🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nền Kinh Tế Tăng Trưởng Và Sụp Đổ Như Thế Nào ? Ebooks Nhóm Zalo THÔNG TIN EBOOK Tên sách: Nền Kinh Tế Tăng Trưởng Và Sụp Đổ Như Thế Nào? Nguyên tác: How an economy grows and why it crashes Tác giả: Peter D. Schiff & Andrew J. Schiff - Minh Họa: Brendan Leach Người Dịch: Nguyễn Dương Hiếu Thể loại: Kinh tế Nhà Xuất Bản Thời Đại - DT Books © 2011 The Happiness Project #7-NF TVE-4U Read Freely - Think Freedom Thực hiện: Hanhdb Hoàn thành: 07/2015 Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com DỰ ÁN HẠNH PHÚC The Happiness Project #7-NF Hạnh phúc luôn tồn tại xung quanh chúng ta, điều quan trọng ta phải biết nắm bắt, kéo nó về phía mình để đem lại an lành cho bản thân, cho cuộc sống! Cuốn sách này là một niềm vui nhỏ bé chúng tôi muốn dành tặng đến bạn, người đọc ạ! "Hãy nhớ rằng không có hạnh phúc trong sự sở hữu hay sự thâu nhận, mà chỉ có trong sự trao tặng. Hãy mở rộng vòng tay - Hãy chia sẻ - Hãy ghì ôm. Hạnh phúc là một loại nước hoa, mà khi bạn rưới lên những người khác, thế nào cũng có một vài giọt dính trên người bạn." Og Madino LỊCH SỬ KINH TẾ MỸ NHƯ CÂU CHUYỆN NGỤ NGÔN Cuốn sách được liệt vào hàng kinh điển trong thể loại sách truyền bá Kinh tế học trường phái tự do. Bản thân cha con Peter Schiff đều là những nhà kinh tế lớn của trường phái Áo. Trên thực tế Schiff cha ở tuổi 82 vẫn phải "chăn kiến" vì kịch liệt phản đối những chính sách kinh tế tham lam của chính phủ Mỹ. Nếu như có giải Nobel cho tư duy kinh tế hài hước, cuốn sách của Peter Schiff sẽ là một ứng cử viên sáng giá... Giống như lưỡi dao mổ của bác sĩ phẫu thuật, nó cắt bỏ một cách lạnh lùng và chính xác những giáo lý sai lệch được viết suốt trong những năm gần đây về các căn bệnh của nền kinh tế thị trường. Xin chào mừng bạn đến với khóa học bổ túc kinh tế dành cho những "kẻ đần thối". Bằng cách lý giải thú vị với cốt truyện nhẹ nhàng, châm biếm, tác giả đã đưa Kinh tế học ra khỏi tháp ngà đến với tất cả mọi người, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cách thức vận hành của một nền kinh tế. Tuyệt đỉnh hài hước Lần đầu đọc nó tôi tưởng mình chọn nhầm cuốn truyện ngụ ngôn cho trẻ em. Hoàn toàn vắng bóng những con số khô khan, chẳng một biểu đồ rối rắm và vô cùng nhiều hình minh họa vui tươi hài hước. Tôi đảm bảo dù bạn có "ngẫn" đến đâu cũng bỏ túi được vài khái niệm căn bản nhất: Nền kinh tế, giá trị thặng dư là gì? Lãi suất và vai trò của ngân hàng Trung Ương... Tại sao một cốc trà đá nhẩy Lambada từ 500 đồng lên 3000 đồng? hay lương của bạn dù tăng lên 2-3 lần mà vẫn thấy nghèo hơn so với 10 năm trước. Khởi đầu câu chuyện thế này. Ngày xửa ngày xưa trên một hòn đảo nhỏ mang tên "Chỉ đàn ông mới đem lại hạnh phúc cho nhau", có ba chàng độc thân cư ngụ. Họ phải dành cả ngày để bắt cá kiếm ăn bằng đôi tay trần, tuyệt nhiên không có một dụng cụ nào khác. Một ngày nọ, một người trong số họ nghĩ ra cách dùng vợt để bắt cá, sau đó là những dụng cụ bắt cá khác (lưới, thuyền), từ đó dân đảo bắt đầu có những khoảng thời gian dôi dư để theo đuổi những công việc khác. Cá trở thành tiền tệ của hòn đảo, rồi một Ngân hàng trung ương mang tên Ngân hàng Dự trữ Cá ra đời. Mọi chuyện cứ thế tiếp diễn trong một nền kinh tế đảo, với vô vàn hỉ nộ ái ố … Cuối mỗi chương tác giả đều đưa ra những nhận xét dí dỏm sâu cay, giúp người đọc nhìn rõ hơn từng mảnh ghép trong bức tranh toàn cảnh. Tỉ dụ khi nói về việc kiểm soát lãi suất. Các quyết định của Fed thường bị ảnh hưởng bởi những xét đoán về chính trị hơn là về kinh tế...Các vị Tổng thống Hoa Kỳ muốn tái đắc cử luôn kêu gọi giảm lãi suất, gây sức ép với Fed để giúp họ làm điều đó. Về phía mình, các nhà làm chính sách tại Fed cũng thích được xã hội nhìn nhận như những người tốt sẵn lòng giúp đỡ nền kinh tế, chứ không phải như những lão Scrooge bủn xỉn keo kiệt, kéo nền kinh tế vào suy thoái. Những nội dung quan trọng: - Nền kinh tế tăng trưởng thịnh vượng nhờ những lực lượng sản xuất trực tiếp biết cách cải tiến kỹ thuật - tăng năng suất và hoạt động hiệu quả hơn. Đồng thời nó phải dựa trên dự trữ tiết kiệm thực sự của nền kinh tế đó. Chi tiêu ít hơn những gì bạn kiếm được chính là chìa khóa cho sự giàu có. Những ngành dịch vụ ăn theo không làm tăng tổng sản phẩm quốc gia (GDP) ngay cả khi những "số liệu GDP chính thức" được báo đài ngày đêm ra rả. Cơn sốt bất động sản hay các ngành phụ trợ như trang trí nội thất, xây dựng... chẳng làm đất nước giàu lên. Trong một vài trường hợp, cơn rồ đất đai và chi tiêu công vô độ, nạn tham nhũng sẽ dẫn đến suy thoái tất yếu cho toàn bộ nền kinh tế: Đại khủng hoảng 1929, suy thoái 2008 tại Mỹ và bong bóng nhà đất năm 2011-2012 tại Việt Nam... - Do một người Mỹ viết nên đương nhiên câu chuyện kể về chính phủ Mỹ, hồi tưởng lại sự kiện lịch sử Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) quyết định bỏ bản vị vàng - Schiff cho rằng chính quyết định này đã dẫn đến việc lạm phát trong suốt 100 năm qua của đồng Đô-la. Chính phủ Mỹ có thể in tiền mà không cần quan tâm dự trữ tiết kiệm trong ngân sách là bao nhiêu. Để bù đắp cho khoản thâm hụt, họ sử dụng chính sách xuất khẩu lạm phát sang các nước, khu vực khác. - Tôi đặc biệt thích cách tác giả lý giải chính sách chi tiêu công phải dựa trên nguồn lực dự trữ nội tại. Ông phê phán sâu sắc thậm chí phỉ nhổ không thương tiếc những "con lừa" theo chủ nghĩa Keynes (quan niệm cho rằng chính phủ nên chi tiêu mạnh tay nhằm thoát khỏi khủng hoảng). Các khoản chi tiêu công ồ ạt của chính phủ Mỹ dưới thời Alan Greenspan, Bernanke đã đẩy số nợ mà nước này phải gánh lên đến 13 nghìn tỷ USD, tức khoảng 90% GDP. Dù đã chi 787 tỷ USD nhằm kích thích kinh tế nhưng tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ vẫn loay hoay quanh mức 10%. Schiff phê phán " Keynes đã thực hiện một trò bịp bợm khó tưởng tượng nhất một cách khéo léo: ông ta đã biến một điều đơn giản thành một mớ hỗn độn phức tạp đến mức không sao hiểu được." - Vạch trần mối quan hệ giao thương hai chiều giữa Mỹ - Trung Quốc: trong đó Trung Quốc trở thành kẻ sản xuất cung cấp sản phẩm, còn nước Mỹ là thị trường tiêu thụ chính. Khi cán cân thương mại này bị nghiêng, chú Sam chỉ việc bấm nút in tiền hay trả nợ bằng trái phiếu. Một chiêu bẩn nhưng vô cùng hiệu quả của Tư bản Mỹ, tuy nhiên về lâu dài họ sẽ phải trả giá đắt vì vận may không thể kéo dài mãi mãi. Sẽ có lúc quốc vương Tập vác hàng tải đô la mua đứt xứ sở