🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nếp Cũ – Làng Xóm Việt Nam - Toan Ánh Ebooks Nhóm Zalo Nhận diện một làng quê Tôi sinh ra ở làng tôi. Nhỏ, tôi đi học ở làng, và ở làng cho đến lớn, cho đến một ngày ra tỉnh rồi tôi ra Hà Nội. Lâu lâu tôi lại về làng. Làng tôi vẫn như xưa, vẫn như hồi tôi còn để chỏm, ngày ngày cắp sách tới ông đồ, ăn mày đạo Thánh dăm ba chữ. Làng tôi không thay đổi gì, từ hình thể đến dân làng. Có khác chăng đó là những thằng bạn thả diều, đánh bi của tôi từ thuở nhỏ đã lớn, những cái đĩ thằng cu, xưa kia đầu chốc, cởi truồng, đã thay hình đổi dạng thành những cô gái làng xinh đẹp đỏm dáng, thành những cậu trai làng khỏe mạnh cần cù thương yêu miếng đất mảnh vườn, xoắn xuýt với thửa ruộng mẫu ao... còn những cô gái làng xưa, nay đã có chồng, có cô lại con dắt con díu, con bồng con mang. Ngắm lại những cô gái xưa tôi thầm yêu trộm nhớ đã là những thím nọ, mợ kia với chiếc áo hở lườn, với đôi vú thỏng dưa gang, vừa vội vã đi hớt bèo cho lợn, vừa vội vã tắm cho ba bốn đứa con thơ, tôi giật mình thấy thời gian đi mau chóng. Câu ca dao ở đâu phảng phất tới với tôi: Anh đi em chửa có chồng Anh về con dắt, con díu, con bỗng, con mang Con thì chẻ nứa đan sàng Con thì cắp sách, con mang cạnh sườn! Và những thằng bạn thuở nhỏ của tôi, thường cùng tôi vật nhau lúc chăn trâu, thường tôi ê-a quyển ''Hán tự Tân thu'' cũng đã là những anh chồng ngoan ngoãn chăm lo vườn tược ruộng nương, có anh đã có hai ba con! Anh nào anh ấy bộ mặt nghiêm trang đứng đắn, đi ra khỏi ngõ là áo dài khăn lượt trông thật đạo mạo. Những người lớn thì đã bắt đầu già. Có người tóc điểm hoa râm, có người mắt đã bắt đầu đeo kính. Còn các cụ già, nhiều cụ đã không còn nữa! Các cụ đã ăn xôi nói theo danh từ hài hước quê mùa! Hỏi thăm các cụ, các người thản nhiên trả lời: Các cụ đi với ông sáu Tấm! Ấy cái khác của làng tôi chỉ có thế! Còn đâu vẫn vào đấy. Cổng làng Đầu làng vẫn chiếc cổng xây, hai bên hai rặng tre kéo dài, dài cho đến hết vòng làng. Trên cổng làng chiếc mái hơi cong cong và dưới mái mấy chữ nho đóng khung trong một hình chữ nhật hầu như gần mờ nhạt hết, nét mực đen trên nền trắng cũng đã đổi màu vì phong sương với lớp rêu lờ mờ phủ. Hai bên cổng, thành hình hai cột trụ, vẫn đôi câu đối tự bao giờ, chữ không còn hẳn rõ mực, nhưng vì đắp nổi lên, nên trải qua bao mưa gió, rêu phủ lờ mờ, đôi câu đối vẫn rõ ràng với người tỉnh mắt. Đường làng Con đường từ ngoài đi vào làng cũng vẫn chẳng khác xưa, đi từ đường cái lớn, ngòng ngoèo trên những bờ ruộng, xuyên qua cổng đầu làng, đi vào trong làng, rồi dần dần đi suốt làng cho tới cổng cuối làng. Cổng cuối làng cũng chẳng khác gì cổng đầu làng, nếu không có những chữ đại tự ghi trên cổng, không giống những chữ đại tự ở cổng đầu làng cũng như đôi câu đối hai bên thành cổng mà nội dung khác hẳn đôi câu đối ở cổng đầu làng. Đến đây con đường lại chui qua cổng cuối làng để ra đồng ruộng, bỏ mặc hai rặng tre, hai bên cổng, của lũy tre làng ngơ ngác. Con đường đi như dường luyến tiếc làng tôi uốn éo qua mấy bờ ao, mấy bờ ruộng cho tới mãi xa xa mới chịu ẩn mình dưới những ruộng mạ con gái xanh mơn mởn ở hai bên. Con đường làng này, không phải nó đã đi thẳng một mạch từ đầu làng tới cuối làng đâu. Vào trong làng nó đã tách ra làm năm bảy nhánh đi vào năm bảy xóm lượn qua những bờ ao vườn chuối để đi đến tận từng nhà. Có một nhánh đường đi thẳng một mạch từ con đường chính tới cửa đình làng, rồi đi men đình để vào một xóm mé trong. Lại có một nhánh, sau khi tách rời khỏi con đường chính, đi ngay vào chiếc giếng giữa làng có lẽ để thăm ngó các cô gái làng kín nước và để nghe các cô nói chuyện bông đùa với nhau, gán cho nhau những anh trai làng xem chừng có ý ngấp nghé các cô! Tiếng cười các cô giòn giã, giọng nói các cô trong trẻo ngây thơ! Giếng làng nằm dưới một gốc đa lớn bóng vùng rất xa làm râm mát cả một khu. Cây đa không biết mọc tự bao giờ và mọc ở đó tới đến bao giờ? Khi tôi lớn lên cây đa đã có, và mẹ tôi cũng đã bảo tôi hồi nhỏ mẹ tôi cũng hàng ngày ra giếng gánh nước và nghỉ mát dưới gốc đa. Rễ đa lủng lẳng muốn ăn xuống tới đất, nhưng chỉ lủng lẳng vậy thôi, khó bao giờ mà ăn xuống đất được, vì lũ trẻ con chúng tôi đời đời thường níu lấy rễ cây đánh đu, khiến cho rễ cứ trụi dần và chỉ dài tới một mức nào là hết cỡ. Cây đa ở giếng làng như có vẻ hiền từ. Dưới gốc đa loáng thoáng vài ba chiếc bình vôi, thỉnh thoảng có người tới cắm dăm ba nén hương! Và chỉ có thế thôi, không có bàn thờ, cũng không có bình vôi treo lủng lẳng vào các rễ phụ như ở cây đa đầu làng. Cây đa đầu làng Cây đa đầu làng quả thật dễ sợ hơn cây đa trên bờ giếng. Cây đa trên bờ giếng đã già, nhưng cây đa đầu làng lại cổ thụ hơn. Trông to lớn vô cùng với nhưng rễ phụ ăn hẳn xuống đất cũng đã biến thành những thân cây khác. Dưới gốc cây rễ bò lổm ngổm, khi nổi trên mặt đất, khi lửng lơ nửa chìm nửa nổi tạo nên những cái hốc ăn sâu vào rễ cây, hoặc ăn sâu xuống mặt đất. Các cụ bảo rằng trong các hốc đó có ngựa ngài ở, và các cụ giải thích ngựa ngài là những cặp rắn có mào, có khi là những cặp rắn trắng toát với mào đỏ chót. Không biết các cụ có đã trông thấy ngựa ngài thật không nhưng nghe lời các cụ tả, khi thế này, khi thế khác, và các cụ bảo ngựa ngài có phép biến hóa, muôn hình vạn trạng. Ngay ở gốc cây đa, không biết ai đã xây từ bao giờ một bàn thờ nhỏ, với bài vị có bốn chữ Đại thụ linh thần. Bàn thờ có bát hương, hàng ngày hương nghi ngút cháy, và chân hương bao giờ cũng chật ních, màu đỏ xen lẫn màu xám của tàn hương. Lại có bình hoa, thường thấy cắm mấy bông huệ, mùi thơm quyện với mùi hương theo gió lan tủa ra xa. Hai bên mé bàn thờ là những bình vôi không biết của ai mang tới đặt ở đấy, to nhỏ đủ hạng, vôi ở miệng bình đã khô, và nhiều bình vôi màu trắng đã ngả sang một màu khác, màu tro nhạt hoặc màu vàng xám. Và cả ở những rễ cây cũng lủng lẳng theo những hình vôi, mỗi cơn gió mạnh lại đưa đi đưa lại, các cụ bảo đêm hôm trông như những chiếc đầu lâu của bọn giặc Cờ Đen khi bị giết và bị bêu đầu. Ở bàn thờ, còn có mấy đài rượu, mấy trăm vòng hoa ngũ sắc, và ở bên cạnh có treo những đôi hài xanh đỏ, những chiếc nón chóp, nón thượng bằng giấy trắng hoặc giấy màu với những quai tua sặc sỡ. Đấy là những nón của các bà, các cô, các cậu trú ngụ tại cây đa. Gặp những ngày có gió, gió rung lá đa, gió lùa vào những cành đa rít lên như những tiếng hú, đêm khuya nghe rất ghê rợn. Rồi những lá vàng rụng xuống, lác đác, lạnh lùng như tiếng thì thầm của những âm hồn đang cùng nhau to nhỏ ở các cành đa. Những câu chuyện về cây đa đầu làng Theo lời các cụ, những đêm khuya thanh vắng có các bà các cô đánh võng trên cành cây, tiếng kẽo cà kẽo kẹt vang đi rất xa, lại có bà vừa đánh võng vừa ru con, tiếng hát véo von thật là thánh thót. Có cụ nói rằng, áo các bà xanh đỏ lờ mờ ẩn hiện những đêm sáng trăng xuống. Ai đi về đêm, bắt gặp các bà các cô đánh võng đều phải nín thở cắm đầu cắm cổ chạy cho mau. Lại có người bảo, sáng sớm, những người đi làm đồng hoặc đi chợ qua gốc đa, có khi gặp bóng hai ba cô áo màu tha thướt tóc vấn đuôi gà, tung tăng đi từ cổng làng đến gốc đa thì biến mất. Nghe nói mà rợn gáy! Thủa còn nhỏ, tôi không bao giờ dám đi qua gốc đa vào lúc chạng vạng tối, hoặc khi trời chưa sáng hẳn và cũng không bao giờ, khi có việc đi qua đầu làng tôi lại dám dừng chân đứng lại nơi này. Phải qua đó là tôi rảo cẳng bước cho mau. Còn khi tôi đã lớn, ra tỉnh và Hà Nội ở, thỉnh thoảng có dịp về làng, cũng rất ít khi tôi đi qua nơi đây vào lúc tối trời. Có một đôi lần qua đó, chỉ thấy âm u vắng vẻ với một sự yên lặng tĩnh mịch đến lạnh người. Gió đông nổi lên, lá trên cây xào xạc, mùi hương lẫn mùi hoa huệ ở bàn thờ đưa ra thoang thoảng giữa gió khuya... Đêm khuya, nếu có tiếng chó cắn nhát gừng về phía đầu làng, các nhà các cụ bảo các con: Các bà các cô lại đi thăm làng! Cây đa đầu làng cứ xanh tốt và sự hãi hùng của dân làng vẫn tồn tại đời này qua đời khác đối với những câu chuyện đã được kể lại về cây đa, về những ông bình vôi, về bàn thờ và nhất là về các bà, các cô, các cậu... Dân làng hãi hùng nhưng dân làng vẫn kính cẩn không ai dám buông một lời nhạo báng, và cũng chẳng ai bảo ai là mê tín dị đoan. Những ngày rằm, mồng một, những ngày lễ lạc, nếu người ta có cúng lễ ở nhà, nếu người ta có lên lễ ở chùa, thì ở gốc đa này, nơi bàn thờ cũng có nhiều bà nhiều cô trong làng mang đồ tới lễ bái. Những hôm đó, quang cảnh gốc đa đỡ vắng vẻ âm u. Cây đa đầu làng, thường làng nào cũng có, và có lẽ cây đa nào cũng tương tự giống nhau. Câu ca dao ta có nhắc tới cây đa: Đầu làng có một cây đa Cuối làng cây gậy, ngã ba cây dừa Dù anh đi sớm về trưa Xin anh nghỉ bóng mát cây dừa nhà em! Bóng mát cây dừa có lẽ có người đi sớm về trưa dừng chân nghỉ cho đỡ mệt nhất là trai gái làng, còn bóng mát cây đa, quả thật ở làng tôi, tôi không thấy mấy ai dừng chân nghỉ bước! Qua đấy người ta ngả nón đi cho mau, và ngày xưa người ta còn cưỡi ngựa, tôi còn được nhắc lại là người ta vẫn xuống ngựa dắt đi qua bàn thờ hẻo lánh này. Hẻo lánh vì cây đa ở đầu làng ngoài lũy tre xanh, hẻo lánh vì tuy gọi là đầu làng, nhưng khi đi khỏi cổng làng chưa phải là có nhà cửa dân làng ngay, hai bên đường làng ở nơi đây còn có mấy ao cá, mấy vườn cây vắng vẻ. Ông bình vôi Ở trên có nói tới các bình vôi đặt ở gốc đa bờ giếng cũng như gốc đa đầu làng. Đây là phong tục dân quê. Dân Việt Nam thường ăn trầu, và mỗi miếng trầu gồm một miếng lá trầu không, có quệt chút vôi cuộn tròn lại, công việc này gọi là têm trầu, một miếng cau một miếng vỏ cây. Do sự ăn trầu của toàn dân Việt Nam trước đây nên mỗi nhà đều có một bình vôi, và tục còn cho rằng bình vôi tượng trưng cho quyền nội tướng của bà nội trợ nên được gọi tên là ông bình vôi. Bình vôi đựng vôi, vôi trên mép khô dần vì mỗi khi lấy vôi ra nhiều, người ta lại quệt vào mép bình. Sau một thời gian, miệng bình vôi nhỏ dần, cho đến ngày bị lấp hẳn và bình vôi không dùng được nữa. Bình vôi này, người ta không đem vứt đi, vì xưa nay vẫn được tôn trọng là ông bình vôi, mà người ta đem đặt tại miếu thờ, tại gốc đa, gốc si, gốc đề, nơi có thờ, hoặc tại bên các đình chùa. Do đó các cây đa đầu làng, dân làng thường mang những bình vôi cũ tới để, và có người lại đem buộc hẳn lên các rễ đa treo lủng lẳng. Lũy tre làng Cây đa cách lũy tre làng đến ngoài chục thước, những cây tre ngả đầu xuống, những cành đa như vươn tay ra, đôi bên cũng còn cách nhau một quãng khá xa. Lũy tre làng tôi giống bất cứ lũy tre làng nào, bao bọc chung quanh làng, hai rặng tre hai bên đi từ cổng đầu làng tới cổng cuối làng. Tre già thì măng mọc, luôn luôn lũy tre lúc nào cũng xanh tốt, và chịu đựng đủ nắng mưa gió rét. Tre mọc rất dày, lũy tre che chở cho làng. Bên trong lũy tre đôi nơi có ao cá, có vườn rau, hoặc có khi một vài ngôi nhà không cách xa lũy tre là mấy. Có những gia đình ở gần lũy tre, đất cát ăn liền với lũy tre; những gia đình này đôi khi có người trổ một chiếc cổng gai để tiện đường ra ngoài ruộng, khỏi phải đi qua cổng làng. Chiếc cổng gai này, ban ngày tuy mở nhưng ban đêm bao giờ cũng đóng kín để đề phòng bọn đạo tặc. Nếu ai có dịp đi qua cánh đồng nhìn vào làng tôi gặp lúc chiếc cổng tre giương lên, một cô gái làng chít khăn mỏ quạ, mặc ăn cánh nâu non, yếm mỡ gà với khuôn mặt trái xoan, với hai con mắt long lanh sáng, điểm thêm nụ cười chúm chím như hoa hàm tiếu, tuy vậy cũng để lộ mấy chiếc răng cửa đen nhức như hạt huyền và đều đặn như hạt lựu giữa đôi môi tươi thắm, ắt phải có cảm tưởng như được ngắm một bức tranh linh động giữa thiên nhiên. Cô gái làng có thể đang đứng bên cột tre, một tay giơ cao vịn vào cành tre. Cô đứng làm gì? Ai có biết, nhưng nhìn cô thấy đáng yêu với vẻ ngây thơ. Có khi cô lại cất tiếng hát vài câu ca dao, tiếng vang êm ái nghe thật là quyến rũ: Chẳng tham ruộng cả ao sâu Tham vì anh tú tốt râu mà hiền, Chẳng tham ruộng cả ao liền, Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ. Hỡi ai là anh tú, hỡi ai là anh đồ, nghe cô ca lòng có động lòng chăng tá? Cô gái quê quả thật là bông hoa của đồng ruộng! Cô đã làm cho bao chàng trai say mê, và chính cô cũng đã từng bao lần tơ lòng rung động trước nỗi niềm tha thiết của những trai làng! Chiếc cổng ở giữa lũy tre, thường là chiếc cổng tán cho nên lúc đóng mở không phải đẩy ra đưa vào, mà phải giương lên hạ xuống. Cả chiếc cổng là một khung tre, có những cành tre buộc chặt níu vào thành khung, giữa khung treo chiều ngang là một thanh tre nguyên ống để giữ cho khung cổng được chắc chắn. Chiếc khung tre này hình chữ nhật, to bằng chiếc cổng gỗ với cả hai cánh, phía trên, được buộc vào một thanh tre ngang, buộc không chặt lắm, nhưng dây chắc để cổng có thể giương lên hạ xuống dễ dàng. Cổng giương lên có chiếc cột đỡ, chiếc cột tre đóng chắc vào giữa thành mé dưới cổng và cao bằng chiều dọc cổng. Khi cổng hạ xuống, cột tre này được lồng vào một chiếc cọc đóng dưới đất qua một lỗ đục suốt thân cột để giữ cho người ở mé ngoài không thể tự mở lấy cổng được. Thường thường ban đêm, có thêm những cành tre gai đắp vào cổng cho cổng thêm chắc chắn. Chiếc cổng tre tuy đơn sơ nhưng rất đắc dụng và kẻ gian phi cũng không phải dễ dàng gì mà qua lọt được cổng này. Cánh đồng làng Cô gái quê đứng trước chiếc cổng tăng vẻ đẹp cho lũy tre làng, và ở nơi đây nhìn ra cô thấy cánh đồng làng bát ngát, những thửa ruộng nối liền những thửa ruộng, tùy theo từng tháng trong năm đây là những ruộng lúa đã chín vàng, cây lúa bông nặng trĩu ngả đầu xuống bờ ruộng hoặc đây là những ruộng mạ mới cấy, mạ xanh mơn mởn như tơ nõn. Theo những luồng gió, hương lúa hương mạ mát dịu hoặc thơm phức bốc lên. Trên không trung vài con cò trắng vụt bay qua, rồi bỗng sà xuống một thửa ruộng giữa cánh đồng. Xa xa, vút tầm mắt, một ngôi làng với lũy tre xanh bao bọc, như một chiếc cù lao nổi bật trên đồng ruộng. Cảnh một làng quê Việt Nam, làng tôi cũng như hầu hết trăm nghìn làng khác ở trung du và trung châu, bên ngoài thường tương tự như nhau. Các tác giả ngoại quốc rất chú ý tới làng mạc của chúng ta, và dưới ngòi bút của họ làng quê chúng ta thường được tỉ mỉ tả lên với những thưa ruộng, với lũy tre xanh tốt. Ruộng nương... Thật là linh hoạt, và quang cảnh vui tươi. Không một chút gì giống những đồng lầy đất nước chúng ta. Ở đây, mỗi mẫu đất ẩm thấp đều được trồng trọt, chăm nom và có người. Trong khoảng không đầy một mẫu đất, có thể đếm được tới trăm chiếc nón chóp của dân làng. Khắp mọi chỗ, người dân quê đều làm việc, gập mình xuống, cấy lúa. Hoặc hái trong tay, họ gặt lúa. Nơi khác, họ đang cày ruộng, đi sau những con trâu. Lại có những con trâu khác nghỉ ngơi, đầm mình trong nước sâu hơn chỉ lòi lên những chiếc đầu với sừng và mình đen, ở trên ngồi chồm hỗm một chú bé trần truồng. Thỉnh thoảng một đàn cò trắng vụt bay lên.[1] Tác giả tả cánh đồng một làng quê Việt Nam có thể là làng tôi, mà cũng có thể là bất cứ làng ai cũng được. Cánh đồng làng nào mà chẳng vậy, bao giờ chẳng có người làm đồng, bao giờ không có mấy chú bé chăn trâu, và nhất là những đàn cò trắng, đồng quê ở đâu mà không có! Làng tôi nằm trong lũy tre xanh, giữa cánh đông bát ngát... [1]. La rizière... Qu›etle est vivante, gaie d›aspect! Elle ne res semble en rien au marais de chez nous. Chaque lopin de terre humide est ici cultivé, soigné, peuplé. Dans moins dun hectare vous comptez les chapeaux coniques de cent villageois. Partout, des gens travaitlent, penchés, repiquant les pieds de riz. Ou, serpe à la main, ils récoltent. Ailleurs, des hommes labourent, dernère les buffles. D›autres buffles au repos, se baignent dans leau plus profonde d›où émergent seulement leurs têtes encomées et leur échine noire oùs ‹accroupit un enfant nu. À chaque instant se lève un voi d‹aigrettes blanches. PIERRE BILLOTEY, - L›lndochine en Zigzags. - Albin Michel éditeur, 1929. Text of Footnote. Sông làng Làng tôi lại có một con sông, không phải, đúng ra là một con ngòi nhỏ. Con ngòi này, chỉ rộng hơn một con kênh, không chảy qua làng, chỉ lượn qua cánh đồng làng như muốn đem làn nước bạc tương phản với lúa xanh xanh. Con ngòi tuy nhỏ nhưng rất có ích cho làng tôi. Đồng ruộng nhờ nó thêm màu mỡ, dân làng, nhiều gia đình sống thêm về nghề kéo vó, đánh cá ở dòng ngòi. Một vài người, tuy có nhà đất trong làng, nhưng vì đặt lờ, đặt lưới, giương vó đêm đêm ở con ngòi, lại có thêm ruộng nương ở bên kia ngòi, đã cất hẳn một ngôi nhà lá ở bờ ngòi để tiện việc làm ăn. Và mỗi lần đi qua ngòi, họ đi qua một chiếc cầu khỉ rung rinh soi mình ngoằn ngoèo trên dòng nước. Không ở trong làng nhưng họ vẫn là người làng, họ vẫn sống theo nếp sống của dân làng. Họ vẫn đi lễ chùa làng, tham dự những tuần ước vọng ở đình làng, và gặp ngày phiên chợ làng, vợ con họ vẫn có mặt để bán hoa màu hoặc để mua sắm những vật dụng cần thiết như những người khác trong làng. Con cái họ vẫn đi học trong làng, và ngày xửa ngày xưa khi làng còn có các ông đồ dạy học, chính họ cũng đã làm học trò của những ông đồ này. Chợ làng Tôi đã nói đến chợ làng tôi! Chợ làng tôi không to lắm, cũng không ở hẳn trong làng mà ở ngoài lũy tre xanh, bên cạnh đường làng. Chợ có một quán chính năm gian, còn la liệt ở chung quanh quán là những ngôi lều tranh nhỏ, rộng không quá hai thước vuông. Cũng như các chợ khác, chợ làng tôi họp một tháng sáu phiên, cách bốn ngày lại đến ngày phiên chợ. Sở dĩ như vậy, vì ở vùng tôi có nhiều làng có chợ, phiên họp phải xích ngày đi để khỏi trùng nhau đến nỗi hai chợ cùng họp một ngày. Ngày phiên chợ làng tôi vui lắm. Trong làng ai có hoa màu gì muốn bán đều mang ra chợ, cũng như ai đan được ít rổ, rá, bện được ít chổi lúa, phất trần, hoặc làm thêm được bất cứ thức gì trong phạm vi tiểu công nghệ gia đình đều mang ra chợ bán. Hoặc có ai nuôi được lứa gà, lứa vịt đã lớn, hoặc nhà ai có đàn chó con mới đẻ, cân bán bớt, họ cũng đều nhân phiên chợ này mà tiêu thụ đi. Lại những người buôn thúng bán bưng, mấy cô hàng xén, cứ đúng ngày phiên là có mặt ở chợ làng tôi. Những người làng trên xã dưới, có hàng hóa gì, họ cũng mang tới chợ để bán, rồi mua đổi lấy những đồ ăn thức dùng khác. Đường làng ngày phiên chợ thật đông. Tác giả L'indochine en Zlggzags, ông Billotey đã tả quang cảnh này, không biết có phải đúng vào phiên chợ làng tôi không: Trên chính con đường, cả một đoàn người nối đuôi nhau đi. Phải chăng họ từ phiên chợ trở về, những người dân quê gánh nặng và đông đảo ấy? Họ bước thoăn thoắt vội vàng chiếc đòn gánh tre trên vai cứ lủng lẳng thõng xuống như hai đĩa cân, hai rổ sảo giống như hai chiếc ly hoặc, những thúng mủng. Trong những thúng, mủng này chồng chất nghìn thứ khác nhau, thóc, gạo, chuối, rau cỏ, hạt, cau,trầu, rơm, nồi đất buộc rất tài tình và nhiều thứ khác nữa.