Thông là người thế nào? Thông vốn dòng dõi võ tướng. Cha là Vương Chân giữ chức Đô chỉ huy sứ sau thăng đến chức Đô đốc thiêm sự. Cha chết trận, Thông được tập phong tước Vũ Nghĩa bá. Năm Vĩnh Lạc thứ mười một (1413), Minh Thành Tổ phong cho Thông tước Thành Sơn hầu. Đến năm Hồng Hi thứ nhất (1424), Minh Nhân Tông lại phong thêm cho Thông hàm Thái tử thái bảo. Đường công danh của Thông thuận lợi như diều gặp gió. Nay được vua Minh cử đi chinh phạt, Thông mừng thầm, chắc mẩm: - Mộng vương, công là ở trận này! Bởi thế, Vương Thông hăm hở trẩy quân. Ra đi cuối tháng Chín năm Bính Ngọ, đầu tháng Mười đã đến Đông Quan. Dọc đường gặp https://thuviensach.vn Bùi Bị, Nguyễn Khuyển dẫn hai ngàn quân và một voi ra chặn lại, năm vạn binh của Thông ỷ thế đông, ồ ạt đánh tràn tới. Quân Bùi Bị đành chịu, không sao cự nổi. Thông càng được thể kiêu căng, kéo thẳng một mạch vào thành. Bọn Trần Trí, Sơn Thọ, Mã Kỳ, Phương Chính, Lý An đến trước quân doanh của Thông nộp ấn kiếm xin chịu tội. Thông mắng luôn: - Lúc các ông cầm mười vạn tinh binh đánh dẹp một bọn giặc cỏ, tướng sĩ lao khổ đã mấy năm mà càng đánh càng thua, chỉ còn lo giữ thành chờ quân cứu viện. Quân sĩ lừa ngựa tổn hại hàng vạn, vận chuyển chi phí tốn kém hàng chục ức mà vẫn bỏ đất mất thành làm nhục quốc thể. Các ông tội đáng chết. Nhưng hoàng đế mở lượng hiếu sinh tha cho, giáng làm sự quan(27). Vậy gắng mà lập công chuộc tội, báo đền ân đức của nhà vua. Bọn Trần Trí đều rạp mình vọng về phương Bắc vái lạy nhận mệnh. Vương Thông nói tiếp: - Nay ta đem viện binh sang đây, chỉ một trận là bắt hết quân man. Trước hãy dọn sạch bọn Văn Xảo, Lý Triện ở Ninh Kiều(28), sau theo đường núi tiến thẳng vào Thanh Hoa trói cổ Lê Lợi giải về kinh! Đoạn, Thông hợp quân lại, cả thảy mười vạn chia làm ba đạo kéo đi. Năm ngày sau, quân Minh đã dàn xong thế trận, doanh trại đóng liền nhau đến vài mươi dặm suốt từ bến Cổ Sở (xã Yên Sở, Hoài Đức, Hà Nội đến cầu Thanh Oai (xã Bình Minh, Thanh Oai, Hà Nội). Cờ xí rợp đồng, giáo mác rực trời. Thanh thế lớn lắm. Bữa đó là vào ngày mồng bảy tháng mười, năm Bính Ngọ. Khi ấy ở Ninh Kiều, quân ta chỉ có vài nghìn người. Phạm Văn Xảo, Lý Triệu, Trịnh Khả, Đỗ Bí họp tướng sĩ lại bàn kế phá giặc. Triện nói: https://thuviensach.vn - Quân địch đông, quân ta ít. Nhưng quân địch phần ở phương Bắc mới sang, đi xa mệt mỏi, phần Đông Quan vừa bị thất bại; thế là địch tuy đông mà hoá yếu. Quân ta tuy ít nhưng trên dưới một lòng, anh hùng hết sức, lại vừa thắng liền mấy trận, sĩ khí càng hăng; thế là ta ít mà hoá mạnh. Nay nhân lúc quân địch chân chưa đứng vững, tay chưa kịp trở, ta nên đánh ngay để chế được người, chứ không để cho người chế mình. Văn Xảo nói: - Tôi xem ba cánh quân giặc: cánh Vương Thông ở Cổ Sở quân đông tên cứng, không nên đánh; cánh ở Sa Đôi tuy không được như thế nhưng đằng sau có Đông Quan làm chỗ dựa, hai bên tả hữu có hai cánh kia che chở, cũng không nên đánh; duy cánh ở Thanh Oai là yếu hơn cả, tướng chỉ huy là Mỹ Kỳ, Sơn Thọ là bọn hoạn quan tầm thường vô mưu, chỗ ấy nên đánh. Thế là ta bỏ chỗ vững đánh chỗ hở, tránh chỗ chắc, đánh chỗ hư, như vậy chỉ dùng sức có một nửa mà thành công gấp đôi. Tướng sĩ đều khen phải. Lý Triện, Văn Xảo lập tức chia quân làm hai, Lý Triện, Đỗ Bí đi trước đem binh đến giấu sẵn ở cánh đồng ruộng nước bùn lầy, lại lắm lùm cây gò cao ở làng Cổ Lãm(29). Xong, Phạm Văn Xảo dẫn quân đến trước thành réo tên Mã Kỳ, Sơn Thọ đòi đánh. Mã Kỳ, Sơn Thọ tức điên người, lại thấy bên ta ít, bèn đánh luôn. Văn Xảo cười thầm càng chọc tức, vừa đánh vừa nói khích, dứt lời thì tháo chạy. Bọn Mã Kỳ dẫn quân kị ráo riết đuổi theo. Đến Ba La(30) vừa qua cầu, phục binh của Lý Triện, Đỗ Bí đổ ra đánh tạt sườn, quân Văn Xảo từ đằng trước đánh quặt lại. Người và ngựa quân Minh mắc ruộng nước sa lầy bị chém hơn một nghìn người. Bọn Mã Kỳ dẫn tàn quân cắm đầu quay về Thanh Oai. Đến nơi thấy cổng https://thuviensach.vn thành đóng chặt, ngẩng nhìn lên, cờ Nam đã cắm la liệt, tướng Trịnh Khả đứng lên lầu giương cung thét lớn. - Giặc dữ kia, còn dẫn xác về đây làm gì! Dứt lời, buông tên bắn xuống. Bọn Mã Kỳ không còn hồn vía, tạt ngựa nhắm thành Đông Quan cướp đường chạy thục mạng. Quân ta tràn lên đánh tới, đuổi tới Cầu Mọc (ngoại thành Hà Nội) bắt sống năm trăm tên. Dọc đường, thây giặc rải rác tới vài mươi dặm. Mã Kỳ chỉ kịp một người một ngựa trốn thoát vào thành. Trời đã nhá nhem tối, Lý Triện cười bảo Đỗ Bí: - Quan hoạn có khác, chạy nhanh gớm! Ta muốn nhân lúc này chặn đánh dinh sau của Phương Chính. Bí khen phải, cùng Triện quay lại đánh úp mặt sau cánh quân Minh ở Sa Đôi (Từ Liêm, Hà Nội). Đến nơi, doanh trại giặc đã trống không. Té ra, Phương Chính, Lý An nghe tin bọn Mã Kỳ bị vây hãm ở Ba La thì cả sợ, vội dẫn quân chạy trước về Đông Quan. Ở Cổ Sở, nghe tin thất trận của bọn Mã Kỳ, Sơn Thọ và Phương Chính, Lý An, tổng binh Vương Thông vừa sợ vừa tức, ngay tối hôm đó cho lệnh gọi tất cả đến. Bọn Mã Kỳ, Phương Chính sợ tội, đổ tại quân Nam có voi nên không sao đánh được. Vương Thông mắng: - Thật là vũ dũng vô mưu. Có khó gì mà không trị được! Hãy lấy tre đan thành lá chắn, bên trong cài chông sắt. Hễ giặc đến đánh thì giả vờ thua, bỏ lá chắn chạy. Voi giẫm lên, trúng phải chông sắt tất phải chịu lép; bấy giờ, quay lại dùng tên cứng giáo dài mà đâm thì voi nào chịu được, quân man tất vỡ! https://thuviensach.vn Bọn Mã Kỳ, Phương Chính phục lắm. Sáng hôm sau, mồng Tám tháng Mười, Lý Triện dẫn voi đến Cổ Sở khiêu chiến. Quân Minh theo kế của Thông, quả nhiên, quân của Triện bất lợi phải lui binh. Vương Thông được thể càng lên mặt kiêu căng không thèm nghe ai. Trưa hôm ấy, Thông thừa thắng xua cả hơn chín vạn quân ồ ạt đánh thẳng tới Ninh Kiều. Đến nơi, thấy cửa doanh trại quân Nam đóng chặt, Thông thúc quân phá cửa tràn vào. Bất đồ chỉ còn doanh trại không, quân Nam đã biến đâu mất. Bốn bề, ruộng nước cỏ lác ngập đầu. Nhìn về phía tây, núi Ninh, núi Chúc, núi Ngọc Giả rừng cây rậm rạp, cảnh vật âm u, tham tán quân vụ Trần Hiệp chợt thấy thế nguy, vội can ngăn Vương Thông: - Chỗ này địa thế hiểm trở, sợ có phục binh, nên đóng quân lại cho đi do thám. Thông không nghe, bảo: - Việc binh cốt phải mau chóng như thần. Sao lại bỏ lỡ thời cơ? Vừa lúc, thám tử về báo quân Nam rút chạy xuống Cao Bộ, cách Ninh Kiều có chục dặm. Thông mừng lắm, nhất định sớm hôm sau sẽ phát binh đánh tới, mới hội tướng sĩ lại nói cho nghe mật kế. Đoạn, Thông cử viên tuỳ tướng dẫn một toán thám báo đi ngay, để dọn đường ngày mai Thông bày trận đánh. Chẳng ngờ, toán quân này lọt vào ổ mai phục của ta, bị ta bắt hết ngay tối hôm đó. Quân ta giải chúng về quân doanh. Khi ấy, Đinh Lễ, Nguyễn Xí đang giấu quân ở Thanh Đàm (Thanh Trì, Hà Nội) được tin cấp báo của Lý Triện, Văn Xảo, vội dẫn ba ngàn quân và hai voi chiến kịp về Cao https://thuviensach.vn Bộ hợp binh. Tướng tá đang nghị bàn thì quân canh điệu viên tướng Minh vào. Lý Triện, Đinh Lễ thân cởi trói, mời ngồi, lựa lời chiêu dụ. Tướng giặc được tha tội chết, mừng rỡ vội khai hết: - Sớm mai, Vương Tổng binh sẽ thân cầm đại quân làm cánh chính binh từ Ninh Kiều qua cầu sông Ninh, theo đường cái quan đánh thẳng vào doanh trại các ông. Các ông vì mải lo đối phó trước mặt, tất không phòng bị mặt sau. Quân kị tinh nhuệ làm kì binh sẽ đi đường tắt lẻn đến sau lưng phục sẵn, đặt súng bắn hoả pháo làm hiệu. Bấy giờ, chính binh đánh mặt trước, kì binh bất ngờ tập kích phía sau, quân các ông tất tan vỡ. Biết phương lược lợi hại của Vương Thông. Lý Triện, Đinh Lễ đều nói: - Cái nó dùng để hại ta, ngược lại, lại hại nó; cái nó muốn dùng để đánh úp ta, ngược lại, lại đánh nó. Thế mới là kế hay! Tướng sĩ lập tức chia nhau dẫn quân đi mai phục. Đêm ấy, trời giá lạnh; nửa đêm về sáng lại có mưa nên càng rét. Canh tư, quân các ngả đều đã giấu xong. Canh năm, từ Ninh Kiều, Vương Thông phất cờ cho quân sang sông. Cánh kì binh đi trước theo đường tắt lẻn về phía sau Cao Bộ. Thông dẫn cánh chính binh rầm rộ kéo thẳng đến trước mặt doanh trại quân ta. Ngót chục vạn quân Minh đi chật đoạn đường dài mười dặm, thanh thế lớn lắm. Giờ tỵ (khoảng 9 đến 11 giờ) ngày mồng Chín, tháng Mười, tiền quân của Thông đến địa phận làng Tốt Động. Bỗng nghe tiếng hoả pháo nổ ở phía Cao Bộ, Thông tưởng là ám hiệu của cánh kì binh thì cả mừng, vội xua đại quân kíp xông tới. Quân Minh đều đổ xô lên chiếm lấy điểm thuận lợi, theo đường tắt mà vào, lội ruộng mà đi, bỏ cả đội ngũ. Thình lình, quân Nam từ sông Yên Duyệt phía trước, từ đồng cỏ lác lau sậy, từ bờ đầm Rót phía tây, từ các làng xung quanh bỗng hiện ra, tràn tới chặn đầu và đánh tạt vào hai bên, khí thế cực kì https://thuviensach.vn dũng mãnh. Quân Nam được voi dẫn đầu lại quen thạo địa hình nên đi lại như bay, sức mạnh như thần. Khi ấy, trời đổ mưa to, quân Minh bị hãm ở chỗ lội, người và ngựa bị ruộng sâu bùn lầy làm vướng chân, trở tay không kịp, đành phơi mình chịu chết. Quân Nam dùng cung tên giáo mác lao vào mà bắn giết, thây giặc gối lên nhau ngập đồng. Thượng thư bộ binh Trần Hiệp thúc ngựa tiến lên, định chỉnh đốn quân ngũ đang rối loạn thì bị một mũi giáo đâm trúng, ngã lộn nhào xuống đất. Thông trông thấy, xô tới cứu nhưng không kịp. Quân Nam nhanh hơn, xông vào chém chết. Thông khiếp đảm ngửa mặt lên trời, kêu thất thanh: - Trời hại ta! Vừa dứt lời, Thông liền bị một mũi tên bắn vào cạnh sườn. Cả sợ, Thông vội quay ngựa chạy thục mạng. Cánh kì binh vừa đến Cao Bộ chưa kịp bắn hoả pháo, đã thấy tiếng pháo hiệu nổ, lại thấy quân Nam từ bốn phía đổ ra đón đánh thì biết là mắc mưu. Quân tướng đều rụng rời chân tay, vội vã trốn về Chúc Động, hợp với cánh chính binh vừa tan vỡ chạy tới. Không ngờ, từ chân núi Ninh, núi Chúc, từ các cánh rừng ven lộ, từ những bờ lau ven đầm, quân Nam lại hiện ra chẹn đánh, Vương Thông, Mã Kỳ chẳng còn bụng dạ nào cự chiến, bỏ mặc quân lính lao qua cầu Ninh Kiều chạy một mạch về Đông Quan. Quân Nam đuổi theo chặt gãy cầu. Giặc bị chết chém, chết chìm dưới sông nhiều không kể xiết. Nước sông Ninh (sông Đáy) vì thế tắc nghẽn, không chảy được. Quân Minh còn sống, chạy tản vào các làng, dân binh nổi lên bắt giết không sót một tên. Lý An, Phương Chính chậm chân, đến Ninh Kiều thì cầu đã mất, tắc đường không qua được sông Ninh. Cả bọn hết hồn vội theo dọc sông Ninh ngược lên phía Bắc lẩn về Cổ Sở. Không ngờ lại bị dân binh trong làng xông ra chặn bắt. Phương Chính, Lý An phải cướp đò lẻn qua sông mà về Đông Quan. https://thuviensach.vn Chiều hôm đó, Vương Thông kiểm lại quân tướng mới biết Nội quan Lý Lượng, chỉ huy Lý Đằng đã mất xác. Hơn chín vạn quân hùng hổ kéo đi, giờ còn chưa đầy ba vạn, về đến thành mà vẫn tim đập chân run. Thông sợ lắm, từ bấy giờ hết lên mặt kiêu căng, đóng chặt cửa thành cố thủ. Giải phóng Đông Quan Đ ến đầu tháng Chín năm Đinh Mùi (10 - 1427), giặc Minh chỉ còn giữ được mấy thành: Tây Đô, Chí Linh, Cổ Lộng, Đông Quan, trong đó riêng ở Đông Quan, mấy vạn quân của Vương Thông vẫn liều chết cố thủ để chờ viện binh. Sau chín, mười tháng bị vây hãm, giặc ở thành Đông Quan ngày một trí cùng sức kiệt. Nguyễn Trãi mấy phen vào thành thuyết hàng, lại năm lần bảy lượt viết thư gửi Vương Thông, Sơn Thọ chiêu dụ khiến giặc càng hoang mang nao núng. Quân Minh nhiều tên đã họp nhau thành từng nhóm, lẻn ra ngoài thành xin cho được sống. Viên Bách hộ Hà Vượng nhân chuyến được cử ra lấy trộm củi cỏ cũng đem binh đến trước đại bản doanh Lê Lợi ở Bồ Đề (Gia Lâm - Hà Nội) quy hàng. Bọn Vương Thông tuy bề ngoài vẫn làm vẻ điềm nhiên, song trong bụng đã rối bời. Chúng luôn miệng phao https://thuviensach.vn tin viện binh sắp sang để cố nuôi lòng quân sĩ. Nay tin Liễu Thăng, Mộc Thạnh cùng bọn Lương Minh, Lý Khánh, Thôi Tụ, Hoàng Phúc… đều là những tướng mà vua Minh Tuyên Đức tin tưởng, là bậc lão thành, tài giỏi, cùng mười lăm vạn quân, ba vạn ngựa chia hai đường, đang hùng hổ kéo sang, làm bọn Vương Thông ở Đông Quan khấp khởi mừng thầm, ngày đêm nghển cổ mong chờ. Thông họp bọn tướng tá dưới trướng lại, bảo: - Nay hoàng đế đã cử thái phó Kiềm Quốc Công (Mộc Thạnh) và Thái tử thái phó An Viễn Hầu (Liễu Thăng) đem đại binh sang chinh phạt. Ngài lại mật truyền cho ta phải cố giữ Đông Quan, bảo toàn quân lực, lại phải gấp rút, chỉnh đốn hàng ngũ đợi quan quân sang thì hai mặt trong ngoài cùng đánh. Đoạn, cắt đặt bọn Mã Anh, Sơn Thọ, Mã Kỳ, Phương Chính, Lý An, Trần Trí… chia nhau đi đốc thúc quân sĩ đào hào cắm chông, dựng rào đắp luỹ, sắp sẵn chiến cụ, sửa đóng ngựa xe, chờ cơ hội đến sẽ tung ra đánh phá. Tướng sĩ ta thấy vậy nhao nhao đòi Lê Lợi cho đánh Đông Quan, nhằm nhổ mũi giáo sau lưng, để yên tâm đối phó với viện binh giặc đằng trước. Nguyễn Trãi vội can, Lê Lợi khen phải: - Đánh thành là hạ sách. Viện binh giặc kéo đến thì trước mặt sau lưng đều bị đánh, đó là con đường nguy. Viện binh bị phá, thành tất phải hàng. Thế là làm một mà được hai, đó mới là kế vẹn toàn vậy! Rồi Lê Lợi hạ lệnh khép chặt vòng vây, canh giữ cho nghiêm, ngày đêm tuần xét, chặn tuyệt đường đi lại giữa Đông Quan với viện binh giặc. Mặt khác, Lê Lợi sai Nguyễn Trãi tiếp tục dụ hàng giặc ở Đông Quan. Nguyễn Trãi bắn những thư đã gửi cho Vương Thông sao thành nhiều bản tung vào trong thành cho quân Minh cùng biết: https://thuviensach.vn “… Người vẫn còn ngày ngày mong đợi viện binh mà nói phao lên là viện binh sắp đến… Ngươi sao không nghĩ: ngày nay, dẫu có mười vạn viện binh thì có dám vượt cửa quan không? Ví bằng dốc quân cả nước kéo sang, hoặc độ ba bốn mươi vạn… ngươi sao không nghĩ là binh tượng ta nhiều, tâm lực ta đều, thuyền chiến ngất mây, áo giáp rực sáng, tên đạn chất đống, thuốc súng đầy kho so trước với giờ, ta mạnh hay yếu, các ngươi chắc rõ... Nay những nơi quan ải hiểm yếu, đều có quân và voi ta đồn giữ, nếu viện binh đến, thế tất phải thua; viện binh đã thua, các ngươi tất sẽ bị bắt… Bởi thế, ta tính giùm hộ các ngươi; chi bằng cùng Thái đô đốc(31) đem quân về nước là hơn cả. Bằng không, một khi cờ ta trỏ, trống ta nổi, các ngươi có ăn năn cũng không kịp đâu!”. Bọn Vương Thông thấy thế thì chột dạ. Chính Thông bụng cũng hoang mang, nghi ngờ quân cứu viện không khéo chỉ đem dầu chữa cháy. Cho nên, Thông càng sợ quân sĩ nhất là từ bọn Đô ti trở xuống mà đọc thư ấy thì dễ chán nản thất vọng sinh ra biến loạn, bèn hạ lệnh thu nhặt hết, cấm ngặt không cho bàn tán. Mặt khác, Thông sai đóng chặt cổng thành, ngày ngày ghé mắt nghe ngóng binh tình. Được ít hôm, thình lình quân canh sợ hãi vào báo tin: https://thuviensach.vn - Quân Nam đến trước thành réo tên quan Tổng binh Thái tử thái bảo Vương Thông ra mà nhận viện binh! Bọn Vương Thông kinh hoàng kéo cả lên mặt thành xem xét. Nhìn xuống, quả nhiên thấy Đô đốc Thôi Tụ và Thượng thư Hoàng Phúc đang bị trói tay đứng đó. Xung quanh lốc nhốc một lũ quân nội địa(32) bị bắt cùng giải đến. Viên tướng của Lê Lợi thấy bọn Thông xám mặt thì cả cười, vẫy thông sự Đặng Hiếu Lộc đến lấy trong tráp ra mấy thứ giơ cho xem, bảo: - Ngài Tổng binh coi: đây là song hổ phù của Chinh lỗ phó tướng quân Liễu Thăng, đây là hai quả ấn bạc của Binh bộ thượng thư Lý Khánh và của Công bộ thượng thư Hoàng Phúc đứng kia. Còn đây là cờ, trống, số quân mà viện binh của ngài đem đến nộp cho ta! Nói đoạn liền bắn lên một bức thư và bảo: - Thư quan hành khiển vâng lệnh Chúa công ta gửi các người. Xem thư khắc rõ. Bọn Vương Thông, Sơn Thọ đều xanh mắt. Cầm thư, bọn Thông dắt díu nhau về quân trướng mở xem. Thư viết: … “Chỗ trông cậy của các ông chỉ là quân cứu viện. Ngày tháng Giêng năm nay, có sắc cho bọn An Viễn hầu (Liễu Thăng), Bảo Định bá (Lương Minh), Thôi đô đốc (Thôi Tụ), Hoàng Thượng thư (Hoàng Phúc), Lý ngự sử (Lý Khánh) cùng thổ quan(33) là Nguyễn Huân đem quân sang hẹn trong tháng Tư tiến binh vào cõi Giao chỉ. Rồi trong một tháng, quân ấy(34) đến cửa ải của ta. Quân sĩ ta ở biên giới dụ quân ấy đến ải Chi Lăng. Ngày tháng Hai năm nay, quân ta chỉ đánh một trận mà quân ấy tan vỡ: binh mã tiên phong một lúc bị ta quét sạch, còn Tổng binh An Viễn hầu thì chết ở trận tiền. Đến ngày hai mươi nhăm, quân ta lại đánh trận nữa https://thuviensach.vn thì quân ấy hoàn toàn tan hết. Bảo Định bá thì tử trận, còn bại quân chạy tản vào rừng đều bị quân ta bắt được. Việc đến như thế, các ông còn trông cậy vào đâu?... Nay lấy một thành Đông Quan cỏn con, đem cả nước lại vây đánh là việc rất dễ, song tôi không làm…Nếu các ông cởi giáp mở thành, lại theo lời ước trước(35) thì các ông sẽ được bảo toàn quân lực đem nhau về nước… Thế chẳng là tốt đẹp hay sao?...” Lâu nay, bọn Thông chỉ trông chờ viện binh đến cứu sống. Nay viện binh đã tan tành, chứng cớ ấy cả bọn vừa nhìn tận mắt. Thư của Nguyễn Trãi kịp mở cho Thông lối thoát; trong bọn kẻ nào bụng cũng nghĩ thế nhưng chẳng ai dám nói ra. Quân tướng lặng như tờ. Ít hôm sau, mới sáng dậy, quân canh đã hốt hoảng vào báo: - Quân Nam đã kéo đến sát chân thành. Thông sai Đô đốc Mã Anh ra xem. Bốn mặt thành, quân Lê Lợi trùng điệp, gươm giáo sáng loà, xe đánh thành đẩy đến chật đường. Mới hôm rồi, quân Nam đã đắp một luỹ vây ngoài Cửa Nam. Nay chỉ qua một đêm, không ngờ họ lại đắp xong luỹ đất nữa chạy từ phường An Hoa đến Cửa Bắc. Mã Anh cả