cờ hoa. Hạnh Nghĩa - Happiness Project ĐỀ TẶNG Nền Kinh Tế Tăng Trưởng Và Sụp Đổ Như Thế Nào? Một Câu Chuyện Ngụ Ngôn Thời Hiện Đại Tặng cha tôi - Irwin Schiff, và tất cả những người cha từng kể chuyện cho con nghe. Tặng con tôi - Spencer, cùng những người con khắp nơi trên trái đất, những người sẽ tiếp tục chuyển những câu chuyện đó cho các thế hệ tương lai. Peter Tặng cha tôi - Irwin vì logic của ông, tặng mẹ tôi - Ellen vì sự quan tâm chăm sóc và hỗ trợ. Tặng các con: Ethan vì sự nhiệt tình, Eliza vì những câu hỏi. Tặng vợ tôi Paxton vì mái ấm của chúng ta. Andrew Đã bao giờ bạn tự hỏi.... Tại sao chính phủ có thể vô tư xài hoài mà... không hết tiền? Tại sao nước này giàu còn nước kia lại nghèo? Cái gì là liều thuốc cho nền kinh tế suy thoái: chi tiêu hay tiết kiệm? Lạm phát từ đâu đến? Làm sao mà bắt cá bằng tay không lại khó? Hiểu được cách thức các mảnh của trò chơi xếp hình có tên "nền kinh tế" kết hợp lại với nhau quả là một việc khó khăn, nhắt là khi ngay cả các chuyên gia cũng đầu hàng! Nhưng một khi bạn đào sâu vào những cái cốt lõi, căn bản nhất, mọi việc sẽ dễ hiểu hơn bạn nghĩ rất nhiều. Sử dụng những câu chuyện thú vị, những hình ảnh minh họa và tính hài hước cao độ, cuốn sách này như đã kéo kinh tế học xuống khỏi cái tủ thờ cao ngất, đặt nó xuống bàn ăn - vị trí thực sự của nó! Câu chuyên cực kỳ thẳng thắn về lũ cá, lưới đánh cá, tiết kiệm và cho vay đã vạch trần những lỗ hổng toang hoác hiện vẫn còn bị che giấu trong các cuộc tranh luận kinh tế toàn cầu. Với sự sắc sảo, thông tuệ và hài hước, anh em nhà Schiff - các tác giả cuốn sách - lần lượt giải thích nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế, tầm quan trọng của thương mại, tiết kiệm, rủi ro, căn nguyên của lạm phát, tác động của lãi suất và kích thích kinh tế, bản chất tiêu cực của tín dụng tiêu dùng, cùng rất nhiều nguyên lý kinh tế khác - những thứ được người ta bàn luận quá nhiều nhưng thấu hiểu quá ít! Câu chuyện thoạt trông có vẻ rất đơn giản, nhưng nó sẽ giúp bạn thấu hiểu làm sao mà một nền kinh tế có thể tăng trưởng hay sụp đổ.... Tủ Sách Doanh Trí - Do Pace Tuyển Chọn Và Giới Thiệu LỜI NGƯỜI DỊCH Hàng ngày, tất cả chúng ta đều tham gia vào các hoạt động kinh tế. Các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, báo chí, Internet v.v... cũng đầy rẫy những bài viết, phân tích hay đưa tin về các sự kiện kinh tế. Tuy nhiên, với đa số người dân, kinh tế học dường như vẫn là điều gì đó khó hiểu, trừu tượng, một lĩnh vực mà chỉ các “chuyên gia” mới biết và dám bàn đến mà thôi. Điều này hẳn nhiên là không tốt, không chỉ với những “dân ngoại đạo” với kinh tế học, mà còn với cả những người làm chính sách kinh tế, các cơ quan quản lý kinh tế, các doanh nghiệp. Do tất cả các cá nhân và tổ chức trong xã hội đều là các chủ thể kinh tế, sự hiểu biết cơ bản về kinh tế học là vô cùng cần thiết. Chính vì lẽ đó, trong những năm gần đây nhiều học giả kinh tế nước ngoài đã bắt đầu biên soạn những cuốn sách đơn giản, dễ hiểu, nhằm giới thiệu đến độc giả đại chúng những khái niệm cơ bản nhất của kinh tế học, hy vọng giúp lĩnh vực khô khan này trở nên gần gũi hơn với mọi người. Cuốn sách này cũng nằm trong số đó. Các tác giả bắt đầu cuốn