🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nghề Viết Văn Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Tên sách: Nghề Viết Văn Tác giả: Nguyễn Hiến Lê Nhà in HỒNG LAM 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm Saigon Số trang: 222 Đánh máy: Patimiha, mopie, minhf@yahoo, ganbunma, thao nguyen, chip_mars Soát lỗi: vqsvietnam Ebook này được thực hiện theo dự án “SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG” của diễn đàn TVE-4U.ORG https://thuviensach.vn Mục lục PHẦN THỨ NHỨT Nghề viết văn hiện nay CHƯƠNG I VIẾT VĂN LÀ MỘT NGHỀ CHƯƠNG II NGHỀ VIẾT VĂN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY CHƯƠNG III NHỮNG ĐIỀU-KIỆN ĐỂ THÀNH-CÔNG CHƯƠNG IV VĂN-NHÂN TRONG XÃ-HỘI PHẦN THỨ NHÌ VIẾT VĂN CHƯƠNG I THỜI – KỲ DỰ - BỊ CHƯƠNG II TỔ CHỨC ĐỜI SỐNG CHƯƠNG III VẤN-ĐỀ NGUYÊN TẮC CHƯƠNG IV TÌM Ý CHƯƠNG V VIẾT CHƯƠNG VI TRÌNH – BÀY TÁC – PHẨM PHẦN THỨ BA… rồi bán CHƯƠNG 1 BÁN CHO NHÀ BÁO VÀ NHÀ XUẤT BẢN CHƯƠNG I TỜ GIAO KÈO NHƯỢNG BẢN QUYỀN CHƯƠNG III TÁC-GIẢ TỰ XUẤT-BẢN CHƯƠNG IV TÂM LÝ ĐỘC GIẢ CHƯƠNG V LỜI PHÊ BÌNH CỦA ĐỘC GIẢ https://thuviensach.vn Thay lời tựa BỨC THƯ GỬI MỘT BẠN TRẺ YÊU VĂN Em X, Em còn nhớ không? Cách đây hai năm, một buổi chiều hè, em lại thăm tôi. Nghe tiếng gõ cửa nhè-nhẹ, tôi hô: “Vô đi”, rồi viết tiếp cho hết một câu trong bài tựa một cuốn sách. Khi đặt bút, quay lại thì em đã đứng ở sau lưng tôi mà tôi không biết. Nhớ hôm đó, nhìn chiếc bàn xinh-xinh của tôi, trên đặt bình bông hồng, em tươi cười hỏi: - Sống đời viết văn như ông, chắc thú lắm? Và tôi đáp: - Nghề nào cũng có cái vui, nếu không thì làm sao theo đuổi được; nhưng tôi tưởng nghề viết văn là một trong những nghề thích nhất mà cũng cực nhất. Rồi câu chuyện tiếp tục về nghề cầm bút. Em tò-mò hỏi tôi về cách viết, việc bán, việc in, về đời sống của một vài nhà văn, về cảm-tình và thư-từ của độc-giả… Một giờ sau, khi em cáo biệt, tôi đưa em tới sân và cảm ơn em vì em đã làm cho tôi bâng-khuâng nhớ lại tuổi xuân: cũng như em bây giờ, tôi ngày xưa rất muốn biết ít nhiều về đời tư các văn-nhân và ước-ao được sống bằng cây viết. Em ạ, hai mươi tám năm về trước, mỗi ngày bốn lần tôi cắp sách đi ngang biệt-thự của cụ Nguyễn văn Vĩnh, một ngôi nhà trông ra Hồ Tây có hàng rào tầm-xuân ở trước mặt. Nhiều lần tôi gặp cụ bận bộ âu-phục ca-ki, lái một chiếc xe máy dầu, chạy xuôi đường Quan-thánh, và khi xe đã chạy qua, tôi thường quay lại ngó cụ. Lại những buổi chiều hè, ngồi dưới gốc đa trên đường Cổ-ngư, nhìn ba ngọn núi Tản uy-nghi, xanh thẳm, tôi cùng vài bạn cao hứng ngậm câu: https://thuviensach.vn Nhập thế-cục bất khả vô văn-tự. … mà cùng hẹn với nhau sau nầy sẽ phải lưu lại cái gì “bất khả vô” đó cho đời. Những lúc ấy, lòng tôi thấy sôi-nổi lắm, tưởng như sắp thành Nguyễn Công Trứ, Tô Đông Pha cả rồi. Tuổi xanh ngông thật! Em cười ư? Chắc em cũng cùng tâm-lý ấy? Ngoài cái lẽ tôi mới nói, tôi còn cám ơn em vì nhờ những câu hỏi của em tôi mới biết tự kiểm-soát lại tư-tưởng cùng cách làm việc, rồi suy-nghĩ để nhận rõ những bổn-phận cùng quyền-lợi của tôi, và sau cùng tôi lại ra công soạn cuốn này hầu giúp những bạn trẻ nào sắp bước vào nghề viết văn có sẵn tài-liệu để quyết-định. Hôm nay sách đã viết xong. Tôi biết còn thiếu nhiều, có những vấn-đề như Sự kiểm-duyệt sách báo, Nhà văn với nhà cầm quyền… mà tôi chưa thể đem ra bàn được, hoặc chỉ mới bàn qua. Nhưng chắc em đã hiểu tại sao mà không bắt lỗi tôi chứ? Còn như đại-loại những câu hôm đó em hỏi tôi thì ở đây tôi đã trả lời đủ và tôi mong rằng cuốn sách nầy cũng có thể làm cho em gần được thoả-mãn. Nhờ có em tôi mới viết nó, thì xin em giữ lấy nó làm kỷ-niệm. Gọi là một chút duyên văn. Sài-gòn ngày 17 tháng 9 năm 1955 NGUYỄN-HIẾN-LÊ Chú thích khi tái bản (1968). Trong cuốn này tôi chỉ xét về Nghề viết văn, còn về Nhiệm vụ nhà văn ở thời chúng ta thì xin Độc giả coi cuốn Mấy vấn đề xây dựng văn hoá của tôi, do nhà Tao Đàn xuất bản đầu năm 1968. https://thuviensach.vn PHẦN THỨ NHỨT Nghề viết văn hiện nay https://thuviensach.vn CHƯƠNG I VIẾT VĂN LÀ MỘT NGHỀ Viết một cuốn sách là làm một nghề cũng như chế tạo một cái đồng hồ. LA BRUYÈRE Một anh bạn tôi, thấy tôi viết cuốn nầy, mỉm cười hỏi: - Viết văn mà cũng là một nghề ư? Tôi cũng mỉm cười, đáp: - Anh chưa nói hết ý, song tôi đã đoán được. Có phải anh cho viết là truyền bá tư tưởng, giải bầy nỗi lòng của mình; nếu viết văn là một nghề chẳng hoá ra nghĩ đến việc đem bán cái tâm tư là đáng quý nhất trong con người để cầu sự ấm no cho xác thể?... Nếu quả anh nghĩ vậy thì tôi xin hỏi lại anh: dạy học như anh bây giờ và tôi hồi trước cũng là đem bán những hiểu biết, tư tưởng – cả lòng yêu trẻ nữa – để lấy một số lương, vậy thì tại sao dạy học anh nhận là một nghề mà viết văn thì anh lại không chịu nhận? Anh bạn tôi đó không phải là người độc nhất nghĩ lầm như vậy đâu. Trong xã hội chúng ta hiện nay, mười người chắc có sáu bảy người còn giữ cái thiên kiến ấy. Họ cho viết văn không phải là một nghề vì nghề đó còn mới mẻ ở nước ta quá: từ cuối thế kỷ 19 trở về trước, ông cha ta tuyệt nhiên không hề nghe nói đến nghề viết văn và nghề nầy chỉ xuất hiện vào hồi mà Nguyễn văn Vĩnh, Tản Đà, Phạm Quỳnh bắt đầu sinh nhai bằng ngòi bút viết báo. Thời xưa, các cụ ta làm thơ, làm phú, viết truyện ngắn, truyện dài, soạn Sử ký, Địa lý…, đều là để tiêu khiển hoặc giúp đời, cầu danh, chứ không khi nào nghĩ tới tiền. Viết xong một tác phẩm, các cụ chép tay lại, gởi cho bạn bè đọc. Con cháu hoặc môn sinh thấy sách hay, góp nhau, kẻ vài quan, người dăm tiền, thuê thợ khắc lên gỗ quý. Thợ khắc xong, các cụ cho in ít chục, ít trăm bản gởi tặng bè bạn, bà con. Người lạ muốn có một bản thì cứ mang giấy mực lại, https://thuviensach.vn người giữ bản khắc sẵn lòng cho phép in hoặc nếu nhờ họ in thì họ tính tiền công rất nhẹ. Họ thấy có một cái vinh dự được truyền bá tác phẩm và vinh dự đó đủ làm cho họ thoả mãn, làm công việc đó chỉ mong trả ơn ông cha hoặc thầy học, hoàn toàn vì tình chứ không vì lợi. Còn nói về những cửa hàng chuyên bán sách như những cửa hàng ở phố hàng Gai, Hà nội hồi xưa, thì hễ thấy một cuốn nào đó nhiều người hỏi, họ liền kiếm một bản in, nhờ một nhà nho duyệt qua lại, rồi tự tiện mướn thợ khắc, không cần xin phép tác giả. Tác giả chẳng những cho vậy là tự nhiên mà còn lấy làm vinh hạnh được một hiệu sách in sách mình. Tóm lại, một tác phẩm ngay từ khi chép hoặc in xong để truyền bá trong dân chúng thì là đã thành ngay của công rồi. Ai in lại cũng được, ai bán cũng được, thậm chí đến ai muốn tự ý sửa chữa, thêm bớt ra sao cũng được! Vì vậy mà mỗi tác phẩm có nhiều bản không giống nhau, như Truyện Kiều có đến năm, sáu bản in, bản của họ Nguyễn, bản in ở Kinh, bản in ở Hà Nội, bản của hiệu sách nầy, bản của hiệu sách khác. Tình trạng đó thật đã có hại cho văn học. Hại thứ nhất là văn học phát triển không mạnh. Viết văn đã không phải là một nghề, nghĩa là tác giả đã không có chút quyền lợi vật chất gì cả thì viết chỉ còn là để tiêu khiển, dầu phẩm vẫn cao mà lượng tất nhiên phải kém. Chúng ta thử tưởng tượng nếu Victor Hugo cũng chỉ vì danh hay hứng mà viết thì tác phẩm của ông có được tới số trăm như vậy không? Và nếu Honoré de Balzac không được các nhà xuất bản trả một xu nhỏ nào thì bộ Hài-kịch của nhân loại (La comédie humaine) có ra đời được chăng? Cả thế kỷ trước, nước nhà xuất bản may lắm thì được trăm bộ còn Pháp thì hàng ức bộ, nguyên nhân chánh là các cụ cho viêt văn không phải là một nghề. https://thuviensach.vn Hại thứ nhì là do cái nạn ai in lại cũng được, ai sửa chữa cũng được, không cần cho tác giả hay, mà có nhiều tác phẩm vừa mới ra đời được vài chục năm đã sai hẳn nguyên văn; khiến cho hậu thế muốn nghiên cứu về xã hội thời đó, đành phải lúng túng, không biết căn cứ vào đâu, dẫu tốn rất nhiều công phu cũng khó tìm ra được sự thực. Những hại đó, người phương Tây sớm tránh được, nhờ họ sớm nhận viết văn là một nghề. Thế kỷ 17 tại Pháp, La Fontaine bán cuốn Psyché cho nhà xuất bản Barbin lấy hai trăm đồng tiền vàng, Molière bán kịch Tartuffe cho nhà xuất bản Ribou được hai ngàn quan. Từ đó về sau, các đại văn hào như Diderot, Balzac, Vigny, Lamartine, Hugo… đã chẳng lấy sự bán văn làm ngượng mà còn kịch liệt tranh giành mọi quyền lợi cho người cầm bút. Tới năm 1886, hơn bốn chục nước đã ký chung một hiệp ước ở Berne (Kinh đô Thuỵ sĩ) để che chở văn nhân và quy định rõ ràng quyền tác giả. Vậy khắp thế giới đã công nhận viết văn là một nghề và chúng ta cũng đừng ngạc nhiên khi thấy những cuốn sách dạy cách viết văn để bán lấy tiền, như: - Writing for love or for money (Viết vì thích hoặc vì tiền) – Nhà xuất bản Norman Cousins. - Writing and selling (Viết và bán) của Patterson. Một văn sĩ Mỹ đã nói: “Một nhà văn có tài phải là một người có tài bán tác phẩm”. Một quan niệm như vậy có kẻ cho là không cao thượng nhưng quả là thực tế: nó có thể giúp một số nhà văn đỡ đói rét để kiên nhẫn theo đuổi nghệ thuật, và trước hết nó giúp cho độc giả có sách để đọc vì một tác phẩm mà không bán được, không in được thì chưa phải là một tác phẩm. Cái nghề đó thật là “kỳ cục” đúng như thi hào P. Valéry đã nói. Làm nghề hớt tóc, bạn phải sắm ít nhất một cái tông-đơ, hai con dao cạo, một cái gương, vài cái lược, rồi khăn lau, khăn quàng, dầu https://thuviensach.vn thơm, bàn chải…; làm nghề thợ mộc phải có cưa, có đục, có bào, có thước…; còn viết văn thì chỉ cần một cây viết, một tập giấy, hai thứ mà người nào chẳng có sẵn trong nhà? Chẳng cần có bằng cấp như nghề bán thuộc, nghề giáo-sư, nghề đánh máy, hoặc ít nhất cũng có một sổ thợ chứng nhận rằng ta đã tập sự ở đâu, làm những công việc gì, như nghề thợ điện, thợ sắt, ta cũng vẫn được cửa văn đàn mở rộng tiếp đón. Ai tự xét đủ sức xông pha với cây viết thì đấy, cứ tiến. Thực dễ quá, dễ đến nỗi Vũ Bằng đã mai mỉa: “Thi đíp-lôm không đậu thì viết văn. Lấy không được chồng, chán đời cũng viết văn. Rồi thì mười sáu, mười bẩy tuổi đầu, chưa biết đời là gì hết, cũng viết văn nữa – mà viết rất nhiều là khác (…), viết xong là để đấy, hay có người không viết gì hết, nhưng cứ tự nhận là người văn nghệ”[1]. Đã dễ mà lại có vẻ nhàn và tự do. Nhàn, vâng, nhàn lắm, nhàn đến nỗi người ta thường lầm nhà văn với nhà … thất nghiệp. Không cần nói đến các văn sĩ “vui vẻ trẻ trung” hồi 1930 – 1939, suốt ngày đêm la cà ở quán rượu, “hộp đêm” dắt díu nhau dạo hết ba mươi sáu phố phường Hà-nội, rồi khi nào chán lang thang mới đóng cửa trong vài tuần để “đẻ” ra một tác phẩm; hãy nói ngay như các văn hào bực nhất ở Pháp, Anh như A. France, A. Maurois, G. Duhamel, A.J. Cronin, Somerset Maugham chẳng hạn, mấy ông nầy nổi tiếng trứ tác nhiều, mà làm việc cũng thong thả lắm, cứ viết độ năm, sáu tháng lại nghỉ chơi năm, sáu tháng hoặc viết buổi sáng thì nghỉ buổi chiều. Có nghề gì được thảnh thơi như vậy không? Tuy nhiên, đó chỉ là bề ngoài. Thực ra một nhà văn yêu nghề và biết tự trọng, thì thân nhàn mà tâm bất nhàn. Những lúc ta tưởng họ nghỉ ngơi, như khi đi dạo mát, đi du-lịch, la cà trong tiệm sách, trò chuyện trong bữa tiệc, họ cũng thường nhận xét, suy nghĩ rồi ghi chép để dùng làm tài liệu cho cuốn sách mà họ sẽ viết; bao giờ họ cũng “thai nghén” hai ba tác phẩm ở trong đầu. https://thuviensach.vn Vậy, nhàn thì nghề viết văn chưa hẳn đã là nhàn; còn tự do, tự do trong phương tiện làm việc, thì nghề ấy cũng chưa chắc đã được tự do. Đành rằng nhà văn không phải tới hãng đúng giờ; thức suốt đêm cũng được mà ngủ trọn ngày cũng được, lúc nào cao hứng mới viết; nhưng nếu không kể những nhà văn “tài tử”, thì một khi đã sống nhờ cây viết, người ta làm sao khỏi chịu nhiều bó buộc, chẳng hạn như bị nhà xuất bản hay nhà báo sai người đến thúc bài một ngày ba bốn phen, cấp bách tưởng như họ muốn đòi phá bể ruột tằm ra. Một anh bạn tôi đã phải viết tới hai giờ khuya rồi bắt vợ dậy chép bản thảo từ năm giờ sáng để sách ra cho kịp thời. Thì “tài tử” ai bằng Tản Đà, có lần bị Diệp văn Kỳ giục ba bốn lần, đến nỗi phát gắt lên: “Làm thơ chứ phải mổ lợn đâu mà đúng giờ được?” mà rồi cũng phải rán viết để khỏi phải nghe bên tai những lời lải nhải, eo xèo. Đến như muốn viết gì tuỳ ý thì đó chỉ là mộng tưởng của nhà văn. Tình cảnh nhà văn hồi 1784 mà Beaumarchais đã mượn lời Figaro một vai chánh trong kịch của ông để mô tả như sau, hiện nay vẫn chưa thay đổi lắm: “Người ta cho tôi biết rằng trong lúc tôi về vườn, thì ở kinh thành Madrid mới ban hành một chế độ tự do thương mại về các sản vật; chế độ ấy đã thi hành cả trong phạm vi ấn loát nữa; và miễn là trong công cuộc trước thuật, tôi đừng nói gì can phạm đến quyền chính, đến tôn giáo, đến chính-trị, đến luân-lý, đến các nhà đương-đạo, đến các cơ-quan thế-lực, đến nhà Opéra, đến tất cả mọi hí viện khác, đến một người nào có tí địa-vị, thì tôi được tự-do muốn in gì thì in, sau khi hai ba nhà kiểm-duyệt đã xem-xét rồi”[2] Quyền tự-do của bạn không phải chỉ bị hạn-chế như vậy mà thôi đâu. Sách viết ra để bán, và không nhiều thì ít, bạn phải chiều thị hiếu của người mua, nghĩa là của nhà xuất-bản. Mười nhà xuất-bản thì sáu, bảy nhà coi nhà văn như những con ngựa đua của họ và mười nhà văn chân-chính thì chín nhà phàn-nàn: “Tôi chưa xuất-bản được cuốn nào thực như ý tôi cả”. Âu là ta cũng đừng nên vội nói đến sự tự-do của nghề cầm bút! https://thuviensach.vn Người ta bảo tài-hoa thường mệnh bạc; nhưng tôi nghĩ không phải người ta mệnh bạc vì tài-hoa mà chỉ bởi quá dùng tài của mình cho nên chết yểu. Tôi không bạo miệng nói như Proudhon rằng nghề viết văn là nghề ghê sợ nhất; nhưng nghe John Burroughs bảo nghề đó “làm cho đầu bạn thì nóng, chân bạn thì lạnh, và sự tiêu-hoá các thức ăn phải ngưng-trệ”, thì cứ theo sự nhận xét riêng của tôi, tôi thấy Burroughs không nói ngoa: hai bạn văn thân của tôi đều đau gan, còn tôi sáu năm nay bị bệnh đau bao-tử. Romain Rolland, tác-giả bộ tiểu-thuyết trường-giang Jean Christophe, viết thư cho bạn là Louis Gillet: “… mỗi một cuốn trong bộ Christophe làm cho tóc tôi bạc đi nhiều (nói cho đúng thì làm tôi mất đi nhiều tóc); tất cả những cuộc khủng-hoảng của nhân-vật của tôi làm cho tôi điên-đảo cũng như người trong truyện, mà có phần hơn nữa, vì thể-chất tôi không mạnh bằng!” Tchékov mượn lời một nhân-vật trong một truyện ngắn để tả nỗi đau khổ trong công-việc sáng-tác: “Ngày đêm, một tư-tưởng theo đuổi tôi, thu hết tâm-lực tôi: phải viết, phải viết, cần phải viết. Vì viết xong một truyện, tôi lại thấy cần phải viết một truyện khác rồi. Tôi không hiểu vì sao, nhưng tôi viết không ngừng như người phu trạm chạy, và tôi không thể làm khác được (…) Đây này, tôi đứng trước mặt ông, tôi băn-khoăn, trằn trọc và lúc nào tôi cũng nhớ rằng có một cái tiểu-thuyết đang chờ đợi tôi. Tôi nhìn thấy một đám mây trông giống hệt một chiếc dương-cầm và tôi nghĩ rằng phải ghi lại rằng có một đám mây trắng giống như chiếc dương-cầm. Lá kia ngửi như mùi hoa hướng-dương và lập tức, tôi nghĩ ngay đến hoa hướng-dương mùi lạt lạt…” “Nhớ lấy để dùng vào một đoạn tả cảnh mùa hạ”. Tôi rình ông và rình cả tôi nữa, rình từng câu, từng chữ; tôi vội ghi vào trong ký-ức tất cả những câu đó, chữ đó, có lẽ một ngày kia tôi sẽ đem ra dùng. Và khi nào công-việc xong rồi, tôi phải nghỉ-ngơi, quên đi; nhưng ở trong đầu tôi quay lông-lốc một hòn gang, một đề-tài truyện mới, và tôi lại nhẩy sổ đến bàn https://thuviensach.vn viết, và tôi cứ phải viết hấp tấp như thế, và tôi không được nghỉ ngơi lúc nào, đó là tự tôi làm tôi như vậy. Tôi thấy rằng chính mình lại tiêu huỷ đời mình và lấy được mật ong để đem cho những người không quen biết ở khắp bốn phương trời, chính tôi đã lấy hương nhị những bông hoa đẹp nhất của tôi, tôi vò xé, tôi chà đạp gốc rễ của những cây hoa đó. Có phải tôi điên không?”