🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nghìn Lẻ Một Đêm Ebooks Nhóm Zalo NGHÌN LẺ MỘT ĐÊM Phan Quang dịch và giới thiệu Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Tập I LỜI GIỚI THIỆU I Nghìn lẻ một đêm, tác phẩm vĩ đại bậc nhất của nền văn học A Rập, là một trong những công trình sáng tạo phong phú và hoàn mỹ của nền văn học thế giới. Để tựa bản dịch tiếng Nga xuất bản năm 1929 ở Sankt Peterburg, Macxim Gorki viết: “Trong số các di tích tuyệt diệu của sáng tác truyền khẩu dân gian, các truyện cổ tích của nàng Sêhêrazát là di tích đồ sộ nhất. Những truyện cổ tích này thể hiện với mức hoàn hảo kỳ diệu, xu hướng của nhân dân lao động muốn buông mình theo phép nhiệm màu của những ảo giác êm đẹp, theo sự kết hợp phóng khoáng của từ ngữ thể hiện sức mạnh vũ bão của trí tưởng tượng hoa mỹ của các dân tộc phương Đông – người A Rập, người Ba Tư, người Ấn Độ. Công trình dệt gấm bằng từ ngữ này xuất hiện từ thời tối cổ, những sợi tơ muôn màu của nó lan khắp bốn phương, phủ lên trái đất một tấm thảm từ ngữ đẹp lạ lùng.”[1] Truyện mở đầu tất cả các truyện, giải thích lý do ra đời của tất cả các truyện, cái khâu đầu tiên của sợi dây chuyền vàng xuyên qua mọi tình tiết, liên kết chúng lại thành một chuỗi ngọc tuyệt tác muôn vẻ muôn màu rồi vòng trở lại để làm thành đoạn kết thúc, là chuyện của một người con gái. Một người con gái tài sắc vẹn toàn, thông minh rất mực, đã không quản hiểm nguy dám hi sinh tấm thân ngà ngọc của mình để cứu các bạn gái khỏi cảnh ô nhục và cái chết bi thương. Ngày xưa có hai anh em cùng làm vua. Anh làm hoàng đế nước Đại Ba Tư choán một phần lớn trái đất. Em là vua nước Đại Táctari, chư hầu của anh. Một hôm, được lệnh của anh triệu về, em vội vã lên đường. Xa giá vừa ra khỏi kinh thành, đã nghỉ lại; nhà vua nhớ hoàng hậu, một mình lén trở lại cấm cung định tự tình với người vợ quý yêu một lần nữa. Nhưng hỡi ôi! Nhà vua không được gặp hoàng hậu như ở trong cảnh nhớ nhung thao thức mà lại thấy hoàng hậu đang ngủ say trong vòng tay một người đàn ông khác ngay trên giường ngự của mình. Nổi giận, nhà vua chém chết đôi gian phu dâm phụ, ném xác xuống hào rồi lặng lẽ trở lại hành cung và ra lệnh khởi hành. Vua tuyệt nhiên không hé răng cho bất cứ ai biết nỗi khổ riêng đang giày xé lòng mình. Song cũng từ buổi tối bất hạnh ấy, một nỗi buồn ghê gớm xâm chiếm nhà vua và thường xuyên lộ ra nét mặt. Cảnh hoàng đế thân hành ra đón từ ngoài kinh thành, cảnh hội hè yến tiệc, nghi lễ linh đình cũng như sự săn sóc chân tình của vua anh đểu không thể làm tiêu tan nỗi u uẩn. Nhà vua tự cho mình là người đau khổ nhất trần gian. Nhưng một hôm tình cờ nhà vua bắt gặp hoàng hậu, chị dâu của mình, ngoại tình với một tên da đen trong khi hoàng đế mải đi săn. Vua em thấy nhẹ hẳn người: “À, ra không phải chỉ có ta là người đau khổ duy nhất. Vinh hiển, phú quý, quyền uy chấn động thiên hạ đến như hoàng đế anh ta mà vẫn bị vợ lừa dối. Vậy thì việc gì ta phải tự giày vò cho khổ thân!” Đến lượt vua anh, khi được tự mình chứng kiến hành động dâm ô của hoàng hậu, ông cũng vô cùng chán ngán. Hai anh em cùng một lúc từ bỏ ngai vàng, từ bỏ mọi phú quý vinh hoa trên trần thế. Hai anh em ra đi định tìm chốn ẩn thân đến trọn đời ở một nơi chân trời góc bể nào đó cho khuây khỏa nỗi buồn, cho nguôi đi vết nhục. Nhưng tình cờ – vẫn là sự tình cờ – hai vua bắt gặp một thần linh từ dưới đáy biển nổi lên, ghé vào bờ. Trên đầu thần đội một chiếc hòm thủy tinh khóa bằng bốn chiếc khóa. Để phòng ngừa vợ có thể không chung thủy, thần đã nhốt ả vào trong đó và giấu tận đáy đại dương, chỉ mở cho ra những khi nào mình cần yêu đương tình tự. Ấy thế mà người đàn bà đẹp này đã từng ngoại tình với những chín mươi tám người đàn ông khác. Mỗi người sau phút ái ân, phải để lại cho ả một chiếc nhẫn làm kỷ niệm. Và mỉa mai làm sao! Hai nhà vua, hai ông chồng đang buồn rầu ngao ngán về thế sự này lại chính là những kẻ bị ả ép buộc làm những tình nhân bất đắc dĩ thứ chín mươi chín và thứ một trăm. Vậy ra đàn bà ở đâu cũng vậy và ai cũng như ai thôi. Không thể có cách nào đủ hiệu lực ngăn ngừa, để cho họ giữ vẹn lòng chung thủy với chồng. Chỉ còn một cách – hoàng đế nước Đại Ba Tư rút ra kết luận – là giết ngay người con gái vừa chung chăn gối, không để cho sống đến ngày hôm sau. Đó chính là cách trả thù đời, trả thù đám đàn bà, trả thù vợ của những ông chồng bị cắm sừng mà trong tay có quyền lực tối cao. Từ buổi đó, một luật lệ mới được ban hành ở nước Đại Ba Tư. Một luật lệ vô cùng dã man, hết sức khắc nghiệt. Vua truyền cho tể tướng cứ mỗi đêm bắt vào cung một cô gái trinh để hầu hạ mình, rồi rạng sáng hôm sau, khi đêm vừa hết, thì ra lệnh giết chết cô gái ấy. Thế là cứ mỗi đêm một cô gái trinh đi lấy chồng và sáng ra một người đàn bà thiệt mạng. Cảnh tang tóc bao phủ khắp kinh thành. Cung đình tràn ngập máu. Nỗi đau đớn xé lòng mọi người mẹ, người cha, người yêu, người chồng chưa cưới. Giữa lúc ấy xuất hiện cứu tinh, nàng Sêhêrazát, con gái yêu của chính tể tướng, người chịu trách nhiệm thi hành lệnh tàn bạo của vua. Sêhêrazát khẩn khoản xin cha dẫn mình vào cung hiến cho hoàng đế. - Con điên hay sao? – Tể tướng kinh hoàng. - Không, thưa cha, con hiểu rõ nỗi hiểm nghèo mà con sẽ phải trải qua. Nhưng nó không làm cho con kinh sợ. Nếu con có bỏ mình, cái chết sẽ quang vinh, nếu con thành công, con sẽ giúp cho đất nước một việc hệ trọng. Sêhêrazát vào hầu hoàng đế, chỉ xin mỗi một đặc ân: cho phép em gái nhỏ của nàng được ngủ với chị “một đêm cuối cùng”. Vua đồng ý. Tảng sáng hôm sau, một giờ trước khi mặt trời mọc, cô em gái nhỏ được dặn trước, liền gọi chị và khẩn khoản xin kể cho nghe “một trong những câu chuyện hay hay mà chị rất thành thạo”. Tên vua độc ác, lúc xác thịt đã thỏa thuê, cũng muốn nghe một câu chuyện hay hay chờ trời sáng, để ra lệnh thi hành luật lệ dã man của hắn. Nàng Sêhêrazát bắt đầu kể… Trời sáng rồi mà chuyện hay còn dang dở. Nhà vua nửa cần đi thiết triều, nửa muốn nghe nốt, liền cho hoãn lệnh xử tử người con gái đến ngày hôm sau. Một đêm nữa, rồi lại một đêm nữa… chuyện vẫn dở dang vào đoạn hay nhất, vừa lúc trời sáng và án tử hình lại phải hoãn. Cứ thế một nghìn lẻ một đêm trôi qua. Cứ thế, truyện này nối tiếp truyện kia, truyện sau lồng vào truyện trước. Truyện này chưa hết truyện khác đã bắt đầu dường như vô tận. Trước mắt chúng ta, hiện lên không biết bao nhiêu là nhân vật: từ hoàng đế, tể tướng, hoàng tử, vương tôn, nhà hiền triết, bậc tu hành, quan coi ngục, viên hoạn nô cho đến tên cướp biển, lão chủ nô, mụ mối, đứa du thủ du thực, lão lái buôn, bác phó cạo, anh thợ may, người vác thuê, nhà hàng thịt, cô hầu gái, chú tiều phu… Và phúc thần và phù thủy và ma quỷ và tiên nương… Khi là cảnh cung đình rực rỡ đèn hoa, lộng lẫy ngọc ngà châu báu, khi là cảnh dạt tàu cướp miếng ăn của ma mà sống. Lúc chuyện xảy ra trong thế giới thần tiên, lúc ở nơi đầu đường xó chợ. Về tôn giáo, có những người theo đạo Hồi, có những người theo đạo Thiên Chúa, đạo Do Thái, lại có những người thờ thần Lửa… Về không gian, các chuyện xảy ra ở những nơi ngày nay được ghi trên bản đồ là Ấn Độ và Sơri Lanca, Liên Xô và Trung Quốc, Gióocđani và Iran và trước hết là Tây Á và Bắc Phi với Ai Cập, Irắc, Xyri. Tóm lại, khung cảnh rất rộng lớn, chủ để thật đa dạng, tình tiết hết sức bất ngờ, ngôn ngữ vô cùng phong phú, nhân vật rất thực và cũng rất hư. Quả khó có cách nào diễn tả cho gãy gọn nếu ta không trở lại mượn hình tượng Gorki đã dùng: “Những sợi tơ muôn màu cùa nó lan khắp bốn phương, phủ lên trái đất một tấm thảm từ ngữ đẹp lạ lùng.” Câu chuyện – hay đúng hơn là bộ sưu tập, là kho tàng những câu chuyện – mở đầu bằng những tình tiết gây ấn tượng không lấy gì làm tốt đẹp đối với người phụ nữ, đối với đức hạnh của những người vợ. Những cái nút vừa thắt lại thì đã tháo ra ngay làm bật rõ phẩm chất cao quý của một người con gái, trí tuệ sáng ngời của chính người đàn bà, chứ không phải là người thuộc giới tính khác. Sêhêrazát nói với cha: “Nếu con có phải bỏ mình, cái chết của con sẽ quang vinh, nhưng nếu con thành công, con sẽ giúp cho đất nước một việc hệ trọng. “Toàn bộ tác phẩm mở đầu với hành động cực kỳ hung bạo, hơn cả súc vật của một tên vua – bởi ngay loài cầm thú con đực cũng không bao giờ cắn chết con cái vì làm như vậy là trái với tự nhiên, là tự mình diệt chủng – và kết thúc bằng một cử chỉ hoàn toàn hợp với tính người. Sau đêm một nghìn lẻ một, bạo chúa không những tha chết cho nàng Sêhêrazát mà còn hủy bỏ luật pháp dã man của mình, luật pháp đã không có dịp thi hành suốt một nghìn lẻ một đêm nhờ công của một người con gái. Độc giả lúc gấp sách lại, hay thính giả khi người kể ngừng lời – vì đây là những chuyện kể – hoàn toàn thỏa mãn, vừa thú vị về nội dung đặc sắc của các câu chuyện, vừa hài lòng về cách kết thúc hợp lý hợp tình, “có hậu.” Không ai còn nhớ đến các hoàng hậu kém đức hạnh nữa. Trong trí nhớ mỗi người hiện lên rõ đậm hình dáng một nàng Sêhêrazát cao quý, dũng cảm, thông minh, xinh đẹp tuyệt trần và chắc chắn là giọng kể cực kỳ quyến rũ. Ngay từ đêm đầu, chúng ta đã thấy được nghệ thuật đặc sắc của những chuyện sẽ kể tiếp trong một nghìn đêm sau. II Theo các nhà nghiên cứu, Nghìn lẻ một đêm - ít ra là bản lưu truyền đến với chúng ta ngày nay – được định hình hẳn vào khoảng cuối thế kỷ 15 ở Ai Cập. Thời kỳ này cả nước Ai Cập đã hoàn toàn theo đạo Hồi. Thật ra, sự xuất hiện của nó còn ngược lên đến thời xa xưa, bắt nguồn từ những chuyện Ba Tư rất cổ và đã trải qua một thời kỳ tồn tại lâu dài trước khi được viết ra thành văn. Ở đâu cũng vậy, các chuyện kể dân gian không bao giờ là công trình sáng tạo của một người và có hình dạng hoàn chỉnh ngay từ đầu hay trong một thời gian ngắn. Thông thường xoay quanh một chủ đề cơ bản, được quần chúng tham gia, thời gian nhào nặn, tình tiết của câu chuyện phong phú dần lên, có khi biến dạng đi, và tất nhiên sẽ thay đổi ít nhiều tùy theo địa điểm và thời gian, bố cục ngày càng chặt chẽ. Cho đến một lúc nào đấy, nó được những tài năng kiệt xuất chỉnh lý, định hình lần cuối rồi được nhân dân chấp nhận coi như dạng bản cuối cùng. Các truyện kể được tập hợp trong công trình đồ sộ với cái tên phổ cập toàn thế giới Nghìn lẻ một đêm có lẽ bắt nguồn từ truyền thống các truyện dân gian xuất xứ ở phương Đông – đế quốc của các hoàng đế A Rập. Xoay quanh những truyện này, một số truyện khác cổ hơn, có nguồn gốc Ấn Độ, Ba Tư hoặc Ấn – Âu được bổ sung vào. Một loại nữa là những câu chuyện lưu truyền, phản ánh sinh động xã hội Hồi giáo buổi sơ khai của thời trung cổ, tức là thời đại các hoàng đế Abáxít[2]trong đó một phần quan trọng dành nói về những chuyện phiêu lưu trên biển cả của những thương nhân đầu tiên bắt đầu mở rộng buôn bán với nước ngoài bằng đường biển. Tất nhiên có nhiều truyện nội dung vay mượn từ kho tàng cổ tích các dân tộc khác. Đây là một hiện tượng thường thấy, nó cắt nghĩa vì sao nhiều truyện cổ của người Ấn Độ, của Tây Âu chẳng hạn có những điểm chung giống những truyện cổ ở Trung Quốc, ở Nam Á. “Vay mượn không phải bao giờ cũng là xuyên tạc, đôi khi việc vay mượn bổ sung cho truyện và làm cho nó đã hay càng hay hơn.”[3] Những người kể chuyện rong mang những chuyện đó đi kể khắp nơi. Trong quá trình ấy họ gọt đẽo cách diễn tả cho thích hợp và hấp dẫn người nghe. Người ta cho rằng chính những người Ai Cập kể chuyện rong thế kỷ 12 và 13 đã làm cho các truyện trong Nghìn lẻ một đêm thêm phong phú về nội dung, linh hoạt về hình thức và sáng sủa về từ ngữ. Ngôn ngữ dùng trong tập truyện này gắn với tiếng nói của các tầng lớp bình dân A Rập hơn là ngôn ngữ kinh viện thời bấy giờ. Cũng có thể Nghìn lẻ một đêm thành hình – với tư cách là một tác phẩm hoàn chỉnh – còn sớm hơn nữa. Theo R. Nicônxơn trong Lịch sử văn học A Rập, năm 956 một học giả A Rập tên là Masadi đã nhắc tới một cuốn sách cổ của người Ba Tư nhan đề “Một nghìn truyện, thường được gọi là Nghìn lẻ một một đêm, đó là chuyện một quốc vương và tể tướng cùng với tiểu thư và người hầu gái là nàng Sêhêrazát và Đináczát” Năm 988, Mohammed Ishaq, tác giả một tập thư mục những tác phẩm văn học A Rập và nước ngoài, nói đến việc người A Rập soạn lại tập truyện cổ Ba Tư đó. Ông viết: “Tác giả tập Truyện các tể tướng là Abđul AI Jahshiyari bắt tay soạn một cuốn sách trong đó ông chọn một nghìn truyện của người A Rập, người Ba Tư, người Hy Lạp và nhiều dân tộc khác, các truyện đểu riêng biệt, không có quan hệ gì với nhau. Ông tập hợp một số người làm nghề kể lại, mời họ kể cho nghe rồi chọn những truyện hay nhất, những ngụ ngôn, cổ tích mà ông thích nhất. Là một người có tài, ông đúc những câu chuyện ấy lại thành bốn trăm tám mươi đêm, mỗi đêm là một truyện trọn vẹn dài trên dưới năm chục trang. Nhưng ông chết bất ngờ trước khi hoàn thành một nghìn truyện như dự định.”[4] Nghìn lẻ một đêm[5]như ta đã biết hiện nay, lần đầu tiên được giới thiệu với châu Âu rồi từ đó phổ cập rộng khắp hầu như toàn thế giới là nhờ công lao của một học giả người Pháp Antoine Galland mà bản dịch từ khi ra đời cách đây gần ba thế kỷ đã mau chóng trở thành kinh điển. Antoine Galland sinh năm 1646 tại một thị trấn nhỏ ở tỉnh Picácđi, miền Bắc nước Pháp. Ông mồ côi cha từ sớm. Bà mẹ phải làm lụng vất vả cho con ăn học. Mười bốn tuổi đã phải đi làm; một năm sau tìm đến Paris tiếp tục trau dổi kiến thức. Sau đó, giúp việc cho sứ thần Pháp ở Côngxtăngtinôp (nay là Xtămbun, thuộc Thổ Nhĩ Kỳ) nhờ vậy ông có điều kiện đi lại nhiều nước Tây Á. Trở về Paris, một hôm tình cờ đọc được một bản chép tay bảy truyện cổ A Rập, ông có ý định dịch và cho xuất bản. Sách sắp đưa in thì dịch giả được biết những truyện này thực ra rút từ “một pho đồ sộ gồm nhiều truyện tương tự chia thành nhiều tập để là Nghìn lẻ một đêm.[6] Ông nhờ người tìm kiếm hộ, từ Xỵri người ta chỉ gửi đến cho ông có bốn tập. Ông dịch ngay tập đầu tiên và cho xuất bản năm 1704.[7]“Món quà nhỏ mọn” như lời ông viết trong thư gửi tặng hầu tước phu nhân 0” lập tức được hoan nghênh nhiệt liệt. Thành công hết sức to lớn. Cùng với hầu tước phu nhân O, cả triều đình, nghị viện từ giai cấp tư sản cho đến các tầng lớp nghèo hèn, tóm lại là tất cả những ai biết đọc biết viết ở Pháp đều đổ xô vào tranh nhau tập sách. Trong bốn năm, từ 1704 đến 1708, mười hai tập lần lượt ra đời. Năm 1709 Antoine Galland được một người bạn A Rập đến Paris trao thêm cho một số truyện nữa, ông lại dịch và cho in tiếp. Từ 1704 đến 1782, trong vòng bảy mươi tám năm, bản dịch của A. Galland được in lại hơn bảy mươi lần. Trong những điều kiện của thời bấy giờ, với phương tiện và kỹ thuật ấn loát thô sơ, công nghiệp giấy chưa phát triển, tỉ lệ người biết đọc và biết viết cũng chưa cao, thành công ấy vượt quá mức tưởng tượng và sự mong ước của mọi người. Từ bản của AntoineGalland, Nghìn lẻ một đêm được dịch ra nhiều thứ tiếng và xuất bản ở nhiều nước châu Âu: Anh, Hà Lan, Đức, Italia, Tây Ban Nha và một số nước tại các châu lục khác. Chừng hai thế kỷ sau Antoine Galland, một bản dịch tiếng Pháp khác của Nghìn lẻ một đêm ra đời. Dịch giả là tiến sĩ J. J. C. Mardrus. Thật ra đây là một bản dịch theo quan niệm và phong cách hoàn toàn khác: Mardrus không bỏ sót một chi tiết nào, kể cả những đoạn rườm rà đậm màu dâm tục và tất cả những thơ rải rác trong các truyện. Người ta đã bàn cãi khá nhiều về hai bản dịch đó. Các nhà nghiên cứu văn học đều nhất trí đánh giá cao bản dịch của Antoine Galland. Người dịch đã cố tình tước bớt, để tránh cho những người đọc đỡ ngượng ngùng, một số chi tiết tả tỉ mỉ những cảnh sinh hoạt mà cho dù có in ra “cũng không cho biết thêm một điều gì mới mẻ về phong tục những người theo đạo Hồi” bởi vì những cảnh ấy “diễn tả con người đang sống theo những giây phút bản năng thấp hèn nhất mà bất cứ người sống ở vĩ tuyến nào cũng đều có” như lời nhận xét của E.BIochet trong tạp chí Bách khoa (Pháp) số tháng Giêng năm 1900. Tạp chí này nhận xét: “Bản dịch của Antoine Galland cho chúng ta một ý niệm rất trung thành về tính cách và lời văn của bộ Nghìn lẻ một đêm cũng như về sinh hoạt của người A Rập.” Charles Nodier một nhà văn Pháp cũng chuyên viết truyện cổ tích đầu thế kỷ 19 đã đánh giá bản dịch của Antoine Galland như sau: “Bản dịch của AntoineGalland là một tác phẩm có thể coi là kinh điển trong thể loại văn học này, và nếu nó có phải chịu vài điều chê trách của những nhà Đông phương học nào đó mê tín sự trung thành với các nguyên tác, ấy là vì những vị này coi trọng lợi ích ngành học thuật chuộng màu sắc xa lạ của họ hơn là tinh thần của ngôn ngữ và những yêu cầu của nền văn học dân tộc chúng ta… Chúng tôi quả quyết rằng lẽ ra người ta phải thông cảm hơn với trí thông minh và sự tinh tế của Antoine Galland đã gạt bỏ ra khỏi các truyện xinh xắn ấy những hình tượng chói chang, nhiều chi tiết nhạt nhẽo, những sự trùng lặp vô bổ chỉ có thể làm giảm sút hứng thú trong một ngôn ngữ bóng bẩy nhưng chính xác, bất kỳ ở đâu cũng muốn kết hợp tính gợi cảm và tính chuẩn xác (là tiếng Pháp).” Nhà văn Gaston Picard gần đây khi soát lại bản dịch của Galland để cho in lại (bản in năm 1962) sau khi trích dẫn ý kiến của tạp chí Bách khoa đã hóm hỉnh nhận xét thêm: Antoine Galland ý tứ hơn nhiều so với tiểu thư Sêhêrazát, người mới hôm qua đây còn là một trinh nữ. Ông sợ làm chối tai bạn đọc tuy không còn là thơ dại như Đináczát song cũng không có đôi tai ưa nghe những chuyện sỗ sàng như đôi tai bạo chúa Saria. Khác với Mardrus, AntoineGalland không quan tâm dịch các vần thơ. Có lẽ ông không muốn để người đọc phải sốt ruột. Với những truyện hấp dẫn thế này, ai chẳng nóng lòng muốn biết kết cục rồi sẽ ra sao. Vả chăng, chẳng phải là chất thơ đã thấm đượm mọi dòng, mọi trang của truyện A Rập đó sao? Đây là văn học dân gian. Tuy đề tặng một hầu tước phu nhân, song thật ra Antoine Galland khi dịch đã nghĩ tới những độc giả bình thường, các tầng lớp đông đảo – và chính điều đó quyết định một phần rất lớn thành công của ông. Nhờ vậy, tập truyện mau chóng phổ cập rộng rãi tuy sau khi bị cắt xén, lược dịch và chọn lọc, vẫn còn dài tới gần hai nghìn trang. Còn J. C. Mardrus thì xuất phát từ một quan điểm khác. Không phải ngẫu nhiên mà toàn bộ bản dịch của ông để tặng Stéphane Mallarmé và tập I để tặng Paul Valérỵ – hai nhà thơ bí hiểm. Vì những lẽ đó, một số nhà phê bình có xu hướng coi bản dịch của Mardrus nặng tính chất một công trình nghiên cứu phong tục hơn là một tác phẩm văn học. Và cũng chính vì lẽ đó Nhà xuất bản Kim Đồng lần này giới thiệu Nghìn lẻ một đêm qua bản dịch của Antoine Galland. III Nghìn lẻ một đêm không chỉ là một tập truyện cổ tích, đó là cả một thế giới. Thế giới người A Rập trong cuộc đời thực tại cũng như trong cảnh thần tiên ma quái, thế giới của đạo Hồi từ khi có sử thành văn và đạo Hồi qua các truyền thuyết dân gian. Người A Rập vẫn cho pho sách này là một tấm gương vĩ đại ai nấy có thể nhìn vào đấy mà suy ngẫm, mà soi xét bản thân mình. Lời nói đầu trong nguyên bản viết: “Chuyện người xưa là bài học cho người đời nay” và ca ngợi: “Vinh quang thay cho những ai đã góp chuyện người đời xưa để làm bài học cho người đời nay! Chính từ trong những bài học ấy, nay xin kể chuyện Nghìn lẻ một đêm với tất cả những điều màu nhiệm và những châm ngôn chứa đựng trong đó.” Khó mà thưởng thức đầy đủ tác phẩm văn học dân gian của một dân tộc nếu không có những hiểu biết nhất định về lịch sử, triết lý và sinh hoạt của dân tộc ấy. Rất nhiều truyện trong Nghìn lẻ một đêm xoay quanh những chuyện xảy ra dưới triều đại của nhà vua có thực, nổi tiếng ở Bátđa vào cuối thế kỷ thứ 8 và đầu thế kỷ thứ 9, vua Harun An-Rasit (786-809). Mặt khác, mọi tiêu chuẩn về đạo đức, pháp lý… của người A Rập ngay cho đến bây giờ vẫn cơ bản dựa trên kinh Côran. Bởi vậy, chúng tôi xin được giới thiệu sơ qua với bạn đọc Việt Nam chúng ta một vài nét về thế giới A Rập và tổ chức chính trị – xã hội của một đế quốc A Rập xưa kia, về đạo Hồi và người sáng lập ra nó là Môhamét cùng với kinh Côran, Kinh Thánh tối thiêng liêng của tôn giáo này. Đạo Hồi (Ixlam) ra đời vào thế kỷ thứ 7 tại Arabi, người sáng lập là Môhamét (hoặc Mahômết)[8]người thuộc bộ lạc Caraxít. Môhamét sinh ra ở La Mếchcơ, thủ phủ nước Hếtgiadơ ở Arabi vào năm 570 (hoặc 580) và mất ở Mêđin ngày 8 tháng 6 năm 632. Mổ côi cha từ bé, lúc đầu Môhamét được ông nội nuôi, sau ở với chú. Lúc còn trẻ, chuyên giúp việc hướng dẫn các đoàn du hành sa mạc. Về sau vào làm công cho một người đàn bà góa giàu có, chủ một hiệu buôn ở La Mếchcơ tên là Khađigia. Người phụ nữ này kết hôn với Môhamét tuy bà lớn hơn ông nhiều tuổi. Nhờ đi đó đi đây nhiều, ông dần dần am tường giáo lý đạo Do Thái, đạo Cơ Đốc và ngày càng say mê việc tu hành. Ông thường lánh ở một nơi để suy ngẫm, đặc biệt về sự phán xét cuối cùng cũng như sự xuất hiện của các nhà tiên tri. Theo truyền thuyết, một hôm ông nghe có tiếng nói thiêng liêng từ trên trời vọng xuống giao sứ mệnh cho mình. Từ đó ông tự cho là đấng sứ giả như nhiều đấng khác xưa kia được Thượng đế[9] tuyển chọn và giao cho sứ mệnh răn bảo dân lành lòng kính sợ đấng Ala và hằng ngày phải chăm lo sửa mình để chuẩn bị cho ngày phán xét cuối cùng. Việc này xảy ra vào khoảng năm 610. Môhamét tự cho là được các thiên thần truyền đạt cho những lời phán bảo của Thượng đế để phổ cập trong nhân dân. Lúc đầu số