[1] Thì đã nói các làng quê giống nhau mà! Giống nhau về hình thức đã đành, mà còn giống nhau về sinh hoạt nữa. [1]. Sur la route elle-même, tout un peuple circule à la queue leu leu. Reviennentlls de la Foire, ces campagnards si nombreux, si chargés?lls trottinent, pressés portant sur l›épaule le fléau de bambou auquel pendent, comme les plateaux d›une balance, deux vanneries en forme de coupe ou des paniers cylindriqué, Là-dedans s›amoncellent mille denrées disparates, paddy, riz décortiqué, bananes, herbes graines sinconnues, noixd›arec, feuille de bétel, paille, marmites en terre cuite adroitement ficelées ét bien d›autres choses, encore. Những điểm tương đồng và dị biệt giữa các làng quê Đã ai có dịp đi thăm nhiều làng quê chưa nhỉ, và đã có những ai đi sâu vào trong những làng quê ắt phải nhận thấy những ngôi đình làng, ngôi chùa làng, bãi tha ma ở cuối hoặc đầu làng, cầu quán bên đường làng để khách bộ hành vào nghỉ chân cũng như những thợ làm đồng buổi trưa vào nghỉ mát, một vài ngôi miếu trong làng đều hao hao tương tự giống nhau, nếu có khác chỉ là những điều dị biệt rất nhỏ. Tới làng này, người ta có cảm tưởng như đã đi qua một lần nào nếu người ta đã có dịp đi thăm những làng khác vùng quê. Những làng ở trung châu hầu như cùng làm theo một kiểu mẫu, xếp theo một bức họa đồ tuy những làng ở men sông nước có khác những làng ở giữa cánh đồng bát ngát. Sự khác biệt cũng có thể có ở giữa một làng ở trung châu với một làng trung du nằm trườn mình bên một sườn đồi. Tôi nhớ lại một bài học thuộc lòng tôi đã dùng dạy các trẻ em ở các lớp sơ học về làng tôi: Làng tôi bé nhỏ xinh xinh, Chung quanh có lũy tre xanh rườm rà Trong làng san sát nóc nhà, Đình làng lợp ngói có và cây cau Chùa làng rêu phủ mái nâu Dân làng thờ Phật để cầu bình an. Chợ làng có quán năm gian, Ngày phiên thiên hạ buôn hàng rất đông. Giếng làng có mạch nước trong. Có cây đa mát bóng vùng rất xa, Trường làng rộng rãi bao la, Chúng tôi đi học trường nhà rất vui. Với đầu đề ''Làng tôi'', bài học thuộc lòng trên đã tả lên bất cứ một làng nào vùng quê Bắc Việt ở trung châu, cũng như miền ở Bắc Trung Việt. Chung quanh làng bao giờ cũng có lũy tre, dù làng nằm bên bờ sông hay trườn mình bên cạnh sườn đồi. Lũy tre che chở cho làng rất chắc chắn, nhiều khi lũy tre dày đến năm sáu thước, tre mọc san sát nhau súng bắn không qua. Ngoài tác dụng che chở cho làng chống cướp bóc, lũy tre còn cung phụng cho dân làng vật liệu để làm nhà, làm lạt, đan rổ rá và tạo nhiều đồ dùng thường nhật khác. Nhất xã, nhị, tam thôn Không phải mỗi làng chỉ có một lũy tre, có làng có đến hai ba lũy tre, mỗi thôn có một lũy tre riêng. Miền Bắc và miền Trung có nhiều làng nhất xã, nhị tam thôn, nghĩa là một làng có ba bốn thôn khác nhau, ở cách nhau một quãng đường, và giữa những thôn này và đồng ruộng, thí dụ như làng Kim Đôi, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh (Hà Bắc) nhất xã tam thôn: các thôn Ngọc Đôi, Quỳnh Đôi và Kim Đôi. Trong trường hợp một xã đôi ba thôn, mỗi thôn có lũy tre riêng và mỗi thôn có sinh hoạt riêng với giếng của thôn, đình làng thôn, và đi vào trong thôn phải đi qua cổng thôn xây dựng cũng như cổng làng, chỉ mấy chữ đại tự khắc mé trên nói lên đó là cổng của thôn nào. Gọi là sinh hoạt riêng, nhưng sinh hoạt vẫn phải phù hợp với sinh hoạt chung của làng, lệ làng vẫn là lệ làng chung, và những người lãnh đạo làng xã đều do các thôn bầu chung lên. Có nhiều làng không phải nhất xã nhị tam thôn, một xã chỉ là một xã, nhưng ngoài xã chính ra, làng lại có thêm một ấp nhỏ, ấp này vẫn ở trên địa phận làng, nhưng ở xa làng chính, do một vài người trong làng vì sinh kế lập nên với sự thỏa thuận của hương lý trong làng: một vài người giàu có, có nhiều ruộng, tọa lạc ở chỗ quá xa làng, họ lập nên ấp và mượn tá điền ngụ canh, hoặc bên bờ sông ở cách xa làng một số người làng sinh sống về nghề đánh cá, cùng nhau lập ấp ở bên sông. Một thí dụ tượng trưng cho ấp làng có thể kể được làng Thị Cầu huyện Võ Giàng tỉnh Bắc Ninh (Hà Bắc). Làng này có một ấp ở giáp mé sông Cầu gọi là Tân Ấp. Tân Ấp thành lập bởi một vài người làng, và có nhiều người ở nơi khác tới cư ngụ. Làng Thị Cầu có một viên lý trưởng chịu trách nhiệm về toàn xã, nhưng có hai viên phó lý, một để giúp việc lý trưởng về các công việc ở ngay làng và một ở Tân Ấp để giúp việc lý trưởng trông coi các công việc riêng thuộc về ấp này. Trong một xã có hai ba thôn khác nhau cũng vậy cả làng chỉ có một lý trưởng, nhưng mỗi thôn đều có thể có một phó lý riêng. Xóm Một làng có thể có nhiều xóm, và một thôn cũng vậy. Mỗi xóm là một khu làng, có một con đường đi vào tít trong xóm, dân xóm làm nhà ở hai bên, cổng ngõ quay ra đường xóm. Mỗi xóm cũng có cổng riêng gọi là cổng xóm. Làng xã Miền Nam Miền Nam làng xã hơi khác. Dân làng ở rải rác trên địa phận làng, không hợp nhau thành xóm, và chung quanh làng không có lũy tre xanh. Làng ở miền Nam thường rộng lớn hơn các làng miền Bắc, và chia làm nhiều ấp, và mỗi ấp ở đây có thể coi như một thôn miền Bắc có khi địa thế lại rộng và dân cư lại đông hơn một làng miền Bắc hoặc miền Trung. Làng Khánh Hậu thuộc quận Thủ Thừa, tỉnh Long An có tất cả sáu ấp: Ấp Dinh A Ấp Dinh B Ấp Mới Ấp Thủ Tựu Ấp Nhơn Hậu Ấp Cầu Sáu ấp chung hợp lại một làng, (xã), có một chủ tịch xã, riêng mỗi ấp có một trưởng ấp để trông nom công việc hàng ấp. (Ấp ở Nam coi như thôn ở Bắc vậy). Đại để việc tổ chức ấp xã ở miền Nam, tuy có khác, nhưng cũng không khác bao nhiêu đối với các thôn xã miền Bắc và miền Trung. Đất lề quê thói, sự khác biệt tất nhiên phải có để phù hợp với hoàn cảnh địa lý, với khí hậu và với dân tình, nhưng tuy có khác mà vẫn là giống nhau vì những đặc tính chung của dân tộc. Người miền Bắc vào Nam cũng như người miền Nam ra Bắc, khi phải sống theo nếp sống nơi đồng ruộng, người ta hòa đồng rất dễ dàng, và ở đất nước Việt Nam không có sự khác biệt về ngôn ngữ, về phong tục tập quán bao nhiêu giữa nơi này và nơi khác. Một người gốc ở ải Nam Quan gặp một người gốc Cà Mau, đôi bên không có gì không hiểu nhau, không giống như ở nhiều quốc gia, người miền này nói, người miền kia không hiểu. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc đồng nhất, thực dân dù có dùng chính sách chia để trị thì người Việt Nam bao giờ cũng chỉ biết thương yêu nhau, và ngoại tộc càng muốn chia rẽ, người Việt Nam lại càng đoàn kết hơn. Nguồn gốc làng xã Việt Nam Tôi trở lại ngôi làng tôi. Làng tôi có đã từ bao giờ không ai biết. Có tò mò hỏi, các cụ chỉ trả lời: - Làng có từ khi có làng chứ còn có từ bao giờ nữa. Chỉ nói lẩn thẩn! Có làng nghĩa là từ khi bắt đầu có người ở, có thể đầu tiên chỉ là một gia đình, rồi hai ba gia đình kéo nhau tới làm ăn, kiếm ăn được, trông trọt dễ thế là người nọ rủ người kia, đông mãi hơn lên rồi thành làng. Làng thành rồi là làng có mãi, mặc những cuộc thay đổi hưng vong. Làng xã Việt Nam là một cơ cấu vững bền trải qua những cuộc biến thiên của lịch sử nước nhà.[1] Làng xã Việt Nam có từ ngàn xưa, và làng Việt Nam là làng Việt Nam. Nhiều tác giả ngoại quốc như các ông Luro, Ory, Pasquier và Rouilly cho rằng cơ cấu làng xã là một cơ cấu bắt nguồn từ Trung Quốc[2] và ý kiến này cũng đã có nhiều tác giả Việt Nam chấp nhận, như ông Trần Văn Trai trong luận án tiến sĩ văn khoa năm 1942 ở Paris với nhan đề Gia đình phụ hệ Việt Nam.[3] Các tác giả trên đã căn cứ theo sự phân chia công điền công thổ tại nước ta, giống như phép tỉnh điền trong Chu lễ của người Trung Hoa, mặc dầu sự phân chia này không hoàn toàn giống hẳn như theo Chu lễ. Hơn nữa trong “Lịch triều Hiến Chương” của Phan Huy Chú từ quyển XXIX đến XXXII và ''Quốc dụng chí'' cũng có nhắc tới cách phân chia công điền công thổ của người Trung Hoa. Ý kiến trên thực ra không thể đứng vững được. Nguyễn Hữu Khang trong luận án Tiến sĩ về ''Làng xã Việt Nam, nghiên cứu lịch sử, pháp lý và kinh tế'' đã bác bỏ ý kiến trên và cho rằng ''Tất cả các nhà xã hội học đều đồng ý công nhận con người đã luôn luôn sống thành tập thể. Ngay từ ngày xửa ngày xưa, con người, sinh vật tập thể, đã cùng với đồng loại họp nhóm, dù chỉ là do thiên tính. Tập thể nguyên thủy, những bộ lạc đầu tiên nhất người ta đã tìm thấy, cũng những bộ lạc cổ xưa nhất, dù họ đã tụ hội trên ý tưởng quyến thuộc, liên hệ vì một ông tổ chung, có thực hoặc tưởng tượng, hay trên những đặc tính tương đồng hoặc dính dáng về sinh hoạt, hay, sau hết, chỉ bởi sự kiện đồng cư ở một nơi, đều chứng tỏ sự cần thiết thiết yếu và khởi thủy này của con người.[4] Người Việt Nam cũng như bất cứ dân tộc nào khác trên thế giới, lúc đầu tiên đã cùng nhau tụ hội rồi hợp thành làng. Có người là có làng, và đã có làng là có sinh hoạt cá nhân cũng như tập thể. Khi hỏi về làng tôi, như trên đã trình bày, các cụ trong làng không biết làng có từ bao giờ, và cũng không hề bao giờ các cụ nghĩ tới lúc sơ khởi của làng mình. Cũng có đôi cụ thỉnh thoảng nói với con cháu: Làng ta trước đây là đất hoang rồi các cụ tới khai phá lập nên làng. Thì cũng như các ấp sau này được lập nên. Những điều trên chứng tỏ rằng làng Việt Nam, làng tôi cũng như bất cứ làng nào khác, không phải đã thành hình vì rập theo khuôn mẫu của người Trung Hoa. Người Việt Nam sống họp nhau thành làng là do thiên tính của con người muốn sống quây quần tụ họp, và thiên tính này chính là thiên tính sinh tôn. Hình thể làng xã Nói về làng xã, ông Nguyễn Văn Huyên trong quyển “Văn Minh Việt Nam”[5] có phân biệt các làng theo hình thể. Theo ông, làng Việt Nam thường tọa lạc bên cạnh các dòng nước, và ở đằng xa trông như một túp cây xanh mọc hỗn độn nào tre, nào mít, nào muỗm, nào cây gạo, cây dừa v.v... Làng ăn theo chiều dài Những làng này có thể dài ngoẵng, nhà cửa cất dọc đường cái hoặc dòng sông như các làng Phù Đổng và Đông Viên nằm liền nhau theo bờ sông Đuống tỉnh Bắc Ninh (Hà Bắc) trên một chiều dài gần mười cây số, các làng Yên Sở, Đắc Sở ở Hà Đông (Hà Nội) làng Tiên Mỗ ở Vĩnh Yên (Vĩnh Phú) v.v… Tỉnh Thừa Thiên có làng Quế Chữ và Thanh Thủy cũng là những làng dài ngoẵng trên ba cây số, làng Quế Chữ dọc theo một dòng sông, còn làng Thanh Thủy đọc theo đường cái Miền Nam cũng có nhiều làng ăn theo chiều dài, như các làng Phú An và An Hóa tỉnh Kiến Hòa (Bến Tre) nằm dọc theo sông Ba Lai không dưới 16 cây số từ Đông sang Tây, làng Long Bình tỉnh An Giang, nằm theo kinh Rạch Lớn trên 8 cây số v.v... Làng nằm rải rác Cùng với những làng dài ngoẵng lại có những làng rải rác thành những cụm nhỏ nằm thành hàng theo những doi đất dọc theo bờ Nam Hải, như các làng Thần Huống và Lũng Đầu, phủ Thái Ninh, tỉnh Thái Bình giữa sông Trà Lý và sông Diêm Điền, làng Quất Lâm ở phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định (Hà Nam Ninh), các làng Cổ Ngãi và Đại Dư ở cửa sông Bassac và rất nhiều làng khác ven bờ biển Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Làng tựa ven đồi Lại có những làng tựa vào đồi như các làng Vân Khám, Long Khám và Khả Lễ ở Bắc Ninh (Hà Bắc), Chi Lai và Tiên Hội ở Kiến An, (Hải Phòng) làng Phú Trà ở Quảng Nam, làng Phú Thành ở Bình Định, làng Vĩnh Tế ở Châu Đốc, làng Ba Chúc ở An Giang v.v... Tựa vào đồi núi như vậy, dân làng sống bằng ruộng nương ở chân núi. Các loại làng khác Cũng phải kể tới loại làng thiết lập ở cạnh các đồn binh để dân làng tiện việc buôn bán với quân lính và gia đình như các làng Hòa Lạc ở Sơn Tây, ấp Suối Hoa ở Thị Cầu (Bắc Ninh, Hà Bắc). Lại còn một loại làng thành lập ở ngã ba ngã tư các trục giao thông. Đại loại về mặt hình thức làng mạc có thể phân loại như vậy, tuy nhiên cũng còn nhiều làng không thuộc hẳn về loại này, thiết lập một cách rất đặc biệt với dân cư lẻ tẻ, thôn xóm rải rác... Dù hình thức làng thế nào mặc dầu, các ngôi làng xa trông đều na ná giống nhau như đã nói ở trên, và nếp sống ở làng này cũng không khác làng kia bao nhiêu, nhất là khi các làng đó lại ở cùng một vùng. Được thành hình như ngày nay, mỗi ngôi làng đã trải bao cuộc hưng vong của đất nước kề từ lúc bắt đầu thành lập. Việc thành lập làng xã Về việc thành lập làng xã, như trên đã nói, có người là có làng, và làng lập nên là có người, nhưng nếu xét kỹ, một làng Việt Nam được tạo nên, rất có thể qua nhiều giai đoạn và bởi nhiều đường lối khác nhau. Có thể đầu tiên chỉ là một thôn nhỏ, rồi thôn này bành trướng lên thành xã, và xã lại chia làm nhiều thôn, do đó có các xã lớn, nhất xã nhị tam tứ thôn như đã trình bày. Xã thôn là một đơn vị dân cư họp thành trải qua nhiều đời khai thác đất đai để trồng trọt Xã thôn ở Việt Nam rất nhỏ.[6] Việc khai thác đất đai có thể phân biệt: a) Dân chúng khai thác. Trong những ngày đầu khai thác, một hay mấy gia đình cùng chung lưng đấu cật để đấu tranh với thiên nhiên, giành lấy sự sống. Trải qua nhiêu đời con cháu những gia đình này sinh sôi nảy nở nhiều thêm, số ruộng đất được khai thác nhiều thêm, thôn xã dần dần hình thành.[7] b) Đồn điền. Đây là những đồn điền do binh sĩ khai phá. Theo các sử gia đây là một hình thức mới mẻ xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ XV. Có lẽ đây là một lối bành trướng bắt chước theo người Tàu dùng cánh tay của quân lính để khai khẩn những đất đai biên giới (est, sans doute, un mode d’expansion imité des Chinois qui utillsèrent les bras des soldats pour coloniser les temtoires des frontières)[8] Xưa kia trong những thời bình, binh sĩ được dùng trong việc khai phá đất hoang, và nước ta đã tìm có riêng một loại quân lính về công tác này, dưới triều nhà Lê mang danh là Thục điền binh, những đất đai khai khẩn được là những đồn điền. Đồn điền thuộc quyền sở hữu của Quốc gia, nhưng một phần được chia cho các làng xã tân lập tại những nơi đây và những đất đai dành cho làng xã biến thành công điền công thổ của dân làng. Lúc đầu, khi đồn điền mới khai phá, có một vài gia đình, thường là vợ con binh sĩ, tới sinh sống, dần dần đông lên mới thành xóm, rồi thành làng. Khi đã có một làng tại đồn điền, đoàn Thục điền binh sẽ được đi tới một nơi khác để thành lập một tiền đồn mới tiếp tục công việc lập đồn điền. c) Lao trại. Lao trại là một hình thức đặc biệt của đồn điền. Những Thục điền binh sử dụng sức lực của tù nhân để giúp đỡ mình trong công việc khai khẩn đất hoang. Mục đích của chính quyền xưa, khi lập ra các lao trại, là để trừng phạt một số các tội phạm. Các tội nhân tới các lao trại sẽ được hoàn lương, và như vậy lao trại đã được lưỡng lợi trong một lúc: hoàn lương cải thiện những phạm nhân và có nhân công để khai khẩn đất hoang. Ấy là chưa kể chính quyền đã lánh xa cho dân chúng những người bất hảo, có hại cho an ninh trật tự. Những phạm nhân tới các lao trại có thể mang gia đình đi theo và họ lập làng ở đây. Làng xã lập xong họ được tự do sinh sống lương thiện, không ai còn nhắc tới quá khứ của họ nữa. Lao trại một khi biến thành làng, làng sinh hoạt như bất cứ một làng nào khác, và lao trại không còn là lao trại nữa. Và những lao trại khác sẽ được thành lập xa hơn ở những nơi đất đai chưa khai phá. d) Nông trại Các chính quyền Việt Nam luôn luôn nghĩ tới việc canh nông, lập ra các vị Dinh điền sứ có nhiệm vụ tìm kiếm đất đai để dân chúng cầy cấy. Những vị Dinh điền sứ kêu gọi những người tình nguyện đi lập làng ở những nơi đất cát phì nhiêu. Cụ Nguyễn Công Trứ đã thành công trong nhiệm vụ Dinh điền sứ. Cả vùng Phát Diệm, Kim Sơn cũng như cả huyện Tiền Hải đã do công lao của cụ tạo nên. e) Một ấp mới Nhiều khi làng xã đã có rồi nhưng đất đai quá rộng, nhiều dân làng có ruộng nương ở tận cuối địa phận đồng làng, hoặc những dân làng quá cùng túng, ruộng nương ít làm không đủ ăn, những người này hoặc để tiện trông nom ruộng nương của mình, hoặc vì lý do sinh sống, tìm cất một căn nhà nhỏ ở nơi mình có ruộng hoặc ở ven sông làng hay ven rừng làng để đánh cá làm củi, kiếm kế sinh nhai thêm. Lúc đầu chỉ có một gia đình, rồi dần dà có các gia đình khác tới, số người gia tăng mãi. Cho đến một ngày để tiện việc tổ chức họ xin phép thành lập một ấp mới hoặc một thôn mới của làng. Sau nữa, ấp hoặc thôn lớn rộng mãi, biến thành một làng riêng. Dù do cách nào, dưới năm hình thức trên, làng xã một khi đã thành lập cũng đều trở nên tương tự như nhau về mặt hình thể vật chất với lũy tre xanh bao quanh làng cũng như về mặt sinh hoạt với mọi tổ chức trong làng. Tên làng Làng đã lập thành, phải có một tên. Tên này có thể là một tên cũ, có từ khi mới có đồn điền, lao trại hay nông trại, cũng có thể là một tên sau này dân làng kén chọn lấy, để đặt cho văn vẻ. Tên làng có thể dựa theo một sự kiện nào do những người đầu tiên đặt rất nôm na như Gốc Sộp ở Thái Nguyên (Bắc Thái), vì nơi đây dân chúng quy tập chung quanh một gốc cây sộp, Rạch Dừa vì ở đây làng nằm bên một con rạch lại có trong dừa lúc ban đầu v.v... hay được kén chọn theo kinh sách đề đặt theo điền tích văn vẻ. Làng thôn Việt Nam thường có hai tên, một tên văn vẻ dùng trong văn thư giấy má, còn một tên nôm na dân làng và dân các xã lân cận gọi với nhau, thường gọi là tên tục. Tên tục này có thể gọi trạnh ở chính tên làng mà ra. Thí dụ: Làng Vị là tên tục của làng Phương Vĩ huyện Võ Giàng, Bắc Ninh (Hà Bắc). Làng Đọ là tên tục của làng Mỵ Độ huyện Việt Yên, Bắc Giang (Hà Bắc). Làng Son là tên tục của làng Giá Son huyện Yên Dũng, Bắc Giang (Hà Bắc). Tên tục này, có khi gọi khác hẳn tên chính làng. Thí dụ: Làng Cói là tên tục của làng Hội Hộp, huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh Yên. Làng Doi là tên tục của làng Ngư Đại, huyện Võ Giàng tỉnh Bắc Ninh. Làng Xưa là tên tục của làng Song Lư, huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang. Trên đây là những làng mang tên tục một chữ, có làng mang tên tục hai chữ, như: Chợ Cầu là tên tục của làng Kiều Thụy, phủ Thường Tín, Hà Đông (Hà Tây). Đầu Dàng là tên tục của làng Đặng Cầu, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên (Hải Hưng). Tên làng thường là hai chữ, nhưng cũng có khi mang tên ba bốn chữ. Phần nhiều đây là những làng trước họp với làng khác, sau tách ra nên để phân biệt, sau tên làng cũ có thêm một chữ để phân biệt làng nọ với làng kia. Thí dụ: Bần Yên Nhân, Trà Khúc Thượng, Vân Xa Đông, Phú Thọ Hòa, Tân Phú Trung v.v... Việc thay đổi làng xã Nhiều làng trước nhỏ sau to vì thành lập được nhiều thôn, hoặc có khi một hai thôn tự động cùng nhau xáp nhập lại thành một làng. Lại có nhiều làng trước to sau nhỏ, vì một hai thôn thấy mình đủ khả năng tự lập tách rời khỏi làng cũ để biến thành một làng riêng. Khi hai ba làng xáp nhập làm một, các đàn anh trong các làng cũ sẽ cùng nhau thỏa thuận để sự tổ chức của làng mới phù hợp với hoàn cảnh xáp nhập; Khi một thôn tách khỏi một làng cũ để thành một làng mới, sự tổ chức cũ của thôn sẽ sửa đổi theo đúng tổ chức của một làng. Việc xáp nhập cũng như sự tách khỏi làng cũ này phải được chính quyền hàng tỉnh chấp nhận và đề nghị với triều đình. Dưới thời Pháp thuộc tại Bắc Việt, việc sáp nhập hoặc tách rời này phải do nghị định của viên Thống sứ, người thay thế viên Kinh lược Việt Nam. Làng Việt Nam giống nhau trên những nét đại cương giống nhau từ lũy tre đến cổng làng, giống nhau từ ban kỳ mục tới việc thờ cúng theo nghi lễ - những làng ở miền Nam có hơi đôi chút khác biệt như trên đã nói. Làng thủy cơ Từ trên tôi mới chỉ nói đến những làng trên cạn, những làng này thường không khác nhau bao nhiêu, nhưng cũng có một loại làng khác hẳn với những làng đã nêu trên. Đó là những làng thủy cơ, thiết lập ở trên mặt nước còn được gọi là làng vạn, hay làng chài, gồm những người làm nghề chài lưới hay chở đò. Theo nguyên lý thì làng chài nào cũng phụ thuộc với một xã thôn ở trên đất.