[3]. Như vậy thì làm sao mà chẳng chóng già, chết yểu! Và kẻ đọc xong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn mà bảo: “Tinh thần tác giả trút hết vào trong khúc nầy, vậy không quá ba năm y sẽ chết” đã quả là hiểu rõ cái số mệnh của nghệ sĩ! Mấy nhà bác học Mỹ sau khi phân tích máu của những người đã làm việc năm, sáu giờ liên tiếp bằng tinh thần mà không thấy có chất dơ như máu của những người đã làm việc bằng tay chân, nên đã kết luận rằng làm việc bằng tinh thần không mệt. Tôi cũng muốn tin điều ấy, song hàng tháng, có khi hàng năm, chú ý vào một vấn đề, có bữa còng lưng suốt ngày trên bàn viết thì thể chất có lực lưỡng như Balzac cũng khó mà chẳng sớm thấy ngày suy. Cái điều mệt trí nhất trong nghề đó là nhà văn phải chiến đấu suốt đời. Bạn là giáo sư, soạn bài trong năm đầu rồi những năm sau, nếu cũng vẫn dạy môn đó và lớp đó thì công việc nhẹ đi già nửa. Bạn là y sĩ thì sau mười năm kinh nghiệm, trừ những trường hợp đặc biệt, bạn không cần phải suy nghĩ lung tung cũng đoán ra được bệnh. Nghề cầm bút thì khác hẳn. Mỗi tác phẩm là một công trình mới, phải tìm tòi, trầm tư, sắp ý, lựa tiếng, sửa câu…Mà nếu nhờ quen nghề, bạn viết được dễ dàng hơn thì lại phải tự chống với sự dễ dàng ấy. Luôn luôn bạn phải tìm cách viết hơn người khác và hơn những tác phẩm trước của bạn. Bạn phải chiến đấu với người và với mình, không thể để cho cây bút của bạn “xuống” luôn trong vài ba năm vì một khi nó đã xuống thì tất nhiên bạn sẽ bị độc giả thờ ơ, có khi còn cay nghiệt mỉa mai là khác nữa. https://thuviensach.vn Đời một đào hát, khi về già, chua xót ra sao thì đời một nhà văn khi bị độc giả quên tên cũng não nuột như vậy. Đó là số phận chung của nghệ sĩ. Mà trong các nghệ thuật, văn nghệ có phần bạc bẽo nhất. Tại các nước văn học rất thịnh, độc giả rất đông như nước Pháp, mỗi thời chỉ được dăm ba nhà văn nhờ cây viết mà phong lưu như Voltaire, Victor Hugo, Anatole France…, còn phần đông thì đủ ăn là may. Ở nước nhà, tình cảnh nhà văn tất nhiên còn hắc ám hơn nhiều. Nam Cao sống với một mảnh vườn trầu không; Trần Huyền Trân chui rúc trong một túp lều trên mặt hồ, ngày viết văn, tối đi chiếu phim cho một hãng hát bóng, Thâm Tâm phải đóng sách cho nhà Tân Dân để kiếm thêm tiền độ nhật; Thứ Khanh gia đình năm sáu người chen chúc nhau trong một chiếc ghe dài ba thước và có hồi lại phải ngủ nhờ ở vỉa hè; còn Vũ Trọng Phụng thì thốt một câu chua xót: “Người ta mà được ăn cơm thì sướng thật!” Cơm không đủ ăn, nhà không đủ ở, áo không đủ mặc mà đau lòng nhất là có khi bị chính cha mẹ, vợ con, anh em khinh bỉ nữa. Vì nghề bạc bẽo, nên đâu-đâu vào thời nào cũng thấy nổi lên những lời ta oán nó. Thi-nhân chịu nhiều nỗi đau khổ hơn cả, tỏ giọng uất hận nhất. Như Baudelaire nghiến răng nguyền rủa Trời đã sinh ông làm thi sĩ. J.Leiba muốn khiếp sau được làm tên kéo xe. Còn Hoàng Cảnh Nhân suốt đời cùng khốn, gần như cuồng, ngâm trong một đêm trừ tịch: Nhữ bối hà tri ngô tự hối, Uổng phao tâm sự tác thi nhân, (Bọn trẻ biết đâu ta tự hối, Uổng đem tâm trí để làm thơ) Thi sĩ Paul Scarron nhắc lại nỗi khổ của mình trong những vần dưới đây mà ông bảo người thân khắc lên mộ-chí cho ông. Celui qui y maintenant dort https://thuviensach.vn Fit plus de pitié qu’ envie, Et souffrit mille fois la mort Avant que de perdre la vie. Passant ne fais ici de bruit; Garde bien que tu ne l’eveille Car voice la première nuit Que le pauvre Scarron sommeille (Người đương ngủ ở đây đáng thương hại hơn là đáng ước ao và đã cả ngàn lần đau khổ tưởng tới chết, trước khi lìa cõi đời. Hỡi khách qua đường, đừng làm ồn ở đây; coi chừng kỹ đừng đánh thức người vì đây là đêm đầu tiên Scarron đáng thương hại được ngủ.) Gần đây, Bình Hành, khi mắc một chứng nan y đã than thở trong bài “Tự sỉ”: Trời đất nuôi ta có lẽ thừa, Nên thời không thuận, vận không ưa. Bất tài, thân thế đâm lơ láo, Đa bệnh, nhân sinh hóa lọc lừa, Duyên phận ra chi mà cố gượng, Tâm tư còn chút cũng xin chừa, Hỡi ơi, giường cột cho thê tử, Một lũ trông vào, cay đắng chưa? Oán thì oán, oán thậm tệ, mà số nhà văn giải nghệ cũng vẫn ít. Trong mấy trăm văn sĩ hồi tiền chiến, chỉ có dăm ba người quyết tâm gác bút như Trúc Đỳnh, Phùng Tất Đắc,[4] còn ngoài ra đều bị “một mối tơ tằm buộc chết”, như lời nói của Tản Đà. Hạng người này hy sinh thân họ và và cả gia đình họ cho văn nghệ: https://thuviensach.vn “Có bọn đi vay mượn để ra báo. Có người nhịn ăn nhịn ngủ để viết sách. Có người ca hát trong thanh bần và nước mắt để làm thơ. Có người cố quên cả anh em, họ hàng chết chóc để xây dựng kịch hát. Có người vượt cả gian lao, lặn lội về vùng tề để sống với dân chúng, lăm le nhặt nhạnh tài liệu để tạo nên những thiên phóng sự”[5] Cố nhiên một số ham danh, nhưng danh vốn nhạt nhẽo, không đủ để làm quên cái thánh giá đeo trên vai. Tất còn lý do khác. Lý do đó, tôi đã chỉ trong cuốn Luyện văn, ấy là văn thơ có sức quyến dũ vô cùng. Có sống với nó mới mê nó, mà đã mê nó thì khó gỡ ra được. Như André Maurois đã nói: “Đối với một người đã chơi một canh bạc lớn thì sự rút lui về nghỉ ngơi đã là một điều gần như không chịu nổi. Người đó đã ghiền một thứ là hoạt động, không thể tẩy độc được nữa”. https://thuviensach.vn CHƯƠNG II NGHỀ VIẾT VĂN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Văn chương hạ-giới rẻ như bèo TẢN-ĐÀ Thưa bạn, tôi vốn không ưa những chuyện buồn. Tôi nghĩ buồn thường phá hoại, vui mới kiến-thiết. Vậy nếu bạn thấy cuối chương trước và đầu chương này đều có giọng hơi buồn, thì thực không phải tại tôi, mà tại vấn-đề vậy. Trong chương trên, tôi đã dẫn một đoạn của Vũ Bằng về tình cảnh của nhà văn lớp trước. Đây lại xin phép ông dẫn thêm một đoạn nữa: “Có những nhà văn-nghệ viết bài cả tháng cho báo mà được ba đồng[6]; một người khách từ quê ra tỉnh mỗi lần vài chục cây số mất hàng đồng mà hàng nửa năm không đem về cho nhà được lấy một xu; lại có anh viết, viết viết mà cứ nhịn đói dài người ra, phải ăn phở hàng tháng để trừ cơm rồi kết cục, đến cuối năm, giao-thừa không có tiền trả, xuýt bị hàng phở, phang cho một trận”. Vũ Bằng không nói quá đâu. Ngay ở Sài Gòn, nơi “tiền rừng bạc bể” này, năm 1939, một anh bạn tôi đảm-nhiệm phụ-trương văn chương cho một nhật-báo có tiếng mà mỗi tháng chỉ được lãnh có năm đồng, một anh khác đem một truyện ngắn bán cho một tờ tuần báo, được chủ-nhiệm trả bằng một tô phở, một ly cà-phê và vài lời an-ủi. Thời này còn khá hơn một chút. Muốn xét kỹ, tôi xin phân-biệt văn-nhân làm năm hạng: - Nhà thơ - Nhà soạn kịch - Nhà viết tiểu thuyết https://thuviensach.vn - Nhà viết sách khảo-cứu - Ký giả Nhà thơ thì khỏi phải xét tình-cảnh của họ. Nếu họ không có cha mẹ, vợ con, anh em, bạn-bè để nương tựa, lại chỉ chuyên làm thơ mà hòng bán thơ để sống thì họ điên, thật là điên. Xin hỏi bạn, thơ bán cho ai? Cho nhà xuất-bản ư? Không một nhà nào chịu mua cả. Vũ Hoàng Chương là một trong những thi-nhân có danh nhất mà cũng còn phải sống về nghề dạy học và bạn nên biết tập “Rừng phong” của ông xuất-bản hồi năm ngoái, không phải nhà xuất-bản bỏ tiền in đâu. Còn nếu đem thơ bán cho nhà báo ư? Thì mỗi tuần mỗi nhà báo nhận được hàng chục, hàng trăm bài thơ của các thi sĩ trong các văn đoàn A, B, C… gởi lại yêu-cầu, khẩn-khoản xin đăng, nhà soạn phải liệng vào sọt rác từng xấp, từng xấp, chỉ giữ lại vài ba bài đăng “vì tình”; như vậy thì còn ai dại gì bỏ tiền ra mà mua? Nếu có người nào thấy thơ mình được đăng mà đòi tiền nhuận bút – tôi tưởng thời này ít ai lại khùng như vậy – thì toà soạn sẽ nói thẳng vào mặt người đó rằng: “Anh đừng nên lầm tưởng rằng anh có tài. Đăng thơ anh là chúng tôi muốn khuyến khích anh, quảng cáo giùm tên cho anh đấy. Đáng lẽ anh phải trả tiền quảng cáo cho chúng tôi, chứ còn đòi tiền nhuận bút nữa ư? Toà báo nào nhã nhặn lắm thì mới gởi tặng cho “thi hữu” đó một số báo. Nhưng ở Sài gòn này, bận việc như các ông chủ nhiệm, chủ bút, thì đã có mấy ông dư thì giờ mà nghĩ đến vấn đề “tình cảm” ấy. Tốt hơn là thi sĩ nên lại sập báo mua thì chắc hơn, mua mươi số để tặng ít bạn bè. Kịch cũng khó bán như thơ, nhất là lọai kịch thơ. Kịch của bạn nếu có vui, có chút ít nghệ thuật, và đừng dài quá thì nhà báo có thể đăng giúp bạn được. Ấy là chỗ nể nang lắm đấy. Còn như muốn xuất bản, bạn phải tự bỏ vốn ra như ông Vũ đình Long. Tất nhiên là bạn không cần lợi, tôi vẫn biết. https://thuviensach.vn Tiểu thuyết dễ bán hơn. Hiện nay, nếu không kể những tiểu thuyết cũ tái bản và những tiểu thuyết chỉ đăng trên báo thì mỗi năm nước nhà xuất bản trung bình cũng được dăm, sáu chục cuốn. Số đó có vẻ như lớn, nhưng hỏi các nhà xuất bản thì mới biết mười bản thảo gửi tới, họ chỉ nhận có một, hai. Viết tiểu thuyết có thể rất dễ “kiếm ăn”; miễn là có cái giọng hấp dẫn và biết chiều những thị hiếu tầm thường của đại chúng là người ta có thể “lượm” được mười, mười hai ngàn một tháng rồi. Nhưng tôi biết bạn quý trọng nghề cầm bút, nên không xét trường hợp hạng “nhà văn” đầu cơ ấy. Bạn có lương tâm, lại yêu nghệ thuật, viết một tiểu thuyết hai trăm trang giấy in, ít nhất mất sáu tháng, như vậy mỗi năm được hai cuốn. Nếu cả hai đều được nhà xuất bản mua cho – trường hợp ấy hiếm lắm – thì một năm bạn kiếm được khoảng hai vạn đồng[7]. Ngoài ra, nếu tiểu thuyết của bạn mỗi năm được tái bản hai cuốn – tác phẩm của Khái Hưng cũng chưa được thế - thì mỗi năm bạn được thêm hai vạn đồng nữa, cộng là bốn vạn. Nhưng bạn có thể chắc rằng luôn trong mười năm hai mươi năm, bạn trứ tác đều đều theo mực đó và bán trôi hết cả như vậy hay chăng? Bạn mà dám chắc thì tôi phục bạn, bạn hơn cả Balzac, Hugo, Maugham, Zweig! Tóm lại, bạn phải vào hạng tiểu thuyết gia đại tài và rất hên mới có hy vọng kiếm được trung bình hơn ba ngàn đồng một tháng, còn kém số lương một thư ký tập sự có bằng cấp cao tiểu, không vợ, không con. Với số tiền đó mà đùm đề thê tử thì chắc chắn bạn phải như Tú Xương đã: Chạy ăn từng bữa tóat mồ hôi, và cay đắng, tủi nhục: Van nợ lắm khi tràn nước mắt. https://thuviensach.vn Còn về loại khảo cứu thì tôi chưa thấy nhà văn nào ở nước mình mà chuyên sống về loại ấy. Nó thuộc loại khó bán, mỗi năm toàn quốc xuất bản độ hai chục cuốn – kể cả những cuốn tái bản – trong số đó chỉ vài ba cuốn in ba ngàn bản, còn thường là hai ngàn, có khi chỉ ngàn rưởi mà bán cũng lây lất năm nầy qua năm khác. Sách loại ấy viết càng cao, bán càng khó mà những nhà văn đứng đắn bao giờ cũng muốn viết mỗi ngày một cao hơn, bởi vậy nhiều nhà đã phải gác bút, nếu không sẵn một nghề khác để nuôi nghề viết văn[8]. Một vài nhà soạn Tự điển và sách giáo khoa, gặp thời thu được khá nhiều, nhưng sự thành công của họ chỉ nhất thời mà sự cạnh tranh thì kịch liệt và đã có người phải xoay qua công việc khác rồi. Rốt cuộc, hiện nay chỉ có hạng ký giả nhà nghề là dễ sống hơn hết. Tôi không kể những ông chủ báo, bỏ tiền ra in báo, mà cả năm không viết một câu, họ có thể kiếm mỗi tháng hàng trăm ngàn đồng, nhưng họ không phải là nhà văn. Các ông chủ bút làm công thường lãnh lương khá cao, từ sáu ngàn đến mười ngàn đồng, chẳng qua cũng chỉ bằng lương một công chức hạng trung làm lâu năm và đông con, mà công việc các ông ấy nặng nhọc vô cùng, gấp năm gấp mười công việc một ông tham tá. Dưới một bực là những người dịch tin thế giới, viết điều tra, tiểu thuyết hoặc đảm nhận những phụ trương (văn chương, học sinh, phụ nữ, thể thao…) Những người này phải viết mỗi ngày khoảng bốn năm trang giấy đánh máy, suốt tháng suốt năm, khi mạnh cũng như khi đau, lúc vợ đẻ cũng như lúc con sài, thậm chí chính họ đau mà cũng không dám nghỉ[9]. Mà lương của họ được bao nhiêu? Cao lắm thì năm, sáu ngàn mà thấp nhất hai ngàn! Đó, tình cảnh các nhà văn ở nước ta hiện nay là như vậy. * Tình cảnh ấy một phần lớn do ở trình độ quốc dân. Trong nước chỉ có khoảng hai chục triệu người, lúc nầy chia làm hai khu vực, mà tám chục phần trăm mù chữ, còn lại bao nhiêu thì hoặc vì nghèo, https://thuviensach.vn hoặc vì không được khuyến khích, hướng dẫn, vẫn coi sách là một xa xỉ phẩm, chưa thấy cần đọc sách như cần ăn, cần uống, trong một nước như thế thì sách làm sao mà bán chạy mà nhà văn làm sao khỏi nghèo túng? Tuy nhiên, ta cũng phải nhận rằng ngay ở Pháp, Anh, Mỹ là những nơi văn chương có một thị trường rộng gấp mười, gấp trăm ta, (khắp thế giới có khoảng năm chục triệu người biết đọc tiếng Pháp và trên ba trăm triệu người biết đọc tiếng Anh), mà nghề viết văn cũng là một nghề chật vật nhất. Charles Braibant trong bài tựa cuốn Le métier d’écrivain. (Nghề viết văn) viết: “ Hỡi người bạn trẻ (làm nghề viết văn), bạn tới nhằm lúc khó khăn. Sách bán không được. Vài nhà xuất bản thản nhiên nuốt lời, chối cả những điều trong giao kèo mà họ đã ký. Mà nghề càng khó khăn lại càng đông người” Ở Mỹ, theo J.N. Leonard trong bài Learning how to write (Học cách viết), thì riêng về loại tiểu thuyết, đã có hàng ngàn nhà chuyên môn và năm nào cũng thêm hàng vạn người tập viết. Trong số đó, bao nhiêu người thành công nghĩa là có tiền và có danh? May lắm là được bốn phần ngàn, còn chín trăm chín mươi sáu phần ngàn kia thì đành ôm cái hận thất bại. Leonard dám quả quyết như vậy vì ông đã điều tra và thấy những tờ báo lớn nhất ở Mỹ mỗi tuần nhận được trên ngàn bài cầu đăng mà chỉ chịu mua có ba, bốn bài. Song le, nước người, văn nhân dù sao vẫn sướng hơn ở nước ta nhiều vì một khi đã có danh vọng trên văn đàn thì đời họ rất phong lưu. Chẳng hạn như một tiểu thuyết gia người Pháp, nếu được giải thưởng Goncourt là đã thành triệu phú ngay. Chính giải thưởng không là bao, chỉ có năm ngàn quan, nhưng ảnh hưởng của nó rất lớn: nhà xuất bản sẽ dám in ngay lần đầu hai trăm ngàn cuốn, tính giá trung bình mỗi cuốn năm trăm quan, quyền tác giả ít nhất là 10 https://thuviensach.vn phần 100, tức 50 quan hay là 5 đ; chỉ tính riêng về hai trăm ngàn cuốn đó, tiểu thuyết gia đã được đúng một triệu bạc rồi! Rồi còn ảnh hưởng tới những cuốn sau nữa: chưa được thưởng, mỗi cuốn in ba ngàn sợ còn ế, được thưởng rồi thì bất kỳ cuốn nào viết ra cầm chắc bán được chục ngàn trở lên. Nói chi tới những nhà văn nổi danh khắp thế giới như A.Gide, Tolstoi, Gorki, Cronin, London, Maugham, Koestler, Zweig, Steinbeck… Tác phẩm nào họ cùng lần đầu in hàng chục ngàn cuốn rồi tái bản hàng chục lần, dịch ra hàng chục thứ tiếng và đem về cho họ hàng triệu bạc. Như cuốn How to win friends and influence people của Dale Carnegie trong bốn năm đã bán được bốn triệu bản và tác giả đã được hưởng ít nhất là hai chục triệu đồng. Hai chục triệu đồng! Nhà văn mình mà được số tiền đó thì cứ ngồi không sống ba đời, tiêu không cũng không hết. Những ông hoàng trên văn đàn đó, ông nào cũng có ba, bốn cái biệt thự hai ba chiếc xe hơi, cứ viết trong năm, sáu tháng lại nghỉ một thời gian, đi du lịch khắp năm châu, và mỗi khi cao hứng lại đẻ ra một bài độ ba bốn ngàn chữ để cho các báo danh tiếng tranh nhau mua với cái giá không dưới bốn chục ngàn đồng bạc, tức mười đồng mỗi chữ. Mười đồng mỗi chữ! Thấy những mà tủi cho mình. “Văn chương hạ giới rẻ như bèo”, hai chữ “hạ giới” của cụ Tản Đà đây có lẽ hơi “rộng” đấy. * Đã hay mấy danh sĩ phương tây vừa kể đều là những bậc đa tài và quảng kiến, người ta trả văn của họ như vậy thật là xứng giá, nhưng Việt Nam ta cũng có nhiều truyện ngắn của Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh, Nam Cao, Bùi Hiển… nghệ phẩm không kém những truyện của họ mà chỉ bán được … được bao nhiêu? Theo giá bây giờ thì mười trang đánh máy khoảng ba ngàn chữ, trung bình chỉ được năm trăm đồng, thật kém xa văn Âu, Mỹ. Nguyên-nhân là tại độc- https://thuviensach.vn giả của mình ít, nên các nhà xuất-bản và nhà báo không dám trả giá cao hơn. Có điều đáng mừng là số độc giả đó có thể tăng lên mau. Nếu nước nhà được thống-nhứt và hòa-bình mà chính phủ lại đặc-biệt lưu tâm đến văn-hóa thì chỉ trong ít năm, số người mù chữ không còn mà hạng người có một sức học phổ thông sẽ đông lên gấp năm, gấp mười ngày nay, khiến số sách bán được cũng tăng theo. Lại thêm cánh đồng văn-hóa của ta còn biết bao khu vực để khai thác, một khi đồng-bào đã chịu tìm học thì chỉ sợ không đủ người viết, chứ không sợ thiếu đầu đề để viết, và như vậy các văn-nhân không sợ cạnh-tranh nhau ráo riết. Ai vào các thư-viện công-cộng tất đã thấy, về bất kỳ ngành nào ta cũng còn hoàn-toàn thiếu sách bằng tiếng Việt. Tôi tin rằng chẳng bao lâu nữa, quốc-dân sẽ đòi hỏi những sách đó và các nhà cầm bút nên suy-nghĩ về điều ấy mà dự-bị từ bây giờ đi. Đó là nói về sách, còn về báo ta cũng còn thiếu chuyên viên trong nhiều loại văn: phóng-sự điều-tra của ta mới phôi-thai, loại du ký ngắn của của ta chưa sắc-sảo, hấp dẫn, đến như loại bài kể kinh nghiệm từng người[10] và loại dạy cách làm những việc lặt-vặt[11] như trồng bông, sửa máy, đóng tủ, làm đèn… thì còn thiếu hẳn. Và ngay trong khu vực tiểu-thuyết mà chúng ta đã tấn-bộ nhất, chúng ta vẫn còn phải gắng sức lâu mới theo kịp được người. Lẽ nào mà đại đa số độc-giả cứ mê-muội hoài như ngày nay và chỉ đọc toàn những tiểu-thuyết “anh anh em em” cùng những chuyện “kiếm-hiệp một đồng”? Rồi còn kịch, tùy-bút, phê-bình…biết bao khu vực gần như hoang-vu vẫn sẵn-sàng cho bạn tha hồ khai-khẩn. Tóm lại thị-trường văn-chương ta lúc nầy, tuy đông người bán vắng người mua thật – nước nào mà chẳng vậy? – nhưng nếu bạn khéo lựa chọn món hàng bổ-ích cho quốc-dân rồi thận-trọng, kiên- https://thuviensach.vn nhẫn sản xuất thì một ngày kia, khi trình-độ đọc sách của quần chúng đã tiến, tác-phẩm của bạn sẽ hợp với nhu-cầu của quốc-dân, lúc đó, cái ngòi bút sắt của bạn còn chi mà chẳng thực nhọn trong cách kiếm ăn đời?[12] https://thuviensach.vn CHƯƠNG III NHỮNG ĐIỀU-KIỆN ĐỂ THÀNH-CÔNG Nếu bạn thấy vô cùng hăng hái trong khi làm việc thì gần như không có việc gì mà bạn không thành công CH. SCHWAB Đối với nghề viết văn, sức khỏe vẫn có ích nhưng không cần thiết. Biết tổ chức đời sống thì dù đau vặt suốt đời một nhà văn cũng có thể thành công. Voltaire (khi về già) và Proust quanh năm không ra khỏi phòng bệnh mà cũng viết được, riêng Voltaire lại viết rất nhiều nữa. Vả lại, như tôi đã nói, bệnh tật là tình cảnh thông thường của nhà văn: trong văn học sử cổ kim, đã mấy người được thân hình vạm vỡ như Balzac như Tolstoi? Lại cũng không nhất định phải có thiên tài mới nổi danh. Thiên tài là vật rất hiếm ở đời, cả một thế kỷ, mỗi nước may lắm được vài ba người như Nguyễn Du, Nguyễn thị Điểm, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Hugo, Lamartine. Đến như bọn phàm nhân chúng mình thì không thể hy vọng trời ban cho của hiếm ấy, vậy ta chỉ cầu có chút tài hoa nho nhỏ để đủ bước vững trên văn đàn, và tự ta, ta phải có tấm lòng yêu nghề, yêu mê say, tha thiết. Yêu nghề? Đúng, tôi cho rằng đối với bọn “không sẵn tư trời” là chúng mình thì yêu nghề là một điều kiện quan-trọng nhất. Bạn bảo: - Điều đó khỏi dặn mà, yêu nghề văn tự thì tôi đã thừa yêu! - Vâng, nhưng tôi muốn biết bạn yêu nó ra sao? Bạn có thể, sau khi làm việc suốt ngày ở sở trong khi vợ con mong đợi ở nhà, lại cứ cắm cổ đạp xe đến nhà in để viết bài, rồi mãi tới khuya mới trở về, rụt rè gõ cửa sợ làm mất giấc ngủ của những người thân? Hay bạn có thể yêu văn mà sống như Phùng Bảo Thạch, Nguyễn Triệu Luật, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, nghĩa là sống trong tòa soạn, trải https://thuviensach.vn chiếu xuống sàn gác mà ngủ, ăn thì toàn muối mè, rau cải và dưa trong hàng tháng? Nếu được như vậy thì có thể coi như bạn đã thành công một nửa vì tôi tin rằng bạn sẽ đủ kiên nhẫn để sửa một vài câu văn năm, sáu lần, kiếm tài liệu trong vài ba năm trước khi soạn một cuốn sách hai trăm trang và chịu cảnh bần hàn mà đeo dai cho tới chót. Điều kiện thứ nhì là bạn phải lựa một loại văn hợp với khả năng của bạn. Thomas Carlyle nói: “Sung sướng thay người nào kiếm được việc hợp với mình!” Phải lắm, có một việc hợp với mình thì làm chi mà chẳng thấy “vui như một trò chơi tuyệt thú” và chẳng thấy thành công chắc chắn? Nói cho ngay, ai mà không hám cái danh thi sĩ? Còn gì khoái cho bằng mỗi bài thơ của mình được hàng ngàn miệng ngâm nga, có bài lại được những bàn tay ngọc đem thêu trên lụa nữa? Nhưng, một anh bạn tôi chính vì ham cái danh ấy quá mà mặc dầu thấy thầy và bạn khuyên đừng làm thơ, vẫn cố công nặn óc tìm vần trên 10 năm nay để rốt cuộc chỉ chuốc tiếng cười của bậc thức giả. Chẳng riêng tôi, nhiều người đều nhận anh bạn ấy có khiếu về tùy bút và nghị luận: ồ, phải chi anh để công phu luyện thơ mà luyện hai thể vừa nói thì có phải đã nổi tiếng rồi không? Biết bao bạn trẻ bước vào làng văn với quyết định thành một tiểu thuyết gia mà không tự xét có khả năng về loại đó không. Các bạn ấy hãy đọc đoạn tự thú này của Dale Carnegie: “Hồi ba mươi tuổi tôi quyết chuyên viết tiểu thuyết. Tôi sắp thành một Frank Norris hoặc Jack London hoặc T. Hardy thứ nhì. Tôi hăng hái tới nỗi qua ở Châu Âu hai năm. Tại đó tôi sống dễ dàng với vài Mỹ kim mỗi tháng, vì sau đại chiến thế giới thứ nhứt, ở đây có sự lạm phát giấy bạc. Trong hai năm ấy tôi viết một kiệt tác nhan đề là “Blizzard” (Dông tuyết). Nhan-đề ấy hợp quá vì bản thảo được các nhà xuất-bản đón tiếp một cách lạnh lùng không khác những cơn dông tuyết thổi trên cánh đồng Dakota. Khi nhà https://thuviensach.vn xuất-bản nói thẳng vào mặt tôi rằng cuốn ấy là đồ bỏ, rằng tôi không tài, không có khiếu về tiểu thuyết thì tim tôi muốn ngừng đập. Tôi quay gót ra như kẻ mất hồn. Có ai đập mạnh vào đầu tôi cũng không làm cho tôi choáng váng hơn. Tôi đê mê, rụng rời…” Nhưng rồi Dale Carnegie biết quyết định bỏ ngay loại tiểu-thuyết để viết tiểu-sử các danh nhân cùng loại sách xử thế cho người lớn. Và ông đã thành-công rực-rỡ, được khắp thế giới biết tên, kiếm được cả triệu Mỹ-kim. Ông đã chẳng buồn rầu vì không được là một T.Hardy thứ nhì mà còn muốn thấy nhẩy múa mỗi khi nhớ lại quyết định sáng suốt đó. Walter Raleigh nói: “Tôi không có tài để viết một cuốn sách khả dĩ so sánh được với tác phẩm của Shakespeare, nhưng tôi có thể viết một cuốn theo tài năng riêng của tôi được”. Hễ biết theo tài năng riêng của mình thì sẽ vẻ vang, như nữ sĩ De Sévigné chỉ viết những bức thư cho con gái cũng lưu danh thiên cổ, cứ gì phải làm thơ với soạn tiểu thuyết? Có hàng chục con đường dẫn lên ngọn núi vinh hiển; lựa con đường nào hợp với mình mà theo, dù tới muộn, chẳng hơn là theo vết chân người để bị tụt xuống cả trăm lần rồi rốt cuộc, tới già vẫn còn lẹt bẹt ở dưới chân núi ư? Số người có thiên tư về văn thì rất nhiều mà thành công rất ít chính vì phần đông không đủ kiên nhẫn và không biết chọn đường hợp với khả năng của họ vậy. * Nhưng, thưa bạn, có điều quan trọng nhất tôi lại quên chưa hỏi bạn: Tôi biết bạn viết không phải vì tiền. Tiền vẫn là cần, có tiền mới sống, mới viết được, nhưng nếu chỉ vì tiền thì thật là khùng. Thức trọn ba bốn đêm để sửa một bài thơ mà đem bán thì không một tờ báo nào mua, nghiên cứu năm sáu năm để soạn một cuốn sách, in ra 2000 cuốn, bán ra được bảy, tám trăm… Không, không, muốn kiếm tiền thì thiếu gì nghề mau phát hơn, chẳng hạn làm nghề thầu https://thuviensach.vn khoán, nghề kim hoàn, nghề bào chế, “bác sĩ chích”, vân vân… gặp vận chỉ vài năm là đã có bạc triệu; còn gò lưng ra viết thì dù có táng tận lương tâm, mãi dâm cây bút, cũngchỉ kiếm được mươi, mười lăm ngàn đồng trong một thời gian ngắn để rồi khi hết thời, lại bị chính những độc giả đã say mê đọc ta, sẽ buông lời mạt sát ta. Một anh bạn thi sĩ của tôi nói: “Nếu phải làm thơ vì tiền thì khổ lắm, thà làm thợ mộc, nề còn sướng hơn”. Đúng vậy, miễn cưỡng viết là một cực hình, đã chẳng bõ công mà còn làm tâm hồn ta ti tiện đi nữa. Boileau trong cuốn Nghệ thuật làm thơ (L’art poétique) tỏ vẻ khinh bọn cầm bút tham tiền: “Tôi biết rằng một tâm hồn cao cả có thể kiếm được một số lợi ích chính đáng trong công việc của mình, như vậy chẳng nhục nhã mà cũng chẳng tội lỗi gì cả; nhưng tôi không thể chịu được hạng tác giả có tên tuổi mà chán danh, ham bạc, đem thần Apollo[13] cầm cho tiệm sách và làm cho một nghệ thuật thành nghề buôn.” Rồi Boileau khuyên ta nên viết vì danh. Rất nhiều văn nhân nghĩ như ông và chỉ có kẻ chỉ mong suốt đời viết một câu bất hủ - một câu thôi chứ không cần một bài. Một anh bạn tôi làm thơ đã hai chục năm, nói: “Được như Đặng Dung, tác giả câu nầy: Quốc thù vị báo đầu tiên bạch, Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma. … rồi chết cũng không hận”. Một anh khác đọc tiểu sử Trương Tiên, một thi sĩ đời Tống[14] rồi mơ mộng cả buổi; và không biết tới nay anh đã tìm được câu nào để hậu thế nhắc tới mình chưa? Ham danh vốn là tật chung của nhà văn song ham tới mực đó thì cũng quá. Trong lúc sống, ít ai nghĩ đến cái danh của mình mà một khi đã xuống hố thì những cục đất rớt độp độp trên quan tài cũng không hay, còn biết gì đâu mà thích lưu danh muôn thuở? https://thuviensach.vn Viết còn có thể vì mục đích nữa là cầu vui, là để được cái thú viết, hoặc thỏa cái nhu cầu viết. Trong một bức thư gởi cho bà Maurice Schlésinger, Gustave Flaubert có câu: “Cũng như hồi trước, tôi sẽ viết, chỉ để được hưởng cái thú viết, tôi chỉ viết cho một mình tôi, không hề nghĩ gì về tiền bạc hoặc về danh vọng ồn ào cả” Hầu hết các văn nhân, thi sĩ của ta hồi xưa đều có quan niệm ấy: viết để tiêu khiển, để tự an ủi mình, để thoát ly đời sống hiện tại. Viết như vậy thì tác phẩm thường có giá trị về nghệ thuật, nhưng văn chương chỉ là một trò chơi tao nhã như cầm, kỳ, họa mà thôi. André Gide không cho viết văn là một thú tiêu khiển mà là một nhu cầu. Ông tuyên bố: “Ai mà cấm tôi viết thì tôi sẽ tự tử”[15] Văn hào của nước Pháp đó, tư tưởng luôn luôn thành thật và có thể rằng tôi không hiểu nổi tâm lý của ông, nhưng thú thực, tôi không thấy thích câu nói ấy, bằng lời sau nầy của Lỗ Tấn: “Xưa nay tôi chả có chuyện gì là bắt buộc phải nói ra mới được ; mà cũng chưa hề có văn chương gì bảo rằng không viết ra thì không chịu nổi!” Mà Lỗ Tấn là một cây bút cũng rất thành thật, có nghệ thuật sắc bén, đã nổi danh khắp thế giới và được coi là Maxime Gorki của Trung Quốc. Sau cùng, nhiều người cho rằng viết văn là để hoạt động. Theo tôi quan niệm ấy đúng hơn cả. Viết tức là “nói với xã hội cái mình có trong lòng” (A. de Vigny) tức là bày tỏ, bênh vực hoài bão của mình, tuyên truyền cho tư tưởng của mình, mong nó được thực hiện, tóm lại là để hoạt động. Hàn-Dũ, Liễu-Tôn-Nguyên tuyên truyền cho đạo Nho ; Đào-Tiềm, Lý-Bạch tuyển truyền cho đạo Nhàn ; Đỗ-Phủ, Bạch-Cư-Dị tuyền truyền cho tư tưởng xã hội ; chủ trương mỗi nhà tuy khác, song đều là hoạt động cho một lý tưởng, cho cái mà mỗi nhà tin là Chân, là https://thuviensach.vn Thiện hay là Mỹ. Thời nầy ai không nhận rằng nền văn minh nhân loại còn nhiều khuyết điểm, cách tổ chức xã hội cần phải cải thiện, nên nhà văn có tâm huyết nào mà không muốn xây dựng một tương lai đẹp đẽ hơn cho những thế hệ sau? Chưa thực hành được thì viết, một khi đã có đủ phương tiện và năng lực thực hành thì tất nhiên nhà văn gác bút mà làm chánh trị. Những kẻ chê Phạm Quỳnh, Nhất Linh, Hồ hữu-Tường đã đi làm chính khách là không hiểu tâm lý văn nhân và cũng không có quan niệm xác đáng về văn nghệ. Nếu muốn ta chỉ có thể chỉ trích đường lối chính trị của ba nhà đó còn cái việc bước qua chính trị của họ thì là một việc rất tự nhiên. A.France còn khuyên văn nhân phải làm chính trị nữa. Ông nói: “Ký-giả nào thiếu cái đó – tức lòng ham làm chính-trị - thì văn như thiếu gân. Một trang viết hay chỉ là sự hoạt-động bị nén lại[16](…) Bây giờ người ta có thói khen một nhà văn khi chết là bình-sinh chỉ viết văn chứ không làm chính-trị. Có khác chỉ khen một anh cụt tay là chỉ có một tay không?” Paul Valéry chắc cũng nghĩ như vậy. Năm 1919, tờ nguyệt san Văn chương phỏng vấn ông: - Tại sao ông viết văn? Ông đáp: - Vì nhu-nhược! Ông muốn nói: Vì không thực hiện được hoài bão, nên mới phải cầm bút. Trong bài tựa cuốn Nghề làm người ( Métier d’homme ) của Raoul Dautry, ông nói với tác giả: “Tôi ghen ông đấy” - ghen vì Dautry đã có một đời hoạt động tích cực còn ông thì không. Đó là một lời nói nhũn nhưng cũng là một lời tự thú. Cổ nhân bảo có ba cái bất hủ: lập đức, lập công và lập ngôn. Để lập ngôn đừng vào hàng cuối thì thực là chí lý. https://thuviensach.vn Cổ nhân như vậy, còn bạn thì sao? Khi bước vào nghề văn, bạn có một mục đích cao đẹp để nhắm, những tư tưởng để bênh vực, một chương trình để thực hành không? Thiếu những cái đó thì văn của bạn sẽ thiếu hồn và đừng mong gì thành công lâu bền cả. https://thuviensach.vn CHƯƠNG IV VĂN-NHÂN TRONG XÃ-HỘI Những người bình thường không sáng tác được những nghệ phẩm. Họ ăn ngủ, sống một đời bình thường rồi chết. IRVING STONE Pour toute nourriture, ll apporte son coeur, A. DE MUSSET Nghề viết văn đã kỳ cục mà xã hội văn nhân còn kỳ cục hơn. Ai vào đó cũng được, nên trong đó có đủ các hạng người. Trần Trọng Kim, Hoàng xuân Hãn, Khái Hưng Nhất Linh là văn nhân thì một học sinh đệ lục thôi học viết ít bài hồi ký, đăng trên phụ trương một tờ báo cũng là một văn nhân. Mà chẳng cần viết lách gì cả, cũng vẫn có thể là văn nhân được. Bạn cứ mua một tấm bìa kẹp trong đó bạn sắp mấy bài thơ cắt trên báo, một số Văn nghệ mới ra và vài tờ giấy với những hàng chữ lớn “Khảo về thơ đa đa” hoặc “Thanh niên Gia Nã Đại” dưới nghệch ngoạc ít câu lăng nhăng trích bậy bạ ở đâu đó, ấy thế là bạn có thể bảo nhà in sắp cho bạn hai chữ “NHÀ VĂN” kiểu Europe gras corps 18 ở dưới tên bạn, trên tấm danh thiếp rồi. Ai cấm? Nếu bạn lại cận thị thì thật là Trời giúp bạn đấy: cặp kính trắng gọng đồi mồi rất ăn với vẻ mặt văn nhân. Không cận thị thì cũng có cách, cứ mua một cặp kính trắng bình thường mà đeo. Trừ người thân ra ai mà biết được mắt bạn có tật hay không chứ. Đeo cặp kính đó và cắp bìa kẹp kia mà trầm ngâm hoặc mơ mộng bước vào thư viện thành phố thì đích thị là: “Trông chừng thấy một văn nhân…” lắm rồi mà còn gì nữa? Nhưng tự nhận là văn nhân, được người ta tưởng mình là văn nhân là việc rất dễ, mà được các văn-nhân chính tông nhận cho vào xã hội của họ thì kể cũng hơi chật vật. Họ gần-gần như không muốn https://thuviensach.vn có thêm bạn đồng nghiệp mới và có ý rào khu vực của họ cho khỏi bị bạn xâm chiếm. Song một khi bạn được họ cho nhận vào làng thì cứ theo nguyên tắc, bạn bình đẳng với họ. Ở đây, người ta chẳng kể bằng cấp, chức tước, tuổi tác gì đâu chỉ cần tài. Nhưng tài thì cố nhiên là có cao thấp khác nhau, nên ở trong làng rốt cuộc cũng có tôn ti trật tự y như tại triều đình… trên sân khấu vậy. Trong cuốn này, tôi cùng tiếng “văn-nhân” để chỉ hết thẩy những người cầm bút từ ký giả đến tiểu thuyết gia, thi sĩ, khảo cứu gia… Nghĩa đó hơi rộng. Chính ra người ta phân biệt hai hạng cầm bút: một là văn-nhân, hai là ký giả tức những người chỉ chuyên viết những bài có tính cách thời sự đăng trên báo. Trong giới