sách như một câu chuyện ngày xưa: trên một hòn đảo nhỏ, chỉ có ba người đàn ông cư ngụ. Họ phải dành cả ngày để bắt cá kiếm ăn bằng đôi tay trần, tuyệt nhiên không có một dụng cụ nào khác. Một ngày nọ, một người trong số họ nghĩ ra cách dùng lưới để bắt cá, sau đó là những dụng cụ bắt cá khác, từ đó dân đảo bắt đầu có những khoảng thời gian dôi dư để theo đuổi những công việc khác. Cá trở thành tiền tệ của hòn đảo, rồi một Ngân hàng trung ương mang tên Ngân hàng Dự trữ Cá ra đời. Câu chuyện cứ thế tiếp diễn trong một nền kinh tế đảo, với vô vàn những câu chuyện vui buồn, thăng trầm của nó... Peter D. Schiff và Andrew J. Schiff đã biến những bài giảng khô khan về kinh tế học trở nên cực kỳ vui tươi và dễ hiểu. Rất nhiều tranh minh họa dí dỏm trong cuốn sách này cũng góp phần vào giá trị của nó. Độc giả hẳn sẽ có những tiếng “À!”, “Ồ!” thú vị và ngạc nhiên khi đọc tác phẩm này. Ai đó đã từng nói rằng không có gì dễ nghe và dễ nhớ hơn là một câu chuyện, bởi từ bé mỗi chúng ta đều đã quen và thích nghe những câu chuyện kể về đủ mọi thứ trên đời. Cuốn sách này chính là như vậy: đây là một câu chuyện, và hơn nữa, có thể khẳng định rằng đây là một câu chuyện hay, bởi nó khiến chúng ta suy ngẫm! Chuyện là chuyện do người Mỹ kể, đương nhiên sẽ liên tưởng chủ yếu đến nền kinh tế Mỹ. Đâu có hư cấu nào không dựa trên thực tế, phải không các bạn? Tuy nhiên, người dịch tin tưởng rằng độc giả Việt Nam vẫn có thể nhìn ra những nét liên quan thú vị đến kinh tế và thị trường Việt Nam. Sau gần ba thập niên đổi mới và mở cửa kinh tế, nền kinh tế nước ta đang hội nhập ngày càng cao vào nền kinh tế toàn cầu, câu chuyện kinh tế nói chung đã trở thành chuyện không của riêng ai, từ những nhà hoạch định chính sách cao nhất của Chính phủ đến những bà nội trợ lo toan từng bữa ăn cho gia đình. Những biến động và phản ứng của các chủ thể kinh tế trên các thị trường chứng khoán, thị trường vàng, thị trường bất động sản, thị trường tài chính tiền tệ v.v... trong thời gian gần đây cho thấy sự quan tâm vô cùng lớn, cũng như những bất cập và lỗ hổng trong hiểu biết thấu đáo về kinh tế thị trường của khá nhiều chủ thể kinh tế. Trong bối cảnh này, những cuốn sách như cuốn sách này có thể mang lại một giá trị nhất định. Bản chất của kinh tế thị trường hàm chứa khả năng xảy ra những đợt tăng trưởng và khủng hoảng kế tiếp nhau, đó là quy luật khó tránh khỏi. Hiểu biết thấu đáo về những khái niệm cơ bản nhất của kinh tế học nói chung và kinh tế thị trường nói riêng sẽ giúp chúng ta, dù là cá nhân hay doanh nghiệp, có những ứng xử đúng đắn và hiệu quả trước những biến động của thị trường trong và ngoài nước. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách hết sức thú vị và dí dỏm này đến bạn đọc! Sài Gòn, tháng 9/2011 Nguyễn Dương Hiếu TUYÊN BỐ CÔNG KHAI Ngoài việc là Tổng Giám đốc, Peter Schiff còn là đại diện được đăng ký và là chủ sở hữu của Euro Pacific Capital Inc. (Euro Pacific). Ngoài nhiệm vụ Giám đốc Truyền thông, Andrew Schiff còn là nhà môi giới chứng khoán tại công ty này. Euro Pacific là công ty môi giới và kinh doanh chứng khoán được đăng ký tại FINRA1, là thành viên của SIPC (Securities Investor Protection Corporation). Cuốn sách này được