🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nếp Cũ - Tiết Tháo Một Thời
Ebooks
Nhóm Zalo
TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN
Nhà xuất bản Trẻ xuất bản theo hợp đồng sử dụng tác phẩm 2004-2015.
Tiết tháo một thời
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Như bạn đọc đã biết, nhằm gìn giữ một góc di sản văn hóa của dân tộc, sau các tác phẩm của nhà văn Sơn Nam mà Nhà xuất bản Trẻ mua quyền sử dụng trọn đời một số tác phẩm biên khảo về lịch sử, phong tục, tập quán, văn hóa, nghi lễ của tác giả Toan Ánh cũng được Nhà xuất bản Trẻ thực hiện quyền khai thác, sử dụng có thời hạn theo hợp đồng đã kí từ năm 2004 gồm hơn 20 tựa sách đã được xuất bản từ trước 1975 hoặc dưới dạng bản thảo viết tay mà sinh thời ông đã tận tụy gởi gắm tấm lòng của một nhà nghiên cứu ghi chép và phổ biến lại những nếp xưa được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong số này đến nay Nhà xuất bản Trẻ đã xuất bản được 6 tựa sách trong Bộ sách Phong tục. Đầu năm 2010, Nhà xuất bản Trẻ tiếp tục in ấn và phát hành các tựa gồm: Hương nước hồn quê; Trong họ ngoài làng; Tiết tháo một thời; Trẻ em chơi.
“Tiết tháo một thời” là tập sách nằm trong Bộ “Nếp cũ”, gồm nội dung cả hai cuốn sách đã được in độc lập trước đây là Tiết tháo một thời và Tinh thần trọng nghĩa phương Đông. Qua những câu chuyện kể về cảnh, về người,
5
Toan Ánh
về những sự việc xảy ra ở thời xưa cũ, tác giả muốn đề cao tiết tháo và nghĩa khí của người xưa, với tất cả sự kính trọng và niềm luyến tiếc: “Những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ?”
6
Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ...?
VŨ ĐÌNH LIÊN
Toan Ánh
NGƯỜI VÀ CẢNH
Người là mấy cụ Cử, cụ Đồ, chán đời tranh cạnh, quanh năm sống với rượu với thơ, với quân cờ, với chồng sách cũ, với những vế câu đối đầy chua chát, mỉa mai, với những áng văn phong phú thanh cao đầy thi vị.
Người còn là những nhà võ thuật đã gác kiếm cung để sống an nhàn vì không muốn đem bán rẻ tài ba, phụng sự cho áo cơm mà quên đại nghĩa. Đôi khi những nhà võ thuật ấy nhớ lại một đường gươm cùng dăm ba bạn hữu, cùng đồng ý kiến, cùng xứng tài năng, dưới trăng thanh đi lại vài đường kiếm, rồi cùng nhau hoặc chép miệng thở dài cho thời thế, hoặc ngạo mạn cười đời coi vũ trụ nhỏ không bằng chén rượu sủi tăm.
Những văn nhân, những võ tướng ấy có người chỉ uống rượu để mà say, say đảo điên, say túy lúy, nhưng muốn tỉnh lúc nào thì vẫn tỉnh; có người chỉ quên đời bằng chồng sách, gặp vài trang xứng ý lại ngâm nga có khi thâu đêm suốt sáng, có người lại chỉ thích ngao du hết nơi này qua nơi khác, để gặp lại bạn đồng thời, đồng thanh, đồng khí để uống một chén rượu, để ăn một bữa cơm, để nói một câu chuyện, để rồi lại đi tìm người bạn khác, lại uống rượu, lại ăn cơm, lại nói vài câu chuyện tâm đầu; có người chỉ mải mê gõ đầu vài đứa trẻ
10
Tiết tháo một thời
tuy biết ngày một ngày hai, rồi những đứa trẻ này cũng sẽ từ bỏ giấy bản bút lông để theo đòi chữ Pháp; có người không bao giờ vui, ít cười, ít nói, chỉ thở dài chép miệng, kẻ tầm thường không ai hiểu căn cớ vì đâu; có người cười không biết mỏi, thấy chuyện cười mà cười, thấy chuyện thảm cũng cười. Mỗi người mỗi nết, mỗi nết mỗi lạ, mỗi lạ mỗi khác thường.
Còn cảnh? Ấy là những gian nhà lá xiêu vẹo, ấy là những nơi chùa cổ, ấy là những âm thanh vắng. Phải cảnh ấy mới hợp cùng người ấy.
Người ấy giá có lạc lõng ra nơi phồn hoa đô hội, chắc hẳn người đời phải cho là kỳ quan.
Cảnh ấy giá đem đặt một người đang mải ganh đua, mang nặng mộng công hầu và chắc hẳn người đó phải tự cho mình lạc đến cõi hoang vu.
Cảnh phải xứng người cũng như người cần hợp cảnh mới ngạo mạn nổi thế nhân! Ai biết cho thì biết! Ai không biết muốn bảo là ngông là cuồng cũng được!
11
Toan Ánh
NHỮNG ĐÔI CÂU ĐỐI
Hồi Tôn Dật Tiên chết, nhà chí sĩ Phan Bội Châu có đôi câu đối viếng:
“Bắc dĩ loạn nhi trị, Nam dĩ trị nhi vong, anh hùng trường hận.
“Ngã đương tử tắc tồn, quân đương tồn tắc một, tạo hóa hà tâm.
Trung Quốc loạn mà bình, Việt Nam bình mà mất, hận anh hùng bao nguôi được.
Tôi đáng chết mà còn, Ngài đáng còn mà mất, lòng tạo hóa nỡ sao đang.
Đôi câu đối ấy cũng như biết bao đôi câu đối khác đã làm rung động biết bao tấm lòng yêu nước. Nghĩ mình muốn nói, nói chẳng nên lời, muốn viết, viết không ra chữ, nay bỗng đọc được những dòng đầy cảm khái, những dòng ấy nói hộ mình, viết hộ mình thử hỏi con người trí thức ai là không xúc động?
Thì cụ đồ Hải người làng Xuân Mỹ cũng như trăm nghìn bậc lão nho khác đã lấy làm hả dạ khi biết tâm can người Việt được bộc lộ bởi một người Việt tới năm châu. Đôi câu
12
Tiết tháo một thời
đối ấy phải chăng là phản ánh cái ý muốn, nếu không là của toàn dân nước Việt, là ít nhất cũng là phản ảnh cái ý muốn của toàn thể những bậc túc nho.
Sau những cuộc thất bại của Đông Kinh Nghĩa Thục, từ ấy đến nay, cụ đồ Hải chỉ đành ngậm hờn sống một cuộc đời bình thản bên ngoài, nhưng bão táp bên trong.
Thôi thúc bởi tiếng gọi của quê hương, cụ đồ cũng như biết bao đồng chí khác, toan nghiến răng xoay lại cục thế ngả nghiêng, nhưng tài người có hạn mà vận nước đang suy, hết thất bại này đến thất bại kia, cụ đồ đành cam tâm sống ngậm ngùi thúc thủ ở quê nhà.
Cụ đồ ngày đêm làm bạn cùng vài ba bậc lão nho khác, khi chén rượu khi cuộc cờ, khi bài phú, nhưng cái thứ ưa nhất là câu đối.
Cụ khảo cứu sưu tầm câu đối cũ, cụ soạn câu đối mới. Trong làng, trong tổng, trong huyện, trong tỉnh và có khi cả ngoài tỉnh, rất nhiều người mến tài cụ. Việc hiếu, việc hỷ, ai đến xin câu đối cụ, cụ cũng vui lòng nghĩ giúp, viết giùm. Tuy vậy không phải là ai muốn xin câu đối cụ cũng cho đâu. Cụ thường nói: “Tôi thà hạ bút trên giấy giúp cho người có liêm sỉ còn hơn viết trên lụa cho lũ giá áo túi cơm!”
Nói đến chuyện câu đối, cụ đọc ra rất nhiều, đôi câu đối cổ kim và rất nhiều ý nghĩa.
Thuật truyện về ông Lê Quý Đôn sang sứ Tầu, gặp ngày Lễ Thọ, vua Tầu sai sứ thần các nước đều làm câu đối mừng. Trong các câu đối mừng, đôi câu đối của sứ Việt Nam được tặng khen là hay nhất:
Ngũ bách niên tảo ứng thánh nhân sinh, Nhị Thủy, Hoàng Hà nhất sắc.
Thiên vạn tải dục cầu thiên tử thọ, Tản Viên, Thái Lĩnh đồng thanh.
13
Toan Ánh
“Năm trăm năm sớm ứng điều sinh thánh, sông Nhị, sông Hoàng một sắc”.
“Nghìn vạn tải muốn mong thiên tử sống, núi Tản, núi Thái đồng thanh”.
Cụ đồ Hải, mỗi lần đọc xong mỗi câu đối ông đều nói: “Đấy có phải là hay không. Người Tầu cũng phải nhận là hay. Nhưng nhận ra có điều hơi xấc. Xấc ở chỗ Nhị Hà và Tản Viên đứng trên Hoàng Hà và Thái Lĩnh. Đấy người xưa như thế đấy. Đi sứ mà trong một tiệc mừng cũng như trong những trường hợp khác, bao giờ cũng lấy quốc thể làm trọng, khiến Bắc quốc phải khiếp phục Việt Nam”. Rồi cụ chép miệng nói thêm: “Còn thời bây giờ nghĩ đến mà thêm ngán. Chúng nó chỉ cần nốc rượu cho đầy, miếng bánh cho ngon, nịnh hót cho khéo, còn quốc thể hay nhân cách con người chúng coi rẻ không bằng hạt tấm. Người ta có chửi ngay vào mặt chúng, chúng cũng chỉ dạ dạ vâng vâng, cốt ăn cho đầy tễ, cho đầy mồm.”
Việt Nam vẫn nước Việt Nam
Thịnh suy chuyển biến biết làm sao đây!
Bình sinh cụ đồ Hải rất ghét bọn đang học cũ mà bỏ theo mới. Cụ cho bọn này là thiếu thủy chung. Chẳng thà, bọn trẻ mới lớn lên vô phúc không được biết đến đạo thánh hiền, chúng đi học chữ Pháp đã đành, đằng này đã được khai tâm theo lễ giáo, còn bỏ dở xoay ngang, thử hỏi còn gì đáng chê trách cho bằng. Thế là quên cả lề lối của cương thường Đông Á. Còn nhớ, một ông Phán con một cụ Tú đã qua đời, đến xin cụ câu đối, cụ viết cho:
Quân ân, thần khả báo
Phụ nghiệp, tử năng thừa
14
Tiết tháo một thời
Ơn vua tôi phải báo
Nghiệp bố con cần noi.
Cụ bảo ông Phán: “Đây là câu đối của đức Tự Đức làm đấy. Thấy thầy cũng là con cháu nhà nho lão viết tặng cho mà treo, nhưng thầy cũng nên ngẫm nghĩ về câu đối ấy”.
Câu đối cổ kim cụ nhớ lắm. Chữ cụ viết nét rất sắc, rất đẹp nên người ta rất chuộng câu đối cụ viết. Nhiều người cầu kỳ đi ba bốn ngày đường, đến ngủ để xin cho kỳ được một đôi câu đối cụ viết để treo.
Viết chữ là một nghệ thuật, viết câu đối càng là một nghệ thuật hơn. Mảnh giấy hồng điều dát vàng gập làm sao cho một hàng bẩy tám chữ, chữ nhiều nét, chữ ít nét đều được viết cho xứng bút để mầu mực Quốc Bảo nổi bóng đen trên nền đỏ. Nét chữ của cụ đồ Hải già giặn sắc cạnh. Người hay chơi câu đối nhìn thấy là hiểu ngay. Chơi câu đối của cụ đồ Hải viết đã trở nên một cái thú. Các nhà chuộng cũ đều câu kỳ xin cho được một đôi câu đối treo trong nhà.
Tiếng tăm của cụ đến tai ông Huyện sở tại. Ông Huyện này xưa cũng đã từng theo đôi chút nho học, sau xuất thân trường Pháp chính, nên tuy theo mới mà vẫn thích cũ. Thấy mọi người tán tụng nét chữ của cụ đồ, ông cũng muốn có mấy chữ treo cho hợp thời. Ông bèn mua chè lá, sai đội lệ mang giấy đến để xin cụ mấy chữ.
Ông đội lệ tưởng được quan sở tại nhờ đến là một điều vinh hạnh cho cụ đồ, có ngờ đâu, cụ nhất định từ chối không chịu viết, mặc dầu ông đội lệ đôi ba phen khẩn khoản. Cụ nói: “Quan Huyện nhà theo tây học làm nên, chẳng nên treo câu đối cũ làm gì. Ở công đường cũng như ở tư thất, thầy đội nói với quan nên nhờ người viết cho mấy đôi câu đối chữ tây mà treo. Như thế nó hợp với người với cảnh hơn”.
Sau khi ông đội ra về, thuật lại câu chuyện đó với các cụ
15
Toan Ánh
nho khác, cụ đồ bảo: “Quân nó to gan thật, coi trời bằng vung, dám cho người đến xin câu đối của tôi. Nó tưởng quan huyện là to rồi hẳn, là chơi được câu đối đấy hẳn. Chơi câu đối phải hiểu kinh hiểu truyện của thánh hiền, phải biết nghĩa lý sâu xa của từng chữ. Có rỗi hơi thì tôi viết câu đối dán chuồng trâu, thừa chữ cũng chẳng có đâu viết cho chúng nó.”
Nhân câu chuyện cụ lại nhắc đến một ông hàn đến xin chữ cụ để khánh thành nhà mới. Ông hàn này xuất thân hạ tiện, gặp dịp lại nhờ có quan thầy đề cử nên được thưởng hàn lâm, và được cả Chính phủ Pháp ân thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh. Ông giầu có lừng lẫy cả một vùng. Hồi ấy, làm nhà mới ông đến xin cụ mấy chữ đại tự để khắc hoành phi. Hạng người như thế vốn xưa nay cụ đồ vẫn ghét, cứ kể cụ từ chối thì cũng chẳng làm gì nổi cụ, nhưng cụ lại viết tặng bốn chữ “Cao Cư Lư Xá”. Bốn chữ ấy nghĩa đen rất hợp với ngôi nhà mới, lại có ý tâng bốc bên trong, nên ông hàn rất vui lòng, hỉ hả mang chữ về.
Khi nâng chén chè Long Tỉnh, ông Hàn tặng làm nhuận bút, cụ đồ tự nói: “Cái thằng này mua trà khéo, ngon đây, nhưng nó có hiểu nổi ý bốn chữ mình định tặng nó không?”
Cụ đồ có ý nhắc lại cho ông Hàn bằng bốn chữ “Cao Cư Lư Xá” cái nghề kéo cưa lừa xẻ mà ông ta đã xuất thân. Nói đến chuyện câu đối của cụ đồ, phải nhắc đến thiên giai thoại sau đây:
Hồi ấy, viên Tuần Phủ tỉnh cụ ăn hối lộ bị dân kiện, may là được quan thầy bênh, nên đường hoạn lộ không phải vương víu gì. Tuy vậy đối với đồng liêu, cũng như đối với các thuộc viên và dân chúng ngài hơi ngượng. Ngài muốn đi tỉnh khác, lại sợ mang tiếng thua dân.
Biết cái tâm lý của Ngài, cụ đồ Hải có làm đôi câu đối nôm sau đây:
16
Tiết tháo một thời
Ăn không nuốt được, đòi không trả
Ở chẳng xong rồi, đuổi chẳng đi.
Đôi câu đối này cũng như nhiều đôi câu đối khác, ngày nay trong làng Xuân Mỹ và nhiều nơi nữa, đời hay nhắc đến, riêng có cụ đồ đã ra người thiên cổ. Nhưng dù chết, cụ còn để lại một tiếng thơm với nhiều thiên giai thoại lý thú mà người ta hằng nói lại không quên?