người tin theo ông rất ít. Đã thế một phần các tín đồ của ông bị dân thành La Mếchcơ chống đối, buộc phải di cư sang Abyxini, một nước thời bấy giờ theo đạo Thiên Chúa. Được nhân dân trấn Yathôrít tiếp thụ giáo lý của ông khuyến khích, Môhamét rời La Mếchcơ đến đây ngày 16 tháng 7 năm 622. Yathôrít từ đấy lấy tên là Mêđin (có nghĩa là Thành phố của Đấng tiên tri) và ngày hôm ấy, ngày 16 tháng 7 năm 622 trở thành ngày Nguyên đán của lịch Hồi giáo. Lịch này tính dựa theo sự chuyển động của mặt trăng, như âm lịch của ta. Ở Mêđin, Môhamét chẳng mấy chốc trở thành không chỉ là “Đấng tiên tri” mà còn là một nhà chính trị nắm trong tay vận mệnh của thành phố này. Quyền lực của ông một mặt dựa vào số tín đồ đã cùng ông rời bỏ La Mếchcơ đến và mặt khác vào số người địa phương tin theo đạo của ông ngày càng đông. Một cuộc chiến tranh xảy ra dai dẳng tám năm ròng, và kết thúc bằng thắng lợi của Môhamét. Ông khải hoàn về La Mếchcơ năm 630. Ngoài chiến thắng rực rỡ Bếtrơ, Môhamét còn tiến hành nhiều cuộc chinh phục các nước khác, nhất là các nước ở Arabi, và tiến đánh Xiry, tạo tiền để cho những cuộc chinh phạt lớn của người A Rập về sau, khi ông đã qua đời, để mở rộng đế quốc của họ. Môhamét không bao giờ tự cho mình là người sáng tạo ra kinh Côran, nền tảng giáo lý đạo Hồi, cơ sở lập pháp và các mối quan hệ của người A Rập. Ông chỉ nhận mình là người phát hiện ra Kinh Thánh. Ngoài chức năng kỳ diệu đó ra, ông chỉ là một người như mọi người trần thế khác. Ông lấy bốn vợ chính thức – như kinh Côran cho phép – lại thêm cả một đoàn tì thiếp song vẫn không có con trai kế nghiệp. Sau khi Môhamét qua đời, những người kế vị ông tiếp tục các cuộc chiến tranh chinh phạt, lập nên một đế quốc rộng lớn trải từ bờ sông Ấn ở Tây Bắc Ấn Độ đến tận Đại Tây Dương men theo bờ Bắc Địa Trung Hải. Đạo Hồi cũng nhờ đó mà lan truyền rộng rãi. Được một thời gian đế quốc A Rập bị chia năm xẻ bảy song đạo Hồi vẫn giữ được tính thống nhất và tiếp tục phát triển. Ngoài các nước A Rập nay đông hơn một trăm triệu người, đạo Hồi còn thịnh hành ở nhiều vùng rộng lớn từ Inđônêxia qua Pakistăng đến Tây Ban Nha, từ châu Phi da đen cho tới các nước Trung Á: Kazastang, Kiechghizi, Udơbêkistăng, Taxikixtăng, Tuốcmêni và vùng Tân Cương của Trung Quốc. Những lời giáo huấn của Môhamét được các học trò và tín đồ gần gũi nhất của ông ghi lại và lưu truyền qua các bản chép trên xương lạc đà, trên đá hoặc trên lá cọ. Để tránh tình trạng có nhiều dị bản, vị calíp[10]đầu tiên nối ngôi Môhamét là Abu Bêke (632-634) cho chỉnh lý và ban hành một bản kinh duy nhất. Đến thời hoàng đế Otman (644-656) một tiểu ban lại được lập ra có trách nhiệm chỉnh lý và xác định lần cuối cùng bản kinh chính thức. Như vậy, chỉ hai mươi năm sau ngày giáo chủ qua đời, Kinh Thánh của đạo Hồi đã không còn dị bản và cứ vậy được lưu truyền cho đến tận bây giờ. Tuy vậy do đặc điểm lối viết chữ A Rập thường gây nhiều cách hiểu khác nhau về văn phạm, lại trải qua mười ba thế kỷ lưu truyền kể cả ở nhiều nước không nói tiếng A Rập, do đó khó tránh khỏi tình trạng nảy sinh nhiều điểm dị biệt. Để khắc phục nhược điểm đó, năm 1923 chính phủ Ai Cập cho ấn hành một bản kinh chính thức có chú thích rất đầy đủ nhằm tránh mọi cách hiểu không đúng và có những cách giải thích khác nhau.[11] Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét: Kinh Côran là hiện tượng rất đặc biệt. Jêxu Crít, người vẫn được coi là kẻ sáng lập đạo Thiên Chúa không để lại tác phẩm hoặc di huấn nào. Những cộng đồng Thiên Chúa giáo đầu tiên tách ra từ đạo Do Thái, thừa nhận Cựu ước vốn của đạo Do Thái và biến nó thành Kinh Thánh của mình. Còn Tân ước là một tập hợp nhiều văn phẩm khác nhau mãi đến cuối thế kỷ thứ tư sau Công nguyên mới thực sự định hình. Ngược lại, kinh của đạo Hồi là tác phẩm của một người, và chỉ hai mươi năm sau khi người đó qua đời, đã trở thành hoàn chỉnh. Đó là một điều hiếm thấy trong lịch sử các tôn giáo, nói lên thiên tài lỗi lạc của Môhamết. Kinh Côran về thực chất là phản ánh các hoạt động tôn giáo của Môhamét với tư cách là một đấng “sứ giả”. Bởi vậy nội dung của nó rất phong phú và phong cách diễn đạt cũng không đồng nhất. Những đoạn ra đời sớm nhất và tương đối ngắn hơn cả mang nhiều chất thơ (kinh Côran vốn được viết bằng văn xuôi có vần). Một phần quan trọng gồm những truyện kể vay mượn từ những truyền thuyết Do Thái, Thiên Chúa giáo, nhất là truyền thuyết đã có trong Cựu ước. Và cuối cùng là những quy định nhằm tổ chức cộng đồng tín đồ ở Mêđin, đấy cũng là cơ sở luật lệ Hồi giáo về pháp lý và về lễ nghi. Đạo Hồi khẳng định sự tồn tại của một Thượng đế duy nhất (tiếng A Rập gọi là Ala) mà sứ giả cuối cùng là Môhamét. Có thiên đường và địa ngục, có phục sinh và phán xét cuối cùng, có thiên thần và ma quỷ. Tính thiêng liêng của kinh Côran là nguyên lý cơ bản của đạo Hồi. Về nghi tiết, tín đồ Hồi giáo phải cầu kinh năm lần mỗi ngày. Lúc cầu kinh, mặt hướng về La Mếchcơ. Tín đồ phải ăn chay trong tháng ramađan (tháng chín theo lịch Hồi) và hành hương về La Mếchcơ ít nhất một lần trong suốt đời người. Đạo Hồi không có thầy tu chuyên nghiệp. Chỉ có người rao giờ cầu kinh và những người chuyên trách một số việc tôn giáo và xã hội. Về mặt xã hội, sự xuất hiện của đạo Hồi mang một số yếu tố tiến bộ vào thời đó. Đạo Hồi chủ trương đoàn kết mọi người, trước hết là đoàn kết các dân tộc A Rập, bỏ tệ chôn người con gái đầu lòng mới đẻ, khuyến khích cứu giúp người nghèo, giải phóng người nô lệ. Lúc ra đời nó phù hợp với nguyện vọng của các tầng lớp nghèo hèn, nhờ vậy nhanh chóng lan truyền rộng rãi và trở thành chỗ dựa vững chắc cho chế độ chính trị thời bấy giờ. Đạo Hồi góp phần quyết định sự thành lập và bành trướng của đế quốc calíp từ thế kỷ 7 trở về sau. IV Một đặc điểm nổi bật và quán xuyến của Nghìn lẻ một đêm là cách dừng câu chuyện lại giữa chừng, báo trước sẽ hạ hồi phân giải. Câu chuyện này được lồng vào câu chuyện khác, cũng có khi tác giả tập hợp nhiều nhân vật tính chất rất khác nhau lại một nơi, rồi tạo nên tình huống buộc mỗi người phải kể một chuyện. Với cách này, truyện muốn kết thúc ở đâu cũng được, hoặc muốn kéo dài bao nhiêu cũng vẫn là hợp lý. Đặc điểm ấy xuất phát từ một sự cần thiết sống còn: nàng Sêhêrazát phải ngừng câu chuyện của mình vào lúc trời sáng, ở đoạn hay nhất, hoặc hứa hẹn một chuyện khác sẽ còn hấp dẫn hơn nữa; nếu không, tên bạo chúa Saria sẽ thi hành quyết định tàn bạo của hắn và người kể chuyện sẽ không thể sống tới ngày hôm sau. Đó cũng là nghệ thuật độc đáo của người kể chuyện rong nhằm thu hút sự chú ý của thính giả, sao cho những người nghe không chán, không mệt, không bỏ ra về dở chừng, và tối hôm sau sẽ còn đến nghe đông hơn hôm trước. Những lúc nàng Sêhêrazát ngừng lại và nói với bạo chúa Saria:“Tiếc thay trời đã sáng rồi mà phần còn lại là đoạn hay nhất trong câu chuyện…” hoặc: “Những chuyện vừa rồi hay thật đấy nhưng không thể nào so sánh được chuyện bệ hạ sắp nghe đâỵ…” chính là lúc người kể chuyện thưa với thính giả đang chăm chú: “Đêm đã khuya lắm rồi xin cho phép dừng tại đây, đêm mai tôi xin kể nốt hầu quý vị…” Lối ngắt chuyện này, có những bản thành văn sẽ ghi tóm tắt: “Muốn biết sự thể thế nào, xin xem hồi sau sẽ rõ”, (như trong các tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc). Ngoài một số ít truyện riêng lẻ, Nghìn lẻ một đêm thường bao gồm những chuỗi gắn bó với nhau lồng ghép vào nhau. Một nhân vật kể một chuyện, nhân vật trong chuyện thứ hai này kể chuyện khác, rồi đến lượt nhân vật thuộc thế hệ thứ ba kể tiếp một chuyện khác nữa. Đó là trường hợp chuỗi truyện Người đánh cá gồm năm truyện. Thường gặp hơn là cách tạo nên tình huống buộc tất cả những nhân vật chính trong truyện phải lần lượt kể chuyện của mình hoặc một chuyện nào đó mà mình biết. Chuỗi Chuyện ba khất sĩ con vua và năm thiếu phụ ở thành cổ Bátđa gồm bảy truyện, chuỗi Chuyện chú gù gồm mười hai truyện, chuỗi Những chuyến vi hành gồm bốn truyện v.v… thuộc vào trường hợp này. Cũng có khi một chuỗi nhiều truyện với nhân vật và kết cấu riêng biệt được tập hợp theo cùng một chủ để. Năm chuyện tình, dang dở hoặc đoàn viên, bắt đầu với Chuyện Abu Hátxan… được A. Galland xếp liền nhau, chiếm tới hơn bốn trăm trang sách. Đặc điểm thứ hai của Nghìn lẻ một đêm là sự chung sống, sự hoạt động xen kẽ và tác động qua lại giữa con người và thần linh. Bên cạnh những tình tiết sống quá, thực quá, thực tới mức tự nhiên chủ nghĩa, là sự tưởng tượng hết mực huyễn hoặc, viển vông, tự do buông mình theo phép nhiệm màu của ảo giác, như lời nhận xét chí lý của Macxim Gorki. Đây không phải là sự ngẫu nhiên. Quan điểm này của những người kể chuyện bắt nguồn từ thế giới quan của đạo Hồi. Nhân vật chính trong một chuyện chẳng đã nói rõ: “Hẳn chàng đã biết, thưa hoàng tử, như đạo Hồi của chàng vẫn dạy, thế giới này có người ở, mà cũng có thần linh đó sao.” Như đã nói ở trên, các truyện trong Nghìn lẻ một đêm, dưới dạng đang lưu truyền đến chúng ta ngày nay, được định hình lần cuối vào khoảng thế kỷ 15 ở Ai Cập, khi dân cả nước này đã theo đạo Hồi. Khuynh hướng ca ngợi quá mức đạo Hồi và đả phá các tôn giáo khác, nhất là chống tục thờ thần Lửa, bàng bạc khắp tập sách. Khi nào khuynh hướng này quá lộ liễu thì nó làm hại đến giá trị nghệ thuật, như trường hợp Thiên tình sử của hoàng tử Camaranzaman. Truyện mở đầu rất hay, tình tiết cực kỳ hấp dẫn, nhưng kết thúc lại gượng gạo vì tác giả muốn tất cả các nhân vật, tích cực cũng như phản diện, cuối cùng đều giác ngộ đạo Hồi. Đặc điểm nổi bật thứ ba là vai trò của đồng tiền, thể hiện qua cách tính toán chi li của các nhân vật, cho dù đó là hoàng tử hay thần linh, thương gia hoặc công chúa, dù đang lâm vào cảnh ngộ đắm tàu hoặc lúc tình yêu tan vỡ, vẫn không quên được sức mạnh của đồng tiền. Sự giàu sang là động lực thúc đẩy con người coi thường đói khát, gian nguy, bất chấp cái chết vượt qua sa mạc và đại dương đi tìm của cải, hàng hóa, thị trường. Vì vậy, mặc dù đầy rẫy những ma quái và thần linh, những phép nhiệm màu xen những điểu kỳ ảo, Nghìn lẻ một đêm rốt cuộc vẫn là một bức tranh toàn cảnh muôn vẻ muôn màu của thế giới Hồi giáo vào thời kỳ chế độ phong kiến tan rã và buổi sơ khai của chủ nghĩa tư bản. (Khẳng định điều này, chúng ta không quên là các truyện trong bộ sưu tập được hình thành vào những thời điểm khác nhau, truyện trước và truyện sau có khi ra đời cách nhau tới sáu thế kỷ, cho nên sự phản ánh nói trên cũng mang nhiều sắc thái rất khác biệt.) Các truyện trong Nghìn lẻ một đêm miêu tả một cách sinh động, tài tình, với rất nhiều chi tiết cụ thể, cuộc sống xa hoa của vua chúa trong cung đình tráng lệ cũng như sinh hoạt của nhân dân; hội hè, đình đám, lễ cưới, đám tang, làm nghề thủ công, buôn bán. Thậm chí những chuyện riêng kín trong gia đình hoặc sự dan díu trên bộc trong dâu cũng được miêu tả tỉ mỉ. Người đọc tìm thấy với một sự hứng thú mỹ cảm bất ngờ, những tư liệu chân thật phản ánh tình hình kinh tế – xã hội một thời; cách săn voi, hái tiêu, trảy dừa, đi biển… hết sức đa dạng. Có thể kể ra: hoàng đế, công chúa, hoàng tử, tể tướng, anh hề, bà vú nuôi, chị nô lệ trẻ, mụ mai già, người đánh cá, trai đàng điếm, gái ăn chơi, anh lính về vườn được giao chân canh cổng, thợ bện thừng trở thành người trưởng giả… hầu như không thiếu một hạng người nào. Riêng chuỗi truyện mở đầu bằng Chuyện chú gù, ta đã gặp gần hai tá nhân vật chính thuộc hạng dân thường, thợ may, thợ cạo, anh hàng thịt, người tiếp phẩm, thầy lang, thầy pháp, con ở, chú hề, kẻ ăn xin, tên cướp đường, mụ lừa bịp, lão lái buôn, chú rao hàng. Nổi bật nhất trong lớp dân dã ấy là nhà buôn. Có thể nói nhân vật trung tâm của xã hội ở đây là thương nhân. Có người thử xếp các truyện trong Nghìn lẻ một đêm thành từng loại: Truyện ma quái, truyện giang hồ hiệp sĩ, truyện phiêu lưu, truyện cung đình, truyện tình, truyện bọn ăn cắp và bịp bợm… Sự phân loại này khó tránh khỏi khiên cưỡng, vì các tình tiết và bối cảnh bện vào nhau chặt đến mức xếp một truyện vào bất cứ loại nào cũng đều có thể coi là thỏa đáng hoặc không thỏa đáng. Những nhân tố gì làm nên sự hấp dẫn và giá trị bất hủ của Nghìn lẻ một đêm? Trước hết, cốt truyện ly kỳ, tình tiết bất ngờ, thể hiện một sức tưởng tượng phong phú đáng kinh ngạc với cái vốn thực tại rộng lớn lạ thường. Thiếu nhi thích xem để biết câu chuyện rồi sẽ ra sao. Người già tìm đọc không chỉ để sống lại tuổi thơ của mình mà còn để suy ngẫm về về cuộc đời, về triết lý bao hàm trong truyện… Người đọc thuộc tầng lớp xã hội nào cũng thu thập được ít nhiều hiểu biết. Nói theo cách ngày nay, lượng thông tin của tác phẩm lớn, đối tượng gây hứng thú của nó rộng. Song, nếu chỉ có thế thôi vẫn chưa đủ. Từng có một thời, bạn đọc nước ta hâm mộ những truyện đại loại như Phong thân, Chinh đông chinh tây… Nay không mấy ai nhắc đến những tên sách ấy nữa. Trước giải phóng ở miền Nam đầy rẫy một loại truyện với những chi tiết quái đản, tình huống hoang đường, nhân vật siêu nhiên. Nó cũng muốn bao hàm những tư tưởng nào đấy. Nó cũng từng được những người nào đó ưa chuộng và ca ngợi. Nhưng nói chung người ta đọc để giết thời giờ, loại sách ấy chắc chắn khó tổn tại với thời gian. Thế mạnh của Nghìn lẻ một đêm, cái gốc làm nên giá trị bất hủ của nó chính là cội nguồn dân gian. Bất kỳ ở đâu, truyện dân gian khởi đầu là những truyện kể có nguồn gốc huyền thoại hoặc xuất phát từ cuộc đời thực, và đểu có ý nghĩa đền bù cho cuộc sống trước mắt ở thế gian, nơi cơ cực bao giờ cũng nhiều hơn hạnh phúc. Con người muốn qua những truyện kể ấy, tạm thời thoát ra khỏi thực tại mình đang sống, để tìm tới một thế giới ước mơ, để trả thù cuộc đời đơn bạc. Nhưng tự ru mình trong thế giới ảo giác và tưởng tượng, con người vẫn là con người với những tình cảm thương ghét vui buồn, âu yếm và ghen tuông, hào hiệp và ti tiện, cao cả và thấp hèn. Con người dù luôn luôn bị ràng buộc trong các quan hệ xã hội, tóm lại là con người thực. Truyện dân gian thường đưa cuộc sống thực vào thế giới thần tiên, hoặc nói đúng hơn kéo níu cuộc sống thần tiên về trộn lẫn với thực tại đã được tái tạo bằng nghệ thuật. Thần linh cần thiết cho cuộc sống thế gian, nơi con người thường vỡ mộng nhiều hơn là đạt được ước mơ, cho dù ước mơ ấy chẳng lấy gì cao xa cho lắm. Cần một tấm thảm bay để đưa ta đến gặp người yêu trong nháy mắt. Cần một quả táo thần để chữa bệnh cho nàng công chúa đang thập tử nhất sinh. Phải có một cây đèn thần thì chú bé lêu lổng con bác phó may mới lấy được nàng công chúa rồi nối ngôi vua. Con chim không biết nói thì lấy ai mách cho nhà vua biết tung tích những đứa con phiêu bạt do lỗi lầm của mình. Lại cần có những hung thần để trả hộ mối hận mà ta đành bó tay trong cuộc đời thực. Dễ hiểu là vì sao các truyện trong Nghìn lẻ một đêm có lắm hoàng tử đến vậy, đặt chân đến đâu cũng gặp hoàng tử. Điều đó không chỉ phản ánh một cách máy móc thực tế lịch sử là tình trạng phong kiến cát cứ, hoặc ngược lên xa hơn nữa, chế độ bộ lạc và thị tộc với không biết bao nhiêu là tù trưởng, tộc trưởng. Vị nào trong mắt người kể chuyện dân gian cũng đều là hoàng tử cả. Suy đến cùng, các hoàng tử trong Nghìn lẻ một đêm chung quy chi là những chàng trai giống như hoàng tử đã cùng cô Tấm của ta đi dự hội làng. Các công chúa và hoàng hậu xét đến cùng chỉ là những hình mẫu của ước vọng tuổi trẻ được nhân cách hóa mà thôi. Chính nhờ nguồn gốc dân gian mà Nghìn lẻ một đêm chứa đựng tinh thần nhân văn đậm đà. Tước bỏ đi những hạn chế lịch sử biểu hiện qua các quan điểm tôn giáo, những phong tục cổ lỗ và một số chi tiết mô tả sự buông thả theo bản năng, ta sẽ nhìn thấy cái cốt tủy tinh túy của con người. Ước vọng tự do, tình yêu nam nữ, nghĩa vợ chồng, quan hệ huyết thống, cái ác phải trả nợ, cái thiện được đền bù, nhân tình thế thái… Người đọc có thể thấy ở đây câu trả lời cho nhiều vấn đề muôn thuở. Tinh thần nhân văn khi thì lẩn dưới những chuyện ly kỳ, quái đản tưởng như không dính dấp đến con người, khi thì được các nhân vật nói thẳng ra lời, súc tích như những câu châm ngôn. Nói chính xác hơn, đó là những châm ngôn truyền tụng trong dân gian được thốt ra đúng chỗ từ miệng nhân vật. Các tầng lớp trên của xã hội: hoàng đế, tể tướng, hoàng tử, vương tôn được để cao hết mức nhưng cũng không thiếu những kẻ lố bịch. Những người ở nấc cuối cùng của bậc thang tôn ti xã hội lại có khi được trình bày với tài năng xuất chúng và đức tính cao thượng. Một pháp quan được mọi người vì nể, một nhà buôn quen với sự tính toán tiền nong lại kém thông minh nhiều so với một đứa trẻ con (Chuyện AU Côgia, nhà buôn ở Bátđa) hoặc một người con gái (Chuyện AU Baba…). Bọn cướp còn phải cầu viện đến thần linh để giúp chúng giấu của. Ông chủ hiền lành, phúc hậu còn cần có vận may mới trở nên giàu có. Nhưng cô hầu gái trong chuyện Bốn mươi tên cướp thì không hề có sự trợ giúp của Thượng đế hoặc thánh thần. Chỉ với trí thông minh, sự bình tĩnh, lòng dũng cảm và nghĩa thầy tớ thủy chung, cô đã một mình tiêu diệt bốn mươi tên cướp. Cứ mỗi lần gặp điều bất hạnh, ta lại nghe các nhân vật thốt lên: “Ấy là ý muốn tối cao của Thượng đế, chúng ta phải cúi đầu tuân phục, không được hé răng phàn nàn.” Nhưng trong hành động thực tế thì luôn luôn là sự nổi loạn trước những bất công xã hội. Theo luật pháp, nô lệ là vật sở hữu hoàn toàn và tuyệt đối của chủ nó. Đối với nô lệ “chỉ có cái chết là quyền tự do duy nhất không bị ai tước đoạt” Được làm ái phi cho một vua Ba Tư hùng cường là vinh dự và hạnh phúc to lớn. Nhưng không vì vậy mà người ta thôi không ao ước tự do và nghĩ về đất nước: “Bệ hạ lấy làm ngạc nhiên ư? Tình yêu đất nước cũng tự nhiên không kém nghĩa cha con, và đối với những ai chưa mất trí khôn đến mức không hiểu nổi giá trị của tự do, thì sự mất tự do là điều không thể nào chịu đựng nổi. Thể xác rất có thể bị lệ thuộc vào quyền uy của một ông chủ nắm trong tay vũ lực và quyền hành, nhưng ý chí không thể bị khuất phục, bao giờ nó cũng tự làm chủ lấy nó.” (Chuyện Bêđe hoàng tử nước Ba Tư và Gianba công chúa con vua thủy tề). Hoàng đế Harun An-Rasit quyền uy chấn động thiên hạ, vừa có quyền sinh quyền sát đối với muôn dân, vừa là người đại diện Thượng đế cai quản phần hồn của tất cả các tín đồ. Ấy thế mà mặc dù quý trọng hết mức một cung phi, ban cho không biết bao nhiêu ân huệ và đặc quyền, vẫn không sao chiếm được trái tim của cô gái ấy. Trái tim này, oái oăm thay, lại trao cho một chàng trai trẻ thoạt gặp ở đường phố (hoàng tử, cố nhiên). Bị cản trở bởi quyền uy, hai người yêu bị cách ly và đành phải chết gần như cùng một lúc vì khổ đau và thương nhớ. Giáo lý đạo Hồi buộc người đàn bà ra đường phải che mặt. Luật pháp trị tội rất nặng những người vợ không chung thủy. Kinh Côran khẳng định “cái gì đã thuộc về chủ nô thì cấm nô lệ động đến” nhưng dân chúng lại hết lòng ủng hộ luyến ái tự do. Khi hai người yêu bất hạnh qua đời, dân chúng tự động rước xác chàng trai đưa vào chôn chung một ngôi mộ với cô gái, mỉa mai sao ngôi mộ cực kỳ tráng lệ ấy lại do hoàng đế dựng sẵn, dành cho người mà mình không chiếm được trái tim! Đám tang ấy, “được cơ man là dân chúng, nam cũng như nữ, sang cũng như hèn” đưa đến tận mộ. Và câu chuyện kết thúc với câu: “Kể từ buổi đó tất cả dân chúng thành Bátđa cũng như những người theo đạo Hồi từ mọi nơi trên trái đất có dịp đến thành phố này đều hết sức trọng vọng ngôi mộ ấy và không ngừng đến đấy cầu kinh.” (Chuyện Abuhátxan…). Đó là ước mong muôn thuở của những đôi trai gái bất hạnh, đành bằng lòng với kiếp sau làm cây liền cành, chim liền cánh. Đó là sự nổi loạn của trái tim chống bạo quyền. Vì tình yêu, một hoàng tử (xin hiểu là chàng trai) ở tận cùng nước Ba Tư lặn lội sang đến tận cùng nước Trung Hoa tìm cho được người mình ngày đêm thương nhớ. (Chuyện Camaranzaman…). Trong một xã hội đề cao hết mức đồng tiền, thật đáng lạ thấy một thương nhân đang làm ăn phát tài dám vì tình yêu mà bỏ hết mọi công việc buôn bán, bỏ mẹ và em gái, để chịu đựng mọi gian truân (Chuyện Ganem…). Trong bối cảnh của xã hội phong kiến hồi đó đang suy tàn, những câu chuyện ân tình này chẳng là gì khác một lời kêu gọi giải phóng phụ nữ, giải phóng con người. Ý chí xông xáo, vượt hiểm nguy, làm việc cật lực để đạt giàu sang là một chủ để thường được phát triển. Trước khi Cơrixtốp Côlông tìm ra châu Mỹ, người Ba Tư, người A Rập đã dám băng qua hoang mạc, đầm lầy, rừng rậm, núi cao, mở “con đường tơ lụa” “buôn bán với phương Đông” Sau thành công của Majenlang và C. Côlông, việc vượt biển cả đi tìm của cải là một động lực thôi thúc rất mạnh tầng lớp thương nhân đang trỗi dậy trong xã hội thời bấy giờ. Tiêu biểu rõ rệt cho tinh thần ấy, và phản ánh hiện tượng lịch sử này, là chuỗi Chuyện Xinbát, người đi biển. Sau khi thuật lại cho một người khuân vác nghèo khổ đang thắc mắc vì sao Xinbát sống sung sướng hơn mình, người đi biển kết luận: “Thế nào, ông bạn, bạn có bao giờ nghe ai đã từng trải qua nhiều khổ ải bằng tôi không, hoặc có ai đã từng sống trong những tình huống gian nan dường ấy? Sau bao nhiêu việc làm, tôi hưởng thụ một cuộc sống dễ chịu và bình yên, chẳng phải là điều công bằng sao?” Một hoàng tử thất cơ lỡ vận, phải nương náu nhà một tiều phu. Ông này hỏi chàng có biết một nghề nào khả dĩ kiếm sống qua ngày. “Tôi thạo môn này khoa nọ, rằng tôi là nhà ngữ pháp, nhà thơ v.v… và