[9] Và như vậy làng chài chỉ là một thôn của một làng khác. Thực ra thì làng chài vốn là làng riêng mà nhà nước chỉ bắt theo về một xã thôn trên đất để tiện việc thu thuế, cho nên những dân thủy cơ tuy phải đóng sưu thuế cho lý trưởng mà vẫn không có liên lạc gì với xã thôn ấy cả. Làng thủy cơ thường là một đơn vị hành chánh độc lập, có đủ tổ chức như một xã thôn, hoặc thường thuộc vào một tổng với các làng ở cạn, hoặc nhiều làng họp thành một tổng thủy cơ riêng.[10] Đã gọi là làng phải có đình làng để làm nơi dân làng hội họp, và cũng phải có nơi để thờ cúng vị thành hoàng. Đình làng thường được xây trên một miếng đất làng đã mua được của một làng khác. Nhiều làng, đất không có, ngôi đình chỉ là một chiếc thuyền lớn hay cái nhà bè. Thành hoàng được thờ phụng ở đây, và khi có việc hội họp dân làng cũng tới đây. Làng thủy cơ nhiều khi là những làng lưu động, thường cả làng di chuyển từ nơi này qua nơi khác, chiếc đình làng cũng được di chuyển dời theo. Mỗi khi có cuộc làng thiên cư như vậy, dân làng phải lễ cáo thần linh. Vì làng thủy cơ là những làng sinh sống về nghề chài lưới hoặc chở đò, nên xưa kia Triều Đình thường cho phép những làng này được giữ độc quyền sinh sống trên một khúc sông. Ngày nay, thỉnh thoảng ta còn gặp những làng chài được khai thác một khúc sông nào, nhất là ở Bắc và Trung Việt, nhưng phải đóng thuế hàng năm cho nhà nước. Về hình thể, làng thủy cơ đương nhiên không giống những làng cạn, nhưng về sinh hoạt, về tổ chức, thì ở đây sự sinh hoạt tập thể, cũng như việc tổ chức làng cũng chẳng khác gì những làng cạn, vì ở cạn hay ở nước thì cũng đều là người Việt Nam, con Tiên cháu Rồng, với những tục lệ từ ngàn xưa của dân tộc. Và có thể nói rằng người dân ở trên cạn hay người dân ở làng chài, họ đối với nhau bao giờ cũng vẫn có tình thân mật, không bao giờ họ kỳ thị nhau. Tinh thần tập thể vốn là tinh thần cố hữu của người Việt Nam. Tấm lòng hiếu khách, yêu mến bà con họ hàng cũng là một đôi biểu hiện tinh thần ấy.[11] Vì hiếu khách, vì tinh thần tập thể nên dù ở cạn hay ở nước, người ta vẫn thương yêu nhau. Có nhiều trường hợp những người ở làng chài vui lòng mua đất tậu ruộng lên ở những thôn xóm trên cạn. Kết luận Làng tôi chỉ một làng Việt Nam với tất cả những gì của làng xã Việt Nam. Tôi nhớ lại làng tôi, tôi nhớ đến cổng làng, mặc dầu cổng làng tôi không có gì đặc biệt hơn cổng làng khác, thi sĩ Bàng Bá Lân, trong bài thơ Cổng làng chắc ông tả cổng làng ông, mà khi đọc lên tôi cứ tưởng ông tả cổng làng tôi và khi thấy ông nhớ tới làng xưa, tôi không khỏi nao nao trong dạ: Chiều hôm đón mát cổng làng, Gió hiu hiu đẩy mây vàng êm trôi. Đồng quê vờn lượn chân trời, Đường quê quanh quất bao người về thôn. * Sáng hồng lơ lửng mây son, Mát trời thức giấc, véo von chim chào. Cổng làng mở rộng ồn ào, Nông phu lững thững đi vào nắng mai. * Trưa hè bóng lặng nắng oi, Mái gà cục cục tìm mồi dắt con, Cổng làng vài chị gái non, Dừng chân uể oải chờ cơn gió nồm. * Những khi gió lạnh mưa buồn, Cổng làng im lỉm bên đường lội trơn. Những khi trăng sáng chập chờn, Kìa bao nhiêu bóng bên đường thiết tha. * Ngày mùa lúa chín thơm đưa, Rồi Đông gầy chết, Xuân chưa vội vàng, Mừng Xuân ngày hội cổng làng, Lá rơi chen chúc bao nàng ngây thơ. * Ngày nay dù ở nơi xa, Thăm quê, về đến cây đa đầu làng. Thì bao nhiêu cảnh mơ màng Hiện ra khi thoáng cổng làng trong tre.[12] Con người có cái mặt, làng quê Việt Nam có cổng làng. Thấy cổng làng là hình dung ngay được cả ngôi làng với bao nhiêu cảnh sinh hoạt quanh năm ở trong làng, suốt ngày này qua ngày khác, khi nắng, khi mưa, khi gió rét... Người dân Việt Nam yêu quê hương làng mạc, ít ai muốn rời xa xóm làng. Sống ở làng, sang ở nước. Phải rời bỏ làng mình thật là một điều bất đắc dĩ đối với dân ta. Ở làng sống với lệ làng, đó là điều mong mỏi xưa nay của người dân quê Việt Nam. Đừng ai quan niệm rằng người dân quê không muốn sống ở làng không muốn theo lệ làng, muốn đấu tranh để phá bỏ lệ làng, quan niệm như vậy là sai và nói như vậy tức là ngụy biện. Người dân quê muốn giữ lệ làng, muốn theo lệ làng để bảo vệ thuần phong mỹ tục, để duy trì nền đạo đức của dân tộc. Chẳng bao giờ người dân quê lại nghĩ những hình thức sinh hoạt cũ một phần là bọn bóc lột tạo ra nó chỉ có hình thức cộng đồng tập thể chứ không có nội dung.[13] Tại sao khi đã có hình thức cộng đồng tập thể lại không có nội dung, nhất là khi cái nội dung đó lại tiềm tàng trong tâm khảm của mọi người, và mọi người đều hoan hỷ lấy lệ làng làm mực thước trong cuộc sinh hoạt hàng ngày. Đổi một ngôi làng bé nhỏ đơn sơ lấy một thành phố đồ sộ huy hoàng, có lẽ chẳng mấy người dân quê ưng thuận! [1]. La Commune annamite est une institution qui a survécu aux vicissitúde de I›Histoirede notre pays. NGUYỄN HỮU KHANG Docteur en droit. La Commune Annamite. Etudes historique, juridique et économique. [2]. Luro trong Couls d›Administration Annamite, Oly trong La Commune Annamite au Tonkin, Pasquier trong I›Annnam d›Autregois và Roailly trong La Commune Annamite. [3]. La Famille Patriarcale annamite. [4]. Tous les sociologues s›accordent pour reconrlaitre que I›homme a touiours vécu en société. Dès les temps les plus reculés, I›homme, animal social, a formé avec ses semblables des groupements, fussent ils instindifs. La horde primitive, les groupements les plus anciens que I›on ait pu retrouver, comme les plus primitifs, qu›il ssoientfondés sur une idée de parenté. de rattachhement à un ancêtre commun, réel ou imaginai re, oou sur le caractère identique ou connexe des activités ou, enfin, sur le pur fait de I›habitat en un même lieu, démontrent ce besoin essentiel et originaire de I’homme). [5]. La civilisation annamite. - Collection de la Diredion de I›Instrudion publique de L›Indochine. 1944. [6]. Nguyễn Hồng Phong. - Xã thôn Việt Nam. - Nhà xuất bản Văn Sử Địa, Hà Nội, trang 127, 158. [7]. Nguyễn Hồng Phong - Xã thôn Việt Nam. - Nhà xuất bản Văn Sử Địa, Hà Nội, trang 127, 158. [8]. Nguyễn Hữu Khang - La Commune Annamite, Etudes historiqué, juridiques et éconnomiques. Librairie du Recueil Sirey, Paris, 1946. [9]. Đào Duy Anh - Việt Nam văn hóa sử cương. Nhà Xuất bản Bốn Phương. [10]. Đào Duy Anh - Việt Nam văn hóa sử cương. Nhà Xuất bản Bốn Phương. [11]. A.Pazzi (tức nhà văn Vũ Hạnh) Người Việt cao quý. - Hồng Cúc dịch. Cảo Thơm xuất bản, Sài Gòn 1965. [12]. Bàng Bá Lân. - Tiếng sáo diều, trong tập 'Thơ Bàng Bá Lân''. - Nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê, Saigon. 1957. [13]. Nguyễn Hồng Phong - Sách đã dẫn. Dân làng Đã có làng thì phải có người, không có người ở, làng sẽ không thành làng. Người ở trong làng tức là dân làng. Làng tôi dân cư đông đúc, đủ nam phụ lão ấu. Dân làng sống với nhau trong tinh thần cộng đồng sinh hoạt, ăn ở theo lễ nghi tập tục, kính già thương trẻ. Cứ kể nếu phân biệt ra, dân làng có thể chia làm hai loại, đó là dân nội tịch và dân ngoại tịch. Dân nội tịch Dân nội tịch là những người giàu có, có chức tước, có danh vọng trong xã hội. Ngoài ra dân nội tịch còn bao gồm những kẻ trước giàu mà bây giờ nghèo, nhũng người buôn bán và những người có chút ít tài sản. Tóm lại chỉ những người có tài sản mới được coi là dân nội tịch,[1] nhưng cũng lại phải là những người dân bản xã. Những người tới ngụ cư, dù giàu có, dù đã có xin phép vào làng, chịu những sự đóng góp phu phen tạp dịch của dân làng cũng chưa được coi là dân nội tịch nếu chưa vào làng được ba đời. Chỉ có dân nội tịch mới có quyền lợi dân đinh ở trong làng, được phép tham gia việc làng, được bầu giữ các chức vụ trong làng, được sung vào ban kỳ mục, được lên quan viên và quan hệ nhất là được chia công điền công thổ. Dân nội tịch trong làng tự chia ra làm nhiều bực, mỗi bực đều có quyền lợi và nghĩa vụ khác nhau. Chức sắc Trước hết phải kể các hàng chức sắc gồm những bậc khoa mục chức tước, văn thì đậu tú tài hay có hàm cửu phẩm trở lên, võ thì đậu cử nhân hay có hàm suất đội trở lên. Hương chức Sau hàng chức sắc là các hương chức, còn đương làm việc hoặc đã mãn nhiệm kỳ, nhưng không bị cách chức: tân, cựu chánh, phó tổng, lý, phó trưởng, hương trưởng, khán thủ, trương tuần. Hàng chức sắc còn kể cả những người bỏ tiền ra mua nhiêu mua xã trong làng. Thí sinh, khóa sinh Kể đến các Thí sinh, khóa sinh hoặc người trúng tuyển khảo hạch ở những làng hiếm văn học. Dưới thời Pháp thuộc, được dự vào hàng thứ ba này những người đậu được bằng sơ học Pháp Việt trở lên. Những ai đậu cao hơn bằng sơ học Pháp Việt, có thể được xếp vào hạng chức sắc. Quan viên Ba hạng trên này hợp lại làm một, gọi là hội tư văn và gọi là quan viên.[2] Những người có chân quan viên được coi là danh giá trong làng; khi ra đình hội họp có quyền ăn nói. Các tư gia, mỗi khi có việc khao vọng hiếu kỷ đều mời tới các quan viên. Và cũng chỉ các quan viên mới được mời tham dự việc tế tự trong làng. Tuy nhiên, muốn được dự hàng quan viên, trước hết phải có đủ lệ khao vọng, bằng không thì dù có chức tước gì cũng vẫn bị coi như hạng bạch đinh. Lệ khao vọng này, theo Đào Duy Anh, nguyên trước đây lệ triều đình đặt rất giản tiện, đại để như đỗ tú tài thì khao một con gà, một đĩa xôi và ba quan tiền, đỗ cử nhân thì khao một con lợn, một mâm xôi và năm quan tiền v.v... Nhưng Phép vua thua lệ làng, nhiều làng tự đặt ra những lệ nặng hơn, rồi các đương nhân lại ganh đua nhau muốn làm hơn lệ làng, cỗ bàn linh đình tốn kém. Đúng ra người đứng khao chỉ cần nộp đủ lệ vọng ấn định bởi lệ làng là được dự hàng quan viên rồi, nhưng ai cũng e miệng tiếng chê cười, nên lệ khao vọng do đó thành một sự tiêu phá quá đáng, mời họ hàng làng nước ăn uống đến mấy ngày. Ngoài ba hạng chức sắc, hương chức, và thí khóa sinh, dân nội tịch còn ba hạng nữa. Lão hạng Lão hạng gồm những người từ 50 hay 55 tuổi trở lên, tùy theo từng làng. Lão hạng cũng có lệ khao vọng và chỉ những người đã tuân theo đủ lệ làng mới được dự vào hạng lão, và được ngồi vào chỗ dành riêng ở đình. Khi một cụ tới 60 tuổi, sau tuần khao thượng thọ và nộp vọng cho làng được miễn trừ hết phu phen tạp dịch và cả thuế má nữa. Tuổi thọ rất được tôn trọng, ta có câu Triều đình thượng tước, hương đảng thượng xỉ, nghĩa là ở chốn triều đình, chức tước ở trên, còn chốn đình trung, tuổi tác ở trên. Chính vì tuổi tác được xếp ở trên, nên những người đến tuổi lên lão, khi năm mươi hoặc năm mươi lăm tuổi, nhiều làng gọi là lên xỉ, và trong các cụ lên xỉ, có một cụ là trưởng xỉ. Cụ này nhiều tuổi nhất trong các cụ lên xỉ. Lên xỉ được dân làng tôn là Bô lão. Trong các hàng bô lão cũng có sự phân biệt các cụ thượng và các bô lão thường. Thường các cụ thượng là những cụ từ 80 tuổi trở lên. Nhiều làng tôn bốn cụ Thượng nhiều tuổi nhất là Tứ trụ, gọi là cụ thượng nhất, cụ thượng nhì, cụ thượng ba và cụ thượng tư. Dân đinh Dưới lão hạng là dân đinh. Dân đinh gồm tất cả nam công dân ở trong làng từ 18 đến 49 tuổi, mỗi người là một xuất đinh. Hạng 18 tuổi ở nhiều xã, như ở làng Thị Cầu, huyện Võ Giàng tỉnh Bắc Ninh gọi là đại hạ, nghĩa là những người dưới nhất được tham dự vào chốn đình trung. Ti Ấu Dưới dân đinh là hạng ti ấu. Ti ấu là hạng trẻ con, tuổi từ lên 6, lên 7 đến 17 tuổi. Hạng ti ấu không được tham dự đình trung nhưng được dự vào hàng phe, hàng giáp và hàng xóm. Tuy nhiên, không phải bất cứ ti ấu nào cũng được tham dự, muốn tham dự, trước hết phải lo đủ lệ làng nghĩa là bố mẹ phải xin cho con vào hàng phe, hàng giáp, hàng xóm, rồi xin vào làng, khi xin vào làng phải nộp lệ vong. Với sáu hạng trên của dân nội tịch từ hàng chức sắc đến ti ấu ngôi thứ được phân chia để duy trì trật tự trong hương đảng. Trong làng có sổ hương ẩm, cứ chiếu theo sổ này mà định ngôi thứ. Trong ba bậc trên, các quan viên có thể vượt lên bậc cao hơn thứ bậc cũ, còn ngoài ra dân đinh cứ theo thứ tự ghi trong sổ mà tính ngôi thứ. [1]. Nguyễn Hồng Phong, - Sách đã dẫn. [2]. Phan Kế Bính, - Việt Nam phong tục, - Đông Dương Tạp chí 1914, 1915. Dân ngoại tịch Dân ngoại tịch gồm những kẻ cùng khó trong làng không có tài sản, không có học vấn khoa cử, và những người ngụ cư đã xin nhập tịch, như trên đã nói nhưng chưa đủ ba đời. Có nhiều làng, lệ làng rộng rãi dân ngụ cư sau khi nộp một món tiền lệ làng cũng có thể sung dân nội tịch được, nhưng chỉ được xếp vào hạng dân đinh, dù giàu có hoặc đỗ đạt, và khi lên lão không bao giờ được phép lên tới tứ trụ, mà chỉ được liệt vào hàng bô lão dù tuổi tác bao nhiêu. Quyền lợi dân làng Xét qua các đẳng cấp trên ở thôn xã ta thấy rằng chỉ có ba lớp trên trong hạng nội tịch họp thành các quan viên là quyền lợi nhiều và chiếm giữ các địa vị. Lão hạng cũng có quyền lợi, nhưng chỉ ở trong những buổi việc làng về tế tự, và khi ra đình được ngồi chiếu trên dành cho tuổi tác. Lớp dân đinh cũng như dân ngoại tịch không được quyền tham dự vào việc làng, phải chịu sự chỉ huy của mấy lớp trên, và phải chịu phần gánh vác mọi việc phu phen tạp dịch trong làng. Trong phần gánh vác này, những người ngụ cư phải chịu gánh nặng hơn dân đinh bản xã. Qua các điểm trên, ta thấy rằng, sự phân chia đẳng cấp trong thôn xã thật là phức tạp, và ranh giới giữa mọi đẳng cấp cũng thật nhiêu khê, nhưng thật tỉ mỉ. Có như vậy mới giữ được cái tinh thần ngôi thứ ở xã thôn, nó bảo đảm cho cái trật tự của làng xã. Tuy đẳng cấp được phân chia, nhưng không phải ở hạng nọ không lên được hạng kia, ngoại trừ người ngụ cư. Tại các làng đều có tục mua nhiêu, mua xã. Người dân bạch đinh có thể bỏ tiền ra mua nhiêu, mua xã, và được xếp vào hàng quan viên. Sự kiện này cũng dễ hiểu. Tiền mua nhiêu xã sung vào quỹ làng, và số tiền này sẽ dùng vào công việc chung của làng, người dân bỏ tiền ra mua nhiêu xã tức là ghé vai vào gánh vác việc làng, để đền đáp sự ghé vai này, lẽ tất nhiên phải có quyền lợi gì để những người dân khác trông gương đó noi theo. Ngoài ra, những kẻ hiếu học thi cử đỗ đạt cũng được xếp vào hàng quan viên, điều này chỉ là điều khuyến khích việc học. Với quyền lợi của hàng quan viên và của lão hạng, với sự gánh vách mọi việc phu phen tạp dịch của lớp dân đinh và của dân ngoại tịch, ta nhìn thấy sự bất công, nhưng ta phải thấy qua sự bất công này cái tinh thần tập thể của dân làng; dân làng dành quyền chỉ huy cho lớp người có văn hóa, có khả năng, có uy tín và có kinh nghiệm vì tuổi tác. Và sự bất công ta nhận thấy lại chính là sự công bằng đối với dân đinh. Lớp quan viên và lão hạng chịu trách nhiệm chỉ huy công việc làng xã phải được hưởng quyền lợi xứng đáng với trách nhiệm nặng nề đó. Có lẽ sẽ có người cho là không đúng vì tại nhiều xã thôn đã xảy ra những vụ dân đinh kiện các huynh trưởng trong làng. Xin thưa: đây là nạn cường hào ác bá, và nạn này chỉ xảy ra ở những xã phong hóa suy đồi, con người bị mê hoặc bởi quyền lợi, nhất là dưới thời Pháp thuộc, chính quyền Pháp tìm cách mua chuộc lớp cường hào để công việc đô hộ đỡ gặp những chuyện chống đối, và dùng lớp cường hào để làm tay sai đè nén và bóc lột dân chúng. Tại những nơi, nền đạo đức còn vững bền với những thuần phong mỹ tục, dân làng cùng nhau chung lưng đấu cật để lo sự hưng thịnh cho làng, các cấp chỉ huy trong làng đều là những người nghĩ tới làng, nghĩ tới dân làng, và dân làng chỉ biết tuân theo những hiệu lệnh của các cấp này mà họ tin là những người xứng đáng để họ tin cẩn. Họ chịu những sự gánh vác, họ nghĩ rằng đến phép vua, còn thua lệ làng, việc chịu đựng của họ chỉ là sự đương nhiên nếu họ muốn làng mạc yên ổn, không có trộm cướp, đê điều được trông nom cẩn mật v.v... Và ở nơi đây, tầng lớp chỉ huy, với sự thấm nhuần đạo đức Đông phương, đã chẳng bao giờ trở thành những cường hào ác bá bóc lột dân làng. Ta phải hiểu rằng tại nhiều xã thôn, những người nghèo được miễn sưu thuế, theo đúng lệ xưa, và ngay đến thời Pháp thuộc, số thuế mỗi làng phải gánh vác, tuy chính quyền tính theo sổ đinh, nhưng trong dân xã, người ta vẫn bổ bán với nhau giữa những người có khả năng đóng thuế và miễn cho hạng cùng đinh cũng như những người tàn tật già nua. Tứ dân Phân chia dân làng làm hai loại, nội tịch và ngoại tịch, nhưng trong hai hạng này đều gồm đủ sĩ nông công thương, bốn giới của dân cư. Đây là bốn giới phân biệt theo nghề nghiệp, không phải là bốn loại phân hạng của dân xã. Theo ông Gerald C.Hickey thì những nhà điều tra gần đây cho rằng ở các làng tại Bắc và Trung phần sự phân hạng như thế [1] vẫn còn tồn tại trước thời kỳ chiến tranh, và tiếp tục có một ảnh hưởng đến sự chọn lựa về nghề nghiệp. Vì tính cách tương đối cô lập của Nam phần, nên cách phân hạng sĩ, nông, công, thương chưa bao giờ trở thành rõ rệt trong xã hội hương thôn của lên Nam.[2] Nhận xét trên không sát với sự phân hạng của dân làng. Có nhiều làng cả làng đều làm thợ, lại có những làng khác cả làng đều đi buôn. Thường ra trong một làng mỗi hạng trong tứ dân đều có một số ít. Sự phân hạng theo đẳng cấp đối với các làng xã Việt Nam mới là một điều cần thiết, vì còn liên quan tới việc quản trị cộng đồng của thôn xã. [1]. Nghĩa là chia làm 4 hạng: sĩ, nông, công, thương. [2]. Gerald C. Hickey với sự cộng tác của Bùi Quang Đa, - Nghiên cứu một cộng đồng thôn xã Việt Nam Xã Hội Học, - Phái đoàn cố vấn Đại học đường tiểu bang Michigan tại Việt Nam, 1960, Võ Hồng Phúc dịch. Phân chia giai cấp ở miền Nam Ở miền Nam sự phân hạng dân chúng trước đây rất giản dị, tại các làng chỉ có các chủ điền và các tá điền. Chủ điền có ruộng nương, tá điền là người cầy cấy các ruộng nương của chủ điền và hàng năm nộp cho chủ điền một số tô tùy theo số lượng nhận khai thác. Cũng có thể nói, trong làng chỉ gồm hương chức và dân đinh. Hương chức là những người giữ các chức vụ trong làng, còn dân đinh là tất cả những người khác ở trong làng. Thông thường các hương chức phần lớn là các chủ điền, vì chỉ những người này mới được dân đinh tín nhiệm bầu ra. Đôi khi dân chúng cũng bầu vào chức vụ trong làng những bậc khoa cử và trí thức. Những người ngoại quốc, gần đây, nhất là người Mỹ khi khảo sát về dân chúng Việt Nam có lối phân hạng khác. Chúng tôi xin nhắc tại nơi đây để bạn đọc hiểu rõ sự phân hạng này tuy chúng tôi không hoàn toàn đồng ý. Theo họ dân chúng có thể phân biệt thành ba giai cấp: giai cấp thượng lưu, giai cấp trung lưu và giai cấp hạ lưu. Tuy có sự phân chia giai cấp nhưng đây chỉ là một cách phân chia để phân biệt ba hạng người trong xã hội, không phải là một sự phân chia để đấu tranh. Trong khi nghiên cứu về xã Khánh Hậu, quận Thủ Thừa, tỉnh Long An, ông Gerald C. Hickey đã nói đến sự phân hạng theo đẳng cấp này: Trên căn bản mức lợi tức kinh tế, phản ánh trong địa vị nghề nghiệp, số ruộng mà nông dân có hay mướn và nếp sống, người ta có thể chia Khánh Hậu ra làm ba giai cấp: Thượng lưu, Thượng lưu và Hạ lưu. Trong mỗi giai cấp, lẽ tất nhiên là có sự khác biệt nhau, nhưng những người trong cùng một giai cấp đều có một số đặc tính thông thường đủ để chứng minh sự kết hợp của họ.[1] Giai cấp thượng lưu Theo tác giả, giai cấp thượng lưu ở Khánh Hậu có thể nhận ra trong đám dân có trên 4 mẫu ruộng hoặc mướn trên 5 mẫu ruộng. Mức lợi tức kinh tế của những người này cho phép họ duy trì một nếp sống tiểu quý tộc. Ruộng nương của họ, họ cho mướn, hoặc thuê người làm. Họ có dư tiền làm công việc khác hoặc cho vay nợ. Ruộng nương sẵn, lại sẵn tiền, họ ở nhà gỗ mái ngói. Nếu nhà giàu ở miền Bắc có nhà ngói bể cạn cây mít, thì ở Khánh Hậu đây, giai cấp thượng lưu cũng vậy, và ở nơi đây, bể cạn lại càng cần hơn đề bảo đảm sự có nước dùng quanh năm, nhất là trong mùa nắng. Đồ đạc trong nhà của giai cấp thượng lưu cũng lịch sự với những bộ ngựa, bộ phản, bộ tràng kỷ chân quỳ chạm trổ theo lời cổ xưa, với những bát đĩa sang trọng đồ Tây hoặc đồ Tàu. Đàn ông ở giai cấp này thường mặc quần trắng áo dài đen, đầu để tóc, búi lại và đội khăn khi giao thiệp, còn thường ngày họ cũng mặc bộ quần áo bà ba trắng. Chân họ đi giày, dép hoặc guốc. Y phục của đàn bà ở giai cấp này hơi khó phân biệt với các giai cấp khác. Ở nhà họ mặc áo bà ba trắng, quần đen. Ra đường họ đội nón hay quàng lên đầu một khăn lông. Những khi cần thiết họ cũng mặc áo dài đen hoặc trắng bằng thứ vải tốt. Giai cấp trung lưu Đây là những người ruộng nương ít hơn những người ở giai cấp thượng lưu, phần đông họ theo nghề canh nông, tuy cũng có đôi người làm tiểu công nghệ để kiếm thêm cho quỹ gia đình. Họ thường có từ hai đến bốn mẫu ruộng, hoặc thuê mướn từ hai mẫu rưỡi đến năm mẫu. Công việc canh nông cung cấp đủ ăn cho gia đình, và để sinh lợi thêm, ngoài tiểu công nghệ họ còn nuôi thêm tiểu gia súc như lợn, gà, ngỗng, vịt... Nhà ở của giai cấp này thường là nhà gỗ mái lá, cũng có đôi nhà dành dụm làm nhà gỗ mái ngói. Đồ dùng trong nhà tuy không sang trọng cầu kỳ như đồ dùng của những gia đình thượng lưu nhưng cũng đẹp đẽ. Họ thường dùng những đồ chắc bền. Về y phục họ cũng tiện dụng hơn giai cấp thượng lưu. Lúc làm đồng họ ăn mặc đúng kiểu dân quê miền Nam: quần cụt, áo bà ba bằng vải đen, nón lá. Trông họ ta có thể lầm với những người nông dân nghèo ở giai cấp hạ lưu. Họ thường đi chân không khi đi làm đồng. Trong khi giao thiệp, họ mặc đồ bà ba trắng và đi guốc, nhưng trong những trường hợp quan trọng họ cũng khăn đóng áo dài. Ấy là đàn ông, còn đàn bà, họ ăn mặc tương tự như phụ nữ ở giai cấp thượng lưu. Ở trong nhà họ cũng quần đen áo bà ba. Ra ngoài, trong những trường hợp giao thiệp, họ mặc áo dài đen hoặc trắng, thường kén những thứ hàng ít đắt tiền hơn phụ nữ giai cấp thượng lưu. Giai cấp hạ lưu Giai cấp này gồm tất cả những người không ở hai giai cấp trên. Đây là những người thường không có ruộng nương, hoặc nếu có thì số ruộng cũng không đủ nuôi gia đình. Họ làm công cho những người ở hai giai cấp trên. Có nhiều người thất nghiệp ăn nhờ vào người khác hoặc làm những nghề nghiệp mà hai giai cấp trên không làm. Có người sống nhờ vào con cái, hoàn cảnh những người góa bụa, hoặc đi buôn thúng bán bưng. Thường tất cả mọi người trong giai cấp hạ lưu đều bó buộc phải tham gia vào công việc sinh kế để góp phần vào sự no ấm cho gia đình, kể cả trẻ em: đàn ông con trai đi làm mướn, đàn bà làm tiểu công nghệ hoặc buôn bán loanh quanh, con cái đi ở mướn, đi chăn trâu, đi kiếm củi, đi câu v.v... Nhà cửa của giai cấp này thường nhà gỗ mái tranh. Cũng có ít gia đình có nhà gỗ mái ngói, nhưng việc xây cất cũng giản dị hơn nhà cửa của hai giai cấp trên, lại chật hẹp chỉ đủ để gia đình trú ẩn. Đồ đạc trong nhà thường là những đồ rẻ tiền mộc mạc, và bày biện một cách đơn sơ. Có khi là những đồ cũ mua lại hoặc xin được của những gia đình giàu có. Giai cấp tại miền Bắc và miền Trung Việc phân hạng xã hội như trên tại xã Khánh Hậu, quận Thủ Thừa tỉnh Long An, liệu có thể tiêu biểu cho sự phân hạng xã hội tại các làng khác ở miền Nam nước Việt chăng? Sự phân hạng này chỉ nhằm trên mặt xã hội, vì tại bất cứ xã nào, cũng vẫn còn có sự phân biệt giữa những người giữ các chức vụ trong làng và dân đinh. Ở miền Bắc và miền Trung khi nói tới ba giai cấp, người ta thường căn cứ vào sự sang trọng phong lưu, và trình độ học thức và vào cách xử thế của con người. Những bậc thượng lưu là những người có học vấn, có địa vị, có uy tín và nhất là có đạo đức. Bậc thượng lưu không có quyền có những hành động hèn hạ của hạng hạ lưu. Giấy rách phái giữ lấy lề, một người được dân làng coi là bậc thượng lưu, dù ở trong hoàn cảnh túng thiếu cũng phải giữ lấy cái sĩ diện của mình, tỷ dụ như một ông đồ thường được dân làng kính trọng và coi vào bậc thượng lưu, không thể có những cử chỉ thô kệch, và cũng không bao giờ dù muốn kiếm tiền, hạ mình làm những công việc của hạng hạ lưu. Muốn đứng vững ở địa vị thượng lưu, con người phải giữ lấy cái giá trị của mình, phải đói cho sạch, rách cho thơm. Những người ở giai cấp trung lưu, ở địa vị trung bình. Có thể là người có nhiều tiền, và cũng có thể là người không có tiền, nhưng đây là những người tuy có học nhưng trình độ không bao nhiêu, chỉ thông văn tự, không có địa vị gì ở trong làng, nhưng là những người lương thiện và giữ được đạo đức để khỏi bị liệt vào hạng hạ lưu. Giai cấp hạ lưu là những kẻ hèn hạ, nhân phẩm thấp kém, bị dân làng coi khinh, thường làm thuê làm mướn nhưng lại thiếu căn bản đạo đức. Đây lại gồm cả những kẻ có án tích, những kẻ gian lận trộm đạo trong làng, và cả những anh cùng đinh, suốt đời không bao giờ đóng nổi xuất thuế thân đến nỗi dân làng phải gom nhau gánh vác hộ. Việc phân biệt làm ba giai cấp thượng lưu, trung lưu, và hạ lưu không ăn nhằm gì với việc phân biệt dân đinh thành nội tịch, ngoại tịch và chia đẳng hạng như trình bày ở trên. Một người ở giai cấp hạ lưu, vẫn có thể khi đến tuổi được dự việc làng nếu chịu khao vọng đủ lệ làng. Trong trường hợp này, thường thường các đương sự sau khi được dự vào việc làng, tư cách của họ cũng tự được sửa đổi để xứng với địa vị mới chốn đình trung và dần dần họ sẽ được người làng nhìn bằng con mắt khác và như vậy họ không phải ở giới hạ lưu nữa. Tuy nhiên, không phải bất cứ người nào cũng được khao vọng. Nếu là dân ngoại tịch, nếu là dân nội tịch cùng đinh mà suốt từ lúc thập bát cho đến khi đáo tuổi khao vọng không đóng nổi thuế đinh của mình thì cũng không được phép khao để nhập đình trung. Lại cả những người làm những nghề quá hạ tiện như làm mõ ở một xã khác hoặc liệt vào hạng xướng ca vô loài cũng không được khao vọng để nhập đình trung. Qua các điểm trên ta thấy rằng việc phân biệt ba giai cấp thượng lưu, trung lưu và hạ lưu ở miền Bắc và miền Trung không căn cứ vào khả năng kinh tế như người Mỹ nhận xét ở miền Nam. Phân hạng theo tuổi tác Phân hạng theo đẳng cấp hoặc phân giai cấp đều là những cách phân hạng nhắm vào địa vị, vào trình độ văn hóa, vào khả năng tài chính của mỗi người. Hai lối phân hạng này phải căn cứ vào những yếu tố bên ngoài mà không căn cứ vào chính con người. Người dân quê chất phác, mặc cho ai muốn xếp hạng mình ra sao, bảo mình là trung lưu, bảo mình là bạch đinh cũng không hề gì. Phần đông họ không quan tâm tới những điều mà các hương chức cho là quan trọng vì đằng nào dân đinh, họ cũng chỉ là dân đinh, miễn là đừng ai khinh miệt họ khi họ không có điều gì đáng khinh miệt. Họ vui lòng chịu tất cả những sự gánh vác trong làng mà mọi người phải chịu. Nếu có điều họ quan tâm tới, đó là tuổi tác của mỗi người trong làng, và theo họ phải có già có trẻ và sự phân hạng của họ là sự phân hạng theo niên kỷ. Đó là lối phân hạng thông thường ở các làng ngoài sự phân đẳng cấp. Các cụ già Trước hết phải nói đến các cụ già, tuổi đã cao, đầu râu tóc bạc. Dù giàu, dù nghèo, dù nam hay nữ, tuổi đời là tuổi trời, và đã được thọ thì được xếp vào hạng lão. Tuổi già được kính trọng và càng cao niên bao nhiêu dân làng càng kính nể chừng nấy. Các trẻ em trong bài học luân lý, cũng như trong những lời khuyên của phụ huynh đều có sự kính trọng người già. Ra đường gặp người già phải nhường bước, phải giúp đỡ. Một cụ già lỡ đánh rơi chiếc gậy, một em nhỏ gần đó phải nhặt lấy đưa cho cụ. Gặp người già, các em nhỏ phải chào kính, dù người đó giàu hay nghèo, dù người đó áo lành hay áo rách, dù người đó quen hay lạ, dù đây là một cụ ông hay một cụ bà. Và các cụ già khi được các em nhỏ chào bao giờ cũng tươi cười gật đầu nhận sự chào kính và tỏ lời khen ngợi các em. Có cụ hỏi thăm em là con cái nhà ai rồi khen con nhà này con nhà khác ngoan ngoãn lễ phép. Các em đối với các cụ già còn kính trọng huống gì người lớn. Những người không biết kính già nể tuổi thường bị mọi người chê cười cho là thiếu lịch sự. Sự kính trọng người già được thể hiện trong những tiệc thọ, tiệc lão ở trong làng. Nhiều làng mỗi khi xuân đến có tục rước lão và yến lão. Rước lão Đây là đám rước người già. Các cụ khi đến một tuổi nào, thường từ năm mươi tuổi trở lên, những làng đông dân đinh, từ sáu mươi tuổi, được dân làng tôn là Lão ông và Lão bà. Trong ngày xuân dân làng tổ chức một đám rước để rước các cụ tới đình. Các lão ông và lão bà tự tập một nơi, dân làng mang âm nhạc cờ quạt tới rước. Đám rước đi suốt làng để các cụ nhận sự chào mừng của mọi người, các cụ đi theo thứ tự tuổi tác, các cụ nhiều tuổi đi lên trên, các cụ ông đi trước, hết các cụ ông rồi mới tới các cụ bà. Các cụ mặc quần áo màu đỏ rực rỡ tượng trưng cho sự vui mừng. Các cụ ngồi trên cáng hoặc trên võng có dân đinh khiêng và có con cháu đi theo. Có nhiều địa phương, các cụ tới họp tại đình làng, từ đó dân làng sẽ rước các cụ đi một vòng quanh xã, rồi lại trở về đình. Tuổi già được trọng chung không kể nam nữ, tuy nhiên trong việc rước lão, nhiều nơi chỉ có các cụ ông được dự và được dân làng rước đón, còn các cụ bà tuy có thọ, tuy có được sự kính trọng của dân xã, nhưng cũng không được dân làng rước trong đám rước lão. Các làng này theo đúng lời dạy của người xưa là phụ nữ không dự việc làng. Yến lão. Bữa yến dành thết các cụ gọi là yến lão. Sau cuộc rước lão, các cụ được dân làng mời dự yến tại đình cứ bốn người một mâm. Trong bữa yến, thường các cụ được xơi yến; cũng có nhiều làng, tuy gọi là yến lão nhưng đây chỉ là mâm cỗ sang trọng để mời các cụ xơi. Trong bữa yến có bát âm cử nhạc, lại có ca nhi ngâm lên nhiều bài thơ hoặc ca trù chúc mừng các cụ có đốt pháo tưng bừng, và có cờ quạt, tàn tán cắm trước cửa đình phấp phới. Yến dự xong, các cụ có phần mang về. Thường theo tục lệ, mâm yến các cụ thật là thừa thãi, các cụ chỉ ăn một phần, còn lại các cụ mang về chia cho con cháu để cùng hưởng lộc làng. Kính già, già để tuổi cho, tuổi thọ là một điều hạnh phúc mọi người đều mong mỏi. Kính trọng người già để được sống bằng người già và để khi tới tuổi thọ cũng được sự tôn kính của lớp người tuổi trẻ. Nhiều làng không có lệ rước lão và yến lão, nhưng các cụ già, tại bất cứ làng nào cũng đều có quyền lợi dành riêng cho tuổi mình, và ở chốn đình trung, chỗ ngồi của tuổi thọ bao giờ cũng là những chỗ ngồi danh dự. Xin nói thêm là các cụ già quê thường để tóc để râu mái tóc trắng xóa và chòm râu bạc phơ. Những người lớn Tính theo tuổi tác, dưới hàng các cụ là những người lớn. Hai tiếng người lớn có vẻ mơ hồ và không có cương giới nào, nhưng ta phải hiểu đây là những người trẻ chưa qua, già chưa tới, những người tuổi chưa đến năm mươi, còn khỏe mạnh, chưa thể xếp vào hạng lão được, và những người này, ở trong làng phải kể là những người đã lập gia đình để phân biệt với hạng trai gái làng. Cũng có thể có những người chưa lập gia đình, nhưng cũng đã luống tuổi lỡ thì không thể cùng đứng với hạng trai gái đang xuân của làng được. Đây là những phần tử đông nhất trong làng và đây cũng chính là những cột trụ của những gia đình trong làng. Họ đã có nhiệm vụ đối với làng xã, có bổn phận nặng nhọc đối với gia đình. Làng xã vững mạnh được chính nhờ sự đóng góp cả về mặt tinh thần lẫn vật chất của hạng người lớn này. Họ không còn là những chàng trai mơ mộng, những cô gái ngây thơ nữa. Những cái bông lông của tuổi trẻ đã biến thành sự đứng đắn. Lập gia đình, họ lo về gia đình. Và dù cho họ có còn muốn giữ cái bông lông của tuổi trẻ, họ cũng không có quyền, và họ bị giữ gìn bởi chính người phối ngẫu với họ. Một chàng đã có vợ mà còn muốn cợt ghẹo một cô gái ư? Lập tức chàng được trả lời. Đã thành gia thất thì thôi, Đèo bòng chi lắm tội trời ai mang! Có khi cô gái chưa chồng lại nhắc cho chàng cái tính ghen tuông của vợ chàng: Thấy anh, em cũng muốn chào, Sợ rằng chị cả dắt dao trong mình. Thế là anh chàng có vợ rồi, đâu còn dám giở chuyện nguyệt hoa. Anh phải lặng lặng quay đi, không biết có phải quay về với ai kia ở nhà không? Trai có vợ đã vậy, gái có chồng càng phải giữ gìn hơn. Đã có chồng, không được tỏ ý ong bướm lả lơi với bất cứ chàng trai nào, dù trai tân hay đã có vợ. Đàn ông ngoại tình còn khả dĩ tha thứ được, chứ đàn bà ngoại tình, phong tục không dung và pháp luật cũng trừng phạt rất là nghiệt ngã. Chồng bắt được vợ ngoại tình ngày xưa có quyền gọt gáy bôi vôi, đóng cọc phơi nắng, và nghiệt ngã hơn lên quan, có khi quan xử bè chuối trôi sông. Bè chuối trôi sông. Đây là một hình phạt hết sức nặng nề để xử những người đàn bà đã có chồng còn ngoại tình. Người ta kết một bè chuối và trói ghì người có lỗi trên bè chuối này, có khi để ngồi, có khi để nằm. Trên bè chuối có một mâm cơm, một ấm nước, một âu trầu. Tay người này có thể cử động để tự ăn uống lấy được nhưng không tự cởi trói được. Bè chuối mang phạm nhân được đầy ra giữa dòng sông, muốn trôi đi tới đâu thì trôi, mặc trời mưa nắng. Trên bè chuối có cắm bản án kể rõ tội lỗi của phạm nhân. Bè chuối theo dòng sông trôi đi, nếu vì sóng gió giạt vào bờ một xã nào, dân làng xã ấy sẽ lấy gậy, lấy sào đề đẩy bè chuối ra. Người đàn bà có tội phải chịu chết trên bè chuối, rồi diều hâu, quạ, kền kền sẽ cùng nhau xâu xé thân xác người này. Ta có thành ngữ đồ quạ mổ, đồ quạ rỉa, để rủa các cô gái lẳng lơ, chính vì những cô gái lẳng lơ bị quạ rỉa, quạ mổ khi mắc tội bè chuối trôi sông. Kể ra, việc trừng phạt quả là nặng, nhưng người xưa muốn bảo toàn luân lý, muốn ngăn cản những trò trên bộc trong dâu thường phải nhắm mắt thi hành những hình phạt nặng nề này. Những người đã lập gia đình sớm muộn rồi cũng có con, phải nghĩ đến gia đình, phải nghĩ đến con cái. Đây là những người lớn. Những người lớn này, nếu mới lấy nhau chưa có con được gọi là anh đỏ, chị đỏ,[1] chữ đỏ nói lên sự vui mừng của cuộc hôn nhân hai người vừa kết hợp xong. Khi đã có con rồi, anh đỏ, chị đỏ được đổi là anh cu, chị cu, hoặc anh đĩ, chị đĩ tùy theo đứa con đầu lòng là con trai hay con gái. Và người ta dùng ngay tên đứa con đầu lòng để gọi bố mẹ. Thí dụ đứa con đầu lòng là con trai và tên là Nam, người ta sẽ gọi bố mẹ nó là anh cu Nam, chị cu Nam. Lối xưng hô đặc biệt Việt Nam này đã được nhiều tác giả ngoại quốc nói tới và cho rằng có nhiều điểm đáng lưu ý; Một là có sự nể nang giữa lớp ngườì lớn với nhau khi họ đã có gia đình, con cái, hay là xác nhận một sự thay đổi vị trí của kẻ có con, làm cho kẻ đó và con của họ có một ràng buộc hiển nhiên, lại giữa kẻ đó với người bên ngoài cũng có một sự thông cảm tương giao rõ rệt.[2] Lớp người lớn, hoặc có vợ có chồng có con cái, hoặc vì luống tuổi lỡ thì, luôn luôn là lớp người nêu gương cho con trẻ, và mỗi khi hành động đều đoan chính nghiêm trang. Khi ra đường, y phục tề chỉnh không lôi thôi lốc thốc, và lớp người này gặp nhau thường chào hỏi nhau lịch sự. Trẻ con gặp người lớn cũng phải chào kính như khi gặp người già và những người lớn khi gặp người già cũng phải chào kính, và người già cũng lễ phép chào lại. Trai gái làng Lớp người này không đông bằng lớp người trên, nhưng chính là lớp người đã khiến cho xóm trên thôn dưới rộn ràng tiếng nói tiếng cười, và đây là lớp người mang đầy hy vọng trong lòng và nuôi nhiều mộng đẹp trong tâm tưởng. Đây là những chàng trai, cô gái đang ở tuổi dậy thì, mới lớn lên, lòng còn trinh trắng, trai thì khỏe mạnh căng đầy nhựa sống với mọi sự hăng say, gái thì duyên dáng xinh tươi, má hồng môi thắm, mắt trong và đen lánh với tiếng nói dịu dàng, với nụ cười êm ái. Họ chưa thành gia thất, chưa được liệt vào hạng người lớn, họ lại đã qua lứa tuổi đánh bi đánh đáo, chơi truyền, chơi ô, đã vượt khỏi bọn trẻ con. Trong họ đã có những cái gì trẻ con chưa có, thể xác nảy nở hơn, tâm hồn phức tạp hơn. Gái lạ gặp trai lạ tự nhiên má đỏ hồng, đôi bên mang tai như bừng nang, và trai lạ thấy gái lạ như ngập ngừng muốn nói muốn không, nhìn cô gái chỉ thấy xinh như tơ, đẹp như ánh sáng, và tim dồn dập như càng đập mạnh. Tuổi thọ bắt đầu tìm yêu đương, và ở đâu có họ là vui đấy, nhất là khi một bọn trai gặp gỡ cùng một bọn gái. Chàng trai này nhìn cô gái nọ, cô gái nọ bấm chí cô bạn kia cùng nhau cười rúc rích, rồi vì là người làng đôi bên trai gái trao đổi cùng nhau những câu chuyện không đâu. Họ gặp nhau lúc đi làm đồng, lúc đi chợ, cũng như lúc cùng sang chuyến đò làng bên sông. Chợ chiều hẹn chuyến đò ngang, Trai làng cùng với gái làng qua sông. Ngập ngừng câu chuyện bông lông, Hôm sau thành vợ thành chồng với nhau [3] Thực ra họ không thành vợ thành chồng dễ dàng như thế đâu! Còn phải các nghi thức của hôn lễ, còn hỏi còn cưới, còn đưa rể đón dâu, nhưng nói thành vợ chồng, là nói sự thành tựu ban đầu của đôi trai gái để đưa tới lứa đôi. Nhạc sĩ Phạm Duy trong bản nhạc ''Quê nghèo'' có đoạn: Làng tôi nghèo, nho nhỏ bên sông, Gió bấc lạnh lùng thổi vào mái rạ. Làng tôi nghèo, gió mưa tơi tả, Trai gái trong làng vất vả ngược xuôi! Làng quê Việt Nam đã mấy làng là trù phú, thường hình thức bao giờ trông cũng nghèo nàn nhưng trong cái nghèo nàn luôn luôn tiềm tàng một sức lực, chính sức lực này nó đã duy trì làng xóm, đã bảo tồn dân tộc và chính sức lực này đã là sức lực chống ngoại xâm khi cần thiết. Còn trai gái trong làng, lẽ tất nhiên là phải vất vả ngược xuôi dù làng giàu hay làng nghèo. Trai vất vả ngược xuôi cày sâu cuốc bẫm để tạo cánh đồng chiêm nên những ruộng lúa vàng với mùi thơm lúa chín, với Lúa rạp rạp ngả theo chiều gió thổi.