17
Toan Ánh
Lời xưa nói:
TỦ SÁCH CŨ
Vạn khoảnh lương điền Bất như bạc nghệ Thiên kim di tử
Bất như nhất kinh
Có ruộng tốt dẫu rằng muôn khoảnh
Cũng chẳng bằng một mảnh nghề con
Vàng cho con cái hàng muôn
Chẳng bằng kinh sách lưu truyền tử tôn
(lời dịch P.N.Khuê)
Cụ tú Lâm quả đã trọng lời nói của thánh hiền xưa, mặc dù nền học cũ đi sâu vào tàn cục. Cụ chẳng như ai, tấp tểnh lựa gió đổi chiều, đuổi theo bả vinh hoa phú quý. Cụ cam tâm sống trong cảnh thanh bần với gian nhà lá, với bức tường xiêu, bạn cùng những chồng sách cũ.
Sau kỳ thi cuối cùng năm Ất Mão, cuộc đời xoay đổi, lều chõng đành hóa ra vô dụng. Thời mực tàu giấy bản đến đây là hết. Các ông khóa, ông đồ thi nhau “u á u âu ngọn bút chì.” Cụ tú Lâm không thế. Cụ cũng như vài ba bạn đồng song
18
Tiết tháo một thời
khác cố giữ vững đức của người quân tử, thủy chung như nhất với đạo thánh hiền.
Ruộng nương cụ bán dần, tiền của cụ hao hụt, nhưng đạo đức cụ vẫn giữ vững như Vạn Lý Trường Thành. Trong nhà cụ không có vật gì quí giá, nhưng cụ có tủ sách cũ đáng giá hơn những trân châu quý nhất trên đời. Hàng ngày, để quên hiện tại, để tìm lấy đạo lý, cụ chỉ bạn cùng tủ sách. Cụ xem hết quyển này, cụ lật sang quyển khác. Cụ nâng niu cuốn sách như nâng niu một đóa hoa tươi. Phải trông thấy cụ lấy khăn lau bụi trên chiếc bìa sơn cậy(1) mới hiểu cụ giữ gìn tủ sách biết chừng nào.
Thường thường hàng năm, sau những tiết trời nồm, gặp ngày nắng mới cụ mang nong ra phơi sách. Hôm đó cụ cấm từ cụ bà đến người nhà đầy tớ không được qua lại khoảng sân đó. Cụ cho rằng sách vở là tối thiêng liêng, phải thận trọng giữ gìn, không được để lũ phàm nhân tục tử bén mảng lại gần. Lúc phơi sách cụ đặt từng quyển, cụ giở từng trang; gặp đoạn sách hay, cụ ngồi ngay giữa nắng đọc hàng giờ không chán; gặp những trang nhiều bụi cụ vuốt từng tờ, cụ phủi vào từng kẽ sách.
Tủ sách cụ không thiếu mấy quyển. Đủ Tứ Thư Ngũ Kinh; đủ sách kim, sách cổ, từ sách giáo huấn gia đình đến sách bàn về trị quốc bình thiên hạ. Tuy vậy không bao giờ cụ bỏ lỡ dịp nào mà không bồi bổ thêm cho tủ sách: gặp các bạn hữu có sách không dùng đến, cụ khẩn khoản xin, gặp kẻ vô học có sách bán, thì dù túng tiền đến đâu cụ cũng xoay bằng có tiền để mua cho được.
Cụ thường nói: “Nho học ngày nay đến lúc tàn, bọn cổ nho chúng tôi không chịu nhận lấy cái trách nhiệm duy trì đạo thánh hiền còn đợi ai gánh vác cho”.
1 Bìa sơn cậy là bìa sơn bằng nước sơn làm từ nhựa cây cậy.
19
Toan Ánh
Và cụ vẫn nhắc lại với lũ con: “Thầy nghèo, sau này thầy nhắm mắt, thầy chẳng có ruộng sâu, trâu nái, chẳng có dinh cơ đất cát để lại cho các con, nhưng thầy có tủ sách để lại cho các con. Các con phải cố học, cố giữ lấy. Nếu xem mình mà không có tài đức giữ nổi phải tìm người nào yêu sách mà tặng người ta, chớ không được bán rẻ bán đắt đi. Nhược bằng không có ai xứng đáng thì phải đem biếu trường Bác Cổ, người ta giữ cho, để hậu thế còn có ngày đọc đến. Văn tự, học vấn là của chung, không phải của riêng ai. Muốn thành nhân, muốn trở nên bậc quân tử phải theo gương trước, phải đọc sách xưa. Cổ nhân có câu: Hậu tòng tiên giác, giám cổ trị kim là thế”.
Ở đời cụ ghét nhất bọn đi mua sách cũ về làm giấy lộn. Chúng là lũ phá hoại nốt những cái kho cuối cùng của đạo lý Thánh hiền. Gặp chúng vào đến sân là cụ đuổi cho mau, và thường cụ vẫn bảo chúng: “Các người là có tội với thánh nhân. Thiếu Đạo đức của Thánh hiền lưu truyền còn có mấy, nay các người phá dần mòn đi còn gì nữa”.
Tủ sách cũ của cụ rất có nhiều người mượn. Phần đông là các ông Tú, ông Cử, ông Khóa, ông Đồ, muốn nghiền ngẫm khảo cứu vài đoạn văn xưa. Các ông này mượn bao giờ cụ cũng sẵn sàng cho mượn, nhưng cụ rất ghét bọn mượn sách không chịu trả, cố ý quên để làm của riêng mình. Cụ vẫn bảo các bạn bè: “Tủ sách của tôi là sách chung, các cụ muốn xem cứ lấy dùng, có một điều xem xong xin hoàn lại để các cụ khác xem. Và xin các cụ giữ gìn cho kẻo sách thánh hiền bây giờ hiếm, để nát phí đi có tội với cổ nhân”.
Tuy cụ dễ dàng, nhưng không phải ai mượn sách cụ cũng được. Người xem được sách, hiểu được sách lẽ dĩ nhiên là lấy sách của cụ một cách dễ dàng; cả đến người xem chưa thông, hiểu chưa nổi, có ý muốn học thêm cụ cũng cho mượn và cụ còn cắt nghĩa giúp từng chữ, từng câu khi cần đến. Nhưng
20
Tiết tháo một thời
đối với bọn mượn sách để mà mượn, cầm quyển sách không phải để đọc, chỉ cốt làm ra bộ ta đây hiểu sách, cụ chúa ghét. Hạng ấy cầm đến sách chỉ làm cho thẹn sách. Đối với bọn này, bao giờ cụ cũng từ chối. Cụ thường bảo: “Các ngài đọc truyện quốc ngữ nó dễ hiểu hơn, sách nho khó xem lắm”.
Có một hôm, một ông Phán ở tỉnh về chơi làng Xuân Mỹ, được một người bà con đưa đến thăm cụ. Mới gặp ông Phán này cụ đã không ưa, nhưng chẳng lẽ người ta có nhã ý đến thăm mình, mình lại không tiếp chẳng hóa ra bất lịch sự hay sao. Nói chuyện đến tủ sách của cụ, ông Phán tỏ ý rất thích; lúc ra về, ông hỏi mượn cụ vài quyển về Sử ký Việt Nam và Trung Quốc. Cụ ngần ngại, nhưng cũng cho ông mượn; cụ chỉ khẩn khoản ông giữ gìn cẩn thận và dùng xong mang trả cụ ngay để cho người khác xem. Khi nói chuyện với một ông đồ về ông Phán, cụ nói: “Họ tưởng đọc sách nho của mình cũng dễ như ăn cơm, như nịnh hót lũ quan thầy áo ngắn của nhà họ đấy. Rồi cụ xem, hắn cầm sách về để mà cầm, chứ khi hắn mang trả sách giá ta hỏi trong nói những gì, đố hắn biết. Cái đồ “thính thư như tùng, vọng tự như manh” thấy người ta đọc sách cũng đòi đọc sách. Rõ thật “thuyền đua thì lái cũng đua”.
Cụ Tú sở dĩ đối với bọn tây học có ác cảm như thế, là vì cụ cũng giống các bạn cổ nho của cụ. Cứ kể, nếu cụ muốn, có lẽ to ra cũng như ông Án, ông Tuần, mà nhỏ ra thì cũng phải Ký Lục, Thừa Phái rồi, nhưng cụ phải đâu là người muốn ngôi cao bổng nhiều, muốn cơm no áo ấm. Cụ là người thấy thời cuộc đổi thay cũng muốn cố giữ lại cái gì về thời trước. Cái gì đây nó là những chồng sách cũ.
Cụ Tú ngày nay không còn nữa. Con trai cụ, ông cả Kỳ, vì tuân lời cha, nên đã mang cả tủ sách của cụ gởi tặng trường Bác Cổ Viễn Đông.
Hà Nội, 29-12-48
21
Toan Ánh
LŨ TRẺ THƠ
Hán học đã có hồi toàn thịnh ở làng Xuân Mỹ. Hồi ấy trong làng, thôn nào cũng có Ông đồ ngồi dạy trẻ. Dân trong làng, tuy không phải là những tay văn tự, ai cũng đọc thông được tờ sức của quan trên, cũng thảo nổi bản khế ước. Ai ai cũng bảo nhau học lấy dăm ba chữ để ký nổi cái tên mình.
Khoa cử tuy bỏ, nhưng Hán tự vẫn còn dùng trong giấy má. Hán tự vẫn là cần.
Các ông Đồ, ông Khóa, ông Tú, ông Cử, ai xoay kịp đổi bút lông ra bút sắt thì chạy chọt đi chân Thừa phái, Ký lục, Trợ tá, ai không xoay kịp hoặc chẳng muốn xoay theo chữ mới, đành ngồi nhà. Muốn qua thì giờ nhàn rỗi, các ông đọc sách, ngâm thơ và dạy học.
Hình như coi sự gõ đầu trẻ là một bổn phận của nhà nho. Cụ đồ Hải dạy học, cụ Tú Lâm dạy học, ông Khóa Sơn dạy học, cụ đồ Lĩnh dạy học, cụ Cử Cương cũng dạy học. Trẻ con trong làng muốn đi học thật dễ dàng. Bố mẹ chúng chỉ sửa lễ thánh, xin nhập môn ông Đồ, ông Tú nào cũng được.
Xóm Đông, cụ đồ Lĩnh, xóm Già cụ Cử Cương. Lúc nào cũng thấy tiếng trẻ ê a nhai đi nhai lại những sách giáo huấn
22
Tiết tháo một thời
vỡ lòng, hoặc những cậu bé lớn hơn nghiêm trang đọc từng bài trong Tứ thư Ngũ kinh.
Nhân sinh bách nghệ
Văn học vi tiên
Nho sĩ thị trân
Thi thư thị bảo...
Minh đạo gia huấn.
Người ta trăm nghệ tùy thân
Nhưng mà văn học phải cần đầu tiên
Thị thư là báu rõi truyền
Học trò là kẻ sĩ hiền trọng thay
(lời dịch của P.N. Khuê)
“Bác học chi, thẩm vấn chi, thận tư chi, minh biện chi, đốc hành chi. Hữu phất học, học chi phất năng phất thố dã; hữu phất vấn, vấn chi phất tri, phất thố dã...”.
“Học cho rộng, hỏi cho rõ, nghĩ cho kỹ, phân biệt cho ranh, dốc lòng mà làm. Có điều không học, nhưng đã học mà không biết rõ không chịu bỏ; có điều không hỏi, nhưng đã hỏi mà không biết rõ không chịu bỏ...”.
Trung Dung
Nhưng thời kỳ phồn thịnh ấy không lâu. Chữ Hán ngày một ít dùng, người ta đua nhau đi học chữ Tây. Rồi trường phủ mở lớn. Học trò theo học được phát giấy bút, và thỉnh thoảng lại còn được phần thưởng.
Trẻ con làng Xuân Mỹ cũng như trẻ con hàng phủ đua nhau bỏ chữ nho đi học quốc ngữ. Lớp học các ông đồ ngày một vắng, rồi dần dần không còn mấy đứa nữa. Thoạt tiên ông Khóa Sơn đóng cửa lớp. Học trò ông còn mấy đứa chuyển
23
Toan Ánh
sang các ông đồ khác. Rồi cụ đồ Hải cũng nghỉ dạy, cụ Tú Lâm ít lâu cũng hết học trò.
Trong làng chỉ còn cụ đồ Lĩnh và Cử Cương. Hai cụ vẫn bền gan với đạo Thánh tuy số học trò chẳng còn được bao nhiêu. Hai cụ gặp nhau thường nói chuyện: “Đã đành rằng đạo Thánh đến lúc suy, nhưng mình cần phải cố đeo đuổi để gìn giữ lấy cái luân thường đạo lý của Khổng Nho chứ”.
Trường Phủ ngày một mở mang rộng thêm. Số học trò một ngày một đông. Bố mẹ học sinh đua nhau cho con đi học quốc ngữ và nghỉ học chữ nho. Cũng còn nhà còn lưu luyến chữ của Thánh nhân thì ngày thứ năm, chủ nhật lại bắt con học thêm Hán tự. Tuy vậy lũ trẻ tuy có đến học các ông đồ, chúng cũng chẳng chăm chú gì.
Rồi ở làng Xuân Mỹ, ông Cử Cương cũng dồn nốt học trò sang xóm Đông cho cụ đồ Lĩnh. Hai trường dồn một mà số học trò cũng chỉ vỏn vẹn non hai chục đứa. Than ôi! Thời phồn thịnh nay còn đâu! Nhớ lại hồi xưa, buổi học năm bảy chục đứa, ầm ĩ năm gian nhà, nào đọc, nào viết, nào kẻ, nào tô, nào làm câu đối, nào thử phú thơ; ngày nay đâu còn như xưa nữa. Non hai chục học trò, đứa nào đứa nấy còn mũi quệt ngang, học mỗi ngày vài bốn chữ không đủ nhớ. Sở dĩ bố mẹ chúng cho chúng học các cụ đồ là cốt để chúng dạn dần, cho lên học trường Phủ sau.
Cụ đồ Lĩnh cũng biết vậy, nhưng cụ vẫn vui lòng, chuyên tâm vỡ lòng cho lũ trẻ thơ, cụ nói: “Nhân chi sơ, tính bản thiện, lũ trẻ còn non dại mình phải ghi ngay cái đạo đức của Á Đông cho chúng có căn bản, rồi sau này, dù chúng có tiêm nhiễm cái rởm của cuộc đời mới, cũng có một chút gì gìn giữ cho chúng đỡ sa ngã”. Số học sinh vài chục đứa của cụ sút dần, rồi chỉ còn vài bốn đứa. Cụ đồ Lĩnh vẫn kiên gan dạy chúng.
24
Tiết tháo một thời
Cụ căm giận trường Phủ không biết bao nhiêu. Cái bả vật chất của chữ quốc ngữ đã cám dỗ được biết bao đệ tử của làng Nho. Mỗi lần trong làng có một người đậu về Tây học được bổ đi làm, cụ đồ lại thở dài: “Thế là đạo lý còn đâu nữa. Cái mồi phú quí nó đã giết hết cái lương tri của con dân Việt Nam rồi”.
Cụ quyết chí cạnh tranh với trường Phủ. Ngoài vài bốn trẻ nhỏ vẫn theo học cụ và lũ con cụ, lẽ tất nhiên là chẳng học gì chữ quốc ngữ, cụ muốn có thêm học trò. Cụ bắt cụ bà mua thêm giấy mực rồi cụ dụ lũ trẻ chăn trâu trong làng đến học. Ban đầu thấy được giấy bút, lũ trẻ này đến học cũng đông, có lẽ đến bốn năm chục đứa. Cụ đồ Lĩnh nói chuyện với bạn Nho đã có lần kiêu hãnh bảo: “Các cụ xem, đạo Thánh hiền đâu chịu thua lũ bút chì”. Nhưng lũ trẻ chăn trâu sau vì bận việc, và vì thấy đi học không phải là chuyện dễ dàng nên cũng thôi dần.
Cụ đồ Lĩnh vẫn không nản. Đối với những đứa nào đến học, không những cụ phát giấy bút, cụ còn cho ăn một bữa cơm. Cụ bảo: “Ganh nhau với vật chất, phải lấy vật chất mà ganh”.