biên soạn thuần túy vì mục đích thông tin. Cuốn sách không phải là lời chào mua / bán, tư vấn mua / bán bất kỳ loại chứng khoán hay công cụ tài chính nào, hay tư vấn áp dụng bất kỳ chiến lược đầu tư nào. GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ Trong câu chuyện ngụ ngôn về lịch sử kinh tế Mỹ này, độc giả có thể nhận ra nhiều nhân vật và sự kiện có thật. Tuy nhiên, cũng như khi phải phác họa để cô đọng một câu chuyện phức tạp thành một cuốn truyện tranh, ở đây nhiều chi tiết, nhân vật đã được hòa trộn vào nhau. Ngoài việc khai thác những nhân vật lịch sử, các nhân vật trong câu chuyện của chúng tôi cũng đại diện cho các luồng ý tưởng và quan điểm rộng hơn. Ví dụ, tuy nhân vật Ben Barnacle rõ ràng là phiên bản của vị Chủ tịch Fed đương nhiệm Ben Bernanke, nhưng hành động của nhân vật Barnacle không chỉ thuần túy lấy từ nguyên mẫu Bernanke mà thôi. Hơn thế, nhân vật này là tiêu biểu cho các nhà kinh tế theo đuổi việc chấp nhận lạm phát cao để chống lại suy thoái. Trong thực tế, tiền giấy của Fed - Hệ thống Dự trữ Liên bang Mỹ được phát hành hai mươi năm trước khi Franklin D.Roosevelt nhậm chức Tổng thống. Tuy nhiên, xét tới sự ưa thích đặc biệt của vị Tổng thống này với các chương trình chi tiêu của Chính phủ, chúng tôi gán phát minh này cho ông trong câu chuyện của mình! Tương tự, tuy Chris Dodd chỉ là một đứa bé khi Fannie Mae thành lập, nhưng sự hỗ trợ lớn lao của ông cho định chế này sau đó khiến chúng tôi gán cho ông ta danh hiệu “người sáng lập” ra nó. Các quốc gia trong câu chuyện ngụ ngôn phần nào tương ứng với một số quốc gia trên thực tế, nhưng đồng thời chúng cũng là hình ảnh ẩn dụ của mọi quốc gia trong thế giới này. Vì mục tiêu của câu chuyện, chúng tôi mong quý độc giả chấp nhận và lượng thứ cho những tùy tiện trong việc sử dụng các nguyên mẫu, cả về thời gian lịch sử cũng như tính cách nhân vật. DẪN NHẬP Suốt một thế kỷ qua, giới học thuật đã đem lại cho con người những tiến bộ trong hầu hết mọi ngành, mọi lĩnh vực, chỉ trừ một bộ môn - kinh tế học. Được trang bị bởi các thành tựu của toán học và vật lý, các nhà khoa học đã phóng một con tàu không gian vượt hàng trăm triệu dặm để thám hiểm bề mặt của một trong những vệ tinh của Sao Thổ, nhưng đáng buồn thay, các chuyên gia của bộ môn khoa học buồn chán là kinh tế học lại chẳng đạt được thành tựu nào tương tự! Nếu các kỹ sư của NASA có kỹ năng dự báo tương tự như các nhà kinh tế, thì sứ mệnh Cassini phóng tàu không gian lên thám hiểm các vệ tinh của Sao Thổ đã có kết cục hoàn toàn khác: không chỉ không thể bay vào quỹ đạo của Sao Thổ, mà có rất nhiều khả năng là tàu này sẽ quay đầu ngược trở lại trái đất, đâm thẳng vào lớp đá magma nóng chảy dưới lòng đất và nổ tung dưới đó! Năm 2007, khi thế giới sắp rơi vào thảm họa kinh tế lớn nhất trong ba thế hệ, hầu như không có nhà kinh tế nào nhận ra tiềm năng khủng hoảng đang lấp ló nơi chân trời cả. Ba năm chìm trong khủng hoảng sau đó, các nhà kinh tế lại đưa ra những giải pháp khiến ai cũng ngạc nhiên - đơn giản là những giải pháp ấy quả là cực kỳ vớ vẩn. Chúng ta được khuyên rằng cần phải dấn sâu hơn nữa vào nợ nần để giải quyết vấn đề nợ, và phải chi tiêu nhiều hơn nữa để kinh tế thịnh vượng. Lý