[4] Trai lại còn vất vả ngược xuôi về làng việc nước, nào đê điều, nào canh gác, nào phận sự này, nào nhiệm vụ nọ, lo đường lo sá, lo giữ làng, lo bảo vệ cánh đồng v.v... Còn gái làng thì ngược xuôi để buôn tần bán tảo trước là giúp đỡ mẹ cha, sau là gây chút vốn riêng, sắm bộ quần áo đi hội đi hè, hoặc nếu không buôn bán thì cũng hàng xay hàng xáo, hái dâu chăn tằm, dệt lụa quay tơ, hoặc phụ giúp công việc đồng áng, cắt cỏ cấy lúa, lo cơm nước thợ đồng... Trai gái trong làng vất vả ngược xuôi, nhưng họ vất vả trong niềm vui, với tiếng cười giọng hát, với sự gặp gỡ trong làng ngoài ruộng, ngày phiên chợ, lúc sang sông. Gặp nhau, đã quen thuộc, họ chào hỏi nhau. Tiện dịp họ mời nhau điếu thuốc miếng trầu. Miếng trầu là đầu câu chuyện. Gái ăn trầu cho môi thêm thắm, cho má thêm tươi, cho nụ cười thêm duyên dáng, cho lòng thêm ấm trong những buổi trời đông tháng giá. Còn trai ăn trầu vì tục lệ ăn trầu, ăn trầu cho chắc chân răng, ăn trầu để sẵn có trầu mời các cô gái làng e lệ nhưng tươi tắn. Thường mời trầu họ vui vẻ cùng nhai trầu để cùng say nhau, nhưng cũng có đôi khi, một vài cô gái từ chối một vài chàng trai mới quen lần đầu: Mẹ em hằng vẫn khuyên răn Làm thân con gái chớ ăn trầu người Từ chối là từ chối vậy, nhưng rồi chị em nói vào mỗi người một câu, rút cuộc cô gái vẫn ăn trầu người. Cô chẳng nỡ từ chối khi chúng bạn cũng nhận trầu người và nhất là chàng trai ân cần mời mọc: Trầu này, trầu ái, trầu ân, Trầu nhân, trầu nghĩa, trầu mình, trầu ta, Trầu này nhuộm thắm duyên ta, Đầu xanh cho tới tuổi già không phai! Nhận miếng trầu ăn, các cô thường mở lá trầu để xem mặn vôi hay nhạt, có người ăn nhiều vôi thì say, có người ăn ít vôi thì trầu không đậm. Nếu có cô nào nhận miếng trầu của chàng trai, không mở lá trầu ra xem, chúng bạn sẽ cợt đùa: Ăn trầu phải mở trầu ra, Một là thuốc độc, hai là mặn vôi. Thương yêu nhau trai gái họ lấy miếng trầu làm mức đo lường, yêu nhau miếng cau sao cho xứng đáng với lòng yêu: Yêu nhau cau bảy bổ ba, Ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười. Có những cô gái ban ngày bận rộn vì công kia việc nọ, tối mới rảnh rang đi gánh nước ở giếng làng, rồi trong khi đi gánh nước cô đã gặp người yêu, có lẽ người yêu đã cố tình tìm gặp cô. Gặp người yêu cô mừng rỡ và cũng làm sao mời được người yêu xơi một miếng trầu. Đêm qua trăng sáng mập mờ, Em đi gánh nước tình cờ gặp anh. Vào vườn trẩy quả cau xanh, Bổ ra làm sáu trình anh xơi trầu. Trầu này têm những vôi tàu, Ở giữa đệm quế đôi đầu thơm cay. Mời anh xơi miếng trầu này, Dù mặn dù nhạt dù cay dù nồng. Dù chẳng nên đạo vợ chồng, Xơi năm ba miếng kẻo lòng nhớ thương. Đã yêu nhau có bao giờ trai làng từ chối miếng trầu của gái làng. Mà có từ chối cũng không được vì lời mời mọc thật là khéo léo: Tiện đây xơi một miếng trầu, Gọi là nghĩa cũ về sau mà chào! Có khi sợ chàng trai từ chối, cô gái phải khẩn khoản, và với những lời khẩn khoản khéo léo đó chàng trai nào đành tâm từ chối: Trầu này trầu quế, trầu hồi, Trầu loan, trầu phượng, trầu tôi, trầu mình Trầu này trầu tính, trầu tình, Trầu nhân, trầu ngãi, trầu mình với ta. Trầu này têm tối hôm qua, Trầu cha, trầu mẹ đem ra cho chàng. Trầu này không phải trầu hàng, Không bùa, không thuốc sao chàng không ăn? Hay chàng chê khó chê khăn, Xin chàng đứng lại mà ăn miếng trầu. Trai gái trong làng thường qua miếng trầu mà nên duyên, và trong đám cưới, trầu cau bao giờ cũng dẫn đầu cho duyên cầm sắt: Trầu đã có đây, cau đã có đây, Nhân duyên chửa định trầu này ai ăn? Trầu này trần túi, trầu khăn, Cùng trầu giải yếm anh ăn trầu nào? Đã mời nhau thời trầu nào anh chẳng xơi! Các cô gái làng trong lúc đi làm đồng, lúc đi chợ, luôn luôn các cô mang trầu cau trong người. Có cô để trầu trong túi áo, có cô gói trong chiếc khăn lụa nhỏ, có cô bọc giải yếm. Chàng cứ lựa chọn, chàng ăn trầu của cô nào? Trai gái gặp nhau là có tiếng cười tiếng hát, nhất là những khi cùng làm nơi đồng ruộng hoặc buổi tối cùng đập lúa trong sân. Cô nọ gán cô kia cho chàng trai này, cô kia gán cô nọ cho chàng trai khác. Và những chàng trai trong câu chuyện thường kẻ bưởi vơ vào, nào khen cô này duyên dáng, nào nói thương yêu cô nọ. Thật là những câu chuyện bông lông, nhưng bông lông đề bắt đầu cho những lứa đôi tốt đẹp bách niên giai lão. Giả tỉ những chàng trai, những cô gái có cùng nhau lãnh đạm, đã có những bà già khêu lời mớm chuyện để trai gái làng phải đối đáp với nhau. Luân lý phương Đông theo Nho giáo dạy rằng, nam nữ thụ thụ bất thân, và các nhà đạo đức luôn luôn nói nam nữ hữu biệt, nhưng đây chỉ là thứ luân lý của Trung Hoa, và chỉ có hạng người trưởng giả ở nước Việt mới chấp nhận thuyết này, đám dân giả, đám đại quần chúng, họ luôn luôn đụng chạm với nhau, cùng làm cùng vui, làm sao mà bất tương thân cho được. Có điều gần nhau đấy, nam nữ không hữu biệt đấy, nhưng trai gái làng bao giờ cũng có một giới hạn giữa đôi bên, và những trò trên bộc trong dâu quả thật là hiếm xảy ra. Gần nhau họ thương yêu nhau, rồi lễ giáo sẽ tác thành cho họ như chim liền cánh, như cây liền cành. Họ gặp gỡ nhau dễ dãi, họ trao đổi với nhau những lời thương yêu, nhưng khó mà họ dám cùng nhau phạm lỗi. Các bà già tuy mớm lời khêu chuyện cho họ, nhưng bao giờ các bà cũng canh chừng họ và chỉ cho họ buông thả với nhau tới một mức nào. Và chính các cô gái cũng giữ mình. Nếu có chàng trai thương yêu một cô nào, việc lứa đôi phải do cha mẹ định, các cô còn nhỏ, còn sống với cha mẹ: Ngọc còn ẩn cội cây ngâu, Con còn cha mẹ dám đâu tự tình. Có lẽ có người bảo các cô giả hình giả trá, vì nhiều khi trong những câu nói, trong những câu hát các cô thật là ong bướm với đủ những lời lẽ nguyệt hoa. Các cô không giả hình giả trá đâu, cương vực lễ giáo luôn luôn được tôn trọng, và cặp trai gái nào thương yêu nhau đều phải nhờ cha mẹ tác thành. Trong những lúc làm việc chung, thường trai gái trao đổi cùng nhau những câu hát, để tỏ lòng yêu đương để nói lên sự thầm yêu trộm nhớ của mình, hoặc để ngợi khen lẫn nhau: Trúc xinh trúc mọc bờ ao, Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh. Trúc xinh trúc mọc đầu đình, Em xinh em đứng một mình cũng xinh. * Cổ tay em trắng như ngà, Con mắt em liếc, như là dao cau. Miệng cười như thể hoa ngâu, Cái khăn đội đầu như thể hoa sen. Hai câu ca dao trên, trai làng dùng để khen gái làng, nhưng gái làng cũng lắm câu hát để khen trai làng: Đêm qua trời sáng trăng rằm, Anh đi qua cửa em nằm không yên. Mê anh chẳng phải mê tiền, Thấy anh lịch sự có duyên dịu dàng, Thấy anh em những mơ màng, Tưởng rằng đây đấy phượng hoàng kết đôi. Thấy anh chưa kịp ngỏ lời, Ai ngờ anh đã vội rời gót loan. Thiếp tôi mơ mẩn canh tàn. Chiêm bao như thấy có chàng đứng bên. Tỉnh ra lẳng lặng yên thiên, Tương tư bệnh phát liên miên cả ngày. Khen nhau, nhớ nhau, họ có những mong ước: Ước gì anh hóa ra hoa, Để em nưng lấy rồi mà cài khen. Ước gì anh hóa ra chăn, Để cho em đắp em lăn em nằm. Ước gì anh hóa ra gương, Để cho em cứ ngày thường em soi, Ước gì anh hóa ra cơi, Để cho em đựng cau tươi trầu vàng. Gần nhau, ca hát với nhau, làm việc với nhau, rồi thương yêu nhau, từ câu hát đến cuộc nhân duyên không xa gì mấy. Mỗi năm cứ bắt đầu mùa thu tới, là trong làng có đám hỏi này, đám cưới khác. Hàng cau đắt, hàng trầu đắt, và pháo nổ và xác pháo hồng bay. Trai sung sướng mà gái cũng hài lòng. Một cặp trai gái này lấy nhau, những cô gái, những chàng trai khác đóng vai phù dâu, phù rể để rồi mươi ngày sau, nửa tháng sau, chính các cậu các cô sẽ là cô dâu chú rể với những cô phù dâu, những chàng phù rể khác. Mùa thu bắt đầu lạnh, rồi mùa đông lạnh hơn, với cái lạnh, Tết càng gần, và những ngày gần Tết trong làng càng nhiều đám cưới, như hình trai gái họ muốn kết duyên trong Tết để được hưởng một mùa xuân đầy ân ái, hay là họ sợ xuân sang trời sẽ lạnh hơn! Thường là những đám cưới trai gái trong làng lấy nhau. Rất ít có những cuộc phối ngẫu giữa gái làng với trai thiên hạ, hoặc giữa trai làng với gái thiên hạ. Các cô gái không muốn lấy chồng xa, các cô muốn chồng làng vợ nước. Các cô thường nói: Lấy chó trong làng còn hơn lấy người sang thiên hạ. Và cha mẹ các cô cũng không muốn gả con xa: Có con mà gả chồng gần, Có bát canh cần nó cũng mang cho. Hoài con mà gả chồng xa, Ăn một bữa cỗ lội ba quãng đồng. Ta thường nói sống ở làng, sang ở nước, vợ chồng người làng lấy nhau sống ở trong làng bao giờ chẳng hơn, dù lấy chồng làng không danh phận gì, còn hơn lấy chồng thiên hạ với chức to phẩm lớn, kể cả những trai thành thị. Không bao giờ có cảnh: Em là con gái thôn quê, Người làng dạm hỏi em chê ngu đần. Một em dỗi hai em dằn, Thầy bu khuyên giải em rằng em không.[5] Chồng thiên hạ, các cô gái làng cũng không ưng nói chi là chồng ngoại quốc. Người Việt Nam, ở những gia đình phong độ cho việc lấy chồng ngoại quốc là một điều xấu, dù người chồng đó có chức tước gì. Phải lấy chồng ngoại quốc, người đàn bà lấy làm tủi nhục, dù người đàn bà ở giai cấp nào. Và những người lấy chồng ngoại quốc thường bị chê cười, nhất là khi người ngoại quốc ấy thuộc về các dân tộc làm phương hại đến quyền lợi vật chất hay tinh thần [6] của người Việt Nam. Trong ngôn ngữ Việt Nam ta có những thành ngữ Thằng ngố con đĩ để chỉ người Tàu và các bà vợ Việt, và sau này có danh từ Me để chỉ phụ nữ lấy chồng Tây phương: Me Pháp, Me Mỹ. Lớp me này rất bị chị em phụ nữ khinh bỉ, hành động lấy chồng Tây phương là một hành động mất gốc, lạc loài của hạng người đã đứt cội rễ. Chính các me này, thường là người trong lớp hạ lưu trụy lạc nhưng họ vẫn tự cảm thấy sự âm thầm tủi nhục, xót xa đau đớn, có khi còn hơn lớp phụ nữ đồng cảnh có trình độ học vấn và sinh trưởng trong những gia đình gọi là tử tế, lớp sau này đã bị văn hóa nước ngoài đầu độc, mất hết ý niệm quốc gia dân tộc, - rất may bọn này không nhiều! Người Việt Nam phải phối ngẫu với người Việt Nam và trai gái làng, trời sinh ra để họ phải lấy nhau mới thuận cảnh, thuận tình. Có nhiều cặp trai gái trong làng thương yêu nhau mà không lấy được nhau, vì cha mẹ ngăn cản, phần nhiều là cô gái bị ép duyên. Tuy tục ngữ có câu: Ép dầu ép mỡ Ai nỡ ép duyên nhưng sự ép duyên đôi khi vẫn xảy ra; hơn một cô gái đã từng than: Mẹ em tham thúng xôi rền, Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hưng. Em đã bảo mẹ rằng đừng, Mẹ ngắm mẹ nguýt mẹ bưng xôi vào. Và nếu vì sự ép duyên, cô lại gặp người chồng không xứng đáng, thật buồn ơi là buồn: Tiếc thay cái tấm lụa đào, Áo rách chẳng vá, vá vào áo tơi. Trời kia có thấu chăng trời. Lụa đào mà vá áo tơi sao đành! * Tiếc thay hột gạo trắng ngần, Đã vo nước đục lại vần lửa rơm! Và trong trường hợp cô gái lấy chồng không xứng đáng, cô còn bị trai làng lời ra tiếng vào để trách nàng tình phụ đã không giữ nổi lời hẹn ước ba sinh: Chê đây, lấy đấy sao đành, Em chê cam ngọt lấy cành quýt hôi. Quýt hôi bán một đồng mười, Cam ba đồng một, quýt ngồi trơ trơ. Nào khi gánh nặng anh chờ, Qua cầu anh đỡ bây giờ quên anh! Ấy là chưa kể, trường hợp một cô gái lớn tuổi bị bố mẹ ép gả cho một chú nhãi ranh: Tham giàu em lấy thằng bé tí tì ti, Làng trên xã dưới thiếu gì trai tơ. Em đem thân cho thằng bé nó giày vò, Mùa đông tháng giá nó nằm co trong lòng. Cũng đã mang danh là gái có chồng. Chín đêm trực tiết nằm không cả mười. Nói ra sợ chị em cười, Má hồng bỏ quá, thiệt đời xuân xanh. Em cũng liều mình với thằng bé trẻ xanh, Đêm nằm rờ mó quẩn quanh cho đỡ buồn. Buồn tình, em lại bê thằng bé nó lên, Nó còn bé mọn đã nên cơm cháo gì. Nó ngủ, nó ngáy tì tì, Một giấc đến sáng còn gì là xuân. Chị em ơi! Hoa nở mấy lần! Thật là chua cay mặn chát? Thật là độc ác mỉa mai! May thay, chuyện ép duyên tuy vậy cũng không nhiều, và ít chục năm gần đây, chuyện này có thể nói là đã hiếm. Trai gái làng, thương yêu nhau, họ lấy được nhau đó là chuyện đã đành, là chuyện tốt đẹp cho cả đôi bên nhưng không phải bao giờ mọi việc cũng đều như ý người ta. Đã có những cặp trai gái thương yêu nhau, nhưng tình duyên lỡ dở, hoặc vì cha mẹ không thuận tình, hoặc vì lý do nào khác. Họ phải buồn rầu chẳng được cùng nhau chấp cánh, liền cành. Họ than van: Đôi ta như chỉ mới xe, Như măng mới mọc như tre mới trồng, Đôi ta như lúa đòng đòng, Đẹp duyên mà chẳng đẹp lòng mẹ cha. Và đã có những chàng trai, những cô gái hờn duyên tủi phận tìm quên trong cửa từ bi: Yêu nhau chẳng lấy được nhau, Mài dao đánh kéo cạo đầu đi tu. Có nhiều cặp trai gái làng đã cùng nhau thề thốt, nhưng rồi nàng tham vàng bỏ nghĩa, âu duyên mới nhạt tình xưa, khiến cho chàng trai thất vọng. Lẽ tất nhiên chàng oán hận: Đồng tiền Vạn Lịch thích bốn chữ vàng, Công anh dan díu với nàng bấy lâu. Bây giờ nàng lấy chồng đâu, Để anh mua biếu trăm cau nghìn vàng. Trăm cau thì để tặng nàng. Nghìn vàng thì để giải oan lời thề! Kể cũng đau đớn và đáng chua xót cho chàng trai chung tình. Chàng yêu nàng với công dan díu bao lâu, vậy mà nàng phụ bạc. Nàng phụ bạc, nhưng chàng vẫn không giận, nàng lấy chồng, chàng nghĩ đến trăm cau để mừng, nhưng đồng thời chàng vẫn cũng nghĩ đến việc giải oan lời thề. Giải oan lời thề để nàng yên tâm sống với chồng mới, và cũng để chàng khỏi băn khoăn vì những lời thề thốt với nàng. Nàng tham vàng phụ nghĩa, nhưng có ngày vàng hết, mà nghĩa có bao giờ phai: Tham vàng phụ nghĩa ai ơi, Vàng thôi đã hết, nghĩa tôi vẫn còn! Nếu có những cô gái làng đã phụ những chàng trai, thì cũng có nhiều chàng trai tham vàng bỏ nghĩa đã khiến cho nhiều cô gái khác phải ngậm tủi nuốt sầu. Các cô cũng đau đớn, cũng oán trách, và trong oán trách luôn luôn có sự nhớ thương: Ai làm cho bướm lìa hoa, Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng. Ai đi muôn dặm non sông, Để ai chứa chất sầu đong vơi đầy, * Ai đi đường ấy xa xa, Để em ôm bóng trăng tà năm canh. Nước non một gánh chung tình. Nhớ ai, ai có nhớ mình chăng ai? Tóm lại, có gái phụ bạc thì cũng có trai phụ tình, và nỗi đau khổ của những người có công dan díu mà gặp cảnh tham vàng phụ nghĩa đã làm giàu cho ca dao đất nước. Rất nhiều câu ca dao nói lên sự đau đớn của họ, và những câu ca dao này luôn luôn được trai gái hét lên văng vẳng qua lũy tre xanh, vút tới bờ đê, khiến những ai có lòng phụ bạc cùng ai, ắt cũng tự lấy làm suy nghĩ. Cũng có những đôi trai gái làng, họ không phụ bạc gì nhau, và cha mẹ đôi bên cũng không ngăn cản sự tác thành của đôi lứa, vậy mà duyên vẫn chẳng nên duyên. Đó chẳng qua chỉ vì chàng trai quá ngập ngừng nhút nhát, mãi cho tới khi cô gái lấy chồng mới dám thổ lộ nỗi lòng: Trèo lên cây bưởi hái hoa, Bước xuống ruộng cà hái nụ tầm xuân, Nụ tầm xuân nở ra cánh biếc, Em đã có chồng anh tiếc thay em! Anh tiếc thay em, em cũng đành chứ biết làm sao được. Ván đã đóng thuyền, cô gái trước tấm chân tình của chàng trai cũng chẳng còn biết ăn làm sao nói làm sao. Cô chỉ trách chàng là sao quá chậm: Vẻ gì một miếng trầu cay, Sao anh không hỏi những ngày còn không? Bây giờ em đã có chồng, Như chim vào lồng như cá cắn câu. Cá cắn câu biết đâu mà gỡ. Chim vào lồng biết sở nào ra? Cô gái đã nói như vậy, chàng trai đành ôm mối hận lòng. Chẳng lẽ chàng lại xui cô lỗi đạo hay sao? Cá cắn câu bắt đầu mà gỡ, Chim vào lồng mở cửa mà ra. Chàng trai ôm mối hận lòng là phải, vì một cô gái có lễ giáo có đời nào lòng chim dạ cá được. Đạo đức phương Đông ngăn cản cô, nếp sống thuần lương giữ gìn cô. Lấy chồng cô chỉ biết thờ chồng, vì cô thừa hiểu: Ánh phong lưu son phấn đọa đầy, Thay đen đổi trắng để ai rầy yêu thương? Chuyện nhân duyên giữa trai gái làng lắm khi cũng thật kỳ ngộ, chồng một vợ một đã đành, nhưng cũng thường có cảnh chồng hai ba vợ. Cha mẹ luôn luôn khuyên con: Trai tân gái rỗi thì chơi, Đừng nơi có vợ, chớ nơi có chồng. Song lẽ có nhiều cô gái quá yêu một chàng trai có vợ, cứ liều nhắm mắt đưa chân, chàng có vợ thì mặc vợ chàng, đã yêu chàng thì nàng cứ lấy, và đã lấy chàng, nàng đâu có sợ vợ chàng: Măng non nấu với gà đồng, Chơi nhau một trận xem chừng về ai. Già gan cướp được chồng người, Non gan hết vía rụng rời tay chân. Có nhiều cô đã trót lỡ làm phận tiểu tinh, cam cảnh khổ sở, thường thốt ra những lời cay đắng. Các cô hằng khuyên chị em bạn gái chớ theo vết chân mình: Đói lòng ăn nắm lá sung, Chồng một thì lấy chồng chung thì đừng. Đói no một vợ một chồng, Một niêu cơm tấm dằn lòng ăn chơi. Các cô nhớ lại những sự vất vả, nhớ lại những trận đòn ghen: Thân em làm lẽ vô duyên, Mỗi ngày một trận đòn ghen tơi bời. Ai ơi ở vậy cho rồi, Còn hơn lấy lẽ, chồng người khổ ta. Cảnh làm lẽ thật là khổ, song vẫn có nhiều người lấy lẽ, các bà các cô thường ngụy biện khi bị chê bai: Lấy chồng làm lẽ khỏi lo. Cơm nguội đầy rá, cá kho đầy nồi. * Thà rằng làm lẽ thứ mười, Còn hơn chính thất những người đần ngu. * Ăn nửa quả hồng, ăn góc quả hồng, Còn hơn ăn cả chùm sung chát lè! * Một đêm quân tử nằm kề, Còn hơn thằng mán vỗ về quanh năm. Thực ra, đa nhân duyên, chính lỗi tại các chàng trai có vợ đã cố tình quyến rũ các cô chưa chồng. Các chàng: Có oản lại muốn ăn xôi, Có thịt lại cứ muốn đòi thêm nem! Và các chàng ngụy biện cho rằng: Làm trai lấy vợ bé Nhà giàu tậu nghé hoa! Tôi tự thấy hơi lan man về trai gái làng, nhưng làm sao được, đây là thành phần tinh hoa nhất của làng và ở đâu có trai gái làng là ở đấy có bầu không khí vui vẻ, có tiếng cười giòn giã, có tiếng nói trong trẻo nên thơ. Trai gái làng trẻ trung đem phong vị hoạt động cho cả làng, và giả thử tại một làng này thiếu hẳn thành phần vui nhộn này, tôi không biết không khí làng đó sẽ lạnh lẽo tới bực nào, và làng đó sẽ có một vẻ nặng nề ra sao. Có trai gái làng là có lời ca tiếng hát, có trai gái làng là có cảnh tưng bừng náo nhiệt, dù đây là ở đầu làng, bên bờ giếng, bên bờ đê, giữa cánh đồng trước sân đình hay bên cổng chùa. Trai gái làng là sinh khí, là hoạt động, là ôn ào và là nguồn gốc của tất cả những cái gì làm cho người ta yêu đời. Một cô gái góa sống