Sợ học trò bỏ nốt cụ mà đi học chữ Tây, cụ thường dạy: “Ở đời con người chỉ ở cái nhân cách, chỉ ở cái đạo đức. Học chữ Tây là lối học vô nhân vô đạo, các con phải coi chừng”. Nhà cụ đồ cũng như trăm nghìn cụ đồ khác chẳng giầu có gì, lại hàng ngày cho lũ trẻ ăn, nên cụ phải bán ruộng để lấy tiền. Cụ bà phàn nàn, cụ gắt: “Bà tính đạo lý mà mất thì ruộng nương có làm gì!” Cụ cố muốn duy trì Hán học, nhưng số phận xui khiến, công cụ chỉ vô ích. Biết vậy cụ không hề nản. Khi cụ hết tiền, không thể cung cấp bữa cơm cho học trò nữa, chúng lại bỏ cụ dần. Về sau chỉ còn trơ lũ con cụ. Cụ vẫn chẳng nản lòng. Cụ dạy lũ con. Hoặc có khi cụ tự viết son, rồi lại tự tô lên như để nhớ một thời dĩ vãng.
25
Toan Ánh
Ruộng nương cụ bán hết vì lũ trẻ, cụ đâm túng. Cụ bà xoay quanh cũng khó đủ ăn. Hồi ấy, một người bạn học cũ của cụ đồ, vì biết tùy thời, xoay theo Tây đi học, đi làm quan, được bổ về làm Chánh án tỉnh cụ. Biết chuyện cụ, ông Chánh án có ý muốn giúp cụ, cho người mang thư đến, mời cụ ra tỉnh dạy lũ con ông học thêm Hán tự. Đọc thư, cụ đồ cười nói: “Chữ Thánh hiền đâu phải là chữ bán đong. Muốn học đạo Thánh, trò phải đến nhà thầy, chứ có phải như thầy giáo chữ Tây đâu mà muốn bổ đi nơi nào cũng được. Đạo thánh đâu có thế?”
26
Tiết tháo một thời
THANH KIẾM CỔ
Ông ngoại tôi mất đã hai chục năm nay, nhưng mỗi lần nghĩ đến ông tôi, hình ảnh người như còn rõ rệt ngay trước mắt. Thời ấy tôi mới lên chín, lên mười.
Tuy nhà tôi cách nhà ông ngoại tôi một quãng đường xa, nhưng hàng ngày tôi hay đến thăm ông tôi, để nghe ông tôi kể chuyện. Câu chuyện già sao mà hợp với lòng thơ ấu: Trong câu chuyện ông tôi kể phần nhiều là câu chuyện hiếu trung. Ông tôi kể cho tôi nghe nào là quân Pháp sang đem theo giống Mọi đen để tàn phá làng mạc, nào chuyện những bọn mọi đen hiếp tróc đàn bà con gái, nào những chuyện các ông Hoàng Cao Khải, Lê Hoan giúp đỡ Pháp để bình định Việt Nam, nào những chuyện Cần Vương khởi nghĩa của cụ Phan Đình Phùng, của cụ Bang Tôn, của cụ Đề Thường.
Với tuổi thơ, lòng tôi nhiều khi cũng rạo rực vì những lời thuật chuyện đầy kích thích của ông tôi. Nhiều lần u tôi thấy ông tôi kể chuyện cho tôi như vậy, đã từng bảo ông: “Cháu nó còn dại, sao thầy cứ kể những chuyện ấy cho cháu nó nghe!”
Ông tôi đáp lại: “Con không biết trong người nó có chút máu của dòng họ nhà ta, thầy cần phải kể những chuyện này cho nó nghe, để mai sau nó nhớ lấy những lời thầy nói bây giờ!”
27
Toan Ánh
U tôi không nói gì, nhưng xem ý, u tôi không muốn tôi biết những chuyện của người lớn làm gì. Nhiều lần trí non nớt của tôi muốn tò mò biết gì về ông ngoại tôi, tôi hỏi, u tôi đều gạt đi nói rằng: “Con hỏi làm gì. Cậu con đấy chỉ vì biết chuyện cũ của ông đấy!”
Cậu tôi ngày ấy dính dáng đâu vào mấy vụ bãi khóa, mấy vụ truyền đơn, bị kết án mười năm khổ sai. Bà ngoại tôi, khóc đã khô nước mắt, ông tôi vẫn điềm nhiên bảo: “Làm tài trai đền nợ nước, có gì mà bà phải khóc. Bà phải nên mừng vì con nó đã hiểu hai chữ nước nhà!”
Hai chữ nước nhà, ngày ấy tôi có hiểu là gì đâu! Hiểu nghĩa hai chữ nước nhà mà phải bắt giam, đối với tôi thật khó hiểu quá!
Nhưng dần dần gần gũi ông tôi nhiều, tự tôi đã hiểu ông tôi và hiểu rõ cả nguyên do vì đâu cậu tôi phải bị bắt. Một hôm ông tôi lấy trong rương ra một thanh kiếm sắt đã rỉ nhưng trông rất sắc và rất nặng cho tôi xem. Ông tôi bảo: “Cháu có hiểu thanh kiếm này ở đâu không? Thanh kiếm này là của ông Bang Tốn tặng ông hồi trước đây. Cháu nhìn kỹ mà xem những vết gỉ này có phải hoen lẫn máu không? Ấy là máu của bọn lường thầy phản bạn, quên nước, quên vua chỉ nghĩ đến vinh thân phì gia, mà ngày xưa quân của ông Bang Tốn từng bắt gặp giết đi để trừ hại cho dân Việt, để rửa hờn cho lòng người Việt. Chính ông ngày xưa, ông cũng đã được chém vài bốn tên vong ơn bội nghĩa ấy!”
Tôi ngạc nhiên! Người hiền lành như ông tôi lại giết người sao. Tôi ngây thơ hỏi: “Làm sao ông lại chém người ta?” - “Còn làm sao nữa! Thế cháu không nhớ ông nói chuyện về quân Cần Vương khởi nghĩa của ông Bang Tốn, của ông Đề Thường ở Hưng Yên, Thái Bình hay sao? Những toán quân Cần Vương ấy, tuy xưa thất bại nhưng cũng làm cho quân giặc nhiều phen táng đởm kinh hồn. Ông Bang Tốn sau
28
Tiết tháo một thời
bị Tây bắt giết với ông Đề Thường, còn các đồng chí thì tan nát mỗi người một nơi. Ông lại quay về làm dân!” Ông tôi nói, tôi nghe, nhưng sự thật tôi không hiểu hết những lời ông tôi nói, ông tôi tiếp: “Cháu trông thanh gươm có sắc không? Đáng lẽ ông lau những vết máu rỉ này đi, nhưng ông muốn lưu lại để giữ mùi hôi tanh, biết đâu có dịp thức tỉnh những bọn vong ân bội nghĩa khác. Ngày nay ông già, ông không hay múa kiếm, chứ thuở xưa, chẳng đêm nào ông không luyện võ ở ngoài vườn. Vả lại thanh kiếm này, ông phải giấu kỹ, không chúng nó khám thấy cũng lôi thôi”.
Tôi băn khoăn không hiểu vì sao có kiếm trong nhà lại cần phải giấu, và ông tôi sợ ai khám xét. Mặc tôi vẩn vơ nghĩ ngợi, ông tôi nói: “Thanh kiếm này nó là bảo vật của gia đình họ ngoại cháu. Ông sẽ truyền lại cho cậu cháu”. Nói đến đây ông tôi cau mày, rồi tức tối nói: “Nhưng cậu cháu chúng nó còn bắt đi, không biết bao giờ mới về, mà chẳng hiểu có sống để về hay không. Nếu cậu cháu không về, ông vẫn phải lựa người mới dám giao kiếm. Cháu không rõ chứ, một thanh bảo kiếm, phải đâu là ai cũng giữ nổi. Chẳng có người xứng đáng, ông lại đành đào sâu chôn chặt, để lưu lại cho hậu thế mai sau. Thanh kiếm này tốt, bọc kỹ, chôn xuống đất dù mấy trăm năm cũng không hư”.
Rồi ông tôi kể truyện Trương Lương thủa xưa bán kiếm cho Hàn Tín.
Ông tôi nói: “Ngày xưa, Trương Lương vâng lệnh Hán Cao Tổ đi tìm một vị Nguyên Nhung bình Sở. Khi đến chợ Hàm Dương, gặp Hàn Tín, Lương theo về nhà, xin vào yết kiến. Lương nói: “Chúng tôi có ba thanh bảo kiếm, thực là của hiếm có trong đời, ai đáng dâng thì dâng, không đáng dâng đem ra rao giá. Bấy lâu tôi đi tìm anh hùng hào kiệt khắp cả thiên hạ, trước xem tướng người, sau sẽ dâng kiếm. Hiện hai
29
Toan Ánh
thanh kiếm kia đã dâng cho hai người xứng đáng, còn một thanh này, ngày nay gặp tướng quân, biết tướng quân là bậc hào kiệt, muốn lấy lòng thành dâng tướng quân để bảo kiếm gặp được anh hùng”.
Hàn Tín hồi ấy mới làm chức Chấp Kích Lang bên Sở, chưa có tiếng tăm gì. Thấy Trương Lương biết mình tài ba, mừng lắm, đứng dậy vái Lương đáp:
“Tín này từ khi ở Sở, chẳng qua chỉ là một kẻ vô danh, nay tiên sinh có lòng hạ cố, đem thanh bảo kiếm đến đây thực là hân hạnh muôn vàn. Xin tiên sinh làm ơn cho xem qua”.
Trương Lương giở kiếm đưa cho Hàn Tín. Tín cầm lấy đưa ra ánh đèn xem, đích thực là bảo kiếm.
Tôi ngắt lời ông tôi: “Thưa ông sao Hàn Tín lại biết là bảo kiếm?”
- Trông thanh kiếm nó sắc bén xanh thì biết. Vả lại trên mặt bảo kiếm có bài thơ đại ý rằng:
- “Kìa chẳng thấy:
Côn, ngô sắt đúc mù khói bay.
Sáng đỏ rực rỡ lên từng mây,
Thợ giỏi nung đúc mấy năm tháng,
Can Tương kiếm mới ra đời đây...
*
Ánh sáng tuốt ra nhụt xương tuyết
Người đời buộc phải khen kỳ tuyệt
Lập lòe lưỡi bóng như băng hoa
Tròn trặn khâu vàng in bích nguyệt
*
Gặp nay thiên hạ buổi phong trần
Nào đâu hào kiệt để được gần
30
Tiết tháo một thời
Chẳng lẽ báu vàng lưu lạc mãi
Anh tài ai kẻ xứng kỳ trân?”
Hàn Tín bình nhật rất thích kiếm, nay lại gặp kiếm báu, lấy làm ưng ý lắm, bèn hỏi Trương Lương:
“Tiên sinh có ba thanh kiếm báu, chẳng hay hai thanh gươm kia tiên sinh đã bán cho ai?”
Trương Lương đáp: “Chúng tôi đã thưa với tướng quân, là bán kiếm, chúng tôi xem tướng người trước, mới giở đến kiếm sau: gặp người biết, chúng tôi chỉ xin dâng không, không dám nói đến giá đắt rẻ. Nay biết tướng quân là bậc hào kiệt, tôi mới đem kiếm lại đây. Tôi chỉ mừng cho bảo kiếm đã gặp chủ.”
- Đa tạ tiên sinh, Tín này đâu dám tự nhận là hào kiệt. - Xin tướng quân hiểu cho, tướng quân không phải là hào kiệt đâu tôi dám mang kiếm lại đây.
Trương Lương kể cho Hàn Tín về ba thanh bảo kiếm. Một thanh là Thiên Tử kiếm, một thanh là Tể Tướng kiếm, còn một thanh là Nguyên Nhung kiếm. Thiên Tử kiếm có tên riêng là Bạch Hồng Tử Điện, treo lên vách tà ma phải sợ; Tể Tướng kiếm có tên riêng là Long Tuyền Thái A, có tia sáng vọt đến trời! Nguyên Nhung kiếm có tên riêng là Can Tương. Trao kiếm tôi phải xem người. Muốn dùng kiếm Thiên Tử phải đủ tám đức để thay trời trị dân, là:
Nhân, hiếu, thông, minh, kinh, tắc, kiệm, học, Muốn dùng kiếm Tể Tướng cũng phải có tâm đức để phò vua giúp nước, là:
Trung, chính, minh, biện, thứ, dung, khoan, hậu. Còn như Nguyên Nhung kiếm, người dùng cần phải có tâm đức, để trừ loạn, bảo nguy là:
Liêm, quả, trí, tín, nhân, dũng, nghiêm, minh
Trương Lương đã dâng thanh Thiên Tử kiếm cho Lưu Bang tức là vua Hán Cao Tổ, tặng thanh Tể Tướng kiếm cho Tiêu
31
Toan Ánh
Hà, thừa tướng của Lưu Bang. Còn thanh Nguyên Nhung kiếm thì hôm ấy Lương tặng Hàn Tín sau là Phá Sở Đại Nguyên soái của Lưu Bang.
Đấy cháu nghe, người xưa trao một thanh kiếm kén người như vậy. Thanh kiếm của ông ngày nay tuy không sánh nổi với những thanh bảo kiếm xưa, nhưng nó đã từng nhuộm máu kẻ gian, đã từng có một quá khứ cũng gọi là đẹp đẽ, nay để lọt vào tay giá áo túi cơm thì tủi cho thanh kiếm. Tuy nó không quý, nhưng ông cũng đặt cho nó một cái tên xứng đáng. Ông gọi nó là Trí Nguyện kiếm. Dùng thanh kiếm phải là một người có đức biết nghĩ đến nước nhà.”
Ông tôi còn nói nhiều về thanh kiếm cổ ấy, nhưng hồi ấy tôi có hiểu gì đâu. Ngày nay ông tôi đã ra người thiên cổ, và thanh kiếm, trước khi chết ông tôi có tặng cho một người bạn hồi ấy đang hoạt động ở miền biên giới Lạng Sơn.
Chắc người bạn ấy phải xứng đáng dùng thanh kiếm, và chắc người ấy đã làm cho vong linh ngoại tôi được ngậm cười nơi chín suối.
13-12-48
32
Tiết tháo một thời
NHỮNG MIẾNG CÔN QUYỀN
Cụ Đề Thảo chẳng mấy khi ở nhà ngồi suông. Đành rằng từ ngày thời thế đổi thay, cụ chán mồi công danh phú quý, nhưng không phải cụ quay về để sống với ruộng vườn. Ruộng vườn cụ phó mặc đàn bà con trẻ.
Tôi trung không thờ hai chúa, chính nghĩa bao giờ cũng là một. Không muốn làm việc ích cho người hại cho mình, cụ Đề đành ngao du hết nơi này qua nơi nọ để quên thế sự. Cụ đi vắng luôn luôn. Họa mới có khi cụ ở nhà. Ai hỏi cụ đi đâu thì cụ trả lời là đi tìm người tri kỷ. Mà mỗi khi cụ ở nhà thì khách khứa lại đầy nhà, nói năng ầm ĩ suốt ngày đêm. Xem chừng những bạn cụ phần nhiều cũng nhàn nhã như cụ, nghĩa là những người cũng chẳng làm ăn gì, không phải vì bất tài, nhưng chính vì có đức.
Xuất thân con nhà võ, tổ tiên cụ đã từng giúp vua phò nước, cụ cũng lại chuyên nghề võ, những mong đem tài cung kiếm thỏa chí nam nhi, nhưng không ngờ số trời vận nước, cụ đành bỏ dở công danh vì không muốn đen thân bẩy thước phụng sự áo cơm suông.
Có những đêm cụ cùng bằng hữu, dưới ánh trăng thanh, trong thửa vườn rộng, cùng nhau ôn lại mấy đường gươm, đi
33
Toan Ánh
lại mấy bài quyền để nhớ lại một thời oanh liệt đã qua. Tiếng gươm đi vun vút, phải chăng chỉ là một bóng mờ của một quá khứ vẻ vang. Mấy ông bạn già lúc này đầy quắc thước. Những món côn quyền đã khiến gân các cụ thêm dẻo, mắt các cụ thêm sáng, và nguồn sinh lực các cụ dồi dào!