văn-nhân lại chia ra ba, bốn cấp. Thi sĩ đứng đầu rồi tới tiểu thuyết gia, kịch gia vì thơ là loại có tính cách văn nghệ hơn hết – người ta nói vậy – cho nên nhà văn trẻ tuổi nào cũng chỉ muốn làm thơ hoặc viết tiểu thuyết. Biết bao thanh niên nặn óc hàng năm để làm thơ rồi ky cóp dành dụm cho được mươi, mười lăm ngàn đồng để xuất bản. Bán được hay không, không cần; miễn được mang danh thi sĩ và có dăm chục cuốn tặng bạn xa gần. Không làm được thơ thì cũng rán “đẻ” ra một tập truyện ngắn. Trách chi thơ và tiểu thuyết chẳng nườm nượp bay tới các tòa báo và các nhà xuất bản. Sau tiểu thuyết gia, tới các nhà viết du ký hoặc tùy bút ; còn những người chuyên phê bình, khảo cứu thì đứng riêng một phe, họ ít có tính cách nghệ sĩ hơn cả. Trong mỗi phe đó lại có nhiều kẻ hợm hĩnh tự phong mình là đại ca và nhìn kẻ khác như em út. Có những đại ca bắt em út ngồi đợi hàng mươi, mười lăm phút, chẳng thèm ngó ngàng gì tới, cứ tự nhiên nói chuyện mưa nắng với một người thứ ba ; chán rồi, đại ca mới quay lại, nhân từ khuyên em https://thuviensach.vn út đại loại như vầy: “Nghề viết văn lúc này không nuôi nổi ai đâu. Bỏ đi làm nghề khác khỏe hơn.” Tôi nhận thấy rằng hạng đại ca hợm hĩnh đó ít khi là người có thực tài, thực học và những nhà văn chân chính, có tâm huyết thì luôn luôn giản dị, thực thà và nhã nhặn, đối với ai cũng một niềm thân mật và vui vẻ. Nghề cầm viết có nhiều cái lụy, nhưng ít nhất cũng an ủi ta được đôi phần, nhờ nó mà có khi ta tìm được những bạn đồng thanh đồng khí ở bốn phương trời. Gặp được những bạn ấy thì đức bạn cao lên, tài bạn tiến lên, tri thức bạn mở mang ra. Nhưng chỉ những âm hồn đẹp mới được lãnh phần thưởng ấy. * Nói đến làng văn, ta không thể quên một hạng tự xưng là văn nhân mà chuyên bịp người khác để làm tiền. Họ là bọn du thủ du thực, có hồi đã viết lăng nhăng ít bài đăng trên báo và kết bạn với nhiều ký giả. Họ kiếm những người có tiền mà ham cái danh chủ báo, đề nghị lập một tuần báo đưa ra một chương trình đánh máy đàng hoàng, nghiên cứu tỉ mỉ từ chủ trương của tờ báo, tới cách trình bày, tên các mục, tên các cây bút sẽ cộng tác. Họ thuyết rất khéo, vạch rõ những lợi vật chất lẫn tinh thần của công việc “phụng sự văn-hóa” đó ; ai nghe mà không ham, và xá gì vài chục ngàn đồng mà không bỏ ra để được thấy tên mình đăng ngay dưới tên tờ báo? Nhận được số vốn, họ chạy đi gom góp ngay một bộ biên tập, yêu cầu những nhà văn hơi có tên tuổi giúp họ, như vậy để họ có thể đăng tên những nhà đó trên tờ quảng cáo. Những nhà ấy nếu mắc mưu họ, chịu gởi bài đăng thì càng tốt, họ sẽ lần khân, không trả tiền nhuận bút mà nếu chẳng viết giúp họ thì cũng không sao, họ sẽ kiếm những bài bậy bạ đăng cho đủ trang, rồi họ sẽ kê khai những phí tổn cho người bỏ vốn trả, lạ gì tiêu một thì họ khai ba, ai mà kiểm soát được? Báo tất nhiên bán ế, nhưng họ cần gì đâu, vì họ đã ăn bớt được một số tiền lớn để chi tiêu rồi: chỉ đáng https://thuviensach.vn buồn cho ông chủ báo và những nhà văn bị họ lừa gạt mà kẻ thì mất tiền người thì mang tiếng đã cộng tác với một bọn bịp. Vì xã hội văn nhân có đủ hạng người như vây, nên khó có sự đoàn kết rộng rãi được. Ở nước ta, chưa có một Hội các nhà văn, chỉ mới thấy những nhóm nho nhỏ ba bốn người hay năm sáu người. Những nhóm ấy, trước chiến tranh, khá đông, đi tỉnh nào cũng gặp[17] nhưng trứ tác rất ít mà cũng không được bền, thường vài ba năm là tan rã. Chỉ những bạn cùng chí hướng, đều có đức, tài và học ngang nhau mới giữ tình thân với nhau lâu được. * G. Duhamel kể truyện trong cuộc đại chiến thứ nhất, ông gặp một y sĩ lòng khô khan và sắt đá đến nỗi không mảy may cảm động trước những đau khổ của con bệnh, mặt lúc nào cũng lạnh lùng, có khi điểm vài nét mỉa mai nữa. Vậy mà một hôm, lại chơi nhà y sĩ đó, ông ngạc nhiên thấy mặt ông ta đầy nước mắt vì đương đọc một cuốn sách tả những thảm họa của chiến tranh, những thảm họa mà ông ta chứng kiến mỗi ngày, mỗi phút, một cách thản nhiên. Sức cám dỗ của văn chương như vậy có kỳ không chứ? Có một lý tưởng đẹp, một lòng dễ cảm và một nghệ thuật cao để bênh vực những cái thiêng liêng như lòng ái quốc, tình tương thân tương ái… thì quả thật nhà văn đã nắm được một khí giới mạnh mẽ vô cùng và bàn tay mảnh khảnh của nhà văn đáng sợ hơn một đội quân thiện chiến. Lamartine nói giòng Bourbon – một giòng vua ở Pháp – có được Chateaubriand cũng như có một đạo quân. Lời ấy không quá đáng. Sử Trung Hoa chẳng chép rằng Vũ Hậu đời Đường sợ toát mồ hôi khi đọc bài “Hịch thảo Vũ Tắc Thiên”[18] của Lạc Tân Vương ; và Tào Tháo, một tay gian hùng bực nhất cổ kim chẳng tái mặt khi đọc tờ hịch của Trần Lâm đấy ư? Ảnh hưởng của văn chương lớn như vậy nên nhà cầm quyền thời nào, nước nào cũng nghi kị các nhà văn, tìm cách lung lạc họ, không https://thuviensach.vn được thì đàn áp, đàn áp mà họ cũng không sợ thì tàn sát. Trong thời quân chủ, biết bao nhà văn nhờ cây bút nhảy lên được nhờ những ghế cao nhất ở triều đình: Tư Mã Tương Như thay mặt vua Hán đi vỗ về xứ Thục, Bạch Cư Dị, Nguyên Chẩn, Kỷ Quân đều làm tể tướng; Marot, Cheteaubriand đều được hưởng những ân huệ đặc biệt của vua chúa ; nhưng cũng có biết bao văn nhân bị những tai họa thảm khốc chỉ vì cố bênh vực một lý tưởng hoặc sơ ý lỡ động chạm tới nhà cầm quyền: người thì bị đày tới những nơi ma thiêng nước độc như Hàn Dũ, Vương Thủ Nhân ; kẻ thì bị chém đứt đầu, hay ngang lưng như: Trần Quí Cáp gần đây ở nước ta. Trang Đình Lung và bảy chục người nữa trong cái án văn tự ở đầu đời Thanh[19] bên Trung Quốc ; mặc dầu vậy, các nòi văn nhân hy sinh cho chính nghĩa vẫn không thời nào tuyệt. Lung lạc hay đàn áp nhà văn đều là những thái độ vô lý. Trong một quốc gia độc lập, một xã-hội văn minh thì nhà cầm quyền với nhà văn phải hợp tác với nhau để thực hiện hạnh phúc cho đồng bào và nhân loại. Bạch Cư Dị, một thi hào vào bực nhất đời Đường nói: “Tai của nhà vua tự nó không đủ sáng, phải hợp hết các tai trong thiên hạ mà nghe rồi mới sáng được ; mắt của nhà vua tự nó không đủ tỏ, phải hợp hết các mắt trong thiên hạ mà nhìn rồi mới tỏ được, lòng của nhà vua tự nó không đủ thông suốt, phải hợp hết cả lòng của thiên hạ mà nghĩ rồi mới thông suốt được” để “xét và giúp chính trị đương thời cùng tiết đạo nhân tình” Trong đoạn đó, viết cách đây 11 thế kỷ, nếu ta thay tiếng “nhà cầm quyền” vào tiếng “nhà vua” thì ý tưởng vẫn còn hợp thời. Muốn làm tròn nhiệm vụ ấy nhà văn phải có một nhân cách cao, luyện đức công tâm và lòng phụng sự, nhất là phải được tự do – tất nhiên là một cách tương đối, chứ làm gì có sự tự do hoàn toàn được? – để có thể thẳng thắn bày tỏ những nguyện vọng của quần chúng và vạch những lỗi lầm của nhà cầm quyền. Nếu bị lung lạc thì văn https://thuviensach.vn nhân chỉ có thể nịnh nhà cầm quyền, làm sao giữ chức ngự sử được nữa ; mà nếu bị đàn áp thì hai bên đã coi nhau như kẻ địch, làm sao còn cộng tác với nhau được nữa? Tiếc thay, lịch sử văn học đông, tây, ít khi ta được thấy những thời nào mà nhà cầm quyền và văn nhân tin cậy nhau, và chung sức với nhau để thực hiện hạnh phúc cho quần chúng. Một văn sĩ Pháp đã nói: “Nghệ thuật do sự bó buộc mà sinh và chết vì tự do”. Đó là đứng về phương diện kỹ thuật ; đứng về phương diện tư tưởng thì ngược lại: Bị bó buộc, tư tưởng sẽ chết nghẹt, được tự do, tư tưởng mới tấn phát. * Xưa nay, khắp thế giới, ngoài Tolstoi ra, có lẽ không có văn sĩ nào được người đương thời ngưỡng mộ như Voltaire. Người a gọi ông là ông Hoàng ; hơn nữa, người ta tặng ông mỹ hiệu, “patriarche”[20] cũng từa tựa như mỹ hiệu “phu tử” ở Trung Quốc ; hoặc danh từ “cha già” ở nước ta, các vua chúa châu Âu lấy làm hân hạnh được thư từ với ông ; hồi ông ần cư ở Ferney, người tứ phương lại chiêm ngưỡng dung nhan ông như một vị thánh sống ; và lúc về già ông được vua Pháp mời lên Ba lê dự lễ đặt vòng hoa lên tượng của ông trong rạp hát Opéra: Cả thành Ba lê nườm nượp tới đó hoan nghênh ông và những bà quý phái sang trọng, trẻ đẹp nhẩy múa chung quanh tượng bán thân của ông đặt giữa sân khấu. Viết văn như ông là thành công đến cực độ, vậy mà có lần ông đã phàn nàn: “…(Hỡi bạn văn), nếu bạn thành công, tức thì kẻ thù xuất hiện: bạn đi trên bờ một vực thẳm, giữa sự khinh bỉ và sự thù hằn”. Tâm lý số đông là không muốn thấy người khác hơn mình và người nào vượt lên hẳn những người khác tất thành cái đích chung cho thiên hạ nhắm. Vì giọng mỉa mai cay độc của ông cũng có, vì kẻ https://thuviensach.vn ghen ghét mà gièm pha cũng có, Voltaire hai lần bị vào tù và biết mấy lần phải chốn chui chốn nhủi, khi ở Cirey, khi ở Ferney. Corneille, Hugo đều bị nhiều văn sĩ bất tài mạt sát, chế giễu ; Đỗ Phủ làm một chức quan nhỏ cũng không yên, tới Lý Bạch cũng có lần bị bắt giam và bị đày ở Dạ Lang. Càng cao danh vọng càng dày gian nan! Nhà văn, nếu tài tầm thường thì bị khinh bỉ và không mấy người ưa. Người ta khinh bỉ vì nhà văn đã không chức tước gì mà lại nghèo túng, có khi đói rét, quần áo lôi thôi, nhà ở như ổ chuột. Người ta không ưa vì đời sống nhà văn khác thường quá, lấy đêm làm ngày, trong khi mọi người làm việc hãng việc sở thì lăn ra ngủ hoặc thơ thẩn, lang thang, y như một tên du thủ du thực. Rồi còn biết bao nhiêu tật: cà phê phải đặc, trà phải đậm, túi rỗng mà vẫn rung đùi nhắm rượu, thuốc thơm phì phà… Cho nên sống giữa xã hội mà nhà văn gần như cách biệt với xã hội và chỉ có thể thân được với những bạn cùng nghề hoặc với một số người yêu văn. Vậy thành công hay thất bại, đại đa số văn nhân đều phải chịu cảnh cô độc. Tài nghệ càng cao, càng được ít người hiểu ; tâm hồn càng lạ, càng bị nhiều người chê. Tống Ngọc mỗi khi “ca” được bao nhiêu người “họa”? Lý Bạch đã mấy lần “độc tọa” trong núi để ngắm mây? A de Vigny tự giam mình trong tháp ngà và Hégésippe Moreau than thở đã “ôm cây đờn ngũ huyền mà dạo trong xứ người đui” - tại sao ông không nói “trong xứ người điếc” nhỉ? Cả những nhà văn hòa tâm hồn vào tâm hồn quần chúng, được quần chúng biết ơn và ngưỡng mộ cũng không tránh được cảnh cô độc, vì họ đã làm nghệ sĩ thì tính tình tất có chỗ khác người, tới người thân của họ cũng khó hiểu được họ, nói chi tới người ngoài. Từ nghìn xưa, Aristote đã nhận “không tâm hồn nào ca lên mà không điên khùng ít nhiều”. Mà trong xã hội có ai thích sống với người điên? * Yêu văn thường là phụ nữ và có lẽ như John Galsworthy nói trong chuyện “Chung cục”, mười văn nghệ sĩ có tới bảy tám người, nếu https://thuviensach.vn không phải là cả mười, được một người đàn bà khuyến khích, nâng đỡ. Phụ nữ hiểu văn thường kém, mà viết thường kém hơn nữa – tôi chỉ nói “thường” thôi ạ - nhưng lại rất thích thi văn, mà làm biếng không chịu viết, nên hay khuyến khích chúng ta viết cho họ đọc và họ dễ có cảm tình với nhà văn nhất là nhà thơ. Hồi đầu chiến tranh, Trần Huyền Trân vào Sài gòn chiếu phim cho một hãng hát bóng ở Tân Định. Một hôm tôi lại thăm ông trong một túp nhà lá đối diện với một chuồng ngựa, trong một ngõ hẻm lầy lội ở Hòa-Hưng. Gia tài ông chỉ có mỗi một chiếc va ly nhỏ chứa bản thảo, ít bộ quần áo và một cái hộp giấy đựng một chiếc khăn thêu. Khăn bằng lụa Hà Đông, màu mỡ gà, rua chung quanh, giữa thêu bằng chỉ đỏ một đoạn văn trong truyện ngắn của ông. Tôi ngắm công trình mỹ thuật ấy, rồi quay lại hỏi: - Những đêm đông nằm trong túp lều của ông trên mặt hồ, nhờ chiếc khăn mỏng này, chắc ông cũng bớt lạnh đôi phần nhỉ? Ông mỉm cười: - Vâng. Gần đây, tôi lại được thấy một chiếc khăn lụa khác thêu hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương viết thảo. Một anh bạn thi sĩ bảo tôi: - Chắc có nhiều những chiếc khăn như vậy lắm. Thi nhân nào mà chẳng có một nàng tiên? Đọc tiểu sử của họ thì biết. Nghe nói mươi mười lăm năm trước, một nữ sĩ mộ tài tới nỗi để riêng một thư phòng trên lầu đón khách tao nhân ; còn một nữ sĩ khác thì mến một văn sĩ nọ quá và mới gặp nhau lần đầu, đã dặn đi dặn lại: “Bao giờ ông lên Sài gòn đừng quên tôi nhé. Ông cứ lại thẳng nhà tôi. Nhà tôi chỉ có một mình tôi thôi”. Rồi sợ anh chàng kia vẫn chưa hiểu, lại nói rõ thêm: “Tôi chưa có chồng, ông ạ”, làm cho anh chàng đỏ mặt lên. https://thuviensach.vn Tôi nghĩ thời nầy mà còn vậy thì ở cái thời Văn Đường, loại thơ hương liêm[21] cực thịnh, lòng thi sĩ mới ấm làm sao chứ! Ôi, chúa đa tình là cái nòi yêu văn! * Nếu không đứng về phương diện văn hóa mà chỉ xét hạnh phúc của bạn gái thì tôi thấy phụ nữ nên giữ nhiệm vụ khuyến khích nghệ thuật hơn là sáng tác nghệ phẩm. Có nhiều cách khuyến khích. Nếu chồng là văn sĩ – tôi không cầu cho các chị em cái điều đó đâu – nếu chồng là văn sĩ thì có thể, như bà A.Daudet, giúp chồng ý kiến ; hoặc chép bản thảo giùm chồng như bà L. Tolstoi[22]. Nếu chồng không phải là văn sĩ thì tìm hiểu văn nghệ, mỗi tháng để riêng một số tiền mua sách, lựa tác phẩm có giá trị mà đọc, rồi giới thiệu với người quen, dư nhiều tiền thì đặt một giải thưởng văn chương, hoặc mở một nhà xuất bản mà không cần lợi vật chất ; như vậy đã ích cho nước, mà thú vị biết bao! Còn viết lách thì mệt lắm, mà nhiều khi bực mình nữa. Cho nên tôi không đồng ý với nữ sĩ Hợp Phố khi bà nói như vầy với nữ sinh trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu ở Mỹ tho, trong một cuộc triển lãm sách báo do trường tổ chức: - Các em thấy không? trong giới văn nghệ, chị em chúng mình chiếm một địa vị khiêm tốn quá. Các em sau nầy rán lên nhé? Rán mà làm chi? “Sáng tác” những em nhỏ mụ mẫm, hồng hào, mắt đen lánh, miệng tươi như hoa, rồi trong khi em ngủ, đọc tiểu thuyết, chẳng thú hơn là bước vào cái nghề kỳ cục, bạc bẽo là nghề viết văn, vò đầu nặn óc để “đẻ” ra những trang mà chỉ sáu tháng sau, đọc là muốn xé vụn, liệng hết vào giỏ rác ư? Rõ là một lời xui dại! https://thuviensach.vn PHẦN THỨ NHÌ VIẾT VĂN https://thuviensach.vn CHƯƠNG I THỜI – KỲ DỰ - BỊ Nhiều bạn trẻ viết thư hỏi tôi: “Học-sinh nên làm văn-nghệ không?” Tôi xin trả lời chung các bạn ấy ở đây. Tôi nhận thấy những bạn hăng-hái bênh vực quan niệm nên làm văn-nghệ đều đưa ra ba lý lẽ: - Trong số học sinh cũng có nhiều “nghệ-sĩ” mà đã là nghệ sĩ thì không thể không viết được. - Nhiều học-sinh yêu văn-nghệ, làm văn-nghệ mà vẫn chăm, vẫn giỏi, vẫn theo đủ các môn, không hiếu danh, khoe khoang, chơi-bời, trụy-lạc. - Học-sinh cần làm văn-nghệ vì trẻ cũng có những băn-khoăn, những nguyện-vọng của trẻ. Chỉ họ mới biểu hiện nổi sinh hoạt của họ. Giáo sư và phụ huynh không thể làm được việc ấy, mà các người quan tâm đến “mầm non của đất nước” cần phải hiểu họ để đào tạo những công dân tốt mai sau. Về lý lẽ thứ nhất, mọi người nhận rằng nhiều bạn trẻ có khiếu viết văn; nhưng bảo rằng đã là nghệ-sĩ, không thể không viết được, thì xin lỗi các bạn, tôi chưa tin hẳn lời ấy: hẳn các bạn chưa quên lời của Lỗ-Tấn, mà tôi đã chép ở một chương trên? Về lý-lẽ thứ nhì, lấy kinh-nghiệm để xét thì tôi được biết bốn anh bạn và ba học sinh của tôi vừa đi học vừa viết văn. Trong số đó có bốn người hiếu danh, khoe khoang, kết quả chắc chắn là không đi tới đâu; và ba người đứng đắn thì chỉ mó mỗi một người đậu được tú tài, còn hai người kia đều bỏ dở sự học và phải ân hận rằng học kém quá, ra đời muốn học thêm mà mắc bận bịu vợ con, lo cái nợ cơm áo. Sau cùng, về lý lẽ thứ ba, tôi cũng muốn tin rằng các bạn học sinh có những băn khoăn, những nguyện-vọng mà giáo sư và phụ huynh https://thuviensach.vn không hiểu nổi. nhưng tôi đã đọc cả trăm bài của các bạn viết và đăng trên các nhật báo hoặc các tờ Giáo khoa, mà thực chưa thấy một băn khoăn, một nguyện vọng nào đặc biệt, chỉ toàn là những nguyện vọng, băn khoăn của chúng tôi hồi còn đi học hoặc của toàn thể quốc dân bây giờ. Xin các bạn đừng vội hiểu lầm tôi. Trong cuốn Kim chỉ-nam của học-sinh tôi đã khuyên các bạn viết nhiều, rất nhiều, viết thư, viết nhật ký để luyện cây bút và ghi những tư tưởng, tình cảm của mình. Vậy tôi không chống hẳn với quan niệm của các bạn; nhưng tôi nghĩ chỉ khi nào các bạn tin chắc rằng mình có tài như Victor Hugo, hoặc ít nhất cũng như Nhất Linh, Xuân Diệu – ba nhà đó đều đăng thơ văn từ hồi 16-17 tuổi – lại có những thắc mắc, băn khoăn nói với giáo sư, phụ huynh không được, và viết thì viết, bổn phận nhà trường vẫn làm tròn, bài vẫn học đủ; chỉ khi nào có tất cả những điều kiện ấy, các bạn mới nên viết để đăng báo. Tài không đợi tuổi mà hiểu biết cần kinh nghiệm. Văn thơ viết hồi mười lăm, mười sáu tuổi, giọng có thể nồng nàn, lời có thể tươi đẹp; nhưng về tư-tưởng thì khó mà đặc-sắc được. Tôi có cái tật xem văn thì xét cả lời lẫn ý và tôi tưởng Xuân-Diệu, Nhât-Linh về già có đọc lại thơ hồi nhỏ của mình, cũng cho là tuổi ấy quá ngông-nghênh. Vả lại, sớm thành danh thường có hại. Người ta dễ tự-đắc, không chịu học-hỏi thêm, trau-giồi thêm tài nghệ, đức hạnh. Cũng vì lẽ đó, con trai một anh bạn tôi, mới mười sáu tuổi làm thơ ngụ-ngôn đã khá, nhưng không được anh bạn tôi cho phép gieo vần nữa và bắt phải cần cù học thêm. Hai anh em Goncourt trong tập Nhật-ký, khuyên các bạn trẻ nên tập viết từ khi ở ban Trung-học tài ra cho tới lúc hai mươi lăm hoặc ba chục tuổi. Bạn nên nhớ hai ông sáng-lập hàn-lâm-viện Goncout để khuyến-khích những tài-ba chớm nở và đặc-sắc mà còn nói như vậy thì lời đó thật cũng đáng cho ta suy-nghĩ. * https://thuviensach.vn Vậy theo hai ông, thời-gian tập viết là từ năm đến mười năm. Muốn hiểu và nhớ kỹ-thuật viết, chỉ sáu tháng hay một năm là đủ; áp dụng cho quen cần tốn công hơn; tốn công nhất là phải tự học để mở-mang trí-thức và tu luyện nhân-phẩm. Bạn chuyên làm thơ ư? Ít nhất bạn cũng phải đọc những tác phẩm chính của các thi-sĩ có danh của nước nhà, của Trung Hoa, hoặc của Pháp, biết quan-niệm của họ, đời sống của họ và những lời người khác phê bình họ. Nếu có thể được, bạn cũng nên hiểu qua thơ Anh, Nga, Đức, Mỹ, Nhật… Càng biết nhiều càng lợi, hứng càng dồi dào, ý càng phong phú, lời càng điêu luyện. Thực đáng tiếc, hầu hết các nhà thơ Việt-Nam đều không chịu học thêm, nhiều người chỉ biết độ trăm bài thơ Việt, vài chục bài thơ dịch của Trung Quốc, và ba bốn chục bài thơ Pháp: như vậy trách chi sự sáng tác của họ chẳng nghèo nàn về mọi phương diện? Và bạn cũng phải tìm hiểu các loại văn khác, chứ không lẽ vì chỉ làm thơ mà không cần biết kỹ-thuật viết tiểu-thuyết, kịch,… Còn nếu bạn muốn viết nghị luận và phê bình thì tôi có thể nói bất kỳ một tri thức gì của loài người cũng lợi cho nghề của bạn. Nhãn quang có rộng thì tư tưởng mới cao và văn mới có chân giá trị. Vậy đã là văn-nhân thì phải tự học, học suốt đời, học trong sách vở và trong vũ trụ, nghĩa là sống và luôn luôn nhận xét. * Nhân-cách còn quan trọng hơn tri thức và kỹ-thuật, Văn minh phương Đông chúng ta có đặc-điểm là không bao giờ tách rời trí dục và đức dục; khoa học luôn luôn bị coi là phụ thuộc cho luân lý; chẳng riêng trong sách thuốc mà ngay trong những sách số bói, phong thủy, ta cũng thấy đầy những lời khuyên học sinh phải tu nhân, tích đức, nhất thiết không được dùng sự hiểu biết của mình vào việc ác. Các nhà nho chân chính bao giờ cũng lựa học sinh rất kỹ, chỉ truyền bí thuật cho những môn đồ thông minh và có hạnh để họ khỏi hoặc vô tình hoặc cố ý làm hại nhân loại. https://thuviensach.vn Tại phương Tây thì khác hẳn: khoa học là khoa học, luân-lý là luân-lý. Không một cuốn Vật lý học hoặc Hóa học nào khuyên người đọc đừng dùng những chất độc, những thuốc nổ để tàn-sát kẻ khác. Bởi vậy, loài người ngày nay mới phải điêu đứng về chiến tranh, mà nửa thế kỷ trước, H.Bergson đã than thở: “Nhân loại rên rỉ, gần bị đè bẹp dưới sức nặng những tiến bộ của mình (…) Trước hết nhân loại cần xét xem mình có muốn sống nữa không”. và mới rồi, Einstein trước khi chết đã để lại một chúc thư, lời lẽ thống-thiết, kêu gọi liệt cường tránh cho nhân loại cái họa diệt vong vì chiến tranh nguyên tử[23]. Tinh thần trọng đức dục đó của tổ tiên, chúng ta phải gìn giữ mà nhà văn có nhiệm vụ bảo vệ nó hơn hết. Vậy thì trước khi cầm cây bút, ta nên tự luyện lấy nhân cách đã. Ta không bảo văn nhân nào cũng phải là một nhà đạo đức như Khổng-Tử, Platon cả đâu, hạng người phàm như chúng mình còn nhiều tật lắm, nhưng tôi nghĩ rằng một nghệ phẩm phải nâng cao tâm hồn độc giả, gợi những tình cảm cao thượng và đọc những tác phẩm bất hủ đông tây tôi thấy hầu hết đều do những người có tâm hồn trứ-tác. Đã đành có những thời mà trào lưu lãng mạn tràn ngập cả văn đàn một nước. Như vào thời Lục Triều ở Trung Quốc, thế kỷ 19 ở Pháp, văn nhân đều ủy mị say sưa, chán đời, phóng túng. Tuy nhiên, tâm hồn của những nhà còn lưu danh đến ngày nay đâu phải không có chỗ trong sạch và vài điểm khả ái đáng làm gương? Văn là biểu hiện của tâm hồn. Tâm hồn ti tiện thì thuật có khéo, văn cũng chỉ có tính chất tiểu xảo, điêu trùng khắc triện, cảm người không mạnh và giá trị không cao. Vậy muốn tập viết văn, ta phải luyện tâm hồn yêu cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ; luyện được thì văn ta tự nhiên sẽ có cái phẩm riêng, được người mến. Khổng Tử, Lão Tử nào có học viết văn bao giờ; Thích Ca, Giê-Du cũng không hề nghĩ đến luyện bút mà chư vị đó hễ thốt ra lời nào là https://thuviensach.vn người đương thời chép lại; hoặc truyền khẩu cho nhau và hậu thế coi là những áng văn bất hủ của nhân loại. Tại sao vậy? Tại chư vị ấy tâm hồn cao thượng quá, tư tưởng thâm trầm hoặc siêu thoát quá cho nên ngôn ngữ tự nhiên cũng hay, cũng đẹp. Vâng quả vậy, thưa bạn trong cái việc văn chương tâm hồn quan trọng nhất, trí thức thứ nhì, sau cùng mới tới kỹ thuật. * Muốn học kỹ thuật viết văn thì phải tập viết. Hai anh em Goncourt khuyên ở trường ra cứ viết bừa đi, không theo một luật lệ nào cả, cứ chép tất cả những điều trông thấy, nghe thấy, và trong khi đó, ráng quên những điều đã học trong sách. Lời khuyên đó nên theo Hồi mới ra trường công chánh, vào làm việc ở Nam Việt, tôi có rất nhiều thì giờ rảnh. Những lúc nhớ gió bấc mưa phùn, nhớ mặt nước xanh rêu của hồ Gươm, nhớ con đê thăm thẳm của sông Nhị, tôi nằm trong ghe không biết làm gì cho vợi nỗi buồn, liền viết ký ức. Tôi không bố cục, không gọt đẽo, mà dẫu có muốn gọt đẽo, bố cục cũng không biết cách vì tôi chưa được đọc một cuốn nào về thuật viết văn. Cứ nhớ đâu là tôi chép đó, cứ nghĩ sao là tôi viết vậy, đúng như phương pháp “văn tòng tự thuận” của nhóm Hồ Thích, nghĩa là viết cứ xuôi rót, thẳng như ruột ngựa. Ngày viết được năm trang, ngày được mười, có khi cao hứng mười lăm, hai mươi trang không chừng; quên cả bữa cơm, quên cả ngày giờ, bóng tối len lỏi vào trong ghe lúc nào không hay, khi đặt cây viết xuống, nhìn lên bờ thì làng xóm đã lờ mờ sau làn sương mỏng. Say mê vô cùng. Cầm bút lúc nào là tâm hồn tôi rung động nhè nhẹ lúc ấy, như được nghe một bản nhạc êm đềm, bản nhạc của cố hương và dĩ vãng. Sau bốn năm tháng, tôi viết được sáu trăm trang giấy đặc. Nhờ cách ấy, tôi thấy viết mỗi ngày một dễ dàng. Hết ký ức, tôi viết nhật ký, ghi những điều mắt thấy tai nghe trong khi lênh đênh trên những sông rạch miền Hậu Giang. Nào những đêm trăng rạo https://thuviensach.vn rực, thả chiếc thuyền trên rạch Cái Răng hay Bình Thủy mà nghe tiếng đàn tranh văng vẳng dưới rặng sao ở trên bờ; nào những buổi chiều đậu ghe trong cánh đồng Bạc Liêu hay Rạch Giá, nhìn mặt trời đỏ như cục than hồng và lớn bằng chiếc mâm từ từ hạ xuống mặt đất mênh mông phẳng lì; nào những cảnh âm u trong rừng đước, rừng vẹt ở Cà-mau, cảnh phồn thịnh của lâu đài, vườn tược ở Sa đéc... những cảnh đó, những tình đó, nhất nhất tôi đều ghi lại đủ. Tóm lại, tôi đã theo phương pháp của Goncourt mà không hay và tôi tưởng hầu hết các nhà văn đều tập viết như vậy: quên những điều đã học mà cứ viết bừa đi, không mô phỏng ai cả, có cái lợi là thấy vui, không chán, mà tập được một lối văn tự nhiên, đặc biệt của mình. * Tập viết rồi lại phải tập sửa: biết sửa văn tức là biết viết văn. Nhưng lúc mới đầu, tập sửa văn mình là một việc rất khó, vì ta chưa quen đứng vào địa vị khách để duyệt lại văn ta, cho nên rất cần có người khác chỉ bảo. Nếu bạn có được một ông thầy đủ khả năng và tận tâm thì thật là may cho bạn bạn khỏi mất thì giờ mà dễ thành công. Còn như không có thì bạn có thể theo một lớp hàm thụ dạy thuật viết văn như trường Universelle hay trường Sciences et Arts ở Pháp[24]. Giáo sư những lớp hàm thụ ấy cố nhiên có nhiều kinh nghiệm về nghề cầm bút, xét văn rất sành, ta có thể tin họ. Tuy nhiên, một là vì lẽ ở đời không có gì tuyệt đối, hai là vì óc thẩm mỹ của mọi người không thể giống nhau trong các khía cạnh, những ông thầy văn đó cũng có khi lầm. Chẳng hạn Jesse Stuart trong cuốn Viết vì thích hoặc vì tiền (Writing for love or for money) kể chuyện giáo sư một lớp hàm thụ nọ khuyên ông đừng viết tiểu thuyết, nhưng ông cứ viết, và sau được ba tờ báo ở Mỹ tranh nhau đòi mua truyện. * https://thuviensach.vn Trái lại với Goncourt, hai anh bạn thi sĩ chỉ cho tôi một phương pháp khác: muốn tập viết văn thì trước hãy tập làm thơ. Tại sao lại tập làm thơ rồi mới tập viết văn? Theo hai anh ấy thì tập làm thơ trước là để tập chú trọng đến nhạc trong văn, đến đức gọn, tinh xác và hàm súc tức như để quen với công việc sửa chữa, thôi sao. Lời đó có lý. Viết văn xuôi, ta được tự do hơn làm thơ, nên có thói phóng bút, viết mau, mà viết mau thì văn có thể tươi sáng, song lời thường thừa, ý thường loãng. Làm thơ, bị vần, niêm luật, số chữ, số câu khiên chế, ta bó buộc phải tìm nhiều cách để phô diễn một ý, ta phải lựa những tiếng xác đáng, du dương, rồi đảo lên đảo xuống, thay đổi, cân nhắc: sự câu thúc đó sẽ đưa ta đến nghệ thuật. Phương pháp của hai bạn thi sĩ đó tất phải có kết quả. Tuy nhiên, tôi e nó không phải một phương pháp chung, thích hợp với mọi người: những bạn nào không có khiếu về thơ mà theo cách ấy có thể mau thất vọng; vả lại văn vần và văn xuôi có những quy tắc khác nhau xa cho nên Tăng Củng ở Trung Quốc viết cổ văn rất hay[25] mà làm thơ không được, còn ở Việt Nam, Tản Đà thơ bất hủ mà văn xuôi thì kém. Tóm lại, theo tôi thì trừ khi là một người có khiếu về thơ, ta mới đầu cứ thích cái gì viết cái đó, như vậy có dịp dò dẫm, tìm con đường đi, thử qua mọi loại để sau cùng lựa loại nào thích hợp với mình. Về điểm này, Jesse Stuart cũng bảo: “Thích cái gì cứ viết cái đó, rồi người khác sẽ thích”. * Nếu bạn không thích làm thơ mà muốn tập tự câu thúc mình trong khi viết thì tôi xin chỉ bạn một cách khác là dịch các danh phẩm ngoại quốc. Sau khi viết ký ức và nhật ký như trên đã kể, tôi bỏ ra hai năm dịch pháp văn và hoa văn. Tôi dịch lung tung, ít trang của A.France. J.J Rousseau, V. Hugo, một chương trong cuốn Một nghệ thuật sống https://thuviensach.vn (Un art de vivre) của A. Maurois, trọn cuốn Huấn luyện tình cảm (L’éducation des sentiments) của P. F. Thomas, nhiều truyện ngắn, tùy bút của Hồ Thích và năm, sáu chục bài trong bộ Cổ văn quan chỉ. Nhờ công việc dịch ấy, tôi học được rất nhiều và hiểu rõ tư tưởng của các tác giả hơn trước: lắm câu đọc qua tưởng là rõ ràng, đến lúc dịch mới thấy có chỗ chưa tỉnh xác, dễ khiến độc giả hiểu lầm. Khi dịch, tôi rán tìm những tiếng Việt để diễn đúng và khi viết tôi giữ được tập quán lựa tiếng, thành thử ngoài cái lợi được ảnh hưởng của nhiều danh sĩ tới phép hành văn, tôi lại tập thói suy nghĩ, phê bình và viết sao cho thật sáng sủa[26]. Người ta bảo Henry de Montherlant ngày nào cũng dịch Tacite để luyện văn. Điều ấy có thể tin được và gương ấy rất nên theo. * Chương nầy đáng lẽ đến đây là hết, nhưng tôi tưởng nên bàn thêm về vấn đề lựa chọn bút danh[27]. Khi nào bạn thấy văn của bạn đã đáng cho ra mắt độc giả thì tất nhiên vấn đề lựa bút danh sẽ làm cho bạn phải nhiều thắc mắc. Lựa tên gì? Đặt tên gì cho hay, cho kêu, cho những độc giả tương lai của mình phải tức thời chú ý? Ồ, cái đó thì tùy bạn, bạn có thể dùng bút hiệu là A, B, C hoặc X, Y, Z hoặc Chàng Bẩy, Chàng Ba... Bạn lại có thể lấy ngay tên một thi hào đời cổ, chẳng hạn Nguyễn Du, Lý Bạch. Bạn cười ư? Có làm sao? Bạn chẳng thấy một ký giả Việt Nam kia đã mượn họ và tên hiệu của thi thánh Đỗ Phủ để ký bằng ba chữ Đỗ Thiếu Lăng? Nhưng tôi xin dặn kỹ bạn điều này: phải cẩn thận, cẩn thận lắm lắm, đừng để bút danh của ta trùng với bút danh một nhà văn Việt Nam đương thời. Tối kỵ đấy! Mới năm nào, đọc trên một tuần báo nọ ở Sài-gòn, tôi đã thấy chỉ trong nửa tháng mà đã có hai nhà văn la lên bải hải rằng họ đã bị người khác ký trùng tên. Tội nghiệp quá! Số văn sỉ nước mình hiện https://thuviensach.vn nay, kể cả những người từ trước chỉ viết có một bài báo vài chục hàng, có tới hàng ngàn hàng vạn mà những tên đẹp như Xuân giang Thu nguyệt… kiếm ra cho hết, cũng chỉ được năm, bảy chục, thì hỏi làm sao mà chẳng có những trường hợp ký tên trùng? Lỡ mà dùng lầm bút hiệu của một văn nhân chưa nổi tiếng là việc không ai nỡ trách, nhưng nếu không phải là Hồ Trọng Hiếu mà ký Tú Mỡ, không phải Nguyễn Khắc Hiếu mà ký Tản Đà thì không mong gì được người ta nới tay rìu búa! Vì ngại vậy nên mặc dầu đã được một ông bác đặt cho bút hiệu là Lộc Đình mà tôi vẫn cứ ký tên trên khai sinh. https://thuviensach.vn CHƯƠNG II TỔ CHỨC ĐỜI SỐNG Nhà văn nên sống ở đô thị lớn hay ở tỉnh nhỏ? Khi tôi mới lên ngụ ở Saigon, một ông bạn tiếp tôi trong một cửa hàng do ông làm chủ và đã bảo tôi: - Lên đây anh khó mà viết lách. Hồi tôi ở H.T. tôi có trứ tác được, độ nầy hết hứng, mỗi năm chỉ làm được vài bài thơ… Đời sống ở đây bận rộn quá mà cũng ồn-ào quá! Nghe tôi nói tôi tự nghĩ tại đời sống ở Saigon nầy thì ít mà tại không khí trong cửa hàng thì nhiều. Mắc làm con toán suốt ngày, viết sao được nữa? Tôi nhớ Charles Braibant có nói: “Không khí thành Balê kích thích, nhưng nó như một thứ thuốc kim thạch dùng luôn hóa quen. Ở lâu thì không khí đó làm ta kiệt lực. Bạn cũng biết rằng những gia đình lập nghiệp ở Ba lê đến đời thứ ba là tiêu diệt đấy chứ?” Sự kích thích của không khí ở đô thị lớn cần cho nhiều nhà văn để sáng tác. Nhất là các nhà báo, phải tra cứu tài liệu trong các thư viện, nghe ngóng tin tức trong các quán cà phê, nếu sống ở tỉnh nhỏ, làm sao họ viết được! Nhưng nếu luôn năm, bảy năm không ra khỏi chốn đô thị náo nhiệt, bên tai lúc nào cũng ầm ầm, trước mắt lúc nào cũng nhộn nhịp thì tâm thần ta tránh sao chẳng phải mệt mỏi, mà công việc trứ tác chẳng kém về lượng hoặc về phẩm? Vậy nếu có một khu vườn ở ngoại ô châu thành, như tại làng Mọc, làng Bưởi, làng Ngọc Hà ở chung quanh Hà Nội, hoặc ở khỏi Gia Định, Phú Nhuận, Lăng Tô gần Sàigòn thì thích nhất và tiện nhất. Sống ở đây ta có thể tùy tiện ra đô thị tìm tài liệu ở thư viện, chuyện trò với các văn hữu hay tính toán công việc với nhà xuất bản, https://thuviensach.vn mà lại vẫn được tiếp xúc với thiên nhiên, ngắm đồng lúa, dòng nước, nghe tiếng sáo, tiếng chim Được tận hưởng cái thú và cái lợi của cô tịch tại những nơi đó, nguồn cảm hứng của ta sẽ dồi dào mà tâm hồn ta cũng được gột rửa. Nhà thơ Alfred de Vigny nói: “Về thi ca, về triết lý, về mọi ngành văn chương, nếu chỉ có thì giờ để suy nghĩ rồi viết thì là hỏng,” Ông muốn khuyên ta phải mơ mộng một cái gì cao đẹp cho tư tưởng được khoáng đạt, văn từ được tiêm nhã. Nhưng ngồi đâu mà mơ mộng được? Ở nơi đồng quê tĩnh mịch hay ở nơi xe cộ ồn ào? * Bàn về chỗ làm việc thì trong phòng nên có một ghế xích đu, lúc nào mỏi lưng ta có thể nằm trên ghế mà suy nghĩ, đọc sách hay viết thảo. Nhiều nhà bác học, chính trị hoặc doanh nghiệp đã nhờ thứ ghế đó mà làm việc được suốt ngày. Đến như sách là nguyên-liệu của nhà văn, ta cần biết giữ gìn và sắp đặt. Nên làm hai thẻ cho mỗi cuốn, một thẻ sắp theo tên tác-giả, một thẻ sắp theo môn loại, và làm ngay từ khi mới mua về, đừng đợi lúc có bốn, năm trăm cuốn mới làm, ta sẽ thấy ngại lắm. Sách ít, muốn sắp ra sao cũng được, càng nhiều thì càng phải phân loại kỹ lưỡng cho dễ sắp và dễ kiếm. Nếu mỗi cuốn có hai cái thẻ thì trong tủ có thể sắp theo chiều cao của sách. Ta sẽ chia sách làm nhiều ngăn, tùy theo khổ sách: - Sách cao dưới 20 phân. - Sách cao từ 21 đến 30 phân. - Sách cao trên 30 phân. Theo tôi cách sắp đặt chỉ trong cuốn Un art de vivre của Adrien Jans có thể theo được, tuy nó có chỗ bất tiện là những sách cùng một loại thường không cùng một khổ, thành thử cùng một ngăn mà có cuốn cao, cuốn thấp, trông không đẹp mắt: https://thuviensach.vn 1.Những cuốn ta thích nhất, không kể loại. 2. Những cuốn in đẹp: a) sách về mỹ thuật, b) sách về văn học. 3. Tiểu thuyết (Sắp theo chữ cái của tên tác giả) 4. Thơ (n.t) Phê bình. Tùy bút (Sắp theo chữ cái của đầu đề) 5. Sử ký (Sắp theo thời đại và từng xứ) Triết lý 6. Loại sách nhỏ về khoa học Tiểu sử (Sắp theo tên người nói trong sách) 7. Tôn giáo 8. Tạp chí. Chắc Adrien Jans có những lý lẽ riêng nên mới sắp Triết lý chung với Sử ký và Tiểu sử chung với Khoa học. Ta không cần theo đúng ông, có thể sắp Phê bình, Tùy bút, Tôn giáo chung một ngăn với Triết lý, Tiểu sử chung với Sử ký v.v. Nếu không lập cho mỗi cuốn hai thẻ thư tịch thì ít nhất ta cũng phải ghi tên sách theo từng loại vào một cuốn sổ như dưới đây. Nhà Số sách Tên tác-giả Tên sách xuất-bản Năm xuất-bản Ý quan-trọng trong sách Tiểu chú Ngày lấy ra 1 2 3 4 5 6 7 Trong cột 7 nên ghi bằng viết chì để dễ gôm những lời ghi khi trả sách vào tủ. Trong cột 6, có thể biên tên người mượn sách. Khi sắp sách vô tủ, nên đặt đứng; những cuốn nặng nhất nên để ở những ngăn dưới, những cuốn thường dùng nên để vừa tầm tay cho https://thuviensach.vn dễ lấy, những cuốn nhẹ thì nên để trên cùng.