nhất là tôi viết chữ rất tốt.” – “Với tất cả những điều cậu vừa nói đó, – bác đáp, – ở xứ này sẽ không kiếm ra nổi một miếng bánh đâu: không có gì vô tích sự hơn là những hiểu biết đại loại như cậu vừa nói tới. Nếu cậu nghe lời khuyên của tôi thì cậu hãy mặc một chiếc áo cộc, và trông cậu cũng có vẻ cường tráng và sức khỏe tốt đây, cậu hãy đi vào khu rừng bên cạnh mà đốn củi, mang về bày ra chợ bán. Tôi đảm bảo là cậu sẽ thu được một món tiền nho nhỏ đủ sống mà không cần nhờ vả ai.” (Chuyện khất sĩ thứ hai, con vua). Các tác phẩm bất hủ thường nói nhiều hơn lượng từ ngữ dùng để viết ra nó. C.Pauxtốpxki có lần nhận xét Ăngđécxen viết truyện cho trẻ em, người lớn đọc nhiều khi không hiểu nổi ý nghĩa thâm thúy. Càng có thể nói như vậy lắm về Nghìn lẻ một đêm. Đằng sau những tình tiết khó tin, thấp thoáng nhân tình thế thái. Chuyện người chợt tỉnh giấc mơ là một trường hợp đáng chú ý. Một chàng trai vì ngán ngẩm sự bạc bẽo của người đời, tỏ ý ước mơ được làm vua một ngày, chỉ để làm mỗi việc đơn giản là sai đánh đòn mấy lão giáo trưởng cứ hay thọc mũi vào chuyện nhà hàng xóm. Không ngờ hoàng đế trong một chuyến vi hành biết được ước mong hiền lành đó. Vua sai người đánh thuốc mê, đang đêm đưa chàng trai ấy về đặt lên giường ngủ của chính mình, rồi truyền lệnh cho cả triều đình ngày hôm sau hãy coi chàng như hoàng đế thật, và hãy thi hành mọi lệnh của chàng, bất chấp mọi sự ngông cuồng, “cho dù có vì thế mà ngân khố ta bị cạn sạch trong một ngày”. Người dân làm vua đúng một ngày. Nửa đêm hôm sau, chàng lại bị đánh thuốc mê và đưa trở về nhà cũ của mình. Khi tỉnh dậy, buồn thay, chàng vẫn ngỡ mình là hoàng đế. Bệnh “say quyền lực” khiến cho chàng trai hiền lành, đáng mến ấy nói nhảm, rồi đi tới chỗ vác gậy đánh mẹ, bởi vì bà cụ không chịu tin anh chàng là vua, không chịu “tâu hoàng đế” mà chỉ gọi anh là “con trai yêu quý của mẹ”. Chàng say quyền lực đến nỗi hàng xóm phải xích tay chân chàng lại tống vào nhà thương điên. Ở đây người ta nhốt chàng vào cũi sắt mỗi ngày cho ăn một trận đòn “để cho cu cậu hết cái bệnh cuồng làm hoàng đế”. Hoàn cảnh làm thay đổi con người. Quyền hành phong kiến tuyệt đối và phú quý vinh hoa đã tha hóa nó. Đã đành các tác giả còn muốn mượn cốt truyện ly kỳ để mô tả cảnh sống cực kỳ xa hoa trong cung đình, và mua vui người đọc bằng nhiều tình tiết bất ngờ song tư duy thật của họ không giản đơn có thế. Có bản dịch đã đổi tựa để truyện ấy thành Chuyện người làm vua một ngày, làm như vậy theo chúng tôi là chưa thấu suốt “ý tại ngôn ngoại” của câu chuyện. Xưa nay Nghìn lẻ một đêm thường được coi là một bộ truyện đọc để giải trí. Chắc chắn đó không phải là chủ ý của tác giả. Trong Lời nói đâu, sau khi chúc tụng Thượng đế chí nhân chí từ và cầu nguyện cho Sứ giả tối cao Môhamét, người sáng lập đạo Hồi, tác giả vô danh đã viết: “Vinh quang thay cho những ai đã góp chuyện đời xưa để làm bài học cho người đời nay! Chính từ trong những bài học ấy, xin kể chuyện Nghìn lẻ một đêm với tất cả những phép nhiệm màu, những châm ngôn chứa đựng trong đó”. V Ở nước ta, bản dịch Nghìn lẻ một đêm đầu tiên là bản của Đinh Thái Sơn, chủ nhiệm Nam Kỳ thư xã, ấn hành thành 24 tập, mỗi tập khoảng 50 trang, ra đời vào đầu thế kỷ, khoảng năm 1910 và những năm tiếp sau. Các tập đầu được in ở Nhà in Phát Toán, đường Đormay (d’Ormay) Sài Gòn; những tập cuối ở Nhà in Liên Hiệp (Union) đường Luyxiêng Môtxar (Lucien Mossard) cũng ở Sài Gòn. Bản dịch này mang tên Giạ đàm dị sử[12]với phụ đề đóng trong ngoặc đơn: Chuyện A Rập một nghìn lẻ một đêm. Năm 1918, Trần Thái Nguyên lại dịch đăng vào mục tiểu thuyết trên tờ báo hằng ngày Nam Trung nhật báo. Bản dịch này lấy để là Một ngàn lẻ một đêm. Ở Thư viện Quốc gia (Hà Nội) hiện nay có lưu trữ một bản dịch xuất bản khoảng năm 1930 trở về sau. Hiện còn tám tập, mỗi tập dày 16 hoặc 20 trang khổ nhỏ, nhan để là Sách giải trí – Một nghìn lẻ một đêm. Đây là một bản phỏng dịch và tóm tắt khá sơ sài. Năm 1935, tuần báo Hoàn câu tân vãn của Nguyễn Háo Vĩnh, chủ nhà in Xưa Nay đường Bônar (Bônard) Sài Gòn, lại đăng một bản dịch khác, ký tên Dương Quang Nhiễu. Tên truyện vẫn là Một ngàn lẻ một đêm. Tuần báo đăng truyện này chỉ được ít lâu thì đình bản. Nhà in Xưa Nay trích một vài đoạn ngắn ra thành sách khổ nhỏ, chữ to, có minh họa dành cho trẻ em. Ở Hà Nội, năm 1939, Nhà xuất bản Tân Dân ở phố Hàng Bông cho ra đời trên Phổ thông bán nguyệt san, tạp chí nửa tháng một kỳ, bản dịch của La Sơn, rồi sau đó của Hoàng Cầm. Mỗi tập dày 160 trang, đăng trọn một hoặc hai truyện, cách năm sáu tháng hay một năm ra một tập. Để sách lần này là Một nghìn lẻ một đêm. Tất cả các bản dịch nói trên đều dịch hoặc phỏng theo bản tiếng Pháp của Antoine Galland. Năm 1943 trở về sau, Nhà xuất bản Tân Việt, Sài Gòn lần lượt phát hành bản dịch của Trần Văn Lai có chia thành từng đêm với đầu để Ngàn lẻ một đêm. Tập I dày 184 trang với khổ 13x19 “từ chuyện mở đầu đến đêm thứ chín”.Trần Văn Lai dựa theo bản của J. C. Mácđrúytx. Mặc dù có ghi rõ ở đầu sách “dịch đầy đủ và cặn kẽ theo nguyên văn” nhưng người dịch “cũng phải loại bớt mấy đoạn văn khiêu dâm của các nam nữ nhân vật trong truyện” (trích Lời tựa). Ở Hà Nội, từ 1952 và những năm tiếp sau, Nhà xuất bản Vĩnh Thịnh ở phố Lò Sũ cho in Một nghìn một đêm lẻ, bản dịch của Trần Duy Đức. Bản này cũng ghi: “dịch đầy đủ đúng nguyên bản A Rập” tuy vậy không những nó không tạo được không khí A Rập mà còn gây cho người đọc cảm giác như đang xem những tiểu thuyết Trung Quốc cổ. Nàng Sêhêrazát trở thành nàng Giáng Nga, vua Harun An-Rasit là hoàng đế Hạ Luân An, tể tướng Giafa được mệnh danh là thừa tướng Giả Hoa, còn Mêrua là tổng binh Mạnh Lực, v.v… Sau 1954, một số bản dịch phổ thông lại được xuất bản ở Sài Gòn. Tại miền Bắc, Nhà xuất bản Phổ thông, (Hà Nội) cho in Một nghìn một đêm lẻ, bản dịch của La Côn (1963). Đây là hai tập sách mỏng 130 trang khổ nhỏ. Gần đây hơn (1973) nhà xuất bản Kim Đổng cho xuất bản Cây đèn thân gồm hai truyện tóm tắt và có minh họa dành cho thiếu nhi: Cây đèn thân, AU Baba và bốn mươi tên cướp do Đỗ Đức Khang phỏng dịch. Bản dịch của chúng tôi dựa vào bản in (ba tập do Nhà xuất bản Anh em Garniê (Librairie GARNIER FRERES, 6 Rue des Saints Pères, Paris) phát hành năm 1921. Bản này hoàn toàn giống bản in năm 1881, là bản cổ nhất còn giữ được ở Việt Nam, do Nhà xuất bản Librairiedes Bibliophiles, 5 Rue Saint – Honoré, Paris phát hành. Lại so sánh bản in năm 1921 với một bản khác cũng do Nhà xuất bản Anh em Garniê” được nhà văn Gaxtông Picar soát lại và để tựa” mới in năm 1962, chúng tôi thấy về cơ bản không có gì khác. Một đôi chỗ, G. Picar đã làm công việc biên tập, cụ thể là ngắt câu hoặc đặt lại các dấu chấm câu cho gãy gọn, sáng sủa, dễ đọc hơn. Có trường hợp, đã thay đổi một vài từ cổ hoặc chưa thật chuẩn xác để cho câu văn khỏi tối nghĩa. Giọng văn kể chuyện đượm màu sắc A Rập với nhiều chi tiết cụ thể đôi khi trùng lặp. Chúng tôi cố gắng tôn trọng phong cách đó và bám sát nguyên bản mặc dù thoạt nghe có hơi lạ tai, thậm chí không được trong sáng như ta hiểu ngày nay. Trừ một số ít trường hợp phải dịch thoát để khỏi tối nghĩa hoặc trở thành ngô nghê. Chúng tôi cũng có tước bớt một vài câu ngắn hoặc để lẩn đi một vài chi tiết xét ra quá sỗ sàng trong quan hệ nam nữ. Một đôi chỗ chúng tôi dựa vào các văn bản và tài liệu khác để chú thích thêm cho người đọc đỡ mất công tìm hiểu. Một khó khăn lớn khi dịch là cách xưng hô. Phần lớn các truyện đểu bắt đầu bằng “Tâu bệ hạ” vì nếu không phải là nàng Sêhêrazát đang kể cho vua Ba Tư Saria nghe thì cũng là lời của một nhân vật nào đó trong truyện kể cho một ông vua nào đấy cũng vừa mới được sáng tạo nên thưởng thức. Theo cách hiểu thông thường, đã “Tâu bệ hạ ” thì phải xưng “thần” nhưng cứ nói năng như vậy qua suốt mấy chục truyện, sẽ khó tránh khỏi gò bó. Hơn nữa, xét cho cùng “bệ hạ” ở đây chẳng qua là công chúng đang nghe những người kể chuyện rong trình bày. Bởi vậy, trong bản dịch này, trừ một vài trường hợp, còn nói chung các ngôi thứ nhất đều xin được xưng “tôi” một cách thoải mái. Thật ra, chỉ cần qua năm, sáu mươi dòng, người đọc sẽ quên bẵng đi triều đình vua chúa, mà bị cuốn hút theo câu chuyện. Không ai còn nhớ đâu là bạo chúa, đâu là ái phi, chỉ còn có người kể chuyện tài hoa và những câu chuyện hấp dẫn. PHAN QUANG 1981 NGHÌN LẺ MỘT ĐÊM Sử ký triều đại Xatxaniên, triều đại những nhà vua nước Ba Tư cổ đã từng mở rộng biên cương sang đất Ấn Độ và những đảo lớn đảo nhỏ phụ thuộc nước này và đến tận xa mãi bên kia bờ sông Hằng cho tới nước Trung Hoa, chép rằng ngày xưa dòng họ hùng cường này có một nhà vua từng nổi danh một thời là đấng quân vương tuyệt vời. Muôn dân yêu quý Người về đức anh minh và tính thận trọng; các nước lân bang tôn kính Người về uy danh lỗi lạc, kiêng nể Người vì có đạo quân thiện chiến và kỷ luật nghiêm minh. Vua có hai hoàng tử: người con cả tên là Saria, xứng đáng được kế thừa ngôi báu của vua cha; người con thứ tên là Sadơnăng tài đức cũng không thua kém anh ruột về mặt nào. Sau một đời trị vì lâu dài và vinh hiển, nhà vua băng hà, hoàng tử Saria lên nối ngôi. Theo luật pháp nước nhà, Sadơnăng không được chia quyền, đành phải sống như một người dân thường. Thế nhưng, không những chàng không ganh tị hạnh phúc của anh mà còn hết sức tìm cách để được lòng anh. Việc đó cũng chẳng có gì khó khăn lắm. Saria vốn yêu mến em trai, càng lấy làm hài hòng về thái độ đó và muốn chia sẻ sơn hà với em. Vua cắt đất phong cho chàng làm vua nước Đại Táctari. Sadơnăng đi nhậm chức ngay và đóng đô ở Xamáccăng, thủ phủ của xứ này. Đã mười năm qua kể từ khi hai vua xa cách. Bỗng một hôm thiết tha muốn gặp em trai, Saria quyết định cử một sứ bộ đi mời chàng về thăm mình. Vua chọn chính tể tướng của mình cầm đầu sứ bộ ấy. Vị đại thần này, có một đoàn tùy tùng xứng đáng với phẩm chất của ông đi theo, lập tức lên đường và rong ruổi khẩn trương. Khi ông đến gần Xamáccăng, vua Sadơnăng được báo trước, liền cùng các đại thần ra ngoài kinh thành nghênh tiếp. Các quan đều ăn mặc rất lộng lẫy để tỏ lòng kính trọng vị quan đầu triều của hoàng đế. Quốc vương Táctari vô cùng mừng rỡ đón tể tướng và trước hết hỏi thăm tin tức của vua anh. Tể tướng đáp xong, liền trình bày lý do chuyến đi sứ của mình. Sadơnăng rất lấy làm cảm động: “Ngài tể tướng công minh ạ – vua nói – hoàng đế anh ta ban cho ta vinh dự lớn quá, thật không có lời mời nào làm ta thú vị hơn. Nếu anh ta muốn gặp thì ta cũng hết sức nôn nóng muốn thăm người. Thời gian không làm phai nhạt chút nào tình thân yêu của anh em ta. Bờ cõi ta đang thanh bình. Ta chỉ cần mươi ngày là kịp chuẩn bị lên đường cùng với ngài. Bởi vậy, không cần ngài phải vào kinh thành một thời gian quá ngắn như vậy. Ngài hãy dừng lại đây và cho dựng trại ở chốn này. Ta sẽ ra lệnh mang đến ngay cho ngài và những người tùy tòng rất nhiều hoa quả tươi.” Lệnh đó được thi hành ngay tức khắc. Nhà vua vừa quay gót về đến Xamáccăng, tể tướng đã thấy có người đưa đến cho mình cơ man là thức ăn vật uống, kèm theo những cao lương mĩ vị và tặng phẩm rất quý báu. Trong lúc đó, vua Sadơnăng sửa soạn khởi hành. Ông xử lý những công việc cấp bách nhất, lập một hội đồng cai trị đất nước trong thời gian mình vắng mặt, và cử đứng đầu hội đồng ấy một vị đại thần mà vua hiểu rõ tài đức và hoàn toàn tín nhiệm. Sau mười ngày, đoàn hộ giá sửa soạn xong xuôi. Vua giã từ hoàng hậu, rời kinh đô vào buổi chiều cùng các quan đi hộ giá, tới nghỉ ở hành cung mà vua cho dựng sẵn bên cạnh trại của tể tướng. Vua đàm đạo với viên sứ thần đến tận nửa đêm. Lúc ấy, muốn gặp lại một lần nữa hoàng hậu mà vua rất yêu quý, vua một mình trở lại hoàng thành và đi thẳng đến hậu cung. Hoàng hậu không ngờ vua quay trở lại, vừa làm việc bất chính với một viên quan hầu mạt hạng trong nội phủ. Hai người nằm với nhau lâu lắm và bây giờ đang ngủ say sưa. Vua rón rén đi vào, tưởng dành cho hoàng hậu – mà vua vẫn ngỡ là yêu mình tha thiết – sự bất ngờ lý thú được gặp chồng quay lại. Nhưng vua xiết bao kinh ngạc khi trông thấy, dưới ánh đèn không bao giờ tắt trong các cung vua phủ chúa, một người đàn ông được nàng ôm ấp trong đôi tay! Vua lặng người, không biết có nên tin vào mắt mình nữa hay không. Nhưng không còn nghi ngờ gì nữa! Vua tự bảo: “Quái lạ! Ta chưa ra khỏi hoàng cung, ta còn ở dưới chân thành Xamáccăng, thế mà chúng nó đã dám làm nhục ta! A, con khốn nạn! Tội của mày không thể không bị trừng phạt. Là vua, ta phải trừng trị những điều vô đạo xảy ra trong nước, là người chồng bị xúc phạm, ta có quyền chính đáng được trả thù. Trong cơn phẫn nộ, nhà vua đáng thương ấy rút gươm, tiến lại gần giường, và chém một nhát kết liễu cuộc đời hai tên gian phu dâm phụ đang say sưa giấc nồng. Sau đấy, vua túm xác từng tên một ném qua cửa sổ xuống chiếc hào sâu bao quanh hoàng cung. Trả thù xong theo cách ấy, vua ra khỏi kinh thành cũng lặng lẽ như lúc vào, và trở lại hành cung. Vừa tới nơi, không hề cho ai biết việc mình vừa làm, vua ra lệnh nhổ trại lên đường. Mọi việc xong tức khắc. Trời chưa sáng hẳn, xa giá đã lên đường trong tiếng trống tiếng chiêng inh ỏi, đưa lại niềm vui cho tất cả mọi người, trừ nhà vua. Vẫn băn khoăn về sự thất tiết của hoàng hậu, nhà vua suốt thời gian đi đường lúc nào cũng buồn rầu ảo não. Gần tới kinh đô nước Ấn Độ, vua được hoàng đế thân hành dẫn toàn bộ triều đình ra nghênh tiếp. Vui mừng biết bao cho hai bậc quân vương được gặp lại nhau! Họ cùng xuống ngựa ôm hôn nhau, và sau khi biểu lộ tình cảm bằng những cử chỉ cực kỳ thân thiết, hai vua cùng lên ngựa sóng cương đi vào thành phố giữa tiếng hoan hô của thần dân vua anh đến tận cung điện của hoàng đế qua một cái vườn chung, vốn dĩ rất tráng lệ và vẫn dùng làm nơi tổ chức các buổi hành lễ và liên hoan trong triều, nay càng lộng lẫy vì được sắm sanh thêm các đồ đạc mới. Saria tạm biệt quốc vương Táctari để cho chàng có thời giờ tắm gội và thay đổi trang phục; nhưng chàng vừa ra khỏi nơi thay áo, hoàng đế đã quay trở lại. Hai anh em cùng ngồi lên một chiếc sập. Và trong khi các triều thần kính cẩn đứng ra xa, hai vua bắt đầu đàm đạo với nhau về những câu chuyện giữa những người anh em đã gắn bó vì tình thân còn hơn vì dòng máu, lại lâu ngày xa cách. Đến giờ cơm chiều, họ cùng nhau dùng bữa, ăn xong lại tiếp tục chuyện trò mãi đến khi Saria thấy đêm đã quá khuya, đành lui về cung cho em được nghỉ ngơi. Chàng Sadơnăng bất hạnh đi nằm. Nhưng nếu sự có mặt của vua anh có thể làm cho chàng tạm thời lắng quên phiền muộn, thì giờ đây nỗi niềm kia lại càng xốn xang trong dạ. Đáng lẽ cần phải nghỉ ngơi thì chàng lại nhớ đến những giày vò đau đớn nhất. Những việc làm thất tiết của hoàng hậu lại hiện lên rõ mồn một trong tâm trí, chàng không thể nào chịu nổi. Cuối cùng không sao chợp mắt, chàng trở dậy. Và vì trong lòng quá sầu muộn bởi những ý nghĩ bi ai, trên mặt chàng hiện lên vẻ buồn rầu khiến cho hoàng đế không thể nào không nhận thấy. Hoàng đế tự hỏi: “Quốc vương Táctari làm sao thế nhỉ? Ai đã có thể gây nên nỗi buồn lộ ra nét mặt ấy? Chú ấy có điều gì phàn nàn về sự đón tiếp của ta chăng? Không! Ta đã tiếp chú ấy như tiếp một đứa em thân yêu, về mặt này ta tự xét chẳng có gì đáng trách. Có lẽ chú ấy buồn vì xa nước nhà hoặc vì xa hoàng hậu chăng? Nếu đúng là chú ấy buồn vì chuyện đó, thì ta phải trao ngay những tặng phẩm dành cho chú, để chú ấy muốn lên đường trở về Xamáccăng lúc nào cũng được.” Nghĩ như vậy, ngay ngày hôm sau, hoàng đế sai đưa đến cho vua em nhiều tặng phẩm, gồm những sản vật hiếm có nhất, đắt tiền nhất, kỳ lạ nhất ở Ấn Độ. Mỗi ngày hoàng đế lại cho bày ra những trò vui mới để giải buồn cho vua em. Nhưng những hội hè thú vị nhất đã chẳng làm cho chàng vui lên được chút nào lại còn khơi sâu thêm những nỗi buồn phiền. Một hôm Saria ra lệnh mở cuộc đi săn lớn cách kinh đô hai ngày đường, ở một nơi đặc biệt có nhiều hươu nai. Sadơnăng xin hoàng đế miễn cho chàng khỏi phải đi theo, viện cớ sức khỏe chàng không cho phép tham dự cuộc săn. Hoàng đế không muốn ép, để cho chàng được tự do, và cùng với tất cả triều đình lên đường đi dự cuộc vui giải trí. Hoàng đế đi khỏi, quốc vương nước Đại Táctari còn lại một mình, lui về khép kín trong buồng riêng. Chàng ngồi cạnh một cửa sổ nhìn ra vườn. Vườn ngự uyển đẹp đẽ cùng với tiếng hót của muôn ngàn chim chóc nuôi trong đó hẳn đã đưa lại cho chàng niềm khoan khoái nếu chàng còn có khả năng cảm thụ. Nhưng vẫn không ngừng bị day dứt bởi nhớ lại hành vi xấu xa của hoàng hậu, chàng ít nhìn xuống vườn hơn là ngước mắt lên trời để thở than cho số phận không may của mình. Tuy nhiên, dù phiền muộn đến thế nào đi nữa, chàng vẫn không khỏi nhận thấy một điều làm cho chàng hết sức chú ý. Một cái cửa bí mật trong cung hoàng đế đột nhiên mở ra, và từ đó bước ra hai chục người đàn bà, đi chính giữa là hoàng hậu mà phong thái rất dễ phân biệt với những người khác. Hoàng hậu tưởng quốc vương nước Đại Táctari cũng đã đi săn, liền xăm xăm bước tới tận cửa buồng riêng của chàng. Nhà vua vì tò mò muốn quan sát hoàng hậu, cho nên ngồi nép vào bên trong để vẫn có thể nhìn ra mà không bị người ngoài trông thấy. Chàng để ý thấy những người đi theo hoàng hậu bỏ các tấm mạng cho đến lúc bấy giờ vẫn che mặt họ và cởi chiếc áo dài mặc trùm lên những bộ quần áo ngắn. Chàng cực kỳ ngạc nhiên khi nhận ra trong số người mà chàng tưởng gồm toàn là phụ nữ ấy có mười tên đàn ông da đen, mỗi tên ôm ngay lấy một cô nhân tình. Hoàng hậu, về phần mình, cũng không chịu đứng lâu không có người tình. Nàng vỗ tay gọi: “Maxút! Maxút!” Lập tức một tên đàn ông da đen tụt từ trên cây cao xuống, vội vã chạy đến với nàng. Vì ngượng ngùng, tôi không thể thuật lại những việc gì xảy ra giữa những người đàn bà và bọn da đen ấy, đó là một chi tiết chẳng đáng phải quan tâm. Chỉ cần nói rằng điều Sadơnăng trông thấy đủ cho chàng nghĩ rằng anh trai chàng cũng đáng thương hại không kém gì chàng. Cuộc hoan lạc của đám người dâm loạn ấy kéo dài đến tận nửa đêm. Cả bọn cùng tắm chung trong một cái hồ rộng vốn là một nơi rất trang nhã trong vườn. Sau đó họ mặc lại quần áo và trở lại cung hoàng đế bằng cái cửa bí mật; còn tên Maxút, vốn từ bên ngoài trèo qua thành vào vườn, lại trở ra bằng lối ấy. Tất cả việc đó diễn ra dưới mắt quốc vương nước Đại Táctari, gợi lên trong lòng chàng vô vàn suy nghĩ: “Thật ta đã nhầm to khi nghĩ rằng điều bất hạnh của ta là cá biệt. Đấy chẳng qua cũng là số kiếp không thể nào tránh khỏi của tất cả mọi ông chồng, bởi vì ngay đến hoàng đế anh ta, chúa tể của bao nhiêu nước chư hầu, bậc đế vương vĩ đại nhất thế giới, cũng không tránh được. Đã vậy thì ta héo hon vì buồn khổ chẳng hóa ra hèn yếu lắm sao! Thôi thế từ nay ký ức về một điều bất hạnh thường tình như vậy không còn đáng khuấy động sự yên tĩnh của đời ta nữa.” Quả nhiên, ngay từ giờ phút ấy chàng hết buồn phiền. Giá mà không trông thấy cảnh diễn ra dưới cửa sổ chàng đã không thiết gì đến ăn uống, thì giờ đây chàng sai dọn bữa tối và ăn một bữa ăn ngon lành nhất kể từ hôm từ giã Xamáccăng đến nay. Hơn thế chàng cảm thấy thú vị nữa khi nghe những lời ca, tiếng nhạc du dương hòa tấu trong bữa ăn. Những ngày tiếp đó, Sadơnăng rất vui vẻ. Khi được tin hoàng đế đi săn trở về, chàng ra đón và tươi tỉnh chúc tụng vua anh. Saria thoạt tiên không chú ý đến sự đổi thay đó ở em trai, nhà vua còn mải nói chuyện tiếc rẻ cho em đã không đi theo mình dự cuộc săn. Và cũng chẳng chờ cho em kịp trả lời, vua đã vội khoe về số lớn những hươu nai và dã thú khác săn bắt được và kể lại những niềm vui thích trong chuyến đi săn. Sadơnăng sau khi chăm chú lắng nghe, liền cất lời. Vì không còn bận bịu bởi những nỗi u sầu vẫn ngăn trở không cho chàng biểu lộ hết trí thông minh, giờ đây chàng nói bao nhiêu chuyện hay ho thú vị. Hoàng đế cứ nghĩ là sẽ gặp lại em trai vẫn trong trạng thái sầu não như lúc chia tay cho nên rất lấy làm hoan hỉ thấy em vui vẻ. Vua nói: “Chú ạ, anh cảm tạ trời đất đã làm cho chú có sự thay đổi đáng mừng trong thời gian anh đi vắng. Anh thực sự vui lòng về việc đó. Tuy nhiên anh có một thỉnh cầu đối với chú, và anh rất mong chú đáp ứng điều anh sắp nói đây.” - Em còn có điều gì dám từ chối anh? – Quốc vương Táctari đáp. – Đối với Sadơnăng này, vua anh hoàn toàn có mọi quyền lực. Xin anh nói ra, em đang nóng lòng muốn được biết anh cần gì ở em. - Từ hôm chú đến triều đình ta, – Saria nói tiếp – anh thấy chú luôn luôn buồn bã. Anh đã tìm đủ mọi cách bày ra các trò giải trí mà không kết quả. Anh nghĩ chắc chú buồn vì xa nước nhà; có khi lại ngờ hẳn vì chú nhớ hoàng hậu ở Xamáccăng, một người mà chú đã chọn làm vợ thì chắc có sắc đẹp tuyệt trần, cho nên chú mới sinh ra tư lự. Không biết anh đoán có đúng không; song anh thú thật chính vì lý do đó mà không muốn gặng hỏi nhiều, e làm chú không bằng lòng. Tuy vậy, dù anh chẳng có góp phần gì vào đó, khi đi săn trở về thấy chú vui vẻ nhất đời, tinh thần đã hoàn toàn thoát khỏi cái ưu tư nó đã làm cho chú mất hết mọi vui tươi thường nhật. Chú hãy vui lòng cho anh rõ tại sao trước kia chú buồn như vậy, và do đâu bây giờ chú hết ưu tư? Nghe hỏi, quốc vương Đại Táctari trầm ngâm một lát như để tìm cách trả lời. Cuối cùng, chàng đáp như sau: “Anh là hoàng đế, là chúa tể của em; nhưng em van anh hãy miễn cho em không phải đáp ứng điều anh hỏi.” - Không, chú ạ. – Hoàng đế nói. – Chú phải đáp ứng, ta thích như vậy, xin chú chớ khước từ. Không thể khước từ trước sự gặng hỏi của Saria, Sadơnăng nói: “Nếu vậy thì, thưa anh, anh đã ra lệnh, em xin chiều ý anh.” Thế rồi chàng thuật lại sự thất tiết của hoàng hậu Xamáccăng. Kể xong, chàng nói: “Đấy là nguyên nhân khiến cho em từng buồn bã. Xin anh xét cho, thái độ em như vậy có sai lầm chăng.” - Ôi em ơi! – Hoàng đế thốt lên, chứng tỏ nhà vua thông cảm xiết bao mối hận của nhà vua Táctari. – Câu chuyện chú vừa kể cho anh nghe mới đáng ghê tởm làm sao. Và anh phải kiên nhẫn lắm mới nghe được tới cùng. Anh ngợi khen chú đã trừng trị những tên phản trắc láo xược dám xúc phạm mình như vậy. Không ai có thể trách cứ hành động của chú. Chú xử sự như vậy là công minh. Về phần anh, anh thú thật ở vào địa vị của chú, có lẽ anh không kiềm chế được như chú đâu. Có lẽ anh không bằng lòng chỉ giết chết một con đàn bà mà thôi; anh nghĩ rằng có thể anh phải xử tử hơn một nghìn đứa mới hả được cơn điên. Giờ anh không còn ngạc nhiên về sự buồn phiền của chú nữa. Nguyên nhân gây nên thật quá cay đắng, quá tủi nhục, làm sao mà tránh được ưu tư. Trời! Thật lạ lùng làm sao! Không, anh tin rằng không bao giờ có thể xảy ra cho ai cái chuyện như vừa xảy ra với chú. Nhưng rốt cuộc ta phải tạ ơn Thượng đế đã đưa lại cho chú niềm an ủi. Và bởi vì anh tin chắc nó có căn cứ, chú hãy vui lòng nói cho anh rõ nhờ đâu mà chú trở lại bình tâm? Mong chú hãy thật lòng giãi bày tâm sự với anh. Sadơnăng thấy càng khó nghĩ đối với điều này hơn cả điều trước, bởi nó liên quan đến chính anh mình. Nhưng rồi chàng cũng đành nhượng bộ trước những lời khẩn khoản của hoàng đế Saria. Chàng tâu: “Vậy thì em sẽ tuân lời anh, vì anh đã khăng khăng muốn biết rõ. Em sợ rằng sự phục tùng của em sẽ gây cho anh nhiều điều phiền não hơn cả em trước đây. Nhưng, mong anh rồi đây chỉ nên tự trách mình, vì chính anh đã buộc em phải nói ra một điều mà lẽ ra em muốn chôn vùi trong lãng quên vĩnh viễn. - Điều chú vừa nói đó càng kích thích thêm sự tò mò của ta. – Saria ngắt lời. – Chú hãy mau mau nói ra điều bí mật ấy cho anh rõ, cho dù nó thế nào đi nữa! Không thể khước từ được, quốc vương Táctari đành kể lại chi tiết tất cả những điều đã thấy về những tên da đen cải trang, về cách xử sự của hoàng hậu cùng các người hầu và không quên tên Maxút. Chàng nói tiếp: “Sau khi đã chứng kiến tất cả những việc xấu xa đó, em nghĩ rằng tất cả đàn bà đều một duộc như vậy thôi. Họ không thể nào cưỡng nổi dục vọng. Suy nghĩ như vậy làm em tỉnh ra. Sự bình thản về tâm hồn của một người đàn ông mà lại tùy thuộc vào đức hạnh của đàn bà thì thật là quá yếu kém. Ý kiến ấy dẫn em đi đến những suy tư khác, và cuối cùng em cho rằng không có cách nào tốt hơn là tự mình khuây khỏa. Cũng khó khăn đấy, nhưng cuối cùng em vượt qua được. Nếu anh tin lời em, xin hãy làm như em.” Mặc dù lời khuyên ấy đúng đắn, hoàng đế vẫn không thể nghe theo. Nhà vua còn nổi giận: “Quái thật, chánh cung hoàng hậu nước Ấn Độ ta mà lại có thể sa đọa một cách bỉ ổi như vậy ư? Không, chú ơi, anh không thể nào tin điều chú nói nếu anh chưa được nhìn thấy tận mắt. Có thể là chú trông nhầm. Vả chăng cái việc này cũng quan trọng nó đáng cho anh tự mình mắt thấy tai nghe rồi hẵng khẳng định.” - Thưa anh, nếu anh muốn chứng kiến việc đó thì chẳng có gì quá khó khăn. Anh chỉ việc tổ chức một chuyến đi săn nữa, và khi hai anh em ta đều đi ra ngoài kinh thành cùng với các quan của hai triều, chúng ta sẽ nghỉ lại ở hành cung; và đêm đến riêng hai chúng ta sẽ trở lại buồng riêng của em. Em tin chắc rằng ngày hôm sau anh sẽ nhìn thấy việc em đã từng trông thấy. Hoàng đế chấp nhận cái mẹo ấy, và lập tức truyền tổ chức một chuyến đi săn mới. Nội nhật hôm ấy, các hành cung đã được cất lên ở nơi quy định. Ngày hôm sau, hai vua lên đường cùng với tất cả hai đoàn tùy giá. Họ đến nơi cần hạ trại và ở lại đấy cho đến tối. Lúc này, Saria triệu tể tướng đến. Không nói rõ ý định của mình, nhà vua ra lệnh cho tể tướng thay mình khi vắng mặt, và không được cho phép một ai ra khỏi trại dù bất cứ lý do gì. Truyền lệnh xong, hoàng đế cùng quốc vương Đại Táctari lên ngựa trở lại kinh thành, đến cung điện của Sadơnăng. Họ đi ngủ. Sáng hôm sau họ dậy thật sớm ngồi bên cạnh cửa sổ nơi mà quốc vương Táctari từng nhìn thấy cảnh bọn người da đen hành lạc. Hai người hưởng không khí mát lành vì lúc này mặt trời chưa mọc. Vừa trò chuyện thỉnh thoảng họ lại đưa mắt ngó về phía cánh cửa bí mật. Cuối cùng cánh cửa ấy mở ra. Xin được kể lại vắn tắt trong mấy lời: hoàng hậu xuất hiện cùng với bọn người hầu cùng mười tên da đen cải trang và cất tiếng gọi Maxút. Những điều hoàng đế trông thấy đủ cho vua hoàn toàn tin chắc vào nỗi nhục nhã và sự bất hạnh của mình. “Trời đất ơi! – Vua kêu lên. – Bỉ ổi làm sao! Kinh tởm biết bao! Vợ một bậc đế vương như ta đây lại có thể phạm điều xấu xa ấy? Sau việc này, còn có nhà vua nào dám khoe khoang rằng mình là người hoàn toàn hạnh phúc? Ôi em ơi! – Hoàng đế ôm chầm vua Táctari và nói tiếp: – Thôi hai anh em mình hãy từ bỏ cuộc đời này. Trên đời này mọi việc đều là giả dối; chẳng qua nịnh hót đấy rồi lại phản trắc đấy mà thôi. Chúng ta hãy từ bỏ hết sơn hà xã tắc, hãy từ bỏ tất cả phù hoa hào nhoáng quanh ta. Anh em ta hãy đi đến những đất nước xa lạ, hãy kéo lê cuộc đời tăm tối mà che giấu điều bất hạnh của chúng mình.” Sadơnăng không tán thành quyết định của hoàng đế, nhưng chàng không dám cưỡng lại trong khi Saria đang cơn nóng giận. Chàng đáp: “Thưa anh, ý em cũng không khác ý anh. Em sẵn sàng đi theo anh đến bất cứ nơi nào anh muốn. Nhưng xin anh hứa với em là chúng ta sẽ quay trở về nếu chúng ta gặp được một kẻ nào còn đau khổ hơn cả chúng ta.” - Anh hứa với chú, – hoàng đế đáp – nhưng anh không tin có thể có một người nào đau khổ hơn anh em ta. - Em không chia sẻ ý kiến của anh đâu. – Vua Táctari nói. – Hơn thế em còn nghĩ rằng chắc chúng ta rồi chẳng phải đi lâu lắm đâu. Nói xong, hai người bí mật ra khỏi hoàng cung, rồi theo một con đường khác với con đường họ từ hoàng cung trở về hôm trước. Họ đi mãi đến tối mịt, cho tới khi không còn nhận ra đường nữa mới dừng chân ngủ đêm đầu tiên dưới gốc cây. Tinh mơ hôm sau họ tiếp tục đi cho đến khi tới một bãi cỏ đẹp bên bờ biển, ở đây rải rác có nhiều cây to bóng mát um tùm. Hai anh em ngồi cạnh một gốc cây để nghỉ chân, hóng mát và đàm đạo về sự thất tiết của các hoàng hậu. Hai người trò chuyện chưa lâu, bỗng nghe từ phía biển, cũng khá gần bờ thôi, một tiếng động khủng khiếp cùng một tiếng thét kinh hồn làm cho họ vô cùng hoảng sợ. Thế là mặt biển mở ra, một cột đen rất lớn từ dưới nước đùn lên cao đến tận mây xanh. Cảnh tượng đó làm cho hai vua càng khủng khiếp. Hai anh em vội vàng đứng dậy leo lên một cây có vẻ dễ nấp kín nhất. Hai người vừa lên tới ngọn, đưa mắt nhìn về phía phát ra tiếng động, nơi mặt biển vừa mở ra, thì thấy cái cột đen ấy rẽ nước tiến vào bờ. Lúc đầu chưa nhận ra vật gì nhưng lát sau họ hiểu ra ngay. Đấy là một trong những hung thần tinh ranh, độc ác, kẻ thù không đội trời chung với loài người. Lão ta đen thui và xấu xí, hình dáng thật sự là một tên khổng lồ lêu đêu. Trên đầu lão đội một cái hòm lớn bằng thủy tinh được khóa chặt bởi bốn chiếc khóa thép ròng. Lão đội cái hòm ấy đi vào bãi cỏ và đặt xuống đúng ngay dưới gốc cây hai người đang nấp. Hai vua hiểu mình đang trải qua một tai ương ghê gớm và cho là sắp bị giết chết đến nơi. Lão hung thần ngồi xuống cạnh hòm, lấy bốn chiếc chìa khóa đeo ở thắt lưng ra mở khóa, rồi nhấc ra một người đàn bà ăn mặc rất sang trọng, dáng dấp đường bệ và sắc đẹp tuyệt trần. Con quỷ sứ để nàng ngồi xuống bên cạnh và nhìn nàng say đắm: “Phu nhân ơi, người đẹp tuyệt vời trong tất cả mọi người đẹp ơi, con người đáng yêu mà ta đã bắt cóc trong ngày cưới của nàng, và từ ngày ấy đến nay ta luôn luôn yêu quý, nàng hãy cho ta được ngủ một lúc bên cạnh nàng! Chính vì ta buồn ngủ cho nên mới định đến nơi đây nghỉ ngơi chốc lát.” Nói xong, lão gối cái đầu to xù lên đùi người đàn bà, duỗi đôi chân dài ra tận biển, rồi chẳng mấy chốc ngủ say, tiếng ngáy vang động cả bờ biển. Người đàn bà tình cờ ngước mắt nhìn lên, trông thấy hai vua trên ngọn cây, liền ra hiệu bảo hai người nhẹ nhàng tụt xuống. Hai vua cực kỳ khiếp đảm khi thấy mình bị phát hiện. Cũng bằng cách ra hiệu, hai nhà vua xin người đàn bà miễn cho họ phải tuân theo. Nhưng ả ta sau khi nhẹ nhàng nhấc đầu lão hung thần khỏi chân mình đặt xuống đất, liền đứng lên nói với họ bằng một giọng nhỏ nhẹ nhưng thiết tha: “Hãy xuống đây; nhất thiết hai chàng phải xuống đây với em.” Họ muốn ra hiệu cho ả hiểu là họ sợ lão hung thần. Nhưng vô ích, ả vẫn tiếp tục nói với cái giọng ấy: “Hãy xuống đây, nếu hai chàng không chịu nghe lời em thì em sẽ đánh thức con quỷ này dậy và chính em sẽ xui lão giết chết hai chàng.” Câu nói ấy làm hai vua lo sợ quá, đành phải bắt đầu tụt xuống gốc cây một cách hết sức thận trọng để tránh làm lão hung thần thức giấc. Khi họ xuống đến đất rồi, ả cầm tay họ dẫn đến một nơi xa xa dưới hàng cây buộc họ phải làm điều dâm đãng. Họ khước từ, nhưng trước những lời dọa nạt và sợ bị lộ, họ đành phải vâng theo. Sau khi đạt được điều mong muốn, trông thấy mỗi chàng đeo một chiếc nhẫn ở ngón tay, người đàn bà liền hỏi xin. Vừa cầm trong tay hai chiếc nhẫn, ả tìm một cái hộp để trong túi đựng đồ trang sức, lấy ra một sợi dây có xâu nhiều chiếc nhẫn đủ kiểu, đưa cho họ xem: “Hai chàng có biết những vật này có ý nghĩa gì không?” - Không. – Họ đáp. – Chắc nàng có thể cho chúng tôi hay. - Đây là nhẫn của những người đàn ông đã từng ân ái với tôi. Đúng chín mươi tám chiếc. Tôi giữ để làm kỷ niệm. Tôi vừa xin hai chàng cho hai chiếc nhẫn kia, là để cho chẵn một trăm. Như vậy là – ả nói tiếp – đến ngày hôm nay tôi có đúng một trăm tình nhân, mặc cho sự phòng xa và mọi cách ngăn ngừa của lão hung thần xấu xí vẫn bám riết lấy tôi này. Mặc cho lão nhốt tôi trong chiếc hòm thủy tinh, mặc cho lão giấu tôi dưới tận đáy biển, tất thảy đều vô ích mà thôi. Tôi vẫn có cách đánh lừa được lão. Các chàng thấy đấy, một khi người đàn bà có sẵn điều tình ý rồi, thì không có ông chồng hay người yêu nào có thể ngăn giữ không cho người ấy thực hiện bằng được tình ý của mình. Tốt hơn là đàn ông chớ nên trái ý đàn bà, có lẽ đó là cách tốt nhất cho đàn bà giữ được tiết hạnh. Nói xong, người đàn bà xâu hai chiếc nhẫn vào cùng một chuỗi với những chiếc kia. Đoạn, ả lại trở về ngồi vào chỗ cũ, bê đầu lão hung thần đặt gối trở lại lên đùi mình mà không làm cho lão thức giấc, rồi ra hiệu báo cho hai nhà vua hãy đi nơi khác. Họ theo đường cũ quay trở về. Khi đã đi xa ngoài tầm mắt của người đàn bà và lão hung thần, Saria lên tiếng hỏi Sadơnăng: “Này chú, chú nghĩ gì về chuyện vừa xảy ra? Lão hung thần có một người yêu khá chung thủy đấy chứ! Và chú có nhận thấy không, thật không có gì sánh nổi sự tai quái của đàn bà.” - Thưa anh, có. – Quốc vương của nước Đại Táctari đáp. – Và anh hẳn cũng phải đồng ý với em rằng lão hung thần còn đáng thương hại và đau khổ hơn anh em ta. Bởi vậy chúng ta hãy quay trở về vì đã gặp được điều chúng ta đang tìm kiếm. Và chúng ta cũng chớ vì chuyện đó mà thôi không ăn ở với đàn bà. Về phần em, em biết cách làm sao giữ cho trọn niềm tin của mình. Lúc này đây em chưa muốn nói ra, nhưng một ngày kia anh sẽ nhận được tin tức về em, và em tin rằng anh sẽ noi gương em. Hoàng đế tỏ ý đồng tình. Hai người tiếp tục đi cho tới hết đêm thứ ba kể từ ngày xuất phát, thì trở về đến nơi hạ trại. Tin hoàng đế trở về được lan truyền. Từ sáng sớm các triều thần đã tề tựu trước hành cung. Nhà vua cho mời vào, tiếp các quan với vẻ tươi cười hơn thường lệ, và ban thưởng cho tất cả mọi người. Sau đó, nói rằng mình không muốn đi xa nữa, vua truyền cho mọi người lên ngựa và trở về hoàng cung. Vừa tới nơi, hoàng đế lập tức đến hậu cung, ra lệnh bắt trói hoàng hậu ngay trước mặt mình, rồi sai tể tướng mang đi xử giảo. Viên đại thần này thi hành lệnh vua mà cũng chẳng buồn hỏi xem hoàng hậu đã phạm tội gì. Nhà vua đang giận dữ không chỉ bằng lòng có thế. Vua tự tay chặt đầu tất cả những nàng hầu của hoàng hậu. Sau sự trừng phạt nghiêm khắc ấy, tin chắc rằng trên đời không có một người đàn bà nào là tiết hạnh và để ngăn ngừa không cho những người mà mình sẽ ăn nằm trong tương lai có cách gì thất tiết với mình, vua quyết định cứ mỗi đêm lấy một người làm vợ, rồi cho xử giảo người đàn bà ấy ngay sáng hôm sau. Đặt ra cái luật nghiệt ngã ấy rồi, hoàng đế thề sẽ thực hiện ngay lập tức sau khi em trai lên đường trở về nước. Quốc vương Táctari chẳng bao lâu cũng từ biệt vua anh lên đường, mang theo nhiều tặng phẩm quý báu. Sadơnăng đi khỏi, Saria truyền cho tể tướng đưa đến cho mình con gái một viên đại tướng. Tể tướng tuân lệnh. Hoàng đế ăn nằm với nàng. Sáng hôm sau, khi giao nàng lại cho tể tướng để mang đi hành quyết, vua lại truyền cho ông phải tìm một người con gái khác cho đêm tới. Dù đau khổ đến đâu khi phải thực hiện những mệnh lệnh như vậy, tể tướng cũng bắt buộc phải thi hành nghĩa vụ của ông là nhắm mắt tuân theo mọi lời phán bảo của hoàng đế. Ông sai đưa đến cho vua một người con gái của một võ quan cấp dưới. Cô này sáng hôm sau bị xử giảo. Tiếp đó là ái nữ của một nhà giàu có trong kinh thành. Tóm lại, cứ mỗi tối có một người con gái trinh đi lấy chồng và mỗi sáng có một người vợ bị giết hại. Tiếng đồn về hành động bất nhân vô tiền khoáng hậu ấy gây nên sự hoang mang trong khắp kinh thành. Đi đâu cũng chỉ còn nghe thấy tiếng kêu gào khóc lóc. Chỗ này là một người cha nước mắt đầm đìa, tuyệt vọng vì vừa mất đứa con. Nơi kia là bà mẹ thân yêu rên rỉ sợ con gái mình rồi cũng sẽ lâm vào cảnh ngộ ấy. Thế là thay vào những lời ca ngợi và tạ ơn mà hoàng đế vẫn nhận được từ trước đến giờ, nay chỉ có lời trăm họ nguyền rủa nhà vua. Vị tể tướng, như đã nói ở trên, buộc lòng phải thi hành mọi điều bất công khủng khiếp. Ông có hai người con gái, cô đầu tên là Sêhêrazát[13]; người con thứ hai là Đináczát[14]. Cô em không kém chị về tài hoa đức hạnh; song người chị không những dũng cảm hơn tất cả nữ nhi, lại vô cùng thông minh và rất mực trí lự. Nàng đọc rất nhiều sách và có trí nhớ kỳ diệu đến nỗi chẳng bao giờ quên bất cứ một điều gì đã đọc qua. Nàng hiểu biết thành thạo các môn triết học, y học, lịch sử và mỹ thuật. Nàng làm thơ hay hơn thơ của thi sĩ nổi tiếng nhất đương thời. Ngoài ra, nàng lại có sắc đẹp tuyệt trần. Và sáng ngời trên tất cả những mặt tài hoa ấy, là đức hạnh kiên trinh. Tể tướng yêu quý con gái nồng nhiệt, và nàng quả xứng đáng với tình thương yêu của cha. Một hôm, hai cha con đang trò chuyện, nàng bảo cha: - Thưa phụ thân, con có một điều van xin cha, con thiết tha mong được cha cho phép. - Cha sẽ không từ chối, – tể tướng đáp – miễn là yêu cầu của con chính đáng và phải chăng. - Gọi là chính đáng thì không thể có điều nào chính đáng hơn. – Nàng Sêhêrazát nói. – Cha có thể xem xét qua nguyên do thúc đẩy con ngỏ lời khẩn cầu. Con có ý định ngăn chặn những hành động dã man mà hoàng đế đang gây ra cho mọi gia đình trong kinh thành. Con muốn xua tan nỗi lo âu chính đáng của biết bao bà mẹ đang lo sợ phải mất con gái một cách thảm thương. - Con ạ, ý định của con rất đáng khen, nhưng cha thấy tai họa mà con muốn ngăn chặn ấy hình như không có cách gì ngăn chặn. Làm sao sức con có thể làm tròn được cơ chứ! - Thưa phụ thân, – nàng Sêhêrazát lại nói – bởi vì qua sự môi giới của cha mà mỗi ngày hoàng đế cưới một người vợ mới, con van xin cha hãy vì tình thương con mà cho con được vinh dự nâng khăn sửa túi cho hoàng đế. Tể tướng không thể nén kinh hoàng khi nghe câu nói đó. “Trời! – Ông giận dữ thốt lên. – Con mất trí rồi hay sao hở con gái? Con không biết là con vừa thỉnh cầu cha một điều cực kỳ nguy hiểm sao? Con đã biết rõ hoàng đế từng long trọng thề là chỉ ngủ một đêm với một người đàn bà rồi cho giết người ấy ngay sáng hôm sau. Ấy thế mà con lại muốn cha tâu xin Người lấy con sao? Con có nghĩ rằng sự nông nổi của con sẽ đưa con đến tai họa hay không? - Vâng, thưa cha, con hiểu rõ tất cả mọi nguy hiểm con sẽ trải qua, – người con gái đức hạnh ấy đáp – nhưng nó không hề làm cho con sợ hãi. Nếu con chết, cái chết của con sẽ quang vinh. Nếu con thành đạt trong việc này, con sẽ giúp cho quê hương đất nước một công việc quan trọng. - Không, không, cho dù con có nói thế nào đi nữa, con cũng chớ có nghĩ rằng cha sẽ bằng lòng cho con lao vào nỗi hiểm nghèo ghê gớm ấy. Rồi khi hoàng đế truyền cho cha sai người đâm lưỡi dao vào ngực con, than ôi, thế tất là cha sẽ phải tuân lệnh! Công việc ấy đau đớn xiết bao cho một người cha! Ôi! Nếu con không sợ chết, thì ít ra con cũng phải sợ gây nên cho cha nỗi đau khổ cùng cực là thấy bàn tay mình phải nhuốm máu con gái chứ. Sêhêrazát vẫn khăng khăng: - Một lần nữa, con xin cha chấp thuận cho điều con thỉnh cầu, thưa cha! - Sự cứng đầu cứng cổ của con làm cha nổi giận. Tại sao con cứ muốn tự mình lao vào chỗ chết như vậy? Ai không nhìn thấy trước một công việc nguy hiểm mà mình sắp dấn thân và rồi sẽ kết thúc ra sao ắt sẽ không thể nào thoát khỏi công việc ấy một cách tốt đẹp. Cha sợ rồi đây sẽ xảy ra cho con điều đã từng xảy ra cho con lừa trong câu chuyện ngụ ngôn ấy. - Điều không may gì đã xảy ra cho con lừa ấy vậy, thưa cha? – Sêhêrazát hỏi. Tể tướng đáp: - Cha sẽ kể cho con nghe. Hãy lắng tai nghe đây! CHUYỆN NGỤ NGÔN CON LỪA, CON BÒ VÀ NGƯỜI THỢ CÀY Có một thương gia rất giàu có, ông ta có nhiều trang trại ở thôn quê, nuôi rất nhiều loại gia súc. Ông cùng vợ và con trai lui về một trang trại của mình, và tự trông nom việc làm ăn sinh lợi. Trời phú cho ông một cái khiếu là nghe hiểu được tiếng nói của súc vật, nhưng với một điều kiện là nghe xong không được thuật lại với ai, nếu không sẽ bỏ mạng. Bởi vậy dù ông biết hết nhưng chẳng bao giờ dám truyền lại cho ai hay những điều ông hằng nghe súc vật nói. Trong một chuồng kia nhốt chung một con bò và một con lừa. Một hôm đang ngồi cạnh chuồng xem lũ nhỏ nô đùa, chợt ông nghe tiếng con bò bảo con lừa: - Lừa ơi, trông thấy cậu nhàn hạ, công việc người ta buộc cậu làm chẳng có là bao, tớ càng thấy cậu hạnh phúc quá chừng. Có người lo kỳ cọ chải lông cho cậu, tắm rửa cho cậu, mang cho cậu ăn đại mạch đã được sàng lọc cẩn thận, lại cho cậu uống nước vừa mát vừa trong. Công việc nặng nhọc nhất của cậu là cho ông chủ cưỡi mỗi khi ông chủ cần đi đó đi đây tí chút. Không có việc đó thì cả đời cậu sẽ trôi qua trong sự vô công rồi nghề. Khác hẳn cách thức người ta đối xử với tớ. Cậu thoải mái đến đâu thì tớ khó nhọc đến đấy. Chưa quá nửa đêm người ta đã đóng ách vào cổ tớ. Rồi tớ nai lưng ra mà cày xới suốt ngày. Có hôm tớ mệt đến nỗi muốn qụy ngay tại chỗ. Ấy là chưa kể lão thợ cày đi đằng sau lúc nào cũng lăm lăm cái roi chực quất vào mông tớ. Kéo cày nhiều quá cổ tớ cứ tứa máu ra. Sau khi phải làm lụng suốt ngày từ sáng tới chiều, tối về người ta ném cho tớ mớ cỏ khô mà cũng chẳng buồn nhặt bớt cát sạn và các thứ lăng nhăng lẫn vào trong cỏ. Khốn khổ hơn nữa là sau khi ăn ba miếng cái thức ăn chẳng có gì ngon lành ấy, tớ buộc phải ngủ ngay trên cứt đái của mình. Cậu thấy đấy, tớ ganh tị số phận của cậu là phải quá đi chứ. Lừa không ngắt lời bò, nó cứ để cho bò nói chán chê, xong đâu đấy mới bảo: - Người ta bảo ngốc như bò chẳng ngoa chút nào. Cậu khờ quá, cậu để mặc cho người ta đối xử thế nào cũng được, chẳng bao giờ cậu quyết định được điều gì ra trò. Ấy thế mà cậu xem, cậu chịu đựng bao nhiêu nỗi bất công như vậy rốt cuộc được cái gì nào? Cậu làm chết xác vì sự thanh nhàn, vui thú và lợi lộc của những kẻ ăn ở không biết điều với cậu. Người ta sẽ không đối xử với cậu như vừa qua đâu nếu cậu có lòng dũng cảm cũng ngang bằng như thể lực của cậu vậy. Khi người ta dắt cậu buộc vào chuồng, tại sao cậu không cưỡng lại? Tại sao cậu không giơ sừng ra mà húc đại mấy phát vào? Tại sao cậu không biết dậm chân để tỏ ý giận dữ? Và cuối cùng, tại sao cậu không biết be lên một cách khủng khiếp cho người ta sợ? Trời đã phú cho cậu khả năng khiến người khác kính trọng, thế mà cậu không biết dùng. Lúc nào người ta mang cỏ úa rơm ương vào thì chớ có ăn, hãy đưa mũi ngửi rồi bỏ đấy! Nếu cậu làm theo lời khuyên của tớ thì đời cậu sẽ có sự thay đổi, và rồi cậu sẽ biết ơn tớ cho mà xem. Tin lời lừa, bò ngỏ lời cảm ơn rối rít: “Bạn lừa thân yêu ơi, mình sẽ không quên làm đúng những điều cậu dặn, rồi cậu sẽ thấy mình xử sự đúng đắn.” Nói đến đấy, hai con vật im. Thương gia nghe không bỏ sót một lời. Hôm sau người thợ cày đến rất sớm, dắt con bò ra đóng vào cày và bắt làm công việc thường ngày. Không quên những lời khuyên của bạn lừa, hôm ấy bò tỏ ra rất hung dữ. Đến tối khi người thợ cày dắt trở về chuồng và muốn buộc nó vào chỗ cũ, con vật tinh quái không ngoan ngoãn đưa cổ ra cho người ta buộc mà lại còn tỏ vẻ bất kham, vừa giật lùi vừa be lên vừa chúi đầu chĩa đôi sừng nhọn ra như thể muốn húc vào người thợ cày nữa chứ. Nó làm đủ mọi thứ ranh ma mà chú bạn lừa đã bày cho. Sáng hôm sau người thợ cày đến định bắt bò đi làm thì trông thấy cái máng còn nguyên rơm cỏ, còn bò ta thì nằm xoài, duỗi thẳng cẳng và thở hổn hển một cách lạ lùng. Tưởng bò ốm, anh ta thương hại, cho là bắt con vật đi làm trong tình cảnh này thì bất nhẫn quá, liền quay trở lại báo cho thương gia rõ chuyện. Thương gia biết là những lời khuyên của lừa đã được bò làm theo. Để trừng trị cho thật đáng với tội, ông ta bảo người thợ cày: “chú đến lôi con lừa đóng vào cày, buộc nó phải cày thay cho bò và nhớ ốp nó phải làm cho khỏe vào.” Thợ cày tuân lệnh. Suốt ngày hôm ấy con lừa buộc phải kéo cày; vì chưa quen việc nên lừa ta càng thêm mệt. Đã thế, nó bị quất nhiều roi đến nỗi về tới chuồng, không sao đứng vững được nữa. Trong lúc ấy thì bò ta rất hài lòng. Nó chén hết mọi thứ trong máng rồi nghỉ ngơi suốt ngày. Bò ta thú vị là đã biết nghe lời khuyên của lừa. Nó cầu phước cho lừa về cái ơn ấy. Và khi con lừa đi làm về, bò ta không quên thốt lên mấy lời chúc tụng. Lừa không đáp một lời. Nó đang bực vì bị đối xử rất ư là tàn tệ. Nó tự nhủ: - Ấy là do sự bất cẩn của ta cho nên mới đến nông nỗi này. Trước đây mọi điều tốt đẹp, ta muốn gì được nấy, lỗi tại ta cho nên mới dẫn đến tình cảnh thảm hại này; nếu không nghĩ ra được một kế gì đó để thoát khỏi cảnh này thì chết bỏ thây là cái chắc. Nghĩ đến đấy, lừa ta thấy mình kiệt sức đến nỗi lăn đùng ra bên cạnh máng thóc như sắp chết đến nơi. Kể đến đây, tể tướng nói với Sêhêrazát: - Con gái của cha ơi, con đang xử sự y hệt con lừa ấy, con tự dấn thân vào cái chết do sự bất cẩn của mình. Con hãy nghe lời cha, hãy nghỉ ngơi thoải mái, chớ có tự mang họa vào thân. Nàng Sêhêrazát đáp: - Thưa cha, tấm gương cha vừa nêu lên cho con thấy không đủ để làm thay đổi ý nguyện của con. Con sẽ không thôi làm phiền nhiễu cha chừng nào cha chưa chịu cho con vào cung để được làm vợ hoàng đế. Thấy con gái vẫn cứng đầu, tể tướng nói: - Thôi được, bởi con cứ ngoan cố, cha buộc phải đối xử với con theo cách người thương gia mà cha vừa kể đối xử với vợ ông ta ít lâu sau đó. Câu chuyện là như thế này: Biết rõ con lừa đang trong tình trạng thảm thương, nhà buôn ấy tò mò muốn rõ điều gì có thể xảy ra giữa nó với con bò. Vì vậy, ăn tối xong, nhân đêm có trăng, ông ta đưa vợ ra cùng ngồi chơi cạnh chuồng gia súc. Vừa tới nơi, đã nghe lừa đang nói với bò: - Bạn cùng chuồng ơi, xin bạn vui lòng nói cho tôi rõ, bạn định sẽ làm như thế nào sáng sớm mai, khi anh thợ cày mang cỏ đến cho bạn? Bò đáp: - Tớ sẽ làm như thế nào ư? Tớ sẽ tiếp tục làm y như cậu đã bày cho tớ. Trước hết tớ sẽ thụt lùi, rồi tớ sẽ chĩa sừng ra với lão ấy đúng hệt như hôm qua. Tớ sẽ giả ốm, tớ sẽ làm như sắp chết đến nơi. - Xin bạn hãy cẩn thận chớ có làm như vậy! – Lừa ngắt lời bò. – Đó là cách đưa bạn tới chỗ chết, bởi vì ban chiều, khi đi làm về tôi nghe vị thương gia ông chủ của chúng ta nói lộ ra một điều mà tôi đâm lo thay cho bạn. - Ủa điều gì vậy? – Bò vội hỏi. – Xin làm ơn chớ có giấu tôi điều gì, bạn lừa thân mến ơi! - Ông chủ của chúng ta – lừa nói tiếp – đã bảo anh thợ cày những lời đáng buồn như sau: “Bởi con bò không chịu ăn và nó đứng không vững nữa, ta muốn ngày mai sẽ cho mổ thịt nó. Thịt nó sẽ chia cho người nghèo để làm phúc. Còn da nó có thể có ích, chú hãy mang giao cho thợ thuộc da. Vậy sáng mai chú chớ quên gọi đồ tể đến.” Đó là điều tôi muốn báo cho bạn hay – Lừa ta nói tiếp – Vì quan tâm đến những lời nói đó và vì tình bạn giữa hai chúng ta, tôi thấy cần báo tin cho bạn rõ và cho bạn lời khuyên mới. Trước hết, khi người ta mang rơm và cỏ đến cho bạn, bạn hãy đứng phắt dậy và ăn ngấu ăn nghiến một cách rất thèm khát. Trông thấy vậy ông chủ sẽ tưởng bạn đã khỏi bệnh, may ra ông sẽ thu hồi cái lệnh mổ thịt bạn lại chăng. Nếu bạn không làm theo cách tôi dặn thì coi như đời bạn thế là đi tong. Những lời lẽ ấy mang lại đúng hiệu quả mà lừa ta chờ đợi. Con bò lo sợ đến nỗi kêu rống lên vì khiếp đảm. Vị thương gia đang chăm chú nghe hai con vật trò chuyện, phá lên cười, khiến cho người vợ ngồi bên rất đỗi ngạc nhiên. Thị hỏi chồng: - Có điều gì vui mà chàng cười lớn vậy, xin nói cho em rõ, để em cùng vui với chàng! - Mình ơi, hãy bằng lòng nghe tôi cười là đủ! – Thương gia đáp. - Không, em muốn biết rõ tại sao chàng cười cơ. - Tôi không thể làm thỏa sự mong muốn của mình. Chỉ nên biết rằng tôi cười về cái điều mà con lừa vừa nói với con bò. Hãy biết vậy thôi, còn nữa là điều bí mật mà tôi không được phép tiết lộ. - Ai cấm chàng không được phép nói cho em biết? – Bà vợ một mực khăng khăng. - Mình hãy biết rằng nếu tôi nói lộ ra, tôi sẽ mất mạng ngay tức khắc. - Ông coi thường tôi quá, – bà vợ kêu lên – điều ông nói chẳng đúng sự thật. Nếu ông không chịu nói thật cho tôi nghe tại sao hồi nãy ông cười, nếu ông khước từ không cho tôi rõ con lừa đã nói gì với con bò, thì tôi thề có trời cao đất dày chứng giám, ông với tôi sẽ không còn vợ vợ chồng chồng gì với nhau nữa. Nói đến đây, bà ta bỏ vào nhà, đến ngồi vào một xó rồi khóc như mưa như gió suốt đêm cho tới sáng. Ông chồng đành lên giường ngủ một mình. Sáng hôm sau, thấy vợ vẫn chưa hết than vãn, ông nói: - Mình cứ rầu rĩ vậy thật chẳng biết điều chút nào. Việc không đáng cho mình phải làm như vậy. Đối với mình, có hệ trọng gì, việc biết hai con vật đã nói gì với nhau, trong khi đối với tôi, giữ điều bí mật còn hệ trọng hơn nhiều. Thôi, tôi xin mình đừng có nghĩ tới chuyện ấy nữa. - Tôi cứ nghĩ, – bà vợ đáp – tôi cứ khóc, kỳ cho đến bao giờ ông thỏa mãn sự hiếu kỳ của tôi mới thôi. - Nhưng tôi nói với mình thật nghiêm túc, nếu tôi nghe theo lời nài nỉ của mình, là tôi mất mạng đấy. - Có xảy ra việc gì cũng mặc, tôi không chịu thôi đâu. - Thế là chẳng còn cách nào làm cho mình nghe ra lẽ phải. Vì cứng đầu cứng cổ như vậy rồi mình sẽ buồn phiền mà chết mất thôi. Bởi vậy tôi sẽ gọi con cái lại, để cho chúng nó được niềm an ủi là nhìn thấy mẹ trước khi mẹ qua đời. Thương gia cho gọi con cái đến, lại còn sai người đi mời bố mẹ đẻ của vợ đến nữa. Khi gia đình tụ họp đông đủ, ông kể cho mọi người nghe đầu đuôi câu chuyện. Mọi người xúm lại khuyên giải người đàn bà rằng cứ khăng khăng cố chấp là sai nhưng bà ta chẳng chịu nghe ai. Mặc cho bố mẹ đẻ giảng giải rằng điều bà muốn biết chẳng có gì hệ trọng, ngay đến cả quyền uy cũng như lý lẽ của hai bố mẹ đẻ cũng chẳng mảy may tác động đến con gái. Còn lũ trẻ thấy mẹ cứ để ngoài tai mọi điều hay lẽ phải thì thi nhau khóc ầm ĩ cả nhà. Ngay vị thương gia cũng rối trí, chẳng biết nên xử sự thế nào. Ngồi một mình bên cánh cửa, ông đã nghĩ tới chuyện có lẽ phải hy sinh mạng sống của mình đi để cứu lấy mạng người vợ mà ông hết mực thương yêu. - May sao, con gái của bố ạ, – tể tướng nói tiếp với Sêhêrazát – vị thương gia ấy có nuôi năm chục con gà mái cùng một gà trống. Ông giao cho một con chó trông nom đàn gia cầm ấy. Trong lúc ông đang ngồi bên cửa trầm ngâm suy nghĩ về điều sẽ làm, chợt trông thấy con chó đang nói với con gà trống đang đạp mái như sau: “Này gà trống kia ơi! Thượng đế chẳng còn để cho mày sống bao lâu nữa đâu. Mày không biết xấu hổ về việc mày đang làm đấy hay sao?” Gà trống ta quay lại kiêu hãnh trả lời: - Tại sao hôm nay lại cấm tôi làm cái việc mọi ngày tôi vẫn làm cơ chứ? - Ấy là tại mày chưa biết đấy thôi. Hôm nay ông chủ nhà ta đang có một việc buồn lớn. Vợ ông ta đang muốn ông ta tiết lộ một điều bí mật, mà để lộ ra ông ta sẽ mất mạng. Sự việc mới đến đấy. Nhưng rất đáng sợ là ông ta không đủ rắn rỏi trước sự cứng đầu cứng cổ của bà vợ bởi ông thương bà ta lắm, ông không chịu nổi những giọt nước mắt tuôn ra không ngớt của bà. Ông chủ chúng ta đến chết mất thôi. Cả nhà đang cuống lên vì chuyện đó. Chỉ độc có mày cứ như chửi vào nỗi buồn của tất cả chúng tao. Mày cứ nhởn nhơ rậm rịch với đám gà mái của mày. Gà trống đáp lại những lời trách móc của chó như sau: - Ông chủ nhà ta thật đoảng. Ông chỉ có mỗi một bà vợ mà không biết thu xếp cho ổn thỏa. Trong khi tôi có năm chục con mái mà đâu ra đấy. Ông ta hãy tĩnh trí lại, thì sẽ tìm ra cách thoát khỏi cơn bối rối ngay. - Thế mày bảo ông ta nên làm như thế nào? – chó hỏi. - Ông ta hãy đi vào buồng riêng của vợ, cài chặt then cửa lại rồi cầm gậy phang cho bà ấy đủ một trăm gậy. Tôi cầm chắc bà ta sẽ biết điều, và rồi chẳng còn dám thúc ép chồng nói cho nghe cái điều bí mật ấy nữa cho mà xem. Vừa nghe lọt tai điều con gà trống nói, thương gia liền đứng phắt dậy. Ông vớ lấy một chiếc gậy to, đi tìm vợ dắt vào buồng, cài chặt then buồng lại, rồi giã cho bà một trận nên thân, đến nỗi bà ta phải van xin rối rít: - Thôi đủ rồi, đủ rồi, mình ơi, xin hãy tha cho em, em không dám đòi hỏi ở mình một điều gì nữa! Nghe vậy, biết vợ đã bỏ được cái tính tò mò vô lối, ông chồng ngừng tay gậy. Ông mở cửa. Cả nhà ùa vào, mừng rỡ thấy người đàn bà đã khỏi được cái chứng cứng đầu. Ai cũng khen ngợi thương gia đã biết cách làm cho bà vợ trở nên biết điều. Con gái của bố à, con thật đáng được đối xử như mụ vợ thương gia ấy. - Thưa cha, – nàng Sêhêrazát đáp – xin cha chớ cho con là cứng đầu nếu con vẫn giữ ý kiến của mình. chuyện về người vợ vị thương gia ấy không lay chuyển nổi con đâu. Con còn có thể kể cho cha nghe nhiều chuyện khác để thuyết phục cha chớ nên cản trở ý đồ của con. Vả chăng, xin cha tha lỗi cho nếu con dám nói ra điều này. Xin cha đừng ngăn cản con vô ích. Nếu tình phụ tử ngăn không cho cha chấp thuận lời khẩn cầu của con, thì tự con sẽ đến tâu xin thẳng với hoàng đế. Cuối cùng đuối lý trước quyết tâm của con gái, tể tướng đành phải chiều ý con. Và mặc dù rất buồn phiền vì không thuyết phục được con thay đổi ý định tai hại, ông vẫn đến gặp Saria ngay lúc ấy để tâu rằng đêm tới, ông sẽ dẫn nàng Sêhêrazát vào hầu vua. Hoàng đế hết sức ngạc nhiên về sự quên thân của tể tướng đối với mình: “Làm sao khanh có thể quyết định đưa chính con gái khanh đến hầu hạ ta?” - Tâu bệ hạ, chính cháu tự nguyện hiến thân. – Tể tướng đáp. – Số phận đáng buồn đang chờ đợi cháu không hề làm cháu khiếp sợ. Cháu muốn được dựa mạn thuyền rồng một đêm dù có chết cũng cam lòng. - Nhưng tể tướng ạ, – hoàng đế lại nói – khanh chớ hiểu nhầm! Sáng mai khi ta giao trả Sêhêrazát lại cho khanh, ta muốn khanh kết liễu đời nó. Nếu khanh không thi hành, ta thề sẽ xử tử khanh. Tâu bệ hạ, – tể tướng đáp – lòng thần chắc chắn sẽ đau như đứt đoạn khi thần phải tuân lệnh. Song mặc cho tình cha con tha hồ van vỉ, mặc cho thần là người cha, cánh tay của thần vẫn trung thành với bệ hạ. Saria đồng ý sự hiến dâng của tể tướng và bảo ông cứ việc mang con gái vào cung lúc nào cũng được. Tể tướng trở về báo tin ấy cho Sêhêrazát. Nàng hết sức mừng vui như thể đấy là một tin tốt lành nhất trần đời. Nàng còn cảm ơn cha đã hết lòng giúp đỡ. Ông lặng người vì đau đớn. Để an ủi cha, nàng nói nàng mong ông sẽ không hối hận là đã gả con gái cho hoàng đế. Ngược lại có thể ông sẽ lấy đó làm điều vui từ nay cho đến trọn đời. Nàng chỉ còn bận bịu mỗi việc là trang điểm để ra mắt hoàng đế. Song trước khi lên đường nàng gọi riêng Đináczát ra bảo: “Em thân yêu của chị ơi, chị cần có sự giúp sức của em trong một công việc hết sức quan trọng này, chị van em chớ có khước từ! Cha sẽ dẫn chị vào cung để làm vợ hoàng đế. Em chớ có hoảng hốt vì tin đó, mà hãy kiên nhẫn nghe chị nói đây! Khi nào chị đến trước nhà vua, chị sẽ khẩn cầu Người cho phép em được ngủ cùng với chị trong phòng tân hôn, để cho chị được sống với em một tối nữa. Nếu nhà vua đồng ý, mà chị hy vọng sẽ như vậy, thì em phải nhớ sáng sớm mai đánh thức chị dậy một giờ trước lúc mặt trời mọc. Em hãy nói như sau: “Chị ơi, nếu chị không ngủ, em van chị, trong khi chờ đợi trời sắp sáng tới nơi, chị hãy kể cho em nghe một trong những chuyện rất hay mà chị biết.” Lập tức chị sẽ kể cho em nghe một chuyện, và chị mong rằng bằng cách ấy có thể giải thoát nhân dân ta khỏi tình trạng hoang mang lo sợ hiện giờ.” Đináczát trả lời: “Em sẵn sàng làm mọi việc chị cần đến em.” Đã đến giờ đi ngủ, tể tướng dẫn Sêhêrazát đến hoàng cung và ra về ngay sau khi đưa nàng vào phòng riêng của nhà vua. Hoàng đế thấy chỉ còn riêng mình với nàng, liền ra lệnh ngay cho nàng cất tấm mạng che mặt. Vua nhận ra nàng xinh đẹp đến nỗi thấy mình cũng say đắm. Thấy nàng đang đầm đìa nước mắt, vua hỏi căn cớ làm sao. Sêhêrazát đáp: “Tâu bệ hạ, thiếp có một đứa em gái thiếp yêu rất tha thiết cũng như em nó yêu thiếp vậy. Thiếp muốn được có em cùng ngủ đêm nay trong buồng này, để thiếp được trông thấy em và có dịp vĩnh biệt em một lần nữa. Chẳng hay bệ hạ có vui lòng ban cho thiếp niềm an ủi được bày tỏ với em gái một lần cuối tình cảm của thiếp với em chăng?” Saria chấp thuận, cho người đi tìm Đináczát. Nàng vội đến ngay. Hoàng đế ngủ với Sêhêrazát trên một chiếc sập rất cao, theo kiểu các nhà vua phương Đông. Còn Đináczát thì nằm ở cái giường thấp hơn, kê kề bên sập. Một giờ trước khi trời sáng, Đináczát thức dậy và không quên làm theo điều chị căn dặn. Nàng nói: “Chị thân yêu của em ơi, nếu chị không ngủ, em van chị, trong khi chờ đợi trời sắp sáng tới nơi, chị hãy kể cho em nghe một trong những chuyện thú vị mà chị biết! Than ôi! Có lẽ đây là lần cuối cùng em được hưởng niềm vui ấy.” Nàng Sêhêrazát không đáp lời em, mà tâu với nhà vua: - Tâu bệ hạ, bệ hạ có vui lòng cho phép thiếp được làm thỏa lời cầu xin của em thiếp hay chăng? - Rất vui lòng. – Hoàng đế đáp. Thế là Sêhêrazát bảo em hãy lắng nghe. Rồi hướng vào hoàng đế Saria, nàng bắt đầu kể như sau: ĐÊM ĐẦU TIÊN NHÀ BUÔN VÀ THẦN LINH Tâu bệ hạ, ngày xưa có một thương gia rất giàu có. Đất đai, hàng hóa cũng như tiền bạc của ông nhiều vô số. Nhà ông có nhiều người làm thuê ở mướn. Thỉnh thoảng ông buộc phải có những chuyến đi xa để bàn tính chuyện làm ăn với bạn hàng. Một hôm công việc quan trọng khiến ông phải đi xa nhà. Ông lên ngựa, mang theo một chiếc hòm con đặt sau yên, trong đựng một ít bánh khô và trái chà là làm thức ăn đường. Vì ông sẽ phải đi ngang qua một sa mạc, ở đấy chẳng có gì mà mua bán. Ông tới nơi cần tới mà không gặp trở ngại dọc đường. Giải quyết xong công việc, ông lên ngựa trở về. Ngày đi đường thứ tư, ông cảm thấy quá mệt mỏi vì trời nắng chang chang, đất bị hun nóng. Trông thấy một lùm cây không xa đường cái, ông rẽ cương ghé lại đó, định nương bóng cây nghỉ ngơi chốc lát. Dưới gốc một cây hồ đào, có một cái giếng thơi nước trong leo lẻo. Ông xuống ngựa, buộc ngựa vào một cành cây rồi ngồi nghỉ dưới gốc cây hồ đào. Ông mở chiếc hòm, lấy bánh khô và quả chà là ra, vừa ăn vừa ném hạt chà là sang hai bên. Dùng xong bữa đạm bạc ấy, ông rửa mặt mũi chân tay rồi đọc kinh cầu nguyện. Ông cầu kinh xong, người còn đang quỳ gối, chợt thấy hiện lên trước mắt một thần linh cao lớn dị thường, râu tóc trắng như cước, một thanh gươm cầm ở tay. Thần tiến đến gần và dữ tợn thét: - Hãy đứng lên, để cho tao dùng thanh gươm này giết chết mày, như mày đã giết chết con trai tao! Nói xong, thần gầm lên. Khiếp đảm vì bộ mặt gớm ghiếc cũng như tiếng thét của thần, thương gia run rẩy đáp: - Hỡi ôi, chẳng hay tôi đã phạm tội gì đối với ngài đến nỗi phải chịu tội chết, kính thưa ngài? - Tao muốn giết mày như mày đã giết con trai tao! -Thần linh nói. - Lạy Thượng đế, làm sao tôi có thể giết chết con trai ngài? Nào tôi có biết cậu đâu, thậm chí chưa hề trông thấy cậu bao giờ? - Có phải mày vừa đến ngồi ở đây không? – Thần hỏi, – Có phải mày đã mở hòm ra lấy bánh khô và quả chà là ăn rồi tung hạt sang hai bên không? - Quả đúng như lời ngài nói, tôi không dám chối cãi. - Chính vì làm như vậy đấy, mày đã giết chết con trai tao. – Thần nói. – Sự việc là thế này: trong khi mày ném hạt, con trai tao đi ngang qua, một hạt đã bắn vào mắt làm con trai tao chết. Vì vậy tao phải giết mày! - Ôi lạy ngài, xin ngài tha thứ cho! – Nhà buôn kêu. - Không có tha thứ gì sất, không thương xót gì sất. Sát nhân giả tử, chẳng đúng hay sao? - Tôi đồng ý như vậy, – thương gia cãi – nhưng quả là tôi không có giết con trai ngài. Và giả dụ việc đó có xảy ra thật đi nữa thì cũng bởi vô tình mà thôi. Bởi vậy tôi van ngài hãy tha tội và cho tôi được sống! - Không, không! – Thần linh vẫn khăng khăng. – Tao phải giết mày bởi vì mày đã hại con trai tao. Nói đến đây, thần linh túm lấy cánh tay nhà buôn, giúi sấp xuống đất và giơ cao thanh gươm, chực chặt đầu. Thương gia nước mắt đầm đìa vì thương vợ nhớ con, vừa kêu van mình vô tội, vừa lạy lục hết sức thảm thiết. Tuy đã giơ cao gươm, thần linh vẫn kiên nhẫn lắng nghe thương gia nói hết câu nhưng vẫn không động lòng chút nào. - Vô ích thôi! – Thần linh quát. – cho dù mày có khóc chảy máu mắt ra, tao cũng cứ giết mày, vì mày đã giết con trai tao. - Thế nào, chẳng còn có gì làm động được lòng ngài sao? Ngài vẫn cứ khăng khăng muốn giết một con người vô tội sao? – Nhà buôn hỏi. - Đúng thế, tao đã nhất quyết. – Thần linh đáp. Nói xong câu ấy… Nàng Sêhêrazát kể đến đây thì nhìn ra ngoài thấy trời đã sáng tỏ. Biết hoàng đế cần dậy sớm để đọc kinh rồi đi thiết triều, nàng thôi không kể tiếp nữa. Vừa lúc ấy, Đináczát cất lời: - Lạy Thượng đế, chuyện chị kể mới tuyệt vời làm sao, thưa chị! - Đoạn tiếp theo còn kỳ thú hơn. – Sêhêrazát đáp lời em. – Và em hẳn sẽ đồng ý với chị nếu như hoàng đế rủ lòng thương cho chị sống nốt ngày hôm nay để sáng mai cho phép chị kể nốt cho em nghe đoạn cuối. Vua Saria từ nãy đến giờ cũng chăm chú nghe Sêhêrazát kể một cách thích thú, nghĩ thầm: “Ư, ta đợi đến ngày mai, để nghe nốt câu chuyện này rồi hãy sai giết chết con bé cũng không muộn.” Thế là vua quyết định chưa cho đưa Sêhêrazát đi treo cổ ngay trong ngày hôm đó. Vua dậy đọc kinh rồi đi lo việc triều đình. Trong thời gian ấy, tể tướng hết sức lo âu khắc khoải. Suốt đêm ông không hề chợp mắt, mà cứ thở vắn than dài, thương cho số phận con gái mà chính ông sẽ phải làm tên đao phủ. Lòng sầu não, khi vào chầu ông không dám nhìn thẳng vào mặt vua. Ông hết sức ngạc nhiên sung sướng khi thấy vua bước thẳng vào triều mà không đưa ra cái lệnh tủ hình như ông đang chờ đợi. Theo lệ thường, suốt ngày hoàng đế chăm lo việc triều chính. Đến tối vua lại ngủ cùng nàng Sêhêrazát. Sáng hôm sau, trước khi mặt trời mọc, Đináczát không quên thưa với chị: - Chị thân yêu ơi, em van chị, nếu chị không ngủ thì trong khi chờ mặt trời sắp mọc tới nơi, chị hãy kể nốt cho em nghe phần cuối câu chuyện hôm qua! Không chờ cho Sêhêrazát kịp ngỏ lời xin phép, hoàng đế nói: “Hãy kể nốt câu chuyện về thần linh và thương gia đi! Ta cũng tò mò muốn biết kết cục ra sao.” Được lệnh, nàng Sêhêrazát liền cất lời và kể tiếp như sau: ĐÊM THỨ HAI Tâu bệ hạ, nhà buôn nhìn thấy hung thần sắp chặt đầu mình, liền kêu lên: “Làm ơn xin hãy ngừng tay, cho tôi được nói thêm một lời này. Xin ngài hãy gia hạn cho tôi được phép về vĩnh biệt vợ con và phân chia gia sản. Bởi vì tôi chưa kịp làm di chúc, để sau khi tôi qua đời khỏi xảy ra chuyện tranh giành kiện tụng lôi thôi. Xong đâu đấy, tôi xin trở lại nơi này chịu tội với ngài.” - Nhưng ta sợ rằng nếu ta gia hạn cho mày, rồi mày sẽ không trở lại đây nữa. – Thần linh nói. - Nếu ngài tin lời thề độc của tôi thì tôi xin thề có trời cao đất dày chứng giám rằng tôi sẽ trở lại đây không lỗi hẹn. - Vậy mày cần bao nhiêu lâu? – Thần hỏi. - Xin ngài cho một năm, có như vậy thì mới đủ thời gian cho tôi thu xếp mọi công việc, và cũng để khi chết tôi khỏi hối tiếc là mình chưa kịp hưởng hết mọi lạc thú trên đời này. Vậy tôi xin hứa là sang năm đúng vào ngày này, tôi sẽ xin trở lại dưới gốc cây này phó thân cho ngài muốn làm gì thì làm. - Mày có dám xin Thượng đế chứng giám lời thề của mày hay không? – Thần linh hỏi. - Có, tôi xin thề một lần nữa, và xin ngài hãy tin lời thề của tôi. Đến đây, thần linh biến mất, để lại thương gia một mình bên bờ giếng. Hoàn hồn, nhà buôn lên ngựa trở về. Lòng nửa mừng vì vừa thoát cơn hoạn nạn, nửa lo đứt ruột xé gan khi nghĩ tới lời thề của mình. Ông về tới nhà, cả nhà hết sức mừng vui ra nghênh đón. Nhưng ông không ôm hôn vợ con như thường lệ, mà lại òa khóc như gió như mưa. Cả nhà hiểu ngay, ông đang có việc gì lo lắng buồn phiền lắm đây. Bà vợ hỏi chồng can cớ gì buồn đau khóc lóc như vậy: “Cả gia đình đang hết sức mừng vui vì bố trở về nhưng cũng hết sức lo âu khi thấy thế này. Xin hãy nói cho biết, tại sao chàng buồn?” - Hỡi ôi! Làm sao tôi có thể không đau buồn? Tôi chỉ còn có thể sống một năm nữa thôi. Thế rồi ông thuật lại cho cả nhà nghe việc vừa xảy ra. Ông nói cho họ rõ là ông đã thề đúng một năm sau sẽ trở lại với thần linh để chịu tội chết. Biết chuyện, cả nhà hết sức buồn bã. Bà vợ đập đầu bứt tóc, lớn tiếng kêu gào. Lũ con cũng kêu khóc ầm ĩ, làm cho nhà buôn động lòng cũng khóc theo luôn. Tóm lại không có cảnh tượng nào buồn thảm hơn cảnh tượng ấy. Ngay từ hôm sau, thương gia lo thu xếp công việc làm ăn. Ông quan tâm đầu tiên tới việc trang trải các khoản nợ nần. Rồi ông mang của cải ra chia tặng bạn bè, bố thí cho kẻ nghèo, trả tự do cho những nô lệ, nam cũng như nữ, chia gia sản cho con cái. Đứa nào còn nhỏ tuổi thì cử người đỡ đầu. Trả lại đầy đủ của hồi môn cho vợ, lại còn cho thêm bà nhiều tài sản khác. Mọi việc làm đúng như luật định. Một năm trôi qua, đã đến lúc phải lên đường. Nhà buôn thu xếp hành lý, mang theo cả tấm vải sẽ liệm mình, rồi vĩnh biệt vợ con. Thật không có cảnh tượng nào xúc động hơn. Cả nhà không ai nỡ để ông đi chết một mình. Tất cả mọi người đều muốn đi theo để được cùng chết với ông. Tuy nhiên, ông gắng gượng được và nói với gia đình: “Các con thân yêu ơi, bố phải vĩnh biệt các con vì tuân lệnh Thượng đế. Các con hãy noi gương bố, hãy tuân theo định mệnh. Hãy nghĩ rằng con người sinh ra ai chẳng một lần chết.” Nói xong, mặc cho cả nhà than khóc, ông rứt áo ra đi. Ông đến đúng nơi ông đã gặp thần linh một năm trước vào đúng ngày hẹn. Ông xuống ngựa, đến bên bờ giếng ngồi chờ vị thần, lòng buồn bã không thể nào tả xiết. Trong khi ông đang buồn rầu chờ đợi, chợt có một cụ già cầm sợi dây buộc dắt một con hươu cái đến gần. Hai người chào nhau. Cụ già cất tiếng hỏi: - Người anh em, chẳng hay vì đâu người anh em tìm đến chốn hoang vắng, nơi chỉ có ma quái lảng vảng, còn người thì không được an toàn? Trông cây cối đẹp đẽ thế kia, người ta ngỡ là có người ở. Nhưng thật ra ở đây rất hoang vắng. Dừng chân ở đây lâu là nguy hiểm đấy, người anh em à. Thương gia thỏa mãn sự hiếu kỳ của cụ già, nói cho cụ rõ đầu đuôi câu chuyện vì sao ông phải tới đây. Cụ già rất lấy làm kinh ngạc. Nghe xong, cụ cất lời: - Thật là chuyện lạ kỳ! Ông đã bị ràng buộc bởi một lời thề với thần linh. Tôi muốn được chứng kiến cảnh hội ngộ giữa ông với vị thần ấy. Nói xong, cụ ngồi xuống bên cạnh thương gia và hai người đàm đạo… - Nhưng trời đã sáng tỏ rồi, – Sêhêrazát chợt ngừng lời kể và nói – thế mà đoạn còn tiếp mới thật là phần hay nhất của câu chuyện này. Hoàng đế muốn nghe cho hết câu chuyện, liền cho nàng Sêhêrazát sống thêm một ngày nữa. ĐÊM THỨ BA Đêm tiếp sau, Đináczát cất lời thưa với chị giống như hai đêm trước: - Chị thân yêu ơi, em van chị, nếu chị không ngủ thì hãy kể cho em một trong những câu chuyện hay hay mà chị biết! Nhưng hoàng đế nói Người muốn nghe tiếp câu chuyện về thương gia và thần linh. Bởi vậy nàng Sêhêrazát kể tiếp như sau[15]: - Tâu bệ hạ, trong khi nhà buôn và cụ già dắt con hươu cái đang đàm đạo thì chọt có một cụ già khác đi tới, theo sau là hai con chó đen. Cụ đến gần chào hai người và hỏi họ làm gì ở chốn này. Cụ già dắt con hươu cái thuật lại câu chuyện giữa thương nhân và thần linh cùng lời thề của ông. Cụ nói thêm, hôm nay là ngày hẹn, nên cụ muốn ở lại đây chờ xem việc gì xảy ra. Cụ già kia, thấy câu chuyện cũng đáng được biết lắm, liền quyết định cũng nán lại chờ xem. Cụ ngồi xuống cạnh hai người. Họ vừa nối lại chuyện trò, thì xuất hiện một cụ già thứ ba. Ngỏ lời với hai cụ kia, cụ hỏi vì sao vị thương gia ngồi cùng với họ trông có vẻ buồn bã đến vậy. Được biết rõ đầu đuôi, cụ già mới tới cũng thấy câu chuyện thật quá kỳ lạ, và cũng muốn được chứng kiến việc gì sẽ xảy ra giữa thần linh và thương gia. Vì vậy cụ ngồi xuống cạnh những người khác. Chẳng bao lâu, họ trông thấy giữa đồng hoang nổi lên một làn hơi mù mịt, như thể một cơn lốc cát đang bị gió cuốn lên. Làn hơi ấy tiến đến gần họ, tan đi và hiện ra vị thần. Không chào hỏi ai, vị thần cầm gươm tiến tới cạnh thương gia, túm tay ông và bảo: - Hãy đứng lên, tao phải giết mày như mày đã giết con tao! Hoảng sợ, thương gia cũng như bà cụ già đều cất tiếng khóc than. Khi cụ già dắt con hươu cái trông thấy hung thần tóm lấy nhà buôn và sắp sửa giết chết ông ta không chút thương xót, cụ phục xuống dưới chân con quái vật ấy, hôn chân hắn và nói: - Thưa vị đứng đầu các thần linh, tôi khẩn thiết van xin ngài hãy dịu bớt cơn thịnh nộ! Xin hãy vui lòng nghe tôi nói đây! Tôi sẽ kể hầu ngài câu chuyện của tôi và con hươu cái ngài trông thấy. Nếu ngài cho là câu chuyện ấy diệu kỳ và đáng ngạc nhiên hơn chuyện vị thương gia mà ngài đang định giết chết này, thì chẳng hay tôi có dám hy vọng rằng ngài sẽ giảm bót một phần ba tội cho ông ta hay chăng? Hung thần suy nghĩ một lát, cuối cùng đáp: - Được, ta chấp thuận. CHUYỆN CỤ GIÀ THỨ NHẤT VÀ CON HƯƠU CÁI Cụ già kể: Tôi xin bắt đầu câu chuyện, mong các vị chú ý lắng nghe cho. Con hươu cái mà các vị trông thấy kia vốn là em họ xa của tôi, hơn nữa vốn là vợ của tôi. Tôi cưới nàng khi nàng mới mười hai tuổi. Bởi vậy tôi có thể nói rằng lẽ ra nàng phải coi tôi như bố đẻ chứ không chỉ là người anh họ và người chồng mà thôi. Chúng tôi chung sống với nhau ba mươi năm mà không có con. Mặc dù nàng không sinh nở, tôi vẫn hết mực thương yêu chiều chuộng, chỉ vì muốn có con mà tôi phải mua về một nữ nô lệ. Nó sinh cho tôi một đứa con trai, cháu kháu khỉnh vô cùng. Vì ganh tị, vợ tôi đâm ghét cả mẹ lẫn con người nô lệ ấy. Tiếc rằng khi tôi nhận ra điều đó thì đã quá muộn rồi. Con tôi lớn lên, cháu được mười tuổi thì tôi có việc phải đi xa. Trước khi lên đường, tôi ký thác cả hai mẹ con cho vợ tôi mà tôi vẫn tin tưởng, nhờ nàng trông nom hộ trong thời gian tôi vắng nhà, chừng một năm. Thế mà ả đã thừa lúc tôi vắng nhà để thỏa mãn nỗi hằn học của mình, ả học phép phù thủy. Và khi nắm được đủ bùa phép để thực hiện mưu đồ ghê tởm của mình, ả dẫn con tôi đến một nơi vắng vẻ. Sau khi dùng phép yêu biến cháu thành một con bê, ả dắt về giao cho người trông nom trại chăn nuôi của tôi và ra lệnh phải nuôi cháu như nuôi bò. Chưa hả cơn điên, ả còn hóa thân người nữ nô lệ thành một con bò cái và cũng giao luôn cho người trông nom trại gia súc. Sau chuyến đi trở về, tôi hỏi hai mẹ con cháu đâu, thì ả đáp như sau: - Người nữ nô lệ đã qua đời, còn con trai ông thì đã hai tháng nay tôi không trông thấy, chả biết nó ra sao. Tôi xúc động lắm trước cái chết của người nữ nô lệ. Còn về phần cháu thì chỉ mới biệt tích thôi, vì vậy vẫn còn hy vọng có thể tìm thấy nay mai. Thế nhưng tám tháng đã qua kể từ khi cháu bỏ ra đi mà vẫn không thấy cháu trở về nhà. Tết Bairam[16]cũng vừa đến. Tôi bảo người trông trại chăn nuôi chọn mang đến cho tôi con bò cái béo nhất để mổ thịt dâng lễ và ăn tết. Anh ta vâng lời. Con bò cái anh ta dắt đến chính là nữ nô lệ, người mẹ đáng thương con trai tôi. Tôi cho trói con bò cái lại, nhưng khi tôi chuẩn bị đập chết thì nó rống lên những tiếng thảm thiết và tôi để ý thấy nước mắt nó chảy ròng ròng. Tôi cho là chuyện kỳ lạ và không hiểu sao trong lòng tôi lúc đó cũng đâm thương hại. Tôi không nỡ giết chết nó. Tôi sai giao trả cho người trông trại và bảo đưa tới một con bò khác. Lúc ấy vợ tôi cũng có mặt. Ả run lên khi thấy tôi tỏ lòng thương hại. Không muốn để thất bại mưu mô của mình, ả nói: “Ông ơi, ông làm sao thế? Hãy mổ thịt con bò cái này đi. Trong chuồng không có con bò nào tốt hơn cũng như sạch sẽ hơn để làm đồ dâng lễ đâu.” Nể lời vợ, tôi liền tiến đến gần con bò cái, cố nén lòng thương. Tôi đã định đập chết thì con vật lại rống càng to hơn và nước mắt càng chảy nhiều hơn, khiến cho tôi một lần nữa lại chùn tay. Thế là tôi giao chiếc vồ cho người chăn nuôi và bảo: “Hãy cầm lấy và đập chết nó đi; tiếng be và nước mắt của nó làm ta xé gan xé ruột.” Người chăn trại, không hề thương xót như tôi, đập chết con bò cái, nhưng khi mổ thịt, thấy chỉ toàn xương, mặc dù hồi nãy ai cũng thấy con vật rất béo tốt. Việc ấy làm cho tôi buồn phiền thật sự. Tôi bảo người chăn nuôi: “cho anh cả con đấy. Hãy mang đi, anh muốn ăn hoặc bố thí ai tùy ý. Thay vào đó, nếu anh có một con bê nào thật béo, hãy dắt đến cho ta.” Tôi không hỏi xem anh ta định làm gì với con bò cái. Sau khi anh ta mang đi được một chốc, anh ta trở lại dắt theo một con bê khá mập mạp. Mặc dù không biết đó chính là con trai mình, lòng tôi chọt xốn xang khi trông thấy con vật. Về phần con bê, vừa trông thấy tôi, nó đã lao bổ tới, đến nỗi giật đứt cả sợi dây. Nó phục xuống dưới chân tôi, rập đầu xuống đất, như thể nó muốn làm động lòng trắc ẩn của tôi, van xin chớ có giết nó hoặc muốn báo cho tôi biết nó chính là con tôi đẻ ra. Lòng tôi xúc động khôn xiết và hết sức ngạc nhiên trước cảnh tượng ấy, còn xúc động hơn cả khi thấy những dòng nước mắt của con bò cái. Tôi cảm thấy thương xót vô cùng, hay đúng hơn có lẽ tình phụ tử đã trỗi dậy trong tôi chăng, tôi bảo người chăn bò: - Hãy mang con bê này về, nhớ chăm nom nó cẩn thận và đưa đến cho tôi ngay tức khắc một con bê khác! Nghe tôi nói vậy, vợ tôi lại kêu lên: - Mình làm sao thế, hở mình? Hãy nghe lời em, hãy giết thịt con bê này, chứ không phải con nào khác! - Bà nó ơi, – tôi đáp – tôi sẽ không giết con bê ấy đâu. Tôi muốn tha cho nó, xin bà chớ có cản trở tôi! Nhưng con mụ độc ác ấy có chịu nghe lời tôi đâu, ả thù ghét con trai tôi quá, đời nào lại chịu để tôi cứu sống cháu. Ả khăng khăng đòi tôi phải giết nó, đến nỗi rốt cuộc tôi buộc phải chiều lòng. Tôi trói chặt con bê lại và cầm con dao… Kể đến đây, nàng Sêhêrazát ngừng lại… Đêm hôm sau, nàng kể tiếp: - Vậy là, tâu bệ hạ, cụ già dắt con hươu cái đang kể chuyện mình cho hung thần, hai cụ già kia và thương gia cùng nghe. Tôi đã cầm con dao, cụ già nói, định thọc vào cổ chọc tiết con trai tôi, thì nó quay bộ mặt đầm đìa nước mắt nhìn tôi thảm thiết tới mức không làm sao tôi đưa dao lên nổi. Tôi đánh rơi con dao xuống đất và nói với vợ rằng tôi nhất quyết muốn giết một con bê khác chứ không phải con này. Ả cố tìm mọi lời lẽ khiến tôi đổi ý. Nhưng mặc cho ả muốn nói gì thì nói, tôi vẫn không lay chuyển. Tuy nhiên, để làm yên lòng ả, tôi hứa sẽ dành con bê này mổ vào dịp tết Bairam sau. Sáng hôm sau, người trông nom trại chăn nuôi đến tìm tôi, xin được nói chuyện riêng: - Tôi mang đến cho ông một tin mà tôi hy vọng rồi ông sẽ biết ơn tôi. Tôi có một đứa con gái, cháu cũng có học được ít nhiều phép tiên. Hôm qua khi tôi dắt con bê mà ông không muốn giết thịt trở về chuồng, tôi để ý thấy cháu nhìn con bê mà cười, lát sau lại khóc. Tôi hỏi cháu tại sao cùng một lúc vừa khóc vừa cười. Cháu đáp: “Thưa cha, con bê cha vừa dắt về ấy là cậu con trai ông chủ nhà ta đấy. Con cười vì thấy cậu hãy còn sống. Con khóc bởi vì nghĩ tới mẹ cậu ta hôm qua đã bị giết – bà cũng đã bị hóa thân thành một con bò cái. Những việc hóa thân đó là do phù phép của bà vợ ông chủ. Bà ấy ghét cay ghét đắng hai mẹ con cậu.” – Đấy, cháu đã nói với tôi như vậy, và tôi xin đến để trình bày ông hay. - Hỡi thần linh, – cụ già nói tiếp – ngài hãy tưởng tượng xem, sau khi nghe những lời ấy, tôi ngạc nhiên biết dường nào! Ngay lập tức tôi đi cùng người trông nom trại chăn nuôi đến gặp con gái anh ta để tự mình hỏi chuyện. Đến nơi, thoạt tiên tôi vào chuồng có nhốt con trai tôi. Nó không thể đáp lại sự vuốt ve của tôi, nhưng trông vẻ nó trước những cử chỉ ấy, tôi tin chắc nó đúng là con trai tôi rồi. Khi con gái người chăn nuôi đến, tôi hỏi: - Cháu ơi, cháu có thể làm cho cậu con trai bác trở lại nguyên hình như trước hay không? - Cháu có thể làm được. – Cô đáp. - Nếu cháu làm được điều đó, bác sẽ cho cháu tất cả tài sản của bác. Cô gái đáp: - Bác là ông chủ của gia đình cháu, cháu biết gia đình cháu chịu ơn bác nhiều. Nhưng cháu xin thưa trước với bác rằng cháu chỉ có thể làm được việc đó với hai điều kiện: một là, xin cho phép cháu được lấy cậu làm chồng, hai là, cho phép cháu được trừng trị kẻ đã hóa thân cậu thành con bê. - Về điều kiện thứ nhất, – tôi đáp – bác rất vui lòng chấp thuận. Hơn nữa bác còn hứa là sẽ cho cháu rất nhiều tài sản làm của riêng, ngoài phần bác dành cho con trai bác. Tóm lại cháu sẽ thấy bác đền ơn cháu hậu hĩnh đến thế nào. Còn về điều kiện liên quan đến vợ bác, bác cũng muốn chấp thuận lắm. Một người đã đang tâm làm một tội ác tày trời như vậy thật đáng bị trừng trị. Bác giao cho cháu đấy, cháu muốn làm gì ả thì làm, bác chỉ xin cháu chớ có giết chết ả. - Vậy cháu sẽ đối xử với mụ như mụ đã đối xử với con trai bác nhé? Tôi nói: - Bác đồng ý, nhưng trước hết cháu hãy trả lại nguyên hình cho con trai bác đã. Thế là cô gái lấy một lọ nước đầy, đọc mấy câu thần chú gì đấy mà tôi nghe không rõ, rồi nói với con bê: “Này bê kia, nếu đấng Tạo hóa chúa tể của trời đất tạo ra mày dưới dạng hiện nay, thì mày hãy giữ nguyên dạng ấy! Nhược bằng mày vốn là người mà phải trở thành thế kia bởi bùa phép yêu ma, thì xin Thượng đế cho phép mày được trở lại nguyên hình.” Nói xong, cô hắt nước vào thân con bê. Lập tức nó trở thành người. - Con ơi, con trai yêu quý của bố ơi! – Tôi ôm choàng lấy cháu và thốt lên trong nỗi mừng vui không thể nào kiềm chế nổi. – chính Thượng đế đã cho cô thiếu nữ này đến để giải bùa yêu cho con, trả thù cho con và cho mẹ đẻ của con. Bố tin rằng vì mối ơn ấy, con sẽ ưng thuận lấy cô làm vợ, như bố đã từng hứa với cô. Con trai tôi vui mừng chấp thuận. Trước khi hai cháu thành gia thất, cô gái đã hóa thân vợ tôi thành con hươu cái, chính con vật mà các ngài nhìn thấy ở đây. Tôi đã xin cho ả được mang hình này chứ không phải hình một con vật xấu xí, để gia đình đỡ khổ khi phải nhìn thấy hằng ngày. Nhưng rồi con tôi trở thành góa vợ, nó bỏ nhà đi chơi xa. Vì nhiều năm nay không được tin tức của cháu, tôi muốn đi tìm, may ra có ai biết được tăm hơi gì của cháu chăng. Không muốn giao phó vợ tôi cho ai trông nom khi tôi vắng nhà, tôi đành dắt ả đi theo, đi đâu tôi cũng dắt theo. Đó là chuyện của tôi và của con hươu cái này. Có phải đó là một câu chuyện lạ lùng nhất, kỳ diệu nhất hay không? - Ta đồng ý với ông, – thần linh đáp – và vì vậy ta bằng lòng giảm nhẹ một phần ba tội cho thương gia này. - Tâu bệ hạ, – lời nàng Sêhêrazát – khi cụ già dắt con hươu cái kể xong câu chuyện của cụ thì cụ già có hai con chó đen nói với vị thần như sau: “Tôi xin kể hầu ngài câu chuyện đã xảy ra với tôi và hai con chó đen này. Tôi tin chắc rằng câu chuyện của tôi còn đáng ngạc nhiên hơn câu chuyện ngài vừa nghe kể. Nhưng sau khi tôi kể xong, chẳng hiểu ngài có vui lòng giảm bớt một phần ba tội nữa cho người buôn kia hay không?” - Có. – Thần đáp. – Miễn là câu chuyện của cụ kỳ lạ hơn chuyện về con hươu cái. Được lời, cụ già thứ hai hướng vào vị thần, bắt đầu kể như sau: CHUYỆN CỤ GIÀ THỨ HAI VÀ HAI CON CHÓ ĐEN Thưa vị thần đứng đầu các đấng thần linh, xin ngài biết cho rằng hai con chó đen mà ngài trông thấy kia và tôi là ba anh em trai. Tôi là em út. Cha chúng tôi qua đời để lại cho anh em chúng tôi mỗi người một nghìn đồng xơcanh[17]. Với số vốn ấy, ba anh em tôi bắt tay làm cùng một nghề như nhau: buôn bán. Sau khi mở cửa hiệu được ít lâu, người anh cả của tôi, tức là một trong hai con chó đen mà ngài trông thấy kia, quyết định lên đường đi buôn ở nước ngoài. Với ý định ấy, anh bán hết tài sản của mình để mua những hàng hóa hợp với sở thích người nước ngoài. Anh ra đi và vắng nhà một năm tròn. Vừa lúc ấy, có một người rách rưới đến trước cửa hiệu của tôi. Tôi ngỡ anh ta là người hành khất. - Cầu Thượng đế giúp đỡ bạn! – Tôi nói. - Cầu Thượng đế phù hộ cho cả bạn! – Người ấy đáp. – Lẽ nào bạn không nhận ra tôi? Tôi nhìn anh ta và nhận ra: - Ôi anh cả! – Tôi thốt lên và ôm choàng lấy anh. -Làm sao em có thể nhận ra anh trong tình cảnh này? Tôi mời anh vào nhà, hỏi thăm sức khỏe và kết quả chuyến đi của anh. - Chú hỏi chuyện đó làm gì! – Anh đáp. – Nhìn anh đây hẳn chú đã rõ. Thuật lại chi tiết những nông nỗi đã xảy ra cho anh một năm vừa qua và đưa anh đến tình cảnh này thì chỉ làm cho anh thêm buồn bã mà thôi. Tôi đóng cửa hiệu ngay, rồi dẫn anh đi tắm và đưa cho anh những bộ quần áo đẹp nhất mà tôi có. Kiểm tra sổ sách thu nhập, thấy vốn liếng mình đã tăng gấp đôi, có nghĩa là tôi có những hai nghìn xơcanh, tôi liền chia cho anh tôi một nửa: “Anh ạ, với số vốn này, anh có thể không cần nghĩ tới số tiền mà anh đã thua lỗ vừa qua.” Anh tôi vui mừng nhận một nghìn đồng xơcanh, khôi phục việc làm ăn. Và chúng tôi lại sống cùng nhau thân thiết như ngày trước. Ít lâu sau, ông anh thứ hai của tôi, tức là một trong hai con chó kia, cũng muốn bán tài sản của mình để đi buôn xa. Ông anh cả tôi và tôi đều hết sức khuyên can anh nên bỏ ý định ấy đi nhưng vô ích. Anh bán hết cơ ngơi, mua hàng hóa đưa ra nước ngoài. Anh nhập bọn cùng với một đoàn nhà buôn, rồi cùng lên đường. Một năm sau, anh trở về trong tình cảnh giống y như anh cả tôi lần trước. Tôi lại may mặc cho anh hai. Và bởi trong thời gian ấy tôi đã làm sinh lợi thêm được một nghìn xơcanh nữa, tôi biếu anh luôn số tiền ấy. Anh mở lại cửa hiệu và tiếp tục nghề buôn bán của mình như trước. Một hôm, hai anh tôi đến tìm tôi rủ cùng với họ làm một chuyến đi buôn xa. Thoạt tiên tôi khước từ gợi ý ấy. Tôi nói: “Các anh đã đi buôn xa, các anh được cái gì nào? Ai bảo đảm rằng tôi sẽ may mắn hơn hai anh?” Hai anh viện ra đủ mọi điều hấp dẫn để lôi kéo tôi, tôi vẫn không nghe theo ý định của họ. Nhưng họ nhiều lần rủ rê đến nỗi sau năm năm từ chối những lời nài nỉ cuối cùng tôi đành chịu thua. Nhưng đến khi chuẩn bị lên đường, bàn tới chuyện mua sắm hàng hóa, tôi mới vỡ nhẽ ra rằng hai ông anh tôi đã tiêu pha hết gia sản; cả món tiền một nghìn xơcanh mà tôi đã biếu mỗi người cũng không còn gì. Tôi tuyệt nhiên không trách móc lấy một lời. Ngược lại, vì lúc này vốn liếng của tôi đã lên tới sáu nghìn xơcanh, tôi chia món tiền ấy ra làm đôi, đưa cho họ một nửa, và bảo: “Ta chỉ nên bỏ ra ba nghìn đồng thôi, còn ba nghìn ta giấu vào chỗ nào đó kín đáo, nhỡ ra chuyến đi này không may mắn hơn hai chuyến trước của hai anh, thì ta còn có đồng vốn để trở về theo đuổi nghề cũ của chúng mình.” Vậy là ba anh em tôi chia nhau ba nghìn xơcanh, riêng tôi giữ lại chừng ấy nữa mang chôn vào góc nhà. Sau khi mua hàng hóa, chúng tôi thuê một chiếc tàu rồi giương buồm thuận gió lên đường. Sau hai tháng đi biển, chúng tôi đến một hải cảng. chúng tôi ghé vào đấy, bán được hàng với giá rất hời. Nhất là tôi, tôi bán được giá đến nỗi một đồng lãi thành mười đồng. Chúng tôi mua hàng hóa địa phương, định mang về trong nước bán. Vào lúc sẵn sàng lên tàu để nhổ neo trở về nước, thì tôi gặp trên bờ biển một người đàn bà rất xinh đẹp song ăn mặc thì khá tồi tàn. Nàng đến gần, hôn tay tôi, khẩn khoản xin tôi hãy lấy nàng làm vợ và cho nàng được cùng xuống tàu theo về nước. Tôi không muốn nghe theo lời cầu xin của nàng. Nhưng nàng khéo nói quá, nào là tôi chớ nên quan tâm đến vẻ nghèo túng bên ngoài, nào là rồi đây tôi sẽ hài lòng về đức hạnh của nàng, đến nỗi cuối cùng tôi đành chịu thua. Tôi đặt may cho nàng những áo quần tươm tất. Rồi sau khi cưới nàng với giấy tờ hôn thú họp lệ tôi cho nàng lên tàu và chúng tôi nhổ neo. Trong cuộc hành trình, tôi nhận ra người phụ nữ mà tôi lấy làm vợ có nhiều phẩm chất tốt đẹp đến nỗi mỗi ngày tôi mỗi yêu nàng hơn. Trong khi đó hai ông anh tôi, không buôn bán hời được hơn tôi, ganh tị sự làm ăn phát đạt của em và sinh lòng ghen ghét, đố kỵ tới mức âm mưu hãm hại tôi. Một hôm, trong khi hai vợ chồng tôi đang ngủ say, họ đang tâm ném chúng tôi xuống biển. Vợ tôi là một tiên nữ, và do đó có phép tiên. Các ngài hiểu là nàng không thể chết đuối. Về phần tôi, chắc chắn tôi đã bỏ mình nếu không được ai cứu giúp. Nhưng tôi vừa rơi xuống nước, nàng đã nâng tôi lên và đưa tôi tới một hòn đảo. Khi trời sáng, nàng bảo tôi: “Chàng ơi, chàng thấy đấy, em cứu chàng chính là để tạ ơn chàng đã đối xử tốt với em. Xin chàng biết cho: em vốn là tiên nữ. Hôm thoạt gặp chàng trên bờ biển lúc chàng sửa soạn xuống tàu, không hiểu sao em đã đem lòng ái mộ. Để thử lòng chàng, em đã hóa trang ăn mặc tồi tàn như chàng đã từng trông thấy. Chàng đã xử sự với em một cách hào phóng. Em hài lòng là nay có dịp để đền đáp ơn chàng. Nhưng em rất giận hai ông anh của chàng. Em không hài lòng chừng nào chưa giết chết họ.” Tôi nghe tiên nữ nói với lòng khâm phục, và hết lời cảm tạ nàng. “Nhưng, thưa phu nhân, – tôi nói thêm – về chuyện hai ông anh của tôi, xin phu nhân hãy tha thứ cho họ. Cho dù họ rất có lỗi đối với tôi, nhưng tôi không tàn nhẫn tới mức muốn cho họ chết.” Tôi thuật lại cho nàng nghe tất cả những gì tôi đã làm cho hai ông anh, điều đó càng làm cho nàng thêm căm phẫn họ. Nàng thốt lên: “Nhất định tôi phải bay ngay tới chỗ hai tên phản trắc ấy và trả thù ngay tức khắc. Tôi sẽ nhấn chìm tàu của chúng và dìm chúng xuống tận đáy biển sâu.” - Chớ chớ, phu nhân xinh đẹp ơi, xin phu nhân chớ làm như vậy. Xin nàng nguôi bớt cơn thịnh nộ. Xin phu nhân hãy nhớ rằng đó là hai ông anh tôi, tôi luôn luôn phải làm điều tốt lành cho họ. Những lời nói ấy làm tiên nữ nguôi bớt cơn giận. Tôi vừa nói xong thì nàng đã hóa phép đưa tôi trở về nhà, đặt tôi xuống trên nóc mái bằng, rồi nàng biến mất. Tôi tụt xuống mở cửa vào nhà, và đào lấy ba nghìn xơcanh cất giấu. Tôi đến cửa hiệu cũ của mình, mở cửa hiệu và tiếp đãi bạn bè hàng xóm vốn cũng là những nhà buôn đến chúc mừng tôi trở về. Khi tôi trở lại nhà riêng, thì trông thấy hai con chó đen. chúng chạy ra đón tôi với vẻ chịu lỗi. Tôi không hiểu điều đó có ý nghĩa gì nên rất lấy làm lạ. Nhưng tiên nữ xuất hiện ngay và nói cho tôi rõ: “chàng ơi, xin chàng chớ ngạc nhiên, khi thấy hai con chó này trong nhà. Chính là hai ông anh trai của chàng đó.” Tôi run bắn người khi nghe lời đó, và hỏi nàng bởi phép thần nào mà họ nên nông nỗi ấy. Nàng đáp: “Chính em làm đấy, hay đúng hơn một bạn tiên của em, mà em đã nhờ ra tay. Em cũng đã nhờ chị ấy nhấn chìm chiếc tàu. Chàng đã mất số hàng hóa trên tàu, nhưng rồi em sẽ đền bù cho. Về phần hai ông anh của chàng, em sẽ bắt họ phải sống mười năm dưới hình dạng này, lòng dạ họ quá chó má cho nên làm chó là đáng tội.” Sau khi cho tôi biết nơi để tìm đến nàng khi cần, nàng biến mất. Đến nay, mười năm đã trôi qua. Tôi đang đi tìm tiên nữ. Đi ngang qua đây, trông thấy thương gia ngồi cùng cụ già dắt con hươu cái, tôi dừng lại với họ. Đấy, câu chuyện của tôi là như vậy đấy, thưa đấng cai quản các vị thần linh! Ngài có thật đồng ý là nó lạ lùng không nào? - Ta đồng ý. – Thần đáp. – Và vì vậy ta chấp thuận tha cho nhà buôn này một phần ba nữa tội của anh ta. Cụ già thứ hai vừa dứt lời thuật chuyện, thì cụ thứ ba cất tiếng. Cụ cũng có một lời cầu xin thần y như hai cụ trước, rằng nếu câu chuyện