Sau một bài võ, các cụ cùng nhau trao đổi với nhau vài ý kiến về võ nghệ, rồi dần dà về thế thái nhân tình. Các cụ đồng lòng khen những bậc lão nho khí khái không màng vinh hoa phú quý, cam sống trong cảnh bần hàn để khỏi ô danh và các cụ đồng thanh bài bác lũ ăn xổi ở thì, thấy lửa đỏ là đâm đầu đến. Bàn đến những bọn ấy, có cụ bảo nên lấy của chúng nó để chia cho người nghèo khó. Cứ kể thế mang tiếng là ăn cướp, nhưng ăn cướp của bọn ăn cướp để phân phát cho kẻ cần dùng chỉ là một cử chỉ nghĩa hiệp.
Sau mỗi cuộc thảo luận của các nhà võ già ấy, thường thường trong vùng hay có nhà mất cướp. Có ai dám ngờ đâu những tay lão anh hùng ấy, vì những người này vẫn nghèo, vẫn túng như xưa. Chỉ có một vài nhà nghèo trong vùng tự nhiên có người vứt bạc vào sân. Của trời cho sao lại chẳng tiêu?
Và những nhà mất cướp hoặc mất trộm, không muốn lôi thôi vẫn thường khai là chẳng mất gì. Khổ chủ không kêu, quan nha tội gì mà truy nã ai, cho nên phần nhiều những vụ cướp ấy không bao giờ tìm ra thủ phạm.
Cụ Đề Thảo thường hay đi bài Mai Hoa quyền rất đẹp: một đường quyền thành tám, tám lần tám sáu mươi tư, tay cụ đấm, chân cụ đá, vù vù như gió thổi, như lá rụng ào ào. Ai còn dám bảo cụ là một người già. Cụ quay trước, cụ lùi sau, đường nào, đường ấy, gọn ghẽ lanh lẹn, người đứng xem phải ngây người tán thưởng.
Quyền cụ đi đẹp, đường kiếm cụ đi lại càng hay. Lưỡi gươm loang loáng, xuất quỷ nhập thần, trông như tuyết sa,
34
Tiết tháo một thời
nghe như mưa trút. Cụ thường nói: “Bây giờ thời buổi Tây Tầu chúng nó lấy súng đạn đè người, chứ không có súng đạn, một tay tôi với một lưỡi gươm, tuy già tôi cũng địch nổi một trăm thằng chúng nó”.
Cụ kể chuyện lại, có nhiều lần, một mình cụ phải địch với mấy chục quân cướp mà cụ cứ bình tĩnh khiến chúng phải bỏ chạy. Và cũng có khi trong cơn nguy biến cụ phải nhảy truyền nóc nhà chạy trốn. Đối với cụ một bức tường vài bốn trượng, chỉ nhún mình là nhảy qua. Bởi thế nhiều khi cụ lăn mình vượt từ sân trước tới sân sau của những nhà cụ qua thăm như bỡn.
Tuy đôi khi cụ thường cùng mấy vị hảo hán già lấy của người giầu cho kẻ khó, nhưng bình sinh cụ cũng như các bạn rất ghét bọn trộm cướp. Cụ bảo: “Chúng tôi đi lấy của người ta khác. Của chúng nó kiếm ăn một cách phi nghĩa, mình chẳng lấy, trời cũng chẳng cho chúng nó giữ. Đối với bọn bóp hầu bóp cổ đồng bào, đối với lũ tham quan ô lại, đối với bọn phản bạn lừa thầy lại nhiều tiền sẵn của, không lấy của chúng mà phân phát cho người nghèo cũng phí đi. Vả chăng tiền của ấy, có để chúng nó cũng chẳng giữ được nào. Chúng tôi lấy của chúng nó, nhưng chúng tôi có dùng cho chúng tôi một mảnh kẽm nào đâu. Cần phải giúp người khác thì chúng tôi lấy đấy thôi. Còn bọn kẻ cướp lại khác. Thấy của người ta chúng tối mắt lại, muốn lấy làm của mình. Người ta làm ăn lương thiện mới có tiền, đó là cái công trời thưởng, không ai có quyền lấy của người ta.”
Bởi vậy, nhiều lần trong làng hoặc các làng lân cận có cướp là cụ đi điều tra, tìm bắt bằng thấy thủ phạm. Có khi chính cụ thân chinh ra đón đường đánh bắt. Bọn cướp đối với cụ rất là kiêng sợ. Chúng biết cụ võ nghệ cao siêu, chúng lại biết lòng ngay thẳng của cụ, nên chúng cũng ít hành sự trong vùng cụ ở.
35
Toan Ánh
Dân làng mến cụ lắm, mong cụ ở nhà luôn luôn để bảo vệ cho làng. Chỉ cần biết cụ có mặt ở làng là bọn cướp bảo nhau không dám bén mảng đến.
Nhưng cụ Đề Thảo phải đâu là người yên sống được ở một nơi, dù nơi đó là quê cha đất tổ, dù nơi đó có vợ ngoan, con thảo, trời còn bớt cho một chút tuổi già, sống nhàn hạ khiến người sinh quẩn. Vả chăng nếu cứ ở làng còn có đâu những người tri kỉ để đàm đạo, để ôn lại những chuyện Cần Vương, để bàn đến những chuyện cho dịu bầu máu nóng.
Cụ Đề Thảo cần phải đi, đi để gặp những bạn già cùng tuổi, cùng tâm trí để cùng uống rượu, cùng múa gươm, cùng luyện lại một bài Mai hoa quyền, hoặc một bài Bát bộ liên hoa quyền.
Cụ đi thăm bạn, rồi lại về nhà trông qua con cháu. Cứ thế, cứ thế cho đến lúc hai tay buông xuôi, hai con mắt khinh đời nghiền nhắm lại.
Phải chăng sinh bất phùng thời là vậy.
19-12-48
36
Tiết tháo một thời
HAI CHỮ TRUNG HIẾU
Khi đọc bài “Chiêu hồn nước” của Phạm Tất Đắc, cụ Cử Cương nói:
“Ừ có thế chứ, tưởng trong bọn thanh niên ngày nay chúng còn mải mê về vật chất, còn tìm đâu cho thấy một tâm hồn yêu nước nữa? Thế này thì trời chưa nỡ diệt giống nòi dân Việt, thế này thì tổ tiên dân Việt ắt cũng không đến nỗi uất hận dưới cửu tuyền.”
Rồi cụ ngâm:
“Cũng thì nhà cửa giang san
Thế mà nước mất nhà tan hỡi trời
Nghĩ lắm lúc đang cười hóa khóc
Muốn ra tay ngang dọc, dọc ngang
Vạch trời thét một tiếng vang
Đem thân tan với giang san nước nhà
Đồng bào hỡi con nhà Đại Việt...”
Trên đời cụ Cử, điều cụ trọng nhất là đại nghĩa. Giầu sang phú quý, cụ coi là những vật phù hoa. Tiền tài dù có bao nhiêu
37
Toan Ánh
rồi cũng mất, sang trọng đến tột bực cũng chẳng bền. Có bền chăng với muôn đời ngàn thủa ấy là Đại Nghĩa. Theo ý cụ, cái đại nghĩa gồm có hai chữ hiếu trung.
“Phi phụ bất sinh
Phi quân bất vinh
Không cha hồ dễ sinh ai
Không vua hồ dễ mấy người vẻ vang”
Nhưng làm người quân tử phải lấy trung thay hiếu.
“Thần khả báo quân ân
Tử năng thừa phụ nghiệp
Ơn vua tôi phải báo
Nghiệp bố con cần noi”.
Cha có trung với vua thì con mới hiếu với cha. Một người cha không có liêm sỉ, không coi nghĩa quân thần là trọng thì mong sao con giữ được tròn đạo hiếu.
Thời xưa ông Nguyễn Trãi tiễn cha là ông Nguyễn Phi Khanh, bị quân nhà Minh giam bắt, ông Phi Khanh có khuyên con lấy hiếu làm trung.
Thường thường, nhắc đến truyện ấy, cụ Cử Cương vẫn đắc ý đọc cho con cháu nghe mấy câu thơ của ông Á Nam đầy cảm khái:
Cha xót phận tuổi già sức yếu
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay
Thân lươn bao quản vũng lầy
Giang san gánh vác sau này cậy con
Con nên nhớ tổ tiên thuở trước
Đã nhiều phen vì nước gian lao
Bắc Nam bờ cõi phân mao
38
Tiết tháo một thời
Ngọn cờ Độc Lập máu đào còn đây
Kìa Trưng Nữ ra tay buồm lái
Phận liễu bồ chống với cuồng phong,
Giết giặc nước trả thù chồng
Nghìn thu tiếng nữ anh hùng còn ghi.
Kìa Hưng Đạo gặp khi quốc biến,
Vì giống nòi huyết chiến bao phen.
Sông Bạch Đằng phá quân Nguyên
Gươm đeo chính khí nước rền dư uy
Coi lịch sử gươm kia còn tỏ
Mỡ dư đồ đất nọ chưa tan
Giang san này vẫn giang san
Mà nay sẻ nghé tan đàn vì ai
Con nay cũng một người trong nước
Phải nhắc cân gia quốc đôi đường
Chí trai hồ thỉ bốn phương
Sao cho khỏi thẹn với gương Lạc Hồng
Giang san này vẫn giang san
Mà nay sẻ nghé tan đàn vì ai.”
Còn vì ai nữa: Vì lũ giá áo túi cơm, vô liêm, vô sỉ chứ vì ai. Giá cụ Cử muốn cửa cao nhà rộng, muốn xuống ngựa lên xe, có lẽ không khó. Đã bao lần, những bậc có danh vọng, đến tận nhà cầu cạnh, mời cụ ra giữ một trọng trách, nhưng mỗi lần là một lần cụ từ chối. Nói chuyện cùng bạn hữu cụ bảo: “Họ tưởng lấy mồi chức trọng quan sang mà dử được tôi hay sao? Họ cần phải biết nhục với tổ tiên chứ. Tôi thẹn không nói được như đại tướng Trần Bình Trọng đã nói với quân Nguyên: “Thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vua đất Bắc.” Sống như thế này cũng là một cái sống vong bản rồi.
39
Toan Ánh
Lại còn muốn dê diếu với hậu thế hay sao?” Cụ có ba người con trai, người con cả bị rắc rối về mấy vụ bãi khóa 1924, bị bắt giam rồi bị kết án đầy đi Lao Bảo. Được tin con đi đầy cụ cố ra Hà Nội thăm con. Gặp con cụ khuyên:
“Thôi con yên lòng. Đó là ý trời và là vận nước. Có con như thế, cha khỏi hổ với tiền nhân. Đấy cũng là góp mặt với sơn hà, gây một vết trước cho người sau theo.”
Cụ không buồn, nhưng cụ chỉ tiếc là con cụ có chí lớn nhưng không đạt!
Rồi đến năm 1930, vụ án Yên Bái bùng ra. Biết bao nam nữ thanh niên Việt Nam bị bắt, bị giết, bị giam cầm. Trong số đó, có cả thằng con trai thứ hai của cụ, năm ấy mới mười tám. Lúc con cụ bị bắt, cụ uống rượu thật say. Khi cụ bà phàn nàn, cụ bảo: “Dòng máu nhà ta thế thì làm thế nào được. Âu cũng là một điều đáng mừng. Tôi chỉ tiếc ngày nay tôi đã già rồi”.
Cụ còn thằng con trai thứ ba năm ấy mới mười bốn, cụ luôn bảo: “Mày còn nhỏ phải cố học, để mai sau thay thế hai anh mày”. Cụ kể cho con trai nghe câu truyện Nhạc Phi đời Tống khi nghe lời mẹ quỳ trước bàn thờ để mẹ thích vào lưng bốn chữ “Tận Trung Báo Quốc” Cụ bảo con: “Thầy chẳng cần thích vào lưng mày chữ gì, nhưng mày phải nhớ đến cái thù của hai anh mày, của bố mày, của nòi giống mày.” Rồi cụ đọc cho con nghe bài thơ về Nhạc Phi, bắt phải nhẩm lấy làm lòng:
Người Nhạc Phi tướng tài nhà Tống
Tuy làm nên danh tiếng ngôi cao
Dốc lòng thờ mẹ hiếu sao
Sớm khuya hầu hạ ra vào dám sai
Thuở nhỏ khi giặc ngoài xâm lấn
Muốn cho con tròn phận thờ vua
40
Tiết tháo một thời
Bắt con quỳ trước bàn thờ
Nhạc bà thích chữ hàng giờ trên lưng
Thích bốn chữ “Tận, Trung, Báo, Quốc” Dù thịt đau da nát hề chi
Hiếu trung muôn thuở còn ghi
Đời này ai dám Nhạc Phi sánh tầy.”
41
Toan Ánh
MEN SAY
Ông Tú Khiêm người làng Hoàng Nông, huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình. Ông là con trai cụ Bang Tốn, người đã khởi quân Cần Vương tại Hưng Yên và Thái Bình chống lại với quân Pháp.
Trong người vốn sẵn dòng máu ái quốc, ông Tú Khiêm khước từ mọi ân huệ của Chính Phủ Pháp. Hoàng Trọng Phu đã đôi ba phen cho người đến mời ông ra giữ một chức gì.
Đối với ông, dù chức trọng quyền cao đến đâu mà ra luồn vào cúi thì công hầu mà chi! Ông phải đâu là người có thể khom lưng, há miệng để khen dở là hay, bảo xấu là tốt được.
Bởi thế nên ông đối với người anh em thúc bá với ông, con trai cụ Đề Thường, người đồng chí huynh đệ của cụ Bang Tốn thủa xưa, vẫn có một ác cảm.
Cụ này sau khi đậu phó bảng, nhận một chân dạy học tại trường Trung học Bảo hộ, rồi sau đến những cuộc cải cách ở học giới, ông ra giữ một chức học quan.
Nếu cụ này vì hoàn cảnh mà chịu giữ một chức học quan để mong cải thiện ngành giáo dục thì ông Tú Khiêm đã hoàn toàn lãnh đạm với cuộc đời. Ngày nay ông Tú chỉ lấy chén
42
Tiết tháo một thời
rượu làm quên. Ông say suốt ngày, say suốt đêm. Có rượu uống say đã đành, không rượu ông cũng say.
Ông thường nói: “Đời say cả, chỉ một mình ta tỉnh, ta cũng dại như Khuất Nguyên xưa! Âu là ta cũng say. Nhưng cái say của ta là cái say của người quân tử. Họ say bả vinh hoa phú quý, bán nước cầu vinh, thì ta say men say rượu. Say bả vinh hoa phú quý có bao giờ tỉnh được, còn như ta say, ta muốn say hay muốn tỉnh đều tự ý ta”.
Động đến hơi rượu là ông Tú say. Dần dà, ông chẳng cần uống rượu nữa, ông cũng say. Muốn say lúc nào ông chỉ cần chén nước lã, nhấm nháp với vài quả ổi xanh chấm muối là một lát sau ông đỏ gay mặt, sặc mùi hơi rượu. Có lẽ chất rượu ngấm ngầm trong người ông, nên chỉ cần nghĩ đến rượu là có hơi men rồi.
Mỗi lần ông say là một lần ông khinh đời ngạo thế. Khi người anh em thúc bá của ông đậu phó bảng, về làng vinh quy có hai vợ tấp tểnh đón chồng ở tỉnh, ông Tú Khiêm thấy như thế là dở có làm tặng ông phó bảng câu đối:
“Chị đôi giầy mõm nhái, em đôi giầy mõm nhái, bốn chân kéo lê đất.”
“Hương một cờ đuôi nheo, hội một cờ đuôi nheo, hai cọc chổng lên trời”
Ông tú rất lấy làm đắc ý về đôi câu đối.
Sợ người làng không hiểu đôi câu đối của mình, ông giải thích:
“Những hạng người lăn lưng đi cầu cạnh, quên nguồn gốc tổ tiên có hơn gì loài vật.”
Ông Tú có cô con gái. Người không đẹp, nhưng cũng không quá xấu. Nói chuyện về con ông bảo: “Gả chồng cho con, tôi không kén hàng tham, phán, tôi chỉ muốn con tôi lấy một
43
Toan Ánh
người chồng quê mùa, nhưng người chồng đó phải hiểu mình là con cháu Lạc Hồng. Phải hiểu tổ tiên mình xưa có những đức Quang Trung.”
Trong một cơn say rượu, ông đã ngạo thế khinh đời đem con gái ra làm cuộc xổ số. Ông phát cho trai làng, mỗi người một vé số, rồi ông rút thăm.
Nhà ông ở trong làng Hoàng Nông, nhưng ông cho là ở chung đất với người anh em thúc bá sợ người ngoài nhầm tưởng coi ông cũng là một kẻ thường nhân, nên khi ông có tiền, ông đã đào móng xây nhà ở giữa cánh đồng, ông đào hào như một bức thành. Không hiểu đó là một hiện tượng về vật lý học hay đó là một điềm báo trước, nước ở trong hào đêm đêm lấp lánh tỏa ra ánh sáng như những ngôi sao. Người làng lấy đó làm lạ cho rằng đấy là một điềm ứng vào nhà ông, và ông cũng coi là thế: “Tổ tiên tôi ngày xưa đã từng phò vua giúp nước, đã từng chống giặc với xâm lăng, ngày nay tôi tự lấy làm hổ thẹn, không được xứng với dòng máu của mình”. Nói chuyện thế là ông nói ngay đến người anh em thúc bá, ông ray rứt: “Đấy, bố nó ngày xưa là chú ruột tôi, đã từng cầm quân chống lại với quân Pháp, rồi bị giết ở Hải Dương, mà nó bây giờ vùi đầu vào bả công danh mượn, có đáng nhục hay không.”
Ông có làm một đôi câu đối về ý nghĩa ấy. Không biết câu đối ấy nói thế nào, nhưng khi ông đem dán trước cửa nhà thờ họ, người anh em thúc bá của ông đến lễ giỗ xong đã rỏ nước mắt khóc. Chuyện ấy ngày nay vẫn còn là một giai thoại ở làng Hoàng Nông.
Sự thật, ông Tú Khiêm hơi khắc nghiệt đối với người anh em thúc bá của ông. Cụ này cũng là một bậc có tài, muốn đem tài trí để giúp nước trong buổi giao thời và để mong có thể ngăn cản được bọn lợi dụng thời cơ hại dân hại nước.
44
Tiết tháo một thời
Năm 1937, ông có ý chiêu tập những tấm lòng ái quốc để mưu đồ tiếp tục công cuộc của cụ Bang Tốn xưa. Nói với các đồng chí ông bảo:
“Ngày khởi nghĩa, tôi phải bắt cha con thằng bảng chọc tiết lấy máu tế cờ để làm răn cho kẻ khác”.
Than ôi, ngày khởi nghĩa của ông chưa tới, việc kín của ông đã bị bại lộ.
Lẽ tất nhiên việc đó ra Tòa. Cả hai bố con ông đều bị phạt khổ sai. Ông đã chết ở trong lao, mang theo cái mộng không thành.
45
Toan Ánh
RƯỢU THƠ
“Trăm năm thơ túi rượu hồ
Nghìn năm thi sĩ tư đồ là ai?
Lý Bạch thủa xưa càng say, thơ càng hay; và thi sĩ Tản Đà cũng vậy, mỗi lần hơi men nồng bốc lại một lần sáng tác ra dăm bài thơ tuyệt phẩm.
Ai cười cũng mặc, ai bảo sao cũng thây. Thì:
Trời say trời cũng đỏ gay
Đất say đất cũng lăn quay ai cười.
Ngày nay con nhà thơ rượu nào ai quên nổi thi sĩ Tản Đà. Nói đến thi sĩ nghĩa là nói đến rượu đến thơ. Người đại biểu cuối cùng của lối thơ cổ điển Việt Nam tuy đã chết, nhưng người đời có đâu quên nổi nhà thơ ấy.
Nước gợn sông Đà con cá nhảy
Mây chùm non Tản cái diều bay.
Làng Khê Thương, huyện Bất Bạt tỉnh Sơn Tây, ở dưới núi Tản trên sông Đà. Phong cảnh hùng vĩ của nước non ấy đã chung đúc nên cái tâm hồn phóng đạt của nhà thơ.
46
Tiết tháo một thời
Có lẽ vì cuộc đời đục cả, nên muốn tìm bạn trong sạch chỉ thấy ở nàng thơ. Mà muốn tìm nàng thơ chỉ trong lúc say, nàng thơ mới xuất hiện bên nhà thơ.
Rượu thơ mình lại biết mình
Khi say quên cả cái hình phù du!
Ba vạn sáu nghìn ngày có là mấy chốc! Có lẽ vì nghĩ thế nên nhà thơ của thế hệ vừa qua đã say để quên tục. Muốn thanh cao chẳng được phần thanh cao;
Theo đuổi mộng công danh phú quý, cầy cục hết cửa này qua cửa khác để mong chút ơn huệ thì hỏi còn thanh cao sao cho được. Thi sĩ Tản Đà không muốn bán mình trong cõi hồng trần tục lụy, phải tìm phần thanh khiết trong rượu thơ.
Có lẽ ở đời không thấy ai là xứng với tính tình cao thượng của mình nên nhà thơ muốn tìm bạn ở thiên cung.
Nhưng ở thiên cung ai kén rể bao giờ.
Chức Nữ tảo tùng giai tế giá
Hằng Nga bất nạt bão phu miên!
Thôi thì trên thiên cung không kén rể, thi sĩ đành tìm lấy người hiền nơi trần tục.
Trong những người quen biết không có ai, âu đành tìm bạn ở người không quen biết:
Người đâu tá quê nhà chưa tỏ
Tuổi bao nhiêu tên họ là chi?
Đã sinh cùng nước cùng thì
Cùng ta không biệt mà ly hỡi mình?
Hỏi cùng núi mây xanh chẳng biết
Hỏi cùng sông nước biếc không hay,
47
Toan Ánh
Sông nước chảy, núi mây bay
Mình ơi có biết ta đây nhớ mình!
Thi sĩ Tản Đà rất ghét những hạng lăm le tấp tểnh mồi phú quý. Trong bài “Vợ chồng người bán than”, ông đã lấy lời người bán than mắng vợ không biết lấy cảnh nhàn nhã tâm hồn làm sướng, lại muốn vùi đầu vào chỗ bạc tiền:
Sướng như thế mà không biết sướng!
Và tự ông thấy ông cũng không phải là thua kém chi đời, nhưng có khác là ý ông không muốn đem thân vào chốn bụi trần mà chi.
Nghĩ mình cũng đấng trượng phu
Tây nho chữ nghĩa kém thua chi đời.
Cũng may cho văn chương nước Việt là ông biết cái sướng tinh thần, nên ông đã bồi bổ cho kho văn chương nước nhà được biết bao nhiêu giai phẩm.
Giá ông cũng chen vai thích cánh với đời, cậy cục đi tìm sung sướng sang trọng thì còn lưu truyền gì cho hậu thế, thì ngày nay còn ai nhắc nhở đến ông. Có lẽ ông sẽ phàm phu hơn bọn tham quan ô lại, hơn bọn bán tước buôn quan.
Nhưng đối với ông bả vinh hoa phú quý có nghĩa lý gì, và chẳng bao giờ ông nghĩ đến. Ông chỉ nghĩ đến rượu, chẳng có thế mà trong lúc ở chơi nhà bạn, ông cuốc cả sân gạch của người ta lên để trồng rau húng, lấy thứ nhắm với tiết canh vịt. Và lúc ông đã say rượu rồi, ngoại vật đối với ông thật là bé nhỏ. Trong khi người đời vật lộn để cạnh tranh nhau quyền lợi, ông cam sống nghèo nàn để giữ tròn thanh khiết, để giữ vững thiên lương.
Muốn có tiền mua rượu ông viết giúp vài tờ tuần báo ở thủ đô, thơ của ông được đặc biệt hoan nghênh.
48
Tiết tháo một thời
Muốn thế lấy mấy câu thơ của cụ Lê Đại mà áp dụng vào ông được:
Nghiên chưa cạn mực, tiền chưa cạn
Sân hãy còn hoa, rượu hãy còn.
Thi sĩ Tản Đà chết trong cảnh nghèo nàn. Người đời đã tốn bao giấy mực để luyến tiếc ông.
Khóc ông là khóc một nhà thơ, mà cũng là khóc một tâm hồn cao quý đã cam sống thanh khiết, không chịu đem mình luồn lụy lấy vinh hoa.
Khi ông chết, Chính phủ Pháp đã trợ cấp cho vợ góa của ông bằng cách giúp bà Tản Đà nhiều cách. Phải chăng đây là cách Chính phủ Pháp kính trọng một tấm lòng yêu nước của người Việt Nam.
Tiếc ông là tiếc một thiên tài không còn nữa, nhưng cũng là tiếc một chí khí cao cả của người Việt.
Bức dư đồ rách ai bồi,
Báo An Nam chết ai rồi lại ra?
49
Toan Ánh
LÒNG NGƯỜI CHIẾN SĨ
Chiều nay trời ngẩn ngơ sầu,
Lòng không sao cả dưng đâu bỗng buồn. Nặng nề mây kéo hoàng hôn,
Gió già heo hắt sông cuồn cuộn trôi. Vọng trông về phía xa xôi
Rét mang Tết lại quê người quạnh hiu! Nào đâu giọng nói thân yêu,
Mẹ già tựa cửa chiều chiều đợi mong! Nào đâu thiếu phụ trông chồng, Ngày tàn năm hết tin chồng ai trao! Nào đâu dưới bóng hoa đào,
Con thơ vắng bố gọi nào ai thưa! Nào đâu những buổi năm xưa?
Ngày vui đầm ấm dần mờ chia ly! Ôi biệt ly, hỡi biệt ly,
Phút giây ngắn ngủi nhớ ghi muôn đời! *
50
Tiết tháo một thời
Kìa chàng chiến sĩ nực cười,
Phải đâu là lúc tim tơi bời buồn.
Hai vai gánh nặng đang còn,
Làm trai trả nợ nước non sá gì.
Đứng lên hăng hái mau đi,
Nghiến răng mím lợi quyết vì non sông,
Sao cho chính nghĩa thành công,
Phất cờ Độc Lập thỏa lòng nam nhi.
...
Trong một đêm nơi lữ thứ, lúc đông về, người người rộn rã sửa soạn đón xuân sang thì trong lòng ông Khóa Bảng cũng rạo rực nhớ đến quê nhà, đến mẹ già, đến vợ dại con thơ.
Trong đời ông Khóa, cái mộng ông theo đuổi là đem thân hiến cho nước nhà để nước nhà bước đến chỗ vinh quang. Vốn là con cháu nhà nho, hiểu thấu đạo thánh hiền, ông lấy trung làm trọng. Thời cơ chưa đến, ông đành ngậm ngùi ở quê hương, trông tháng ngày mòn mỏi. Những lúc được hầu chuyện các ông Cử, ông Đồ là những lúc lòng ông phấn khởi, vì ở trong những tấm lòng già kia ông cũng nhận thấy một nhịp tơ rung động. Các cụ thường khuyên ông: “Thầy Khóa ạ, phải kiên gan mới được, ở đời việc gì cũng vậy, phải biết đợi chờ: trời chưa triệt nước Việt ta đâu. Còn có ngày ngọn cờ độc lập phấp phới với năm Châu.”
Ngày ngày ông đọc sách, nghiên cứu nghiền ngẫm đến công việc phải làm, khi cơ hội tới.
Năm ấy là năm 1927. Phong trào quốc gia thanh niên ngấm ngầm nhóm ở các nơi. Rồi ông Khóa được liên lạc với các đồng chí của Nguyễn Thái Học.
Sau bao nhiêu ngày chờ đợi, đã đến lúc ông được hoạt động để mưu đồ việc lớn. Làm việc cho chính nghĩa, ông quên cả gia đình.
51
Toan Ánh
Sức người có hạn, việc khó không bờ; ý người đã vậy còn vận nước thì sao? Năm 1929, việc vỡ lở, ông đành bỏ quê nhà trốn tránh đi nơi khác.
Vùng Thái Bình của ông ở là vùng mà viên Tổng Đốc Vi Văn Định truy nã gắt gao các đồng chí của ông nhất. Sau cái chết của Lương Duyên Khải và cái chết bí mật của giáo Kỳ, ông và các đồng chí không bao giờ dám quay về nơi đó nữa.
Trong lúc tha hương đã bao phen con tim dồn dập muốn trở lại quê nhà thăm mẹ già, vợ dại và lũ con thơ, nhưng tiếng gọi xa xăm của đất nước thúc giục, ông đành nghiến răng quên cả cái tổ êm ấm, lang thang sống cuộc đời lữ thứ.
Ông ra công muốn hàn gắn lại công việc đã vỡ, nhưng những tin các đồng chí bị bắt dần mòn, vụ xử tử ở Yên Bái làm ông đôi lúc cũng chùn gan. Mặc dầu, ông không nản chí. Ván cờ này thua, ông xoay ván khác.
Biết bao phen vào sinh ra tử: gặp những bọn phản bạn lừa thầy, gặp những phường tham của định bắt ông để lấy thưởng, ông đều trốn được. Mỗi lần như vậy lại càng làm ông hăng hái hơn xưa.
Việc càng khó càng làm ông Khóa hăng hơn. Ông đi suốt mấy vùng Bắc Ninh, Phả Lại, Hải Dương, Ninh Giang để liên lạc các anh em cũ. Mỗi một tin các anh em bị bắt đưa tới ông, là một lần ông thở dài, nhưng không hề chán nản.
Anh em bị bắt một ngày một nhiều, và một ngày một hết. Năm ấy tết lại đến sau lưng, nghĩ đến quê nhà, giọt lệ anh hùng bỗng trào qua mi mắt.
Cải trang là một ông lái thuốc lào, ông vào trọ nhà một người vùng Bắc Ninh. Trông thấy cái cảnh gia đình êm ấm của người ta, ông chạnh nhớ đến cảnh mình. Ông làm bài thơ để tả nỗi buồn riêng, nhưng phút chốc, ông sợ mềm gan người chiến sĩ, ông cố làm thêm tám câu đoạn cuối.
52
Tiết tháo một thời
Ông khe khẽ ngâm lại bài thơ. Lòng anh hùng khôn át nổi mối tình nhà. Ông nghẹn ngào cố nín tiếng thở dài chua xót. Sáng hôm sau, ông từ giã nhà trọ ra đi từ sớm. Không ai biết ông đã đi đâu, và vợ con ông ở vùng Duyên Hà, tỉnh Thái vẫn hàng ngày mong đợi tin chồng tin cha. Phải chăng người chiến sĩ ra đi theo tiếng gọi của nước nhà đã nhãng quên con thơ vợ dại?
53
Toan Ánh
SƯ CỤ TRÊN CHÙA
Mùa hạ năm 1930. Sư cụ chùa Xuân Mỹ đang cùng một thí chủ trong làng đánh dở một ván cờ. Cờ sư cụ sắc nước hơn, nên người đã dồn đối phương vào một thế bí.
Bỗng một sư bác trạc ngoài ba mươi tuổi ở đâu về có vẻ vội vàng, đến gần sư cụ, ghé vào tai người nói nhỏ mấy câu. Nghe xong, sư cụ truyền cho sư bác ra, để sư cụ tiếp tục nốt ván cờ. Nước cờ sư cụ đi bỗng thành bối rối. Chỉ một lát sau sư cụ thua ván cờ ấy. Sư cụ xin lỗi thí chủ để đến dịp khác lại hầu cờ người.
Thí chủ, sau ván cờ ấy cũng cáo lui. Bấy giờ sư cụ mới truyền cho sư bác vào để trình rõ về câu chuyện nói nhỏ lúc trước. Sư cụ vốn là bậc nho học uyên thâm. Người vốn trước cũng đã có gia đình, nhưng sau vì chán cuộc đời cũng có và vì muốn tránh những sự lôi thôi từ trước người đã có dính líu vào, nên người thế phát đi tu.
Thân ở cửa Phật, nhưng lòng thật vẫn theo đuổi với cuộc đời. Nghĩ lại những khi còn là một thiếu niên hăng hái, giúp ông đốc Tít, trong những cuộc hành quân quấy rối mấy vùng
54
Tiết tháo một thời
Hưng Yên trong lòng vị sư già chẳng khỏi bùi ngùi. Người Pháp lúc ấy cho ông đốc Tít là có tội vì ông đã làm mất sự an ninh của dân chúng một vùng, nhưng theo ý cụ thì công hay tội cần phải cho hậu thế phẩm bình. Vẫn biết làm mất sự an ninh của dân chúng một vùng là một tội lớn, nhưng gây một phong trào yêu nước, chống lại cường, đấy há chẳng là một công to hay sao!
Sư cụ đi tu đấy, ngày đêm ăn chay niệm phật đấy, nhưng hàng ngày sư cụ vẫn có thư từ đi lại cùng mấy bậc lão nho bàn về thời thế. Và đã bao phen, sư cụ từng cùng các bạn già thở dài vì những sự thất bại của biết bao tấm lòng hy sinh không bờ bến.
Khi phong trào quốc gia năm 1927 bùng dậy, chính sư cụ đã là người giúp đỡ rất nhiều cho các tổ chức ái quốc trong vùng khi việc kín của các tổ chức kia vỡ lở, các thanh niên có dính líu đến các tổ chức ấy lẩn trốn đã tìm thấy ở chùa Xuân Mỹ, một chỗ dung thân.
Người làng Xuân Mỹ hẳn còn nhớ một hồi trong chùa có toán thợ gặt đàn ông, mà người nào người nấy mặt mũi khôi ngô nói năng lịch sự.
Sau vì lý trưởng trong làng để ý, sư cụ phải đưa các anh em đồng chí đi lánh nạn ở nhiều nơi khác, và còn người nào ở lại, sư cụ đều bắt cải trang thành những nhà tu hành trẻ tuổi. Ngày đêm sư cụ niệm Phật, mong Phật độ cho anh em thoát khỏi sự phản trắc của một số bọn tham tiền hơn chuộng nghĩa, cầu Phật phù hộ cho anh em không sa vào tay bọn quan lại trung thành với Chính Phủ bảo hộ để khỏi bị chúng hành hạ tra tấn, tâng công cùng người Pháp.
Thỉnh thoảng có tin buồn đưa đến sư cụ lại niệm Phật thâu đêm. Có lẽ sư cụ niệm Phật để quên nỗi đau đớn thấy những công cuộc của đồng bang bị tan rã. Có những đêm cụ lâm râm trước bàn thờ Phật suốt sáng. Những hôm ấy, các tăng
55
Toan Ánh
tiểu trong chùa nem nép không dám làm việc gì mạnh mà cũng không nói to.
Thường thường sau những buổi tụng kinh khác thường ấy, sư cụ thờ thẫn đến bốn năm hôm. Bọn sư ông sư bác muốn cho sư cụ quên buồn thường hay vào trong làng mời vài bậc lão thành đến nói chuyện với sư cụ. Câu chuyện của những bậc già thường hợp tính nhau, nên gặp được các bậc lão thành đến thăm, sư cụ cũng khuây khỏa đôi chút.
Rồi muốn lãng hẳn ý nghĩa buồn rầu, sư cụ cùng các ông bạn già bày ra cuộc đánh cờ. Sư cụ thường nói: “A di đà Phật, đức Phật cũng xá lỗi cho kẻ tu hành còn để ý đến bàn cờ nhưng kẻ tu hành này chỉ lấy bàn cờ mà giải muộn được thôi”.
Hôm ấy, sư bác trình sư cụ tin những chiến sĩ bị hành hình ở Yên Bái và sư bác lại mong manh nghe đâu viên lý trưởng trong làng có ý tình nghi sư cụ làm chính trị nên đã báo huyện. Viên tri huyện hình như sắp sửa dẫn lính đến vây chùa khám xét.
Nghe sư bác thuật chuyện, sư cụ nói: “Mô Phật, con nhà tu hành họ cũng chẳng để cho yên. Thế ra họ chỉ nghĩ đến món tiền thưởng, đến thăng quan tiến chức, họ quên mất cả họ là người Việt Nam”. Rồi sư cụ truyền sư bác vào lấy ở dưới bệ ông Hộ Pháp ra một tập giấy đem đốt đi. Giấy ấy có người bảo là truyền đơn, có người bảo là danh sách những người thợ gặt đã ở trong chùa hồi trước.
Quả nhiên ngày hôm sau, viên lý trưởng trong làng có dẫn viên tri huyện đem lính đến vây chùa, và vào trong chùa khám xét.
Viên tri huyện bảo sư cụ: “Thấy báo nhà chùa đây có chứa chấp những giấy tờ quốc cấm và dung nạp bọn cách mạng nên bản chức phải đến khám xét.”
Sư cụ đáp: “Bẩm quan lớn chúng tôi tu hành chỉ biết việc nhà Phật, có biết đâu đến việc ngoài khác, xin quan lớn xét
56
Tiết tháo một thời
cho. Chúng tôi già cả, gần được theo về đất Phật còn màng gì đến cõi tục mà quan lớn buộc cho những tội ghê gớm thế. Đạo Phật chúng tôi có sách nói đến chữ trung, chúng tôi há lại không giữ trọn đạo trung hay sao!”
Chẳng biết viên tri huyện có hiểu lời sư cụ nói hay không, nhưng y cứ cho lính sục sạo khám khắp trong chùa. Sau một cuộc khám xét hơn ba tiếng đồng hồ, không thấy gì khả nghi, viên tri huyện mới đem lính rút lui.
Hồi ấy sư cụ lại buồn. Sư cụ buồn rồi sư cụ ốm. Và trận ốm ấy đã đưa sư cụ đến cõi Nát Bàn. Chẳng biết vong hồn sư cụ có đi lên đất Phật hay vẫn còn lẩn quất ở nước Việt Nam để phù trợ đàn em tranh đấu cho đại nghĩa.
57
Toan Ánh
CHIẾC ĐỊA BÀN
Cái khó theo nhau mãi thế thôi,
Có ai hay chỉ một mình tôi,
Bạc đâu ra miệng mà mong được,
Tiền chửa vào tay đã hết rồi.
Van nợ lắm khi tràn nước mắt,
Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi,
Biết đây thủa trước đi làm quách
Chẳng ký không thông cũng cậu bồi.
Ngâm lại bài thơ than nghèo trên cụ Tú Quỳ lại ngẫm nghĩ đến cảnh mình.
Cụ Tú nghèo, nghèo thật, nghèo lo từng bữa ăn lo đi, có bữa hôm lo bữa mai, nhưng nhiều khi cụ vẫn tự an ủi là chưa đến nỗi phải khom lưng, uốn gối, hệ lụy đến ai. Thôi thì cái sống thanh nhàn là cái sống thú vị. Nếu thủa trước cụ bằng lòng đi làm một chân ký lục nào có khó gì? Chữ nho cụ thông, chữ quốc ngữ cụ biết đủ dùng. Thời ấy các công sở cần người, nhưng những người cam tâm đi làm rất hiếm. Là con cháu nhà nho, phần nhiều người ta nghĩ đến cái giá trị của nhân cách, người ta chịu đựng được đói rét, nhưng người ta không chịu đựng nổi tiếng mỉa mai của những bạn đồng thời.
58
Tiết tháo một thời
Hơn nữa cụ Tú Quỳ lại là người đã từng có óc yêu nước, thương nòi. Cụ đã bị bắt giam cùng một năm với cụ bảng Hoàng Tăng Bí, cụ Lê Đại.
Từ ngày cụ được tha ra, thường đôi khi cao hứng cụ vẫn thường ngâm mấy câu thơ của cụ Lê Đại.
Kém ba tuổi nữa sáu mươi tròn
Vẫn tưởng rằng mình hãy trẻ con
Lều chiếu mấy lần say chưa tỉnh
Xiềng cùm một chuyến dại hay khôn?
Sau mấy kỳ lều chiếu, bởi công danh không đắc lộ, rồi lối thi cũ bị bãi bỏ, cụ Tú Quỳ lại một phen bị bắt giam. Người đời coi cụ là dại, nhưng chính cụ, cụ không hiểu là dại hay khôn. Nếu quả như vậy là dại, thì âu cũng đành tiếng dại, vì trên đời cũng có thứ dại quân tử và dại tiểu nhân.
Cũng như các nhà nho khác, cụ mê đọc sách, nhưng sách mà cụ khảo cứu nhiều hơn hết là những sách nói về địa lý. Cụ có cả một pho sách của cụ Tả Ao thời trước.
Những lúc nhàn rỗi, cụ đi ngắm hướng, tìm tay long, tay hổ, tìm nơi đất tốt để nếu có dịp sẽ giúp đỡ bà con. Đối với con mắt cụ, một mô đất cao là một trái núi, một rẻo đất thấp là sông.
Thượng nhất thốn vi sơn, hạ nhất thốn vi hà
Nhà tuy túng, nhưng cụ lại hay ngao du sơn thủy để tìm huyệt tốt. Thường thường cụ đi đâu cũng có các bạn đồng học cũ tiếp đãi. Gặp nhau các cụ bàn vài câu chuyện về thời thế, rồi cùng nhau uống một bữa rượu để nhớ lại những ngày cùng đọc sách hay những ngày ở trong lao. Các cụ nhắc đến những áng văn thơ làm trong nhà ngục:
Ông sếp bảo đi chơi.
Quanh như thân buộc cọc.
59
Toan Ánh
Đây là hai câu thơ của cụ Bảng Hoàng tả cái cảnh hàng ngày bọn cai ngục thừa lệnh trên bắt bọn tù nhân đi quanh sân lao cho giãn xương cốt. Đi như thế bọn cai ngục họ gọi là đi chơi.
Rượu say, cụ Tú lại đi ngắm đất ở quanh vùng tìm vài ngôi mộ quý. Chỗ nào thủy tụ, chỗ nào phát, chỗ nào sát, cụ nhất nhất ghi lấy để tâm. Gặp một ngôi đất đẹp, cụ chỉ cho các bạn hữu xem, rồi cụ cắt nghĩa vì những lẽ gì ngôi đất ấy có thể phát được.
Sau khi ở chơi một nơi nào ít lâu, cụ lại từ giã ra đi nơi khác. Nếu các bạn hữu là bậc giàu có hào phóng, họ tiễn cụ ít tiền ăn đường. Như thế càng hay, không có thì cụ vẫn cứ lên đường.
Cụ đi từ Bắc vào Trung, đi từ Thanh Hóa đến Vĩnh Yên, từ Sơn Tây đến Bắc Ninh, tìm được ngôi đất nào cụ đều ghi vào sổ tay.
Một lần cụ đến làng kia, những người từng được cụ ra ân cho, thi nhau mời cụ lại nhà để được thù tiếp cụ. Trong số những người cụ giúp cho có cả một tên ác bá. Đất cụ để cho nhà tên ấy phát ngay. Con trai hắn đậu tri huyện kỳ vừa qua.
Có người hỏi cụ: “Thưa cụ nhà tên ấy thiếu ân đức, bố mẹ nó ác nghiệt, mà đối với cụ cũng chẳng có ân tình gì, chẳng hay tại sao mà cụ lại giúp cho nó một ngôi đất tốt, chóng phát như vậy?”
Cụ cười đáp: “Nhà nó còn phát to, con nó còn làm nên đến bậc khanh tướng, và sẽ được tiếng tăm như Lê Hoan, như Hoàng Cao Khải. Nhưng ông thử nghĩ như thế có là một điều hay không? Nghìn năm có ai khen bọn ấy? Bây giờ đất phát thì lên đấy, nhưng rồi ra con cháu họ sẽ muôn đời mang tội của ông cha. Những ngôi đất ấy phải để cho hạng người ấy chứ. Chẳng lẽ tôi lại đem những người phúc hậu mà tặng ngôi đất ngụy ấy ư?”
60
Tiết tháo một thời
BÀ CỤ HÀNG NƯỚC
Ở SUỐI HOA
Trên đường quốc lộ 1, quãng từ Thị Cầu tới Bắc Ninh, khi đi khỏi địa điểm Thị Cầu, con đường vươn mình lên một ngọn đồi nhỏ rồi dốc xuống để kéo thẳng tới Bắc Ninh. Chỗ đường dốc đó người ta gọi là Suối Hoa.
Suối Hoa ở trước huyện lỵ Võ Giàng. Không hiểu tên đó có từ bao giờ, nhưng nó chỉ là một tên truyền khẩu. Nó không có tên trong địa dư mà cũng không có tên trong địa bộ của sở Địa chính. Có lẽ người ta gọi thế vì ngày xưa ở đây có nhiều hoa và đã có một dòng nước chảy từ trên đồi xuống.
Dân cư ở Suối Hoa thưa thớt chỉ có mấy nhà ở hai bên đường thường phần đông là các me tây. Lẫn vào đấy có vài hàng quà bánh, bán cho những người có việc phải vào trong huyện đường Võ Giàng. Và có cả một quán hàng nước của một bà cụ.
Bà cụ hàng nước già lắm, có lẽ đến ngoài sáu chục tuổi, không ai hiểu bà cụ người ở đâu và tới bán hàng nước ở Suối Hoa từ bao giờ.
Cùng ở với bà cụ có một đứa cháu nhỏ trạc trên dưới 10
61
Toan Ánh
tuổi, hàng ngày vẫn đi học ở trường sơ học Đáp Cầu. Tên nó là Thiện.
Hai bà cháu Thiện sống với nhau, rất ít giao thiệp với mọi người. Thiện là một đứa bé ngoan, đến trường chỉ biết học, và được thầy giáo rất quý.
Khách vào hàng nước của bà cháu Thiện thường là các tổng lý trong huyện Võ Giàng có việc phải lên huyện. Vì thế nên cửa hàng của bà chỉ đông khách về buổi sáng.
Còn buổi chiều, thỉnh thoảng vài bác phu xe đi từ Bắc Ninh đến Thị Cầu, hoặc từ Thị Cầu đến Bắc Ninh, qua quãng đường này dừng chân uống hớp nước cho đỡ khát. Cũng đôi khi vài bác lính lệ ra hút nhờ điếu thuốc lào và ăn một khẩu trầu.
Năm ấy là năm 1930. Việt Nam Quốc Dân Đảng vừa bị bại lộ và đảng trưởng Nguyễn Thái Học đã bị bắt ở ấp Cô Vịt tỉnh Hải Dương.
Muốn nhổ cỏ cho hết rễ, các nhà đương cuộc Pháp truy tìm gắt gao tất cả đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Lệnh của người Pháp ban ra, một bọn tay sai chó săn muốn được lòng quan thầy làm việc mẫn cán gấp ba nên số người bị bắt hàng ngày ở các nơi không phải là ít.
Họ bắt đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Họ bắt đảng viên của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội. Họ bắt đảng viên của Đông Dương Cộng Sản đảng, họ bắt tất cả các đảng chính trị khác và họ bắt cả dân lành vu cho là Cách mệnh để tâng công với quan thầy.
Bán hàng ở trước cửa huyện Võ Giàng, bà cụ hàng nước được chứng kiến tất cả những vụ bắt bớ đã giải tới huyện của bọn lính huyện cũng như của các tổng lý muốn lập công.
Mỗi khi thấy lính giải một đảng viên cách mệnh qua cửa hàng, bà cụ lại lắc đầu và mơ màng như nghĩ ngợi. Một vài lần có khách hàng uống nước, thỉnh thoảng bà cụ lại thốt ra một câu: “Thật là tre lại trói tre”. Có người khách hàng
62
Tiết tháo một thời
nghe cụ nói cũng nói thêm “Bà cụ nói đúng lắm. Tây người ta biết đâu, chỉ người Nam lại giết người Nam; Nam quốc, Nam nhân, nghĩ mà chán?”
Câu chuyện chỉ đến thế. Nhà hàng không nói hơn và khách cũng không nói hơn. Khách sợ vạ miệng, còn nhà hàng biết bụng dạ khách ra sao mà bàn đi nói lại.
Các cuộc bắt bớ ngày một nhiều. Ngày nào cũng có người tình nghi bị bắt. Các tổng lý nhiều khi giải phạm nhân tới huyện, gặp lúc hết giờ, thường phải tạm đưa vào hàng nước của bà cụ để nghỉ chân và đợi giờ làm việc.
Trong những trường hợp này, bao giờ bà cụ cũng tỏ ra chăm sóc các phạm nhân. Bà cụ thường đãi cơm nước không lấy tiền. Các phạm nhân có người muốn trả tiền, thì bà cụ bảo: “Các ông cứ giữ lấy, các ông còn phải cần đến tiền nhiều”.
Thấy bà cụ tỏ ý ân cần với các phạm nhân, có người hỏi bà cụ không sợ tội hay sao. Bà cụ đáp:
- Tôi già nua thế này mà làm gì được. Bất quá thấy người ta vì việc nước phải bắt, tôi nghĩ cũng thương hại nên gọi là giúp đỡ đôi chút để an ủi người ta trong bước đường cùng đó thôi.
Một hôm vào khoảng quá ngọ, trong khi ở huyện đã hết giờ làm việc, giữa lúc bà cháu Thiện đang ăn cơm trưa, ở ngoài cửa bước vào ba người; một người áo the khăn lượt, một người quần áo nâu tay vác con dao mã tấu và người thứ ba cũng quần áo nâu, nhưng hai tay bị trói quặt ra sau lưng.
Người áo the khăn lượt ngồi xuống ghế trước chõng tre, người vác mã tấu ấn người bị trói ngồi xuống đất và hắn cùng ngồi ghé vào chiếc ghế.
Người mặc áo the ngửa chiếc bát úp trên chõng bảo bà cụ rót nước. Bà cụ ngừng bữa cơm chạy ra múc nước chè xanh đổ vào hai chiếc bát, nhưng mắt vẫn liếc nhìn người bị trói ngồi dưới đất.
Bỗng nhiên bà cụ biến sắc mặt và chiếc gáo cầm trên tay
63
Toan Ánh
như muốn rơi. Vừa lúc ấy người bị trói cũng hình như nhận ra bà cụ nên gọi: “Cụ Khóa!” Bà cụ không đáp lại, vẫn tiếp tục đổ nước vào hai chiếc bát.
Không thấy bà cụ trả lời, người bị trói cho mình lầm, cúi gầm mặt xuống đất.
Người mặc áo the thâm và người cầm mã tấu cùng uống nước. Bà cụ gợi chuyện. Hai người này cho biết một người là lý trưởng xã Ngư Đại và một người là tuần phiên, cùng giải tới huyện một đảng viên cách mạng.
Sau mấy câu chuyện, bà cụ khoe nhà mình có rượu ngon, mời hai người xơi để mừng việc bắt được một phạm nhân. Hai người nhận lời.
Bà cụ vào trong bưng ra một vò rượu, rót mời hai người hai bát đầy. Hai bát rồi lại hai bát, hai người mềm môi uống mãi cho tới khi thật say, cùng tựa lưng vào nhà hàng ngủ gật.
Bấy giờ bà cụ mới lại gần người bị trói lúc đó đang cúi mặt xuống. Bà cụ khẽ gọi: “Anh Tư?” Anh Tư ngẩng đầu lên nhìn bà cụ và một vẻ mừng long lanh trên đôi mắt. Bà cụ cởi trói cho anh Tư bảo trốn đi. Anh Tư ngần ngại sợ liên lụy tới bà cụ.
Bà cụ bảo: “Anh phải trốn ngay đi còn mặc tôi. Anh nên nhớ bây giờ anh không phải là của anh mà là của Tổ quốc. Anh phải tự bảo vệ lấy thân để sau này giúp ích cho Tổ quốc. Hai đứa kia, tôi đã cho thuốc mê vào rượu, chúng còn ngủ lâu”.
Vừa nói bà cụ vừa đẩy anh Tư ra khỏi cửa, dúi cho anh một món tiền nhỏ. Anh Tư nhận tiền vội vã ra đi. Bà cụ lại vào ăn nốt bữa cơm, mặc cho hai người khách kia tựa cột mà ngủ.
Vừa ăn bà cụ vừa bảo thằng cháu:
- Thiện ạ, đấy là anh Tư người làng ta đấy: không hiểu anh ta đến Ngư Đại làm gì để đến nỗi phải bắt như vậy. Ấy người
64
Tiết tháo một thời
làng Cầu Vòng, phủ Yên Thế ta, theo gương cụ Đề Thám ngày trước cả làng đều ghét Tây và thi nhau làm Cách mạng. Ông Khóa mày ngày xưa cũng đi theo cụ Đề Thám nên bị Tây giết. Rồi đến bố mày cũng đi theo các ông ấy mất tích không dám về. Bà cháu ta bây giờ bán hàng ở đây, gặp được dịp giúp ai cứ giúp. Hai thằng kia lát nữa nó thức dậy, bà sẽ liệu.
Một lát sau, khi hai người thức dậy thấy phạm nhân trốn thoát hỏi, bà cụ đáp:
- Tôi biết đâu với các ông đấy. Trong khi các ông uống rượu tôi vào ăn cơm rồi xuống bếp rửa bát. Ở ngoài này chắc các ông tha nhau rồi định đổ lỗi cho tôi sao?
Hai người không biết nói làm sao, đành phải trình Huyện, viên tri huyện đòi bà cụ hỏi, bà cụ cũng trả lời như trên. Sau mấy lần đôi hỏi, câu chuyện cũng xong, và bà cụ vẫn giữ ngôi hàng nước ở Suối Hoa như cũ.
65
Toan Ánh
CÔ GÁI NON THIỀN
Cô Như là con gái cụ đồ Hà, người làng Thị Cầu, huyện Võ Giang, tỉnh Bắc Ninh.
Làng Thị Cầu ở chân núi Thiềm là một ngọn núi đứng sừng sững bao trùm lên ba làng: Thanh Sơn, Phương Vĩ và Thị Cầu. Cụ đồ Hà vốn là dòng dõi thế gia. Tổ tiên xưa đều theo đạo trung tín của Thánh Hiền.
Vốn là một nhà nho học, cụ đồ Hà lấy nghĩa nước làm nặng, nên khi thấy quân Pháp xâm lăng nước ta, dòng máu ái quốc đã sôi trong huyết quản, cụ vẫn lăm le chờ cơ hội phất cờ Cần Vương để đem tấm thân bẩy thước đền đáp non sông. Nhưng than ôi? Việc thì lớn, vận nước đang cơn bĩ, bao nhiêu mưu đồ của các nhà ái quốc đều thất bại nên cụ đồ đành ôm hận trông ngày tháng lần qua.
Rồi năm 1908, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục làm sôi nổi đất Bắc, bao nhiêu tài năng của núi sông hun đúc, bao nhiêu bậc lão thành cũng như bao nhiêu thanh niên trai tráng có tâm huyết đều hưởng ứng gia nhập phong trào này, người học cao thì làm giảng viên ở trường học đặt tại phố hàng Quạt; người học ít thì đi liên lạc khắp mọi nơi để gây
66
Tiết tháo một thời
những cơ sở chống Pháp đợi ngày toàn diện khởi nghĩa. Ở khắp các tỉnh, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục đều được nhiều người hưởng ứng.
Cụ đồ Hà cũng gia nhập phong trào này ở Bắc Ninh. Ngoài nhiệm vụ làm bành trướng phong trào ở tỉnh nhà, cụ lại có nhiệm vụ gây phong trào ở Bắc Giang.
Cụ đã làm tròn nhiệm vụ của mình, cụ đã gây được trong quần chúng phong trào đoàn kết để tạo một sức mạnh chờ ngày quật khởi.
Nhưng mưu sự tại người, thành sự một phần lớn không tại người. Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục bị bại lộ rồi tan vỡ. Các nhà lãnh tụ như cụ Hoàng Tăng Bí, cụ Lê Đại v.v... bị bắt và bị đầy ra Côn Đảo.
Ở các tỉnh, phong trào đang lên cũng bị chặn đứng lại rồi dần dần cũng bị tiêu hao để đi đến chỗ không còn nữa. Trước sự tan rã của công cuộc, cụ đồ Hà không nản chí, cụ vẫn bền gan cố duy trì phong trào cách mệnh ở hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Việc làm trở nên khó khăn vô cùng, một phần vì các nhà cầm quyền Pháp tăng cường sự canh phòng khám xét, một phần vì bọn chó săn muốn tâng công với bọn quan thầy áo ngắn, thường báo bắt hết các đảng viên của cụ đồ. Khó khăn nhất là sự liên lạc giữa cụ đồ và các tổ chức cách mệnh trong hai tỉnh Bắc.
Năm ấy cô Như 18 tuổi. Với mái tóc mây, với đôi má ửng hồng, với cặp mắt sáng trong, với đôi môi tươi thắm, với hàm răng đen nhức như hạt na già, cô thật là một hoa khôi ở vùng núi Thiềm. Thường đi theo cụ Đồ bà đi chợ, cô vẫn bị con trai làng trên xã dưới trêu ghẹo. Cụ đồ bà ngắm con gái mơn mởn đào tơ cũng mừng và chờ đợi một giai tế giương cung bắn sẻ. Cô Như, trước mọi sự trêu cợt của trai làng và
67
Toan Ánh
trai thiên hạ cũng tự biết là mình xinh đẹp. Cô đặt bao nhiêu hy vọng vào tương lai và cô xây biết bao nhiêu mộng đẹp với tuổi xuân.
Một hôm bà đồ và cô đi chợ vừa về thì cụ Đồ ông cho gọi cô lên, cụ bảo:
- Thầy có hai lá thư muốn sai con mang tới ông Khóa ở Tam Sơn và ông Tú ở Hoàng Mai, không biết con có chịu đi không. Việc này nguy hiểm lắm, lính nó bắt được con sẽ bị tù và thầy cũng bị bắt. Vậy con liệu có đi xong việc được cho thầy không?
Nghe cha nói cô Như tần ngần giây lát. Tuy là gái nhưng cô đã được cụ Đồ dạy cho biết Tứ Thư, Ngũ Kinh, nên nghe qua lời cụ đồ nói, cô đã hiểu hai lá thư đó can hệ đến mức nào và bổn phận của cô trong việc này. Cô chưa kịp trả lời, cụ Đồ lại nói:
- Đây là việc nước. Thầy tiếc không có con trai lớn để trao phó cho nó, thầy mong rằng con sẽ làm việc này như một đứa con trai.
Cô Như sau giây lát tần ngần đáp, giọng cương quyết: “Thưa thầy việc thầy đã sai, con đâu có từ nan, việc dù khó con cũng xin làm xong.
Con sẽ tỏ ra xứng đáng là con của thầy”.
Cụ đồ Hà mừng lắm, giao hai phong thư cho cô Như. Cô nhận thư, leo qua núi Thiềm đi về mạn Thanh Sơn để ra Tam Sơn, thuộc huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh.
Rồi cô lại về qua núi Thiềm, theo lối Đạo Chân để sang sông rồi ngược lên làng Hoàng Mai, huyện Viết Yên, tỉnh Bắc Giang.
Song, việc làm của cụ Hà có kín được mãi đâu. Trong làng Thị Cầu có tên Cai Mân, trước làm cai lính tập
68
Tiết tháo một thời
cho Pháp, mong manh biết tin cụ đồ hoạt động Cách mệnh muốn tâng công với quan thầy, đã đi báo Tây về khám nhà và bắt cụ đồ.
Cụ đồ Hà bị bắt dẫn đi và không về nữa.
Thương mẹ, cô Như thường khuyên:
“Thôi đẻ đừng buồn! Thầy con vì nước mà bị bắt, đẻ nên lấy làm vinh hạnh! Con chắc thầy con dù sao cũng vui lòng”. Cụ đồ bà nghe nói gạt nước mắt, không đáp.
Và từ đấy cụ cố công tần tảo để nuôi mấy con thơ. Cô Như cũng vất vả giúp mẹ chợ búa, làm hàng sáo kiếm thêm tiền nuôi em.
Ngay sau khi cụ đồ Hà bị bắt, tên cai Mân được người Pháp tin dùng. Sau đó tên này lại dắt người Pháp về để chiếm cứ núi Thiềm, lập đồn điền. Dân ba làng Thị Cầu, Phương Vĩ và Thanh Sơn mất nơi kiếm củi đốn cây và mất con đưòng tắt qua từ làng này sang làng khác.
Nhà cai Mân càng ngày càng giầu, dư thóc lúa để bán cho dân hàng sáo trong làng.
Mỗi lần trông thấy cai Mân, cô Như lại nhớ đến cha và trong lòng cô nung nấu một mối thù.
Một buổi sáng, cô Như vào nhà cai Mân để đong thóc như thường lệ. Cai Mân đang nhấm nháp chén trà liên tử, thấy cô Như với cái nhan sắc kiều diễm, cai Mân bỗng động lòng và thả giọng lả lơi:
- Mời cô vào đây uống chén nước trà đã. Trà liên tử ngon lắm. Uống trà rồi đong thóc cũng vừa!
Cô Như làm bộ khép nép, nhưng cô cũng uống nước trà và bắt chuyện với Cai Mân.
Hai hôm sau dân làng Phương Vĩ đi chợ sớm qua chân núi Thiềm về địa phận Thị Cầu thấy cai Mân nằm chết bên một
69
Toan Ánh
gốc cây, bị một nhát dao đâm thấu phổi, máu me chảy đầm đìa đã bắt đầu se tím lại.
Cũng chiều hôm ấy, có người bắt gặp cô Như mang quần áo đi giặt ở ao làng. Trong số quần áo, chiếc áo cánh nâu hình như rớm máu.
Dù sao thấy cai Mân bị giết, dân làng Thị Cầu cũng mừng. Họ không ưa gì tên chó săn hèn hạ ấy.
Cô Như nay đã là một bà cụ già ngoài lục tuần vẫn còn sống. Thỉnh thoảng trong các truyện cổ tích kể cho các cháu nghe bà cụ có kể đến truyện cô gái Non Thiềm đã giết kẻ thù báo oán cho cha.
70
Tiết tháo một thời
TỰA GỐI ÔM CẦN
Truyền ngữ Việt Nam có câu:
“Bé đi câu, lớn đi hầu, già làm khách nợ”
Theo câu truyền ngữ trên thì “đi câu” chẳng phải là một nghề đáng khinh lắm ru! Sự thật đâu có thế! Thành kiến đặt nghề đi câu ngang với hai nghề “đi hầu” và “làm khách nợ” là một thành kiến sai lầm. Nếu hai nghề “đi câu” và “làm khách nợ” đúng là những nghề của kẻ vô liêm sỉ, chỉ biết lấy đồng tiền làm trọng, không hiểu đến nhân cách là gì, thì trái lại đi câu đã là một thú tiêu khiển của biết bao mặc khách tao nhân cũng như của biết bao nhà ẩn sĩ đợi thời.
Nói đến đi câu ta phải nhớ đến Khương Tử Nha, người đời vẫn gọi là “ông Lã Vọng”, bậc huân quốc công thần đã xây dựng nghiệp lớn cho nhà Chu, đã giúp vua Võ Vương hội họp tám trăm trấn chư hầu lật đổ chế độ tàn bạo của Trụ Vương nhà Thương. Sự nghiệp anh hùng của vị Thượng Phụ nhà Chu phải kể như bắt đầu ở dòng sông Vị, đất Bàn Khê của Tây Kỳ vậy!