trong cảnh buồn rầu đau đớn, nghĩ tới đoạn đường xa lăng lắc mình sẽ phải trải trong cảnh chăn đơn gối chiếc, bỗng thấy lòng ấm lại khi gặp một chàng trai lưu ý và hát ghẹo: Cô kia khăn trắng tang ai? Tang cha, tang mẹ đó hay tang chồng? Tang chồng thì bỏ tang đi, Tang cha tang mẹ ta thì tang chung! Lời hỏi sao mà dễ nghe? Hỏi ai có thể làm ngơ cho được. Ở đây tôi không nhắc nhiều tới hạng gái góa, dù họ là những người góa phụ trẻ tuổi, nhất là tôi không muốn nhắc tới những hạng góa phụ mồ chồng chưa xanh cỏ đã nghĩ đến chuyện nguyệt hoa và đã từng làm đầu đề cho bao nhiêu câu ca dao chế giễu: Ông chết thì thiệt thân ông, Bà tôi sắp sửa lấy chồng nay mai. * Hỡi thằng cu bé! Hỡi thằng cu lớn! Cu tí ,cu tị, cu tì ơi! Con dậy, con ăn con ở với ông, Để mẹ đi lấy chồng kiếm lấy em con! Trai gái nên duyên bao giờ cũng là điều tốt đẹp nhưng góa bụa dở dang thật kể cũng đáng thương. Đạo đức phương Đông cay nghiệt; chồng chết thì phải thờ chồng, bước đi bước nữa là chịu tiếng chê cười. Góa chồng lại lấy chồng đã chịu búa rìu của dư luận, trách chi những cô không chồng mà chửa, chỉ vì hứng gió nồm nam, ăn vụng chóng no, chẳng bị phép làng trừng phạt. Không có chồng mà chửa thì phải vạ với làng, và bố mẹ cũng mang tai mang tiếng. Bởi vậy những cô gái nào trót lỡ lâm vào cảnh này thường phải trốn làng đi ở một nơi khác, cho đến khi mãn nguyệt khai hoa, cho hoặc gửi con đi, rồi có về làng mới dám về làng. Phình phình ở giữa lớn ra, Me ơi con chẳng ở nhà được đâu! Ở nhà làng bắt mất trâu, Cho nên con phải đem đầu ra đi! Lệ nộp vạ ở nhà quê, khi cô gái chửa hoang ở nhiều làng rất nặng. Bố mẹ cô gái phải nộp vạ bằng tiền rồi lại phải mổ trâu thết làng. Vạ tuy nặng nhưng nhiều cô gái vì cả nể vẫn cứ nhỡ nhàng to bụng không có một ông chồng để bảo đảm cho sự to bụng này. Kể ra, lớp trai gái làng, tuy vậy cũng có nhiều điều phức tạp, nhưng dù sao đấy cũng là những thành phần không ai có thể bỏ qua được. Và đã tìm hiểu các người già, tìm hiểu các người lớn, càng cần tìm hiểu về trai gái làng cặn kẽ hơn. Bởi vậy, tuy ở đây tôi hơi lan man, nhưng có lẽ những điều tôi viết ra cũng còn thiếu sót nhiều lắm. Trẻ con Phân hạng theo niên kỷ, trẻ con là lớp cuối cùng. Tuổi trẻ con còn quá ít và về hình thức chúng cũng chưa đủ nở nang để làm trai gái làng. Theo quan niệm Đông phương, nữ thập tam, nam thập lục, mới là trai gái làng, dưới tuổi này, nam hay nữ còn đều là trẻ con. Đã gọi là trẻ con, chúng có cái quyền tự do của trẻ con mà người lớn, kể cả trai gái làng, không có được. Trước hết, thuyết nam nữ thụ thụ bất thân không áp dụng với chúng. Con trẻ còn nhỏ, trai gái thường chơi đùa lẫn lộn với nhau, chúng không có sự phân biệt của người lớn. Con trẻ lại được ngủ chung với bố mẹ. Theo tục Con trai mười sáu không nằm chung với mẹ. Con gái mười ba không ngủ lẫn với cha, dưới hai tuổi này, con trai, con gái muốn ngủ với cha hoặc mẹ đều được cả. Trong làng, con trẻ bất đầu hơi lơn lớn độ lên sáu lên bảy là được đi học, xưa tới trường làng hoặc tới lớp học của các ông đồ, khi chữ nho còn thịnh. Đi học, trai gái lẫn lộn, tuy rằng ở nhà quê trước kia, con gái rất ít được đi học. Vài ba chục năm gần đây, việc đi học của con gái đã trở nên hầu như thông thường không khác chi con trai. Trẻ con chỉ đi học, đi chơi, chúng không phải chịu sự lo lắng của người lớn, đối với gia đình cũng như đối với làng xã. Tại nhiều làng, có lệ trẻ con cũng phải chịu đóng góp và được lấy phần việc làng vào những dịp tế tự, thì việc đóng góp đều do người lớn tức là cha mẹ hoặc các anh chúng phải lo thay. Thường trẻ con nhà quê, đi học các ông đồ, chỉ học một buổi vào buổi sáng. Buổi chiều được nghỉ, chúng chơi diều, đánh khăng, đánh đáo, ấy là nói những trẻ còn nhỏ hoặc con nhà phú quí. Những trẻ đã hơi lơn lớn, nghĩa là vào khoảng lên tám lên chín, và trẻ con nhà nghèo, tuy buổi chiều nghỉ học, nhưng chúng đã bắt đầu có những công việc nhà, giúp đỡ cha mẹ những công việc vặt, và trong các công việc vặt này phải kể tới công việc chăn trâu. Trẻ chăn trâu ở nhà quê gọi là lũ mục đồng, có đứa lớn có đứa bé, nhưng thường là vào khoảng tám chín tuổi đến mười sáu mười bảy. Chúng lùa trâu ra đồng, cho trâu gặm cỏ ở bờ đê hoặc các bờ ruộng, những làng ở trung du thường cho trâu ăn cỏ ở sườn đồi. Lũ trẻ mục đồng sống quây quần đoàn kết với nhau thành một bọn, chúng chăm sóc cho trâu, giữ cánh đồng làng cho trâu làng. Và trong lúc cùng chăn trâu như vậy, chúng hợp đoàn chơi những trò chơi riêng chia thành từng thôn từng giáp để cùng nhau ganh đua trong những trò chơi. Trong các trò chơi, đáng kể nhất là trò chơi tập trận. Đây chỉ là một cách bắt chước lịch sử. Vua Đinh Tiên Hoàng xưa, trước khi về với Trần Công để sau này dẹp yên Thập nhị sứ quân đã từng là một mục đồng và đã từng cùng chúng bạn mục đồng Cờ lau tập trận. Yết Kiêu, gia tướng hữu danh của Hưng Đạo Vương lúc nhỏ cũng đã từng chăn trâu bên bờ biển. Trò chơi tập trận luyện cho các em mục đồng cái tinh thần bất khuất, rất cần thiết cho con người Việt Nam để bảo tồn đất nước và dân tộc Việt Nam chống giặc xâm lăng từ phương Bắc kéo lại. Những trẻ mục đồng này, khi lớn sẽ là dân nước, là quân sĩ của quốc gia. Chúng phải gây lấy cái tinh thần đồng đội trong những cuộc tập trận và luyện lấy cái khí thế hào hùng để mai sau trở nên những người trai giữ nước và có thể trở nên những vị anh hùng cứu quốc: Các bậc anh hùng cái thế của Việt Nam phần nhiều xuất thân từ đồng ruộng và thường chỉ bắt đầu là những người dân quê áo vải như Đinh Bộ Lĩnh, Lê Lợi và Quang Trung. Những lúc dắt trâu ra đồng, những lúc lùa trâu về chuồng, những lúc chăn trâu một mình, cưỡi trên mình trâu, các chú mục đồng thổi sáo hoặc hát lên những câu hát chứa đầy ý nghĩa và nói lên hoài vọng mai sau của các chú: Ngày xưa Ninh Thích chăn trâu, Mà rồi mang ấn công hầu trâu ơi! Ngày nay mình nghé ta ngồi, Mai sau ta có một thời hiển vinh? Đối với con mắt những thị dân, có lẽ các em bé chăn trâu này phải vất vả khổ sở, nhưng riêng chính các em, các em lại nghĩ khác: Ai bảo chăn trâu là khổ? Không! Chăn trâu sướng lắm chứ! Đầu tôi đội chiếc nón mê như lọng che, tay cầm cành tre như roi ngựa, ngất ngưởng ngồi trên mình trâu... Ngoài công việc chăn trâu ra, trẻ em còn giúp đỡ cha mẹ trong nhiều công việc khác, trong đó có việc trông nom các em bé hơn. Các em gái bảy tám tuổi, thường được cha mẹ giao cho công việc trông em. Những em bé này thường lếch lếch bế đứa em, mũi dãi nhễ nhại cùng nhau chơi ở đầu xóm đầu đình. Trông các em bế em thật giống con cóc tha con nhái, nhưng các em lấy đó làm thường, vì ngoài các em ra, cũng không còn ai để mà săn sóc đến em các em nữa. Trẻ con là tương lai của đất nước, nhưng trước khi là dân nước các em còn là con của cha mẹ, là anh chị của các em bé hơn. Bé các em có lo tròn phận sự của bé, lớn lên, các em mới thành những dân đinh xứng đáng của làng xã, do đó thành những công dân xứng đáng của quốc gia. Từ trên, dân trong một xã hội đã được phân hạng theo mấy lối chung căn cứ vào những điều khác nhau. Phân hạng theo lối nào mặc dầu, dân làng vẫn là dân làng, và người dân sống ở trong làng chỉ mang được sự yên ổn hòa hợp với nhau vui vẻ chịu đựng mọi sự đóng góp vào làng xã để duy trì lấy lệ làng. Làng có mạnh nước mới mạnh. Những ai có tư tưởng phá hoại làng xã gieo mầm mống chia rẽ giữa dân làng, đấy chính là những kẻ không những chỉ phá hoại cái nền nếp của xã thôn mà còn chính là kẻ có tội với quốc gia nữa, vì phá hoại làng xã tức là phá hoại quốc gia. [1]. Cách xưng hô tại nhiều làng vùng Bắc Ninh, như các làng Thị Cầu, Đáp Cầu huyện Võ Giàng v.v... [2]. A.Palzi (tức nhà văn Vũ Hạnh) - Người Việt Cao quý. - sđd. [3]. Vũ Quỳnh Bang, - Làng tôi, Bách Khoa số 49. ngày 1/15/1959. [4]. Bàng Bá Lân, - Thơ mùa gặt. [5]. Tú Mỡ, - Giòng nước ngược. [6]. A.Paui. - Sách đã dẫn. Tổ chức Làng xã Tổ chức làng xã thời xưa Tìm lại sử sách ta thấy danh từ xã Việt Nam xuất hiện vào khoảng từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIV. Trong Việt Nam Sử lược, ông Trần Trọng Kim có nhắc lại nước ta cuối thời Bắc thuộc, ông Khúc Hạo làm Tiết độ sử, lập ra bộ, phủ, châu, xã ở các nơi[1] nhưng cụ không nói rõ, các xã của ta xưa kia ra sao. Làng xã dưới các đời Đinh, Tiền Lê và Hậu Lý Các đời Đinh, Tiền Lê, việc tổ chức làng xã cũng chưa được triều đình lưu tâm, mãi cho tới nhà Tiền Lý, các làng xã mới được chú ý tổ chức: các cơ sở chính trị và hành chính vững chãi của làng xã mới được thiết lập để trước là kiểm điểm nhân số, sau là củng cố việc tổ chức quốc gia ngõ hầu tạo sức mạnh chống đối quân xâm lăng tới từ phương Bắc và mở mang bờ cõi về phương Nam. Tuy chỉ là những đơn vị nhỏ nhất, nhưng triều đình vẫn có cử các xã quan để cai trị, và mỗi làng đều có sổ dân đinh - đàn ông, - chia làm loại hạng. Sổ dân đinh giúp việc kiểm tra dân số, và lần đầu tiên cuộc kiểm tra được thực hiện dưới đời vua Lý Nhân Tôn vào năm 1082, niên hiệu Anh Võ Chiêu Thắng. Nhà vua đích thân theo dõi công việc kiểm tra. Đồng thời với sự kiểm tra dân số, nhà vua cho lập sổ địa bộ về đất đai của mỗi làng, phân loại các hạng điền thổ. Làng xã dưới đời nhà Trần Hết đời nhà Lý sang đời nhà Trần, việc tổ chức làng xã được chặt chẽ hơn, và Triều đình bổ dụng hai loại xã quan cho các làng: đại tư xã và các tiểu tư xã. Các tiểu tư xã phụ giúp các đại tư xã trong việc quản lý xã thôn. Ngoài ra, lại còn có thêm hai xã quan khác là xã chính và xã giám phụ lực với đại tiểu tư xã. Đình làng bắt đầu được dựng lên để lấy nơi thờ phụng Thành hoàng, mặc dầu dân ta thờ Thành hoàng từ lâu đời. Có thể rằng trước khi trở thành một đơn vị hành chính, xã Việt Nam chỉ là một đơn vị tín ngưỡng mà những người cùng thờ chung một vị thần quây quần sống với nhau. Hình như bắt đầu từ đời nhà Trần, tại mỗi xã đều đã có một hội đồng kỳ mục với tính cách tư vấn để các xã quan hỏi ý kiến về mọi công việc. Các xã quan được tồn tại hầu như gần suốt đời nhà Trần, và chính vua Trần Thuận Tôn (1388-1397) đã bãi bỏ các xã quan, không hiểu vì lý do gì. Làng xã dưới thời Minh thuộc Đời nhà Hồ quá ngắn ngủi, việc tổ chức làng xã không có gì thay đổi, nhưng làng xã đã trải nhiều sóng gió dưới thời Minh thuộc, vì người Minh muốn đem những cơ cấu làng xã Trung Quốc đặt vào làng xã Việt Nam. Chúng bắt mỗi gia đình phải có một tấm hộ thiếp, tức là một sổ gia đình, và chúng lập ra sổ bìa vàng để ghi thuế má. Chúng chia dân chúng thành từng lý, mỗi lý gồm trăm mười gia đình, đứng đầu là người lý trưởng, danh từ lý trưởng nước Việt Nam bắt đầu có từ thời kỳ này. Lý của chúng thay làng Việt Nam. Lý trưởng được cử hàng năm với chức vụ hết sức nặng nề. Cứ mười năm, mỗi lý lại lập lại sổ dân đinh và sổ địa bộ, lấy gia hộ làm căn bản. May thay, nhà Minh cai trị nước ta không lâu, và một khi chúng bị tống khứ khỏi đất nước Việt Nam thì những cơ sở do chúng đặt ra cũng không còn tồn tại. Làng xã dưới đời nhà Lê Vua Lê Thái Tổ khởi nghĩa tự Lam Sơn đuổi quân Minh ra khỏi đất nước, và ngay sau đó nhà vua lo tới việc chỉnh đốn hành chính từ làng xã trở lên. Các xã quan lại được lập lại. Mỗi làng từ một trăm dân đinh trở lên có ba vị xã quan, mỗi làng từ năm mươi dân đinh trở lên có hai vị, và các làng nhỏ hơn có một vị - ở đây tính theo dân đinh mà không tính theo gia hộ như dưới thời Minh thuộc. Muốn giúp đỡ dân chúng, nhà vua cho chia lại ruộng đất để dân chúng canh tác, và các công điền công thổ cũng được chia lại cho các làng tùy theo dân số, và sự phân chia này đã thay đổi địa thế và ranh giới nhiều làng. Việc tổ chức làng được giữ vững mãi cho tới đời vua Lê Thánh Tôn, nhà vua đã thay các xã quan bằng các xã trưởng, có điều xã trưởng có lẽ vẫn do triều đình chỉ định. Các làng xã phải nộp thuế cho công quỹ, mỗi dân đinh phải gánh vác tùy theo khả năng tài chánh của mình, và mỗi dân đinh đều được hưởng khẩu phần công điền công thổ để canh tác, khẩu phần cứ sau một thời gian ba năm lại được xét lại tùy theo nhân số dân đinh. Làng xã dưới đời nhà Lê Trung Hưng Nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, nhưng trải qua mấy đời vua từ Mạc Đăng Dung lên ngôi năm 1527 đến Mạc Mậu Hợp bị bắt giết năm 1592, triều Mạc không có thì giờ nghĩ tới việc tổ chức trong nước, vì còn luôn luôn bận đối phó với con cháu nhà Lê. Nhà Lê Trung Hưng với vua Lê Trang Tôn khởi quân đánh Mạc kể từ năm 1533 cũng không có gì thay đổi về chế độ xã thôn. Mãi cho tới đời vua Lê Thần Tôn, niên hiệu Vĩnh Thọ (1653-1661), triều đình mới có sự lưu ý tới nền cai trị tại các làng xã. Mỗi xã vẫn có xã trưởng do triều đình bổ dụng đứng đầu, nhưng để giúp việc cho xã trưởng, triều đình có cử thêm cho mỗi xã một viên xã sứ và nhiều viên xã ty, số xã ty tùy theo số dân đinh từng xã. Những vị xã quan này, xã trưởng, xã sứ và xã ty tuyển chọn trong các người có học vấn, chịu trách nhiệm về công việc hành chính và tư pháp trong xã, dưới quyền kiểm soát của các quan châu, quan huyện: thừa ty và hiến ty, những quan chức của các quận và tỉnh. Trong thời kỳ này các làng xã phải cung cấp lính cho triều đình, tính theo từng gia đình, tùy theo nhân số. Việc cải cách của vua Lê Thần Tôn đã gặp phản ứng trong dân chúng, họ không lập những sổ đinh, sổ điền đúng theo sự kiểm tra, nghĩa là có sự ẩn lậu dân đinh và điền thổ để tránh bớt gánh nặng về sưu thuế và tạp dịch. Triều đình gặp sự phản ứng này đã phải hứa với dân chúng chỉ thu sưu thuế và phần tạp dịch theo những sở đinh sổ điền cũ. Đời vua Lê Huyền Tôn, dưới niên hiệu Cảnh Tôn, nhà vua nghĩ đến chuyện tuyển lựa một cách đích đáng các xã quan, nhất là xã trưởng, có lẽ tại vì trước đây đã có nhiều sự lạm dụng trong việc chỉ định các viên chức này. Các xã trưởng cứ ba năm, công việc lại được xét lại, những người nào có công trạng đặc biệt, sẽ có thể được thăng chức huyện, và phần nhiều đều được thưởng phẩm hàm. Nhà vua cũng tính đến sự đối phó với việc ẩn lậu đinh điền và quyết định thu sưu thuế theo sổ kiểm tra sau cùng được coi là bất di bất dịch, việc thu sưu thuế này nhằm mục đích tăng thu. Đến đời vua Lê Dụ Tôn, niên hiệu Bảo Thái, các xã trưởng được nới rộng thêm quyền hạn trước, các xã quan phải đảm nhiệm thêm việc tuần phòng và việc thu sưu thuế. Về sau đó, việc thu sưu thuế ngày càng thêm nặng, vì công khố cần có tiền để chi tiêu về binh hỏa giữa hai họ Trịnh - Nguyễn. Bị đóng thuế nặng, dân chúng thường bỏ làng để lập nghiệp nơi khác, ruộng đất bị bỏ hoang rồi bị lập trang trại bởi một số người lợi dụng, do đó dân bị thiệt thòi. Triều đình phải ra lệnh cấm lập trang trại vào năm 1711, dưới triều vua Lê Dụ Tôn, niên hiệu Vĩnh Thịnh. Cùng với lệnh này, các làng xã được áp dụng lệ làng thay cho phép vua. Quyền hạn của dân xã được rộng hơn, và làng xã càng có nhiều quyền tự trị. Với quyền tự trị này, xã trưởng trước đây do triều đình chỉ định, dần dần do dân xã bầu lên và trở thành lệ làng kể từ đời các vua Lê Thuận Tôn và vua Lê Lý Tôn, từ năm 1732 đến 1740. Việc dân đinh tự bầu lấy xã trưởng, khiến làng xã quyền tự trị càng rộng rãi hơn, và nền dân chủ nảy nở trong dân chúng ngay giữa thời đại đế quyền, nhưng chỉ ở trong phạm vi làng xã. Làng xã dưới đời nhà Nguyễn Năm 1802, vua Gia Long thống nhất đất nước lập ra nhà Nguyễn. Mười một năm sau nhà vua ban hành Hoàng Việt hình luật tức là luật Gia Long, nhưng nhà vua cũng không sửa đổi lại việc tổ chức các làng xã, nhất là các cơ cấu trong dân, lúc đó hầu như đã trưởng thành. Nhà Nguyễn chấp thuận việc bầu xã trưởng và sự tự trị của làng xã, nền tự trị ngày càng vững mạnh nhất là trong việc quản lý công điền công thổ. Việc phân chia khẩu phần công điền công thổ tuy có các phủ, huyện, châu kiểm soát, nhưng trên thực tế chương trình hương chức trong làng vẫn tự làm lấy và mọi quyết định đều do ở nơi họ lập trước. Cho đến cuối đời vua Tự Đức, quan của triều đình bổ ra chỉ đến phủ, huyện, còn từ tổng trở xuống thuộc về quyền tự tôn của dân. Dân tự chọn lấy người của mình mà cử ra coi mọi việc trong hạt. Tổng là một khu gồm có mỗi làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do hội đồng kỳ dịch các làng cử ra coi việc thuế khóa, đê điều và mọi việc trị an trong tổng. Làng hay xã là phần tử cốt yếu của dân. Phong tục lệ luật của làng nào riêng làng ấy. Triều đình không can thiệp đến, cho nên tục ngữ có câu ''phép vua thua lệ làng''. Làng có hội đồng kỳ dịch do dân cử ra để trông coi hết cả mọi việc. Hội đồng ấy có người Tiên chi và Thí chi đứng đầu, rồi có lý trưởng và phó lý do hội đồng kỳ dịch cử ra để thay mặt làng mà giao thiệp với quan tư, có tuần đinh chuyên coi việc cảnh sát trong làng. Khi một người nào can phạm việc gì thì quan trách cứ ở làng, cho nên ai đi đâu hay làm việc gì cũng phải lấy làng làm gốc.[2] Qua các điểm trình bày trên, ta nhận thấy rằng làng xã, lúc đầu chịu sự chi phối của triều đình, kể từ đời nhà Lê đã dần dần đi đến chỗ tự trị, và những công điền, công thổ như ở chương đầu đã trình bày, chính là quốc gia công sản đã chuyển sang cho làng xã. Làng xã là đơn vị nhỏ nhất của quốc gia, nhưng lại là đơn vị mạnh nhất, vì nếu tất cả các làng xã đều chống lại triều đình, lẽ tất nhiên không triều đại nào tồn tại được. Bởi vậy, có phép vua, mọi công dân vẫn tuân theo, nhưng lại có lệ làng mà dân đinh trong làng không bao giờ bỏ qua được. Triều đình muốn tránh những phản ứng không đẹp của nhân dân đã đành chấp thuận nền tự trị của làng xã và nhiều khi phép vua đã đành chịu thua lệ làng. [1]. Trần Trọng Kim. - Việt Nam Sử lược, Tân Việt Saigon in lần thứ năm, trang 71 [2]. Trần Trọng Kim. - Sách đã dẫn, trang 48. Tổ chức làng xã dưới thời Pháp thuộc Với hòa ước năm Giáp Tuất (1874), người Pháp bắt đầu sự thống trị tại Việt Nam, và đầu tiên, người Pháp chiếm đứt miền Nam nước Việt, rồi dần dà sau đó đến Bắc Việt và Trung Việt. Chiếm giữ miền Nam, người Pháp nghĩ ngay tới việc cải tổ các cơ cấu hành chính, bắt đầu từ làng xã để tiện việc đô hộ. Họ để ý lưu tâm tới sự tự trị của làng xã Việt Nam. Họ nhận thấy làng Việt Nam luôn luôn tránh sự nhòm ngó của người lạ. Người ta chỉ có thể vào trong làng một cách khó khăn, ngay đến các quan đại diện cho nhà vua, mặc dầu được đón tiếp kính cẩn theo lễ nghi của tục lệ, nhưng thường cũng chỉ biết có ngôi đình hoặc ngôi chùa, nơi họ được mời tới. Sự tự do của làng xã muốn được hoàn toàn sử dụng cần phải có một bức thành thực sự dựng lên chung quanh làng. Đây là một gia đình đóng cửa bảo nhau những chuyện riêng, không cưỡng chế và cũng không chấp nhận sự hiện diện của một cái tai khách lạ.