sợ, vội quay vào trình báo. Bọn Vương Thông càng hoang mang cùng quẫn. Bấy giờ, Lê Lợi cũng họp tướng tá lại bàn cách hạ thành. Tướng sĩ nhiều người đều xin cho quân đánh tràn lên để rửa hờn. Nguyễn Trãi can: - Tình hình quân giặc trong lúc này mình muốn phá vào sào huyệt, ăn gan uống máu để rửa mối thâm thù không phải là việc khó. Nhưng thần trộm e như vậy sẽ kết mối thù với triều Minh https://thuviensach.vn quá sâu. Vì sự trả thù, vì cứu vớt lấy thể diện của một nước lớn, vua nhà Minh tất phái binh sang. Như thế, cái vạ binh đao biết đến bao giờ cho dứt được? Chi bằng ta nên thừa lúc này, kẻ kia lâm vào thế cùng mà cùng họ hoà hiếu, để tạo phúc cho cả sinh linh hai nước. Lê Lợi nghe theo, bảo: - Quan hành khiển có thể vì ta vào thành Đông Quan chuyến nữa, mà giập ngòi lửa chiến tranh? Nguyễn Trãi lĩnh mệnh, vái lạy lui ra, sửa soạn đi ngay. Vương Thông được tin báo thì mời vào. Thông vốn chẳng ưa gì Nguyễn Trãi, nhưng thấy Trãi ung dung tay không, theo sau chỉ có mấy quân hầu mà đi đứng rất đàng hoàng, ăn nói đĩnh đạc, thì bất giác thầm kêu lên trong lòng: - Nước Nam có người như Trãi, ta làm sao lấy được! Chủ khách phân nhau chỗ ngồi, Nguyễn Trãi nói luôn: - Trước đây đã giao ước hoà giải, không những lòng của chúng tôi và của các ông đều được yên mà cả đến lòng quân sĩ hai nước đều thế. Ai cũng vui mừng nhảy nhót, tự bảo rằng: cả Nam lẫn Bắc từ nay trở đi đều được vô sự. Tại sao các ông Phương, Mã(36) cố giữ ý riêng của mình, đến nỗi làm ngăn trở việc hoà ước của hai bên? Ví bằng việc hoà giải đã xong thì ngày nay tất Liễu Thăng không đem thân đến đây mà bỏ mạng. Thế là hoà hay đánh, lợi hại đã rõ ràng. Nay nếu các ông lại theo đúng giao ước xưa, chúng tôi sẽ xin lui quân về Thanh Đàm, Ái Giang; lại sửa sang đường sá, cung cấp lương thực không thiếu thứ gì, để cho các ông thung dung trở về nước. Đấy chính là lòng thành của chúng tôi muốn mưu việc lâu dài, trên thì thuận lòng hiếu sinh của trời, dưới thì cứu nhân dân khỏi nước sôi lửa bỏng. https://thuviensach.vn Vương Thông hỏi: - Nói hoà sao lại đắp thêm thành luỹ, sắp sẵn xe thang. Việc làm như thế là thành thực chăng? Nguyễn Trãi bảo: - Vừa rồi, các ông không thấy vạ cháy thành đến nơi mà sợ, lại còn lấy gáo múc nước hòng làm vơi biển cả nên đã u mê dùng quân sắp chết đánh ra. Bởi thế, quân tôi phải đắp đê quai nhỏ ngăn lỗ nước rò. Việc ấy có gì là lạ? Hễ hoà giải đã định thì mọi việc khác đều không phải để ý lo ngại nữa. Thông lại nói: - Tôi làm tướng triều đình đem quân đi đánh dẹp, mọi việc tiến lui đều phải có lệnh của thiên tử. Hoà ước là việc trọng, phải chờ mệnh của hoàng đế, tôi không dám một mình tự quyết. Nguyễn Trãi đáp: - Ông mang ấn đi chuyên việc đánh dẹp thì mọi việc quân ở cõi ngoài xa có thể tuỳ tiện mà xử trí, sao cứ phải nhất nhất đợi lệnh triều đình? Thế thì câu nói: “Đại tướng ở bên ngoài, mệnh lệnh của vua có thể có việc không tuân theo cũng được”, ông không thấy tin ư? Lại có câu nói: “Tướng là người giữ vận mệnh của quân”. Nay bọn ông giữ một thành cỏn con trơ trọi, lương thực vơi cạn, quân sĩ mỏi mệt nhao nhao thất vọng sẽ giết lẫn nhau mà tìm đường sống; lại tuyệt đường viện binh không phương kế gì cứu khỏi diệt vong. Chết như thế có bổ ích gì cho nước không? Nếu cứ bo bo cái khí tiết nhỏ mọn mà chết uổng, làm hại cả tính mệnh mấy vạn quân trong thành thì lỗi ấy ở ai? Nay thuận theo tình thế, chịu nhận hoà hiếu, bảo toàn quân lực mà về, hoàng đế có thêm quân mà giữ phương https://thuviensach.vn Bắc chống lại quân Nguyên, công ấy của các ông triều đình sao lại xem là nhỏ? Cả bọn Vương Thông, Sơn Thọ đều nín lặng, vẻ ưu tư lộ rõ trên nét mặt. Nguyễn Trãi biết bọn chúng đã xiêu lòng nhưng vẫn chưa thật yên tâm, bèn tiếp: - Xin các ông cử thái giám Sơn sang sông nói chuyện cho lời ước thêm chắc chắn. Chúa tôi sẽ cho Lưu Nhân Chú và tôi vào trong thành ở với các ông để làm con tin. Thế thì mối ngờ vực của đôi bên đều tan, lòng mọi người đều yên cả. Biết không làm sao khác, bọn Vương Thông đành nghe lời thuyết phục của Nguyễn Trãi. Ngày hăm hai, tháng một, năm ấy (10 - 12 - 1427), Vương Thông dẫn bọn võ quan là các đô đốc Mã Anh, Phương Chính, Trần Tuấn, các thái giám Sơn Thọ, Mã Kỳ, các bá tước Trần Trí, Lý An, và Đô chỉ huy Trần Hữu cùng bọn quan văn là Chu Kỳ Hậu, Quách Vĩnh Thanh, Dực Khiêm, Lục Quảng Bình, Hồng Bỉnh Lương… mở cửa thành ra hàng. Cả bọn họp nhau ở phía nam thành Đông Quan mà thề rằng: - Tổng binh Thành Sơn Hầu Vương Thông nếu không lập tức đem quân về nước, còn kéo dài năm tháng để đợi viện binh hoặc cho quan quân đi cướp bóc nhân dân thì trời đất và quỷ thần các xứ tất đem bọn quan tổng dinh Thành Sơn Hầu là Vương Thông từ bản thân cho đến cả nhà thân thích làm cho chết hết và cả đến quan quân cũng không một người nào về được đến nhà! Y lời hẹn khoan hồng, Lê Lợi và Nguyễn Trãi tha cả mười vạn quân Minh ở các thành cho về nước. Việc ấy là vào ngày Mười Hai, tháng Chạp, năm Đinh Mùi (29-12-1427). Thật Là: https://thuviensach.vn Giặc cùng đường kiệt sức, bó tay chờ chết đến nơi Ta mưu phạt tâm công,(37) không đánh mà người phải khuất. (Bình Ngô đại cáo) Chiến thắng Chi Lăng, Xương Giang T ừ khi Vương Thông vượt ải băng rừng vào nước Nam vua Minh ngày đêm trông ngóng. Qua ải Pha Luỹ, Thông đi một mạch, đến ngày mồng hai tháng mười thì vào Đông Quan. Tin ấy làm Minh Tuyên Tông mừng rỡ, thầm khen Thông là khá. Thình lình tin sét đánh bay về Yên Kinh: chỉ ba ngày đêm, chớp mắt mười vạn quân các đạo dưới quyền Thông bị giết, bị bắt, chỉ còn chưa đầy ba vạn! Triều đình trăm quan đều xanh mặt, vua Minh thì hết hồn, sợ lắm. Nhân nhận đọc biểu cầu phong(38) của Lê Lợi gửi sang, Tuyên Tông có ý vin cớ ấy để chữa thẹn mà lui binh. Tuyên Tông nói: - Nếu họ Trần quả còn con cháu, chọn lập một người cho giữ chức phiên thần, ba năm một lần tiến cống như chế độ đời https://thuviensach.vn Hồng Hi để yên dân ấy (Đại Việt) mà Trung Quốc cũng bớt được sự mệt nhọc về binh thú, thế chẳng phải là hay sao? Đại thần là Kiên Nghĩa và Trương Phụ đều tâu: - Điều ấy không nên theo. Tướng sĩ lao khổ đã mấy năm mới chiếm được Giao Chỉ(39). Biểu này là quỷ kế của Lê Lợi. Vậy nên phát thêm quân sang giết chết bọn giặc ấy đi. Dương Tử Kỳ và Dương Vinh là hai đại thần đang có ý muốn bãi binh thấy thế mới vặn Trương Phụ: - Thì triều đình cũng đã phát thêm viện binh? Phụ nói: - Quân thua tại tướng. Vương Thông vốn không có chiến công, do cha là Vương Chân chết vì việc nước, mà được tập phong, triều đình không biết là người hèn kém nên dùng nhầm. Nay kén tướng tài quen thạo việc Giao Chỉ đem đại binh đi cứu viện tất dẹp xong. Ở phương Nam, Giao Chỉ mà yên thì quân Thát Đát ở phương Bắc phải lấy đó làm răn sợ, không dám chống lại. Tuyên Tông hỏi: - Ai làm được việc ấy? https://thuviensach.vn Trương Phụ tâu: - Kiềm Quốc Công và An Viễn Hầu làm được việc ấy. Kiềm Quốc Công Mộc Thạnh, An Viễn Hầu Liễu Thăng là hai viên tướng lão luyện, dưới triều Minh Thành Tổ đã từng theo Trương Phụ sang Giao Chỉ diệt nhà Hồ, đàn áp cuộc khởi nghĩa của Trần Quỹ và Trần Quý Khoáng. Riêng Liễu Thăng lại đã ba lần Bắc chinh lập nhiều công lớn. Tuyên Tông nghe bọn Trương Phụ bàn vậy thì ưng ý, bèn hạ chiếu sửa soạn đưa mười lăm vạn quân, ba vạn ngựa chia hai đường sang cứu viện. Đại quân do Liễu Thăng lĩnh chức tổng binh, mang ấn Chinh lỗ phó tướng quân dẫn mười vạn binh theo đường Quảng Tây tiến sang. Cánh kia do thái phó Kiềm Quốc Công lĩnh chức tổng binh mang ấn Chinh Nam tướng quân cầm năm vạn quân theo đường Vân Nam tràn xuống. Việc ấy là vào cuối mùa xuân năm Đinh Mùi (1427). Bấy giờ, ở nước ta, được tin Minh Tuyên Tông sắp sửa điều binh sang cứu bọn Vương Thông, Lê Lợi lập tức hội quân tướng lại, mở cuộc duyệt binh ở Vĩnh Động (Hải Dương). Trên bờ sông, Lê Lợi sai đắp đàn cao. Dưới chân đàn là đội thị vệ mới tuyển, hai trăm lực sĩ gươm tuốt trần trấn giữ. Mấy vạn quân bộ, quân nào vệ ấy hàng ngũ chỉnh tề, giáo mác rực trời. Lại có các xe đánh thành mới đóng theo kế của người ở Đường An (Hải Dương) là Võ Cự Luyện cũng sắp sẵn thành hàng. Dưới sông, mấy trăm chiến thuyền đậu kín cả một khúc sông, buồm giương cờ cắm, nghi vệ rất oai nghiêm. Lê Lợi lên đàn cao hiểu dụ tướng sĩ: - Xưa kia họ Hồ lỗi đạo, giặc Minh thừa cơ sang xâm lược, bắt dân ta phải chịu sưu cao thuế nặng, hình phạt hà khắc. Các ngươi đều mắc vòng bạo ngược của chúng nên mới cùng nhau đứng dậy https://thuviensach.vn chống quân giặc nước. Bây giờ công việc đã gần thành, các ngươi nên cố gắng đắp tròn quả núi, đừng để thiếu một sọt đất mà núi phải dở dang! Nay nước Minh cậy lớn mạnh không lấy bánh xe đổ trước làm răn, lại cử mười lăm vạn binh, ba vạn ngựa, sai tổng binh Liễu Thăng cùng Mộc Thạnh, Lương Minh, Thôi Tụ, Lý Khánh, Hoàng Phúc chia hai đường tiến sang nước ta. Các ngươi đã biết chưa? Quân sĩ dạ ran, Lê Lợi tiếp: - Viện binh giặc sang ta chuyến này chẳng qua là kẻ đem dầu chữa cháy, chỉ thêm mua cười cho thiên hạ. Phương lược bình Ngô(39) ta đã tính sẵn cả rồi. Các ngươi hãy chỉnh đốn đội ngũ, tập rèn trận mạc, một lòng một dạ đánh giặc, đừng ngại vất vả khó nhọc. Vả lại, chỉ phải dùng sức khó nhọc một năm mà được vui hưởng thái bình muôn thuở, các ngươi có thấy nên không? Hãy cố đi! Quân sĩ lại dạ rầm trời. Nói đoạn, Lê Lợi phất cờ ra lệnh, các chiến tuyền lập tức rẽ thành hai đội tập thuỷ chiến: khi tiến khi lui, thế trận biến hoá, quân sĩ đều thông thạo. Duyệt xong quân thuỷ, Lê Lợi rời đàn cao bước lên mình voi đi duyệt quân bộ. Quân nào vệ ấy đều tinh nhuệ, khí giới nghiêm trang. Lê Lợi rất đẹp lòng. Mùa thu năm ấy, từ ải Lê Hoa (Lào Cai, giáp Vân Nam), Pha Luỹ (Hữu Nghị quan), phòng ngự sứ Trần Ban và các tướng Lê Bôi, Trần Lựu đưa thư về cáo cấp: giặc đang ngấp nghé ở biên thuỳ. Tướng sĩ nhiều người đến trước đại bản doanh Bồ Đề (Gia Lâm, Hà Nội) nói với Lê Lợi: - Cứu binh giặc đi hai đường, phương lược tiến đánh thế nào, xin đợi mệnh? Lê Lợi bảo: https://thuviensach.vn - Mộc Thạnh tuổi già, trải việc đời đã nhiều, vốn đã nghe tiếng ta, tất ngồi xem Liễu Thăng thành bại, chứ không dám khinh động. Đoạn, gọi Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Nguyễn Chích, Nguyễn Khuyến, Lê Trung đến trao lệnh: - Các ngươi dẫn quân tinh nhuệ kíp lên ngay ải Lê Hoa, cùng với phòng ngự sứ Trần Ban giữ lấy nơi hiểm yếu, chẹn quân Vân Nam của bọn Thạnh. Hãy đặt phục binh để chờ, không nên đánh nhau với giặc vội, đợi lệnh ta hẵng hay! Các tướng đều lĩnh mệnh, điểm quân đi ngay. Kế đó, bàn đến việc đánh Liễu Thăng, Lê Lợi nói: - Quân đi cứu cấp cốt phải nhanh chóng nên giặc ắt phải gấp đường đi suốt ngày đêm. Binh pháp nói: đi hàng năm trăm dặm mà chỉ vội nhằm lấy lợi, thì thượng tướng tất phải què. Nay Liễu Thăng sang đây, đường sá xa xôi, quân lính mỏi mệt. Ta lấy sức thong thả mà đánh quân mệt nhọc, thì lẽ nào không thắng? Rồi Vương quay sang Nguyễn Trãi bảo: - Quan hành khiển kíp sai người chạy thư mật truyền cho các tướng Trần Lựu, Lê Bôi ở ải Pha Luỹ chớ ham đánh thật, mà phải giả cách thua để làm kiêu lòng giặc. Lại truyền cho tổng tri Bắc đạo, Tây đạo lệnh cho các trấn Lạng Sơn, Lạng Giang, Tuyên Quang, Tam Đái, Quy Hoá hãy di dân dời nhà làm kế thanh dã(40) để giặc tuyệt nguồn cướp bóc lương thực. Dặn xong, Vương vẫy các tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Linh, Đinh Liệt, Lê Thụ, Lê Lỗng, Phạm Văn Liễu, Lê Lý và Lê Văn An đến cắt đặt: - Các ngươi hãy điểm một vạn quân tinh nhuệ, chọn lấy một trăm ngựa hay, năm voi chiến đến Chi Lăng mà bày trận mai phục, đập gãy quân tiên phong của Liễu Thăng. Còn Lê Lý, Lê Văn An - Vương https://thuviensach.vn nói tiếp - ta giao cho các ngươi ba vạn quân đi sau bọn Lê Sát, đến Cần Trạm (Lạng Giang, Bắc Giang) giấu quân cho kín mà đợi giặc. Các tướng đều hớn hở vái lạy lĩnh mệnh lui ra. Duy có Thái uý tư đồ Trần Nguyên Hãn khi ấy vẫn chưa thấy Vương sai phái thì lấy làm bồn chồn. Bỗng Lê Lợi rời ghế hổ, bước lại bên mà rằng: - Thành Xương Giang là nơi hiểm ải. Bọn Lý Nhậm có thể từ Xương Giang một ngày một đêm là kịp về ứng cứu cho giặc ở Đông Quan. Nay Liễu Thăng sắp sang, nếu Chi Lăng, Cần Trạm không diệt trừ hết viện binh để chúng tràn xuống hợp với quân ở Xương Giang thì tai vạ ấy không nhỏ. Quân ta đã vây hãm liền sáu tháng mà vẫn chưa hạ được thành. Việc ấy phi thái uý không ai làm nổi. Trần Nguyên Hãn chắp tay nói: - Thần quyết lấy Xương Giang, sai lời xin chịu tội búa rìu. Lê Lợi và Nguyễn Trãi đều cả mừng, giục Hãn đi ngay. Mờ sáng ngày mười tám, tháng chín năm Đinh Mùi, Liễu Thăng xua quân vượt biên vào nước ta. Đến trước ải Pha Luỹ, Trần Lựu đem quân ra nghênh chiến. Thấy quân Lựu có vài nghìn, lại chưa đánh đã chực quay đầu chạy, Thăng thúc quân tràn lên đánh tới. Quả nhiên, Lựu thua, phải bỏ ải đó lui về giữ thành Khâu Ôn. Hôm sau, quân Thăng thừa thắng đánh gấp, chiếm luôn Khâu Ôn và ráo riết đuổi theo Trần Lựu đến tận Ải Lưu. Lựu cho quân đóng chặt cổng thành rồi sai người đưa cho Liễu Thăng thư của Lê Lợi do Nguyễn Trãi viết. Thăng gạt đi, tức khắc ra lệnh đánh thành. Quân Lựu cự lại hăng lắm nhưng không giữ nổi, nhân lúc trời nhá nhem tối, phải phá vây cướp đường chạy về ải Chi Lăng. Liễu Thăng vào thành, cho quân nghỉ lại. Tả hữu lại đưa thư của Lê Lợi, Thăng không thèm đọc, hỏi: - Lợi nói gì? https://thuviensach.vn Tả hữu thưa: - Lợi đã gửi liền hai thư đều nói sẽ đúc người vàng, cống thổ sản địa phương, xin tướng quân lui binh. Liễu Thăng cả cười: - Ta cũng lấy làm lạ cho quân man. Ta phụng mệnh hoàng đế sang đây đánh dẹp, chớp mắt hạ ba thành, không tên nào dám cự lại. Thế mà Lợi dám ngạo mạn đòi ta lui binh! Tả hữu nói thêm: - Thư Lợi quả ngạo mạn. Lợi nói: nếu tướng quân cứ đem binh đi sâu vào nước nó, tất mang hoạ, hối sẽ không kịp. Thăng đùng đùng nổi giận quát: - Ta sẽ giết sạch bọn này, xem ai không hối kịp! Liễu Thăng là võ tướng, trải ba triều vua Minh đều vác gươm cưỡi ngựa đi đánh nam đánh bắc lập nhiều công to nên được thăng thưởng lớn. Nay cầm mười vạn quân băng rừng vượt ải vào nước ta, đi một mạch từ Pha Luỹ đến Ải Lưu, suốt mấy chục dặm như vào chỗ không người, lại nhận được thư Lê Lợi tỏ ý sợ hãi cầu xin rút quân thì Thăng càng kiêu lắm. Nhất định sáng mai sẽ kéo quân vượt Chi Lăng xuôi về Đông Quan! Hôm sau, mới canh năm (mờ sáng) Liễu Thăng đã ra lệnh trẩy quân nhằm hướng Chi Lăng tiến phát. Thăng thân dẫn một trăm quân kị hăm hở đi mở đường. Vừa đi được một đoạn, đã thấy Trần Lựu đem binh đến chặn đường khiêu chiến. Thăng tức lắm, chẳng nói chẳng rằng khua đao xông vào đánh luôn. Được mươi hiệp, Lựu tỏ ra núng thế, đâm bậy một giáo rồi quay đầu chạy. Lập tức, Liễu Thăng thúc ngựa đuổi theo, thét lớn: https://thuviensach.vn - Thằng giặc kia, mày định chạy lên trời hả? Đến một hẻm núi, Lựu biến mất. Bấy giờ, tướng sĩ của Thăng cũng vừa kịp lên với chủ tướng. Chỗ ấy, đường thì hẹp, hai bên vách núi dựng đứng, địa thế cực kì hiểm trở như dẫn vào túi sâu khó thoát. Sắp sang giờ tị (9 - 11 giờ trưa) mà sương mù vẫn mờ mịt, cảnh vật thật bí hiểm. Bộ hạ của Liễu Thăng thấy thế sợ lắm nhưng đều khiếp oai Thăng nên chưa dám can ngăn. Lang trung bộ Lại Sử An mới ghé tai chủ sự Trần Dung bảo: - Bọn ta nên cáo cấp với Lý thượng thư. Ông ta là tham tán quân vụ nói, chắc chủ soái sẽ nghe. Lúc ấy, Lý Khánh vừa dứt cơn sốt rét thấy vậy thì giật mình, đến nói với Liễu Thăng: - Chỗ này đất hiểm, sợ có phục binh. Tướng quân chớ nên khinh suất tiến quân. Trước hãy cho quân đi do thám rồi sau hẵng hay. Thượng thư Hoàng Phúc cũng bàn vào: - Giao Chỉ có Chi Lăng là ải hiểm hơn cả. Liễu Thăng nín lặng, tỏ ý không theo. Đô sự Phan Nhân đánh liều nói thêm: - Lợi có Trãi là quân sư nơi màn tướng mưu lược như thần, giấu quân lừa người rất giỏi, lại thạo đánh phục binh. Năm trước, Vương Tổng binh bị bất lợi ở Tốt Động, Ninh Kiều; thượng thư Trần Hiệp, nội quân Lý Lượng, chỉ huy Lý Đằng phải tử vong cũng là do bị hãm vào chốn đất hiểm. Nghe vậy, Liễu Thăng bụng cũng hơi sợ. Vừa lúc, Trần Lựu bỗng lù lù dẫn đến, múa giáo chỉ mặt Liễu Thăng mắng thách đánh. Thăng tức nổ ruột, gầm thét quân kị đuổi theo. Trần Lựu chạy đến https://thuviensach.vn Chi Lăng thì chui tọt vào cửa ải phía bắc. Thăng cùng đội quân kị cận vệ bám riết vượt qua cửa đó, lại băng qua núi Đầu Quỷ, núi Phượng Hoàng đổ xuống thung lũng Chi Lăng, nhất định bắt bằng được Trần Lựu. Đuổi gần đến núi Mã Yên, Thăng dẫn quân kị phi ngựa qua cầu. Chẳng ngờ, cầu ấy bị quân ta ngầm cưa sẵn nên giữa chừng cầu gãy, người và ngựa quân Thăng đều rơi xuống ruộng lầy, không đi được. Phục binh của ta từ bốn phía đổ ra. Các tướng Lê Sát, Lê Thị cưỡi voi chiến xông vào chém giết. Chớp mắt, cả trăm quân kị của Thăng đều bỏ mạng. Liễu Thăng thúc ngựa cố vượt qua đồng lầy. Vừa đến chân núi Mã Yên, quân ta từ trong khe núi xông ra phóng lao đâm trúng. Liễu Thăng ngã gục xuống, chết ngay. Cùng lúc ấy, các tướng Lưu Nhân Chú, Lê Linh, Đinh Liệt, Lê Lỗng, Phạm Văn Liễu cũng tung quân ra chặn giặc. Xác giặc gối lên nhau trải khắp mấy dặm đường suốt từ núi Mã Yên đến bắc cửa ải Chi Lăng. Đội quân tiên phong của giặc bị tan vỡ sạch; một số thoát chết chạy tản vào rừng, lại bị các đội tuần đinh tuần tráng do người làng Đồng Mỏ là Lý Huề cầm đầu, tìm bắt bằng hết. Hôm ấy là ngày Hai Mươi tháng Chín năm Đinh Mùi (10 - 10 -1427). Tin chủ tướng Liễu Thăng và hơn một vạn quân tiên phong bị giết làm kinh động cả chín vạn quân cứu viện đi sau. Phó tổng binh Bảo Định Bá Lương Minh lên thay, vội vã ra lệnh đóng quân để trấn an tinh thần, chấn chỉnh đội ngũ. Ngày hăm lăm tháng chín, bọn Lương Minh liều chết xua quân đánh tràn vào ải Chi Lăng. Dè đâu, quân Nam đã biến hết. Minh vừa mừng thầm vừa nghi hoặc nên dè dặt tiến quân. Qua được hiểm ải bậc nhất ấy, mà không phải đổ máu, bọn Lương Minh bụng đã hơi yên, cho là quân Nam thấy đất hiểm đặt phục binh đã lộ nên phải lui về xuôi, đắp thành cao cự chiến. Chẳng ngờ, đến Cần Trạm, ba vạn quân của các tướng Lê Lý, Lê Văn An đổ ra, hợp với https://thuviensach.vn cánh quân của Lê Sát, Lưu Nhân Chú từ Chi Lăng kéo về cùng sấn vào chém giết. Lương Minh vừa lâm trận thì bị ngay một mũi phi lao đâm chết. Giặc hoảng sợ, xô đẩy nhau mà chạy. Quân Minh chết thảm hại. Đô đốc Thôi Tụ lên thay chức tổng binh, cùng bọn Hoàng Phúc, Lý Khánh vội vã thu nhặt tàn quân, sắp xếp lại quân ngũ rồi kéo nhau tìm đường xuống thành Xương Giang. Ba ngày sau thì đến Phố Cát. Phố Cát cách Xương Giang chưa đầy chục dặm, chỉ chốc lát là đến. Bọn Thôi Tụ, Hoàng Phúc, Lý Khánh đưa mắt nhìn nhau, gật đầu đắc ý. Thình lình, phục binh ở đâu lại xông ra đón đánh. Quân Minh chết nhiều lắm, chất thành đống (dân ta sau đem chôn gọi là đồi Mả Ngô). Quân còn sống thì hoảng loạn tan tác. Viên Thượng thư Lý Khánh được vua Minh cử đi để bày mưu tính kế cho cánh quân Quảng Tây nay thấy binh tình cùng quẫn, bức bách quá, mới ngửa mặt kêu lớn: - Không ngờ ta lại bỏ mạng nơi này! Đoạn, trốn vào một đồi cây treo cổ mà tự vẫn. Bọn Thôi Tụ, Hoàng Phúc cố sống cố chết dẫn quân chạy về thành Xương Giang. Đến chân thành, Thôi Tụ định cất tiếng gọi, nhìn lên đã thấy cờ xí quân Nam cắm la liệt. Trên thành, Trần Nguyên Hãn chống gươm cười ngất, mắng bọn Tụ: - Thành còn đâu nữa mà vào! Bọn Tụ rụng rời chân tay, đành lui binh ra ngoài đồng cách thành Xương Giang hai dặm, lấy đất đắp luỹ đào hào để đóng quân phòng vệ. Đêm đêm, Thôi Tụ sai bắn pháo hiệu lên trời, báo tin cho các thành Chí Linh, Đông Quan đem quân lên đón. Thôi Tụ có biết đâu khi ấy, bọn Vương Thông ở Đông Quan và Chí Linh cũng đang nghển cổ mong chờ Tụ đến cứu nguy! https://thuviensach.vn Bấy giờ, ở Bồ Đề, tin thắng trận bay về, quân tướng đều vỗ tay nhảy nhót, hăm hở nói với Lê Lợi: - Bọn Thôi Tụ, Hoàng Phúc vừa thoát hoạ đắm thuyền, tướng sĩ còn khiếp sợ chưa hết đổ mồ hôi. Xin cho đánh gấp để tuyệt nguồn hi vọng của giặc ở Đông Quan. Nguyễn Trãi can: - Chưa nên. Người xưa nói: chim cùng thì mổ, thú cùng thì cắn. Huống chi giặc ở Xương Giang còn tới sáu, bảy vạn quân, càng không thể khinh suất đánh tràn. Vả lại lưới dăng chưa kĩ sao có thể bắt hết được cá. Bởi thế, trước hãy điều binh giữ chặt các nơi hiểm yếu không cho giặc các thành ứng cứu lẫn nhau, sau đưa quân tinh nhuệ các đạo cùng về, tướng sĩ kén người hùm gấu, chiến khí chọn đồ tinh xảo, ngày đêm bốn mặt vây thành, hãm giặc vào chỗ trí cùng lực kiệt. Bấy giờ chỉ một trận là xong. Xin hẹn đến giữa tháng Mười thì đánh. Lê Lợi khen phải, bèn truyền cho các cánh quân của Lê Sát, Lưu Nhân Chú và Lê Lý, Lê Văn An kíp tiến xuống vây chặt hai hướng Đông, Bắc; quân thuỷ thì theo sông Thương tiến gấp lên sông Xương Giang chẹn hướng Tây Nam; lại điều các tướng Nguyễn Xí, Lê Khôi, Phạm Vấn, Trương Lôi đem ba ngàn quân Thiết đột và bốn voi chiến lên thành Xương Giang hợp với Trần Nguyên Hãn sẵn sàng đổ ra cùng đánh. Vòng vây siết chặt, quân đông chật sông chật đồng. Bọn Thôi Tụ biết thế nguy, nhân nhận được thư chiêu dụ của Lê Lợi do quân sư Nguyễn Trãi gửi đến mới bàn nhau: - Bọn ta đóng đồn ở đây chẳng khác gì neo thuyền chơi vơi giữa biển cả, hoạ đắm chìm tất khó lòng tránh khỏi. Nay nên giả cách hoà, nhận lui về Long Châu, Bằng Tường như Lợi nói, khiến bọn https://thuviensach.vn chúng chuyên tâm đến mặt ấy, mà buông lỏng phía sau. Ta nhân đó phá vây về Chí Linh, dựa vào thành ấy kiên cố, đợi quân Thành Sơn hầu ở Đông Quan và quân Vân Nam của Kiềm Quốc Công cùng hợp binh đánh sau. Tướng sĩ đều gật đầu, xoa tay. Chẳng ngờ, đồn Xương Giang nằm giữa cánh đồng; quân bao vây đã đắp đất dựng chòi cao bốn phía, ngày đêm trông vào dò xét. Bởi thế, việc điều chỉnh sửa soạn phá vây của bọn Thôi Tụ đã không che được mắt quân ta. Tụ đành bỏ ý định chạy về Chí Linh. Bấy giờ là vào thượng tuần tháng Mười, Lê Lợi bảo Nguyễn Trãi: - Lũ Tụ, Phúc gian trá, không chịu lấy sự bại vong của bọn Liễu Thăng, Lương Minh, Lý Khánh làm răn sợ, vẫn cố tình mưu việc ác. Phải đánh gấp thành Chí Linh cho chúng tuyệt nguồn hi vọng; lại kíp sửa soạn cho xong để rằm tháng Mười sẽ cho quân bốn mặt tràn lên lấy đồn. Nguyễn Trãi nói: - Để mở đường hiếu sinh, thần xin viết thư lần nữa chiêu dụ. Nếu chúng còn tham công danh, cố chuốc lấy tai vạ; khi ấy, có chết cũng không oán ta không rộng lượng. Lê Lợi khen phải. Ngày mười tháng mười năm ấy, Trãi viết thư bảo bọn Tụ, Phúc là sẽ ra lệnh cho quân sĩ dẹp lối bắc cầu cho chúng dẫn quân đương tuyệt vọng cùng đường đem nhau về nước. Lại hẹn trong ba ngày phải thu xếp đi ngay; quá hạn ấy, nếu còn dùng dằng ở lại không đi, sẽ cho quân đánh đồn, bấy giờ có hối cũng không kịp nữa! Bọn Thôi Tụ, Hoàng Phúc nhận được thư thấy lời lẽ quyết liệt thì vừa sợ hãi, vừa nghi hoặc. Tướng sĩ dưới trướng nhiều người bàn nên lui binh. Lại có kẻ hung hăng nói: https://thuviensach.vn - Thành Đông Quan nhỏ bằng cái bát, quân không đầy ba vạn mà Vương Tổng binh còn giữ được một năm, giặc vẫn chưa làm gì nổi. Đồn Xương Giang tuy không kiên cố bằng nhưng quân đông gấp đôi; bảy vạn đại quân ta cự địch chưa đầy một tháng, sao đã tính chuyện ra hàng? Thôi Tụ, Hoàng Phúc nghe vậy, bụng chưa thật yên nhưng lại sợ rút quân mà chưa có lệnh vua, sẽ làm Minh Tuyên Tông mất thể diện, giận cá chém thớt, thì có toàn tính mạng về đến nước, cũng không thoát khỏi tội chém đầu. Cho nên, bọn Tụ đành liều chết giữ chặt đồn, không đi. Cùng với lũ tuỳ tướng mấy trăm tên, Thôi Tụ, Hoàng Phúc ngày đêm thay phiên nhau đốc thúc quân sĩ đắp thêm luỹ cao, rào chông sắt, đặt hoả pháo ráo riết tuần tra. Sau ba ngày ba đêm mất ăn mất ngủ vì lo lắng canh phòng, sang ngày mười bốn tháng mười quân Minh càng nơm nớp sợ hãi bị cướp đồn. Lạ thay, cho đến chiều tối, hết ngày mà vẫn chẳng thấy quân ta động tĩnh. Quân tướng giặc như trút được gánh nặng thở phào mừng rỡ. Thình lình, mờ sáng hôm sau, rằm tháng mười, giữa lúc giặc đang mệt mỏi ngủ yên, việc canh phòng có phần trễ nải thì quân ta nhất tề tràn tới, đẩy xe đánh thành đến phá đồn, bắc thang trèo vào, lại lùa voi chiến xông lên. Tiếng hò reo tưởng vỡ trời. Từ các chòi cao, tiếng loa dõng dạc truyền xuống: - Ai hàng thì không giết! Quân Minh kinh hoàng, không còn bụng dạ sức lực đâu mà chống lại, bỏ chạy tán loạn, bị bắt bị giết không biết bao nhiêu mà kể. Tướng giặc khiếp vía đều vứt gươm xuống ngựa, tự trói tay mà xin hàng. Thấy chủ tướng Thôi Tụ, Hoàng Phúc và ba trăm tướng khác đã cúi đầu chịu tội, mấy vạn quân giặc sống sót vội quẳng hết dao kiếm xin quy phục. Tên nào nhanh chân lẩn vào rừng vào núi, sau cũng bị người nước ta đi chăn trâu hái củi lùng bắt https://thuviensach.vn hết. Duy chỉ có một viên chủ sự là Phan Hậu trà trộn vào đám loạn quân chạy trước nên thoát được về nước. Mười vạn quân Quảng Tây đã tan tành, tướng sĩ bị bắt bị giết ở Chi Lăng - Xương Giang chỉ sót một tên. Mộc Thạnh đang lẩn quẩn ở biên giới nghe ngóng, nhận được tin ấy vô cùng khiếp đảm, kinh hoàng. Lại tận mắt nhìn thấy lũ tuỳ tùng của Liễu Thăng bị Lê Lợi bắt làm tù binh sai đưa bằng, sắc, ấn tín của chủ soái đến cho xem thì Thạnh không kịp nghĩ, một mình một ngựa nín thở trốn về nước. Thế là, ta không đánh mà cả năm vạn quân Vân Nam khắc tan, xéo lên nhau mà chạy! Nguyễn Trãi N guyễn Trãi hiệu Ức Trai, người làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn (Chí Linh, Hải Dương) sau rời về làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc (Thường Tín, Hà Nội). Ông đỗ thái học sinh (tiến sĩ) năm Canh Thìn (1400) đời Hồ Quý Ly, làm quan đến chức Ngự sử đài Chánh Chưởng(42). BỀN GAN NUÔI CHÍ LỚN Năm Đinh Hợi (1407) tháng Bảy, sau khi chiếm được nước ta, Trương Phụ sai bọn Liễu Thăng, Lỗ Lân giải cha con Hồ Quý Ly và https://thuviensach.vn gia quyến, tướng tá về Kim Lăng (Nam Kinh). Cha ông là Nguyễn Phi Khanh làm chức Tự Khanh cũng bị bắt đem đi chuyến ấy. Ông và em là Nguyễn Phi Hùng lẽo đẽo đưa cha đến ải Pha Luỹ (Hữu Nghị quan), khóc lóc xin theo chân để phụng dưỡng. Nguyễn Phi Khanh vẫy tay gọi Nguyễn Trãi, ứa nước mắt nói: - Con là người có học, có tài nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha, như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải theo cha khóc lóc mới là có hiếu sao! Nguyễn Trãi nghe rồi lạy hai lạy xin vâng lời. Về đến Đông Quan, quân Minh biết Nguyễn Trãi từng là triều quan(43) của Hồ Quý Ly bèn bắt điệu đến Án sát ti. Viên thượng thư Hoàng Phúc coi cả Đô ti và Án ti đang nghị bàn công việc với viên Tổng binh Trương Phụ. Thấy lính giải Nguyễn Trãi đến trước mặt, Phụ giật mình, liền ghé tai Hoàng Phúc nói nhỏ: - Tên này mặt mũi khôi ngô ra người có tài đức, văn hay học rộng, am hiểu thư toán. Gân sức nó cứng rắn, chí nó không phải nhỏ, nếu không sớm trừ đi, sau này tất sẽ là mối hoạ khôn lường. Đoạn, thét quân lôi ra chém. Hoàng Phúc cả cười, nhìn Nguyễn Trãi rồi bảo với Trương Phụ rằng: - Một tên học trò trói gà không chặt thế kia sao có thể là mối lo của nước được! Tổng binh quá lo xa. Nay Giao Chỉ mới nhập vào bản đồ, việc phủ dụ chiêu an để yên lòng dân man là việc trọng. Tha tội chết cho nó, giam lỏng ở Đông Quan, lấy danh lợi quan tước mà vỗ về chiêu dụ là kế hay hơn cả. Sau này, nếu nó không chịu quy phục lại theo đảng nghịch, bấy giờ lấy pháp luật mà trị tội cũng chưa muộn. https://thuviensach.vn Trương Phụ cực chẳng đã đành nghe theo. Hoàng Phúc thả Nguyễn Trãi ra, cho ở góc Nam bên ngoài thành Đông Quan. Ông dựng một túp lều tranh bên cái ao nhỏ. Nhà lều một căn tuềnh toàng, đạm bạc; chó không cần nuôi, người hầu không có. Ông sống như thế ngót chục năm trời. Quân Minh năm lần bảy lượt đem tiền bạc, quan tước rất hậu đến nhử, ông đều ôn tồn từ chối. Bấy giờ ông có thơ rằng: Góc thành Nam, lều một gian No nước uống, thiếu cơm ăn... Đông Quan là đất xung yếu của giặc ở Đại Việt. Lòng dạ ý đồ giặc thế nào, giặc xử sự động tĩnh ra sao đều ở đây mà ra. Đông Quan cũng là nơi phơi bày rõ nhất mọi điều rông rỡ bạo ngược của giặc, cũng như mọi gan ruột dân tình chốn kinh sư. Chỗ mạnh yếu của giặc đều ở trong con mắt lỗ tai của Nguyễn Trãi. Ông ngày đêm ngẫm nghĩ suy xét và bí mật viết sẵn phương lược, gọi là Bình Ngô sách(44). Biết Nguyễn Trãi không chịu nhận chức ngụy quan, cũng chẳng phải là người phẫn chí ngã lòng đi ở ẩn như Bùi Ứng Đẩu, Lý Tử Cấu, mà ngấm ngầm nuôi chí lớn, Hoàng Phúc luôn miệng dặn bọn thủ hạ phải canh chừng: - Trãi không phải là người tầm thường. Lỡ ra để sống, sau này tai vạ tất không thể tránh khỏi! ĐI TÌM MINH CHỦ Một hôm, theo lời mật hẹn với người em họ ngoại là Trần Nguyên Hãn, bấy giờ đang cầm đầu toán nghĩa quân ở Lập Thạch (Vĩnh Phúc). Nguyễn Trãi lẻn ra ngoại thành, lên Thuỵ Hương, tục gọi là làng Chèm (Từ Liêm, Hà Nội). Ông vào ngồi đợi Hãn ở đền thờ Hy https://thuviensach.vn