Ai dám bảo đi câu là hèn hạ? Không! Đi câu cao quý lắm chứ. Bên dòng sông mát rượi, bờ cỏ xanh rì, dưới bóng rợp
71
Toan Ánh
một góc cây, người ngồi câu ngoài thú được ngắm nhìn trời, yên tĩnh bên ngoài cũng như yên tĩnh bên trong, lại thỉnh thoảng được cái thú chăm chú nhìn chiếc phao dập dềnh trên mặt nước, rồi bỗng nhiên chiếc phao chìm hẳn. Người ngồi câu, nhẹ giật cần câu lên là ở đầu lưỡi câu đã có một chú cá xinh xinh trắng bạc đang cựa quậy tìm lối thoát thân.
Chim tham ăn sa vào vòng lưới
Cá tham mồi mắc phải lưỡi câu
Đã mắc phải lưỡi câu còn mong gì thoát nạn nữa. Người đi câu hạ cần, lần tay theo sợi dây, túm lấy đầu con cá, gỡ cá ra khỏi lưỡi câu, và từ từ bỏ nhẹ vào giỏ cá ngâm dưới nước để chờ lúc đầy giỏ mới mang về.
Cụ Ngân làng Xuân Mỹ cũng ưa thú đi câu, nhưng có lẽ không phải vì cụ thích được cá, mà đúng ra chỉ vì đi câu, cụ cho là một thú tao nhã, khả dĩ giúp cụ quên được nỗi bực dọc do thế sự gây nên.
Vốn dòng nho gia cụ đã thông suốt Tứ Thư, Ngũ Kinh, cụ hiểu đạo Thánh Hiền, biết lẽ trung hiếu tiết nghĩa. Cũng như bao người khác, bình sinh cụ hoài vọng một ngày danh chiếm bảng vàng, đem tài thông kinh sử giúp vua trị nước, trước là thỏa lòng trung sau là được thi thố tài năng để làm vẻ vang cho dòng họ; nhưng vận nước éo le, quân Tây kéo sang chiếm đất cướp thành, cụ giận mình không đủ tài, đủ trí để giết giặc lập công, cụ đành ẩn dật ở quê nhà, tháng ngày bạn cùng cây cỏ, lấy sách đèn tiêu khiển và đi câu là một thú thanh tao.
Người đời không hiểu cho cụ là thiển cận. Có tài học, tại sao không đem tài ra để giật lấy cân đai bố tử, lại chịu ăn cơm nhạt, sống lần hồi ở quê nhà. Hoài bão của cụ đâu phải chỉ có thế! Cân đai bố tử để làm đầy tớ cho bọn quan thầy áo ngắn, đấy đâu có phải là điều phỉ chí của đấng nam nhi!
72
Tiết tháo một thời
Tấm thân bẩy thước phải lo điều ích quốc lợi dân, mà nếu không làm nổi đại sự thì đành ôm hận nuốt sầu, có đời nào lại đem tiết tháo bán rẻ lấy vinh thân phì gia: Chỉ những kẻ tiểu nhân, chỉ những bọn giá áo túi cơm mới làm điều vô sỉ ấy.
Đối với những kẻ chê cụ sao lại đi câu lại chôn vùi chí khí, cụ hằng nói: “Tôi đi câu đây cũng như Khương Thượng câu ở sông Vị Thủy, tôi đi câu để nghiền ngẫm về thế sự, để ngắm cuộc đời đổi thay, để xem đám thiêu thân lao mình vào đống lửa, cũng như để hiểu đàn cá ham mồi mắc phải lưỡi câu!”
Cụ nói vậy thì nói, chứ thật ra, cụ có câu được cá bao giờ đâu. Lưỡi câu cụ cũng giống như lưỡi câu của Tử Nha đời nhà Chu, nghĩa là không có móc và cũng không có ngạnh để cho cá mắc mồi. Mồi cụ mắc vào lưỡi câu bao nhiêu là cá ăn hết bấy nhiêu.
Mấy ông bạn già của cụ thường bảo cụ:
- Cụ đi câu như vậy chỉ làm hư cá thôi. Cá chúng nó được ăn, quen mùi thấy mùi bén mãi, rồi sau đây có người nào câu thật chúng sẽ mắc mồi rất nhiều!
Câu nói trên chừng như hợp ý cụ lắm nên cụ cười ha hả đáp: - Thì chính vậy, cái giống cá tham mồi cho chúng nó chết. Nay chúng nó ăn của tôi một mồi, mai chúng nó ăn của tôi một mồi, dần dà chúng quen mồi rồi tôi mới câu bằng lưỡi câu thật. Lúc ấy chúng nó chạy đâu cho thoát. Nói đến đấy bao giờ cụ cũng nghiêm sắc mặt nói tiếp: - Có gì khác ngày nay, bao nhiêu người Việt Nam ta mù quáng theo bọn Tây áo ngắn, chúng thí cho chút đỉnh quyền lợi nhỏ, để một ngày kia chúng giật mạnh lưỡi câu thì cả nước Việt Nam chúng ta chỉ có đi làm nô lệ mà thôi. Tôi và các cụ, chúng ta đã đọc sách Thánh Hiền, chúng ta đã hiểu thế nào là lẽ tiến thoái, nếu chúng ta chưa đánh nổi bọn giặc Pháp, tạm thời ít nhất chúng ta phải cho người khác rõ thế nào là người Pháp đã buông câu dân Việt chúng ta.
73
Toan Ánh
Các cụ đồng ý với nhau, và câu chuyện tâm sự các cụ chỉ bộc lộ cùng nhau. Các cụ thở dài thấy nhiều người chen chúc đi theo bả vinh hoa để phụng sự cho ngoại tộc.
Đi câu, ngoài cái thú tựa gối ôm cần, cụ Ngân đã tìm thấy cái triết lý của ngư phủ trong một nước đang loạn lạc, mà chính ngư phủ đó không đủ tài ba để an bang tế thế.
Nhiều khi cụ Ngân mang rượu tới bờ sông, cùng mấy ông bạn già vừa câu cá vừa thưởng thức men nồng để quên sự thế! Ôi thời thế tạo anh hùng hay anh hùng tạo thời thế! Người có tâm huyết với tương lai đất nước, phải chịu vô kế khả thi trước sức mạnh của giặc ngoài, đành phải ẩn thân để răn dạy người đời chớ quên mình là người dân của nước Việt, chớ để mình là con cá ham mồi, âu cũng giải bớt được phần nào nỗi hoài mong của chí khí.
74
Tiết tháo một thời
Ô KÉO DAO CẦU
Xử thế có lúc biến, có lúc thường. Cơn biến phải sống theo lẽ biến, và cơn thường lại sống đúng lẽ thường. Cụ Nguyễn Du đã có câu:
Có khi biến, có khi thường,
Tòng quyền nào phải một đường chấp kinh
Ông lang Ngọc đã hiểu rõ lẽ kinh quyền khi ông bỏ nghiệp văn chương để đi sâu vào nghề làm thuốc. Vốn dòng nho gia, ông cũng như trăm nghìn người khác đi theo cửa Khổng sân Trình, mong một ngày vinh quy bái tổ để làm rạng rỡ tổ tông, nhưng nào ngờ thời thế đổi thay, nước nhà đang độc lập bỗng bị bọn giặc Pháp xâm lăng. Chiếu Cần Vương của Hoàng đế Hàm Nghi ban ra, biết bao nhiêu con dân đã bỏ nghiệp riêng để theo đền nợ nước. Ông lang Ngọc đang sửa soạn thi hương, cũng xếp bút nghiên theo các anh em đồng học, rời làng Xuân Mỹ, vào vùng Thanh Nghệ để nhập với nghĩa quân, mong được da ngựa bọc thây, đem tấm thân bẩy thước đền đáp non sông.
Đối với nạn nước, lòng người dân đâu có thờ ơ. Hàng muôn ngàn người đáp lại tờ chiếu Cần Vương đã cùng nhau
75
Toan Ánh
nổi dậy khắp nơi để chống lại người Pháp, nhưng sức người đã vậy, vận nước thời sao, nên mặc dầu sự cố gắng của bao nhiêu người dân Việt, nước Việt vẫn lâm vào vòng đô hộ của người Pháp và các đạo quân Cần Vương đã lần lượt xếp cờ bỏ giáp cùng nhau giải tán để mong một cơ hội khác, các nhà ái quốc sẽ lại cùng nhau nổi dậy chống với ngoại tộc xâm lăng.
Vua Hàm Nghi bị bắt, ông lang Ngọc khi ấy đang ở trong đạo nghĩa quân vùng Nghệ An, được lệnh giải tán để chờ dịp. Nợ núi sông đã không được đền đáp, bây giờ còn theo đuổi cái khoa cử làm chi, nếu không để sau này ra làm quan hầu hạ cho lũ ngoại nhân. Bởi vậy nên ông lang Ngọc quả quyết theo nghề thuốc, không ham chi bả vinh hoa, nó trói buộc con người làm thân trâu ngựa.
Đàng nào cũng là giúp dân, giúp nước. Thôi không đủ tài lấp biển vá trời, ông lang Ngọc đành lấy nghề thuốc để an ủi mình và để cứu người giúp đồng bào vậy.
Quyết tâm theo nghề thuốc nên ông học thuốc rất chuyên cần, rất ham mê. Ông hiểu thấu đạo đức của nghề thuốc, và ông cố đi sâu vào nghề để trở nên một danh y, dù không được như Biển Thước, Hoa Đà, nhưng cũng biết rõ nguyên tắc khí hóa, biết tường tận về mạch học cũng như về mọi điều cần thiết của đông y.
Ông thường nói chuyện với các bạn hữu về nghề thuốc: - Bắt mạch biết được bệnh, đó là điểm sơ đẳng người làm thuốc phải biết. Người làm thuốc có tài chỉ cần trông khí sắc đã biết người có bệnh, và chỉ cần trông khí sắc đã có thể kê đơn cất thuốc đúng căn bệnh được.
Câu chuyện Tần Hoãn thời chiến quốc xem bệnh cho Tề Hoàn Công thường được ông luôn luôn nhắc tới để nêu cao giá trị của người chữa bệnh.
Nguyên Tần Hoãn đời nhà Chu chữa bệnh rất có tài, được
76
Tiết tháo một thời
người đời ví ngang với Biển Thước là ông thánh trong nghề thuốc sống về thời Hiên Viên Hoàng Đế. Tần Hoãn thường đi chu du thiên hạ để chữa bệnh cho mọi người. Tần Hoãn đến Lâm Tri có vào yết kiến Tề Hoàn Công. Sau khi ngắm khí sắc Hoàn Công, Tần Hoãn tâu:
- Chúa Công có bệnh ở thịt, nếu không chữa sẽ thành bệnh nặng.
Tề Hoàn Công nói:
- Ta chẳng có bệnh gì cả.
Tần Hoãn lui ra. Năm ngày sau, lại vào yết kiến Hoàn Công và nói:
- Bệnh của Chúa Công đã ở huyết mạch, cần phải chữa ngay! Tề Hoàn Công cho là Tần Hoãn nói bậy, không tin, và cũng không nói gì.
Tần Hoãn lại lui ra và năm ngày sau lại tới. Lần này sau khi ngắm kỹ khí sắc của Hoàn Công, Tần Hoãn lại tâu: - Bệnh Chúa Công đã ở ruột và dạ dày rồi, nên phải chữa ngay đi.
Tề Hoàn Công lại không nói gì. Tần Hoãn lui ra. Tề Hoàn Công bèn nói cùng quần thần:
- Tệ quá! Thầy thuốc chỉ nghề hay vẽ trò! Người ta không có bệnh cứ bảo là có bệnh.
Qua năm ngày nữa Tần Hoãn lại vào yết kiến vua Tề, nhưng lần này thoáng trông thấy nét mặt Tề Hoàn Công, Tần Hoãn đã vội vàng lui ra bỏ chạy. Hoàn Công sai người hỏi thì Tần Hoãn trả lời:
- Bây giờ bệnh Chúa Công đã vào tới xương tủy rồi. Bệnh ở da thịt còn xoa thuốc được, bệnh ở huyết mạch còn tiêm thuốc được, bệnh ở ruột và dạ dày còn uống thuốc được, nay bệnh đã vào tới xương tủy thì đến thánh cũng không chữa được nữa, bởi vậy tôi không nói mà lui ra.
Mấy ngày sau Hoàn Công quả nhiên ốm nặng, sai triệu
77
Toan Ánh
Tần Hoãn, Tần Hoãn đã rời khỏi Lâm Tri từ mấy ngày. Hoàn Công ốm ít lâu rồi mất.
Mỗi khi kể xong câu chuyện Tần Hoãn, ông thường kết luận: “Làm thuốc là một nghề cứu dân độ thế, phải dày công nghiên cứu mới đến được chỗ tinh vi. Kẻ làm thuốc tầm thường, nhiều khi chữa bệnh chỉ làm tăng bệnh. Người làm thuốc phải luôn luôn học hỏi, không bao giờ cho mình là biết hết được nghề mới mong không giết oan con bệnh bằng dao cầu và ô thuốc của mình”.
Đúng như lời ông nói, ông lang Ngọc luôn luôn sưu tầm về thuốc, không bộ sách thuốc nào ông bỏ qua. Ông đã nghiên cứu hết những sách của Lãn Ông và ông cũng đã đọc nhiều sách khác của các danh y Hoa - Việt.
Đối với những con bệnh bao giờ ông cũng hết lòng săn sóc, dù con bệnh đó giàu hay nghèo. Ai có tiền thì ông lấy tiền, ai không có tiền thì ông chữa giúp, ông thường nói: “Đồng bào mình đang khổ sở vì ngoại tộc đè nén, mình có bổn phận làm nhẹ bớt một phần nào nỗi cơ cực ấy. Tôi muốn giúp đỡ đồng bào rất nhiều, nhưng sức tôi có hạn, tôi đành mang nghề nghiệp ra cứu giúp được người nào hay người ấy”.
Ngoài thì giờ chữa bệnh và nghiên cứu sách thuốc, ông lang Ngọc chỉ giao du với mấy cụ đồ, cụ tú trong làng là những người cũng như ông đang đau lòng về thời cuộc. Gặp các cụ, cùng nhau nói mấy câu tâm sự để hiểu nhau, đó là những giờ phút đáng quý nhất của các cụ. Các cụ không thể một lúc đánh đuổi ngay được người Pháp, các cụ đành ôm ấp cái mộng một ngày kia gây được một phong trào, có một lực lượng để đương đầu cùng giặc. Giờ đây mặc cho ai cam tâm đi luồn giặc, các cụ phải giữ lấy tiết tháo của mình để nêu gương cho con cháu.
30-11-1956
78
Tiết tháo một thời
ÔNG TÔI
Ông tôi chết năm nay là 14 năm. Tôi nhớ lắm, năm đó là năm Quý Mùi, ngày mồng tám tháng mười một, một ngày lạnh của trời đông đất Bắc. Ông tôi mất giữa lúc chiến tranh Thế giới thứ hai đang bùng nổ, và ở Việt Nam người ta đã thấy ảnh hưởng của Nhật Bản nổi lên giữa sự đè nén độc địa của người Pháp.
Tuy đã 14 năm qua, nhưng tôi còn nhớ lắm, tôi có thể hình dung được lại hết mọi cảnh vật ở trong gian phòng ông tôi dưỡng bệnh cũng như bên ngoài gió bấc đang heo hút thổi. Trong lời trối trăn của ông tôi, tôi nhớ nhất một câu ông tôi than tiếc. Lúc ấy ông tôi nói với tôi, vì cả nhà, ông tôi chỉ cho tôi là người gần và hiểu ông tôi nhất.
Ông tôi bảo:
- Cháu ạ, ông chết đi, năm nay ngót bẩy chục tuổi, ông cũng không còn tiếc gì đời nữa. Ông chỉ hơi ân hận một nỗi là không được sống thêm mấy năm nữa để nhìn sự thống trị của người Tây sụp đổ và để xem bọn chúng cuốn gói khỏi nước Việt Nam.
Bình sinh ông tôi ghét người Pháp lắm, và ông tôi ghét lây cả những người đi làm cho Pháp cũng như những người
79