[1] (La liberté de la commune a besoin, pour s’exercer pleinemen, d’élever autour d’elle un véritabie muraille. C’est une famille qui ferme ses portes pour discuter ses affaires personnelles, sans contrainte et sans admettre une étrangère.) Lưu tâm tới các làng Việt Nam, người Pháp thấy rằng họ cần phải thay đổi các cơ cấu làng xã để tìm cách đặt công việc ở làng mạc dưới quyền kiểm soát của họ và làm nhẹ bớt quyền lực của các thân hào hương chức đối với dân làng. Ta có thể hiểu dễ dàng tại sao người Pháp đã thay đổi như vậy, nếu ta biết trong những cuộc khởi nghĩa thường phát khởi từ các làng mạc và tinh thần quốc gia được bảo tồn tại các nơi đó.[2] Tuy muốn thay đổi các cơ cấu này, song trước khi đi vào sự cải cách có lợi cho họ, họ cũng chờ đợi hai chục năm sau khi đã chiếm đứt miền Nam nước Việt mới ban hành nghị định đầu tiên vào năm 1940 ấn định việc cải tổ hành chánh xã tại Nam Việt, và trước khi ban hành nghị định này, các viên quan cai trị chủ tỉnh đã có một sự nghiên cứu kỹ lưỡng. Việc cải tổ bắt đầu ở Nam Việt trước để đi dần tới Bắc Việt và Trung Việt. Tại Nam Việt Trước năm 1904, hội đồng hương chức tại các làng Nam Việt gồm những chức vụ chính sau đây: Hương cả : đứng đầu vì lý do tuổi tác. Thủ chỉ : giữ văn khố. Hương chủ : giữ nhiệm vụ cố vấn chính trị. Hương sư : giữ nhiệm vụ trung gian chính thức giữa làng và các quan lại. Hương lão : cố vấn hội đồng. Hương trưởng : cố vấn trong việc thi hành mệnh lệnh của các cấp trên. Hương chánh : giữ chức cố vấn chính thức Câu đương : giữ nhiệm vụ thẩm phán trong làng. Hương quản : trưởng ban cảnh sát. Thủ bộ : giữ nhiệm vụ thủ quỹ. Hương thân : chịu trách nhiệm về hành chánh tổng quát (cùng với Hương hào). Xã trưởng : giữ nhiệm vụ trung gian giữa làng và chính quyền. Hương bộ : giữ các sổ thuế. Hương hào : chịu trách nhiệm về hành chính tổng quát cùng với Hương thân. Qua các chức vụ trên, thường thì Hương cả đứng đầu Hội đồng Hương Chức, nhưng riêng tại tỉnh Bà Rịa, nay là Phước Tuy, Hương chủ lại đứng trên Hương cả. Hội đồng hương chức với các chức vụ chính nêu trên bị người Pháp coi là thiếu quy củ và cho là cơ cấu này đang bị đe dọa vì mọi hương chức đều thờ ơ với công việc xóm làng. Người Pháp nói là muốn nâng cao uy tín cho các chức vụ tại hương thôn nên cần một sự cải cách. Thực ra với nền tự trị, làng xã Việt Nam có rất nhiêu ưu điểm mà chính người Pháp cũng nhận thấy, nhưng họ muốn dùng cái ưu điểm đó có lợi cho họ. Nghị định ngày 27 tháng 8 năm 1904 được ban hành thành lập ban Hội tề tại các xã, còn gọi là Hội đồng làng, mỗi nhân viên trong ban Hội tề lĩnh một chức vụ riêng biệt. Cũng vì mỗi nhân viên trong Hội đồng làng có một nhiệm vụ rõ rệt như vậy, nên vị thứ các vị kỳ hào được ổn định theo tính cách quan trọng hay không của các chức vụ mà họ phụ trách. Ban Hội tề gồm các nhân viên với các chức vụ và thứ vị sau đây: Hương cả: Hương chức đứng đầu; chủ tọa Ban Hội tề; giữ văn khố. Hương chủ: Phó chủ tọa; giữ nhiệm vụ thanh tra các cơ quan của làng và tường trình cho Hương cả. Hương sư: Giữ nhiệm vụ cố vấn trong việc giải thích luật lệ Hương trưởng: Giữ ngân sách làng; trợ giúp các giáo viên, nhân viên ban chấp hành. Hương chánh: hòa giải những vụ tranh chấp nhỏ giữa những người trong làng. Hương giáo: chỉ dẫn cho các hương chức trẻ tuổi; thư ký hội đồng. Hương quản: trưởng ban cảnh sát; kiểm soát hệ thống giao thông và chuyển vận. Hương bộ: giữ sổ thuế và sổ chi thu của làng; trông nom công sở cùng vật liệu của làng. Hương thân: giữ nhiệm vụ của một hương chức chấp hành, là trung gian giữa nhà cầm quyền tư pháp và ban Hội tề. Xã trưởng: giữ nhiệm vụ của một hương chức chấp hành, là trung gian giữa làng và chính quyền; giữ triện của làng; giữ việc thu thuế cho chính quyền. Hương hào: giữ nhiệm vụ của một hương chức chấp hành. Chánh lục bộ: giữ sổ sách về hộ tịch; báo cho dân chúng biết để đề phòng những bệnh truyền nhiễm xảy ra trong làng. Ngoài 12 nhân viên trên, ban Hội tề, tùy từng xã với tục lệ riêng của mình, có thể có một số viên chức khác kém quan trọng hơn. Hương lễ: giữ nhiệm vụ chủ tọa các buổi tế lễ. Hương nhạc: trưởng ban âm nhạc. Hương ẩm: tổ chức hội hè và tiệc tùng. Hương văn: soạn thảo các bài văn tế vị thần làng. Thủ khoản: chịu trách nhiệm về ruộng nương và gìn giữ công điền. Cai đình: chịu trách nhiệm trông nom gìn giữ chùa chiền... v.v… Về nhiệm vụ hương chức chấp hành của ba vị Hương thân Xã trưởng và Hương hào phải kể việc giữ gìn trật tự an ninh, việc thi hành những quyết nghị của thượng cấp và của tòa án. Việc tuyển lựa các hương chức vào ban Hội tề, nghị định năm 1904 ghi là những người này sẽ được tuyển lựa trong số các điền chủ trong xã. Sở dĩ người Pháp tin dùng các điền chủ là vì những người này vì quyền lợi của mình sẽ không có những hành động chống đối với những người không có tư sản, và do đó không có quyền lợi nhiều. Người Pháp với nghị định 1904 đã bắt đầu tạo ra lớp cường hào ác bá để làm tay sai cho chúng. Tuy vẫn tôn trọng tục lệ của dân làng, nhưng những tục lệ sẽ do chính chân tay người Pháp bảo toàn. Người Pháp đã khôn khéo đặt tại các làng tùy theo tục lệ địa phương một số các chức vụ có tính chất phong tục nhiều hơn là tính chất hành chánh. Ngoài ra, cùng với việc thành lập ban Hội tề, người Pháp đã phục hồi lại tục lệ thăng chức các hương chức. Nói rằng để phục hưng tục lệ cổ truyền của dân Việt Nam, nhưng chính ra người Pháp đã dùng sự thăng chức này làm một sợi dây xích để trói buộc các hương chức đứng vào phe họ, có chịu tuân theo lời họ, hương chức mới có hy vọng được thăng chức. Theo tục lệ này thì một kỳ hào ở cấp cuối cùng (tức là Hương hào) muốn trở thành vị Hương cả trong xã (tức là vị Chủ tịch Hội đồng xã, giữ chức vụ cao nhất), cần phải lần lượt vượt qua tất cả các cấp bậc ở dưới.[3] Với sự cải cách năm 1904, người Pháp tuy tạo ra một lớp cường hào ác bá, sẵn sàng làm tay sai cho họ, nhưng vẫn còn nhiều sự dè dặt, nhất là trong vấn đề tuyển lựa nhân viên ban Hội tề, quyền tuyển lựa tuy không nói rõ nhưng còn ở trong tay dân làng, và các luật lệ địa phương tại các xã vẫn được tôn trọng mặc dầu có sự giám hộ của chính quyền thuộc địa. Người Pháp thấy rằng với chế độ làng xã 1904, họ chưa thực quyền nắm hẳn công việc quản trị làng xã, nên hơn hai chục năm sau, năm 1927, họ lại cải cách ban Hội tề để họ có thể can thiệp một cách triệt để hơn vào các công việc làng xã. Trước khi cải cách ban Hội tề, họ nêu lên lý do sự thiếu hữu hiệu của ban này. Trong thông tư ngày 24-11-1926, viên Thống đốc Nam Kỳ gửi cho các Chủ tỉnh, đã nhắc tới sự khó khăn gặp phải trong việc tuyển lựa nhân viên ban Hội tề. Giai cấp thượng lưu bản xứ nhất là giới địa chủ và giới trí thức, không chịu tham gia ban Hội Tề, khiến các chức vụ làng xã lọt dần vào tay những kẻ bất tài và thiếu lương tâm. Để tránh tệ hại thực sự hoặc giả tưởng trên, nghị định ngày 30- 10-1927 của Toàn Quyền Đông Dương ra đời. Ban Hội tề được gọi là Hội đồng kỳ hào và gồm 12 viên chức chính. Viên Chánh lục bộ trước không được xếp vào hạng kỳ hào nay được nâng lên hạng này. Nhiệm vụ của các viên chức khác trong ban Hội tề cũng có sự thay đổi, và quyền hành chỉ huy được đặt vào trong tay mấy vị Hương cả, Hương chủ và Hương sư. Căn cứ theo nghị định 1927, dưới đây là nhiệm vụ mới của nhân viên ban Hội tề, so với nhiệm vụ ấn định bởi nghị định năm 1904: Hương cả: ngoài các nhiệm vụ cũ thêm nhiệm vụ trông nom tất cả các cơ quan trong làng, nhưng chuyển giao công việc giữ văn khố cho Hương bộ. Hương chủ: giữ thêm nhiệm vụ thủ quỹ và giao nhiệm vụ thanh tra cho Hương sư. Hương sư: giải trừ nhiệm vụ cũ. Trở thành nhân viên trong ban chấp hành giữ nhiệm vụ thanh tra và nhiệm vụ phó chủ tọa. Hương trưởng: giải trừ nhiệm vụ nhân viên ban chấp hành và nhiệm vụ giữ ngân sách làng; giữ nhiệm vụ trông nom việc học. Hương chánh: thêm nhiệm vụ cố vấn cho các viên chức chấp hành. Hương giáo: vẫn nguyên nhiệm vụ cũ. Hương quản: thêm nhiệm vụ phụ tá của ông Biện lý. Hương bộ: thêm nhiệm vụ giữ văn khố và giữ ngân sách làng. Hương thân: vẫn nguyên nhiệm vụ cũ. Xã trưởng: vẫn nguyên nhiệm vụ cũ. Hương hào: thêm các nhiệm vụ Trưởng ban cảnh sát làng, nhiệm vụ thi hành luật lệ về đường sá và nhiệm vụ tống đạt giấy tờ của tòa án. Chánh lục bộ: như cũ. Với sự cải cách mới, như trên đã nói, chức vụ chỉ huy cả ban Hội tề lẫn làng xã nằm vào trong tay ba viên chức đầu, và riêng vị Hương cả được quyền chuyên biệt chỉ huy mọi cơ quan của làng. Vai trò của Hương cả do đó được rõ rệt hơn và ảnh hưởng của vị này cũng trở nên quan trọng đối với dân làng; chính ảnh hưởng quan trọng này đã là đầu mối của nạn cường hào ác bá và nạn này xảy là rất hợp ý muốn của người Pháp. Gia dĩ việc tuyển lựa các viên chức xã, người Pháp lại nhằm tìm một lớp người có đủ bảo đảm về lòng trung thành đối với nước Pháp; những địa chủ, những người giàu có, những công chức các ngạch từ trung đẳng trở lên hồi hưu từ dịch, các quân nhân trong quân ngũ thuộc địa giải ngũ với các cấp bậc đội trở lên mới được ứng cử vào hội đồng kỳ hào. Để có thể tuyển lựa dễ dàng vào ban Hội đồng này những người khả dĩ có thể tin cẩn ở lòng trung thành của họ được, nguyên tắc thăng cấp trước đây bó buộc các kỳ hào phải lần lượt vượt qua các cấp bậc dưới tuy vẫn được duy trì nhưng được áp dụng một cách mềm dẻo, linh động hơn. Với sự mềm dẻo linh động này, nhiều chân tay của Pháp được xung vào ban kỳ hào các xã. Mặc dầu hậu ý của người Pháp là muốn giao nhiều chức vụ các xã cho bọn chân tay của họ, nhưng họ cũng không dám phạm vào tục lệ cổ truyền một cách trắng trợn, nghĩa là các kỳ hào mới vẫn phải do sự lựa chọn của các kỳ hào hiện diện trong ban Hội tề chỉ định. Tuy nhiên, với sự cải cách mới, các chủ tỉnh có quyền nhiều trong việc tuyền lựa kỳ hào, và việc tuyển lựa này muốn trở thành nhất định phải có sự duyệt y của chủ định. Nghị định ngày 30-10 - 1927 được áp dụng cho tới hết thế chiến thứ hai. Trong thời gian này vấn đề cải tổ chế độ hành chánh xã trong Nam lại được đặt ra sau cuộc khởi nghĩa đẫm máu của anh em binh sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Yên Bái hồi tháng 2 năm 1930 [4] Tháng 8-1930, Thống Đốc Nam Kỳ cho thành lập một Hội Đồng Cải Cách với mục đích cải thiện đời sống dân chúng. Hội đồng này đã đề nghị một sự cải cách sâu rộng chế độ hành chánh xã thôn và muốn các xã tại Việt Nam được tổ chức như các xã bên Pháp, nghĩa là trong xã sẽ có các hội viên Hội đồng xã và các viên chức hàng xã. Đề nghị này chỉ ở nguyên trong vòng đề nghị vì chính quyền Pháp đâu có muốn sự cải cách sâu rộng vì quyền lợi dân chúng ấy. Họ cho là không thích ứng với xứ thuộc địa này, mà lại có sự nguy hiểm là sẽ đảo lộn trật tự của các xã, và nhất là, người Pháp sẽ khó nắm nổi được các Hội viên của Hội đồng xã dự định kia. Chế độ 1927 cứ được áp dụng cho đến sau cuộc bại trận của Pháp. Khi đó, trước mọi biến chuyển của tình hình chính trị tại Đông Dương, chính quyền Pháp lại nghĩ tới sự cải cách, và Toàn Quyên Đông Dương lại có ký nghị định ngày 5-1-1944 để cố gắng tập trung quyền hành một cách chặt chẽ trong việc chỉ định các hương chức tại Nam Việt. Nghị định quy định rõ ràng thể thức tuyển lựa các hương chức. Hương chức phái lập một ban danh sách ứng cử viên để một hội đồng gồm tất cá các hương chức, cựu hương chức, cựu công chức và cựu binh sĩ đã từng cư ngụ ở trong làng được ít nhất là hai năm căn cứ vào đó mà tuyển lựa. Những sự bổ nhiệm vẫn phải được vị tỉnh trưởng phê chuẩn, như trước. Một mặt khác các ứng cử viên phải đã có tên ghi trong sổ ghi dân số của làng ít nhất được hai năm, có đóng thuế thân ở làng và không bị can án.[5] Ngoài ra, với chế đội 1944, có thêm hai hạng ứng cử viên mới: - Những người có học từ bằng Thành chung trở lên. - Những binh sĩ tuy không có bằng cấp gì, nhưng đã tỏ ra can đảm trong khi lâm trận và được thưởng Anh Dũng Bội tinh. Những ứng viên này chỉ cần biết đọc và biết viết. Với nghị định 1944, người Pháp kiểm soát chặt chẽ hơn việc tuyển lựa viên chức làng xã và nhờ sự kiểm soát này, họ dễ đặt vào hội đồng kỳ hào những người trung thành với họ. Chỉ riêng với thành phần ứng cử viên ta cũng thấy rằng, những người này, vì quyền lợi sẵn có của họ, họ sẽ không phản bội nước Pháp. Chế độ 1944 hay hoặc dở và ảnh hưởng ra sao đến các tổ chức thôn xã, chưa có thể biết được, đã xảy ra cuộc đảo chính 9-3-1945, và với cuộc đảo chính này người Nhật đã thay thế người Pháp ở Đông Dương, nghĩa là ở cả Việt Nam trong đó có Nam Việt. Qua các giai đoạn trình bày trên, ta thấy rằng trong thời kỳ thống trị Việt Nam, người Pháp đã dần dần nắm hết quyền kiểm soát nền hành chính xã, và lấn hết quyền tự trị xã thôn của ta tại Nam Việt, và với sự lấn át này, bao nhiêu tập tục nghìn xưa của ta, đã bị người Pháp dần phá hủy để tại nên một lũ cường hào ác bá tay sai. Tại Bắc Việt Chế độ làng xã tự trị tại Việt Nam là một chế độ tốt đẹp, và như trên đã trình bày có rất nhiều ưu điểm, nhất là về phương diện cai trị và an ninh trật tự xã hội. Hàng xã phải chịu trách nhiệm về hành động của dân làng đối với quốc gia. Khi người Pháp đặt chân sang đất nước ta, họ cũng không phủ nhận những ưu điểm của nền tự trị này. Paulin Vial, một viên quan cai trị Pháp trong cuốn Trung và Bắc Kỳ (L’Annam et le Tonkin) đã viết: Đó là phương pháp duy nhất thích hợp với sự an toàn của chúng ta, vì nó chia rẽ dân bản xứ bằng cách thừa nhận cho họ sự tự trị các làng xã, một điều họ rất quan tâm đến. Phương pháp đó đã được đem ra thí nghiệm rồi. Đó là phương pháp có kết quả tốt. Nó vừa thỏa nguyện vọng của người An Nam vừa mang lại an ninh cho các nhà cầm quyền Pháp, không cho nhân dân có thể liên kết với nhau trong một hành động chung để chống lại chúng ta.[6] (Cést le seul système qui fut compatible avec notre sécurité car il divisait la population en lui laissant l’autonomie den vil - lages à laquelle elle est attachée. L’expérience de ce système a déjà été faite. C’est le seul ait donné de bons résultats. Il donne satisfaction aux Annamites et sécurité aux autorités francaises, ne permet pas aux habitants de s’unir contre nous dans une action générale). Trong cuốn L’Annam d’autrefois, viên Toàn Quyền Pierre Pasquier cũng cho sự tự trị làng xã Việt Nam, là một lợi khí thống trị màu nhiệm.[7] Nhận thấy những ưu điểm của làng xã Việt Nam, nhưng chính quyền Pháp lại muốn những ưu điểm này phải là những công cụ để họ thống trị dân Việt Nam, như đã trình bày, chứ không phải đấy là những cơ cấu để thúc đẩy dân Việt Nam chống đối lại họ. Họ đã sửa đổi, đã cải cách có lợi cho họ như trong cuộc cải cách hội đồng hương chức tại Nam Việt. Và ở Bắc Việt họ cũng nghĩ đến sự cải cách, nhưng thực hiện chậm hơn vì dân khí ở miền này. Họ muốn rút kinh nghiệm ở miền Nam trước khi có sự cải tổ ở miền Bắc, và đồng thời họ muốn dùng thời gian để vuốt ve dân chúng Bắc Việt làm cho đân khí dịu đi, tinh thần chống đối họ bớt mạnh mẽ. Họ đã chờ mãi cho tới năm 1921 mới có sự cải tổ đầu tiên, trong khi ở Nam Việt, ngay từ năm 1904, họ đã can thiệp vào nên tự trị của dân làng. Họ chờ để tạo nên được những yếu tố thuận tiện, và nhất là họ chờ cho lớp sĩ phu có khí tiết, có uy tín với tuổi tác phải lướt vào quá khứ, họ mới cải tổ làng xã để tránh sự phản kháng có thể rất hiệu quả của lớp sĩ phu này. Năm 1921, khi họ cải tổ cơ cấu làng xã Bắc Việt tuy mục đích chính là mục đích chính trị nhằm giảm bớt uy thế của các kỳ hào, tước bớt vây cánh của những người này, ngõ hầu có thể ngăn giữ sự xúi giục dân xã nổi lên chống Chính phủ bảo hộ, nhưng họ vẫn nêu ra lý do ngăn ngừa mọi lạm dụng để bài trừ nạn cường hào ác bá. Thực ra, phải nhận rằng với sự hiện diện của người Pháp, với ưu quyền của họ dành cho những tay em, với tình trạng nước nhà trong giai đoạn bị trị, làm sao mà tránh được sự lạm dụng, làm sao mà khỏi được nạn cường hào ác bá. Dựa vào cớ bài trừ nạn lạm dụng và nạn cường hào ác bá, người Pháp đã thực hiện một cách hết sức táo bạo sự cải cách các cơ cấu làng xã tại Bắc Việt, năm 1921. Với sự cải cách này, trước hết họ thành lập Hội đồng tộc biểu, có nhiệm vụ quản trị công việc làng xã, do dân xã bầu ra ba năm một lần, và gồm một số nhân viên gọi là Tộc biểu. Tộc biểu chính, nghĩa là đại biểu của từng gia tộc, nghĩa là của từng họ. Mỗi họ có quyền được bầu một số tộc biểu, và mỗi xã số tộc biểu cũng thay đổi tùy theo dân số, nhưng không quá số tối đa là 20 người mỗi làng. Muốn ứng cử tộc biểu, phải 25 tuổi và phải có tài sản trong làng. Tộc biểu do các dân đinh từ 18 tuổi trở lên mà chưa phạm án đến mất quyền công dân, bầu ra. Các tộc biểu chọn lấy một vị Chủ tịch gọi là Chánh Hương hội và một Phó Chủ tịch gọi là Phó Hương hội. Chánh, phó Hương hội thay cho tiên, thứ chỉ về thời trước. Trong việc bầu cử tộc biểu nếu có sự tranh chấp phải do các viên tri huyện, tri phủ phân xử, nếu không xong. Tỉnh trưởng người Pháp, viên Công sứ, sẽ quyết định sau khi lấy ý kiến của vị tỉnh hiến người Việt là vị Tuần phủ hay Tổng đốc. Ở đây ta thấy chính quyền Pháp đã can thiệp rõ rệt vào việc quản lý làng xã, và đã lấn áp sự tự trị cổ truyền của đơn vị căn bản này của quốc gia. Ngoài ra, những tộc biểu được bầu phải có sự chấp nhận duyệt y của viên Công sứ. Hội đồng tộc biểu còn mang tên là Hội đồng Hương chính là cơ quan quyết nghị trong xã. Chủ tịch Hội đồng là Chánh Hương hội, giữ việc chấp hành, có Phó Hương hội phụ tá. Dưới quyền Chánh Hương hội có một số nhân viên giúp việc mà quan trọng nhất là Lý trưởng rồi đến Phó lý, Thư ký và Thủ quỹ. Lý, Phó trưởng vẫn do dân bầu theo lệ xưa, còn thư ký và thủ quỹ được lựu chọn trong hoặc ngoài hàng các Tộc biểu. Với nghị định năm 1921, một làng có một ngân sách. Thành lập ngân sách này, chính quyền Pháp nhằm sự kiểm soát tài nguyên của làng xã, nhưng vẫn nêu lên là để ngăn chặn mọi sự lạm dụng. Với chế độ 1921, chính quyền Pháp đã xâm nhập vào việc quản trị làng xã ở Bắc Việt một cách rõ rệt, nhưng họ còn cho là chưa đủ, nên viên Thống sứ Bắc kỳ, năm sau đã ký nghị định ngày 25-6-1922 để ấn định các điều kiện được ứng cử Lý, Phó trưởng ứng cử viên phải từ 25 đến 50 tuổi, biết đọc, biết viết, có hạnh kiểm tốt và nhất là phải trung thành với Chính phủ bảo hộ. Ngoài ra lại phải có tư sản để bảo đảm. Lý trưởng là người nắm nhiều quyền hành theo tục lệ trong làng mặc dầu trên vị này có vị Chánh Hương hội, vậy mà những điều kiện ấn định cho ứng cử viên như trên, ta thấy rằng, người đắc cử tất nhiên phải đứng về phe chính quyền để giữ lấy quyền lợi của mình. Nạn cường hào ác bá với sự lựa chọn này càng bành trướng mạnh, vì họ chính là những tay em của Pháp và được Pháp bênh vực, ấy là chưa kể, tuy nói rằng dân làng bầu