của cụ sẽ kể ra đây kỳ lạ hơn hai câu chuyện vừa rồi, thì mong thần tha thêm cho thương gia một phần ba tội nữa của ông ta. Vị thần cũng đồng ý và hứa như hai lần trước. Cụ già thứ ba thuật chuyện của mình cho thần linh nghe. Tôi xin không thuật lại, vì chính tôi cũng không rõ. Nhưng tôi biết chắc chuyện này hay hơn hai chuyện trước rất nhiều bởi những tình tiết phong phú và diệu kỳ của nó, khiến cho thần linh cũng rất đỗi ngạc nhiên. Cụ vừa dứt lời kể, thì vị thần đã bảo với thương gia: “Ta đồng ý giảm nhẹ cho anh một phần ba tội nữa. Anh phải cảm ơn ba cụ đây rất nhiều, bởi không có ba cụ cứu giúp anh bằng những câu chuyện của các cụ, thì mạng sống của anh đã không còn.” Nói xong, thần biến mất, điều làm cho ai nấy đều hài lòng. Thương gia hết lời cảm tạ bà cụ già. Bà cụ cũng mừng cho ông tai qua nạn khỏi. Sau đó họ từ biệt nhau, mỗi người đi về một ngả. Thương gia trở về với vợ con, và sống cuộc sống bình yên cho tới lúc qua đời. - Nhưng tâu bệ hạ, – nàng Sêhêrazát nói thêm – những chuyện em kể hầu bệ hạ từ trước tới nay dù cho hay ho đến bao nhiêu, cũng không thể so sánh với câu chuyện người đánh cá. Thấy Sêhêrazát ngừng lời, Đináczát vội nói: - Chị ơi, hãy còn thì giờ, xin chị kể chuyện ông lão đánh cá đi, em chắc hoàng đế cho phép. Vua Saria đồng ý. Thế là nàng Sêhêrazát tiếp tục kể như sau: CHUYỆN NGƯỜI ĐÁNH CÁ Ngày xưa có một lão đánh cá khá cao tuổi và nghèo túng đến nỗi không sao kiếm được đủ bữa để nuôi sống gia đình gồm một vợ và ba con. Ngày nào lão cũng đi đánh cá từ sớm và cũng tự đặt ra cái lệ là ngày nào cũng chỉ buông lưới bốn lần mà thôi. Một buổi sáng lão ra đi từ lúc còn ánh trăng. Đến bờ biển, lão cởi áo quần ngoài và buông lưới. Khi kéo lưới vào bờ, lúc đầu lão cảm thấy nặng tay. Những tưởng đánh được một mẻ khá, lão đã khấp khởi mừng thầm. Nhưng một lát sau, nhận ra không phải là cá mà chỉ là một bộ xương lừa nằm trong lưới, lão rất đỗi buồn rầu vì mẻ lưới hẩm hiu. Vá lại xong tấm lưới bị bộ xương lừa làm rách nhiều chỗ, lão đánh cá ngán ngẩm vì một mẻ đánh đã rủi ro như vậy, buông lưới lần thứ hai. Kéo thấy nặng tay hơn lần trước, lão chắc mẩm lần này lưới sẽ đầy những cá. Nhưng cũng lại chỉ thu được một cái thùng lớn đựng đầy đá cuội và bùn. Vô cùng ngao ngán, lão đánh cá kêu lên, giọng đáng thương: “Hỡi số phận, xin thôi đừng ghét lão, thôi đừng hành hạ một con người đau khổ đang cầu khẩn mi buông tha! Lão từ nhà đến đây kiếm cá để sống, mi thì lại báo cái chết của lão! Lão chẳng có nghề ngỗng gì ngoài cái nghề này để kiếm ăn qua bữa. Mặc dù chăm chút biết bao đến nghề nghiệp của mình, lão vẫn không làm sao chu cấp nổi cho gia đình những nhu cầu thiết yếu nhất. Nhưng mà có lẽ lão đã nhầm khi kêu van số phận. Mi vốn thích làm tình làm tội những con người nhân hậu, mi vốn thích để các bậc vĩ nhân sống trong tối tăm trong lúc lại ưu đãi những kẻ độc ác; mi đề cao những đứa không hề có chút đức hạnh nào đáng cho người ta tin cậy.” Dứt lời than vãn, lão hất tung cái thùng. Sau khi rửa sạch tấm lưới bám đầy bùn, lão buông lưới lần thứ ba. Nhưng lão chỉ kéo lên được đá, vỏ sò và rác rưởi. Không thể nào mô tả hết sự thất vọng của lão. Lão gần như trở thành người quẫn trí. Tuy vậy trời bắt đầu sáng, lão không quên đọc kinh như một người Hồi giáo ngoan đạo[18]rồi khấn thêm: “Hỡi Thượng đế, Người biết rằng mỗi ngày con chỉ buông lưới bốn lần mà thôi! Con đã ba lần tung lưới mà không thu được một chút kết quả nào. Chỉ còn một lần này nữa thôi; cầu xin Thượng đế giúp làm sao biển cả thuận lợi cho con, như xưa kia Người đã khiến trời yên biển lặng giúp cho Môidơ[19]vậy.” Cầu nguyện xong, ông lão đánh cá buông lưới lần thứ tư. Khi cho rằng chắc cá đã vào, lão kéo cái lưới lên cũng khá vất vả như những lần trước. Tuy vẫn không được con cá nào, nhưng lão nhặt được một cái lọ bằng đồng thau mà qua trọng lượng của nó, hình như có chứa đựng một thứ gì bên trong. Cái lọ nút kín, được niêm phong bằng chì và có mang một dấu ấn. Điều đó làm lão vui lên, lão tự nhủ: “Ta sẽ mang cái lọ này đi bán cho thợ đúc đồng, được tiền ta sẽ đi mua một đấu lúa mì.” Lão ngắm nghía cái lọ đủ mọi phía. Lão lắc lắc để xem thử những gì đựng bên trong có phát ra tiếng động hay không. Chẳng nghe thấy gì, lại thêm có cái dấu ấn trên nắp chì, làm cho lão nghĩ rằng chắc hẳn cái lọ chứa đựng một vật gì quý báu lắm. Để làm sáng tỏ, lão với lấy con dao, và chẳng khó khăn gì lắm, lão mở được cái nắp. Lão dốc ngược cái lọ song chẳng có gì rơi ra, điều làm cho lão hết sức ngạc nhiên. Lão đặt cái lọ xuống trước mặt, và trong khi lão đang chăm chú ngắm nghía, thì từ miệng lọ tuôn ra một luồng khói khá dày, buộc lão phải thụt lùi về phía sau vài ba bước. Luồng khói ấy bốc lên cao tận mây xanh, trải dài trên mặt nước và ven bờ biển, tạo thành một đám mây và sương mù lớn. Cảnh tượng đó làm lão vô cùng ngạc nhiên. Khói tuôn ra hết lọ thì tụ tập lại và trở thành một vật rắn từ đó hình thành một vị thần cao lớn gấp đôi con người khổng lồ cao lớn nhất. Trông thấy con quái vật cao quá cỡ như vậy, lão đánh cá muốn co giò chạy. Nhưng quá luống cuống vì khiếp đảm, lão không sao nhấc nổi chân lên. Thoạt tiên vị thần thốt lên: “Xalômông, hỡi Xalômông, đấng tiên tri vĩ đại của Thượng đế, xin tha thứ, xin tha thứ, không bao giờ con còn dám chống lại ý muốn của Người nữa. Con xin phục tùng mọi mệnh lệnh của Người.” Nghe được mấy lời ông thần vừa thốt, lão đánh cá bình tĩnh trở lại và nói: “Này vị thần linh cao lớn kia ơi, ngài nói gì vậy? Xalômông đấng tiên tri của Thượng đế qua đời hơn một nghìn tám trăm năm, và chúng ta hiện đang sống thời tận cùng các thế kỷ. Ngài hãy kể cho tôi nghe chuyện về ngài, nguyên do vì đâu ngài bị nhốt trong chiếc lọ này?” Nghe hỏi, vị thần nhìn lão đánh cá một cách kiêu ngạo và trả lời: “Mày hãy nói với ta cho có lễ độ hơn; mày to gan quá đấy, sao dám gọi ta là thần linh cao lớn?” Lão cãi: - Phải chăng tôi sẽ nói với ngài lễ độ hơn, nếu tôi gọi ngài là một con cú gặp may? - Tao bảo mày phải ăn nói cho lễ độ hơn trước khi tao giết chết mày. - Ơ hay! Sao ngài lại giết tôi? – Lão vặn lại. – Tôi vừa giải thoát cho ngài, ngài đã quên rồi ư? - Không, ta nhớ, nhưng điều đó cũng không ngăn trở việc ta giết mày. Ta chỉ có một ân huệ để ban cho mày mà thôi. - Ân huệ gì vậy? – Lão đánh cá hỏi. - Ấy là cho phép mày lựa chọn cách mày muốn chết như thế nào. - Nhưng tôi đã làm điều gì xúc phạm đến ngài? – Lão hỏi. – Thế ra ngài thưởng công cho cái việc tốt lành tôi giúp ngài bằng cách ấy phải không? - Ta không thể đối xử với mày bằng cách nào khác hơn. – Vị thần nói. – Mày không muốn tin thì hãy nghe cho thủng chuyện ta kể đây: “Ta vốn là một vị thần linh nổi loạn chống lại quyền uy của Thượng đế. Tất cả các thần linh khác đều thừa nhận Xalômông vĩ đại, đấng tiên tri của Thượng đế, và đều thần phục Người, chỉ có Xaca và ta là những kẻ duy nhất không chịu hạ mình làm việc đó. Để trả thù, nhà vua hùng mạnh ấy sai Atxáp, con của Barakhia, tể tướng của Người, đến bắt ta. Lệnh đó được thực hiện. Atxáp đến bắt ta, cưỡng bức ta đến trước ngai vàng của chúa tể ông ta. Xalômông, con của Đavít, ra lệnh cho ta phải từ bỏ lối sống của mình, phải thừa nhận quyền lực của Người và phục tùng mệnh lệnh của Người. Ta ngạo nghễ từ chối không tuân theo. Ta thà chịu đựng mọi sự thù ghét của Người còn hơn là thề trung thành và thần phục, như Người buộc ta phải làm. Để trừng phạt ta, Người giam ta vào trong cái lọ này; và để ta không thể nào vượt ngục, Người tự tay đóng lên cái nắp bằng chì con ấn của Người có khắc tên Thượng đế. Xong đâu đấy, Người giao cái lọ cho một trong những thần linh chịu thuần phục và truyền cho hắn ném ta xuống biển. Lệnh ấy được thi hành mặc dù ta chẳng muốn chút nào. Trong thế kỷ tù đày đầu tiên, ta thề nếu có ai giải thoát cho ta trước khi hết hạn một trăm năm, ta sẽ làm cho người đó trở nên giàu có, cho dù ngay cả khi người ấy qua đời. Nhưng một thế kỷ trôi qua, mà chẳng có ai làm giúp ta cái việc tốt lành ấy cả. Trong thế kỷ thứ hai, ta thề sẽ mở cửa tất cả các kho tàng trên trái đất giao cho bất kỳ người nào đem lại tự do cho ta. Nhưng ta vẫn không được may mắn gì hơn. Trong thế kỷ thứ ba, ta hứa sẽ làm cho người giải thoát ta trở thành một ông vua hùng mạnh. Hồn thiêng của ta sẽ luôn luôn ở bên cạnh người đó, và cứ mỗi ngày ta sẽ thỏa mãn cho người đó ba điều ước, cho dù những điều ước ấy như thế nào. Nhưng thế kỷ này lại trôi qua giống như hai thế kỷ trước, còn ta vẫn cứ lâm vào tình trạng giam cầm. Cuối cùng, chán ngán, hay đúng hơn là điên tiết vì thấy mình bị tù đày quá lâu, ta thề nếu từ đây ai giải thoát ta, ta sẽ giết chết không chút xót thương và sẽ không ban cho một ân huệ nào khác ngoài việc cho phép tự lựa chọn cách chết. Chính vì vậy mà ta cho phép mày tự chọn, xem mày muốn được ta giết bằng cách nào.” Những lời của vị thần làm lão đánh cá rất lo âu. - Khốn nạn thân tôi! – Lão kêu lên. – Sao tôi lại đến chốn này làm ơn cho một kẻ vong ân bội nghĩa? Xin ngài hãy xót thương, hãy nhận ra sự bất công của ngài, và hãy xóa bỏ lời thề quá ư vô lý. Hãy tha tội cho lão. Thượng đế sẽ đại xá cho ngài. Nếu ngài rộng lượng cho lão được sống, thì Thượng đế sẽ che chở cho ngài tránh khỏi mọi mưu toan ám hại. - Không, – vị thần nói – mày nhất định phải chết. Mày muốn được cái chết nào thì hãy chọn đi, để tao kết liễu đời mày. Thấy vị thần khăng khăng muốn giết mình, lão đánh cá đau đớn vô cùng. Lão tiếc thương thân mình thì ít mà thương cho ba đứa con sẽ lâm vào cảnh khốn cùng sau khi mất bố thì nhiều. Lão cố gắng tìm cách làm cho vị thần bớt giận: “Ngài ôi! Xin ngài hãy nghĩ đến việc tôi vừa làm cho ngài mà đoái thương!” - Thì ta đã chẳng bảo, chính vì việc làm của mày mà ta bắt buộc phải kết liễu đời mày đó sao. - Thật là lạ lùng làm sao! – Lão đánh cá đáp. – Ai lại khăng khăng lấy oán báo ân đến mức ấy bao giờ. Tục ngữ có câu: người nào làm điều lành cho kẻ không đáng được hưởng thì bao giờ cũng bị đền đáp không hay. Thú thật, trước đây lão cho rằng câu tục ngữ đó sai. Không có gì xúc phạm lẽ phải và luật lệ xã hội hơn là câu nói đó. Thế mà giờ đây lão phải đau đớn mà nhận ra rằng nó quá ư đúng đắn. Vị thần ngắt lời: - Chớ để mất thời giờ, mọi lý lẽ đều không làm thay đổi chủ định của ta đâu. Hãy nói nhanh lên, mày muốn được ta giết chết bằng cách nào? Sự bức bách làm nảy trí thông minh. Lão đánh cá nghĩ ra một mẹo. Lão nói với thần: “Vì không có cách nào tránh khỏi chết, thôi thì lão đành phục tùng ý Trời vậy. Nhưng trước khi chọn cách chết, lão cầu xin ngài, hãy vì uy danh vĩ đại của Thượng đế đã được khắc vào con ấn của đấng tiên tri Xalômông, con trai Đavít, mà trả lời thật thà cho lão biết câu lão hỏi ngài sau đây.” Thấy mình lâm vào thế không thể khước từ lời cầu xin nhân danh Thượng đế, hung thần run sợ trong lòng. Hắn bảo lão đánh cá: “Nào, mày muốn hỏi gì ta thì hỏi nhanh lên!” Được thần cho phép, lão đánh cá liền hỏi: “Lão muốn biết có đúng ngài đã ở trong cái lọ ấy không? Ngài có dám thề trước Thượng đế rằng quả đúng như vậy không?” - Đúng, ta xin thề trước Thượng đế rằng ta đã ở trong cái lọ, điều đó hoàn toàn đúng sự thật. - Thật thà mà nói lão không sao tin được lời ngài. Cái lọ một bàn chân của ngài thôi cũng không đút lọt, làm sao có thể chứa đựng toàn bộ thân thể ngài cơ chứ! - Nhưng ta thề độc với mày, đúng là với cái hình dạng như mày thấy ta đây, ta đã ở trong ấy. Ta đã thề long trọng như vậy mày vẫn không tin ư? - Vâng, đúng thế. – Lão nói. – Lão sẽ chẳng bao giờ tin đâu, trừ phi ngài cho lão tận mắt trông thấy. Thế là thân thể hung thần tự nhiên tan ra, biến thành khói trải dài trên mặt nước và ven bờ biển rồi sau đó tụ tập lại và chui trở vào trong lọ một cách chậm rãi và đều đều cho đến khi không còn sót gì bên ngoài. Từ trong lọ vọng ra tiếng nói với người đánh cá: “Thế nào, hỡi người đánh cá hay hoài nghi kia, giờ ta đã vào trong lọ, mày tin rồi chứ?” Không trả lời, người đánh cá vớ lấy cái nắp chụp nhanh lên miệng rồi kêu to: “Này hung thần, giờ đến lượt mày van ta, và cho mày lựa chọn lấy, mày muốn ta cho mày chết bằng cách nào? Nhưng mà thôi, tốt hơn ta lại ném mày trở về biển ngay ở chỗ ta vừa vớt mày lên. Rồi ta sẽ làm một cái nhà trên bờ này. Ta sẽ luôn luôn ở đây để báo cho tất cả những người đánh cá nào đến đây buông lưới, rằng hãy chớ có vớt lên một hung thần độc ác như mày, kẻ đã thề sẽ giết chết người nào cứu vớt nó và cho nó trở lại tự do.” Nghe những lời xúc phạm ấy, hung thần nổi xung, cố hết sức để thoát ra ngoài lọ nhưng không sao được vì bị cái dấu ấn của đấng tiên tri Xalômông, con vua Đavít cản trở. Thấy người đánh cá có lợi thế hơn mình, hung thần đành nén lòng giấu cơn giận dữ. Hắn dịu giọng nói: “Hỡi người ngư phủ, bác hãy cẩn thận, chớ có làm điều bác vừa nói đấy nhé. Những việc ta làm vừa rồi chẳng qua là để đùa chơi một tí thôi, bác chớ coi là thật.” - Này hung thần, – lão đánh cá đáp, – cách đây một lát mày là đấng vĩ đại nhất nhưng bây giờ là kẻ bé nhỏ nhất trong tất cả các thần linh. Mày hãy biết rằng những lời lẽ giả dối của mày chẳng giúp ích gì cho mày đâu. Mày sẽ trở về với biển cả. Nếu mày đã từng ở dưới biển suốt thời gian dài như mày đã kể cho ta nghe, thì mày cũng có thể ở đấy cho đến ngày tận thế. Ta đã nhân danh Thượng đế cầu xin mày chớ kết liễu đời ta, mày đã bác bỏ mọi lời cầu khẩn của ta, vậy thì giờ đến lượt ta sẽ đối xử với mày như mày đã đối xử với ta vậy. Hung thần tìm hết cách làm động lòng người đánh cá: “Bác hãy mở cái nắp lọ, hãy trả tự do cho ta, ta van bác đấy. Ta xin hứa rằng ta sẽ làm hết sức mình cho bác hài lòng về ta.” - Mày chỉ là một tên phản trắc! – Lão trả lời. – Ta sẽ đáng chết, nếu ta còn bất cẩn mà tin lời mày. Rồi mày cũng giết chết ta như ông vua Hy Lạp nào đó đã giết viên thầy thuốc Đubăng mà thôi. Đây là một câu chuyện mà ta muốn kể cho mày. Hãy nghe đây: CHUYỆN NHÀ VUA HY LẠP VÀ THẦY THUỐC ĐUBĂNG Ngày xưa, ở xứ Zuman thuộc nước Ba Tư, có một nhà vua, con dân của vua xứ ấy đều là người gốc Hy Lạp. Nhà vua bị bệnh phong. Các ngự y của vua đã hết lòng chạy chữa nhưng bệnh vẫn không khỏi. Khi các lương y trong triều đều chịu bó tay thì có một thầy thuốc rất tài giỏi có tên là Đubăng từ xứ khác đến. Vị thầy thuốc này đã đọc hết các sách ỵ học bằng tiếng Hy Lạp, Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, A Rập, Latinh, Xyri và Hêbơrơ. Không những ông ta thuộc làu y lý mà còn nắm rất vững được chất độc hại cũng như tính tốt lành của mọi thứ thảo mộc trên đời. Được tin nhà vua mắc bệnh và các ngự y đã chịu bó tay, thầy thuốc này cố gắng ăn mặc thật đàng hoàng và tìm cách để được giới thiệu ra mắt vua. - Tâu bệ hạ, – ông nói – tôi được biết rằng tất cả các vị lương y từng hầu hạ bệ hạ nay đều chịu bó tay không chữa nổi bệnh phong của ngài. Nếu bệ hạ cho phép kẻ này được làm việc ấy, thì tôi xin bảo đảm có thể chữa lành bệnh cho ngài mà không cần phải dùng một thứ thuốc nào trong uống hoặc ngoài xoa. Nghe tâu, vua Hy Lạp rất mừng: - Nếu ông tài giỏi đến mức như ông vừa nói thì ta hứa sẽ làm cho ông giàu có. Ngoài những của cải mà ta ban thưởng cho ông, ta sẽ coi ông là vị đệ nhất sủng thần của ta. Vậy ông bảo đảm có thể làm cho ta khỏi bệnh phong mà không cần phải dùng đến phép chữa nội khoa hoặc ngoại khoa? - Đúng như vậy, tâu bệ hạ. Và tôi tin chắc là nhờ ơn trên phù hộ, tôi sẽ đạt thành, và ngay ngày mai thôi, sẽ thấy rõ công hiệu. Thầy thuốc Đubăng lui về, thửa một chiếc gậy chơi cầu rỗng ruột, bên trong chứa liều thuốc ông bào chế sẵn. Ông cũng làm một quả cầu theo cách của mình. Xong đâu đấy, ngay sáng hôm sau, vào ra mắt vua, phủ phục xuống đất, rồi mời vua lên ngựa ra bãi cầu. Thầy thuốc đưa gậy và cầu cho nhà vua và nói: - Xin bệ hạ hãy cầm lấy và bắt đầu đánh cầu, đánh cho kỳ đến lúc bàn tay cũng như toàn thân ngài đều toát mồ hôi. Thuốc mà tôi để sẵn trong cán gậy đánh cầu này gặp hơi nóng bàn tay sẽ thấm vào cơ thể của ngài. Chừng nào bệ hạ đã thấy vã hết mồ hôi, ngài có thể ngừng chơi, vì thuốc đã công hiệu rồi đấy. Trở về cung, xin bệ hạ hãy tắm, hãy sai người kỳ cọ thật kỹ. Sau đấy xin mời ngài đi nghỉ. Sáng sớm mai, tỉnh giấc, ngài đã khỏi bệnh. Nhà vua đón gậy, tung quả cầu rồi thúc ngựa đuổi theo đánh. Quả cầu được các quan hầu cùng chơi đánh lại. Cứ thế hai bên chơi cầu hồi lâu, cho đến khi toàn thân nhà vua mồ hôi đầm đìa. Thuốc đựng trong cán gậy công hiệu đúng như thầy thuốc nói. Thế là vua trở về cung tắm rửa và nhất nhất thực hiện đúng tất cả mọi điều thầy thuốc dặn. Sáng hôm sau, tỉnh dậy, vua cực kỳ ngạc nhiên và mừng rỡ thấy mình đã khỏi bệnh. Thân thể vua hoàn toàn lành mạnh, như thể chưa bao giờ mắc phải chứng bệnh quái ác ấy. Mặc xong áo quần, vua đến ngay phòng thiết triều, ngồi lên ngai và trỏ cho quần thần trông thấy. Mọi người nôn nóng muốn xem kết quả của phương thuốc đã tề tựu từ sớm. Thấy nhà vua đã hoàn toàn khỏi bệnh, ai nấy đều hết sức vui mừng. Vừa lúc ấy, thầy thuốc Đubăng bước vào, phủ phục trước ngai. Trông thấy, vua gọi đến gần, cho ngồi cạnh mình, giới thiệu ông với mọi người. Trước mặt quần thần, vua không tiếc lời khen ngợi ông. Không chỉ có vậy. Hôm ấy, để ăn mừng, vua thết tiệc cả triều đình. Riêng thầy thuốc Đubăng, vua cho ngồi riêng cùng mâm với mình. Lúc bãi triều, vua ban cho thầy thuốc một chiếc áo rất đẹp giống như áo mà các vị đại thần vẫn mặc khi vào chầu, ngoài ra, còn cho thêm hai nghìn đồng xơcanh. Tóm lại nhà vua không biết làm sao nói hết lòng biết ơn của mình đối với thầy thuốc, cho nên ngày nào cũng ban thưởng cho ông nhiều tặng phẩm mới. Nhà vua ấy có một tể tướng tính tình bủn xỉn, hay ghen ghét. Lão có thể làm đủ mọi thứ để hãm hại người. Lão không sao chịu nổi khi thấy nhà vua ban thưởng cho thầy thuốc nhiều đến vậy. Thấy vai vế của mình có nguy cơ bị viên thầy thuốc lấn át, lão quyết định tìm cách làm cho nhà vua nghi kỵ ông. Để thực hiện mưu đồ ấy, lão đến xin được gặp riêng vua, nói có việc cực kỳ hệ trọng xin được trình bày để vua tường. Vua hỏi có việc gì vậy, lão đáp: - Tâu bệ hạ, thật là nguy hiểm cho một đấng quân vương nếu quá tin cẩn một người mà ta chưa thử thách được lòng trung thành. Bệ hạ đã ban ơn rất hậu và khen ngợi viên thầy thuốc, nhưng ngài chưa biết rằng y là một kẻ phản bội cố tìm cách lọt vào triều đình để kiếm dịp ám hại bệ hạ. - Ông nghe tin từ đâu mà dám tâu với ta điều vừa nói đó? Nên nhớ là ông đang tâu với ta, và ta đâu phải là người nhẹ dạ cả tin. - Tâu bệ hạ, – tể tướng quả quyết – tôi hoàn toàn biết rõ điều tôi vừa được vinh hạnh trình bệ hạ. Xin bệ hạ chớ quá tin vào một kẻ nguy hiểm như vậy. Nếu bệ hạ chưa thấy ra, cúi mong ngài hãy sáng suốt. Bởi vì, tôi xin khẩn khoản tâu trình một lần nữa, viên thầy thuốc ấy chính là kẻ đã ra đi từ nơi tận cùng của nước Hy Lạp quê hương của hắn để đến triều đình ta với ý đồ đen tối mà tôi vừa nói đó. - Không, không, tể tướng à, – vua ngắt lời – ta tin chắc con người mà ông cho là xảo quyệt, là phản trắc ấy, là con người đạo đức nhất, cao thượng nhất trong tất cả mọi con người. Ông đã rõ ông ta đã chữa khỏi bệnh cho ta bằng cách thần diệu như thế nào rồi. Nếu ông ta muốn hãm hại ta thì tại sao ông ấy cứu sống ta? chỉ cần để mặc ta với cơn bệnh, thế nào ta cũng không qua khỏi; hồi ấy ta đã thấy hầu như chết đến nửa người rồi. Vậy thì ông chớ có xui ta nghi ngờ bất công nữa. Không những ta không nghe lời ông, mà ta báo trước cho ông biết là ngay từ hôm nay, ta sẽ ban cho thầy thuốc một món bổng lộc một nghìn đồng xơcanh hằng tháng, được hưởng cho đến trọn đời. Cho dù ta có chia sẻ với ông ta mọi thứ của cải và ngay cả đất nước này nữa, cũng vẫn chưa đủ đền đáp những gì thầy thuốc đã làm cho ta. Ta thấy ra rồi đó, chính đức hạnh của ông ấy khiến cho ông đem lòng ghen ghét. Nhưng ông chớ có bao giờ quên những điều mà viên thượng thư nọ đã tâu với chúa công Xinbát của mình để can gián nhà vua chớ giết hại con trai. Tể tướng nói: - Xin bệ hạ xá tội cho nếu tôi mạo muội hỏi, vị thượng thư ấy đã nói gì với vua Xinbát để can gián ông ta chớ giết hại con trai của mình? Nhà vua chấp thuận: - Để can gián vua Xinbát chớ vì chuyện mẹ ghẻ con chồng mà đi tới một hành động có thể sẽ hối hận sau này, quan thượng thư ấy đã kể câu chuyện sau đây: CHUYỆN ÔNG CHỒNG VÀ CON VẸT Một người đàn ông nọ có một bà vợ xinh đẹp. Anh ta mê vợ say đắm đến mức không bao giờ muốn rời. Một hôm vì có công việc bức bách phải đi xa, anh ta đến nơi bán chim tìm mua một con vẹt. Con vẹt này không những có thể nói khá thạo tiếng người mà còn có cái khiếu đặc biệt là có thể thuật lại những điều nó trông thấy. Mang lồng chim về nhà, anh ta bảo vợ hãy đưa về buồng riêng và chú ý chăm sóc hộ con chim trong khi anh đi xa. Nói xong, anh lên đường. Khi trở về, anh không quên hỏi con vẹt những gì đã xảy ra trong khi anh vắng nhà. Con chim nọ cho biết nhiều chuyện, khiến anh trách mắng vợ thậm tệ. Chị vợ nghi có con đầy tớ gái nào phản mình chăng. Nhưng tất cả đều thề là trung thành và cùng nhau đoán chắc rằng chính con vẹt đã ton hót những điều bậy bạ. Biết rõ như vậy chị vợ nghĩ cách làm cho chồng hết nghi ngờ đồng thời cũng để trả thù con vẹt luôn thể. Và chị tìm được cách. Một hôm anh chồng có việc đi vắng một ngày. Chị vợ sai người ở gái mang lúa ra xay ngay dưới lồng chim, một người khác từ trên cao rưới nước xuống lồng làm như thể mưa, rồi một người thứ ba nữa dùng ngọn đèn sáng chiếu vào mắt vẹt. Những người ở nghe lời chủ, cùng nhau làm khéo léo công việc ấy gần suốt cả đêm. Sáng hôm sau, người chồng trở về, hỏi chim vẹt đêm hôm qua ở nhà có chuyện gì không. Vẹt ta đáp: - Thưa ông chủ, mưa to và sấm chớp suốt đêm làm cho tôi rất khó chịu. Thật không biết thưa ông rằng tôi đã chịu khổ sở vì chuyện ấy đến thế nào. Anh chồng biết là đêm hôm qua trời không hề mưa. Anh quả quyết con vẹt nói dối chuyện này ắt nó cũng nói điêu cho vợ anh lần trước. Bực mình, anh tóm con chim lôi ra khỏi chuồng quật mạnh xuống đất, đến nỗi vẹt ta chết thẳng cẳng. Sau đó, được hàng xóm cho hay là con vẹt chẳng phải nói điêu cho vợ anh đâu. Anh rất hối hận là đã giết chết con chim, nhưng hối hận thì chuyện cũng đã rồi. Kể đến đây, nhà vua nói tiếp: - Ông cũng vậy, ông tể tướng ạ, chỉ vì ghen ghét thầy thuốc Đubăng, người chẳng làm gì hại đến ông mà ông muốn cho ta giết ông ấy chứ gì? Ta sẽ chẳng làm đâu, để rồi sau này khỏi phải hối hận như anh chồng đã giết chết con vẹt kia. Quá cay cú muốn làm hại thầy thuốc, tể tướng không chịu bỏ cuộc: - Một con vẹt chết chẳng có gì quan trọng, tôi tin là anh chồng chẳng phải hối hận lâu. Nhưng tại sao việc lo kết tội sai một người vô tội lại khiến cho bệ hạ ngại ngùng tới mức không dám giết viên thầy thuốc? Riêng một việc có người tố cáo anh ta định ám hại bệ hạ, chỉ điều ấy thôi, chẳng đáng cho y chịu tội chết hay sao? Để gìn giữ an ninh cho đấng quân vương, thì một thoáng hoài nghi cũng đủ để trở thành một điều khẳng định: thà hi sinh người vô tội còn hơn là để cho hung thủ có cơ may thoát khỏi trừng trị. Tâu bệ hạ, không còn gì nghi ngờ nữa, tên thầy thuốc Đubăng quả thật muốn hãm hại ngài. Không phải là tôi đem lòng ghen ghét hắn ta đâu, mà chính lòng trung thành với bệ hạ buộc tôi phải tâu trình một việc hệ trọng đến vậy. Nếu điều tôi nói là sai, tôi xin chịu tội đúng theo cách xưa kia người ta trừng trị một tể tướng nọ. Vua Hy Lạp tò mò hỏi: - Vậy chứ tể tướng đã làm gì nên tội? Tôi xin kể hầu bệ hạ, nếu ngài hạ cố lắng nghe cho. CHUYỆN QUAN TỂ TƯỚNG BỊ TRỪNG TRỊ Tể tướng kể: - Ngày xưa, nhà vua nọ có một hoàng tử rất mê săn bắn. Vua cho phép con trai mình thỉnh thoảng được giải trí cách ấy, nhưng ra lệnh cho tể tướng bất kỳ lúc nào hoàng tử đi săn tể tướng cũng phải đi theo và để mắt trông chừng chàng. Một hôm, trong một cuộc đi săn, hoàng tử say mê đuổi theo một con hươu, và nghĩ rằng tể tướng vẫn chạy theo mình. Vì hăng máu, hoàng tử phóng ngựa chạy lâu và xa quá. Đến nỗi cuối cùng thấy còn lại mỗi một mình. Khi dừng lại, hoàng tử nhận ra mình đã nhầm đường, chàng muốn quay trở lại để tìm vị tể tướng đã không theo kịp, nhưng quanh quẩn một hồi, chàng bị lạc hẳn. Trong khi đang chạy quanh quẩn tìm đường, chàng chợt bắt gặp một thiếu phụ ăn mặc khá sang trọng đang khóc lóc thảm thiết. Chàng gò cương dừng ngựa, hỏi thiếu phụ là ai, tại sao ngồi một mình chốn này, và có cần được giúp chăng. Thiếu phụ đáp: - Em là công chúa con vua một xứ thuộc Ấn Độ. Em đi dạo về nông thôn, nhưng nhỡ ngủ quên, ngã xuống và con ngựa chạy mất, em đang không biết rồi ra sao đây. Hoàng tử thương hại mời thiếu phụ lên ngựa ngồi sau lưng mình. Thiếu phụ nhận lời. Lúc đi ngang qua một táp lều, thiếu phụ xin xuống ngựa một chốc có việc cần, hoàng tử dừng ngựa và cho thị xuống. Hoàng tử cũng xuống ngựa, cầm cương ở tay và tiến đến táp lều. Chàng ngạc nhiên biết bao khi nghe người đàn bà nói: - Các con đâu, hãy mừng đi, mẹ dẫn về cho các con một chàng trai khôi ngô béo tốt đây này. - Đâu, đâu hở mẹ? chúng con phải ăn thịt nó ngay, chúng con đang đói đây. – Nhiều tiếng nhao nhao trả lời người đàn bà. Không cần nghe nhiều hơn, hoàng tử đã hiểu mình đang gặp tai họa lớn. Hóa ra thiếu phụ tự xưng là công chúa con một ông vua thuộc Ấn Độ ấy là một mụ phù thủy. Mụ thường la cà những nơi vắng vẻ, tìm trăm phương ngàn kế lừa bắt và ăn sống những người qua đường. Hoảng hốt, chàng vội vàng nhảy tót ngay lên ngựa. Mụ phù thủy xuất hiện ngay lúc đó. Thấy đã hỏng việc, thị vờ hỏi: - Chớ sợ hãi! Anh là ai? Anh tìm gì? Hoàng tử đáp: - Tôi đang bị lạc, tôi đang tìm đường. - Nếu anh bị lạc, anh hãy cầu Thượng đế. Người sẽ giải thoát anh khỏi lúc khó khăn. Thế là hoàng tử ngước mắt lên trời, khấn: “Lạy Thượng đế tối thiêng liêng, xin hãy giải thoát cho con khỏi mụ phù thủy này.” Nghe câu khấn, người đàn bà chui tạt vào lều, và hoàng tử vội vã thúc ngựa chạy. May mắn làm sao, chàng tìm lại được đường, trở về cung an toàn lành lặn, và kể lại cho vua cha nỗi hiểm nghèo mình vừa trải qua do lỗi của viên tể tướng bất cẩn. Nhà vua nổi giận lôi đình, sai xử giảo tể tướng ngay tức khắc. Kể xong, tể tướng nói tiếp với vua Hy Lạp: - Tâu bệ hạ, xin trở lại chuyện thầy thuốc Đubăng. Nếu bệ hạ không dè chừng mà cứ một mực tin lão thì sẽ nguy to. Tôi được nguồn tin chắc chắn báo cho biết đó là một tên gián điệp được các kẻ thù của bệ hạ phái đến đây để tìm cách hại ngài. Lão đã chữa lành bệnh cho bệ hạ, ngài nói vậy ư? Ai dám bảo đảm chuyện đó? Có thể lão chỉ chữa bệnh bên ngoài nhưng thật ra là không. Biết đâu thứ thuốc ấy với thời gian sẽ chẳng có công dụng độc hại? Nhà vua Hy Lạp, vốn cũng hơi trì độn, không đủ sáng suốt để nhận ra ác ý của tể tướng, cũng không đủ kiên quyết để giữ ý kiến ban đầu của mình. Lời tể tướng làm vua nao lòng. - Tể tướng à, – vua nói – ông có lý đấy, có lẽ lão cố tình đến đây để hãm hại ta thật. Lão ta chỉ cần dùng đến một thứ hương liệu nào đó trong các loại thảo mộc của lão cũng đã đủ làm việc ấy. Vậy ta phải làm gì bây giờ? Thấy nhà vua đã ngả theo ý mình, tể tướng nói: - Tâu bệ hạ, phương sách tốt nhất để tinh thần bệ hạ được thanh thản, tính mạng bệ hạ được an khang, là ngay lập tức cho triệu lão đến, và khi lão vừa tới nơi, bệ hạ hãy ra lệnh chém đầu. - Đúng thế, ta tin rằng chỉ có làm như vậy mới có thể phòng ngừa âm mưu của lão. Nói xong, vua gọi một viên quan hầu, sai đi tìm thầy thuốc. Ông này không biết có chuyện gì, vội vã tới ngay hoàng cung. Vừa thấy mặt ông, vua hỏi: - Mi có biết tại sao ta cho đòi mi đến đây hay không? - Tâu bệ hạ không. Tôi đang chờ bệ hạ phán bảo. - Ta đòi mi đến để sai giết chết mi cho khuất mắt ta. Không thể nào diễn tả được sự ngạc nhiên của thầy thuốc Đubăng khi được nghe mình bị tội chết: - Tâu bệ hạ, tại sao ngài hạ lệnh giết tôi? Tôi đã làm gì nên tội? - Ta được nguồn tin chắc chắn cho biết mi là một tên gián điệp, mi được phái tới triều đình ta để mong ám hại ta. Để phòng ngừa, ta phải giết mi. Quay lại phía đao phủ lúc ấy đang có mặt, vua phán: - Hãy chém đầu nó, hãy giết chết tên khốn nạn đã luồn vào tận đây hòng hại ta! Thầy thuốc hiểu ra chính những ân huệ, những của cải vua ban cho ông đã làm cho ông có nhiều kẻ thù, và ông vua yếu đuối đã tin nghe những lời xúc xiểm. Ông hối hận đã chữa khỏi bệnh phong cho vua, song hối hận giờ đây có ích gì. - Vậy bệ hạ thưởng công cho tôi bằng cách ấy ư? Vua không muốn nghe nữa. Một lần nữa vua ra lệnh cho đao phủ khai đao. Thầy thuốc đành phải chuyển sang van xin: - Hỡi ôi, tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy đoái thương cho tôi được sống. Thượng đế sẽ kéo dài tuổi thọ của ngài. Xin chớ bắt tôi phải chết, e rằng Thượng đế cũng sẽ bắt ngài phải chết theo. Vua Hy Lạp đã không xót thương, còn quát: - Không, không, tuyệt đối không, mi phải chết! Nếu không mi sẽ có cách tinh vi để hãm hại ta y như mi đã chữa cho ta khỏi bệnh vậy. Thầy thuốc Đubăng nước mắt như mưa tiếc là mình đã làm ơn cho một kẻ bất nghĩa, và đành chịu chết. Đao phủ bịt mắt, trói tay ông và sắp sửa rút dao. Các triều thần lúc ấy có mặt đều đem lòng thương hại, xúm lại xin tha cho thầy thuốc tội chết. Không những vua không lay chuyển, mà còn cất lời trách mắng họ nặng nề, đến nỗi không ai dám nói nữa. Thầy thuốc bị bịt mắt, quỳ gối, sẵn sàng chờ lưỡi đao oan nghiệt nhưng vẫn cố gắng một lần cuối cùng: - Bệ hạ đã bắt tôi phải chết thì ít ra ngài cũng cho tôi được phép quay về nhà sửa soạn phần mộ, vĩnh biệt gia đình, chia của làm phúc, và giao phó các cuốn sách thuốc quý của tôi cho những người biết cách sử dụng. Trong số sách ấy có một cuốn tôi muốn được tặng bệ hạ. Đó là một cuốn sách rất quý, rất đáng được cất giữ trong kho tàng của ngài. - Cuốn sách mà mi nói đó quý ở chỗ nào? – Vua hỏi. - Tâu bệ hạ, vì nó chứa đựng cơ man là điều kỳ lạ. Điều kỳ lạ nhất là sau khi bệ hạ đã sai chém đầu tôi, nếu ngài chịu khó lật đến trang thứ sáu, tìm đọc dòng thứ ba trang bên trái, thì đầu tôi sẽ trả lời tất cả những câu bệ hạ hỏi. Nhà vua tò mò muốn xem sự kỳ lạ dường ấy, liền cho hoãn việc hành quyết sang ngày hôm sau. Khi thầy thuốc được trở về nhà, có lính tráng theo kèm riết. Thầy thuốc nhân dịp ấy xếp đặt công việc của mình. Tin đồn sắp xảy ra điều kỳ diệu sau khi thầy thuốc chết lan truyền rộng rãi. Tất cả văn võ bá quan trong triều kéo đến chật điện triều để được chứng kiến. Chẳng mấy chốc thầy thuốc xuất hiện. Ông cầm ở tay một cuốn sách lớn và tiến tới sát chân vua. Ông bảo mang ra một cái chậu, lót một tấm vải lên trên, rồi đặt vào. Đưa sách cho vua, ông nói: - Xin bệ hạ hãy cầm lấy cuốn sách này. Sau khi đầu tôi bị chặt, xin bệ hạ hãy sai mang đến đặt vào chậu, lên bìa cuốn sách này. Đặt đầu tôi vào đấy rồi, máu sẽ ngừng chảy. Bệ hạ sẽ mở sách và đầu của tôi sẽ trả lời những câu bệ hạ hỏi. Nhưng tâu bệ hạ, – ông nói thêm – cho phép tôi van xin lòng khoan dung của ngài. Nhân danh Thượng đế, tôi xin khiếu nại là tôi vô tội. - Mi có van xin cũng vô ích thôi. – Vua đáp. – cho dù chỉ để nghe cái đầu của mi nói sau khi chết mà thôi, ta cũng đã muốn rằng mi phải chết. Nói đến đây, vua đón nhận cuốn sách từ tay thầy thuốc và truyền cho đao phủ hãy làm phận sự. Đao phủ khai đao một cách tài tình đến nỗi cái đầu rơi đúng vào chậu. Đầu được đặt ngay ngắn lên bìa cuốn sách, máu bỗng ngừng chảy. Thế là giữa sự kinh ngạc cực kỳ của nhà vua và tất cả những người chứng kiến, cái đầu mở mắt và cất lời: - Tâu bệ hạ, xin hãy lật sách! Nhà vua mở sách. Thấy các trang giấy dính vào nhau, để dễ lật, vua đưa ngón tay thấm nước bọt. Lật đến trang thứ sáu. Không thấy có chữ, vua hỏi: - Thầy thuốc à, nào có thấy gì đâu? Cái đầu đáp: - Xin hãy lật thêm mấy trang nữa! Vua tiếp tục lật sách, mỗi lần lật một trang lại thấm nước bọt. Cho đến khi chất độc ở các trang sách thấm vào người, vua bỗng cảm thấy bị chấn động, mặt mũi tối sầm, rồi lăn đùng xuống dưới chân ngai, chân tay co quắp. Khi thầy thuốc Đubăng, hay đúng hơn là cái đầu của ông ta thấy thuốc đã ngấm đủ và nhà vua chỉ còn sống chốc lát nữa mà thôi, liền thốt lên: - Hỡi tên bạo chúa, những vua chúa nào lợi dụng quyền uy làm hại người vô tội đều bị trừng phạt như vậy đó. Sớm hay muộn, Thượng đế cũng sẽ trừng phạt họ. Cái đầu vừa dứt lời, nhà vua tắt thở, và cái đầu cũng hết luôn chút sống còn. Người đánh cá kể câu chuyện về vua Hy Lạp và thầy thuốc Đubăng cho hung thần – mà ông vẫn nhốt chặt trong lọ – nghe đến đây thì nói tiếp: - Nếu nhà vua Hy Lạp để cho thầy thuốc được sống, Thượng đế cũng để cho nhà vua được sống, nhưng vì vua đã bác mọi lời van xin nên Thượng đế đã trừng phạt. Mày cũng vậy, hỡi hung thần! Giá như vừa rồi mày chấp nhận cho điều ta cầu xin, thì giờ đây có lẽ ta sẽ thương hại cho tình cảnh của mày. Nhưng, bởi vì bất chấp cái ơn cực kỳ cao cả là ta đã giải thoát cho mày mà mày vẫn cứ một mực đòi giết ta, vậy thì đến lượt ta, ta cũng không chút xót thương. Ta sẽ cứ để cho mày bị nhốt trong lọ này. Ta ném mày xuống biển, để cho mày không được sống cho đến ngày tận thế. Đó chính là sự trả thù mà ta định đối xử với mày đấy, hung thần à. - Hỡi người ngư phủ bạn thân thiết của ta ơi, – hung thần đáp – một lần nữa ta van xin bác chớ nên hành động tàn ác như vậy. Bác nên nghĩ rằng trả thù là không đôn hậu đâu, ngược lại lấy ân báo oán mới thật là đáng khen. - Không, ta sẽ không giải thoát cho mày đâu. Lý lẽ quá nhiều rồi. Ta sắp tống khứ mày xuống đáy biển đây. – Lão đánh cá nói. - Bác ngư phủ ơi, – hung thần kêu lên – hãy gượm, cho ta nói thêm một lời: ta xin hứa sẽ không làm gì hại đến bác; hơn nữa, khác xa điều đó, ta sẽ còn bày cho bác một cách để mà trở nên cực kỳ giàu có nữa. Niềm hy vọng thoát khỏi cảnh nghèo túng làm cho lão đánh cá xiêu xiêu. Lão nói: - Ta có thể nghe, thử xem lời mày nói có thể lọt tai ta không. Hãy thề trước Thượng đế rằng mày sẽ giữ lấy lời thì ta sẽ mở cái lọ cho mày ra. Ta không tin mày to gan đến nỗi dám làm trái lời nguyền thiêng liêng trước Thượng đế. Hung thần chịu thề, người đánh cá liền mở nắp lọ. Lập tức khói tuôn ra, và hung thần sau khi đã lấy lại nguyên hình vẫn theo như cách thức trước, việc đầu tiên là đưa chân đá tung cái lọ xuống biển. Hành động đó làm người đánh cá phát hoảng: “Này thần linh, thế là thế nào? Ngài không muốn giữ trọn lời thề lúc nãy hay sao? Lão có cần nhắc lại câu mà thầy thuốc Đubăng từng nói với nhà vua Hy Lạp xưa: “Hãy để cho tôi sống, Thượng đế sẽ kéo dài tuổi thọ của ngài”? Sự hoảng hốt của người đánh cá làm hung thần bật cười: “Không, lão ạ, lão hãy yên tâm. Ta hất cái lọ đi cho vui thôi và cũng để thử xem lão có phát hoảng lên hay không. Để cho lão tin chắc là ta muốn giữ trọn lời hứa, lão hãy vác lưới đi theo ta.” Vừa nói hung thần vừa đi lên trước. Người đánh cá vác lưới theo sau, trong bụng vẫn nửa tin nửa ngờ. Họ đi ngang qua ngoài rìa thành phố, trèo lên một ngọn núi rồi từ đấy đổ xuống một đồng bằng rộng dẫn tới một cái đầm lớn nằm lọt giữa bốn quả đồi. Đến bờ đầm, hung thần bảo lão đánh cá: “Lão hãy buông lưới đi, rồi bắt lấy cá.” Người ngư phủ tin chắc mình sẽ đánh được cá bởi vì mắt nhìn thấy có vô số cá trong đầm. Song điều làm cho lão cực kỳ ngạc nhiên là các con cá bốn màu sắc khác nhau: trắng, đỏ, xanh, vàng. Lão tung lưới và bắt lên bốn con, mỗi con một màu. chưa hề nhìn thấy những con cá như vậy bao giờ, lão ngắm nghía không biết chán. Bụng nghĩ rằng sẽ có thể bán lấy một món tiền đáng kể đây, lão rất vui mừng. Hung thần nói: “Hãy mang những con cá này đến dâng hoàng đế, ngài sẽ cho lão nhiều tiền hơn số tiền lão kiếm được trong suốt cuộc đời. Ngày nào lão cũng có thể đến đánh cá ở đây, song ta báo cho biết trước, là mỗi ngày chỉ được buông lưới một lần thôi. Làm khác đi là mang họa vào thân đấy, lão cần nhớ kỹ. Đấy là lời khuyên. Nếu thực hiện đúng thì lão sẽ thấy nó nhiệm màu.” Nói xong, thần giậm chân, mặt đất liền nứt và khép lại ngay sau khi nuốt chửng thần. Lão đánh cá nhất quyết thực hiện đúng mọi điều khuyên răn của thần linh, cho nên không buông lưới lần nữa. Lão trở lại kinh thành, khá bằng lòng với mẻ cá. Lão suy nghĩ miên man về những việc vừa xảy ra. Lão đi thẳng đến hoàng cung để dâng cá lên cho hoàng đế. Bệ hạ thử tưởng tượng[20]sự ngạc nhiên của nhà vua khi nhìn thấy bốn con cá mà người ngư phủ hiến dâng. Người bắt từng con cá lên xem xét một cách chăm chú. Sau khi ngắm nghía hồi lâu, nhà vua truyền cho tể tướng: “Khanh hãy mang những con cá này đến cho con đầu bếp khéo tay mà hoàng đế Hy Lạp gửi đến biếu ta. Ta nghĩ rằng những con cá đẹp mã như thế này chắc ăn sẽ ngon.” Tể tướng thân hành mang cá đến đưa tận tay chị đầu bếp và dặn: “Đây là bốn con cá có người vừa mang đến dâng hoàng đế. Người ra lệnh cho mày nấu để Người dùng.” Làm xong công việc được giao, tể tướng quay trở lại. Hoàng đế lại sai ông ta giao cho ông đánh cá bốn trăm đồng vàng. Vị đại thần làm ngay rất chu đáo. Lão đánh cá chưa bao giờ có một lúc trong tay một món tiền to như vậy, bàng hoàng trước niềm hạnh phúc, tưởng như mình đang trong giấc mơ. Nhưng lão hiểu ra ngay đây là thực chứ không phải trong mơ, lão có thể dùng món tiền này để chi dùng cho gia đình. Xin trở lại người đầu bếp của nhà vua. Chị ta đang trong tình cảnh vô cùng bối rối. Thoạt tiên chị rửa sạch những con cá tể tướng vừa mang lại, bỏ vào chảo đã cho dầu và đặt lên lò để rán. Đến chừng cho rằng cá đã chín một mặt, chị lật sang mặt kia. Nhưng kỳ lạ biết bao! Vừa lật những con cá lại thì tường nhà bếp tự dưng mở ra. Từ đó bước ra một cô nương trẻ tuổi xinh đẹp tuyệt trần và hình dáng thanh tú. Nàng bận một chiếc áo xatanh hoa, kiểu Ai Cập, tai đeo hoa, ở cổ là một chuỗi ngọc, tay cầm một chiếc đũa bằng gỗ sim. Nàng đến cạnh cái chảo, và trước sự ngạc nhiên của chị đầu bếp đang đứng im như phỗng, nàng đưa đầu gậy gõ vào đầu một con cá mà nói: “Này cá, này cá, mi có bổn phận phải không?” Cá không trả lời. Nàng nhắc lại câu hỏi. Thế là cùng một lúc bốn con cá ngẩng đầu lên và cùng nói rành mạch: “Vâng, vâng, nếu các ngài đếm thì chúng tôi đếm; nếu các ngài trả nợ của các ngài thì chúng tôi trả nợ của chúng tôi; nếu các ngài chạy trốn thì chúng tôi thắng và chúng tôi lấy làm hài lòng.” Bốn con cá nói xong, cô nương trẻ tuổi liền hất đổ cái chảo và quay lại chỗ bức tường mở ra lúc nãy. Tường khép lại ngay, trở lại nguyên hình cũ. Khi chị bếp khiếp đảm vì bấy nhiêu điều kỳ lạ, tỉnh ra khỏi nỗi kinh hoàng và đi nhặt những con cá rơi trên lửa, thì tất cả đều đã cháy, đen hơn cả than, không còn có thể dâng lên nhà vua được nữa. Chị ta hết sức đau khổ và bắt đầu lên tiếng khóc gào: “Than ôi! Thân tôi rồi sẽ ra sao? Dù tôi kể lại cho hoàng đế nghe những điều tôi vừa thấy, cầm chắc Người cũng chẳng tin nào, và cơn thịnh nộ của Người đối với tôi sẽ ghê gớm đến đâu!” Chị ta đang rầu rĩ như vậy thì tể tướng bước vào, hỏi cá đã nấu xong chưa. Chị thuật lại tất cả những gì vừa xảy ra. Chúng ta cũng có thể hiểu được, câu chuyện ấy làm cho tể tướng ngạc nhiên đến chừng nào. Nhưng ông không hề tâu sự thật với hoàng đế mà lại bịa ra một lý do nào đó cũng lọt được tai Người. Đồng thời ông sai người đi gọi lão đánh cá đến ngay lập tức. Khi lão đến, ông bảo: “Này lão đánh cá kia, hãy mang đến cho ta bốn con cá khác giống như những con cá hôm qua lão mang đến đây, vì việc không may xảy ra làm cho những con cá hôm qua không dâng lên hoàng đế được.” Lão đánh cá không nói ra điều hung thần căn dặn nhưng để khỏi phải nộp cá ngay trong ngày hôm đó lão tả sự đường sá xa xôi và xin khất để sớm mai sẽ mang cá đến nộp đủ. Lão đánh cá vội vã đi ngay trong đêm đến ven đầm. Lão tung lưới kéo lên và lại bắt được đúng bốn con cá, mỗi con một màu khác nhau, y hệt như lần trước. Lão liền quay trở về và mang đến ngay cho tể tướng, kịp thời hạn đã hứa. Vị đại thần nhận cá và cũng thân hành mang đến cho nhà bếp. Rồi một mình ông ở lại cùng chị bếp. Chị ta bắt đầu mổ cá ngay trước mặt tể tướng rồi đặt lên lò đúng như cách thức chị làm bốn con cá ngày hôm qua. Khi rán đã chín mặt này, chị lật để rán mặt kia, thì tường nhà bếp tự dưng lại mở ra, và cũng chính cô nương ấy xuất hiện, tay cầm chiếc đũa. Nàng đến cạnh cái chảo, gõ vào một con cá và nói lên những lời y như ngày hôm trước; tất cả các con cá đều ngẩng đầu và trả lời đúng những câu đã nói. Bốn con cá trả lời xong, cô nương trẻ lại dùng đũa hất đổ cái chảo, rồi lại trở về đúng chỗ bức tường vừa mở ra để cho nàng xuất hiện. Tể tướng chứng kiến tất cả những cảnh đó. “Kỳ dị quá, khác thường quá, không thể nào giấu hoàng đế được. – Ông nói. – Ta phải đến tâu ngay cho Người rõ điều kỳ lạ này.” Nói xong ông đi tìm nhà vua ngay và kể lại cho vua nghe một cách trung thực câu chuyện vừa rồi. Hoàng đế rất đỗi ngạc nhiên, và nôn nóng muốn tự mắt mình thấy ngay điều kỳ diệu đó. Vì vậy, nhà vua sai đi tìm người đánh cá đến và phán: “Này lão kia, lão có thể lại mang đến cho ta thêm bốn con cá bốn màu khác nhau nữa hay không?” Lão đánh cá tâu: “Nếu hoàng đế rộng lòng cho hạn trong ba ngày thì lão xin hứa sẽ làm vừa lòng Người.” Nhà vua chấp thuận. Lão lại đến cái đầm lần thứ ba và lần này cũng may mắn không kém hai lần trước. Ngay từ mẻ lưới đầu tiên, lão bắt được bốn con cá khác nhau. Lão không quên mang đến ngay lập tức cho hoàng đế. Nhà vua rất hài lòng vì không nghĩ là sớm có được cá đến thế, liền hạ lệnh ban cho lão thêm bốn trăm đồng vàng. Vừa có cá, lập tức nhà vua sai mang đến ngay phòng làm việc của mình tất cả những thứ cần thiết cho việc nấu nướng. Hoàng đế và tể tướng đóng chặt cửa lại. Vị đại thần làm cá, cho vào chảo bắc lên bếp, rồi khi cá chín mặt này, tể tướng lật sang rán mặt kia. Thế là tường phòng làm việc nứt đôi. Nhưng lần này không phải là cô nương trẻ tuổi mà là một tên da đen bước ra. Tên da đen mặc quần áo nô lệ, người cực kỳ cao to, tay cầm một chiếc gậy lớn màu lục. Nó tiến đến cạnh cái chảo bắc trên bếp, đưa gậy gõ vào một con cá, và nói giọng dữ tợn: “Này cá, này cá, mi có làm bổn phận không?” Nghe hỏi, các con cá cùng ngẩng đầu lên và đáp: “Vâng, vâng, chúng tôi đang làm bổn phận. Nếu các ngài đếm thì chúng tôi cũng đếm; nếu các ngài trả nợ của các ngài thì chúng tôi trả nợ của chúng tôi; nếu các ngài chạy trốn thì chúng tôi thắng, và chúng tôi rất lấy làm hài lòng.” Các con cá chưa nói dứt lời, tên da đen đã đánh đổ cái chảo giữa phòng làm việc, làm cho cá cháy thành than. Làm xong, nó ngạo nghễ rút lui, trở lại chỗ bức tường mở ra lúc nãy, và bức tường khép lại y nguyên như cũ. Nhà vua bảo tể tướng: “Sau khi đã nhìn thấy những việc vừa rồi, đầu óc ta không thể nào thanh thản được. chắc chắn những con cá này nói lên một điều gì đó dị thường mà ta muốn làm sáng tỏ.” Nhà vua sai người đi tìm lão đánh cá, người ta dẫn lão đến. Nhà vua nói: “Này lão đánh cá, những con cá ngươi mang đến gây cho ta lắm nỗi băn khoăn. Ngươi bắt những con cá ấy ở đâu?”