[28] Sách là kho tài liệu, nên chẳng những phải giữ gìn kỹ lưỡng, sắp đặt có thứ tự mà khi đọc còn nên ghi chép rồi lập một thẻ tài liệu cho những chương quan trọng. Nếu bỏ bừa bãi, không nhớ mình có những cuốn gì, trong mỗi cuốn có những ý gì quan trọng, tài liệu gì có thể dùng được thì chẳng khác chi có kho vàng mà không biết chỗ chôn đâu. * Đã xét nhà ở và phòng, bây giờ tôi xin xét đến cách làm việc. Về điểm này mỗi nhà văn có những thói riêng. Có những người như Henri Béraud đi ngủ rất sớm, từ tám giờ tối để ba giờ sáng dậy viết một hơi tới mười giờ rồi nghỉ ngơi cả buổi chiều. Có người lại quen viết buổi chiều từ ba đến bẩy giờ vì họ cho buổi sáng óc chưa có cái để làm việc, còn buổi tối phải nghỉ, nếu không sẽ mất ngủ. Một số như Victor Hugo và nhất là Gustave Flaubert viết đều đều như một thư ký, cứ sáng tám, chín giờ là ngồi viết tới mười, mười một giờ, chiều cũng có những giờ nhất định. Hứng tới hay không cũng mặc, đến giờ là cắm cổ viết, như “một con trâu kéo cày”. Flaubert, một nhà văn có nghị-lực phi-thường, đã khuyên ta: “Đừng nói: “Lúc nầy tôi viết không được, đầu tôi trống rỗng”. Khi nào ngòi bút không tự nó đi thì phải bắt nó đi. Người ta cứ tưởng-tượng rằng bắt buộc như vậy, nó sẽ đi bậy bạ. Đâu có. Chỉ những ngòi bút được người ta điều khiển lâu mới thành ngòi bút hay. Muốn một cách mãnh liệt, quả quyết, bất biến thì việc gì cũng thành”. Cách làm việc đó, đắc lực nhất và sẽ có ít phí sức nhất. Nhưng văn sĩ không mấy người được như hai nhà đó, phần đông làm việc tùy hứng mà ác thay hứng thường tới ban đêm, trong những lúc tĩnh mịch nhất, vạn vật đều ngủ, tiếng động đều tắt. Hai https://thuviensach.vn văn sĩ bạn thân của tôi đều lấy đêm làm ngày và tối nào cũng uống trà tàu hoặc cà phê đậm để thức cho khuya,, thử hỏi làm sao mà không mau kiệt sức? Nhưng có một điều mà phần đông các nhà văn đều công nhận là phải sắp đặt làm sao cho có thể làm việc liên tiếp ba, bốn giờ; nếu mới viết độ một giờ lại phải ngừng thì mỗi khi viết tiếp lại phải mất mươi, mươi lăm phút suy-nghĩ để cho óc quen với việc. Tôi vừa nói hai tiếng “phần đông” vì tôi được biết chuyện văn sĩ Aguessau một hôm đưa tặng bà vợ một tập tư tưởng do ông trứ tác trong những phút đợi bữa ở trước bàn ăn. * Nếu viết đều đều suốt năm thì mỗi ngày năm, sáu giờ đã là nhiều lắm vì, như tôi đã nói, những lúc nhà văn không viết thì óc cũng ít khi được nghỉ, luôn luôn bị đầu đề ám ảnh, cả trong bữa ăn, giấc ngủ. Thì lực lưỡng đến như Balzac, lại ở một khí hậu mát mà nào có viết quá cái số giờ đó mỗi ngày! Theo tôi, cuộc sống sướng nhất cho nhà văn là mỗi năm được du lịch bốn, năm tháng, vừa đi chơi vừa suy nghĩ, nhận xét tìm đề tài, rồi về đô thị thăm bạn bè, nhà xuất bản, tra cứu tại thư viện, sau hết kiếm nơi tĩnh mịch viết trong năm, sáu tháng, mỗi ngày viết độ bốn, năm giờ. Tất nhiên, phải vào hạng ông hoàng trên văn đàn Âu, Mỹ mới có thể sống một cuộc đời phong lưu an nhàn như vậy. Còn như văn nhân nước mình, nếu không có một nghề thứ nhì thì dẫu có cắm cổ viết suốt năm, mỗi ngày bảy, tám giờ, cũng không đủ sống, cứ phải lo gạo từng ngày. Như thế, ý làm sao mà cao kỳ; văn làm sao mà già giặn? Vạn sự chỉ do nghèo! Xin bạn nghe lời Charles Braibant khuyên các văn sĩ: “Phải tránh đừng đau ốm. Nếu đau thì dưỡng bệnh ở đâu? Có những an dưỡng đường cho các giới trong đủ nghề, trừ cho nhà văn và nghệ sĩ. Cũng tránh đừng chết; ai trả phí tổn đám tang cho?” https://thuviensach.vn Ôi! Chua chát! Charles Péguy than: “Tôi đau thận cần nghỉ hai tháng. Nhưng nếu tôi nghỉ thì mất cái đà viết”. Đau xót chưa? * “Nếu nghỉ thì mất cái đà viết”, Péguy lo như vậy, nhưng tôi khuyên bạn mất thì mất, bạn cũng phải nghỉ, mặc dầu tôi biết rằng, viết đương có đà mà phải ngưng hàng tháng thì bực lắm, và khi viết tiếp, đã khó nhọc, lại kém hay. Bạn cần phải nghỉ để tránh khỏi chết sớm; còn như muốn tránh đau thì hãy nghe Dumas-con khuyên[29]: “Mỗi ngày anh nên đi bộ hai giờ, mỗi đêm ngủ bảy giờ; ngủ một mình thôi; hễ thức thì dạy liền(.,) Đói mới ăn, khát mới uống, và luôn ăn uống chậm chậm (…).” Ông lại căn dặn thêm: “Dưới hai chục tuổi đừng gần đàn bà, ngoài tứ tuần cũng nên xa họ” Chà, ông lão đó thật là kỹ lưỡng quá, thọ đến ngoài bảy chục cũng là phải! Đã có một thời, nhiều văn nhân nước nhà ca tụng sự trụy lạc, hô hào rằng phải ăn chơi, phải “bốc đồng”, phải làm nô lệ cho phù dung tiên tử, phải mài miệt trong các xóm bình khang, phải như thế thì hứng mới tới, mới có thể sáng tác được, mới đáng mang cái danh hiệu nghệ sĩ. Phong trào ấy lan khắp nơi, thậm chí tới Vũ Ngọc Phan, một nhà văn đứng đắn cũng còn bênh vực họ: “Trên đường nghệ thuật, trên con đường muôn ngả, người nghệ sĩ dùng cách nào để đi tới được nơi sáng suốt và hái cho nhân loại những thứ quả quý nhất thì thôi, ta không nên trách sao họ lại uống rượu, sao họ lại hút thuốc, sao họ lại không sống một cách vệ sinh như ta”. Trong đoạn nầy, tôi không đứng về phương diện luân lý, cũng không đứng về phương diện xã hội, chỉ xin xét cái lợi của nhà văn.Theo tôi, chưa chắc đã cần rượu mạnh, nha phiến, mỹ nhân để kích thích mới có thể sáng tác được; nhưng tôi chắc hễ phí sức và phí https://thuviensach.vn tiền thì nhà văn tất mau chết, vợ con tất điêu đứng, văn nghiệp chỉ nửa vời. Ngoài ra chắc bạn đã biết, tại các dưỡng đường ở Sàigòn lúc nầy, tiền phòng mỗi ngày là trăm rưởi, nếu kể cả tiền ăn, tiền thuốc, tiền công cho bác sĩ thì tới năm trăm. Ruột tằm kia gỡ ra mấy tuần mới được số tiền ấy? Mấy năm trước, một thi-sĩ có danh tuyên bố trên một tuần báo rằng một văn nghệ sĩ chỉ được sống bằng nghề cầm bút, không được có một nghề khác, nghĩa là phải đem hết thì giờ, tâm lực ra phụng sự văn nghệ, phải hoàn toàn chung thủy với nàng Văn hoặc nàng Thơ. Nực cười thay, một quan niệm hy sinh đến mực đó cho nghệ thuật! Một anh bạn tôi đọc lời tuyên bố ấy, bĩu môi: - Tôi không hiểu tại sao nhà thơ đó lại nói thế? Ai mà chẳng biết rằng chính anh ấy có tới ba nghề, ngoài cái nghề cầm bút mà gần đây anh ấy tỏ vẻ thờ ơ. Hay là anh ấy định “nay đã mần cha thằng họ Bạc, rầy thì bỏ mẹ cái nàng Thi?” Phải lắm chứ, nếu bảo rằng phải sống về nghề văn và chỉ sống về nghề văn mới là văn nghệ thì té ra hết thảy những nhà văn thơ không chuyên sống về nghề bán thi văn phẩm như Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, Vũ Hoàng Chương, cả nhóm Tự lực văn đoàn và nhất là những thi hào đời trước của ta như Nguyễn Du, Nguyễn thị Điểm, Thanh Quan, Nguyễn Khuyến… đều không phải là nghệ sĩ hay sao? Ngay như ở Pháp mà nghề viết cũng đã có từ thế kỷ 17, các thi văn hào thời trước như Corneille, La Fontaine, Molière, Bossuet, Montesquieu, J.J. Rousseau, Lamartine, Maupassant, Zola… và gần đây như Loti, Ferrière, A. France … cũng sống nhờ một nghề thứ nhì, ông thì đóng kịch, chép bản nhạc, ông thì làm luật sư hay tư chức, công chức, lại có ông làm … cố đạo. Một quan niệm vô lý như vậy không có giá trị gì cả. Bạn có thể làm thêm một nghề thứ nhì, tôi còn muốn khuyên bạn nên làm thêm một nghề thứ nhì nữa. https://thuviensach.vn Có một nghề phụ, trước hết bạn sẽ khỏi đói. Rồi nhờ không đói, bạn dễ giữ vững được tư cách, được tinh thần của bạn: khi con nheo nhóc, ì eo vì tới bữa mà bếp vẫn còn lạnh; khi vợ nhăn nhó vật vã mà không có tiền đi bác sĩ thì bạn có nghị lực đến đâu mà dám quyết sẽ không đem bán đấu giá nàng Văn và nàng Thơ dưới mọi hình thức cho một kẻ giàu sang bỉ ổi? Tuy nhiên, nếu bạn gặp may mắn, đã đủ sống về cây bút thì tôi lại khuyên bỏ cái nghề phụ ấy đi nếu nó đòi hỏi bạn nhiều công sức, thì giờ và không có tính cách tiêu khiển[30]. Nhưng xin bạn đừng bỏ quá sớm. Nhiều tiểu thuyết gia mới xuất bản được vài cuốn bán chạy, vội bỏ các nghề khác để chuyên sống về tiểu thuyết thì bỗng nhiên cụt hứng viết, cụt hứng một cách lạ lùng. Lúc đó mới nguy! * Bạn hỏi tôi: - Nên lựa nghề gì làm nghề thứ nhì? - Thưa bạn, nghề nào hợp với khả năng của ta mà có lợi hoặc ít nhất cũng không hại cho nghề cầm bút. Thiên Giang khuyên lựa một nghề tay chân. Nhà văn nầy có hồi làm thợ sắp chữ, có dạo cuốc đất làm vườn. Hư Chu, lúc nào rảnh viết thì cầm ngay cái đục, cái cưa, hí hoáy đóng bàn, đóng ghế, đóng chẳng ra trò gì cả, nhưng ông ta cũng rất thích. Đồng ý với hai nhà văn đó, tôi vẫn ghét đời sống trên bàn giấy vì nó thiếu không khí, thiếu vận động, ăn không tiêu, phổi kép lẹp, tôi vẫn ước ao được như William Faulkner[31], sáng cầm bút, chiều cầm cầy; và vẫn mong trong xã hội ngày mai, người làm việc tinh thần sẽ có nửa ngày để làm việc tay chân, mà người làm việc tay chân cũng có nửa ngày để đọc sách. Nhưng trong hiện tình, một nghề tay chân khó nuôi được nhà văn, nên Thiên Giang đã thôi làm sắp chữ mà Hư https://thuviensach.vn Chu chỉ làm thợ mộc tài tử, lấy thùng sữa đóng cái bàn cái ghế cho “bầy nhỏ” mà thôi. Như vừa nói, tôi vẫn ghét đời sống bên bàn giấy, nếu lại sống bên bàn giấy để làm thư ký, nghĩa là để tự biến thành cái máy chép, máy tính và để tiêu tan cả nghị lực, chí phấn đấu thì tôi càng ghét thậm; tuy nhiên nếu được làm một viên bảo thủ văn khố trong một thư viện như Staine Beuve, A. France thì có lợi cho nghề viết văn, ta sẽ thu nhập được nhiều tài liệu để soạn sách. Khuông Việt nếu không làm ở Thư viện Nam Việt chắc không viết được cuốn Tôn Thọ Tường và hẳn Lê Ngọc Trụ cũng nhờ làm ở sở ấy mà dễ soạn bộ Chánh tả Việt ngữ. Không làm ở thư viện thì nên lựa nghề gì làm nghề phụ? Đi buôn? Mở nhà xuất bản hay lập tiệm bán sách? Được đấy! Đó là những nghề tự do, hợp với nghề viết văn. Song, tôi xin bạn coi chừng: một khi làm ông chủ tiệm, chưa chắc bạn có thể quyết giữ sao cho cây bút của bạn không bị nhẹ bỗng ở đầu cân. Thì nầy, bạn có dám chắc sẽ đủ nghị lực từ chối không tiếp khách hàng trong khi hứng đột ngột tới không? Làm chủ, bạn phải trông nom mọi việc, bạn sẽ bận rộn lắm, khó còn thì giờ để viết và cái nghề mà bạn mới đầu cho nó là phụ sẽ mau thành nghề chánh mất. Suy đi nghĩ lại, nghề thứ nhì hợp với nhà văn nhất là nghề dạy học. Michelet cũng nhận vậy, ông nói: “Từ khi tôi làm nghề ấy (nghề giáo sư), đời tôi rất điều hòa: một tay tôi soạn bài, một tay tôi viết sách.” Sau khi cặm cụi trên trang sách bụi bậm, chữ thì nhỏ nét thì mờ, mà được nhìn nụ cười hồn nhiên, cặp mắt long lanh của thanh niên; sau khi tiếp súc với tư tưởng nghiêm trang của người xưa mà được nghe những ước vọng, tâm sự của bạn trẻ thì còn chi mà tâm hồn ta chẳng vui vẻ, nhẹ nhàng? Riêng nghề viết văn đã làm ta say mê, lại thêm nghề dạy học, một nghề mà các hiền nhân như Khổng Tử, Mạnh Tử, Socrate, Platon đều nhận là vui nhất, thì đời ta quả là một https://thuviensach.vn cảnh hoan lạc vậy. Nhưng học sinh phải ra sao kia thì dạy mới thấy thích. https://thuviensach.vn CHƯƠNG III VẤN-ĐỀ NGUYÊN TẮC Tư-tưởng luôn-luôn là cứu cánh của nhà văn. ALAIN Mới từ khoảng mười lăm năm nay, một số nhà văn của ta đứng lên hô hào đặt vấn-đề nguyên tắc cho văn học. Trước hết có lẽ là Đặng Thai Mai trong cuốn Văn học khái luận, rồi tới Triều Sơn trong cuốn Con đường văn nghệ mới, gần đây thêm tác giả cuốn Văn nghệ nhân dân là Hoàng Công Khanh. Đó là chỉ kể những bài tùy bút in thành sách, còn những bài dài, ngắn đăng trên báo thì không sao ghi đủ được. Xét chung, hết thảy các nhà văn đó đều có thiện ý vạch một con đường mới cho nghệ sĩ và con đường ấy rất chính đáng. Chỉ tiếc có người, hoặc vì hăng hái quá mà hóa thiên kiến, hoặc vì ý ít mà muốn kéo cho dài, nên lý-luận có chỗ hở, hay mâu thuẫn. Phê-bình kỹ ba cuốn kể trên, ít nhất cũng mất năm, sáu chục trang, công-việc đó tôi chưa có ý làm ở đây; chỉ xin vạch vài điểm không xác đáng để chứng thực lời tôi mới nói. Chẳng hạn, Triều Sơn, trong cuốn đã dẫn, bảo phải đại chúng hóa văn nghệ: Đại chúng hóa làm sao cho văn nghệ-phẩm không những dễ hiểu, dễ cảm đối với đại chúng mà nội dung của văn-nghệ-phẩm cũng thích hợp với tinh-thần đại-chúng. Ở đây vấn đề không phải chỉ ở hình-thức của văn nghệ-phẩm (tức là kỹ-thuât của văn-nghệ sĩ) mà còn là – và trước hết là - ở phần chất văn nghệ phần tinh thần của văn-nghệ-phẩm, phần ý thức hệ chứa đựng, tiềm tàng trong văn-nghệ-phẩm. “Thí dụ: Đại chúng đang hăng hái đi tới, văn chương đại-chúng-hóa phải có tinh thần tiến bộ, tính chất tiền phong trước hết, lại phải giản dị, dễ cảm, dễ lôi cuốn, thúc đẩy đại chúng tiến tới mạnh mẽ thêm” https://thuviensach.vn (Trang 84-85) Hình-thức phải giản-dị, dễ hiểu, về điểm này tôi hoàn-toàn đồng ý. Nhưng nội dung phải thích hợp với tinh thần đại chúng thì xin thú thực, tôi chưa hiểu rõ. Nếu đại chúng đương hăng hái tiến tới thì văn chương phải có tinh thần tiến bộ. Vâng. Nhưng có hồi đại chúng thụt lùi thì sao? Văn nghệ cũng phải thoái bộ cho thích hợp với tinh thần đại chúng ư? Sau vụ thất bại Yên Bái chẳng hạn, đại chúng đã thụt lùi; mà mấy năm gần đây, đại chúng “ở thành” cũng thụt lùi; phần đông chỉ mê những thú thấp kém, chỉ đọc những truyên kiếm hiệp thì nhà văn cũng phải thích hợp với tâm trạng đó ư? Đó là chỗ hở của Triều Sơn. Lại như Hoàng Công Khanh viết ba chương để bàn về kỹ thuật và nội dung. Mới đầu ông bảo: “Kỹ thuật thật quan trọng. Nhưng chỗ quan trọng của nó là để diễn đạt nội dung”, (Trang 45). Rồi ông lại viết: “Nội dung hay, kỹ thuật kém thì chỉ giảm giá trị đi thôi. Ví như nước ngon, chè ngọt đựng vào cái bát đàn vậy. Nó chỉ bớt ngon đi phần nào thôi”. (Trang 56) Đã nhận kỹ thuật rất quan trọng để diễn đạt nội dung thì ít nhất cũng phải ví nội dung với trà, kỹ thuật với nước để nấu, như vậy mới đúng sự tương quan của hai cái đó; chứ ví kỹ thuật với cái bát đàn thì sai lắm: Cái bát đàn, nếu rửa sạch, không hề làm cho nước bớt ngon, trừ phi người ta tưởng tượng. Chỗ khác ông lại viết: “Kỹ thuật ở nội dung mà ra. Nội dung ví như thân người. Kỹ thuật ví như bộ quần áo. Giá trị thực sự của một người đâu phải ở những thứ đeo vào con người” (Trang 57) Và mười lăm hàng sau, tác giả lại ví nữa: https://thuviensach.vn “Một đạo quân cũng không khác. Cái quan hệ không phải ở những dẫy pháo đài, không phải ở khẩu súng bắn một phút 5000 phát, mà chính là con người đứng cạnh pháo đài và người nâng khẩu súng tì báng vào má để bắn. Con người ấy là nội dung mà pháo đài cùng súng ống chỉ đơn thuần là kỹ thuật”. Trời đất! Pháo đài và khẩu súng bắn một phút 5000 phát mà không quan hệ? Thế thì Mỹ và Nga đã thậm ngu để bỏ ra hàng tỉ bạc, chế tạo các khí giới mới! Một tiểu thuyết gia mà không hiểu tâm lý tầm thường nầy là khí giới làm tăng lòng can đảm của binh sĩ ư? Và Nhật thua Mỹ vừa rồi chỉ do khí giới kém ư? Rốt cuộc đọc hơn hai trang luận thuyết của ông, tôi chẳng biết ông muốn nói gì, lúc ông bảo hình thức rất quan trọng, lúc ông lại cho nó chỉ có công dụng tô điểm mà thôi! * Tôi vẫn trọng lý thuyết. Lý thuyết vạch đường cho hoạt động. Nhưng tôi rất ghét lý thuyết dài dòng và tôi tin rằng cái gì hợp với lẽ phải, rõ ràng thì không cần phải chứng minh nhiều, phần đông sẽ cảm thấy mà nếu có kẻ nào không cảm thấy thì cũng không thể biện thuyết cho họ cảm được. Vậy tôi xin đặt lại vấn đề: - Nội dung và hình thức, cái nào quan trọng? - Hình thức hồi nầy nên ra sao? - Nội dung nên ra sao? Tôi nhận với Đặng Thai Mai rằng “nội dung quyết định hình thức, chứ không phải hình thức quyết định nội dung”. Lẽ ấy ai cũng hiểu: phải có cảnh trước mắt, tình cảm trong lòng, ý tưởng trong đầu rồi mới nghĩ tới việc phô diễn và tìm một bút pháp, những tiếng thích đáng. Nhưng nói vậy không phải là hình thức không quan trọng, nó cũng quan trọng như nội dung. Có nhiều ý tiến bộ mà phô diễn quá https://thuviensach.vn vụng về đến nỗi ai mới đọc vài hàng cũng phải bỏ, thì nội dung có hay cũng vô ích: không có người đọc, làm sao có người cảm? Đọc văn học sử các nước, ta thấy từ trước tới nay tác phẩm nào được lưu truyền cũng có giá trị cả về hình thức lẫn nội dung. Chỉ có điều đó là chắc chắn; còn như muốn chứng minh rằng nội dung hay hình thức, cái nào là quan trọng hơn thì tôi cho là làm một việc không thể được. Cái đó còn tùy mỗi thời, mỗi người. Chẳng qua, khi văn trào quá duy mỹ, các văn nhân chỉ chú trong đến hình thức mà nội dung hóa đồi bại thì có những người phản động lại, đề cao nội dung lên; ngược lại, nếu văn trào “tải đạo”[32] đến cực độ, hình thức bị coi thường thì lại có người bênh vực, ca tụng nó. Vậy chủ trương hình thức quan trọng hơn nội dung hay ngược lại, đều là tùy mỗi thời và đều hữu ích trong một hoàn cảnh nào đó, chứ không thể chân lý tuyệt đối được. Hình thức thời nào cũng phải đẹp, nhưng quan niệm về đẹp mỗi thời một thay đổi. Hồi xưa các cụ cho đối chỉnh, điển nhiều, cầu kỳ, du dương là đẹp, mà mới mấy chục năm trước, người ta còn thích ngâm những câu mà vế trên có Mạnh, Lư, vế dưới có Hoa, Nã[33] chọi nhau đôm đốp. Bây giờ thì chẳng riêng gì nước ta, khắp thế giới đều muốn văn phải bình dị, tự nhiên sáng sủa. Đã đành từ hồi xưa, những đức vừa kể đã được nhiều nhà văn bênh vực (ở Trung Hoa có Đào Tiềm, Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha; ở Pháp có Montaigne, Pascal[34] song tới thế kỷ này, mới được văn nhân khắp thế giới nhận là quan trọng nhất, là cần thiết nhất, trừ vài bọn quái đản, lập dị như bọn “đa đa”, bọn siêu thực, mà tôi đã nhắc tới trong cuốn Luyện văn. Lẽ ấy cũng dễ hiểu. Hồi xưa – nghĩa là ba thế kỷ trước ở Âu châu và nửa thế kỷ trước ở phương Đông – nghề in còn phôi thai, sách đắt, chỉ một số rất ít quý phái và phú hào mới biết đọc, mua được sách, nên văn chương là xa xỉ phẩm của hạng người nhàn nhã; ngày nay, nghề in phát đạt, sách rẻ, hạng bình dân đều biết đọc, văn https://thuviensach.vn chương thành nhu cầu của mọi người, nhà văn không viết cho một số người nữa – trừ một vài trường hợp riêng – mà viết cho quảng đại quần chúng, thành thử văn phải sáng sủa, bình dị, tự nhiên. Văn thời nầy cũng phải thành thực. Trong hậu bán thế kỷ 19, trước những cảnh bất công mà hạng cần lao phải chịu, trước những chiến đấu mãnh liệt của kẻ yếu để đòi cho được một chỗ đứng dưới mặt trời, các nghệ sĩ thấy lòng mình rung động những cảm xúc mới, đã hăng hái xây dựng một lối văn mới: lối tả chân (cũng gọi là hiện thực). Xã hội hàng ngày đầy những chuyện ly kì, làm ta sa lệ hoặc bật cười thì cần chi phải tìm đề tài ở thời cổ hoặc trong tưởng tượng nữa, cứ nhận xét ở chung quanh ta với lòng thông cảm, rồi ghi chép lại cho đúng là tìm được con đường sẽ tới của nhân loại và làm cảm động được người đọc, hướng dẫn được quần chúng. Lối văn tả chân ấy cần đức thành thực hơn cả. Renan nói rất đúng: “Sự thành công trong nghệ thuật hùng biện hay văn chương chỉ có mỗi một nguyên nhân là sự thành thực hoàn toàn”. Một văn sĩ Mỹ hiện đại khuyên ta: “Bạn viết cái gì thì cái đó phải diễn những quyết tín chân thành nhất của bạn, nếu không văn bạn không có hy vọng sống.” A Gide, mạnh mẽ hơn, quả quyết: “Cái điều khó nhất khi người ta đã bắt đầu viết, là thành thực (…) Hoàn toàn thành thực.” Xin bạn đừng vội hiểu lầm: tôi không khuyên bạn không được tưởng tượng đâu; tưởng tượng vẫn cần cho văn chương, nhưng bạn phải thành thực cả trong khi tưởng tượng, nghĩa là dùng sự thực để tưởng tượng rồi để lòng rung động như trước một sự thực, có vậy bạn mới quyến dũ được độc giả. Sau hết, về nội dung tôi tưởng nhà văn thời nào cũng phải phụng sự cái Chân, cái Mỹ, cái Thiện. Có nhiều cách phụng sự ba lý tưởng https://thuviensach.vn ấy, song nếu chịu nhận xét ở xung quanh và suy nghĩ, thì ta thấy ngay rằng nhiệm vụ đầu tiên của nhà văn lúc nầy là vạch những đau khổ của nhân loại, những bất công trong xã hội, bênh vực kẻ yếu, an ủi kẻ nghèo và tìm cách xây dựng một tương lai rực rỡ mà mọi người hiểu nhau, hợp tác với nhau, không ai thù oán nhau, tranh giành, bóc lột nhau. Quảng đại quần chúng là những kẻ yếu, nghèo, phải chịu nhiều bất công, nên nhiều nhà văn hô hào tranh đấu cho quảng đại quần chúng, điều ấy có chi lạ? Nhiệm vụ phụng sự nhân dân ấy tuy lớn thật, nhưng ta cứ tùy tài lực của ta, làm được phần nào thì làm, miễn là luôn luôn cố gắng và đừng bao giờ quên trọng trách. Trong một bài đăng trên tuần báo Thanh nghị, Đinh Gia Trinh viết: “Nhà văn, nhà thơ viết một tác phẩm là ném vào đời những tư tưởng, những tính tình, những rung động. Trong cái bể người, những tư tưởng đó sẽ truyền lan đi, gặp sự tán thành của một số tâm hồn xa lạ; những tính tình, những rung động diễn tả trong thi ca (…) cũng sẽ làm thức tỉnh dậy ở lòng người những tính tình tương tự.” Những tính tình đó đã thức tỉnh, tất gây ra những hoạt động để lại một cái quả về sau, cái quả đó lại làm nhân cho những quả khác, như vậy cho tới vô cùng. Trong khi hành động, trong khi viết, ta ít khi nghĩ đến cái quả của công việc ta lắm, và ảnh hưởng của nó có thể rất lớn mà ta không ngờ. Đó không phải là lý thuyết đâu, thưa bạn. Đó là sự thực. Thì đây, Hồ Thích trong một thiên tùy bút nhan đề là: “Cái bất hủ của xã hội”, kể chuyện suốt đời ông chịu ảnh hưởng lời sau nầy của Phạm Trẩn, một tác giả Trung Hoa sống trước ông một ngàn sáu trăm năm: “Thần đối với hình như sự sắc bén đối với con dao; chưa nghe nói dao mất mà sắc bén còn, há hình mất mà thần còn được?” Ảnh hưởng của văn sâu xa như vậy nên tôi nghĩ trách nhiệm của nhà văn đáng sợ và không có nhà nào dám quả quyết rằng lương tâm hoàn toàn trắng tội và tôi không hiểu làm sao lại có những kẻ https://thuviensach.vn hăng hái cầm bút để ca ngợi những cái ti tiện của con người hoặc dùng phép ngụy biện để làm hoang mang kẻ khác. https://thuviensach.vn CHƯƠNG IV TÌM Ý Công việc đầu tiên và quan trọng nhất của nhà văn là tìm ý. Tìm cách nào? Tôi xin lấy một thí dụ cụ thể cho dễ hiểu. Chẳng hạn chúng ta muốn viết một cuốn sách về nông nghiệp ở nước nhà. Bạn cũng như tôi, chúng ta chưa biết chút gì về vấn đề ấy vì chúng ta không làm ruộng, cũng không phải là nhân viên sở Canh nông. Cứ ngồi trong phòng mà nghĩ thì may lắm viết nổi mười trang, mà dám chắc không được trang nào có giá trị. Nhưng nếu ta về đồng ruộng, xem xét công việc cấy cầy ở mỗi nơi, ghi các đặc điểm của mỗi giống lúa, của mỗi thứ đất, rồi nghiên cứu về phân bón, nông cụ, sức sản xuất, cách đề phòng các thiên tai, trừ các loài làm hại lúa, về việc trữ lúa, bán lúa…; nếu ta lại đọc các sách, báo về nghề nông ở nước mình và nước người, vừa đọc vừa so sánh, suy nghĩ, tìm những nguyên nhân về sự lạc hậu của nông nghiệp nước nhà cùng những giải pháp để cải thiện nó; sau cùng nếu ta lại đích thân thí nghiệm những cải cách đó, chép những kết quả; tóm lại, nếu ta chịu làm ba công việc nầy: nhận xét, đọc sách và suy xét thì ta không thiếu ý nữa mà có thể viết được một, hai cuốn sách đầy những tài liệu quý giá, những ý kiến mới mẻ. Trái lại, về một vấn đề dù quen thuộc với ta, như đời sống của học sinh chẳng hạn, nếu không chịu làm ba công việc kể trên, thì ta cũng chẳng viết được gì đặc sắc, ngoài những điều mà mọi người đều biết. Vậy có tài liệu rồi mới có ý, mà tài liệu ở trong đời sống chung quanh ta và trong sách. “Bỏ qua giai đoạn đầu tiên, cần thiết cho mọi người cầm bút là tìm tài liệu thì bất kỳ vấn đề nào đối với ta cũng sẽ lớn quá, ngoài sức của ta”. https://thuviensach.vn Trong các cuốn Nghệ thuật nói trước công chúng, Hiệu năng, châm ngôn của nhà doanh nghiệp, Tự học để thành công, tôi đã chỉ những cách nhận xét, đọc sách, tìm và ghi tài liệu, ở đây chỉ xin nhắc lại vài ý chính. Trong khi nhận xét, phải có một chương trình: xét những điểm nào, điểm nào trước, điểm nào sau, để khỏi quên những chi tiết nhiều khi quan trọng; rồi so sánh, phân tích. Nên tập nhận xét mỗi ngày, bất kỳ vào lúc nào: chẳng hạn như khi đi đường thì để ý tới những căn phố, những hàng cây, hoặc những người xuôi ngược. Có điều gì lạ thì về nhà ghi vào một cuốn sổ tay, sau dùng làm tài liệu viết sách. Nhiều tiểu thuyết gia theo cách ấy; nhân vật trong truyện của Gustave Flaubert, Guy de Maupassant, A. Daudet, S. Maugham,… không do các nhà đó hoàn toàn tưởng tượng ra đâu, đều được tạo nên nhờ sự nhận xét. S. Maugham đã chỉ cho ta biết cách làm việc của ông. Trong một cuộc du lịch, ông ghi vài nét về một cố đạo, một cặp vợ chồng nọ và một thiếu nữ nhí nhảnh, rồi ông lập nên cốt truyện sau nầy: Một ả giang hồ ngồi máy bay từ Honolulu cùng đáp xuống Pago với vợ chồng một ông mục sư. Vì một bệnh truyền nhiễm mới phát, họ phải tạm ở lại nơi đó. Ông mục sư mạt sát ả giang hồ kịch liệt, muốn cho ả xấu hổ, phải hối hận, bỏ nghề bất lương của ả. Ông lại độc ác đến mức yêu cầu vị Thống đốc đảo đó đuổi ả về Honolulu. Nhưng một buổi sáng kia, người ta bỗng thấy thấy ông, cổ họng bị cắt: ông đã tự tử, còn ả nọ thì vui vẻ, tự tin hơn mọi ngày. Ả ngó các người đàn ông, khinh bỉ bảo: “Toàn là đồ heo”. Đó là cốt truyện “Mưa” mà chắc nhiều bạn đã được đọc. Cách sáng tác của Nhất Linh cũng tương tự. Trong một cuộc phỏng vấn của Nguyễn Ngu Ý, ông nói: “Tôi tạo Dũng – một nhân vật chính trong Đoạn Tuyệt – sau khi đọc một tin tòa án; một nhà cách mạng bị xử đày Côn đảo; trong đời anh ấy có vài điểm hay, tôi lấy anh làm mẫu để dựng Dũng. https://thuviensach.vn Nhân vật nào của tôi cũng được “khai sinh” do người thật cả. Mà cô Loan tiểu thuyết do mươi cô Loan thật sự mà nên”. H. M. Robinson cũng nhận rằng Stephen Fermoyle nhân vật chính trong cuốn The Cardinal của ông là kết quả sự tổng hợp tất cả các cố đạo mà ông đã biết. Vậy trong loại tiểu thuyết, cần nhiều tưởng tượng hơn các loại khác mà nhận xét vẫn là nguồn dồi dào nhất để kiếm ý thì có nhà văn nào mà bỏ qua được công việc ấy? Chính nhờ tập nhận xét mà Guy de Maupassant thành một văn sĩ đại tài. Trong bài tựa truyện Pierre et Jean, ông nhắc lại lời khuyên của thầy học ông là Gustave Flaubert. “Muốn diễn tả cái gì thì phải nhìn lâu vào nó và chăm chú để tìm được một trạng thái của nó mà chưa ai thấy hoặc nói ra. Trong mỗi vật, đều có một cái gì chưa ai khám phá vì chúng ta có thói quen, khi dùng mắt, chỉ nhớ tới những điều mà người trước đã nghĩ về vật đó. Vật nhỏ nhất nào cũng chứa một chút lạ. Phải tìm ra cái lạ ấy. Muốn tả một ngọn lửa cháy hoặc một gốc cây trong cánh đồng, ta phải ngồi trước ngọn lửa hoặc gốc cây đó cho đến khi thấy nó không còn giống một ngọn lửa hoặc gốc cây nào khác. “Nhờ cách đó mà ta đặc sắc. “(…) Khi nào đi ngang một người bán tạp hóa đương ngồi trước cửa hàng hoặc một người gác cổng đang hút ống điếu, anh hãy cho tôi biết người bán tạp hóa và người gác cổng đó ngồi ra sao, bề ngoài ra sao, anh phải lựa hình ảnh sao cho tôi thấy cái bề ngoài đó chứa cả tâm hồn họ, cho tôi không lầm lẫn họ với một người bán tạp hóa hoặc một người gác cổng khác; và khi đi ngang một bến xe, chỉ dùng một chữ thôi, anh phải cho tôi thấy con ngựa kéo xe nầy khác năm chục con ngựa đi trước hoặc sau nó ở chỗ nào”. Bất kỳ nhà văn nào cũng cần tập nhận xét như vậy để hiểu vũ-trụ và nhớ những nét đặc-biệt của mỗi vật rồi diễn ra trong tác phẩm vì thuật mô tả là thuật đầu tiên của mọi người cầm bút. https://thuviensach.vn Nhưng nhận xét nhiều khi không đủ; có những việc xẩy ra thời trước hoặc ở xa, làm sao nhận xét được? Phải đọc sách. Đọc sách còn hai cái lợi nữa: ý của người khác làm nẩy ra những ý mới trong đầu ta, và nhờ đọc sách mà đỡ mất công kiếm lại những điều người trước đã thấy. Flaubert nói phải đọc ba trăm cuốn mới viết được một cuốn. Ai mà theo ông được? Ta chỉ cần nhớ rằng càng đọc nhiều càng quý. Tuy nhiên, trước hết phải giới hạn vấn đề cho rõ ràng để khỏi lạc trong cái rừng sách. Ta nên biết, dù nghiên cứu suốt đời cũng không sao kiếm đủ hết những tài liệu, cổ, kim, đông, tây về một vấn đề. Vậy kiếm được những sách nào, hãy đọc những sách đó và một khi đọc hết rồi thì có thể viết ngay. Tôi còn muốn khuyên bạn phải viết ngay nữa: nếu chương nào còn thiếu tài liệu thì cứ bỏ trắng, sau sẽ thêm, chứ để lâu, bạn sẽ không thấy ham viết và khi viết phải nghiên cứu lại từ đầu. Vả lại có như thế, sách đã viết gần xong, chỉ còn thiếu ít chương, bạn mới thấy cần tìm thêm tài liệu để viết nốt. Đọc sách để tìm tài liệu là những lúc vui nhất trong công việc của nhà văn; vui có phần không kém cái vui “xuân nhật tầm phương” của một thanh niên. Ta được tự do dạo ngắm khu rừng mênh mông của văn chương, ngừng đây một chút, hái bông hoa nầy, nghỉ kia một lát, nhìn dòng suối nọ. Augustin Thierry đã tả nỗi vui của ông khi ông cặm cụi trên những cuốn sách của Thư viện quốc gia Pháp. “Trong khi lòng như say mê, tay ghi chép hoặc lật những trang sách, tôi không biết chút gì về những việc xảy ra ở chung quanh. Bàn tôi ngồi lần lần chật người rồi thưa người, nhân viên thư viện hoặc những người tò mò, đi đi lại lại trong phòng mà tôi chẳng nghe thấy gì cả, chẳng trông thấy gì cả; tôi chỉ thấy hiện lên những cảnh và người mà sách đã gợi lên trong đầu óc”. https://thuviensach.vn Michelet, một sử gia khác, giàu tưởng tượng hơn, đã viết một trang bất hủ: “Tôi nhận thấy ngay rằng trong tĩnh mịch bề ngoài của những phòng ấy (phòng trong thư viện), có một cử động, một tiếng xì xào không phải là của cõi chết. Những giấy tờ, những bằng sắc để đó từ lâu, chỉ đòi sống lại. Những giấy tờ ấy không phải là giấy tờ mà là đời sống của những người, những tỉnh, những dân tộc. Mới đầu là những gia tộc, những thái ấp đầy huy chương trong bụi bặm, kêu nài người ta nhắc nhở tới. Những tỉnh đã nổi dậy, viện lẽ chính sách trung ương tập quyền thật vô lý, làm chúng bị tiêu diệt. Những tờ du của các vua cho rằng mớ luật lệ thời nầy không xóa bỏ được chúng. (…) Hết thảy những cái đó sống và nói, chúng bao vây tác giả như một bộ đội trăm lưỡi mà tiếng nói của Cộng hòa và Đế chế đã tàn nhẫn làm im bặt. Thong thả chứ, các ông quá cố ơi, xin các ông để cho tôi làm việc có tuần tự”. Tại Âu, Mỹ, có những sở tài liệu chuyên thu thập, phân tích, giữ gìn tài liệu và sẵn sàng hướng dẫn công việc tìm tòi của bạn. Ở nước mình, tài liệu đã thiếu mà bạn phải kiếm lấy trong các: - tự điển, niên giám; tờ điều trần, - thư tịch ký lục của ngoại quốc (vì ta chưa có loại nầy) - tạp chí phổ thông hoặc chuyên môn. - nhật báo, - mộ chí, thư từ của tư nhân, công văn, mục lục sách, chương trình các cuộc hội họp, di tích đủ mọi loại của tiền nhân… Khi tìm được một tài liệu hoặc một ý nào thì ta nên ghi lại liền, dù đã lên giường nằm rồi cũng phải dậy chép ngay vào một miếng giấy. Một thi nhân Trung Quốc thời xưa, đương ngồi trong nhà xí, bỗng tìm được một vần thơ, vội kiếm cách ghi ngay lên tường cho khỏi quên. Một thi nhân khác, Lý Hạ đời Đường, luôn luôn đeo một túi gấm, hễ nghĩ được câu nào, chép ngay, bỏ vào túi. https://thuviensach.vn Dwight L. Moody, một nhà thuyết giáo nổi danh ở Mỹ, mỗi lần lựa được một đầu đề nào thì viết lên một bao thư lớn, rồi khi đọc sách gặp một tài liệu hợp với đầu đề, hoặc khi dạo mát tìm được một ý, ông chép ngay lên một miếng giấy nhỏ, bỏ vào bao thư. Bao thư của ông khác gì túi gấm của Lý Hạ? Tổng thống Lincoln không dùng bao thư mà dùng nón. Nhưng ghi vội như vậy chỉ là để cho khỏi quên, trước khi viết còn phải chép lại kỹ lưỡng mỗi ý, rồi lựa chọn, sắp đặt. Nếu sách là một bộ khảo cứu quan trọng thì cách tiện hơn cả là dùng thẻ mà tôi đã chỉ vài kiểu mẫu trong cuốn Tự học để thành công.[35] Bạn nên nhớ những quy tắc sau nầy khi viết lên thẻ: - mỗi thẻ chỉ được ghi những ý thuộc về một đầu đề, - chỉ nên chép lên một mặt thẻ, mặt kia để trắng phòng sau có muốn thêm bớt, sửa đổi gì không. Một thẻ không đủ thì viết tiếp sang thẻ khác. - Nên ghi vắn tắt; nếu phải chép cả một đoạn dài thì nên chép vào một tập riêng, rồi trong thẻ ghi đại ý trong đoạn, cùng số tập và số trang có đoạn ấy. - Khi trích một đoạn của ai thì phải chép cho thật đúng, ghi xuất xứ, lồng vào trong dấu ngoặc kép để khi đọc lại, khỏi lầm với những câu tóm tắt hoặc lời phê bình cùng cảm tưởng của bạn. Trước khi chép vào thẻ, ta nên lựa kỹ mỗi ý. Thường ý nào mới tìm được, ta cũng cho là hay; nửa tháng hoặc một tháng sau, bình tĩnh xét lại, ta mới thấy nhiều ý không nên giữ. Trong một chương trên, tôi đã nói nội dung quyết định hình thức mà lời văn thời nầy cần nhất là thành thực, rõ ràng. Vậy ý nào chưa được minh bạch thì bỏ đi, ý nào bạn chưa tin chắc cũng bỏ đi, đừng tham tiếc. Nên kiểm soát, tự phê bình và nhờ bạn thân phê bình khi muốn phát biểu một ý kiến hơi lạ. Darwin khi soạn cuốn “Bàn về nguồn https://thuviensach.vn gốc các loài vật” đã bỏ ra mười lăm năm để tự chỉ trích lý thuyết của mình, đoán độc giả sẽ bắt bẻ về những điểm nào để rào đón trước. Trách chi tác phẩm của ông chẳng bất hủ! Có nhiều nhà văn muốn tỏ ra mình thông thái và tưởng cứ khác người là hơn người, cố moi óc lôi ra những ý ngược đời chẳng ích gì cho nhân sinh. Họ ra thư viện lục hết sách nầy đến sách khác, trong hàng tháng, kiếm những tài liệu để chứng minh rằng nàng chinh phụ trong Chinh phụ ngâm sinh trưởng ở đâu, tiễn chồng ở nơi nào, cưới được bao nhiêu năm thì chồng phải đi thú; hoặc Sở Khanh quất ngựa truy phong lúc nào, tiến về phía nào. Thúc sinh từ biệt Kiều để về thăm vợ cả hồi mấy giờ, ngày mấy tháng mấy. Thúy Vân sanh được nhiều con hay không… Rồi họ cãi nhau hàng tháng về những tiểu tiết đó, ai cũng rán khoe mình học rộng, hiểu sâu. Thực uổng cơm áo nhân dân quá. Nhưng ghét nhất lại là những kẻ lập dị. Họ đem tất cả tâm trí ra cố chứng minh và gân cổ cãi cho được rằng Hồ Xuân Hương chẳng hạn, không phải là một người thật, mà văn thơ ký tên bà là của các thư sinh ở Thăng Long, hoặc của các cô gái quê Nội Duệ; rằng truyện Kiều không phải của Nguyễn Du viết mà của toàn thể giai cấp nông dân Việt Nam thời cuối Lê, đầu Nguyễn. Một là hạng văn sĩ đó tin những điều họ viết thì chắc chắn là họ loạn óc, hai là họ chỉ có ý lập dị để ta chú ý tới họ thì ta chỉ nên mỉm cười mà liệng hết tác phẩm của họ vào sọt rác. https://thuviensach.vn CHƯƠNG V VIẾT Tôi chỉ viết để người khác đọc lại - GIDE Tôi có cần biết cách ông viết thế nào đâu, chỉ cần biết ông viết có làm tôi cảm động hay không thôi. A. MAUROIS Đọc sách báo, thỉnh thoảng ta gặp những câu như: “Nhà văn viết cuốn ấy trong cơn sốt”. Cơn sốt đây không phải là bị cảm hoặc làm cữ mà nhiệt độ trong mình tăng lên 39, 40 độ đâu. Trong cơn sốt nghĩa là trong khi hứng tới, dịch đúng chữ fièvre trong từ ngữ fièvre de là création của Pháp. Khi hứng tới, quả thật là máu chạy nhanh, dồn cả lên đầu, gân thái dương nổi lên, trán hơi nóng như bắt đầu cơn sốt nhẹ vậy. Lúc đó ta suy nghĩ rất mẫn tiệp, ý thao thao bất tuyệt mà lời cứ theo ý tuôn ra, ta hăng hái viết một hơi hàng chục trang một cách dễ dàng, trơn tru, không mảy may thấy mệt. Công dụng của hứng quan trọng như vậy nên nhiều nhà văn rán tìm nó, dùng đủ cách để gợi lên “yên sĩ phi lí thuần”. Họ hoặc ra biển, lên núi để ngắm cảnh; hoặc chấp tay sau lưng, đi đi lại lại trên bãi cỏ như người khùng (kỳ cục! hình như cơ thể vận động thì dễ suy nghĩ); hoặc ngắm ảnh mỹ nhân treo trên tường, hoặc nhìn sọ người đặt trước mặt; từ nàng tiên nâu – thuốc phiện – đến nàng tiên xanh – rượu mạnh – từ tiếng đờn tiếng ca của các cô Hồng, cô Tuyết đến vị đắng vị ngọt của cà phê, trà tàu, có rất nhiều thứ đã được văn nhân, thi sĩ dùng để mời hứng tới! Mời được hứng tới đã khó, giữ được nó lâu còn khó hơn. Người ta kể chuyện muốn cho hứng khỏi https://thuviensach.vn mất, Balzac phải nhịn ăn, nhịn ngủ, uống toàn cà phê đậm, cởi cả giày, vớ, gác chân lên một tấm đá hoa lạnh và cắm cổ viết, viết luôn hai mươi bốn giờ. Hứng giúp ta được nhiều thật, song ta đừng nên tưởng rằng hứng rất cần thiết, thiếu nó thì không viết được. Người Pháp nói: “Cứ ăn đi rồi sẽ thấy ngon miệng”. Tôi cũng có thể nói: “Cứ viết đi rồi hứng sẽ tới”. Thi sĩ Baudelaire bảo “công việc hàng ngày giúp cho hứng” là nghĩa vậy. Flaubert bất chấp hứng, khi cây bút không chịu “đi” ông bắt nó “đi”, y như một nông phu bắt con trâu phải tiến. Ông cấm Maupassant nói: “Lúc nầy, tôi không viết được gì cả. Đầu tôi trống rỗng” và ông bảo: “Ngày nào cũng đúng giờ ngồi vào bàn viết, thế là hứng”. Không những vậy, ông còn diệt hứng: “Ta phải đề phòng cái sự phấn khích mà người ta gọi là hứng, trong đó thường có nhiều cảm xúc của thần kinh hơn là sức của bắp thịt. Chẳng hạn trong lúc nầy đây, tôi thấy cao hứng lắm, trán tôi nóng như lửa, câu của tôi tuôn ra (…) Đáng lẽ có một ý thì tôi có đến sáu, và đoạn nào cần phải diễn một cách bình dị nhất thì tôi tìm ngay được một hình ảnh. Tôi chắc chắn là có thể viết tới trưa mà không thấy mệt. Nhưng tôi biết sự giả dối và những lời dại dột của óc tưởng tượng. Cái gì cũng phải làm trong sự lạnh lùng, một cách chầm chậm. Khi Louvel muốn giết công tước Berry, y uống một bình nước lúa mạch[36] và y đã đâm trúng”. Thực vậy, hứng nhiều khi gạt ta. Ta sôi nổi theo nó, chẳng suy nghĩ gì hết, tưởng ý nào cũng hay, lời nào cũng đẹp, chép cả lên giấy; đến lúc bình tĩnh đọc lại mới thấy phải xóa bỏ đi già nửa. Cho nên khi nào ngòi bút đi dễ dàng quá thì… nên coi chừng: phải thấy khó khăn, mà thắng được khó khăn mới là nghệ thuật. Có hai cách viết. Một cách là nghĩ từng đoạn, từng bài trước trong đầu, sửa chữa cũng ở trong đầu, xong xuôi rồi mới chép lên giấy. Người Trung https://thuviensach.vn Hoa gọi là “phúc cảo” nghĩa là làm bản dáp trong bụng. Đó là cách của Alfred de Vigny. Trong tập Nhật ký của ông có đoạn kể: “Ngày và đêm, cả trong giấc ngủ, tôi viết một cuốn sách ở trong tâm linh tôi. Chép nó lên giấy tôi thấy nhẹ nhàng như được nghỉ ngơi hoặc như được chích máu ra[37]. Tôi có cấu tạo một cuốn sách đâu. Nó tự cấu tạo lấy. Nó chín và nẩy nở trong đầu tôi như một trái cây. Baudelaire bảo cách đó mau hơn cả: “Ngày nay phải sản xuất nhiều – nên phải đi mau - ; vậy nét bút nào cũng phải có kết quả, không một nét nào vô ích. Muốn đi mau, phải suy nghĩ lâu từ trước, phải dắt díu đầu đề cho mình, trong lúc đi chơi, đi tắm, trong quán cơm và gần như cả trong khi lại nhà nhân tình nữa. E. Delacroix[38] một hôm bảo tôi: Nghệ thuật là một vật tận mỹ, phù du tới nỗi dụng cụ nào cũng không thích hợp với nó, phương tiện nào cũng không đủ nhanh để ghi nó”. Văn chương cũng thế, vậy tôi không chịu sự gạch, xóa: gạch xóa làm mờ tấm gương tư tưởng đi”. Và ông chỉ trích cách viết của Balzac. Balzac hễ tìm được đầu đề nào là ngồi chép ngay tất cả những ý hiện ra trong óc rồi sửa đi sửa lại, thêm đoạn nầy, bớt đoạn khác, đảo lên đảo xuống, gọt giũa từng câu. Theo Baudelaire, chính vì không chịu nghĩ chín trong óc rồi hãy viết mà Balzac, văn không gẫy gọn, tiểu thuyết mất tính cách nhất trí. Nhưng A. Gide lại bênh vực Balzac. Ông nói rằng mới đầu ông cũng làm sẵn câu trong đầu, khi nào nó hoàn toàn rồi mới chép lên giấy; nhưng sau ông thấy cách ấy không hiện thực bằng cứ “nắm” lấy khúc đầu hoặc khúc cuối câu, chẳng cần biết đoạn kia sẽ ra sao, “nắm” rồi “kéo” thì câu sẽ ra. Hai lối viết đó thực trái ngược nhau. Tôi tưởng làm một bài thơ hoặc viết một bài văn ngắn thì có thể theo cách của Baudelaire; còn nếu soạn một tác phẩm dài mà suy nghĩ trước cho thật chín, không https://thuviensach.vn để có một nét bút nào vô ích thì lâu lắm, chứ không mau như ông nầy nghĩ. Nhưng đó cũng còn tùy thói quen của từng người. Riêng tôi, tôi đã theo A. Gide mà không ngờ. Mấy cuốn đầu, tôi nghĩ sẵn mỗi câu trong óc, đọc thầm nó thấy xuôi tai rồi mới ngồi dạy chép; nhưng sau thấy như vậy cũng mệt, phải nhớ từng ý, từng tiếng và sửa trong đầu không tiện bằng sửa trên giấy; nên tôi thay đổi phương pháp, nghĩ được ý gì là chép ngay, để “cụ thể hóa” tư tưởng cho dễ trông thấy rồi sửa chữa sau. Tất nhiên tôi phải tốn công chép bản thảo hai ba lần mới hoàn thành vì phải gạch xóa, thêm bớt nhiều, song tôi nghĩ, không vì vậy mà lời kém gãy gọn, sách thiếu tính cách nhất trí như Baudelaire đã bảo. Nếu sách tôi viết có hai tật ấy là tại tôi vụng, chứ không phải tại phương pháp làm việc. Như tôi đã nói ở một chương trên, biết tự sửa văn tức là biết viết văn. Sửa văn bằng óc và bằng tai. Sửa bằng óc là áp dụng những quy tắc về nghệ thuật viết văn để tìm lỗi trong văn mà chữa lại. Khi mới vào nghề, ai cũng phải dùng đến lối ấy. Khi viết đã quen, thẩm mỹ đã đúng, thì chỉ cần đọc chậm và lớn tiếng, cũng thấy ngay được lỗi. Lúc đó ta sửa bằng tai. Ta không phân tích nữa, chỉ dùng trực giác mà xét. Gustave Flaubert cứ viết xong một đoạn lại ngừng, ném cây bút lông ngỗng vào cái mâm đựng bút rồi đưa cao tờ giấy lên, lấy giọng đọc. Các cụ ta hồi xưa bình văn cũng là để thưởng những câu hay và tìm những đoạn dở. Nhưng đọc ngay sau khi viết, không thấy được hết lỗi. Nên đợi lúc hứng đã nguội, nếu có thể được, đợi lúc ta gần như đã quên hẳn đầu đề rồi hãy đọc lại, thì óc ta mới có thể tự xét văn ta một cách sáng suốt như xét văn người. Nhà văn thường quá khoan hồng, nhưng cũng có khi quá nghiêm khắc với mình, mà không biết giá trị của mình: như trường hợp của https://thuviensach.vn Lytton, ông không ngờ rằng tác phẩm “Những ngày cuối cùng của thành Pompéi” của ông lại bất hủ. Vì vậy, muốn chắc chắn, ta cần phải hỏi ý kiến người khác. Thời cổ, các văn sĩ La mã đều đọc tác phẩm của mình trước một số đông bạn thân để nhờ họ phê bình. Các văn sĩ Pháp ở thế kỷ 17 cũng theo lệ đó. Nhiều văn hào đã có một người bạn thân làm cố vấn: tài làm thơ của Racine cao hơn tài của Boileau mà Boileau khuyên gì, Racine nghe vậy; và khi Bouilhet chết, Flaubert một bực thầy về kỹ thuật viết văn, than tiếc: “Tôi đã chôn ý thức văn chương, cái óc và kim chỉ nam của tôi”. Chateaubriand cũng nhận: “Luôn luôn tôi tin rằng người khác xét và thấy rõ hơn tôi”. Một trong những hạnh phúc quý nhất của nhà văn có lẽ là tìm được một người phê bình thành thực và thông minh. Khi bước vào nghề cầm bút, bạn nên rán kiếm một người có đủ hai đức ấy. Nhưng xin bạn đừng quên rằng ngoài chỗ thân tình ra, chớ bắt người khác làm hai cái cực hình là phê bình và sửa văn cho bạn. Một thi sĩ mà tôi quen, viết xong được một tập thơ nào là ôm đi, tìm những bạn cũ, cả những bạn đã mười năm trời không gặp nhau, gí bản thảo vào tay người ta bắt phải đọc rồi nửa tháng sau lại hỏi ý kiến, có khi tới lui hai ba lần, nhất định đòi nghe cho được mới thôi. Ai mà chẳng khen, khen lấy lệ? Như vậy đã thiếu xã giao mà cũng chẳng lợi gì cho nhà thơ ta cả, vì những lời khen miễn cưỡng đó có giá trị gì đâu? Nhưng xét kỹ thì ông ta làm vậy chỉ vì muốn khoe và ham được khen, thế thôi, chứ chẳng vì muốn sửa thơ văn gì cả. Viết văn mà diễn đúng được hết những tình cảm, hoài bão tư tưởng của mình, thì là một nỗi vui rất lớn. Nhiều nhà văn đã rán phân tích cái vui ấy. Lạ lùng nhất là những đoạn sau nầy mà tác giả ví cái vui sáng tác với cái vui nhục dục, một cái hoàn toàn thuộc về tinh thần, một cái thuộc về thể xác. A. de Vigny viết: https://thuviensach.vn “Trong thâm-tâm tôi, có cái gì mạnh hơn cái đó (lòng ham danh) nó làm cho tôi viết, tức cái sung-sướng say mê khi có hứng, say mê hơn cái vui xác thịt trong cánh tay một người đàn bà nhiều lắm. Khoái lạc về tâm hồn lâu bền hơn”. G. Flaubert trong bức thư cho Louise Colet mô tả tinh tế hơn: “Một đầu đề để viết, đối với tôi cũng như một người đàn bà mà tôi mê vậy; khi nàng sắp chiều ta thì ta run lên và ta sợ; một nỗi sợ khoái chá, ta không dám động tới cái mà ta ham muốn”. Chỗ khác, ông làm cho ta hoảng: “Có cái gì thâm thúy và cực kỳ khoái chá vọt ở trong người tôi ra thành từng vòi gấp rút, như là tâm hồn tôi xuất tinh vậy”. Đọc câu ấy, ai mà không nhớ tới mấy vần sau này của một thi sĩ bị cùi, gần như điên, là Hàn Mặc Tử? Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút, Mỗi lời thơ đều dính não cân ta, Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt, Cho mê man, chết điếng cả làn da. Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết, Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh, Đừng nắm lại nguồn thơ ta đương siết, Cả lòng ai trong mớ chữ rung ring. Tôi không phải là nghệ sĩ, không hiểu nổi nỗi lòng của chư vị ấy, và tôi ngờ rằng họ đã tưởng tượng, không nhiều thì ít. Tôi thấy cái vui sáng tác không rùng rợn như vậy mà thanh thoát lắm. “Nó không pha chút chua xót hoặc khao khát như cái vui được gặp mỹ nhân; nó không ồ ạt, hồi hộp, đượm chút vị kỷ như cái vui thấy mình danh toại. Nó hoàn toàn trong sạch, đầy đủ và cao cả. Ta thấy hồn ta như muốn lâng lâng, bay bổng lên thinh không, cho nên Lư Khê đã ví những phút vui ấy với những phút vui thoát trần”.[39] https://thuviensach.vn