cử lý, phó trưởng, nhưng chính ra chỉ những tay sai của Pháp mới được ở trong cử tri đoàn; Hội viên Hội đồng Hương chính hiện dịch, hội viên hàng tỉnh, nghị viên hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ có ghi tên trong làng, đang làm việc hoặc đã nghỉ việc, các cựu Tổng lý và các Tổng lý hiện dịch có ghi tên trong xã và trương tuần. Lý, Phó trưởng được cử tri đoàn hạn chế trên bầu ra nhưng cũng phải được bổ nhiệm của vị Công sứ qua một tấm bằng do viên Công sứ và vị tỉnh hiến Việt Nam đồng ký. Chính quyền Pháp đã can thiệp một cách sâu rộng vào công việc quản trị làng xã như trên trình bày, nhưng vẫn chưa hết: viên Công sứ đầu tỉnh còn có quyền đặc cách bổ nhiệm Lý, Phó trưởng trong nhiều trường hợp. Khi một xã chưa có Hội đồng Hương chính dự liệu bởi nghị định 1921; Khi chỉ có một người ra ứng cử hay được chấp thuận để ra ứng cử chức vụ Tộc biểu mà thôi; Khi khuyết chân Lý trưởng và trong xã có một viên Phó lý đã làm việc trong sáu năm rồi. Qua các điểm trình bày trên, ta thấy rằng Chính quyền Pháp với nghị định 1921 đã bãi bỏ hẳn Hội đồng kỳ hào cổ truyền và gạt các nhân viên trong Hội đồng này ra ngoài công việc quản trị làng xã, công việc từ xưa vẫn do họ đảm nhiệm. Việc cải cách của người Pháp đã gặp sự phản ứng của dân chúng, trước hết là sự phản ứng tiêu cực của các cựu hương chức trong Hội đồng kỳ hào, không tham gia vào công việc làng xã. Và từ sự phản ứng tiêu cực này đã chuyển sang thế khác: sự xung đột có hại cho việc quản trị làng xã giữa các cựu hương chức này với nhân viên Hội đồng tộc biểu mới, phần nhiều kém tài đức và thiếu kinh nghiệm. Và hậu quả của sự xung đột là sự phản đối công khai hoặc ngấm ngầm chính quyền Pháp, sự thành hình của những đảng cách mệnh và sự hưởng ứng của phần đông dân chúng do sự tham gia của một số các cựu hương chức có uy tín. Trước tình trạng này, người Pháp hết sức bối rối. Họ thấy cần phải sửa đổi lại quy chế làng xã để xoa dịu bớt sự bất bình của dân chúng và nhất là của các cựu hương chức của Hội đồng Kỳ hào cổ truyền. Và ngày 25-2-1927, Thống sứ Bắc Kỳ đã phải ký một nghị định sửa đổi lại quy chế quản trị làng xã, và quy chế 1927 này đã được áp dụng trong gần 15 năm, cho tới năm 1941. Nghị định 25-2-1927 phục hồi lại một phần những tục lệ cổ truyền đã bị bãi bỏ bởi nghị định 1921, việc tái thiết lập bên cạnh Hội đồng Tộc biểu, Hội đồng Kỳ mục, giữ vai trò kiểm soát hơn là quản trị, và thành phần gồm các cựu kỳ hào, cực kỳ lý, những người đã có thái độ chống đối Hội đồng Tộc biểu trước đây. Tuy Hội đồng Kỳ mục được thành lập lại, nhưng thành phần có hơi chặt chẽ hơn xưa, chỉ gồm những người hoặc đỗ đạt hoặc có phẩm hàm hoặc đã giữ các chức vụ cấp tổng hay cấp xã, riêng với hạng thứ ba này lại cần phải là những người cư trú ngay trong xã. Số kỳ mục không hạn chế và nhiệm kỳ cũng không hạn định. Chính quyền Pháp, trong việc kiểm soát làng xã giữ quyền duyệt y danh sách Kỳ mục cho các viên Công sứ, và danh sách này một bản được lưu giữ tại tòa sứ. Mỗi khi có sự thay đổi, các chức dịch hàng xã phải trình ngay với chính quyền. Theo nghị định 1927, cơ quan chấp hành xã vẫn là Chánh Hương hội có Phó Hương hội phụ tá và có một số các chức dịch giúp việc: Lý trưởng, Phó lý, Trương tuần, Thủ quỹ và Thư ký. Ngoài ra còn thêm hai hương chức mới là Chương bạ giữ sổ địa bạ và Hộ lại giữ việc sinh tử giá thú. Lý, Phó trường vẫn do sự bầu cử như cũ cho đến năng 1930, mới có thể lệ chỉ định. Theo thể lệ chỉ định này, phương pháp bầu cử Lý trưởng càng ngày càng ít áp dụng. Các Phó lý có ba năm thâm niên có thể được đặc cách bổ nhiệm làm Lý trưởng. Chỉ còn hai trường hợp bầu cử Lý trưởng: Trong xã có nhiều Phó lý có đủ điều kiện để được đương nhiện bổ nhiệm Lý trưởng. Trong xã không có một Phó lý nào đủ điêu kiện đề được đương nhiên cải bổ Lý trưởng. Nghị định 1927 vãn để sự kiểm soát làng xã cho các viên chức hàng tỉnh, nhưng để tỏ ra tôn trọng hiệp ước Bảo hộ, chính quyền Bảo hộ trao quyền bổ nhiệm Lý trưởng cho các vị định hiến Việt Nam và các viên Công sứ chỉ duyệt y nghị định của các vị trên. Việc duyệt y nghị định này là tất cả, vì có thể có trường hợp viên Công sứ từ chối việc duyệt y. Mặc dầu người Pháp khôn khéo, bề ngoài ra vẻ áp dụng hiệp ước bảo hộ Bắc Việt với sự tái thiết lập Hội đồng Kỳ mục, nhưng họ vẫn không đạt được kết quả mong muốn. Họ vẫn gặp thái độ bất hợp tác của những người trí thức và có tiết tháo, cũng như thái độ chống đối của phần đông dân chúng với các đảng cách mạng chống họ mạnh mẽ hơn (Việt Nam Quốc Dân Đảng, 1930, Việt Nam Phục Quốc Hội, 1940 v.v...). Rồi đến năm 1941, với tình trạng mới gây nên bởi cuộc đệ nhị thế chiến tại Tây phương, bởi sự bại trận của nước Pháp và nhất là bởi sự hiện diện của quân đội Nhật Bản trên các bán đảo Đông Dương, họ nhận thấy cần phải cải tổ lại nền hành chính hương thôn ở Bắc Việt để nắm vững lấy dân chúng thôn quê, ngăn chặn mọi mưu mô nổi dậy lật đổ chính quyền Bảo hộ Pháp. Muốn như vậy họ phải đánh lạc hướng vấn đề và họ phải thỏa mãn một phần nào sự đòi hỏi của dân chúng, nhất là giai cấp trung lưu mà họ hy vùng có thể lợi dụng được bằng cách cho tham dự, trong một phần rất nhỏ, vào công việc điều khiển guồng máy hành chánh. Với thâm ý trên, Thống sứ Bắc kỳ, đã đệ trình Hoàng đế Việt Nam phê duyệt đạo dụ ngày 23-5-1941 tổ chức lại nền hành chính xã tại Bắc Việt. Đây là cuộc cải lương hương chính lần chót của người Pháp tại Bắc Việt. Với sự cải lương này, Hội đồng Tộc biểu thiết lập tù năm 1921 bị bãi bỏ, cũng như Hội đồng Kỳ mục mới thiết lập năm 1927, và trong làng một Hội đồng Kỳ hào được ra đời, với một thành phần rộng rãi, gồm tất cả các dân đinh trong xã từ 21 tuổi trở lên có đủ điều kiện văn bằng hoặc phẩm hàm, hoặc đã giữ các chức vụ tổng lý trong thời gian ít nhất ba năm, như vậy tổng số kỳ hào không hạn định; vị thứ các kỳ hào được ấn định theo tính cách quan trọng của phẩm hàm, và vị chủ tịch là người có phẩm hàm cao nhất. Vì số kỳ hào không hạn định, nên nhiều xã rất đông, trên 20 người. Trong trường hợp này Hội đồng Kỳ hào có thể ủy quyền cho một ủy ban Quản trị gồm có 7 nhân viên, chọn trong số các Kỳ hào có phẩm hàm cao nhất. Hội đồng Kỳ hào giống như Hội đồng Kỳ mục trước khi có mọi sự cải cách, chỉ khác ở chỗ bị kiểm soát chặt chẽ bởi chính quyền Bảo hộ đối với việc chỉ định các kỳ hào, và danh sách kỳ hào phải đệ nạp chính quyền để tiện việc theo dõi. Trong trường hợp xã nào có Ban Quản trị, việc chỉ định cũng như mọi việc thay thế phải được chính quyền chuẩn y. Cơ quan chấp hành theo dụ 23-5-1941 vẫn là lý, phó trưởng với một số các nhân viên thừa hành khác: Hộ lại, chưởng bạ, thư ký, thủ quỹ và trương tuần. Từ Lý, Phó trưởng tới các nhân viên thừa hành đều là các nhân viên chỉ định và trường hợp bầu cử rất ít khi có, và nếu có cũng chỉ do nhân viên Hội đồng Kỳ hào bầu mà thôi, và thường chỉ có bầu cử Phó lý, còn Lý trưởng là do các Phó lý được tuyển nhiệm lên. Mọi việc bổ nhiệm các hương chức này đều do vị định hiến Việt Nam và phải được sự chuẩn y của viên Công sứ Pháp, duy chỉ có Trương tuần thì do Hội đồng Kỳ hào tuyền lựa theo tục lệ trong làng. Việc cải cách này cũng không mấy làm hài lòng dân chúng, tuy giai cấp trung lưu được tham dự nhiều vào công việc hàng xã, nhưng những, nhân viên thừa hành, nhất là các Lý, Phó trưởng, chưởng hạ, hộ lại và thư ký, với sự kiềm soát chặt chẽ, với sự chỉ định thay cho việc bầu cử, người Pháp đã nắm chặt quyền quản trị làng xã trong tay, và những người được chỉ định muốn làm hài lòng quan trên để hy vọng được chỉ định vào chức vụ khác, như phó lý được chỉ định Lý trưởng, thường là những tay sai trung thành của Pháp, và luôn luôn trung thành với chính phủ Bảo hộ, tức là đi ngược lại quyền dân. Sự chống đối trong dân chúng vẫn ngấm ngầm cho đến ngày 9-3-1945, ngày chính quyền Pháp ở Đông Dương bị lật đổ do quân đội Nhật Bản. Tại Trung Việt Trung Việt tức là Trung kỳ dưới thời Pháp thuộc. Tuy là một xứ bảo hộ, cũng như Bắc Việt, nhưng ở đây có Triều đình Huế với danh nghĩa cầm đầu Quốc gia dưới chính quyền Bảo hộ, nên người Pháp tuy muốn xâm nhập vào các công việc của người Nam vẫn phải tôn trọng quyền cai trị của các Nam quan và chỉ đành thiết lập những phương tiện để kiểm soát sự cai trị này. Tôn trọng quyền cai trị của các Nam quan, người Pháp không dám vội vàng động tới việc cải cách các cơ cấu làng xã để nhúng tay vào việc quản lý những đơn vị căn bản này. Họ phải đợi cho tới năm 1942 mới bắt đầu cải tổ nền hành chánh xã tại Trung Việt do chỉ dụ 5-1-1942 của Hoàng đế Việt Nam. Chỉ dụ Hoàng đế ký, nhưng nội dung do chính quyền Pháp sửa soạn. Chỉ dụ 1942 về tổ chức hành chánh xã tại Trung Việt dựa trên những điêu khoản của đạo dụ 1941 về tổ chức làng xã tại Bắc Việt, nghĩa là công việc quản trị trong làng do Hội đồng Kỳ hào. Trước đây, tại các xã vẫn có một Hội đồng Kỳ hào, nhưng việc tuyển lựa các hội viên hoàn toàn do tục lệ mỗi xã quy định, do đó sự kiểm soát của các cấp trên hầu như vô hiệu. Với đạo dụ 1942, những điều kiện để tham dự Hội đồng Kỳ hào được ấn định rõ ràng cũng như thành phần của hội đồng này. Muốn tham dự Hội đồng Kỳ hào phải là dân xã lương thiện không can án, trung thành với chính phủ Nam triều và chính phủ Bảo hộ, có phẩm hàm, có khoa cử, tổng lý và ngũ hương, cựu tổng lý và ngũ hương đã từ dịch sau ba năm làm việc. Hội đồng Kỳ hào ủy quyền cho một ủy ban Thường trực để giải quyết các công việc thường xuyên của xã - xã nào cũng có ủy ban, không giống như ở Bắc Việt chỉ những xã lớn mới có. Cơ quan chấp hành của xã gồm lý trưởng, có Phó lý và năm viên chức thừa hành gọi là ngũ hương giúp việc. Ngũ hương là: Hương bộ: có nhiệm vụ quản thủ văn khố xã. Hương bản: giữ quỹ của xã. Hương kiểm: giữ nhiệm vụ cảnh sát hành chánh và tư pháp trong làng. Hương mục: trông coi, tu bổ các công sở, đường sá trong làng. Hương dịch: thông tin xã và vệ sinh trong thôn. Lý trưởng trước đây do dân bầu, với chế độ 1942 việc bầu cử được thay thế bằng phương pháp đương nhiên chỉ định bởi vị Nam quan đầu tỉnh sau khi đã thỏa hiệp với vị Công sứ Pháp. Người được chỉ định là Phó lý của xã có nhiều thâm niên công vụ, và khi có từ hai Phó lý đồng thâm niên công vụ, người nhiều tuổi hơn sẽ được chỉ định. Phương pháp bầu cử chỉ được dùng đến khi nào trong xã không có người Phó lý nào cả. Phó lý và ngũ hương do Hội đồng Kỳ hào lựa chọn và các quan tỉnh duyệt y. Trong việc cải cách nền hành chính làng xã Trung Việt, chính quyền Pháp không ngoài mục đích kiểm soát chặt chẽ các viên chức làng xã và đã đưa dần vào cơ quan quản trị những người trung thành với họ giống như khi họ cải cách lại nên hành chính xã tại Bắc Việt vào năm 1941. Trên hình thức, nếu không xét kỹ ta thấy thành phần như không thay đổi vì cơ quan quyết nghị của xã vẫn là Hội đồng Kỳ hào, và cơ quan chấp hành vẫn chỉ gồm có Lý, Phó trưởng và ngũ hương, nhưng nếu đi sâu vào việc tuyển lựa, ta thấy ngay dã tâm của chính quyền Pháp muốn dân bãi bỏ phương pháp bầu cử bằng phương pháp chỉ định để có thể đặt tay sai của họ vào Hội đồng Kỳ hào và nhất là vào các chức vụ chấp hành. Ngoài ra, họ cũng đặt ra sự kiểm soát chặt chẽ. Chế độ 1942 tồn tại cho đến ngày 9-3-1945 của Trung Việt cũng như chế độ 1941 tại Bắc Việt. * * Xét chung về việc tổ chức làng xã dưới thời Pháp thuộc, ta thấy người Pháp tuy bắt đầu sự cải cách ở ba miền Nam, Bắc, Trung trong ba thời kỳ khác nhau, nhưng cuối cùng họ đã thống nhất việc tổ chức trên đại cương trên cả ba vùng qua sự tương đồng của nghị định ngày 5-1-1944 với các đạo dụ ngày 23-5-1941 và 5-1-1942, với phương pháp chỉ định các hương chức và kiểm soát chặt chẽ cơ quan quyết định của xã. [1]. P.Pasquier. – L›Annam d’autrefois. (Trang 54) lls›est toujours dérobé aux regards de I›étranger. On ne peut y pénétrer que difficilement et mème les mandarins représentant I’autorité de I›empereur, tout en y étant recus avec le respect et le cérémonial voulu par les rites et la coutume, n›en connaissent souvent que la maison commune, le đình ou la pagode où ils sont conduits. [2]. Nguyễn Xuân Đào. - Tổ chức hành chánh tại cấp xã việt Nam. - Khảo sát về những diễn biến trong lịch sử. [3]. Vũ Quốc Thông. - Pháp chế sử Việt Nam. - Tủ sách ĐạiI học, Saigon 1966. [4]. Vũ Quốc Thông - Sách đã dẫn. [5]. Nguyễn Xuân Đào. - Tài liệu đã dẫn. [6]. Vũ Quốc Thông dịch, trong sách đã dẫn [7]. Un organe qui est un merveilleux outil de gouvernement. Tổ chức làng xã sau tháng 8.1945 [1] Chính quyền Pháp bị lật đổ, nhưng việc tổ chức làng xã Việt Nam vẫn được duy trì trong khi người Nhật thay thế người Pháp tại Đông Dương. Mãi cho tới tháng 8-1945, Việt Minh nắm quyền, việc tổ chức làng xã mới được sửa đổi lại. Việc tổ chức làng xã tại Việt Nam, Việt Minh căn cứ vào bản hiến pháp năm 1946 chia nước Việt Nam thành kỳ, tỉnh, thị xã tại các vùng đô thị, huyện và xã tại các vùng quê. Không có tổng, đơn vị giữa làng và huyện như trước. Mỗi xã bất kể Trung, Nam, Bắc có hai cơ quan đại diện là Hội đồng nhân dân và ủy ban Hành chính. Hội đồng nhân dân do phổ thông đầu phiếu bầu lên, và hội đồng này lại tự bầu lấy ủy ban Hành chính. Tùy theo dân số, ủy ban nhân dân gồm từ 18 đến 25 nhân viên từ năm tới bảy nhân viên dự khuyết. Những điều kiện ứng cử và bầu cử đều nhất loạt thay đổi. Bất cứ ai, 18 tuổi trở lên đều được ứng cử và bầu cử. Điền kiện cư trú cũng rút, ứng cử thì sáu tháng, bầu cử thì ba tháng. Ủy ban Hành chính xã gồm một Chủ tịch, một Phó Chủ tịch, một thủ quỹ, một thư ký, một ủy viên phụ trách việc duy trì an ninh và hai ủy viên dự khuyết. Theo nguyên Các, ai đủ điều kiện cũng được ứng cử vào Ủy ban Nhân dân. Cuộc bầu cử ủy ban Hành chính xã phải được ủy ban cấp tỉnh chấp thuận mới có hiệu lực. Cũng như dưới thời Pháp thuộc, mọi quyết định của Hội đồng nhân dân xã phải được phê chuẩn của cấp tỉnh mới có giá trị, tuy rằng nhân dân theo nguyên tắc có quyền phế bỏ Hội đồng nhân dân để đời bầu cử lại. [1]. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (sau Cách mạng tháng 8-1945) Tổ chức làng xã trong thời kỳ pháp Trở lại chiếm đóng Nam kỳ Ngay sau khi trở lại Nam Kỳ, người Pháp thành lập Chính phủ lâm thời ở Nam Kỳ, bác sĩ Nguyễn Văn Thinh cầm đầu Chính phủ này mệnh danh là Chính phủ tự trị Nam Kỳ. Dưới Chính phủ tự trị Nam Kỳ, tại xã có ban Hội Tề gồm tám hội viên do phổ thông đầu phiếu bầu lên. Ban Hội tề tự phân làm hai ủy ban, một ủy ban do vị Hương cả đứng đầu phụ trách các việc hành chánh tư pháp và các công tác xã hội, và một ủy ban do vị Hương chủ đứng đầu phụ trách các vấn đề tài chính, kinh tế và nghi lễ. Ban Hội tề này không tồn tại bao lâu, vì sau đó, chính phủ Nam Kỳ tự trị không còn nữa, được thay thế bằng Chính phủ Lâm thời Việt Nam do tướng Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng, kế đó Bảo Đại trở lại Việt Nam. Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân trước tình thế rối bời của đất nước đã trao cho các Tỉnh trưởng quyền bổ nhiệm các Hội đồng xã để điều khiển công việc hành chính trong làng, và các chức dịch trong làng xã đương nhiên trở thành một bộ phận của toàn bộ hệ thống hành chính tập quyền. Việc bổ nhiệm hương chức làng xã được tồn tại cho đến năm 1953. Sắc lệnh ngày 19-3-1953 được ban hành để tổ chức lại nền hành chính xã. Theo Sắc lệnh này mỗi làng có một Hội đồng hương chánh gồm tới đa là chín người do dân chúng bầu lên bằng lối phổ thông và trực tiếp đầu phiếu. Ba nhân viên đứng đầu là Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Chánh thư ký. Với tổ chức mới này, tổ chức làng xã đã trở lại khuôn mẫu Hội đồng xã cổ truyền trong một phần nào nhưng vẫn có sự giám sát của cơ quan cấp tỉnh. Thực ra Sắc lệnh 1953 đã ra đời với ý muốn cố gắng thử tái lập một nền hành chính của thời kỳ Pháp đô hộ với sự mở rộng quyền kiểm sát của các cấp trên, song song với việc gìn giữ lại một vài tập tục cổ truyền về nền tự trị xã thôn. Tổ chức làng xã dưới chính quyền Ngô Đình Diệm Hội nghị Genève kết thúc và sự phân đôi nước Việt Nam. Ở Miền Nam Ngô Đình Diệm đã truất phế Bảo Đại để tổ chức bầu cử đưa mình lên ngôi vị tổng thống. Làm Tổng thống, Ngô Đình Diệm đã cải tổ nền hành chính Việt Nam, trong đó có tổ chức hành chính xã. Ngày 18-6-1956, Phủ Tổng thống đã gửi thông tư cho các Tòa tỉnh trưởng để thay thế Hội đồng Hương chính bằng một ủy ban Hành chính, gồm một Chủ tịch, một Phó chủ tịch phụ trách những vấn đề tài chính, xã hội và kinh tế và một ủy viên Cảnh sát. Những làng lớn có thể có thêm hai phụ tá trông coi việc hành chính và tài chính. Những nhân viên của ủy ban Hành chính này do Tỉnh trưởng lựa chọn trong những người địa phương có lòng trung thành với chế độ. Ngày 24-10-1956, ủy ban Hành chính lại được đổi thành Hội đồng xã, với từ ba đến năm nhân viên do Tỉnh trưởng vẫn lựa chọn như trên, những xã lớn có thể có thêm một số phụ tá. Các tỉnh trưởng phải kiểm soát và theo dời các Hội đồng xã để ngăn cấm mọi hoạt động từ hành vi đến ngôn ngữ thiếu trung thành với chế độ. Chính quyền Ngô Đình Diệm sau đó, với đạo dụ ngày 24-10- 1956, đã chính thức đặt cho làng xã một pháp chế, nhưng tất cả mọi tổ chức về hành chính của Ngô Đình Diệm đã sụp đổ cùng với chế độ vào ngày 1-11-1963. Tổ chức làng xã ở miền Nam sau ngày 1-11-1963 Chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ kéo sụp đổ theo nhiều cơ cấu trước đây được thiết lập để phụng sự chế độ, và trong những cơ cấu này phải kể các tổ chức hành chính tại làng xã. Chính quyền Sài Gòn sau ngày 1-11-1963, muốn tại các làng xã, người địa phương lo liệu công việc địa phương, hành chính địa phương gồm những nhà chức trách, xuất thân tại mỗi địa phận, đứng ra gánh vác những công việc riêng cho địa phận mình. Những công việc riêng này phát sinh từ những đặc tính của mỗi địa phận, từ những nhu cầu riêng của dân chúng trong vùng.[1] Để thực hiện ý muốn trên, ngày 31-5-1964, Chính quyền Sài Gòn đã ban hành sắc lệnh để thay thế Hội đồng xã duy nhất của chế độ Ngô Đình Diệm bằng 2 cơ quan, một cơ quan quyết nghị là Hội đồng nhân dân xã và một cơ quan chấp hành là ủy ban Hành chính xã. Ủy ban nhân dân xã do nhân dân bầu lên, ủy ban nhân dân đề cử ủy ban hành chánh lên chính quyền tỉnh để chấp nhận. Sắc lệnh 1964 tổ chức làng xã với các mục tiêu: Phân quyền cho nhân dân xã quyền quyết nghị về các vấn đề của xã. Dân chủ hóa hạ tầng cơ sở qua việc phổ thông đầu phiếu để bầu Hội đồng nhân dân xã, các Trưởng ấp và Phó trưởng ấp. Giúp đỡ xã thôn phát triển đồng đều với phương tiện chung do ngân sách quốc gia cung ứng. Với cuộc thí nghiệm, nhiều khuyết điểm đã được các cơ quan cấp trên nêu ra: