🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Ngày Dài Nhất Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Mục Lục LỜI GIỚI THIỆU PHẦN MỘT: CHỜ ĐỢI PHẦN HAI: ĐÊM PHẦN BA: NGÀY Ghi chú về con số thương vong https://thuviensach.vn THE LONGEST DAY: June 6, 1944 https://thuviensach.vn By Cornelius Ryan Người dịch: chiangshan. VỀ TÁC GIẢ Cố tác giả Cornelius Ryan là một trong những phóng viên chiến trường xuất sắc vào thời của ông. C. Ryan đã bay 14 phi vụ ném bom với Tập đoàn Không quân 8 và 9 Mỹ, theo dõi cuộc đổ bộ D-Day và bước tiến của Tập đoàn quân 3 dưới quyền tướng Patton vào Pháp và Đức. Ngoài “The Longest Day”, ông còn là tác giả của nhiều cuốn sách, bài báo và nhiều vở kịch, kịch bản phim, chương trình TV và phát thanh. Ryan sinh ra và học tập ở Dublin, Ireland. Tác phẩm: - Ngày dài nhất - The Longest Day, 1959. - Trận đánh cuối cùng - The Last Battle, 1966. - Một cây cầu quá xa - A Bridge Too Far, 1974. https://thuviensach.vn LỜI GIỚI THIỆU D-DAY, THỨ BA, NGÀY 6 THÁNG 6 NĂM 1944 Chiến dịch Overlord – cuộc tiến công của quân Đồng minh vào châu Âu mở màn ngày 6 tháng 6, 1944, đúng 15 phút sau nửa đêm, trong giờ đầu tiên của cái ngày sẽ mãi mãi được biết đến với tên gọi D-Day. Chính lúc ấy, một toán được lựa chọn đặc biệt của Sư đoàn Đổ bộ đường không 82 và 101 Mỹ rời máy bay lao vào đêm trăng trên vùng Normandy. Năm phút sau và cách đó 80km, một nhóm nhỏ của Sư đoàn Đổ bộ đường không số 6 Anh nhảy khỏi máy bay. Họ là các lính tiền trạm, những người có nhiệm vụ đánh dấu bãi đáp cho lính dù và bộ binh vận chuyển bằng tàu lượn sẽ tới sau đó. Lực lượng đổ bộ đường không Đồng minh đánh dấu một cách rõ ràng giới hạn của chiến trường Normandy. Nằm giữa họ và dọc theo bờ biển nước Pháp là 5 bãi đổ bộ: Utah, Omaha, Gold, Juno và Sword. Suốt những giờ trước bình https://thuviensach.vn minh, trong khi lính dù đang chiến đấu trong những rặng cây tối tăm ở Normandy, hạm đội lớn nhất mà thế giới từng biết đến bắt đầu tập hợp ngoài khơi: gần 5.000 tàu chở theo hơn 200.000 binh sĩ, thủy thủ và phòng vệ bờ biển. Mở màn lúc 6:30 sáng bằng cuộc bắn phá dữ dội của hải quân và không quân, vài nghìn người trong số đó tiến vào bờ trong đợt đầu tiên của cuộc đổ bộ. Những gì xảy ra tiếp theo không phải là lịch sử quân sự. Đó là những câu chuyện của con người: những binh sĩ Đồng minh, kẻ thù họ chống lại và những thường dân bị kẹt trong sự hỗn loạn đẫm máu của D-Day – ngày mở màn trận đánh chấm dứt canh bạc điên rồ của Hitler nhằm thống trị thế giới. https://thuviensach.vn PHẦN MỘT: CHỜ ĐỢI Ngôi làng yên ắng trong buổi sáng tháng 6 ẩm ướt. Làng La Roche-Guyon đã nằm đó không xáo trộn suốt gần 12 thế kỷ bên nhánh lớn chảy hiền hoà của sông Seine, gần như ở chính giữa Paris và Normandy. Qua nhiều năm, nó chỉ là chỗ mà người ta đi qua để đến những nơi khác. Điểm khác biệt duy nhất là toà lâu đài, nơi ở của dòng họ Công tước de La Rochefoucauld. Chính toà lâu https://thuviensach.vn đài nhô ra trên đỉnh đồi sau làng đó là nguyên nhân chấm dứt sự yên bình của La Roche-Guyon. Trong buổi sáng xám xịt, toà lâu đài hiện ra với vẻ đồ sộ, những tảng đá lớn của nó lấp lánh do hơi ẩm. Đã gần 8:00, nhưng chưa có hoạt động gì trên hai khoảnh sân lớn lát đá. Bên ngoài cánh cổng, con đường chính trải rộng, vắng tanh và trong làng cửa sổ của những căn nhà mái đỏ vẫn đóng. La Roche Guyon yên tĩnh đến mức tưởng như đã bị bỏ hoang. Nhưng đó chỉ là bề ngoài. Bên trong những cánh cửa khép kín, người ta đang đợi tiếng chuông. Vào 6:00 sáng, ngôi nhà thờ tuổi đời 15 thế kỷ St. Samson nằm kế bên lâu đài sẽ kéo hồi chuông cầu kinh (Angelus). Trong những ngày hoà bình nó từng mang một ý nghĩa đơn giản – dân làng La Roche-Guyon sẽ dừng lại một chút để làm dấu thánh và cầu nguyện. Nhưng bây giờ hồi chuông có nhiều ý nghĩa hơn là sự tưởng niệm. Sáng hôm nay, chuông kêu đánh dấu kết thúc lệnh giới nghiêm ban đêm và bắt đầu ngày thứ 1.451 dưới ách chiếm đóng cuả quân Đức. Lính canh có mặt khắp nơi ở La Roche-Guyon. Khoác áo ngụy trang, chúng đứng sau cổng lâu đài, ở các chốt gác đường hai đầu làng, trong các lô cốt xây trên những mỏm đá phấn và trên tàn tích của toà tháp cổ ở ngọn đồi cao nhất nhìn xuống lâu đài. Từ đó những xạ thủ súng máy có thể quan sát mọi sự chuyển động trong khu vực, ngôi làng canh phòng ngặt nghèo nhất của nước Pháp bị chiếm đóng. Đằng sau khung cảnh đồng quê La Roche-Guyon thực sự là một nhà tù; tính cho mỗi người trong số 543 dân làng, trong và xung quanh khu vực có nhiều hơn 3 lính Đức. Một trong số đó là Thống chế Erwin Rommel, Tư lệnh Cụm Tập đoàn quân B - lực lượng mạnh nhất của quân đội Đức ở mặt trận phía Tây. Tổng hành dinh của ông đặt tại lâu đài La Roche-Guyon. https://thuviensach.vn Thống chế Erwin Johannes Eugen Rommel - Tư lệnh Cụm Tập đoàn quân B Đức. https://thuviensach.vn Ở đây, vào năm thứ năm quyết định của Thế chiến II, một Rommel quả quyết và căng thẳng đang chuẩn bị cho trận chiến ác liệt nhất trong sự nghiệp của mình. Dưới quyền ông, hơn nửa triệu người bố trí phòng ngự dọc theo bờ biển bao la trải dài gần 1.300km, từ những con đê ở Hà Lan tới bán đảo Brittany bên bờ đại dương. Đạo quân chủ lực của ông - Tập đoàn quân 15 tập trung trên hướng Pas-de-Calais, điểm hẹp nhất của Eo biển giữa Pháp và Anh. Đêm này qua đêm khác, máy bay ném bom Đồng minh đánh phá khu vực này. Những cựu binh mệt mỏi vì bom đạn của Tập đoàn quân 15 nói đùa chua chát rằng chỗ dành cho nghỉ ngơi điều dưỡng là khu vực của Tập đoàn quân 7 ở Normandy. Nơi đây hầu như không bị oanh tạc. Đã hàng tháng, phía sau rừng chướng ngại vật và bãi mìn dày đặc, quân của Rommel chờ đợi trong những công sự bằng bê tông. Nhưng mặt nước xanh xám của Eo biển Anh vẫn không có bóng dáng tàu thuyền. Không có gì xảy ra. Từ La Roche-Guyon trong buổi sáng Chủ nhật buồn tẻ và yên ắng, chưa có dấu hiệu nào về một cuộc đổ bộ của Đồng minh. Đó là ngày 4 tháng 6, 1944. Trong căn phòng ở tầng trệt được dùng làm trụ sở, Rommel chỉ có một mình. Ông ngồi sau chiếc bàn lớn Renaissance được chiếu sáng bởi ngọn đèn bàn duy nhất. Căn phòng rộng và cao. Dọc theo một bên tường là tấm thảm thêu Gobelin bạc màu. Ở bên kia là gương mặt kiêu kỳ của Công tước Franecois de La Rochefoucauld – nhà văn châm ngôn thế kỷ 17 và ông tổ của dòng họ – nhìn xuống từ khung tranh nặng bằng vàng. Có mấy chiếc ghế được đặt trên sàn gỗ bóng loáng và vài tấm màn cửa sổ dày, ngoài ra chẳng còn gì. Riêng ở đây, trong phòng không có gì liên quan đến Rommel trừ chính bản thân ông. Không có ảnh của vợ ông, Lucie Maria hay cậu con trai 15 tuổi Manfred. Không có vật lưu niệm về chiến thắng vĩ đại của ông trên sa mạc Bắc Phi những ngày đầu chiến tranh – còn không có cả chiếc quyền trượng thống chế mà Hitler đã hồ hởi trao tặng cho ông năm 1942 (chỉ có một lần Rommel mang cây trượng bằng vàng dài 46cm, nặng 1,4kg, bọc nhung đỏ với https://thuviensach.vn những khuy trang trí hình con đại bàng bằng vàng và chữ thập ngoặc màu đen: đó là ngày ông được nhận nó). Thậm chí cũng không có tấm bản đồ bố trí quân đội nào. “Con cáo sa mạc” huyền thoại vẫn khó nắm bắt như trước đây, ông có thể rời phòng mà không để ai biết. Mặc dù trông già hơn so với tuổi 51, Rommel vẫn tỏ ra không biết mệt. Không người nào ở Cụm quân B nhớ ra đêm nào ông ngủ nhiều hơn 5 tiếng. Sáng nay, như thường lệ, ông dậy trước 4 giờ. Lúc này Rommel đang sốt ruột chờ đến 6 giờ. Đó là lúc ông dùng bữa sáng với đồng sự và sau đó lên đường về Đức. Đây là lần đầu tiên Rommel về thăm nhà sau nhiều tháng. Ông sẽ đi xe; Hitler đã khiến các sĩ quan cao cấp hầu như không thể đi máy bay khi ông ta khăng khăng rằng họ sử dụng “máy bay 3 động cơ… và luôn luôn có tiêm kích hộ tống”. Dù sao, Rommel cũng không thích đi máy bay, ông sẽ vượt qua hành trình dài 8 giờ về nhà ở Herrlingen, Ulm trên chiếc Horch lớn có thể bỏ mui. Ông mong đợi chuyến đi, nhưng đây không phải là một quyết định dễ dàng. Trên vai Rommel gánh trọng trách nặng nề phải đẩy lui cuộc tiến công của quân Đồng minh ngay khi nó bắt đầu. Đế chế thứ ba của Hitler đang bị cuốn vào hết tai hoạ này đến tai hoạ khác; suốt đêm ngày, hàng nghìn máy bay ném bom Đồng minh đánh phá nước Đức, lực lượng quân Nga hùng hậu đã tiến vào Ba Lan, quân Đồng minh đã ở trước ngưỡng cửa Rome - khắp mọi nơi, các đạo quân lớn của Wehrmacht đang bị đẩy lui và tiêu diệt. Nước Đức vẫn còn xa mới có thể bị đánh bại, nhưng cuộc đổ bộ của Đồng minh sẽ là trận đánh quyết định. Không còn gì ngoài việc tương lai nước Đức đang nằm trên thớt, và không ai rõ điều này hơn Rommel. Bây giờ Rommel sẽ về nhà. Đã hàng tháng ông hy vọng sẽ được nghỉ vài ngày ở Đức vào đầu tháng 6. Có nhiều lí do để bây giờ ông tin mình có thể đi và mặc dù chưa bao giờ thừa nhận, ông cần nghỉ ngơi khủng khiếp. Chỉ mấy hôm trước ông đã gọi điện xin phép cấp trên, vị Thống chế lớn tuổi Gerd Von Rundstedt, Tư lệnh Mặt trận phía Tây; đề nghị ngay lập tức được chấp nhận. https://thuviensach.vn Tiếp đó ông ghé thăm xã giao tổng hành dinh của Von Rundstedt ở St Germain-en-Laye ngoại ô Paris để chính thức hoá chuyến đi. Cả Von Rundstedt và tham mưu trưởng của ông, Thiếu tướng Geunther Blumentritt, đều bị sốc vì vẻ ngoài hốc hác của Rommel. Blumentritt luôn nhớ rằng trông Rommel “mệt mỏi và căng thẳng... một người cần về nhà nghỉ vài ngày với gia đình”. Rommel đang lo âu và bực bội. Ngay từ khi đến Pháp cuối năm 1943, việc nơi nào và khi nào sẽ phải đương đầu với cuộc tấn công của Đồng minh đã gây cho ông áp lực gần như không thể chịu đựng được. Giống như những người ở mặt trận này, ông đã trải qua những cơn ác mộng chờ đợi. Vấn đề luôn treo lơ lửng trên đầu ông là phải đoán chính xác ý đồ của Đồng minh – họ sẽ tấn công như thế nào, họ định đổ bộ vào đâu, và trên tất cả, vào thời điểm nào. https://thuviensach.vn Thống chế Rommel kiểm tra tình hình phòng thủ bờ biển của quân Đức ở Normandy, 3/3/1944. Chỉ một người thực sự biết sự căng thẳng mà Rommel phải chịu. Ông kể tất cả với vợ mình, Lucie-Maria. Trong không đầy 4 tháng ông đã viết cho bà hơn 40 lá thư và hầu như trong thư nào ông cũng có một nhận định mới. Ngày 30 tháng 3 ông viết: “Lúc này đã là cuối tháng 3 và Anh – Mỹ vẫn chưa tấn công … Tôi bắt đầu tin rằng họ đã mất tin tưởng vào mục tiêu của mình”. Ngày 6 tháng 4: “Ở đây, sự căng thẳng gia tăng từng ngày … Có thể chỉ trong vài tuần, chúng ta sẽ bị đặt giữa những sự kiện quyết định…” Ngày 26 tháng 4: “Ở Anh tinh thần đang xuống … liên tiếp có những cuộc công kích, khẩu hiệu “Đả đảo Churchill và lũ Do Thái” và kêu gọi cho hoà bình đang lớn dần... điềm xấu cho một cuộc tấn công mạo hiểm”. Ngày 27 tháng 4: “Bây giờ xem ra Anh - Mỹ chưa sẵn sàng để tấn công ngay”. Ngày 6 tháng 5: “Vẫn không có dấu hiệu nào của Anh - Mỹ… Từng ngày, từng tuần… chúng ta trở nên mạnh hơn… Tôi đang chờ đợi trận đánh với sự tin tưởng… có thể nó sẽ đến vào ngày 15 tháng 5, có thể vào cuối tháng”. Ngày 15 tháng 5: “Tôi không thể đi những chuyến [kiểm tra] lớn nữa… vì sẽ không bao giờ biết khi nào thì cuộc đổ bộ bắt đầu. Tôi tin rằng nó sẽ diễn ra trên mặt trận phía Tây chỉ trong vài tuần nữa”. Ngày 19 tháng 5: “Tôi hy vọng có thể làm các kế hoạch tiến triển nhanh hơn trước [nhưng] tôi đang tự hỏi có thể rời chỗ này vài ngày trong tháng 6 không. Hiện tại thì không có cách nào”. https://thuviensach.vn Nhưng luôn có cách. Một trong những lí do để Rommel quyết định đi vào thời điểm này là đánh giá của riêng ông về dự định của Đồng minh. Trên bàn ông hiện giờ là báo cáo hàng tuần của Cụm quân B. Bản báo cáo tỉ mỉ này sẽ được gửi cho sở chỉ huy của Thống chế Von Rundstedt, hay vẫn thường được biết đến bằng thuật ngữ OB West (oberbefehlshaber West – Bộ Tư lệnh Mặt trận phía Tây) vào trưa hôm sau. Sau khi được bổ sung, nó sẽ trở thành một phần của báo cáo toàn bộ các chiến trường và sẽ được chuyển tới tổng hành dinh của Hitler, OKW (oberkommando der Wehrmacht - Bộ Tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang). Một phần đánh giá của Rommel cho rằng Đồng minh đã đạt tới mức “sẵn sàng cao độ” và có sự “gia tăng các thông điệp chuyển tới lực lượng kháng chiến Pháp”. Nhưng, “dựa vào những kinh nghiệm trong quá khứ, không có vẻ là sẽ diễn ra cuộc đổ bộ…”. Lần này Rommel đã đoán sai. Trong trụ sở Bộ Tư lệnh, Đại úy Hellmuth Lang, viên phụ tá 36 tuổi của Rommel đi dọc hành lang tới văn phòng của thống chế, mang theo báo cáo buổi sáng. Đây luôn là việc đầu tiên mà anh ta làm cho cấp trên. Rommel thích nhận được báo cáo sớm để có thể thảo luận với các đồng sự trong bữa sáng. Nhưng sáng nay không có gì nhiều; khu vực tuyến đầu vẫn yên tĩnh trừ Pas-de-Calais tiếp tục bị ném bom. Dường như không còn nghi ngờ gì: ngoài những dấu hiệu khác, cuộc ném bom kéo dài này cho thấy Pas-de-Calais là nơi Đồng minh đã chọn để tấn công. Nếu họ đổ bộ, sẽ là ở đó, hầu như tất cả đều nghĩ như vậy. Lang xem đồng hồ; vài phút nữa là tới 6:00 sáng. Họ sẽ đi vào 7 giờ đúng và sẽ có một khoảng thời gian dễ chịu. Sẽ không có hộ tống, chỉ có hai xe, một của Rommel và một của Đại tá Hans George Von Tempelhof, sĩ quan Tác chiến Cụm quân B đi cùng. Như thường lệ, các chỉ huy nơi họ sẽ đi qua sẽ không được biết về kế hoạch của thống chế. Rommel thích vậy; ông ghét bị https://thuviensach.vn trì hoãn do sự ồn ào và những nghi thức tiếp đón của các vị chỉ huy và những đội môtô hộ tống chờ sẵn ở cửa ngõ mỗi thành phố. Như thế, với một chút may mắn, họ có thể tới Ulm lúc 3 giờ chiều. Có một vấn đề thường trực: nên mang gì theo cho bữa trưa của thống chế. Rommel không hút thuốc, hiếm khi uống rượu và ít quan tâm tới đồ ăn tới mức đôi khi ông quên cả việc dùng bữa. Thông thường, khi cùng với Lang sắp xếp một chuyến đi dài, Rommel vẫn dùng bút chì gạch chéo qua thực đơn được đề xuất cho bữa trưa và viết đậm những chữ to sau “Khẩu phần dã chiến đơn giản”. Đôi khi, ông còn làm Lang bối rối hơn khi nói rằng, “Tất nhiên, nếu cậu muốn vứt cho tôi một hai miếng sườn, tôi cũng không thấy phiền”. Viên sĩ quan chu đáo Lang không bao giờ biết là nên đặt món gì. Sáng nay, ngoài một bình nước, anh yêu cầu nhà bếp làm thêm ít sandwich. Anh ta đoán rằng, cũng như mọi khi Rommel sẽ quên luôn bữa trưa. Lang rời văn phòng và bước dọc theo hành lang lát gỗ sồi. Từ những gian phòng hai bên vang lên tiếng trao đổi và tiếng máy chữ lách cách; sở chỉ huy Cụm quân B hiện giờ là nơi khá bận rộn. Lang vẫn thường tự hỏi làm sao mà gia đình de La Rochefoucauld sống ở tầng trên có thể ngủ được trong tiếng ồn như thế này. Tới cuối hành lang, Lang dừng lại trước một cánh cửa lớn. Anh lịch sự gõ cửa, xoay nắm đấm và bước vào. Rommel không nhìn anh. Ông đang chăm chú vào những giấy tờ trước mặt đến mức hình như không để ý người phụ tá, nhưng Lang biết tốt hơn là không cắt ngang. Anh đứng chờ. Rommel liếc nhìn lên. “Chào buổi sáng, Lang”, ông nói. “Chào buổi sáng, thưa Thống chế. Đây là báo cáo”. Lang đưa bản tài liệu. Sau đó anh rời phòng và đợi để tháp tùng Rommel xuống dùng bữa. Sáng nay thống chế có vẻ rất bận. Lang, người hiểu rõ Rommel bốc đồng và dễ thay đổi thế nào, tự hỏi liệu cuối cùng họ có thật sự sẽ lên đường không. https://thuviensach.vn Rommel không có ý định huỷ bỏ chuyến đi. Mặc dù chưa được sắp xếp chắc chắn, ông hy vọng có thể gặp Hitler. Các thống chế đều có quyền được gặp Quốc trưởng và Rommel đã gọi điện cho người bạn cũ, Thiếu tướng Rudolf Schmundt - sĩ quan quản trị của Hitler để đề nghị. Schmundt nghĩ có thể bố trí vào khoảng từ ngày 6 đến 9. Ý định riêng của Rommel là sẽ không ai ngoài bộ tham mưu biết ông định gặp Hitler. Nhật ký chính thức của tổng hành dinh Rundstedt chỉ đơn giản ghi lại là Rommel về nhà nghỉ mấy ngày. Rommel khá tin tưởng vào việc có thể rời sở chỉ huy vào lúc này. Hiện giờ tháng 5 đã trôi qua – và đó là tháng có thời tiết đẹp nhất để Đồng minh tấn công – ông đã kết luận cuộc đổ bộ sẽ không tới trong nhiều tuần nữa. Rommel chắc chắn tới mức còn đặt ra hạn chót cho việc hoàn tất các công trình chống đổ bộ. Trên bàn ông là chỉ thị cho Tập đoàn quân 7 và 15: “Mọi nỗ lực có thể phải được thực hiện nhằm hoàn thành các bãi vật cản để khi thủy triều xuống thấp kẻ địch chỉ có thể đổ bộ được với giá đắt… công việc phải được xúc tiến... phải báo cáo hoàn tất cho sở chỉ huy vào ngày 20 tháng 6”. Ông – cũng như Hitler và Bộ Tư lệnh tối cao Đức – suy luận rằng cuộc đổ bộ sẽ được tiến hành đồng thời với chiến dịch mùa hè của Hồng quân hoặc chậm hơn chút ít. Như họ đã biết, cuộc tiến công của quân Nga chưa thể bắt đầu tới khi tuyết tan hết ở Ba Lan, và do đó họ không nghĩ rằng cuộc đổ bộ có thể được triển khai trước cuối tháng 6. Ở phía Tây thời tiết xấu suốt nhiều ngày và hứa hẹn là sẽ còn tệ hơn. Báo cáo lúc 5:00 sáng do Đại tá Giáo sư Walter Steobe, trưởng bộ phận Khí tượng của Luftwaffe (Không quân Đức) chuẩn bị dự đoán trời nhiều mây, có gió mạnh và mưa. Hiện tại, vận tốc gió trên Eo biển đạt 20 tới 45km/h. Đối với Rommel, dường như không thể có chuyện Đồng minh dám tấn công trong mấy ngày tới. Thậm chí ở La Roche-Guyon, trong đêm thời tiết đã thay đổi. Hai cửa sổ cao https://thuviensach.vn đối diện bàn Rommel hướng ra một vườn hoa hồng. Sáng nay nó không còn là vườn hoa nữa – cánh hoa, cành lá gãy nát vương vãi khắp nơi. Ngay trước bình minh một cơn bão mùa hè ngắn ngủi đã vượt qua Eo biển Anh, quét suốt dải bờ biển Pháp và đi tiếp. Rommel mở cửa và bước ra. “Chào buổi sáng, Lang”, ông nói, mặc dù đến lúc này vẫn không nhìn người phụ tá. “Ta sẵn sàng đi chưa?”. Họ cùng xuống ăn sáng. Bên ngoài La Roche-Guyon, nhà thờ St Samson kéo chuông. Tiếng chuông bị gió làm chìm lấp đi. Lúc đó là 6:00 sáng. Giữa Rommel và Lang đang tồn tại một mối quan hệ đơn giản, thân mật. Họ đã là bạn đồng hành suốt nhiều tháng. Lang làm việc cho Rommel từ tháng 2 và hầu như không ngày nào trôi qua mà không có một chuyến đi kiểm tra ở đâu đó. Thông thường lúc 4:30 sáng họ đã ở trên đường, phóng hết tốc lực tới vài địa điểm xa xôi dưới quyền chỉ huy của Rommel. Hôm này là Hà Lan, hôm khác Bỉ, ngày tiếp theo Normandy hoặc Brittany. Thống chế quả quyết tranh thủ từng thời khắc. “Giờ tôi chỉ có một kẻ thù rõ rệt”, ông bảo Lang, “và đó là thời gian”. Để tận dụng nó, Rommel không để mình hay cấp dưới có thời gian rỗi; mọi việc đã diễn ra như thế từ thời điểm ông được cử đến Pháp tháng 11 năm 1943. Von Rundstedt, mang trách nhiệm phòng thủ toàn Tây Âu, đã đề nghị Hitler gửi thêm quân chi viện. Thay vào đó, ông nhận được Rommel cứng đầu, liều lĩnh và tham vọng. Làm bẽ mặt vị tư lệnh 68 tuổi mang dòng dõi quý tộc, Rommel tới với một Gummiberfehl, một “chỉ thị mềm dẻo”, lệnh cho ông kiểm tra hệ thống công sự bờ biển – “bức tường Đại Tây Dương” được quảng cáo rùm beng của Hitler – và sau đó báo cáo trực tiếp cho tổng hành dinh của Quốc trưởng, OKW. Vị thống chế bối rối và thất vọng Von Rundstedt đã khó chịu vì sự có mặt của Thống chế Rommel trẻ hơn mình - ông thường gọi Rommel là "Marschall Bubi" (tạm dịch, "Thống chế nhóc con") tới mức đã https://thuviensach.vn hỏi Thống chế Wilhelm Keitel, Tư lệnh OKW rằng Rommel có được coi là người thay thế mình không. Rundstedt nhận được câu trả lời là “không nên có những kết luận sai”, rằng với “tất cả khả năng của mình Rommel chưa tới được vị trí ấy”. Thống chế Karl Rudolf Gerd von Rundstedt, Tư lệnh Mặt trận phía Tây. Ngay sau khi tới nhậm chức, Rommel có cuộc kiểm tra chớp nhoáng Bức tường Đại Tây Dương và những gì chứng kiến làm ông hoảng hồn. Chỉ ở vài địa điểm các công sự lớn bằng bê tông và sắt thép dọc bờ biển đã được hoàn https://thuviensach.vn thành: tại những cảng quan trọng, cửa sông, trên những cao điểm nhìn ra biển, nói chung là từ phía trên Le Havre tới Hà Lan. Ở những chỗ khác công trình phòng thủ được xây dựng với mức độ khác nhau. Ở vài nơi thậm chí công việc còn chưa bắt đầu. Sự thật thì Bức tường Đại Tây Dương là một chướng ngại vật đáng gờm ngay cả ở thời điểm này. Tại những chỗ đã hoàn thành, nó được củng cố khá tốt với trọng pháo. Nhưng như thế chưa thoả mãn Rommel. Không có thứ gì đủ để ngăn cản cuộc tấn công dữ dội như kiểu mà Rommel – vẫn luôn ghi nhớ thất bại nặng nề dưới tay Montgomery ở Bắc Phi năm trước – biết chắc sẽ xảy ra. Trong con mắt phê phán của ông, Bức tường Đại Tây Dương là một trò hề. Sử dụng một trong những từ ngữ biểu cảm nhất đối với bất kỳ ngôn ngữ nào, ông đã lên án nó là một “điều tưởng tượng ở Wolkenkuckucksheim [xứ sở mộng mơ] của Hitler”. Chỉ 2 năm trước, bức tường hầu như không tồn tại. Tới năm 1942, chiến thắng dường như quá chắc chắn đối với Quốc trưởng và chế độ Quốc xã tự tin đến mức không cần phải phòng thủ bờ biển. Chữ thập ngoặc tung bay khắp nơi. Áo và Tiệp Khắc thậm chí bị thôn tính trước khi chiến tranh bắt đầu. Ba Lan bị Đức và Nga chia cắt từ 1939. Chiến tranh không kéo dài đến một năm khi các quốc gia Tây Âu gục ngã như táo rụng. Đan Mạch thua trong một ngày. Na Uy bị xâm nhập từ bên trong mất thêm ít thời gian: 6 tuần. Sau đó trong tháng 5 và 6, chỉ trong 27 ngày mà không cần thương lượng gì, các đạo quân thần tốc của Hitler đã tràn vào Hà Lan, Bỉ, Luxembourg, Pháp và trước sự chứng kiến ngờ vực của thế giới đã đẩy quân Anh xuống biển ở Dunkirk. Sau khi Pháp sụp đổ chỉ còn lại nước Anh đứng đơn độc. Hitler cần gì tới một “bức tường”? Nhưng Hitler không xâm lược Anh. Các tướng lĩnh muốn ông ta làm thế, nhưng Hitler chờ đợi, nghĩ rằng người Anh sẽ phải cầu xin hoà bình. Khi thời gian trôi qua, tình thế nhanh chóng thay đổi. Với viện trợ của Mỹ nước Anh bắt đầu hồi phục, chậm chạp nhưng chắc chắn. Hitler giờ sa lầy ở Nga – ông ta đã cho tấn công Liên Xô vào tháng 6, 1941 – thấy rằng bờ biển nước https://thuviensach.vn Pháp không còn là bàn đạp để tấn công. Hiện nó là điểm yếu trong dải phòng ngự. Cuối năm 1941 ông ta bắt đầu trao đổi với các tướng lĩnh về việc biến châu Âu thành một “pháo đài không thể công phá”. Và trong tháng 12, sau khi nước Mỹ tham chiến, Quốc trưởng huênh hoang trước thế giới rằng “một chuỗi các cứ điểm và pháo đài kiên cố chạy từ Kirkenes [biên giới Na Uy – Phần Lan] … tới dãy Pyrenees [biên giới Pháp – Tây Ban Nha] … và đó là quyết định không thể lay chuyển của tôi, biến mặt trận này trở nên bất khả xâm phạm trước mọi kẻ thù”. Đó là sự khoác lác điên rồ không thể thực hiện được. Trừ đi những điểm lõm, bờ biển kéo dài từ Bắc Băng Dương ở phía bắc tới vịnh Biscat ở phía nam gần 4.800km. Ngay cả ở nơi Eo biển ngăn cách với nước Anh hẹp nhất, hệ thống công sự cũng không tồn tại. Nhưng Hitler đã trở nên bị ám ảnh bởi ý tưởng pháo đài phòng thủ. Chuẩn thống chế ** Franz Halder khi ấy là Tổng tham mưu trưởng nhớ rõ lần đầu tiên Hitler vẽ ra viễn cảnh này. Halder, người sẽ không bao giờ tha thứ cho Hitler vì đã từ chối xâm lược Anh, tỏ ra lạnh nhạt trước ý tưởng đó. ** Trong nguyên bản tiếng Anh: Colonel General, quân hàm cao thứ 2 trong quân đội Đức quốc xã, trên Đại tướng (General) và dưới Thống chế (Field Marshal) – chiangshan. Ông đánh bạo nêu ý kiến rằng các công sự phòng thủ “nếu chúng là cần thiết” phải được xây dựng “lùi sâu so với bờ biển, ngoài tầm pháo của chiến hạm”, nếu không binh lính sẽ không ngóc đầu lên được. Hitler lao tới chiếc bàn đặt tấm bản đồ lớn và xả ra một cơn thịnh nộ đáng nhớ trong suốt 5 phút. Đấm mạnh xuống bàn, ông ta gào lên, “Bom đạn sẽ trút xuống đây… đây… đây… và đây… phía trước tuyến phòng thủ, phía sau và trên đầu nó… nhưng binh lính sẽ an toàn trong tuyến phòng thủ! Và họ sẽ tiến ra chiến đấu!”. https://thuviensach.vn Halder im lặng, nhưng ông cũng như các tướng lĩnh khác trong Bộ Tư lệnh tối cao biết rằng mặc dù Đế chế đang say sưa với thắng lợi, Quốc trưởng vẫn lo sợ một mặt trận thứ hai – một cuộc đổ bộ. Dù vậy, rất ít công việc được tiến hành. Năm 1942, ngọn sóng chiến tranh bắt đầu quật trở lại Hitler, đặc công Anh bắt đầu đột kích vào pháo đài châu Âu “bất khả xâm phạm”. Tiếp theo là cuộc tập kích đẫm máu nhất trong chiến tranh khi hơn 5.000 lính Canada dũng cảm đổ bộ lên Dieppe. Đó là sự mở màn khốc liệt cho cuộc tấn công. Những gì mà các nhà hoạch định kế hoạch phía Đồng minh biết được chỉ là quân Đức đã phòng thủ các cảng biển chặt chẽ tới mức nào. Quân Canada có 3.369 thương vong, trong đó 900 người chết. Cuộc tập kích thất bại nặng nề, nhưng nó đã làm Hitler choáng váng. Ông ta gầm lên với các tướng lĩnh, Bức tường Đại Tây Dương phải được hoàn thành với tốc độ nhanh nhất. Công việc xây dựng phải được đẩy lên “một cách hăng hái”. https://thuviensach.vn Quân Canada đổ bộ lên Dieppe trong Chiến dịch Jubilee, ngày 18/8/1942. Nó đã được thực hiện. Hàng nghìn nhân công cưỡng bức làm việc cả ngày và đêm để xây dựng các hệ thống phòng thủ. Hàng triệu tấn bê tông được trút xuống, nhiều đến mức khắp châu Âu dưới chân Hitler không thể kiếm được bê tông cho việc gì khác. Một lượng sắt thép kinh ngạc được yêu cầu, nhưng nguồn cung cấp hạn chế nên các kĩ sư phải làm việc mà không có nó. Kết quả là chỉ một số boong ke hay lô cốt có vòm xoay – những chỗ đòi hỏi phải có thép để làm tháp pháo – và do đó làm xạ giới của pháo bị hạn chế. Nhu cầu vật liệu và trang thiết bị cao đến mức một phần phòng tuyến Maginot cũ của Pháp và phòng tuyến biên giới của Đức (phòng tuyến Siegfried) đã được dỡ bỏ để tập trung cho Bức tường Đại Tây Dương. Đến cuối năm 1943, mặc dù còn xa mới hoàn thành, trên nửa triệu người đã đang làm việc ở đó và các hệ thống phòng thủ đã trở thành mối đe doạ hiện hữu. Hitler biết cuộc đổ bộ là không thể tránh khỏi, và bây giờ ông ta gặp phải một vấn đề lớn nữa: chọn những đơn vị nào để triển khai. Ở Nga, hết sư đoàn này https://thuviensach.vn đến sư đoàn khác đang bị nghiền nát khi Wehrmacht cố giữ chiến tuyến dài 3.200km trước những cuộc tiến công không ngừng của quân đội Liên Xô. Ở Italy, bị loại ra khỏi vòng chiến sau cuộc đổ bộ Sicily, hàng nghìn quân vẫn chưa ngóc đầu lên được. Do đó, đến 1944, Hitler buộc phải đệm vào phòng tuyến phía tây một đám hổ lốn quân bổ sung – ông già và trẻ con, tàn binh của những sư đoàn bị xoá sổ ở mặt trận Nga, những “lính tình nguyện” cưỡng bức từ các quốc gia bị chiếm đóng (có thể kể ra những đơn vị người Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungary, Romania và Nam Tư) và thậm chí 2 sư đoàn người Nga gồm những kẻ muốn chiến đấu cho phát xít hơn là ở lại trong trại tù binh. Mặc dù chất lượng còn đáng ngờ, những đơn vị này đã lấp vào chỗ trống. Ông ta vẫn còn nòng cốt là các đơn vị có kinh nghiệm chiến đấu và các đơn vị xe tăng. Đến D-Day, lực lượng của Hitler trên mặt trận phía Tây lên đến khoảng 60 sư đoàn. Không phải sư đoàn nào cũng có đủ quân số, nhưng Hitler vẫn trông đợi vào Bức tường Đại Tây Dương; nó sẽ làm nên sự khác biệt. Kể cả những người đã chiến đấu – và thất bại – trên những mặt trận khác như Rommel cũng phải kinh ngạc khi thấy các hệ thống phòng thủ. Rommel không ở Pháp kể từ năm 1941. Và ông cũng như các tướng lĩnh Đức khác tin vào sự tuyên truyền của Hitler, nghĩ rằng phòng tuyến đã gần hoàn thành. Sự chỉ trích gay gắt của ông về “bức tường” ở OB West không làm Von Rundstedt ngạc nhiên. Ông chân thành bày tỏ sự đồng tình; quả thực, đó có lẽ là lần duy nhất ông hoàn toàn tán thành với Rommel về một vấn đề. Vị Thống chế già dặn Von Rundstedt chưa bao giờ tin tưởng vào cách phòng thủ cố định. Ông đã đề ra và điều khiển cuộc tiến công thọc sườn phòng tuyến Maginot năm 1940 dẫn tới sự sụp đổ của nước Pháp. Đối với ông Bức tường Đại Tây Dương chẳng là gì ngoài một “sự bịp bợm to tát… cho người Đức nhiều hơn là cho kẻ thù… và kẻ thù qua những điệp viên của họ còn biết rõ điều đó hơn cả chúng ta”. Nó có thể “cầm chân tạm thời” cuộc tấn công của Đồng minh, nhưng sẽ không ngăn chặn được. Von Rundstedt tin chắc chẳng có gì cản được cuộc đổ bộ thành công bước đầu. Kế hoạch của ông là giữ https://thuviensach.vn những lực lượng lớn cách xa bờ biển và tấn công sau khi quân Đồng minh đã đổ bộ. Đó là thời điểm để công kích, ông tin tưởng – khi kẻ địch vẫn còn yếu, chưa có hậu cần đầy đủ, và vẫn đang loay hoay củng cố lực lượng trong các khu đầu cầu cách biệt. Thống chế Rundstedt (trái) và Thống chế Rommel (phải) tại Paris năm 1943. https://thuviensach.vn Rommel hoàn toàn không đồng ý với phương án này. Ông khẳng định chỉ có một cách để đẩy lui cuộc tấn công: đương đầu với nó. Sẽ không có thời gian để đưa lực lượng tăng viện từ tuyến sau lên, ông chắc chắn chúng sẽ bị tiêu diệt sau những đợt không kích liên tục hay bắn phá dữ dội của hải quân và pháo binh. Trong cách nhìn của Rommel, mọi thứ từ bộ binh đến các sư đoàn xe tăng phải sẵn sàng ngay ở bờ biển hay sát phía sau. Người phụ tá nhớ rõ ngày Rommel tóm tắt chiến thuật của mình. Họ đứng bên bờ biển hoang vắng và Rommel, người thấp, chắc nịch trong chiếc áo choàng dày cùng khăn quàng cổ bước tới bước lui một cách oai vệ, vung vẩy chiếc trượng thường của thống chế - một chiếc gậy đen đầu bạc dài 60cm với những tua đỏ, đen và trắng. Ông trỏ trượng xuống bãi cát và nói, “Cuộc chiến thắng hay bại là ở trên bãi biển. Chúng ta sẽ chỉ có một cơ hội duy nhất để ngăn chặn kẻ thù và đó là khi chúng còn ở dưới nước… đang tìm cách tiến vào bờ. Lực lượng dự bị sẽ không bao giờ tới được khu xuất phát tấn công và thậm chí còn là ngu xuẩn nếu nghĩ đến họ. Hauptkampflinie [tuyến phòng thủ chính] sẽ ở đây… tất cả những gì chúng ta có sẽ phải nằm ở bờ biển. Tin tôi đi, Lang, 24 giờ đầu tiên của cuộc đổ bộ sẽ mang tính quyết định… đối với Đồng minh cũng như nước Đức, đó sẽ là ngày dài nhất”. Hitler chấp nhận kế hoạch của Rommel về cơ bản, và từ đó Von Rundstedt trở nên đơn thuần là một bù nhìn. Rommel chỉ thực hiện các mệnh lệnh của Von Rundstedt nếu chúng trùng với ý tưởng của ông. Để làm được như vậy ông thường xuyên sử dụng một câu đơn giản nhưng đầy sức nặng. “Quốc trưởng”, Rommel thường nhấn mạnh, “ra lệnh trực tiếp cho tôi”. Ông không bao giờ nói thẳng như thế trước Von Rundstedt cao quý, mà trước Tham mưu trưởng OB West, Thiếu tướng Blumentritt. Với sự chống lưng của Hitler và sự miễn cưỡng chấp thuận của Von Rundstedt (“Gã cai Bohem Hitler ấy”, vị Tư lệnh Mặt trận phía Tây cáu kỉnh nói, “thường xuyên ra quyết định chống lại chính hắn”), Rommel quả quyết đã bắt tay vào xem xét toàn bộ các kế hoạch chống đổ bộ đã có. https://thuviensach.vn Chỉ trong vài tháng ngắn ngủi, nỗ lực không ngừng của Rommel đã thay đổi toàn bộ bức tranh. Trên mỗi bãi biển được đánh giá có thể đổ bộ được, ông lệnh cho binh lính cùng với các tiểu đoàn lao công cưỡng bức ở địa phương dựng lên các vật cản đơn giản. Những vật chướng ngại đó – có 3 cạnh thép lởm chởm, những cấu trúc cổng sắt hình răng cá mập, cọc gỗ bịt sắt và các khối bê tông hình chóp – được bố trí ngay dưới mực thuỷ triều cao và thấp. Chúng được gắn thêm những quả mìn chết chóc. Ở nơi nào không đủ mìn, đầu đạn pháo được sử dụng, quay mũi ra phía biển. Một sự va chạm sẽ khiến chúng nổ ngay lập tức. Những sáng chế lạ mắt của Rommel (ông đã tự mình thiết kế phần lớn) vừa đơn giản vừa hiệu quả. Nhiệm vụ của chúng là chọc thủng và phá huỷ hay cầm chân các tàu đổ bộ chở đầy quân tới khi các khẩu đội pháo nhắm được mục tiêu. Trong trường hợp nào, ông lập luận, quân địch cũng sẽ bị tiêu hao dài dài trước khi vào được bờ. Giờ hơn nửa triệu vật cản ngầm gây sát thương đó được bố trí dọc theo bờ biển. Sơ đồ bố trí chướng ngại vật của quân Đức ở bãi biển Omaha - Normandy. Dù vậy Rommel, vốn là người cầu toàn, vẫn chưa hài lòng. Trên các bãi cát, trên các con dốc, trên các con mương và đường mòn từ bờ biển, ông ra lệnh https://thuviensach.vn đặt mìn – đủ các loại, từ những quả mìn dẹt lớn đủ để phá tung xích xe tăng, tới những quả mìn S (mìn nhảy) nhỏ sẽ nhảy lên và nổ ngang tầm ngực. Hơn 5 triệu mìn rải khắp vùng bờ biển. Trước khi cuộc đổ bộ xảy ra, Rommel hy vọng có thể đặt thêm 6 triệu quả nữa. Tổng cộng, ông định củng cố vùng bờ biển với 60 triệu quả mìn *. * Rommel bị mê hoặc trong việc dùng mìn làm vũ khí phòng ngự. Trong một chuyến đi kiểm tra cùng với thống chế, Thiếu tướng Alfred Gause (Tham mưu trưởng tiền nhiệm của Rommel, trước Thiếu tướng Dr. Hans Speidel) chỉ những cánh đồng hoa dại mùa xuân và nói, “Cảnh này không đẹp sao?”. Rommel gật đầu và nói, “Ông nên chú ý, Gause – chỗ này sẽ được bố trí 1.000 quả mìn”. Và một dịp khác trên đường tới Paris, Gause gợi ý ghé thăm nhà máy làm đồ sứ nổi tiếng ở Seevres. Ông ngạc nhiên khi Rommel đồng ý. Nhưng Rommel không quan tâm đến những tác phẩm nghệ thuật được xem. Ông bước nhanh ra khỏi phòng trưng bày và quay lại nói với Gause: “Hãy xem thử xem họ có làm được vỏ bọc không thấm nước cho mìn của tôi không” – Chú thích của tác giả (TG). Nhìn ra biển, sau rừng mìn và vật cản, binh lính của Rommel chờ đợi trong những lô cốt, hầm ngầm bê tông và giao thông hào, tất cả được bao bọc bởi bẫy hay rào thép gai. Từ những vị trí đó, mọi khẩu pháo mà thống chế có thể huy động nhìn xuống bãi cát và ra biển, ngắm sẵn phần tử để có thể dựng lên bức tường lửa chính xác. Một số nằm ngay bên bờ biển. Chúng được giấu trong những công sự bê tông, trong những vị trí nhìn bên ngoài có vẻ vô hại, nòng không hướng ra biển mà chĩa thẳng xuống bãi để bắn thẳng vào các làn sóng xung phong. https://thuviensach.vn Công sự phòng thủ bờ biển của quân Đức ở Longues-sur-Mer, Normandy. Rommel tranh thủ tất cả những kỹ thuật và sáng chế tiên tiến. Ở những nơi thiếu pháo, ông bố trí các khẩu đội pháo phản lực hoặc súng cối nhiều nòng. Ở vài chỗ ông có cả xe tăng robot mini mang tên “Goliaths”. Những thiết bị này mang theo nửa tấn thuốc nổ, có thể được điều khiển từ các công sự đi xuống bãi biển và phát nổ giữa đám lính cùng tàu đổ bộ. Thứ vẫn còn chưa được nhắc đến trong kho vũ khí trung cổ của Rommel là những nồi chì nấu chảy để đổ xuống đầu quân tấn công – nói cách khác, ông có một thứ tương tự nhưng hiện đại hơn: hệ thống phun lửa tự động. Ở vài nơi, mạng lưới các ống dẫn từ những bể chứa dầu được giấu kín chạy xuống những lối đi đầy cỏ dẫn từ bờ biển. Chỉ một cái nhấn nút đối phương sẽ bị nhấn chìm trong lửa. https://thuviensach.vn Rommel không quên mối đe doạ đến từ lính dù và bộ binh đổ bộ bằng tàu lượn. Phía sau tuyến phòng thủ, những khu đất thấp đã được làm ngập nước, và những bãi trống trong phạm vi cách bờ biển 11 tới 13km được cắm cọc và bố trí bẫy. Dây gài treo giữa những thứ đó. Khi bị động vào, chúng sẽ kích nổ mìn hay đạn pháo tức thì. Rommel đã bố trí một cuộc tiếp đón đẫm máu cho quân Đồng minh. Chưa bao giờ trong lịch sử chiến tranh hiện đại, một hệ thống phòng thủ vững chắc và chết chóc như vậy được chuẩn bị. Dù thế Rommel vẫn chưa bằng lòng. Ông muốn thêm nhiều công sự, thêm nhiều vật cản, thêm nhiều mìn, thêm nhiều pháo và quân. Trên hết, ông muốn có các sư đoàn xe tăng hùng hậu đang được bố trí cách xa bờ biển làm dự bị. Ông đã thắng những trận đáng nhớ bằng xe tăng trên sa mạc Bắc Phi. Giờ đây, ở thời điểm then chốt này, cả ông lẫn Rundstedt không thể điều động các đơn vị thiết giáp mà không có sự cho phép của Hitler. Quốc trưởng khăng khăng giữ chúng dưới sự chỉ huy của cá nhân mình. Rommel cần ít nhất 5 sư đoàn xe tăng ở bờ biển, sẵn sàng phản công trong những giờ đầu tiên Đồng minh đổ bộ. Chỉ có một cách để đạt được điều đó – ông sẽ gặp Hitler. Trong buổi sáng âm u này ở La Roche-Guyon, khi chuẩn bị cho hành trình dài về thăm nhà, Rommel kiên quyết giành chiến thắng hơn bao giờ hết. Tại sở chỉ huy Tập đoàn quân 15 cách đó 200km gần biên giới Bỉ, một người đang vui mừng khi buổi sáng ngày 4 tháng 6 tới. Trung tá Hellmuth Meyer ngồi trong văn phòng, hốc hác và đôi mắt mỏi nhừ. Ông không thể có một giấc ngủ ngon kể từ ngày 1 tháng 6. Nhưng cái đêm vừa trôi qua là tệ nhất, ông sẽ không bao giờ quên nó. Meyer đảm nhiệm công việc căng thẳng thần kinh và dễ gây nản lòng. Bên cạnh vai trò sĩ quan Tình báo của Tập đoàn quân 15, ông còn chỉ huy đội phản gián mặt trận. Trái tim của mạng lưới là 30 nhân viên vô tuyến điện luân phiên làm việc trong một hầm ngầm bê tông chất đầy những thiết bị vô tuyến tinh vi. Nhiệm vụ của họ là nghe, không gì khác. Nhưng mỗi người là một https://thuviensach.vn chuyên gia lão luyện giỏi 3 ngoại ngữ, và hầu như không một từ, không một tín hiệu Morse nào trong không gian từ phía Đồng minh mà họ không nghe thấy. Người của Meyer có nhiều kinh nghiệm và thiết bị nhạy đến mức họ bắt được các cuộc gọi từ máy truyền tin trên xe jeep của quân cảnh ở Anh cách đó 160km. Điều này hỗ trợ rất nhiều cho Meyer. Quân cảnh Anh và Mỹ trao đổi qua điện đài khi điều hành các đoàn xe đã không ngừng giúp ông tổng kết danh sách hàng loạt sư đoàn đóng quân ở Anh. Nhưng hiện giờ nhiều lúc các nhân viên của Meyer không bắt được cuộc liên lạc nào. Điều này cũng có ý nghĩa với Meyer, nó cho thấy lệnh ngừng liên lạc vô tuyến tuyệt đối đã được áp dụng. Đó chỉ là một bổ sung vào rất nhiều bằng chứng mà ông có cho thấy cuộc đổ bộ đã đến gần. Cùng với tất cả các báo cáo tình báo, những dữ kiện như vậy giúp Meyer phác thảo ra bức tranh về kế hoạch của Đồng minh. Và ông đang làm rất tốt công việc của mình. Suốt nhiều ngày ông chọn lọc trong hàng mớ các băng ghi âm, luôn luôn tìm kiếm những thứ đáng ngờ, những thứ bất thường – và cả những thứ khó tin. Đêm qua người của ông đã bắt được thứ khó tin. Thông điệp, được truyền gấp qua đường cáp tốc độ cao, đã được ghi lại ngay sau khi trời tối. Nó viết: “KHẨN PRESS ASSOCIATED NYK TIN NÓNG SỞ CHỈ HUY CỦA EISENHOWER THÔNG BÁO VỀ CUỘC ĐỔ BỘ CỦA ĐỒNG MINH LÊN PHÁP” (URGENT PRESS ASSOCIATED NYK FLASH EISENHOWER'S HQ ANNOUNCES ALLIED LANDINGS IN FRANCE). Meyer lặng người. Thoạt đầu ông định báo động cho toàn sở chỉ huy. Nhưng ông đã cho dừng và bình tĩnh trở lại, vì biết thông điệp trên là giả. Có hai lí do. Thứ nhất, hoàn toàn không có hoạt động nào trên toàn mặt trận – ông sẽ phải biết ngay nếu nó có thực. Thứ hai, hồi tháng 1 Đô đốc Wilhelm https://thuviensach.vn Canaris, người đứng đầu cơ quan tình báo Đức, đã cho Meyer biết chi tiết về một tín hiệu kì lạ gồm 2 phần mà ông ta nói rằng Đồng minh sẽ sử dụng để báo động cho lực lượng kháng chiến ngầm ngay trước cuộc đổ bộ. Đô đốc Wilhelm Canaris. Canaris cảnh báo rằng Đồng minh sẽ phát đi hàng trăm thông điệp trong những tháng trước khi tấn công. Chỉ một vài trong số đó thực sự liên quan tới D-Day; số còn lại là giả, được chủ định tạo ra để đánh lạc hướng và gây lúng túng. Canaris đã nói thẳng: Meyer phải ghi lại toàn bộ các thông điệp để không lỡ mất thứ tối quan trọng. https://thuviensach.vn Thoạt đầu Meyer hoài nghi. Có vẻ điên rồ khi chỉ dựa trên một thông điệp duy nhất. Ngoài ra, ông cũng có kinh nghiệm là 90 phần trăm các nguồn tin của Berlin không chính xác. Ông có cả một tập những báo cáo sai để chứng minh điều đó; Đồng minh dường như đã nhồi cho mỗi điệp viên Đức từ Stockholm cho tới Ankara thông tin về địa điểm và thời gian “chính xác” của cuộc đổ bộ - và không cái nào thống nhất với cái nào. Nhưng lần này Meyer biết Berlin đã đúng. Đêm 1 tháng 6, sau nhiều tháng theo dõi người của Meyer đã bắt được phần thứ nhất của bức thông điệp Đồng minh – chính xác như Canaris nói. Nó không giống hàng trăm thông điệp gồm những câu mật ngữ mà người của Meyer đã thu được suốt nhiều tháng trước. Hàng ngày sau chương trình tin tức thường lệ, BBC phát các mật ngữ bằng tiếng Pháp, Hà Lan, Đan Mạch và Na Uy cho lực lượng kháng chiến. Phần lớn vô nghĩa với Meyer, và thật bực mình là không thể giải mã được những mẩu tin kiểu như “Cuộc chiến Troy sẽ không được theo đuổi”, “Mật đường ngày mai sẽ chảy vào cognac”, “John để ria dài” hay “Sabine vừa mới cằn nhằn và ghen tức”. Nhưng thông điệp ngay sau chương trình tin tức 9:00 tối của BBC tối 1 tháng 6 là cái mà Meyer hiểu rõ. “Vui lòng lắng nghe một vài thông điệp cá nhân”, phát thanh viên nói bằng tiếng Pháp. Lập tức Hạ sĩ Walter Reichling bật máy ghi âm. Một khoảng chờ, và sau đó: “Les sanglots longs des violins de l'automne [Những tiếng nức nở dài của vĩ cầm mùa thu]. Đột nhiên Reichling đập tay vào tai nghe. Rồi anh giật phăng nó ra và chạy tới trụ sở của Meyer. Viên hạ sĩ lao vào phòng và nói đầy kích động: “Thưa ngài, phần thứ nhất của thông điệp – nó đây rồi”. Họ cùng nhau quay về hầm, tại đó Meyer nghe lại băng ghi âm. Chính là nó – thông điệp mà Canaris đã báo trước. Đó là dòng đầu tiên của “Chanson d’Automne” [Bài ca mùa thu] của nhà thơ Pháp thế kỷ 19 Paul Verlaine. Theo https://thuviensach.vn thông tin từ Canaris, dòng thơ này sẽ được truyền đi trong khoảng “ngày 1 hoặc 15 trong tháng … và sẽ là phần đầu của thông điệp báo về cuộc đổ bộ của Anh – Mỹ”. Nửa cuối của thông điệp là dòng thứ hai trong bài thơ của Verlaine, "Blessent mon coeur d'une langueur monotone” [Làm tổn thương trái tim tôi với nhịp điệu buồn tẻ]. Theo Canaris, khi nó được phát đi nghĩa là “cuộc đổ bộ sẽ bắt đầu trong vòng 48 giờ … bắt đầu tính từ 0 giờ ngày hôm sau”. Ngay khi nghe dòng thơ Verlaine được ghi âm lại, Meyer báo cho Tham mưu trưởng Tập đoàn quân 15, Thiếu tướng Rudolf Hofmann: “Thông điệp thứ nhất đã tới”, ông nói với Hofmann, “Giờ điều gì đó sẽ xảy ra”. “Ông chắc chắn không?” Hofmann hỏi. “Chúng tôi đã ghi lại”, Meyer trả lời. Trong lúc ấy Meyer gửi điện cho OKW. Sau đó ông gọi đến sở chỉ huy của Rundstedt (OB West) và Rommel (Cụm quân B). Tại OKW, tin được chuyển cho Chuẩn thống chế Alfred Jodl, Cục trưởng Tác chiến. Bức điện nằm nguyên trên bàn của Jodl. Ông không ra lệnh báo động. Jodl cho rằng Rundstedt đã làm việc đó; nhưng Rundstedt lại nghĩ sở chỉ huy của Rommel đã ra lệnh. * * Rommel phải biết về tin này, nhưng từ dự đoán của ông về ý đồ của Đồng minh, dễ thấy là ông đã xem thường nó – TG. https://thuviensach.vn Chuẩn thống chế Alfred Jodl, Cục trưởng Tác chiến Bộ Tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang (OKW). Trên toàn mặt trận chỉ có một tập đoàn quân được đặt trong trạng thái sẵn sàng: Tập đoàn quân 15. Tập đoàn quân 7 bảo vệ duyên hải Normandy không biết gì và không được báo động. Trong đêm 2 và 3 tháng 6 phần đầu của thông điệp đã được phát lại. Điều này làm Meyer lo lắng, theo tin ông có thì nó sẽ chỉ được phát một lần. Ông chỉ có thể đoán Đồng minh lặp lại để đảm bảo lực lượng kháng chiến nhận https://thuviensach.vn được. Trong một giờ sau khi thông điệp được phát lại đêm 3 tháng 6, hãng AP đưa tin nhanh nói rằng cuộc đổ bộ của Đồng minh lên đất Pháp đang được triển khai. Nếu cảnh báo của Canaris là đúng, tin của AP phải là sai. Sau những phút đầu hoang mang, Meyer đặt cược vào Canaris. Giờ ông mệt phờ nhưng hoan hỉ. Bình minh đến và sự yên bình tiếp tục duy trì trên phòng tuyến đã chứng minh ông đúng. Hiện tại không còn điều gì để làm ngoài chờ nửa cuối của bức thông điệp sinh tử có thể tới bất cứ lúc nào. Tầm quan trọng ghê gớm của nó xâm chiếm tâm trí Meyer. Việc đánh bại cuộc đổ bộ của Đồng minh, sinh mạng hàng trăm nghìn người đồng hương của ông, sự tồn tại của quốc gia phụ thuộc vào việc ông cùng nhân viên nhanh chóng ghi lại thông điệp và báo động cho mặt trận. Meyer chỉ hy vọng rằng cấp trên cũng nhận ra tầm quan trọng của nó. Trong khi Meyer ngồi chờ, cách đó 200km, Tư lệnh Cụm quân B đang chuẩn bị đi về Đức. Thống chế Rommel cẩn thận phết chút ít mật ong lên bánh mì. Ngồi cùng ăn sáng ở bàn là vị tham mưu trưởng xuất sắc của ông, Thiếu tướng Dr. Hans Speidel và nhiều thành viên Bộ Tư lệnh. Không có nghi thức nào. Cuộc trao đổi thoải mái và nhẹ nhàng; nó gần như là cả gia đình quây quần bên người cha. Đây là một gia đình gắn bó. Rommel đã lựa chọn từng sĩ quan một và tất cả đều hết lòng với ông. Sáng nay họ đang tóm tắt lại những câu hỏi mà họ hy vọng ông sẽ đặt cho Hitler. Rommel nói rất ít. Ông đơn giản là lắng nghe. Ông đang sốt ruột muốn đi. Rommel nhìn đồng hồ. “Các vị”, thống chế nói đột ngột, “Tôi phải đi đây”. Bên lối đi chính, tài xế của Rommel, Daniel, đứng cạnh chiếc xe đã mở cửa. Rommel mời Đại tá von Tempelhof, ngoài Lang ra là người duy nhất trong Bộ Tư lệnh đi cùng ông trên chiếc Horch. Xe của Tempelhof có thể đi sau. Rommel bắt tay với từng người trong Bộ Tư lệnh, nói ngắn gọn với Tham mưu https://thuviensach.vn trưởng và ngồi vào vị trí thường lệ cạnh tài xế. Lang và Đại tá von Tempelhof ngồi phía sau. “Ta đi thôi, Daniel”, Rommel nói. Chiếc xe chậm rãi quay vòng trong sân và tiến ra cổng chính, vượt qua 16 cây chanh cắt tỉa ngay ngắn nằm dọc con đường. Sau khi đi vào làng nó rẽ phải sang đường chính về Paris. Đó là 7:00 sáng. Rời La Roche-Guyon trong sáng Chủ nhật 4 tháng 6 đặc biệt buồn tẻ này làm Rommel thấy ổn. Thời gian chuyến đi không thể tốt hơn. Cạnh ghế của ông đặt một hộp các tông đựng đôi giày xám bằng da lộn làm riêng, cỡ 5,5 cho vợ ông. Một lí do đặc biệt và rất con người khiến ông muốn gặp vợ vào thứ Ba, 6 tháng 6. Hôm đó là sinh nhật bà. * * Từ sau Thế chiến II, nhiều sĩ quan cấp dưới của Rommel đã hợp sức với nhau thanh minh cho sự vắng mặt của ông ở mặt trận hôm 4, 5 tháng 6 và bản thân ngày quan trọng nhất D-Day. Trong các cuốn sách, bài báo và phỏng vấn họ đã nói rằng Rommel rời Đức ngày 5 tháng 6. Điều đó không đúng. Họ cũng tuyên bố rằng Hitler ra lệnh cho Rommel về Đức. Điều đó không đúng. Người duy nhất ở sở chỉ huy của Hitler biết về chuyến viếng thăm dự định của Rommel là Thiếu tướng Rudolf Schmundt, sĩ quan quản trị của Hitler. Đại tướng Walter Warlimont, lúc đó là Cục phó Tác chiến OKW nói với tôi rằng cả Jodl, Keitel hay chính bản thân ông cũng không hề hay biết là Rommel đang ở Đức. Thậm chí vào D-Day, Warlimont còn nghĩ là Rommel đang điều hành trận đánh ở sở chỉ huy. Về ngày Rommel đi về Đức, đó là 4 tháng 6; bằng chứng không thể chối cãi nằm trong nhật ký được ghi chép tỉ mỉ của Cụm quân B, đã cho biết thời gian chính xác – TG. Ở Anh lúc đó là 8:00 sáng (giờ mùa hè ở Anh chênh 1 tiếng so với giờ Đức). Trong toa xe kéo trong khu rừng gần Portsmouth, Đại tướng Dwight D. Eisenhower, Tổng tư lệnh quân Đồng minh đang ngủ say sau khi thức trắng cả đêm. Suốt nhiều giờ qua các thông điệp mã hoá đã được sở chỉ huy của ông ở gần đó chuyển đi qua điện thoại, điện báo và vô tuyến điện. Trong https://thuviensach.vn khoảng thời gian mà Rommel thức giấc, Eisenhower đã đưa ra một quyết định quan trọng: do thời tiết xấu, ông đã hoãn cuộc đổ bộ của Đồng minh 24 giờ. Nếu thời tiết tốt lên, D-Day sẽ là thứ Ba, ngày 6 tháng 6. Vị Thiếu tá 33 tuổi George D. Hoffman, Thuyền trưởng khu trục hạm USS Corry nhìn qua ống nhòm hàng dài tàu phía sau đang rẽ sóng vượt qua Eo biển Anh. Có vẻ khó tin được chuyện họ đã triển khai thế này mà không tấn công. Họ đang trên hành trình và đúng giờ. Đoàn tàu chậm rãi đi theo đường vòng với không quá 6,5km mỗi giờ đã vượt qua 130km sau khi rời Plymouth đêm trước. Nhưng vào lúc này Hoffman đang chờ đợi sẽ gặp vấn đề nào đó – tàu ngầm hoặc máy bay hoặc là cả 2 vào bất cứ lúc nào. Ít nhất anh cũng lường trước là sẽ đụng phải những bãi mìn khi họ từng phút tiến sâu vào vùng biển của kẻ địch. Nước Pháp nằm phía trước giờ chỉ còn cách 65km. Vị chỉ huy trẻ tuổi – anh đã “nổi lên” ở Corry từ một trung uý lên thuyền trưởng trong không đầy 3 năm – vô cùng tự hào khi được dẫn đầu đội hình hoành tráng này. Nhưng khi nhìn qua ống nhòm anh biết đây là mồi ngon cho kẻ thù. Đi trước là các tàu quét mìn, 6 chiếc tàu nhỏ tản ra theo hàng chéo, giống như một cạnh của chữ V ngược, bên phải mỗi chiếc thả xuống một sợi dây dài hình răng cá mập để quét qua và kích nổ mìn. Phía sau các tàu quét mìn là bóng dáng dốc đứng và bóng loáng của những “người chăn cừu” - các khu trục hạm hộ tống. Và đằng sau chúng, trải suốt trong tầm mắt là cả đoàn tàu, một đám diễu hành lớn của những tàu đổ bộ kềnh càng và ì ạch chở theo hàng nghìn lính, tăng, pháo, xe cộ và đạn dược. Mỗi chiếc tàu trĩu nặng đó thả một quả khí cầu chống máy bay được buộc chắc bằng dây cáp. Khí cầu được giữ ở cùng độ cao, nhún nhảy trong gió mạnh, khiến cả đoàn tàu trông như một gã say rượu. Đối với Hoffman đây quả là một khung cảnh ngoạn mục. Ước tính khoảng cách giữa các tàu và biết được số lượng tàu, anh đoán rằng tốp cuối của đoàn diễu hành hoành tráng này vẫn còn ở Anh, trong cảng Plymouth. https://thuviensach.vn Và đây mới chỉ là một đoàn. Hoffman biết hàng tá khác đang trên đường hay sẽ rời Anh trong ngày. Tối nay tất cả sẽ cùng tập trung về vịnh Seine. Đến sáng, một hạm đội khổng lồ gồm 5.000 tàu sẽ dàn quân trước các bãi đổ bộ ở Normandy. Hoffman không thể chờ để chứng kiến nó. Đoàn tàu mà anh dẫn đầu đã rời Anh sớm vì phải đi chặng đường xa nhất. Đó là một phần của lực lượng Mỹ hùng hậu, Sư đoàn Bộ binh số 4, dự định đổ xuống một nơi mà Hoffman cũng như hàng triệu lính Mỹ khác chưa bao giờ nghe nói tới – một bãi biển lộng gió phía đông bán đảo Cherbourg mang mật danh “Utah”. Cách 19km về phía đông nam, trước mặt những ngôi làng duyên hải Vierville và Colleville là một bãi biển khác cho quân Mỹ, “Omaha”, một dải cát trắng hình lưỡi liềm nơi Sư đoàn 1 và 29 sẽ đổ bộ. Thuyền trưởng tàu Corry đã chờ đợi sẽ thấy các đoàn tàu khác đi cùng mình sáng nay, nhưng dường như cả Eo biển Anh chỉ có mỗi anh ta. Anh không thấy phiền lắm. Ở đâu đó quanh đây, anh biết các đoàn khác của “Lực lượng U” và “Lực lượng O” đang tiến về Normandy. Hoffman không biết rằng do tình trạng thời tiết không chắc chắc, Eisenhower lo ngại nên trong đêm đó số đoàn tàu được cho khởi hành đã giảm. Đột nhiên điện thoại trên đài chỉ huy kêu vang. Một trong những sĩ quan trên boong tiến lại, nhưng Hoffman đứng gần hơn nhấc ống nghe. “Đài chỉ huy”, anh trả lời, “thuyền trưởng đây”. Anh lắng nghe một giây. “Có chắc không?”, anh hỏi, “Thông báo đã được nhắc lại à?”. Hoffman lắng nghe thêm một giây, sau đó anh gác máy. Không thể tin được: cả đoàn được lệnh quay trở lại Anh – không lí do nào được đưa ra. Điều gì đã xảy ra? Phải chăng cuộc đổ bộ đã bị hoãn lại. Hoffman quan sát qua ống nhòm những chiếc tàu quét mìn phía trước; chúng không đổi hướng. Cả những khu trục hạm đi sau cũng vậy. Họ đã nhận được thông báo chưa? Anh quyết định tự mình xem lại thông báo đảo chiều đó https://thuviensach.vn trước khi làm bất cứ điều gì – anh phải thật chắc chắn. Hoffman nhanh chóng trèo xuống khoang điện đài ở tầng dưới. Điện đài viên cấp 3 Bennie Glisson đã không mắc sai sót nào. Đưa cho thuyền trưởng xem sổ liên lạc, anh nói: “Tôi đã kiểm tra hai lần cho chắc”. Hoffman hối hả quay lại đài chỉ huy. Nhiệm vụ của anh và các khu trục hạm khác là cho đoàn tàu khổng lồ này quay lại, và phải thật khẩn trương. Vì đang dẫn đầu nên mối quan tâm lập tức của anh là nhóm tàu quét mìn ở phía trước vài km. Anh không thể liên lạc với họ qua điện đài do đã có lệnh cấm. “Tất cả động cơ đạt tốc độ tối đa”, Hoffman ra lệnh. “Thu ngắn khoảng cách với các tàu quét mìn. Tín hiệu viên vào vị trí đèn”. Khi Corry lao lên, Hoffman nhìn lại và thấy các khu trục hạm phía sau quay lại, vòng qua bên sườn đoàn tàu. Giờ đây, bằng đèn hiệu, họ bắt đầu công việc nặng nề là chuyển hướng đoàn. Hoffman lo lắng nhận ra hạm đội đang ở gần Pháp tới mức nguy hiểm – chỉ 60km. Họ đã bị phát hiện chưa? Sẽ là điều kì lạ nếu họ quay lại mà không bị phát hiện. Dưới khoang điện đài Bennie Glisson tiếp tục nhận được các thông điệp trì hoãn được mã hoá cứ 15 phút một lần. Đây là tin tức tệ nhất mà anh nhận được trong suốt thời gian dài, nó có vẻ là bằng chứng cho sự nghi ngờ vẫn đeo đẳng: quân Đức đã biết tất cả về cuộc đổ bộ. Có phải D-Day bị huỷ vì chúng đã phát hiện? Giống như hàng nghìn người khác, Bennie không thể hình dung sự chuẩn bị – các đoàn vận tải, tàu bè, người và hàng hoá chất đầy các vịnh, bến tàu và cảng biển từ Land’s End tới Portmouth có thể qua mắt máy bay trinh sát Đức. Và nếu cuộc đổ bộ chỉ đơn giản là bị hoãn vì lí do nào khác thì vấn đề tiếp theo là quân Đức sẽ có thêm thời gian để phát hiện ra. Người điện đài viên 23 tuổi bật một máy khác và chuyển sang nghe Radio Paris, đài phát thanh tuyên truyền của Đức. Anh muốn nghe giọng nói gợi https://thuviensach.vn cảm của “Sally quốc xã”. Chương trình cay độc của cô ta rất buồn cười, vì nó quá thiếu chính xác, nhưng bạn không bao giờ nói được. Có một lí do khác: “Con mụ Berlin” - như cô ta vẫn thường bị gọi - dường như có một nguồn vô tận những ca khúc mới nhất. Bennie không có cơ hội nghe vì ngay sau đó một loạt báo cáo thời tiết được chuyển tới. Nhưng khi anh đánh máy xong thì “Sally quốc xã” bắt đầu bản nhạc đầu tiên trong ngày. Bennie lập tức nhận ra đoạn nhạc dạo của ca khúc thời chiến nổi tiếng “I Double Dare You”. Nhưng lời mới đã được viết. Khi lắng nghe, chúng xác thực những lo ngại tồi tệ nhất của anh. Trước 8 giờ sáng hôm đó Bennie và hàng nghìn binh sĩ Đồng minh khác đã chuẩn bị tinh thần cho cuộc đổ bộ lên Normandy vào 5 tháng 6, và họ giờ đây có 24 giờ khổ sở nữa để chờ đợi, nghe “I Double Dare You” với những câu ớn lạnh một cách thích hợp: "I double dare you to come over here. I double dare you to venture too near. Take off your high hat and quit that bragging. Cut out that claptrap and keep your hair on. Can't you take a dare on? I double dare you to venture a raid. I double dare you to try and invade. And if your loud propaganda means half of what it says, I double dare you to come over here. I double dare you." Trong trung tâm hành quân lớn của Bộ Tư lệnh Hải quân Đồng minh ở Southwick House bên ngoài Portsmouth, người ta đang chờ những đoàn tàu quay về. Căn phòng cao, dài với giấy dán tường trắng và vàng là nơi diễn ra các hoạt động sôi nổi. Cả một bên tường được che phủ bởi tấm bản đồ Eo biển Anh lớn. Cứ từng phút một, hai nữ quân nhân Hải quân Hoàng gia Anh đứng trên thang gấp dịch chuyển những kí hiệu màu thể hiện vị trí mới của các đoàn tàu trên bản đồ. Tụm lại thành từng nhóm 2 hay 3 người, sĩ quan tham mưu của https://thuviensach.vn đủ các binh chủng yên lặng đọc mỗi khi có báo cáo mới. Bề ngoài họ tỏ ra bình tĩnh, nhưng không thể giấu được sự căng thẳng mà mọi người đang phải chịu đựng. Mỗi đoàn tàu không chỉ phải quay lại hầu như ngay trước mũi kẻ địch và trở về Anh theo những tuyến đường đặc biệt đã được quét sạch mìn; họ còn phải đối diện với một mối đe doạ khác – bão biển. Đối với những chiếc tàu đổ bộ đi chậm, chất đầy lính và hàng hoá, cơn bão là một hiểm hoạ lớn. Gió trên Eo biển đã đạt tới 48km/h, với sóng cao 1,5m, và thời tiết đang xấu đi. Từng phút trôi qua, tấm bản đồ cho thấy lệnh triệu hồi được thực hiện nghiêm chỉnh. Những dòng ký hiệu quay lại biển Irish, tập hợp lại quanh khu vực đảo Wight và dồn đống trong các cảng và bến tàu dọc theo vùng bờ biển tây nam của Anh. Một vài đoàn phải mất cả ngày mới về tới cảng. Vị trí của từng đoàn và gần như từng chiếc tàu của hạm đội Đồng minh đều có thể liếc qua là thấy trên bản đồ. Nhưng có hai chiếc không được đánh dấu – một cặp tàu ngầm nhỏ. Chúng dường như đã hoàn toàn biến mất. Trong một văn phòng gần đó, một nữ đại uý Hải quân xinh đẹp 24 tuổi đang tự hỏi khi nào thì chồng cô mới về tới cảng. Naomi Coles Honour hơi băn khoăn nhưng chưa tới mức lo lắng, thậm chí các bạn bè trong phòng Tác chiến dường như còn không biết gì về vị trí của chồng cô, Đại uý George Honour và chiếc tàu ngầm mini dài 17m của anh, chiếc X23. Ngoài khơi bờ biển nước Pháp 1,5km, một ống kính tiềm vọng trồi lên khỏi mặt nước. Phía dưới 9m, đứng cúi trong căn phòng chỉ huy chật chội của chiếc X23, Đại uý George Honour chỉnh lại chiếc mũ lưỡi trai. “Được rồi, các cậu”, anh triệu tập mọi người, “ta cùng xem nào”. Ghé một mắt vào ống kính bọc cao su, anh chậm rãi xoay kính tiềm vọng và khi những hình dáng nhấp nhô của mặt nước biến mất, những hình ảnh mờ ảo trước mắt anh trở nên rõ ràng hơn, đó là thị trấn nghỉ mát Ouistreham gần https://thuviensach.vn cửa sông Orne đang còn ngủ say. Nó quá gần và tầm nhìn được phóng đại đến mức Honour có thể thấy khói bốc lên từ ống khói và ở xa một chiếc máy bay vừa mới cất cánh từ sân bay Carpiquet gần Caen. Anh cũng có thể thấy kẻ địch. Bị thu hút, anh quan sát lính Đức bình thản làm việc giữa những vật cản chống đổ bộ trên bờ cát trải dài cả hai phía. Đó là một khoảnh khắc đáng nhớ với viên đại uý của Lực lượng Dự bị Hải quân Hoàng gia. Quay lại, anh nói với Đại uý Lionel G.Lyne phụ trách lái chính, “Nhìn này, Thin, ta gần như ngắm vào đúng mục tiêu”. Ở một khía cạnh nào đó, cuộc tấn công đã bắt đầu. Chiếc tàu đầu tiên và người lính đầu tiên của quân Đồng minh đã vào vị trí ngoài khơi Normandy. Thẳng phía trước tàu X23 là khu đổ bộ của quân Anh – Canada. Đại uý Honour cùng thuỷ thủ đoàn không còn để ý đến ngày tháng. Vào một ngày 4 tháng 6 khác, 4 năm trước, ở một địa điểm cách đó không đầy 320km, người cuối cùng trong số 338.000 lính Anh đã được di tản ở một cảng biển nóng bỏng có tên Dunkirk. Trên chiếc X23, đây là những giây phút căng thẳng, đầy tự hào của 5 quân nhân Anh được tuyển chọn đặc biệt. Họ là đội tiên phong của nước Anh; thuỷ thủ đoàn X23 sẽ dẫn đường cho hành trình trở lại Pháp của hàng nghìn người đồng hương sẽ sớm có mặt. https://thuviensach.vn Tàu ngầm lớp X của Hải quân Hoàng gia Anh. Năm người mặc đồ lặn sao su chen chúc nhau trong cabin chung nhỏ bé của X23, họ mang những giấy tờ được làm giả tài tình có thể qua mặt sự kiểm tra của tên lính Đức đa nghi nhất. Mỗi người có một thẻ căn cước giả của Pháp với đầy đủ ảnh, giấy phép làm việc và tem phiếu có con dấu chính thức của Đức cùng thư từ và các tài liệu khác. Trong trường hợp xấu, chiếc X23 bị chìm hay phải bỏ, thuỷ thủ đoàn sẽ bơi vào bờ, cố gắng trốn thoát với nhân thân mới và liên lạc với lực lượng kháng chiến Pháp. Nhiệm vụ của X23 rõ ràng là rất nguy hiểm. 20 phút trước H-Hour, chiếc tàu ngầm này và người anh em của nó – chiếc X20 nằm cách đó 32km xuôi theo bờ biển, đối diện ngôi làng nhỏ Hamel – sẽ táo bạo nổi lên mặt nước để làm nhiệm vụ chỉ đường, đánh dấu chính xác giới hạn khu đổ bộ của quân Anh – Canada: 3 bãi biển được đặt tên Sword, Juno và Gold. https://thuviensach.vn Kế hoạch mà họ phải thực hiện khá phức tạp và tỉ mỉ. Một thiết bị phát sóng vô tuyến sẽ liên tục truyền tín hiệu ngay khi họ nổi lên. Cùng thời gian, máy phát sonar sẽ tự động truyền sóng âm dưới nước để các thiết bị nhận có thể thu được. Đội tàu chở quân Anh và Canada sẽ dựa vào một hoặc cả hai tín hiệu đó. Mỗi chiếc tàu cũng được trang bị ống kính tiềm vọng cao 5,5m, gắn đèn chiếu sáng nhỏ nhưng mạnh, sẽ tạo ra luồng sáng có thể quan sát từ khoảng cách 8km. Nếu luồng sáng màu xanh, có nghĩa là tàu ngầm đã vào vị trí; ngược lại, ánh sáng sẽ là đỏ. Bổ sung vào các biện pháp dẫn đường, theo kế hoạch mỗi tàu sẽ thả một xuồng cao su được neo cố định do một thuỷ thủ điều khiển và cho phép nó giữ cố định hướng thẳng với bờ. Những chiếc xuồng được gắn thêm đèn chiếu do thuỷ thủ điều khiển. Dựa vào luồng sáng của tàu ngầm và xuồng, các tàu sẽ xác định được vị trí chính xác của bãi đổ quân. Không được phép quên điều gì, kể cả mối nguy là chiếc tàu ngầm nhỏ có thể bị một tàu đổ bộ kềnh càng nào đó va phải. Để bảo vệ, chiếc X23 được đánh dấu rõ ràng bằng một lá cờ vàng lớn. Vấn đề không buông tha Honour là lá cờ cũng sẽ biến họ thành mục tiêu tốt cho bọn Đức. Ấy thế mà, anh vẫn dự định treo lá cờ thứ hai, lá cờ trắng “lau bụi chiến trận” (“battle duster”) của Hải quân. Honour và thủy thủ đoàn chuẩn bị sẵn sàng hứng chịu hoả lực địch, nhưng họ sẽ không có cơ hội nào ngoài việc bị nghiền nát và đánh chìm. Tất cả đồ dùng cá nhân và nhiều thứ nữa đã được xếp vào lòng chiếc X23 chật cứng. Hai thủy thủ đều là nhân viên hàng hải được bổ sung cho thủy thủ đoàn 3 người thông thường. Giờ không có chỗ để đứng hay ngồi trong khoang chung duy nhất chỉ cao 1,65m, rộng 1,5m và dài gần 2,4m. Rất nóng và ngột ngạt, áp suất sẽ còn trở nên tệ hơn cho tới trước khi họ mạo hiểm nổi lên, việc sẽ không được tiến hành cho tới khi trời tối. https://thuviensach.vn Honour biết rằng vào ban ngày, kể cả ở vùng nước nông này lúc nào họ cũng có thể bị phát hiện bởi máy bay trinh sát hay tàu tuần tiễu – và càng ở lâu, nguy hiểm càng tăng. Qua kính tiềm vọng, Đại uý Lyne nhìn quanh các hướng. Anh nhanh chóng nhận ra những điểm mốc: ngọn hải đăng Ouistreham, nhà thờ thị trấn và hai ngọn tháp ở làng Langrune và St. Aubin-sur-Mer cách đó vài km. Honour nói đúng. Họ gần như đã “ngắm vào đúng mục tiêu”, vừa vặn 120m từ vị trí đặc biệt này. Honour thấy nhẹ nhõm khi đã vào gần như thế. Đó là một hành trình dài đầy khổ sở. Họ đã vượt qua 145km từ Portsmouth trong suýt soát 2 ngày, và phần lớn thời gian phải di chuyển qua những bãi mìn. Giờ họ đã vào vị trí và lặn xuống đáy. “Cuộc hành quân Gambit” đã khởi đầu tốt đẹp. Anh ước thầm rằng người ta đã chọn một mật danh khác. Mặc dù không mê tín, nhưng khi tìm hiểu ý nghĩa từ này người thuyền trưởng trẻ tuổi vẫn bị sốc khi khám phá ra “gambit” có nghĩa là “thí tốt”. Honour quan sát lần cuối đám lính Đức làm việc trên bãi biển qua kính tiềm vòng. Địa ngục sẽ đổ xuống những bãi biển này vào giờ này ngày mai, anh nghĩ. “Hạ kính xuống”, anh ra lệnh. Lặn xuống và ngừng liên lạc vô tuyến với căn cứ, Honour cùng thủy thủ đoàn X23 không biết cuộc đổ bộ đã bị hoãn. Đến 11:00 sáng gió trên Eo biển vẫn thổi mạnh. Trong các khu vực bờ biển cấm ở Anh, cách biệt với những người dân khác của đất nước, lực lượng đổ bộ đang chờ đợi. Thế giới của họ hôm nay là các khu vực tập kết, các sân bay và những chiếc tàu. Có vẻ họ bị chia cắt gần như hoàn toàn với đất liền – để theo kịp sự khác nhau giữa thế giới thân quen ở Anh và thế giới xa lạ ở Normandy. Họ biết việc ngăn cách này nhằm đảm bảo an ninh. Ở phía kia cuộc sống vẫn diễn ra bình thường. Người dân tiếp tục những https://thuviensach.vn công việc thường lệ mà không biết rằng hàng trăm ngàn binh sĩ đang chờ đợi mệnh lệnh sẽ đánh dấu sự bắt đầu của việc kết thúc Thế chiến II. Trong thị trấn Leatherhead, Surrey, một giáo viên vật lý mảnh khảnh 54 tuổi đang dắt chó đi dạo. Leonard Sidney Dawe là kiểu người trầm tính, khiêm tốn ngoài một nhóm bạn ra thì chẳng ai biết đến ông. Giờ đây ông Dawe về hưu đang tận hưởng thú vui còn hơn cả ngôi sao điện ảnh. Mỗi ngày hơn 1 triệu người nỗ lực giải những ô chữ mà ông và người bạn Melville Jones, một giáo viên khác chuẩn bị cho tờ London Daily Telegraph ra hàng sáng. Dawe có thâm niên sáng tác cho Telegraph và trong thời gian đó những ô chữ phức tạp, khó nhằn đã làm đau đầu và cả thoả mãn cho vô số người. Một số người say mê đòi hỏi chúng phải khó hơn, nhưng các fan của Dawe nhanh chóng chỉ ra rằng ô chữ không bao giờ lặp lại đến lần thứ hai. Đó là niềm tự hào đáng kể của ông Dawe kín đáo. Dawe sẽ ngạc nhiên nếu biết từ ngày 2 tháng 5 ông đã trở thành mục tiêu của cuộc điều tra bí mật nhất do một bộ phận của Scotland Yard phối hợp với cơ quan phản gián MI5. Trong vòng 1 tháng những ô chữ của ông đã gieo hết hoang mang này tới hoang mang khác cho nhiều cơ quan của Bộ Tổng tư lệnh Đồng minh. Chính buổi sáng chủ nhật này, MI5 quyết định đến nói chuyện với Dawe. Khi về nhà ông thấy hai người đàn ông đang chờ sẵn. Dawe cũng như mọi người đã được nghe về MI5, nhưng họ muốn gì ở ông? “Ông Dawe”, một người nói và cuộc hỏi cung bắt đầu, “trong tháng vừa rồi một số mật ngữ quan trọng liên quan tới hoạt động của Đồng minh đã xuất hiện trên tờ Telegraph. Ông có thể cho biết điều gì khiến ông sử dụng chúng – hay ông lấy chúng từ đâu?” Trước khi ông Dawe đang ngạc nhiên có thể trả lời, nhân viên MI5 rút trong https://thuviensach.vn ví ra một danh sách và nói: “Chúng tôi đặc biệt quan tâm tới việc làm thế nào mà ông lại lựa chọn những từ này”. Anh ta chỉ vào danh sách. Ô chữ có thưởng trên tờ Telegraph ngày 27 tháng 5 có một gợi ý (hàng ngang 11), “Nhưng vài nhân vật quan trọng như vậy đôi khi đạt được điều đó bằng mưu mẹo”. Lời gợi ý bí ẩn liên quan đến thuật giả kim xa lạ này rất có ý nghĩa với những người đang chăm chú theo dõi ông. Đáp án công bố chỉ 2 ngày trước, ngày 2 tháng 6 là mật danh của toàn bộ chiến dịch tấn công - “Overlord”. Dawe không biết họ đang nói đến hoạt động nào của Đồng minh, do vậy ông không lo sợ hay bực mình vì những câu hỏi này. Ông nói với họ, không thể giải thích đơn giản là vì sao hay làm thế nào mà ông chọn chính từ đó. Ông chỉ ra rằng nó là một từ thông dụng trong các sách lịch sử. “Nhưng làm sao mà tôi nói được là cái gì đang được dùng làm mật mã và cái gì không?”, ông quả quyết. Hai nhân viên MI5 tỏ ra lịch sự: họ đồng ý là khó. Nhưng không lạ hay sao khi tất cả những mật mã đó xuất hiện trong cùng một tháng? Họ dò từng từ một trong danh sách với vị giáo viên mảnh khảnh đeo kính. Ở ô chữ ngày 2 tháng 5 gợi ý “Một bang của nước Mỹ” (dòng 17) cho đáp áp “Utah”. Đáp án cho cột 3, “Người da đỏ ở Missouri” ngày 22 tháng 5 là “Omaha”. Ô chữ ngày 30 tháng 5 (dòng 11), “Loại cây bụi này là trung tâm của cuộc cách mạng về ươm giống” cho ra từ “Mulberry” (cây dâu tằm) – mật danh của hai cảng nhân tạo sẽ được đặt ở bãi biển. Và đáp án cho cột 15 ngày 1 tháng 6, “Britannia và người này cùng mang một thứ” là “Neptune” – mật danh của các cuộc hành quân trên biển. Dawe không biết giải thích thế nào. Tất cả những gì ông biết, Dawe nói, là các ô chữ trong danh sách này đã được hoàn thành từ 6 tháng trước. Vậy https://thuviensach.vn giải thích thế nào? Ông chỉ có thể đưa ra một điều: sự trùng hợp lạ lùng. * Còn có những trường hợp ớn lạnh khác. Ba tháng trước ở bưu điện trung tâm Chicago, một bưu phẩm lớn gói không đúng cách đã bị bục, để rơi ra trên bàn một số tài liệu đáng ngờ. Ít nhất một tá nhân viên đã kịp nhìn thấy nội dung: những thứ liên quan đến một chiến dịch mang tên Overlord. Các nhân viên tình báo nhanh chóng xem xét toàn bộ vụ việc. Những nhân viên bưu điện bị tra hỏi và được yêu cầu quên đi tất cả những gì họ đã thấy. Tiếp đó người nhận đã bị thẩm vấn: một cô gái hoàn toàn vô tôi. Cô không thể giải thích vì sao những giấy tờ đó lại được chuyển đến cho mình, nhưng cô nhận ra nét chữ viết tay trên phong bì. Qua đó lai lịch các giấy tờ này đã được dò ra, một hạ sĩ cũng vô tội ở bộ chỉ huy Mỹ tại London. Anh ta đã đề sai địa chỉ trên phong bì. Do lỗi này mà anh ta đã gửi chúng đến cho em gái mình ở Chicago – TG. Những tai nạn nhỏ kiểu này có thể đã gây hậu quả nghiêm trọng hơn nhiều khi Bộ Tổng tư lệnh biết rằng cơ quan tình báo Đức - Abwehr đã khám phá ra ý nghĩa của mật danh “Overlord”. Một trong những điệp viên của họ, một người Albania tên Diello nhưng thường được Abwehr biết đến với cái tên “Cicero”, đã gửi tin cho Berlin vào tháng 1. Ban đầu Cicero xác định kế hoạch là “Overlock”, nhưng sau đã sửa lại. Và Berlin tin tưởng Cicero – anh ta phục vụ trong sứ quán Anh ở Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên Cicero không khám phá được bí mật lớn của Overlord: thời gian và địa điểm của D-Day. Do đó biện pháp phòng vệ được tiến hành nghiêm ngặt đến mức vào cuối tháng 4 cũng chỉ có vài trăm sĩ quan Đồng minh biết điều đó. Nhưng vào tháng đó, bất chấp những cảnh báo của cơ quan phản gián rằng điệp viên đang hoạt động ở Anh, 2 sĩ quan cao cấp, một viên tướng Mỹ và một đại tá Anh đã bất cẩn vi phạm quy định an ninh. Trong một bữa tiệc https://thuviensach.vn cocktail ở khách sạn Claridge, vị tướng Mỹ nói cho vài sĩ quan thân quen rằng cuộc đổ bộ sẽ diễn ra trước ngày 15 tháng 6. Ở một nơi khác trên nước Anh, vị đại tá tiểu đoàn trưởng còn để lộ nhiều hơn. Ông ta cho mấy người bạn dân sự biết đơn vị của mình đang luyện tập để đánh chiếm một mục tiêu đặc biệt và lờ mờ nói rằng địa điểm là ở Normandy. Cả hai vị sĩ quan đều bị hạ cấp và cách chức. * Mặc dù vị tướng đó là đồng môn của Đại tướng Eisenhower ở West Point, ông vẫn không thể làm gì khác ngoài việc gửi trả ông ta về. Sau D-Day trường hợp của viên tướng này được đưa ra công khai và sau đó ông về hưu với quân hàm đại tá. Không có ghi chép nào cho thấy tổng hành dinh của Eisenhower đã ít ra là được nghe về sơ xuất của vị đại tá Anh. Nó đã được xử lý trong im lặng bởi các cấp trên của ông ta. Vị này sau đó còn trở thành đại biểu quốc hội – TG. Và bây giờ, trong ngày Chủ nhật căng thẳng này, 4 tháng 6, Tổng hành dinh đang choáng váng bởi một sự rò rỉ tin tức tồi tệ nhất từ trước đến nay. Trong đêm một nhân viên điện báo của AP đang tập gõ trên một máy bỏ không. Do sai sót, băng đục lỗ ghi lại buổi tập “khẩn” của cô ta đã được đưa vào thông cáo thường lệ buổi tối của Nga. Nó được sửa chữa chỉ trong 30 giây, nhưng tin tức đã lọt ra. Bản tin được chuyển đến Mỹ viết “KHẨN CẤP PRESS ASSOCIATED NYK TIN NÓNG SỞ CHỈ HUY CỦA EISENHOWER THÔNG BÁO VỀ CUỘC ĐỔ BỘ CỦA ĐỒNG MINH LÊN PHÁP” (“URGENT PRESS ASSOCIATED NYK FLASH EISENHOWER'S HQ ANNOUNCED ALLIED LANDINGS IN FRANCE.") Hậu quả của tin này xem ra cực kỳ nghiêm trọng, đã quá trễ để có thể làm gì. Cỗ máy khổng lồ của cuộc đổ bộ đã vào vòng quay cao nhất. Giờ đây, khi từng giờ trôi đi và thời tiết vẫn tiếp tục xấu, lực lượng đường không và đường biển hùng hậu nhất từ trước đến giờ đã tập hợp chờ đợi quyết định của Eisenhower. Ike có chọn ngày 6 tháng 6 là D-Day? Hay ông sẽ bắt buộc phải hoãn cuộc đổ bộ một lần nữa do thời tiết xấu trên Eo biển, xấu nhất trong 20 https://thuviensach.vn năm qua? Trong khu rừng mưa như trút cách sở chỉ huy Hải quân ở toà nhà Southwick 3,2km, người Mỹ sẽ phải đưa ra quyết định vĩ đại đó đang đấu tranh tư tưởng và cố thư giãn trong chiếc toa xe kéo 3 tấn rưỡi lèo tèo vài thứ đồ đạc. Mặc dù có thể chuyển sang một toa xe kéo khác. Mặc dù có thể chuyển sang trụ sở ở toà nhà lớn Southwick tiện nghi hơn, Eisenhower đã không làm như vậy. Khi binh lính lên tàu, ông muốn ở càng gần cảng càng tốt. Mấy ngày trước Eisenhower đã cho lập một sở chỉ huy dã chiến nhẹ - vài căn lều cho họp hành và mấy toa xe kéo, trong đó có toa mà từ lâu ông vẫn gọi là “cái rạp hát di động của tôi”. Toa xe của Eisenhower dài và thấp giống một chiếc xe tải, có 3 khoang được dùng làm phòng ngủ, phòng khách và phòng làm việc. Ngoài ra, đặt ngay ngắn dọc theo chiều dài là một cái bếp nhỏ, một trạm điện thoại mini, một bồn cầu khử bằng hoá chất và cuối cùng một khung cửa kính. Nhưng Tổng tư lệnh hiếm khi ở đây đủ lâu để dùng hết những tiện nghi này. Ông hầu như không sử dụng phòng khách hay phòng làm việc; các cuộc họp thường được tổ chức trong một căn lều gần đó. Chỉ phòng ngủ là trông có vẻ “có người ở”. Nó rõ ràng là của ông: một chồng sách phương Tây bìa mềm đặt trên chiếc bàn gần giường ngủ, cũng trên đó là những bức hình duy nhất - ảnh của vợ ông, Mamie và người con trai 21 tuổi John trong bộ quân phục học viên West Point. Từ toa xe này Eisenhower chỉ huy gần 3 triệu quân Đồng minh. Hơn một nửa trong số đó là lính Mỹ: gần 1,7 triệu binh sĩ, thủy thủ, không quân và phòng vệ bờ biển. Lính Anh và Canada cộng lại khoảng 1 triệu người và ngoài ra còn các đơn vị Pháp, Ba Lan, Tiệp Khắc, Bỉ, Na Uy và Hà Lan. Chưa bao giờ một người Mỹ chỉ huy nhiều quân của nhiều quốc gia và mang trên vai trọng trách vĩ đại như thế. Mặc dù có quyền hạn và chức vụ lớn như vậy, không có gì về con người cao, https://thuviensach.vn rám nắng với nụ cười tươi đến từ vùng Midwestern này cho thấy ông là Tổng tư lệnh. Không giống những chỉ huy nổi tiếng khác của Đồng minh, những người có thể nhận ra ngay nhờ dấu hiệu riêng như chiếc mũ kì quái hay bộ quân phục sặc sỡ đính huy chương lên đến tận vai, mọi thứ về Eisenhower đều bị bỏ đi. Ngoài 4 ngôi sao trên quân hàm, một dây lưng vắt chéo trước ngực và phù hiệu thanh kiếm trên nền ngọn lửa của SHAEF (Supreme Headquarters Allied Expeditionary Force – Bộ Tổng tư lệnh Lực lượng Viễn chinh Đồng minh), Eisenhower bỏ hết những dấu hiệu nhận biết khác. Ngay cả trong toa xe cũng có rất ít bằng chứng về quyền hạn của ông: không cờ, bản đồ, chỉ thị hoặc những bức ảnh có kí tên của những nhân vật tầm cỡ hay gần gần tầm cỡ thường viếng thăm ông. Nhưng trong phòng ngủ, gần chiếc giường là 3 máy điện thoại tối quan trọng, mỗi chiếc một màu: đỏ cho những cuộc gọi “khẩn” về Washington, xanh lá cây là đường liên lạc trực tiếp với tư gia của Winston Churchill ở số 10 phố Downing, London, và đen để liên lạc với vị tham mưu trưởng xuất sắc, Thiếu tướng Walter Bedell Smith ở tổng hành dinh hiện thời cùng các thành viên cao cấp khác thuộc Bộ Tổng tư lệnh. https://thuviensach.vn Đại tướng (sau này là Đại tướng 5 sao) Dwight D. Eisenhower, Tổng tư lệnh Lực lượng Viễn chinh Đồng minh. Chính chiếc điện thoại đen này đã bổ sung thêm vào những lo âu khác của ông, khi Eisenhower nghe tin báo “khẩn” sai lạc về “những cuộc đổ bộ”. Ông im lặng khi được biết. Sĩ quan phụ tá hải quân, Đại tá Harry C. Butcher nhớ lại rằng Tổng tư lệnh chỉ đơn thuần là nói cảm ơn. Biết nói gì hay làm gì bây giờ? https://thuviensach.vn Bốn tháng trước, khi chỉ định ông vào vai trò Tổng Tư lệnh, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân ở Washington đã giải thích rõ ràng trong một đoạn của quyết định bổ nhiệm. Nó viết: “Ông sẽ tiến vào lục địa châu Âu, và kết hợp với các quốc gia Đồng minh khác, đảm trách các chiến dịch nhằm vào trái tim của nước Đức và tiêu diệt các lực lượng vũ trang của nó …. “ Câu này cho biết mục tiêu và ý định của cuộc tấn công. Nhưng đối với toàn thế giới Đồng minh nó còn nhiều hơn một chiến dịch quân sự. Eisenhower gọi đây là “cuộc thập tự chinh vĩ đại” – cuộc thập tự chinh để xóa sổ một lần và mãi mãi chế độ tàn bạo đã đẩy thế giới vào cuộc chiến tranh đẫm máu nhất, đã gieo rắc tai hoạ lên lục địa và đặt ách nô lệ lên 300 triệu người (thực tế, thời điểm đó không ai có thể tưởng tượng được quy mô tội ác mà chế độ Quốc xã đã gây ra ở châu Âu – hàng triệu người đã biến mất trong những căn phòng hơi ngạt và những lò thiêu của Heinrich Himmler, hàng triệu người đã bị lùa khỏi đất nước để lao động như nô lệ, một số lớn sẽ không bao giờ trở lại, hàng triệu người đã bị tra tấn đến chết, bị hành quyết hay chết đơn giản bởi nạn đói). Mục tiêu bất biến của cuộc thập tự chinh vĩ đại này không chỉ là kết thúc chiến tranh mà còn là tiêu diệt chế độ Quốc xã và chấm dứt một giai đoạn khủng khiếp nhất trong lịch sử thế giới. Nhưng trước tiên cuộc đổ bộ phải thành công đã. Nếu thất bại, sẽ phải mất nhiều năm nữa mới đánh bại được nước Đức. Để chuẩn bị cho cuộc tấn công tổng lực phụ thuộc vào quá nhiều yếu tố này, người ta đã tiến hành xây dựng kế hoạch trong hơn 1 năm. Từ lâu trước khi Eisenhower được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh, một nhóm sĩ quan Anh – Mỹ dưới quyền Trung tướng Anh Sir Frederick Morgan đã xây dựng cơ sở cho cuộc tấn công. Vấn đề của họ phức tạp đến khó tin – không có dẫn dắt nào, không có tiền lệ nào, nhưng có hàng đống dấu chấm hỏi? Cuộc tấn công sẽ được tiến hành vào lúc nào và ở đâu? Cần sử dụng bao nhiêu sư đoàn? Nếu cần X sư đoàn, họ có thể được huấn luyện và sẵn sàng đi vào ngày Y không? Cần sử dụng bao nhiêu phương tiện chuyên chở? Pháo kích của hải quân, tàu https://thuviensach.vn yểm trợ và hộ tống sẽ thế nào? Các tàu đổ bộ sẽ xuất phát từ đâu – có thể cho một số chuyển hướng từ mặt trận Thái Bình Dương và Địa Trung Hải không? Cần có bao nhiêu sân bay để đảm bảo cho hàng nghìn máy bay tham gia? Cần bao nhiêu thời gian để dự trữ đủ đồ tiếp tế, trang thiết bị, súng pháo, đạn dược, phương tiện vận tải và thực phẩm, và khối lượng cần dự trữ là bao nhiêu, không chỉ cho cuộc tấn công và cho cả các hoạt động sau đó? Trung tướng Sir Frederick Edgeworth Morgan, Phó tổng tham mưu trưởng phụ trách tình báo và tác chiến Bộ Tổng tư lệnh Lực lượng Viễn chinh Đồng minh. https://thuviensach.vn Đấy mới chỉ là một vài trong số những câu hỏi khó khăn mà các nhà hoạch định kế hoạch của Đồng minh phải trả lời. Còn có hàng ngàn câu khác. Rốt cục, các nghiên cứu của họ được mở rộng và chỉnh sửa để trở thành kế hoạch chung Overlord sau khi Eisenhower nắm quyền chỉ huy, yêu cầu thêm quân, thêm tàu, thêm máy bay, thêm trang bị và vật lực với số lượng kỉ lục từng được huy động cho một chiến dịch quân sự. Công trình quả là khổng lồ. Ngay cả khi kế hoạch chưa hoàn thành, dòng người và vật chất chưa từng thấy đã bắt đầu ùn ùn đổ vào Anh. Trong nhiều thị trấn và ngôi làng, người Mỹ đông đến mức thường xuyên áp đảo số lượng dân Anh sống ở đây. Những rạp chiếu phim, khách sạn, nhà hàng, sàn nhảy và quán rượu yêu thích của họ bỗng nhiên bị tràn ngập bởi những người lính đến từ khắp các quốc gia trong liên minh. Sân bay mọc lên khắp nơi. Để phục vụ cho chiến dịch đường không vĩ đại, 163 căn cứ được xây dựng bổ sung cho số đã có, đến khi chúng nhiều tới mức xuất hiện một câu đùa phổ biến trong các phi công của Tập đoàn Không quân 8 và 9 là có thể cho máy bay chạy trên cả chiều dài và chiều rộng của hòn đảo mà không sợ va quẹt. Các bến cảng đầy ứ. Một hạm đội yểm trợ gồm gần 900 tàu, từ các thiết giáp hạm đến các tàu phóng lôi bắt đầu tập trung. Các đoàn tiếp tế đến với số lượng lớn đến mức tới mùa xuân họ đã chuyển gần 2 triệu tấn hàng và nhu yếu phẩm – hơn 270km đường sắt mới đã được xây dựng để vận chuyển chúng. Đến tháng 5 miền nam nước Anh trông giống như một kho vũ khí khổng lồ. Giấu mình trong các khu rừng là hàng núi đạn dược. Trải khắp các cánh đồng, xe tăng, half-track, xe bọc thép, xe tải, xe jeep và xe cứu thương nối đuôi nhau - hơn 50.000 chiếc. Trên mặt đất là hàng dài những khẩu pháo hay cao xạ, một khối lượng lớn vật chất được chuẩn bị sẵn, từ nhà gỗ Nissen đến đường băng, và kho lớn những thiết bị xây dựng từ máy ủi đến máy xúc. Ở các kho chính chất đầy thực phẩm, quân nhu và thuốc men, từ những viên https://thuviensach.vn thuốc chống say sóng cho đến 124.000 giường bệnh. Nhưng cảnh tượng kinh ngạc nhất là những thung lũng với hàng dài đường xe lửa: gần 1.000 đầu máy mới tinh và gần 20.000 toa chở dầu, chở hàng sẽ được sử dụng sau khi đầu cầu được thiết lập để thay thế các thiết bị của Pháp bị phá huỷ. Có cả những dụng cụ chiến tranh mới. Đó là những xe tăng có thể bơi, một số mang những cuộn tấm lát lớn sử dụng khi gặp hào chống tăng hay vượt tường, một số khác lại được trang bị con lăn với gai nhọn cày đất phía trước để phá mìn. Có những chiếc tàu bẹt, hình hộp dài mang theo một rừng ống sẽ được dùng để bắn đi thứ vũ khí mới nhất, rocket. Có lẽ lạ nhất là 2 cảng nhân tạo sẽ được kéo tới bờ biển Normandy. Chúng là những kì công kỹ thuật và một trong những bí mật của Overlord; chúng sẽ đảm bảo dòng cung cấp người và hàng hoá không đứt đoạn trong những tuần then chốt đầu tiên, cho đến khi đánh chiếm được một hải cảng nào đó. Các cảng nhân tạo này được gọi là “Mulberry”, trước tiên gồm một đê chắn sóng ngoài làm bằng các phao thép. Tiếp đó 145 khối bê tông lớn với nhiều kích cỡ khác nhau sẽ lần lượt được đánh chìm tạo thành đê chắn sóng bên trong. Khối lớn nhất có cả doanh trại và pháo cao xạ, sau khi được lắp đặt sẽ giống như một toà nhà 5 tầng nằm trên. Trong những cảng nhân tạo này các tàu lớn kiểu Liberty có thể ra vào để chuyển hàng lên bãi biển. Các tàu nhỏ hơn như tàu buôn hay tàu đổ bộ có thể đưa hàng xuống tại những cầu cảng lớn bằng thép, từ đó xe tải chuyển vào bờ qua cầu phao. Bên ngoài cảng Mulberry, một hàng 60 khối bê tông được đánh chìm làm đê chắn sóng bổ sung. Khi vào vị trí trên bờ biển Normandy, mỗi cảng này sẽ có quy mô ngang với cảng Dover. Trong tháng 5 người và hàng bắt đầu được chuyển xuống cảng và các khu tập kết. Tắc nghẽn là một vấn đề lớn, nhưng bằng cách này hay cách khác, hậu cần, quân cảnh và những người điều hành đường sắt ở Anh đã giữ mọi thứ đúng thời gian và ổn định. Tàu hoả nối đuôi tràn khắp các tuyến đường chờ đợi để tập trung về bờ biển. Các đoàn xe làm tắc nghẽn mọi con đường. Tất cả làng mạc, thôn xóm bị bao https://thuviensach.vn phủ bởi bụi, và trong những đêm xuân yên tĩnh, miền nam nước Anh bị đánh thức bởi tiếng rì rì của xe tải, tiếng vo vo và lọc cọc của xe tăng và giọng nói không lẫn đi đâu được của người Mỹ, dường như tất cả đều hỏi cùng một câu: “Cái chỗ khỉ gió ấy còn cách xa bao nhiêu nữa?” Gần như suốt đêm, những thành phố toàn nhà gỗ Nissen và lều bạt ở vùng duyên hải trở nên sôi động khi binh lính đổ vào khu tập kết. Họ ngủ trong những chiếc giường 3 hay 4 tầng. Nhà tắm và nhà vệ sinh thường ở cách xa và người ta phải xếp hàng. Đôi khi hàng người kéo dài đến 400m. Quân số đông đến mức cần 54.000 người chỉ để phục vụ cho riêng quân đội Mỹ, trong đó có 4.500 đầu bếp mới được huấn luyện. Trong tuần cuối cùng của tháng 5, người và hàng bắt đầu được chuyển lên tàu vận tải và tàu đổ bộ. Thời khắc cuối cùng đã điểm. Các số liệu đúng như hình dung; lực lượng này xem ra quá mạnh. Bây giờ thứ vũ khí khổng lồ này – những thanh niên của thế giới tự do, nguồn lực của thế giới tự do – đang chờ quyết định của một người: Eisenhower. Trong phần lớn ngày 4 tháng 6, Eisenhower ở một mình trong toa xe. Ông và các chỉ huy đã làm tất cả để đảm bảo cơ hội thành công lớn nhất với cái giá phải trả về sinh mạng thấp nhất. Nhưng giờ đây, sau nhiều tháng chuẩn bị cả về chính trị và quân sự, Chiến dịch Overlord đang trông đợi vào yếu tố may mắn. Eisenhower không thể giúp gì; tất cả ông có thể làm là chờ và hy vọng thời tiết sẽ khá hơn. Nhưng bất kể thế nào, ông cũng sẽ phải đưa ra quyết định quan trọng vào cuối ngày hôm đó – tiến hành đổ bộ hay hoãn một lần nữa. Chiến dịch Overlord thành công hay thất bại là phụ thuộc vào quyết định này. Và không ai có thể thay ông. Trọng trách này là của ông và chỉ riêng ông. Eisenhower đang đối diện với một vấn đề hóc búa. Ngày 17 tháng 5 ông đã quyết định D-Day sẽ là một trong ba ngày của tháng 6 – ngày 5, 6 hoặc 7. Nghiên cứu khí tượng cho thấy vào những ngày đó dự kiến sẽ đạt được 2 điều kiện thời tiết cần thiết cho cuộc đổ bộ ở Normandy: trăng lên muộn và thủy https://thuviensach.vn triều thấp ngay sau bình minh. Những người sẽ mở màn cuộc tấn công là lính dù và bộ binh đổ bộ bằng tàu lượn - 18.000 quân của Sư đoàn 82, 101 Mỹ và Sư đoàn 6 Anh cần ánh trăng. Nhưng yếu tố bất ngờ phụ thuộc vào việc trời tối cho đến khi họ tới khu vực đổ quân. Do đó yêu cầu quyết định là trăng phải lên muộn. Lính đổ bộ đường không Mỹ triển khai từ tàu lượn. Cuộc đổ bộ đường biển phải bắt đầu khi thủy triều xuống đủ thấp để làm lộ ra các vật cản của Rommel trên bãi biển. Thời điểm của cả cuộc đổ bộ sẽ phụ thuộc vào thủy triều. Và để làm phức tạp hơn các tính toán khí tượng, các thê đội đổ bộ sau trong ngày cũng cần thuỷ triều thấp – và điều đó phải xảy ra trước khi trời tối. Hai yếu tố quan trọng là trăng và thủy triều đã hạn chế Eisenhower. Yếu tố thủy triều khiến số ngày có thể tấn công trong tháng chỉ còn 6, và 3 trong số đó lại không trăng. Nhưng đó chưa phải tất cả. Còn rất nhiều thứ nữa mà ông phải cân nhắc. https://thuviensach.vn Trước tiên, tất cả các lực lượng cần thời gian trời sáng kéo dài và tầm nhìn tốt để nhận diện các bãi biển, để hải quân và không quân xác định được mục tiêu và giảm nguy cơ xảy ra va chạm khi 5.000 chiếc tàu bắt đầu cơ động gần như sát bên nhau trong vịnh Seine. Thứ hai, biển phải lặng. Biển động gây nguy hiểm cho hạm đội, say sóng sẽ khiến binh sĩ không làm gì nổi kể cả khi họ đặt chân được lên bờ. Thứ ba, gió nhẹ thổi hướng vào bờ để xua tan khói che khuất mục tiêu. Và cuối cùng, quân Đồng minh cần thêm 3 ngày lặng sau D-Day để dễ dàng tăng cường thêm quân và hậu cần. Không ai ở Bộ Tổng tư lệnh hy vọng có thời tiết hoàn hảo vào D-Day, kể cả Eisenhower. Ông đã tự mình nghiên cứu cùng các nhân viên khí tượng trong vô số tính toán vô vị, để nhận định và cân nhắc từng yếu tố sẽ cho ông điều kiện tối thiểu chấp nhận được. Nhưng theo các nhân viên khí tượng, cơ hội có một ngày trong tháng 6 thời tiết ở Normandy đạt yêu cầu tối thiểu là 1 trên 10. Trong ngày Chủ nhật mưa bão này, với Eisenhower đang đơn độc trong chiếc toa xe xem xét mọi khả năng, cú đòn này quả là nặng. Trong 3 ngày có thể đổ bộ được, ông đã chọn ngày 5 để nếu phải hoãn thì có thể mở cuộc tấn công vào ngày 6. Nhưng nếu ra lệnh đổ bộ vào ngày 6 và lại hủy một lần nữa, vấn đề tiếp liệu cho các đoàn tàu đang quay về sẽ khiến ông không thể tấn công vào ngày 7. Từ đó có 2 khả năng khác: hoãn D-Day tới khi có yếu tố thủy triều vào ngày 19 tháng 6; nhưng làm thế, lực lượng đổ bộ đường không sẽ phải tấn công trong bóng tối vì đêm 19 tháng 6 không trăng. Khả năng thứ hai là đợi đến tháng 7, và một sự trì hoãn lâu như vậy, như ông nhớ lại sau này, “quá đắng để tính đến”. Ý nghĩ phải hủy cuộc đổ bộ đáng sợ tới mức thậm chí nhiều chỉ huy thận trọng nhất của Eisenhower cũng chuẩn bị để mạo hiểm tấn công vào ngày 8 hay 9. Họ không thấy làm cách nào mà hơn 200.000 người trên tàu, trong các khu tập kết và ở các sân bay - phần lớn đã được phổ biến có thể được giữ tách biệt và kiềm chế hàng tuần mà không để lộ bí mật. Kể cả khi an ninh được bảo đảm suốt giai đoạn đó, chắc chắn máy bay trinh sát của Luftwaffe https://thuviensach.vn cũng sẽ phát hiện hạm đội khổng lồ này (nếu hiện tại chúng vẫn còn chưa phát hiện), hoặc các điệp viên Đức bằng cách nào đó sẽ dò ra. Đối với tất cả, viễn cảnh về một sự trì hoãn thật sự đen tối. Nhưng Eisenhower sẽ phải đưa ra quyết định. Trong ánh sáng mờ của chiều muộn, Tổng tư lệnh thỉnh thoảng lại bước ra cửa và nhìn chằm chằm lên những ngọn cây nghiêng ngả vì gió trên nền mây bao phủ bầu trời. Vào những lúc khác ông đi loanh quanh, hút thuốc lá liên tục, đá những đám tro than trên con đường nhỏ - dáng người cao, vai khom, tay đút sâu vào túi. Trong những chuyến tản bộ một mình ấy Eisenhower dường như sợ gặp người khác, nhưng buổi chiều ông để ý đến một trong 4 phóng viên được cử đến trực ở sở chỉ huy – Merrill “Red” Mueller của NBC. “Ta đi dạo nào, Red”, Ike đột ngột nói, và không chờ Mueller ông bước đi với vẻ nhanh nhẹn thường thấy, tay đút túi. Người phóng viên hối hả chạy theo khi ông biến mất vào khu rừng. Đó là một cuộc đi dạo yên lặng, lạ lùng. Ike hoàn toàn không nói một lời. “Ike dường như bị những suy tư xâm chiếm hoàn toàn”, Mueller nhớ lại, “Ông gần như quên mất có tôi đi cùng”. Có rất nhiều câu hỏi Mueller muốn đặt cho Tổng tư lệnh nhưng anh không làm thế; anh cảm thấy không thể quấy rầy. Khi họ quay lại trại và Eisenhower nói tạm biệt, người phóng viên dõi theo ông leo lên chiếc thang nhôm nhỏ dẫn vào toa xe. Vào giây phút đó đối với Mueller dường như Eisenhower “bị đè nặng bởi những lo lắng… như là mỗi ngôi sao trên vai ông nặng đến cả tấn”. Ngay trước 9:30 tối hôm đó, các chỉ huy cao cấp của Eisenhower và sĩ quan tham mưu của họ tập trung trong thư viện của toà nhà Southwick. Đó là một căn phòng lớn tiện nghi với một chiếc bàn phủ khăn xanh, mấy chiếc ghế thoải mái và hai chiếc xôpha. Những kệ sách bằng gỗ sồi màu tối xếp ở 3 https://thuviensach.vn cạnh tường, nhưng chỉ có vài cuốn sách trên giá và căn phòng nhìn rất trống trải. Cửa sổ treo những tấm màn dày treo và trong tối nay chúng bị bóp nghẹt bởi tiếng mưa rơi lộp bộp và tiếng gió thổi. Các sĩ quan tham mưu đứng thành từng nhóm nhỏ trong phòng, khe khẽ thảo luận. Gần lò sưởi, tham mưu trưởng của Eisenhower, Thiếu tướng Walter Bedell Smith trao đổi với Phó tổng tư lệnh, Đại tướng Không lực ** Tedder ngậm tẩu thuốc. Ngồi bên cạnh là Tư lệnh Hải quân Đồng minh, Đô đốc Ramsay nóng tính và cạnh đó là Tư lệnh Không quân Đồng minh, Đại tướng Không lực Leigh-Mallory. Chỉ có một người ăn mặc giản dị, tướng Smith nhớ lại. Montgomery nóng nảy, người sẽ chỉ huy cuộc tấn công D-Day, với chiếc quần nhung rộng và áo len cao cổ. Đó là những người sẽ truyền lệnh tấn công khi Eisenhower quyết định tiến hành cuộc đổ bộ. Lúc này họ cùng các sĩ quan tham mưu – tổng cộng 12 chỉ huy cao cấp trong phòng – đang chờ Tổng tư lệnh đến và cuộc họp then chốt này sẽ bắt đầu vào 9:30. Lúc đó họ sẽ nghe dự báo thời tiết của bộ phận khí tượng. ** Trong nguyên bản tiếng Anh: Air Chief Marshal, tương đương Đại tướng - chiangshan. https://thuviensach.vn Bộ Tổng tư lệnh Lực lượng Viễn chinh Đồng minh (SHAEF) - Từ trái qua phải, hàng đứng: Trung tướng (sau này là Đại tướng 5 sao) Omar Bradley - Tư lệnh Tập đoàn quân 1 Mỹ; Đô đốc Sir Bertram Ramsay - Tư lệnh Hải quân; Đại tướng Không lực Sir Trafford Leigh-Mallory - Tư lệnh Không quân; Thiếu tướng (sau này là Đại tướng) Walter Bedell Smith - Tham mưu trưởng. Hàng ngồi: Đại tướng Không lực (sau này là Thống chế) Sir Arthur Tedder - Phó Tổng tư lệnh; Đại tướng (sau này là Đại tướng 5 sao) Dwight D. Eisenhower, Tổng tư lệnh; Đại tướng (sau này là Thống chế) Sir Bernard Montgomery - Tư lệnh Cụm Tập đoàn quân 21 (toàn bộ lục quân Đồng minh). Chính xác lúc 9:30, cửa phòng bật mở và Eisenhower trong bộ quân phục ngay ngắn màu xanh sẫm sải bước vào. Ông thoáng cười khi chào hỏi những https://thuviensach.vn người bạn cũ, nhưng vẻ lo âu nhanh chóng trở lại trên khuôn mặt lúc cuộc họp bắt đầu. Không cần mào đầu; mọi người đều biết tầm quan trọng của quyết định được đưa ra. Do vậy gần như ngay lập tức, 3 sĩ quan Khí tượng cao cấp của Chiến dịch Overlord bước vào, dẫn đầu bởi Đại tá J.N Stagg thuộc Không quân Hoàng gia. Căn phòng im lặng khi Stagg bắt đầu tóm tắt tình hình. Ông nhanh chóng phác thảo bức tranh thời tiết 24 giờ qua rồi khẽ nói: “Thưa các vị… tình hình đã có vài tiến triển mau lẹ và bất ngờ…”. Tất cả dõi theo Stagg, khi ông gieo cho Eisenhower và các vị chỉ huy đang lo lắng một tia hy vọng mong manh. Một phông thời tiết mới đã được quan sát thấy, nó sẽ di chuyển vào Eo biển trong vài giờ tới và từng bước làm quang đãng khu vực đổ bộ. Điều kiện thuận lợi sẽ kéo dài suốt ngày hôm sau và tiếp tục trong sáng 6 tháng 6. Sau đó thời tiết sẽ xấu trở lại. Trong giai đoạn hứa hẹn thời tiết đẹp này, gió sẽ giảm đáng kể và bầu trời sẽ quang đãng – ít nhất đủ cho máy bay ném bom hoạt động trong đêm ngày 5 tới sáng ngày 6. Đến trưa mây sẽ dày hơn và trời sẽ lại trở nên mù. Nói ngắn gọn, những gì Eisenhower được nghe là một giai đoạn thời tiết tốt hiếm hoi vẫn còn xa mới bằng được yêu cầu tối thiểu sẽ kéo dài chỉ trong có 24 giờ. Vào lúc Stagg nói xong, ông và 2 nhân viên khí tượng bị cuốn ngay vào một đống câu hỏi. Họ có tin chắc vào mức độ chính xác của dự báo không? Dự báo của họ có thể sai không? Họ đã kiểm tra báo cáo từ tất cả các nguồn chưa? Liệu thời tiết có khả năng tốt lên trong vài ngày ngay sau ngày 6 không? Một vài trong số đó vượt quá khả năng của họ. Báo cáo đã được kiểm tra đi kiểm tra lại và họ đang lạc quan nhất có thể về dự báo đó, nhưng luôn có khả năng sự thất thường của thời tiết sẽ khiến nó trở nên sai. Họ cố gắng trả lời trong phạm vi có thể rồi rút lui. https://thuviensach.vn Trong 15 phút sau đó Eisenhower và các chỉ huy của ông suy nghĩ. Yêu cầu phải quyết định gấp làm Đô đốc Ramsay lo lắng. Lực lượng Mỹ đổ bộ vào Omaha và Utah dưới sự chỉ huy của Chuẩn đô đốc A. G Kirk cần phải nhận được lệnh trong nửa giờ nữa nếu Overlord tiến hành vào thứ Ba. Mối lo của Ramsay còn được bổ sung thêm bằng vấn đề tiếp liệu; nếu lực lượng đó xuất phát muộn hơn và rồi bị triệu hồi thì sẽ không thể sẵn sàng cho cuộc tấn công vào thứ Tư, ngày 7. Eisenhower hỏi ý kiến từng người một. Smith cho rằng có thể tiến hành vào ngày 6 – sẽ là một canh bạc nhưng phải được thực hiện. Tedder và Leigh Mallory đều lo ngại về khả năng hoạt động hiệu quả của không quân kể cả khi tình hình mây được dự báo sẽ khá hơn. Điều đó có nghĩa cuộc tấn công sẽ diễn ra mà không có không quân yểm trợ đầy đủ. Họ cho rằng nó rất “bấp bênh”. Montgomery kiên trì với quyết định mà ông đã có từ buổi tối trước khi D-Day ngày 5 tháng 6 bị hoãn lại. “Tôi bảo, cứ làm đi”, ông nói. Giờ tới lượt Ike. Lúc này chỉ ông mới đưa ra được quyết định. Im lặng kéo dài khi Eisenhower cân nhắc các khả năng. Tướng Smith theo dõi đã bị ấn tượng bởi sự “cô đơn và tách biệt” của Tổng tư lệnh khi ông ngồi, tay đan vào nhau trước mặt, nhìn xuống bàn. Thời gian trôi đi, có người nói 2 phút, người khác bảo 5. Sau đó Eisenhower, khuôn mặt căng thẳng, nhìn lên và tuyên bố quyết định của mình. Ông nói chậm rãi, “Tôi rất chắc chắn là chúng ta phải ra lệnh… Tôi không thích thế này, nhưng nó là vậy… Tôi không thấy là ta có thể làm gì khác”. Eisenhower đứng dậy. Ông trông mỏi mệt, nhưng chút ít căng thẳng đã biến mất trên khuôn mặt. Sáu giờ nữa trong cuộc họp ngắn để đánh giá lại thời tiết, ông sẽ giữ và xác nhận lại lựa chọn đó – Thứ Ba, ngày 6 tháng 6 sẽ là D Day. Eisenhower và các chỉ huy rời phòng, khẩn trương sắp đặt cuộc tấn công lớn. Sau lưng họ, trong thư viện trống trải, một làn khói xanh lơ lửng trên bàn https://thuviensach.vn họp, ngọn lửa in hình lên cánh cửa bóng loáng, và trên bệ lò sưởi, kim đồng hồ chỉ 9:45. Lúc đó là khoảng 10:00 tối khi Binh nhì Arthur B. “Dutch” Schultz của Sư đoàn 82 quyết định ngừng ván bài vớ vẩn; anh chưa bao giờ có nhiều tiền như vậy. Ván bạc đã kéo dài từ lúc cuộc đổ bộ đường không bị huỷ ít nhất 24 giờ trước. Nó bắt đầu sau một căn lều, sau đó di chuyển đến dưới cánh một chiếc máy bay, và bây giờ đã lan ra khắp chiếc hangar đã được sửa lại thành một phòng tập thể lớn. Kể cả ở đây nó cũng được tiến hành giữa lối đi của những dãy giường đôi. Và Dutch là một trong những người ăn đậm nhất. Anh không rõ mình đã thắng được bao nhiêu. Nhưng anh đoán đống giấy bạc nhàu nhĩ với dấu hiệu của ngân hàng Anh và dấu màu xanh lá cây – xanh lam nhạt lưu hành cho cuộc đổ bộ lên Pháp đang ôm trong tay này nhiều hơn 2500 đô. Đó là số tiền lớn nhất mà anh từng thấy trong suốt 21 năm sống. Anh đã chuẩn bị mọi thứ, cả về tinh thần và thể chất cho cuộc nhảy dù. Tín đồ của đủ mọi tôn giáo tập trung trong sân bay buổi sáng và Dutch, một người Công giáo đã tới xưng tội và ban thánh thể. Giờ anh biết chính xác mình sẽ làm gì với số tiền này. Anh nhẩm tính sẽ chia chúng ra. Sẽ để lại 1000 đô ở văn phòng quản trị; anh sẽ dùng đến nó khi trở về Anh. 1000 đô khác dự định gửi cho mẹ anh ở San Francisco nhờ bà giữ hộ, nhưng anh muốn bà nhận 500 đô trong đó như một món quà – bà chắc chắn sẽ dùng nó. Dutch có một mục đích đặc biệt cho số còn lại: sẽ dùng nó để chè chén thoải mái khi đơn vị của anh, Trung đoàn 505 tới Paris. Người lính dù trẻ tuổi cảm thấy ổn; anh đã chuẩn bị mọi thứ - nhưng liệu đã đủ chưa? Vì sao tai nạn sáng nay lại xảy ra, làm anh thấy khó chịu đến vậy? Sáng nay ở trạm quân bưu anh nhận được thư từ mẹ. Khi xé phong bì thì một chuỗi tràng hạt tuột ra và rơi xuống chân anh. Không để cho đám đông lém lỉnh xung quanh kịp để ý, anh nhanh chóng nhặt các hạt và nhét chúng vào balô. https://thuviensach.vn Giờ suy nghĩ về chuỗi hạt đột nhiên làm nảy sinh một câu hỏi mà trước đây anh chưa từng để ý tới: sao lại đánh bạc vào một thời điểm như thế này? Anh nhìn vào đám giấy bạc nhàu nát trong tay mình – lớn hơn cả số có thể kiếm được trong 1 năm. Chính lúc đó Binh nhì Dutch Schultz biết nếu giữ chúng, anh chắc chắn sẽ bị giết. Dutch quyết định không liều. “Đặt thêm”, anh nói, “để tớ chơi tiếp nào”. Anh liếc nhìn đồng hồ và tự hỏi sẽ mất bao lâu để thua hết 2500 đô. Schultz không phải người duy nhất hành xử kì quặc trong buổi tối hôm nay. Không ai, từ người lính thường cho tới những vị tướng tỏ ra muốn thách thức số mệnh. Tại sở chỉ huy Sư đoàn 101 gần Newbury, Thiếu tướng Maxwll D. Taylor đang có cuộc gặp thân mật với các sĩ quan cao cấp của ông. Có lẽ có khoảng nửa tá người trong phòng và một trong số đó, Chuẩn tướng Don Pratt, Sư đoàn phó, đang ngồi trên giường. Họ đang trao đổi thì một sĩ quan khác tới. Ông ta bỏ mũ lên giường. Tướng Pratt nhảy dựng lên, hất chiếc mũ xuống sàn và nói, “Lạy Chúa, thật là một điềm xấu khốn kiếp!”. Mọi người cười ồ, nhưng Pratt không ngồi lên giường nữa. Ông đã được chọn để chỉ huy lực lượng đổ bộ bằng tàu lượn của Sư đoàn 101 tấn công Normandy. Đêm xuống, lực lượng đổ bộ trên khắp nước Anh tiếp tục chờ đợi. Được cổ vũ bằng hàng tháng huấn luyện, họ đã sẵn sàng lên đường. Và lệnh tạm hoãn đã khiến họ bồn chồn. Giờ đã là 18 tiếng kể từ lúc đó, và mỗi giờ trôi qua lại lấy đi thêm sự kiên trì và nhiệt tình của binh lính. Họ không biết D-Day chỉ còn gần 26 giờ nữa; vẫn còn quá sớm để thông báo. Và thế là, trong buổi tối Chủ nhật mưa bão này, người ta chờ đợi trong sự lo ngại khắc khoải, cô đơn và kín đáo một thứ gì đó, bất cứ thứ gì, xảy ra. Họ làm chính xác những gì mà người ta sẽ làm trong hoàn cảnh này: nghĩ về gia đình, những người vợ, những đứa con, những người yêu. Và tất cả đều nói về cuộc chiến ở phía trước. Những bãi biển thực sự sẽ thế nào? Cuộc đổ bộ có khó khăn như ai cũng nghĩ không? Không ai hình dung ra D-Day, nhưng https://thuviensach.vn mỗi người đều chuẩn bị cho nó theo cách của riêng mình. Trong đêm tối sóng vỗ trên biển Irish, trên chiếc khu trục hạm USS Herndon, Đại úy Bartow Farr, Jr, cố tập trung vào ván bài bridge. Điều này khá là khó, có quá nhiều thứ nghiêm túc xung quanh nhắc nhở rằng đây không phải là một buổi tối giải trí thân mật. Trên tường đính những bức không ảnh lớn chụp các vị trí pháo binh Đức khống chế bờ biển Normandy. Những khẩu pháo đó là mục tiêu của Herndon trong D-Day. Farr chợt nghĩ Herndon cũng sẽ là mục tiêu của chúng. Farr khá tin tưởng rằng anh sẽ sống sót qua D-Day. Đã có rất nhiều lời đùa cợt về việc ai sẽ qua được và ai không. Khi quay lại cảng Belfast, thủy thủ tàu Corry, người anh em với tàu của anh đã cá 10 ăn 1 rằng Herndon sẽ không trở về. Thủy thủ tàu Herndon trả đũa bằng cách phát tán tin đồn là khi hạm đội tiến hành đổ bộ, Corry sẽ được giữ lại cảng do tinh thần xuống thấp. Đại úy Farr chắc chắn Herndon sẽ trở về an toàn cùng mình. Dù thế, anh đang vui vì đã viết một lá thư dài cho cậu con trai chưa chào đời. Farr chưa bao giờ mảy may nghĩ rằng vợ anh, Anne, ở New York sẽ sinh con gái (và đúng như vậy. Tháng 11 năm đó gia đình Farr đã có một cậu con trai). Ở một khu tập kết gần Newhaven, Binh nhất Reginald Dale của Sư đoàn 3 Anh đang ngồi trên giường và lo lắng cho người vợ, Hilda. Họ cưới nhau năm 1940 và đã mong mỏi có một đứa con. Trong chuyến về phép cuối cùng chỉ vài ngày trước, Hilda cho biết cô đã có mang. Dale đã giận dữ; mọi thứ mà anh ý thức được là cuộc đổ bộ đã gần kề và anh sẽ phải tham dự. “Anh phải nói, thật là đúng vào cái lúc khốn nạn này”, anh bẻ ngón tay. Trong đầu Dale thấy lại sự tổn thương xuất hiện trong mắt cô, và anh lại tự trách mình vì những lời hấp tấp đó. Nhưng giờ đã quá muộn. Dale còn không thể gọi cho vợ. Anh nằm xuống, và giống như hàng nghìn người khác trong các khu tập kết của quân Anh, cố gắng chợp mắt. https://thuviensach.vn Một vài người điềm tĩnh và bình thản, đang ngủ ngon lành. Ở Sư đoàn 50 Anh, Thượng sĩ nhất Stanley Hollis là một người như thế. Từ lâu anh đã học được cách ngủ bất cứ khi nào có thể. Cuộc tấn công sắp đến không làm Hollis lo lắng nhiều; anh có lí do để chờ đợi nó. Anh đã từng được di tản ở Dunkirk, đã chiến đấu cùng Tập đoàn quân 8 ở Bắc Phi và đã đổ bộ lên Sicily. Giữa hàng triệu quân nhân ở Anh tối nay, Hollis là trường hợp khá đặc biệt. Anh đang mong đợi cuộc đổ bộ; anh muốn quay lại Pháp để giết thêm vài tên Đức. Đó là chuyện riêng của Hollis. Tại Dunkirk anh từng là một lính liên lạc xe đạp, và trong cuộc rút lui anh đã chứng kiến một cảnh tượng không bao giờ quên được ở thành phố Lille. Bị cắt rời khỏi đơn vị, Hollis rẽ nhầm vào con đường mà quân Đức vừa đi qua. Anh lọt vào một phố cụt chứa hơn 100 thi thể đàn ông, phụ nữ và trẻ em Pháp vẫn còn ấm. Họ bị súng máy bắn chết. Sát chân tường cạnh các thi thể và vương vãi trên mặt đất là hàng trăm vỏ đạn. Kể từ giây phút đó Stan Hollis đã trở thành một thợ săn xuất sắc. Thành tích diệt địch của anh đã đạt hơn 90 tên. Vào cuối D-Day, anh sẽ khắc lên khẩu Sten của mình vạch thứ 102. Còn có những người khác cũng đang khắc khoải chờ được đặt chân lên đất Pháp. Sự chờ đợi này dường như dài vô tận đối với Trung tá Philippe Kieffer và 171 lính đặc công Pháp dày dạn của ông. Ngoại trừ vài người bạn tại Anh, không có ai để chào tạm biệt – gia đình họ vẫn ở Pháp. Trong doanh trại gần cửa sông Hamble, họ dành thời gian kiểm tra vũ khí và học tập trên sa bàn bằng cao su địa hình bãi Sword cùng các mục tiêu ở thị trấn Ouistreham. Một lính đặc công, Bá tước Guy de Montlaur, người tự hào mang quân hàm Hạ sĩ, tối đó đã rất hoan hỉ khi biết kế hoạch có một chút thay đổi: tiểu đội của anh sẽ dẫn đầu cuộc tấn công vào sòng bạc của khu nghỉ mát, giờ được tin chắc là một sở chỉ huy được bố phòng mạnh của quân Đức. “Rất vui lòng”, anh nói với Trung tá Kieffer, “tôi đã rất đen đủi ở đó”. https://thuviensach.vn Cách đó 240km, ở khu vực Sư đoàn Bộ binh 4 Mỹ gần Plymouth, Hạ sĩ Harry Brown hoàn thành phiên gác và thấy một lá thư đang chờ anh. Đã nhiều lần anh thấy những thứ tương tự trong những bộ phim chiến tranh nhưng chưa bao giờ nghĩ nó lại xảy ra với mình: bức thư kèm theo quảng cáo của hãng giày đế cao Alder. Bài quảng cáo làm viên hạ sĩ cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm. Mọi người trong nhóm của anh đều thấp đến mức họ bị gọi là “đám người lùn của Brown”. Hạ sĩ là người cao nhất – 1,65m. Trong khi anh đang tự hỏi ai đã đưa tên mình cho công ty Adler, một người lính trong tiểu đội xuất hiện. Binh nhất John Gwiadosky quyết định tới trả số tiền đã vay. Hạ sĩ Brown từ chối khi Gwiadosky long trọng đưa món tiền. “Đừng hiểu nhầm”, Gwiadosky giải thích, “tớ chỉ không muốn cậu phải đi theo tớ xuống tận âm phủ để lấy lại”. Ở vịnh, trên chiếc tàu vận tải New Amsterdam thả neo gần Weymouth, Thiếu úy George Kerchner của Tiểu đoàn Biệt kích số 2 chìm đắm trong công việc thường lệ. Anh đang kiểm duyệt thư từ của trung đội. Tối nay thật sự vất vả, dường như ai cũng viết rất dài. Tiểu đoàn Biệt kích số 2 và số 5 đã được giao một trong những nhiệm vụ khó khăn nhất của D-Day. Họ sẽ phải trèo lên vách đá cao 30m gần như thẳng đứng tại địa điểm có tên Pointe du Hoc và khoá họng 6 khẩu pháo tầm xa ở đây – những khẩu pháo mạnh đến mức chúng có thể khống chế bãi Omaha hoặc khu vực vận tải của bãi Utah. Họ chỉ có 30 phút để hoàn thành nhiệm vụ. https://thuviensach.vn Tiểu đoàn Biệt kích số 2 Mỹ ở Anh trước Chiến dịch Overlord. Thương vong dự kiến là sẽ nặng – vài người nghĩ có thể đến 60 phần trăm – trừ khi hải quân và không quân tiêu diệt những khẩu pháo đó trước khi biệt kích tới. Còn ngược lại, không ai trông chờ một cuộc tấn công dễ dàng. Không ai, trừ Hạ sĩ nhất Larry Johnson, một trong những phân đội trưởng của Kerchner. Thiếu úy ngạc nhiên khi đọc lá thư của Johnson. Mặc dù thư sẽ không được gửi cho tới sau D-Day – bất kể thế nào – nhưng lá thư này thậm chí còn không thể gửi được theo cách thông thường. Kerchner cho gọi Johnson và đưa trả bức thư. “Larry”, Kerchner nói cộc lốc, “tốt hơn cậu nên tự mình chuyển nó – sau khi đã tới Pháp”. Johnson viết thư cho một cô gái đề nghị sắp xếp cuộc hẹn sớm vào tháng 6. Cô ta sống ở Paris. https://thuviensach.vn Khi viên hạ sĩ rời phòng, thiếu úy có ấn tượng rằng chừng nào còn có những người lạc quan như Johnson thì không có gì là không thể xảy ra. Hầu như ai trong lực lượng đổ bộ cũng viết thư trong những giờ chờ đợi. Họ đã bị cấm trại một thời gian dài và những lá thư dường như giúp họ giải toả tâm trạng. Nhiều người ghi lại những suy nghĩ của mình theo cách mà hiếm khi người ta làm. Đại uý John F. Dulligan thuộc Sư đoàn Bộ binh số 1 sẽ đổ bộ lên bãi Omaha, viết cho vợ: “Anh yêu quý những người này. Họ nằm ngủ khắp nơi trên tàu, trên boong, bên trong xe, trên nóc xe và dưới gầm xe. Họ hút thuốc, chơi bài, vật nhau và vui đùa thoải mái. Họ túm tụm lại và chủ yếu tán về các cô gái, gia đình và những gì đã trải qua (cả về phụ nữ lẫn không phải về phụ nữ)… Họ là những người lính tốt, tốt nhất thế giới… Trước cuộc đổ bộ lên Bắc Phi, anh đã bồn chồn và hơi sợ… Trong cuộc đổ bộ lên Sicily anh bận rộn tới mức nỗi sợ trôi qua trong công việc… Lần này bọn anh sẽ đổ bộ lên Pháp và Chúa biết chuyện gì sẽ xảy ra. Anh muốn em biết rằng anh yêu em bằng cả trái tim… Anh cầu mong Chúa sẽ che chở để anh về với em, Ann và Pat”. Ở trên những chiến hạm hay tàu vận tải lớn, trong sân bay hay các khu tập kết là những người may mắn. Họ bị cấm trại và dồn đống lại nhưng khô ráo, ấm áp và khoẻ mạnh. Đó là một câu chuyện khác với người đang ở trên những chiếc tàu đổ bộ đáy bằng thả neo bên ngoài các bến cảng. Một số đã phải ở trên tàu hơn 1 tuần. Trên những chiếc tàu chật chội và hôi hám, người ta khổ sở đến khó tin. Đối với họ cuộc chiến đấu kéo dài ngay từ khi chưa rời Anh. Đó là cuộc chiến đấu chống lại say sóng và buồn nôn. Phần lớn vẫn còn nhớ trên những chiếc tàu chỉ có 3 mùi: mùi dầu diesel, mùi toa lét và mùi bãi nôn. Hoàn cảnh mỗi chiếc tàu khác nhau. Trên chiếc LCT 777, Tín hiệu viên cấp 3 George Hackett Jr đang ngạc nhiên khi thấy sóng cao đến mức chúng đập vào thành một chiếc tàu và tràn sang cả một chiếc khác. LCT 6, một tàu đổ https://thuviensach.vn bộ của Anh chứa nhiều đến mức Trung tá Clarence Hupfer Sư đoàn Bộ binh 4 Mỹ nghĩ rằng nó sẽ chìm. Nước ngấp nghé mép tàu và thỉnh thoảng tràn vào trong. Lòng tàu ngập nước và binh lính buộc phải ăn thức ăn nguội lạnh – đó là tất cả những thứ họ có thể ăn. Hạ sĩ Keith Bryan thuộc Lữ đoàn Công binh đặc biệt số 5 nhớ lại tàu LST 97 quá đông đúc nên người ta giẫm cả vào nhau và quá lắc nên những người may mắn có giường cũng rất khó ở nguyên trên đó. Và với Hạ sĩ Morris Magee Sư đoàn 3 Canada thì con tàu này lắc lư “tệ hơn cả một con thuyền chèo ở trung tâm hồ Champlain”. Anh mệt đến mức không nôn nổi nữa. Nhưng phải chịu đựng nhiều nhất trong thời gian chờ là binh lính trên các đoàn tàu được triệu hồi. Cả ngày họ đã phải chịu bão trên Eo biển. Bây giờ, khi những đoàn tàu cuối cùng lục tục thả neo, họ ủ rũ dựa vào lan can, ướt sũng và kiệt sức. Đến 11:00 tối, tất cả đã quay về. Bên ngoài cảng Plymouth, Thiếu tá Hoffman thuyền trưởng tàu Corry đứng trên đài chỉ huy quan sát bóng những chiếc tàu đổ bộ tối om đủ mọi kích cỡ và hình dáng. Trời lạnh. Gió vẫn thổi mạnh và anh có thể nghe thấy những tiếng bì bõm khi những con tàu dập dềnh trên mỗi đợt sóng. https://thuviensach.vn Tàu đổ bộ Đồng minh tại cảng Southampton, 1/6/1944. Hoffman thấy mệt mỏi. Họ chỉ vừa trở về ngay trước khi được biết lần đầu lí do của lệnh hoãn. Giờ họ được thông báo chuẩn bị xuất phát một lần nữa. Dưới khoang tàu, tin tức nhanh chóng truyền đi. Điện đài viên Bennie Glisson biết tin khi chuẩn bị đến phiên trực. Anh len qua những hành lang kín đặc và khi tới nơi anh thấy hơn một tá người đang ăn tối – hôm nay là gà tây với đủ thứ kèm theo. “Các cậu”, anh nói, “hãy làm như đây là bữa tối cuối cùng đi”. Bennie đã gần đúng. Ít nhất một nửa số đồ ăn đó sẽ chìm cùng Corry ngay sau H-Hour của D-Day. Tương tự, tinh thần cũng xuống thấp trên tàu LCI 408. Các binh sĩ Phòng vệ https://thuviensach.vn bờ biển tin rằng việc xuất phát hỏng này chỉ là một lần diễn tập. Binh nhì William Joseph Phillips ở Sư đoàn Bộ binh 29 cố động viên họ. Anh nghiêm trang phán đoán, “Đơn vị này sẽ chả bao giờ phải đánh nhau. Chúng ta đã ở Anh quá lâu đến mức công việc của ta sẽ không bắt đầu trước khi chiến tranh kết thúc. Họ sẽ cho ta đi cọ phân chim ở vùng Đồi Trắng Dover”. Vào nửa đêm các canô của lực lượng Phòng vệ bờ biển và các tàu khu trục Hải quân bắt đầu công việc nặng nề là tái tổ chức các đoàn tàu một lần nữa. Lần này thì sẽ không có quay lại. Ngoài khơi bờ biển nước Pháp, chiếc tàu ngầm mini X23 chậm chạp nổi lên mặt biển. Lúc đó là 1:00 sáng ngày 5 tháng 6. Đại úy George Honour nhanh nhẹn mở nắp. Anh và các thủy thủ trèo lên tháp dựng ăngten. Bên dưới, Đại úy James Hodges chỉnh vô tuyến về 1850 kilocycle và cầm ống nghe. Không phải đợi lâu, anh nhận được tín hiệu rất yếu: “Padfeet … Padfeet … Padfeet”. Khi nghe thông điệp chỉ có một từ đó, Hodges nhìn lên nghi hoặc. Giữ chặt ống nghe hơn, anh nghe lại lần nữa. Nhưng không có sai sót nào. Đại úy báo cho mọi người. Không ai nói gì. Họ nhìn nhau ủ rũ, sẽ lại phải nằm dưới nước suốt một ngày nữa. Trong sáng sớm, bờ biển Normady chìm trong sương. Trận mưa dai dẳng hôm trước đã trở thành một cơn mưa bụi đều đều, thấm ướt mọi thứ. Xa hơn các bãi biển là những khu đất cổ xưa hình thù không giống nhau, nơi đã từng diễn ra vô số trận đánh và sẽ diễn ra vô số trận đánh khác. Trong 4 năm người dân Normandy đã sống chung với lính Đức. Cảnh giam hãm này có những điểm khác nhau đối với mỗi người. Tại 3 thành phố chính – Le Havre và Cherbourg, những hải cảng ở hai đầu phía đông và tây khu vực, và ở giữa chúng (cả về địa lý lẫn quy mô) Caen, nằm sâu 16km trong đất liền – cuộc sống dưới ách chiếm đóng rất khắc nghiệt và là sự thật không đổi. https://thuviensach.vn Ở đây có sở chỉ huy của lực lượng Gestapo và SS. Ở đây có những thứ nhắc nhở người ta về chiến tranh – những cuộc bố ráp ban đêm, những cuộc trả thù không ngừng nghỉ nhằm vào lực lượng kháng chiến, những cuộc ném bom của Đồng minh được chào đón nhưng cũng gây sợ hãi. Bên ngoài các thành phố, khoảng giữa Caen và Cherbourg là vùng nông thôn nhiều cây cối: những cánh đồng nhỏ được bao bọc bởi những gò đồi lớn, bên trên là bụi rậm và cây non, đã được dùng như những chướng ngại vật thiên nhiên cả bởi kẻ xâm chiếm và người bảo vệ từ thời La Mã. Rải rác những trang trại bằng gỗ với mái rạ hoặc lợp ngói đỏ, và đây đó là những thị trấn và ngôi làng giống những pháo đài nhỏ, gần như tất cả đều có những nhà thờ vuông cạnh kiểu La Mã bao quanh bởi những ngôi nhà xây bằng đá xám có tuổi đời nhiều thế kỷ. Chúng vô danh với phần lớn thế giới – Vierville, Colleville, La Madeleine, Ste-Mere-eeglise, Chef-du-Pont, Ste. Marie-du Mont, Arromanches, Luc. Trong vùng nông thôn thưa thớt dân cư này, cảnh chiếm đóng không giống ở các thành phố lớn. Bị cuốn vào một kiểu vòng xoáy chiến tranh ở nông thôn, những nông dân Normandy phải làm những gì có thể để thích nghi với hoàn cảnh. Hàng ngàn đàn ông và phụ nữ bị lùa khỏi các thị trấn và làng mạc để trở thành lao động cưỡng bức, những người ở lại thì phải làm việc bán thời gian trong những tiểu đoàn lao công xây dựng công trình phòng thủ bờ biển. Nhưng những nông dân tự chủ đến dữ dội này không làm gì ngoài những việc tối cần thiết. Họ sống qua ngày, căm ghét quân Đức với sự gan lì của người Norman và khắc khổ trông đợi ngày giải phóng. Luật sư 31 tuổi Michel Hardelay đứng bên cửa sổ phòng khách trong ngôi nhà của mẹ anh trên đồi nhìn xuống làng Vierville đang say ngủ, quan sát qua ống nhòm tên lính Đức cưỡi con ngựa cày lớn trên đường đi ra bờ biển. Bên yên ngựa treo nhiều bình thiếc. Đó là một cảnh tượng lố bịch: cái mông khổng lồ của con ngựa, những chiếc bình vung vẩy và trên cùng là chiếc mũ sắt trông như cái xô của tên lính. Trong khi Hardelay theo dõi, gã Đức vào làng, đi qua nhà thờ với ngọn tháp https://thuviensach.vn cao hẹp và tới chỗ bức tường bê tông chặn ngang con đường chính từ bờ biển. Hắn xách bình xuống ngựa. Bỗng 3 hay 4 tên lính xuất hiện một cách bí ẩn quanh những ngọn đồi và con dốc. Chúng lấy những chiếc bình rồi lại biến mất. Mang cái còn lại, gã lính trèo qua tường và đi tới căn biệt thự mùa hè màu nâu đỏ có cây bao bọc nằm ở cuối bãi biển. Ở đó hắn quỳ xuống và đưa chiếc bình cuối cùng cho những bàn tay chìa ra ở tầng trệt ngôi nhà. Sáng nào cũng vậy. Gã Đức không bao giờ trễ giờ; hắn luôn mang cà phê sáng qua Vierville vào lúc này. Ngày mới đã bắt đầu với những pháo thủ trong những lô cốt trên đồi và hầm ngầm được ngụy trang ở cuối bãi biển – bãi cát uốn lượn, vẻ yên bình mà ngày hôm sau sẽ được thế giới biết đến với cái tên bãi Omaha. Michel Hardelay biết lúc này là 6:15 đúng. Anh đã xem đồng hồ nhiều lần. Nó gây ấn tượng rằng đây là một vở hài kịch nhỏ, một phần do sự xuất hiện của gã lính, một phần do anh thấy buồn cười vì sự chính xác như máy được ca tụng của người Đức thể hiện trong cả công việc đơn giản như giao cà phê sáng. Nhưng Hardelay thấy buồn cười một cách cay đắng. Như những người dân Normandy khác, anh đã căm ghét bọn Đức trong một thời gian dài và anh đặc biệt căm ghét chúng vào lúc này. Trong nhiều tháng Hardelay quan sát lính Đức và lao công cưỡng bức xây dựng công sự khắp các con dốc và trên các ngọn đồi. Anh thấy chúng giăng đầy những vật cản và đặt hàng nghìn trái mìn sát thương đáng sợ. Và không dừng ở đó. Với sự cẩn thận có phương pháp, chúng phá huỷ những dãy nhà, biệt thự mùa hè xinh đẹp màu hồng, trắng và đỏ dưới chân dốc dọc theo bờ biển. Giờ trong số 90 căn nhà chỉ còn lại 7. Chúng bị phá hủy không chỉ để bọn xạ thủ có tầm quan sát tốt và còn vì quân Đức cần gỗ xây công sự. Trong số 7 căn còn lại, ngôi nhà lớn nhất bằng đá được xây trong suốt 1 năm là của Hardelay. Vài ngày trước tên chỉ huy địa phương đã chính thức báo cho anh biết nó sẽ bị phá huỷ. Bọn Đức quyết định là chúng cần gạch và đá. https://thuviensach.vn Hardelay tự hỏi liệu có ai hay ở đâu sẽ huỷ bỏ lệnh đó không. Trong vài trường hợp, bọn Đức thường khó đoán. Anh sẽ biết chắc trong 24 giờ nữa; anh đã được báo là ngôi nhà sẽ bị phá huỷ vào ngày mai: thứ Ba, ngày 6 tháng 6. Lúc 6:30, Hardelay chuyển kênh radio để nghe tin tức của BBC. Điều này bị cấm, nhưng giống như hàng trăm nghìn người Pháp khác anh phớt lờ nó. Chỉ có một cách khác để chống lại. Do đó anh vặn nhỏ xuống chỉ còn như nói thầm. Như thường lệ, vào cuối bản tin “Đại tá Anh” – Douglas Ritchie, người vẫn thường được coi là phát ngôn viên của Bộ Tổng tư lệnh Đồng minh – đọc một thông báo quan trọng. “Hôm nay, thứ Hai, ngày 5 tháng 6”, ông nói, “Tổng tư lệnh chỉ thị cho tôi nói điều này: “hiện nay trong những tin tức này tồn tại một kênh liên lạc trực tiếp giữa Tổng tư lệnh và các bạn ở các quốc gia bị chiếm đóng… Vào một lúc thích hợp những chỉ thị quan trọng sẽ được phát, nhưng không thể thông báo trước thời điểm; do vậy các bạn nên có thói quen, cả cá nhân lẫn phân công với bạn bè để nghe liên tục. Điều này không khó khăn như nó nghe chừng…”. Hardelay đoán các “chỉ thị” đó sẽ liên quan tới cuộc đổ bộ. Ai cũng biết là nó đang đến. Anh nghĩ quân Đồng minh sẽ tấn công ở điểm hẹp nhất của Eo biển – quanh Dunkirk hoặc Calais, những nơi có cảng biển. Nhưng tất nhiên không phải ở đó. Nhà Dubois và Davot sống ở Vierville không nghe bản tin, sáng nay họ dậy muộn. Tối qua họ tổ chức một buổi lễ lớn đến gần sáng mới kết thúc. Những cuộc họp mặt gia đình tương tự đã diễn ra khắp vùng Normandy, vì Chủ nhật 4 tháng 6 đã được giáo hội chọn làm Ngày ban thánh thể đầu tiên (First Communion Day). Đó luôn là một sự kiện lớn, một lí do để gia đình và họ hàng tụ họp nhau hàng năm. Diện trong bộ quần áo đẹp nhất, đám trẻ nhà Dubois và Davot đã được ban https://thuviensach.vn thánh thể lần đầu trong nhà thờ nhỏ Vierville trước ánh mắt tự hào của người thân. Một vài người, được cấp những giấy thông hành đặc biệt của Đức phải mất hàng tháng mới có được, đã đi bằng đủ cách từ Paris. Chuyến đi khó chịu và nguy hiểm – khó chịu vì những đoàn tàu đông đúc không bao giờ đúng giờ, nguy hiểm vì những đầu máy luôn là mục tiêu của máy bay cường kích Đồng minh. Nhưng cũng đáng giá, một chuyến đi tới Normandy luôn như thế. Vùng này vẫn còn giàu có với những thứ mà ở Paris bây giờ hiếm khi thấy – bơ tươi, pho mát, trứng, thịt và tất nhiên, Calvados, thứ rượu táo cônhắc nặng của người Norman. Ngoài ra, trong giai đoạn khó khăn này, Normandy vẫn là chỗ ở tốt. Nó yên tĩnh và hoà bình, cách nước Anh quá xa để có thể bị tấn công. Cuộc họp mặt giữa 2 gia đình đã rất thành công. Và vẫn chưa kết thúc. Tối nay mọi người sẽ lại tham dự một bữa tiệc khác với những loại rượu tốt nhất mà chủ nhà còn giữ được. Nó sẽ bế mạc lễ kỉ niệm; những người họ hàng sẽ bắt tàu về Paris sáng sớm ngày thứ Ba. Chuyến đi nghỉ 3 ngày ở Normandy của họ sẽ kéo dài hơn thế; họ sẽ tiếp tục bị kẹt ở Vierville trong 4 tháng nữa. Xa hơn về phía bãi biển, gần Colleville, Fernand Broeckx 40 tuổi đang làm công việc thường lệ vào 6:30 hàng sáng. Ông ngồi trong chuồng bò ẩm ướt, đeo kính lệch, vắt sữa bò vào xô. Trang trại của ông, nằm bên một con đường đất chật hẹp, nằm cao hơn mực nước biển khoảng 800m. Ông đã không đi lại trên đường này hoặc ra bờ biển một thời gian dài từ khi bọn Đức cấm. Ông đã làm nông ở Normandy được 5 năm. Trong Thế chiến I, Broeckx, một người Bỉ, đã chứng kiến nhà của mình bị phá huỷ. Ông không bao giờ quên điều đó. Khi Thế chiến II bắt đầu, ông nhanh chóng bỏ việc và đưa vợ cùng con gái tới Normandy, nơi họ có thể được an toàn. https://thuviensach.vn Cách đó 16km trong thị trấn giáo đường Bayeux, cô con gái xinh đẹp 19 tuổi của ông, Anne Marie đang chuẩn bị cho buổi dạy của mình ở trường mẫu giáo. Cô mong chờ hết ngày, sau đó sẽ là kì nghỉ hè. Cô sẽ dành thời gian nghỉ ở trang trại. Ngày mai Anne Marie sẽ đạp xe về nhà. Cũng trong ngày mai, một người Mỹ cao gầy đến từ đảo Rhode mà cô chưa bao giờ gặp sẽ đổ bộ lên bãi biển gần như thẳng hướng với trang trại của bố cô. Anne Marie sẽ kết hôn với anh ta. Trên khắp vùng duyên hải Normandy, người ta làm những công việc hàng ngày. Nông dân làm ruộng, chăm sóc những vườn táo, chăn giữ những đàn cừu trắng. Trong các ngôi làng và thị trấn, cửa hàng bắt đầu mở cửa. Đối với mọi người, đây chỉ là một trong chuỗi ngày sống dưới sự chiếm đóng. Trong ngôi làng nhỏ La Madeleine, phía sau những cồn và bãi cát trải dài sẽ được biết đến dưới cái tên bãi Utah, Paul Gazengel mở quầy hàng và cà phê nhỏ như thường lệ, mặc dù hầu như không có khách. Đã có một thời kỳ Gazengel có cuộc sống thuận lợi – không nhiều, nhưng đủ trang trải cho ông, bà vợ Marthe và cô con gái 12 tuổi, Jeannine. Nhưng giờ toàn bộ khu vực bờ biển đã bị phong toả. Những gia đình sống ngay sát bờ biển – đại thể, từ khu vực cửa sông Vire (đổ ra biển gần đó) và dọc theo bán đảo Cherbourg – đã bị chuyển đi. Chỉ những người có trang trại mới được ở lại. Giờ đây cuộc sống của ông chủ quán cà phê dựa vào 7 gia đình còn lại ở La Madeleine và vài lính Đức ở gần đó mà ông phải phục vụ. Gazengel muốn chuyển đi. Trong khi ngồi đợi vị khách đầu tiên tới, ông không biết rằng trong 24 giờ nữa mình sẽ có một hành trình. Ông và những người đàn ông khác trong làng sẽ được tập trung lại và đưa về Anh để tra hỏi. Một trong những người bạn của Gazengel, thợ làm bánh Pierre Caldron có https://thuviensach.vn nhiều vấn đề nghiêm trọng để phải suy nghĩ hơn vào sáng nay. Ở phòng khám của bác sĩ Jeanne ở Carentan cách bờ biển 15km, anh ngồi bên giường cậu con trai 5 tuổi Pierre vừa cắt amiđan. Lúc trưa bác sĩ Jeanne kiểm tra lại cậu bé. “Anh không phải lo”, ông bảo người cha đang lo lắng, “Cậu bé ổn cả. Ngày mai anh có thể đón cháu về”. Nhưng Caldron đã suy nghĩ. “Không”, anh nói, “tôi nghĩ mẹ nó sẽ vui hơn nếu tôi đưa Pierre bé bỏng về nhà ngay hôm nay”. Nửa giờ sau, với cậu bé trong tay, Caldron lên đường trở về làng Ste-Marie-du-Mont, phía sau bãi Utah – nơi lính dù sẽ bắt liên lạc với Sư đoàn 4 vào D-Day. Đó cũng là một ngày yên tĩnh đối với quân Đức. Không có điều gì xảy ra và không có điều gì được dự đoán là sẽ xảy ra; thời tiết quá tệ. Nó quá tệ, thực tế, ở sở chỉ huy của Luftwaffe trong điện Luxembourg tại Paris, Đại tá Giáo sư Walter Steobe phụ trách bộ phận khí tượng nói với các sĩ quan tham mưu rằng trong những cuộc họp hàng ngày tới họ sẽ được thoải mái. Ông còn nghi ngờ cả việc máy bay Đồng minh có thể hoạt động vào hôm nay. Các pháo thủ cao xạ nhanh chóng được cho nghỉ gác. Tiếp đó, Steobe gọi điện đến số 20 đại lộ Victor Hugo ở St-Germain-en-Laye cách đó chỉ 19km ở ngoại ô Paris. Cuộc gọi của ông được chuyển tới một khu nhà lớn ba tầng, dài 90m, rộng 18m nằm bên con dốc dẫn xuống một trường nữ sinh – đó là OB West, tổng hành dinh của Von Rundstedt. Steobe trao đổi với sĩ quan liên lạc về thời tiết, Thiếu tá Hermann Mueller, người có nhiệm vụ ghi lại các dự báo và gửi chúng cho Tham mưu trưởng, Thiếu tướng Blumentritt. Báo cáo thời tiết rất quan trọng đối với OB West và Blumenntritt đặc biệt lo lắng về nội dung của nó. Ông sẽ xác định những chi tiết cuối về chuyến kiểm tra mà Tư lệnh Mặt trận phía Tây định tiến hành. Bản báo cáo xác nhận đánh giá của ông rằng nó có thể thực hiện theo đúng lịch trình. Von Rundstedt cùng với con trai, một trung úy trẻ tuổi, dự định kiểm tra công tác phòng thủ bờ biển ở Normandy vào thứ Ba. Không nhiều người ở St-Germain-en-Laye nhận thức được vai trò của khu https://thuviensach.vn