do cho cả tầm nhìn nghèo nàn trước đó cũng như những giải pháp nhảm nhí hiện nay của những chuyên gia này nằm ở chỗ rất ít nhà kinh tế hiểu được thực chất môn khoa học của họ vận hành như thế nào. Lỗ hổng kiến thức đó là kết quả của việc chấp nhận trên toàn cầu đối với lý thuyết của John Maynard Keynes - một học giả Anh cực kỳ thông minh hồi đầu thế kỷ XX, người đã phát triển một vài ý tưởng cực kỳ ngu xuẩn về việc cái gì làm cho kinh tế tăng trưởng, về căn bản mà nói, Keynes đã thực hiện một trò bịp bợm khó tưởng tượng nhất một cách khéo léo: ông ta đã biến một điều đơn giản thành một mớ hỗn độn phức tạp đến mức không sao hiểu được. Vào thời của Keynes, các nhà vật lý lần đầu biết đến khái niệm về vật lý lượng tử, theo đó hành tinh của chúng ta chịu sự tác động của hai nhóm quy tắc vật lý: một nhóm quy tắc áp dụng cho các phần tử vô cùng nhỏ như các proton và electron, và nhóm thứ hai áp dụng cho các vật chất còn lại. Có lẽ cảm thấy rằng môn kinh tế học buồn chán cần có một liều thuốc mạnh mẽ hơn, Keynes đi đến ý tưởng tương tự cho bộ môn này: một bộ quy luật kinh tế áp dụng ở tầm vĩ mô (cá nhân và hộ gia đình), một bộ quy luật khác áp dụng cho vĩ mô (các quốc gia và các Chính phủ). Công trình của Keynes ra đời vào thời điểm sau cuối của một giai đoạn phát triển kinh tế mạnh mẽ nhất trong lịch sử. Nói theo ngôn ngữ kinh tế, thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX chứng kiến một giai đoạn chưa từng có trong việc tăng trưởng sản lượng và mức sống tại các nước phương Tây. Trung tâm của giai đoạn huy hoàng này là chủ nghĩa tư bản thị trường tự do tại Mỹ, đất nước cực kỳ coi trọng tự do cá nhân và hạn chế vai trò sự can thiệp của Nhà nước. Tuy nhiên, những yếu tố phi tập trung hóa, hay tản quyền, vốn là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, đã đe dọa cấu trúc tập quyền vững chắc và thâm căn cố đế tại nhiều nơi trên thế giới. Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế tư bản chủ nghĩa thường đi kèm với sự phân biệt hai cực giàu nghèo khá lớn, khiến một số nhà khoa học xã hội và những người cấp tiến tìm kiếm một giải pháp thay thế cho chủ nghĩa tư bản theo kiểu thị trường tự do. Trong nỗ lực tìm kiếm những hướng dẫn của khoa học hiện đại cho thị trường dường như chưa công bằng, vô tình Keynes biện hộ cho những nhà cầm quyền và những nhà xã hội không tưởng, tin rằng hoạt động kinh tế phải được lập kế hoạch từ trên xuống! Trọng tâm trong quan điểm của ông ta là Chính phủ phải xóa bỏ tính chất không ổn định của thị trường tự do bằng cách gia tăng cung tiền hay chấp nhận thâm hụt ngân sách vào những thời kỳ kinh tế khó khăn. Khi lập luận này ra đời vào thập niên 1920, 1930, những môn đệ của Keynes (những người Keynesian) vấp phải xung đột với những người theo “trường phái Áo”, ủng hộ lập luận của các nhà kinh tế như Ludwig Von Mises. Trường phái Áo cho rằng suy thoái là cần thiết, để bù lại cho những quyết định thiếu khôn ngoan trong giai đoạn bùng nổ kinh tế trước đó, và kinh tế luôn bùng nổ trước khi suy thoái. Họ tin rằng tăng trưởng trong giai đoạn đầu là do những tín hiệu sai lầm phát ra cho các doanh nghiệp, khi Chính phủ kích thích kinh tế bằng cách hạ thấp lãi suất. Như thế, trong khi những người theo Keynes tìm cách giảm tác hại của suy thoái, thì những người theo trường phái kinh tế Áo lại lo ngăn ngừa những đợt tăng trưởng giả tạo. Trong thời kỳ suy thoái kinh tế sau đó, những người Keynesian có một lợi thế nổi bật. Do giải pháp của họ đưa ra là “không đau đớn”, họ được các chính trị gia ủng hộ. Hứa hẹn giải quyết thất nghiệp và đảm bảo tăng trưởng mà không cần phải tăng thuế và cắt giảm chi tiêu công, những chính sách mà Keynes ủng hộ cũng tương tự như những phương pháp giảm cân thần kỳ, không yêu cầu người áp dụng phải ăn kiêng hay tập thể thao! Tuy rất phi lý, nhưng những hy vọng này mang tính an ủi cao, và hết sức ấn tượng trong những chiến dịch tranh cử. Tư tưởng kinh tế kiểu Keynes cho phép các Chính phủ giả vờ tin rằng có thể nâng cao mức sống của người dân qua việc bấm nút chạy máy in tiền! Do khuynh hướng thân Chính phủ, ủng hộ sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế, so với các nhà kinh tế thuộc trường phái Áo thì các nhà kinh tế Keynesian dễ được Chính phủ bổ nhiệm hơn vào các cơ quan quản lý kinh tế. Các trường đại học đào tạo ra những Bộ trưởng Tài chính hay Thống đốc Ngân hàng Trung ương dĩ nhiên có được uy tín cao hơn những trường khác. Và tất nhiên các khoa kinh tế học sẽ ưa thích các giáo sư ủng hộ Keynes hơn. Những người theo trường phái kinh tế Áo dần dần bị đẩy ra ngoài lề. Tương tự, các định chế tài chính, nơi tuyển dụng chính của các nhà kinh tế, cũng ưa thích lý thuyết của Keynes hơn. Các ngân hàng lớn, các hãng đầu tư sẽ dễ thu lợi nhuận hơn trong môi trường kinh tế Keynesian, nơi mà tín dụng lỏng lẻo, đầu tư dễ dàng. Niềm tin rằng chính sách của Chính phủ phải hỗ trợ đầu tư giúp các ngân hàng đầu tư mở tung hầu bao của những nhà đầu tư thận trọng nhất. Kết quả là các định chế tài chính cũng thường tuyển dụng các nhà kinh tế ủng hộ quan điểm này. Với lợi thế to lớn trong học thuật trước các đối thủ, sự ngưỡng mộ của xã hội đã tạo ra một loạt kinh tế gia ngay từ ban đầu đã trung thành tuyệt đối với quan điểm của Keynes. Các nhà phân tích đó coi điều này là hiển nhiên: chính sách kinh tế kiểu Keynes đã giúp chặn đứng cuộc Đại Suy thoái 1929-1933. Rất nhiều người lập luận rằng nếu không có gói kích thích của Chính phủ (bao gồm cả những khoản chi tiêu cần thiết trong Thế chiến II), nền kinh tế đã rơi vào vực thẳm. Các phân tích bỏ qua một sự kiện: cuộc suy thoái đó có quy mô lớn nhất trong lịch sử, và cũng là đợt suy thoái đầu tiên mà người ta dùng các chính sách kiểu Keynes để giải quyết. Việc những can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế là nguyên nhân gây ra khủng hoảng hay là liệu pháp chữa trị khủng hoảng lại chưa bao giờ được các nhà kinh tế xem là đáng bàn ở đây cả!!! Với những người Keynesian tràn ngập các khoa kinh tế, các bộ tài chính và các ngân hàng đầu tư, tình hình như thể chúng ta phó thác cho các chiêm tinh gia, thay vì các nhà thiên văn, việc tính toán tốc độ quay của các vật thể trong thiên hà. (Ồ, vệ tinh đã đụng phải một tiểu hành tinh, nhưng điều này là ngoài dự tính, không chừng có thể có những chuyện hay ho thì sao! - các chiêm tinh gia sẽ nói đại loại như vậy). Khía cạnh dở khóc dở cười của tình hình là ở chỗ dẫu bao nhiêu lần những nhà kinh tế không hoàn thành nhiệm vụ, bao nhiêu lần những hỏa tiễn nổ tung ngay khi rời khỏi đường băng, thì cũng không ai trong số những kẻ gánh chịu hậu quả đặt ra bất kỳ nghi vấn nào cho những hình mẫu của họ cả! Đa số những người bình thường trong chúng ta đều dần dần hiểu ra rằng những nhà kinh tế thực ra chẳng hiểu gì về những thứ họ đang nói cả. Nhưng mọi người cũng cho rằng điều đó là không có bằng chứng, vì lĩnh vực này quá rộng lớn và mù mịt, phi logic, do đó ngay cả những đầu óc thông minh nhất cũng không thể dự đoán chính xác được. Nhưng nếu tôi nói với các bạn rằng tính chất lưỡng diện2của kinh tế mà những người theo Keynes đề xuất là hoàn toàn không tồn tại, thì sao? Nếu kinh tế học đơn giản hơn rất nhiều thì sao? Nếu cái gì là tốt cho con ngan ắt hẳn cũng tốt cho con ngỗng thì sao nào? Nếu một gia đình cũng như một quốc gia đều không thể chỉ chi tiêu mà thịnh vượng, giàu có được, thì sao??? Nhiều người quen thuộc với việc tôi dự đoán chính xác cuộc khủng hoảng năm 2008 cho rằng trí tuệ thông thái của tôi là nguồn gốc của tầm nhìn sáng suốt đó. Tôi cam đoan với các bạn rằng tôi chẳng mấy thông minh hơn hầu hết các nhà kinh tế, những người không thể nhận ra một bong bong tài sản ngay khi bong bóng ấy ngồi chễm chệ trong phòng khách nhà họ cả tháng trời! Cái mà tôi có, ấy là sự hiểu biết căn bản và sâu sắc về những nguyên lý cơ bản của kinh tế học mà thôi. Tôi có lợi thế đó, vì khi tôi còn nhỏ, cha tôi đã cho tôi một bộ công cụ để có thể chui qua mớ bùng nhùng mang tên kinh tế học. Bộ công cụ đó được trao cho tôi dưới dạng những chuyện kể, những ẩn dụ hay ngụ ngôn, và những bài tập thử nghiệm tư duy. Một trong những câu chuyện đó sẽ là cơ sở cho cuốn sách này. Cha tôi, Irwin Schiff, được biết tới nhiều nhất như là một thành viên của phong trào phản đối chính sách thuế thu nhập Liên bang. Suốt 35 năm, ông đã đấu tranh chống lại những phương pháp của Sở Thuế vụ Liên bang (Internal Revenue Service, hay IRS - ND), đồng thời khẳng định rằng việc đánh thuế thu nhập là vi phạm ba điều khoản về thuế quy định trong Tu chính án số 16 của Hiến pháp Mỹ, cũng như vi phạm luật thu nhập, ông đã viết nhiều sách về đề tài này và từng công khai kiện Chính phủ Liên bang ra tòa. Vì những hoạt động này mà ông phải trả giá khá đắt: 82 tuổi vẫn phải vào thụ án ở nhà tù Liên bang! Nhưng trước khi quan tâm đến vấn đề thuế má, cha tôi từng tạo dựng tên tuổi cho bản thân như một nhà kinh tế. Ông sinh ra năm 1928 tại New Haven, Connecticut, là con thứ tám trong một gia đình nhập cư nghèo khó. Cha ông tham gia Công đoàn và cả gia đình lớn của ông đều hết sức ủng hộ chính sách kinh tế New Deal của Tổng thống Franklin D.Roosevelt. Khi học kinh tế học tại Đại học Connecticut, không có gì thuộc về tính cách hay truyền thống gia đình ông khiến người ta có thể tin rằng một ngày kia ông sẽ chống lại đường lối chính thống trong kinh tế học, và ủng hộ một trường phái đã hết thời - trường phái kinh tế Áo. Irwin có tư duy độc lập và thái độ hơi quá tự tin vào bản thân, điều này khiến ông cảm nhận rằng những bài học kinh tế ở trường là không phù hợp với thực tế. Nghiên cứu hàng loạt lý thuyết kinh tế, ông bắt gặp những tác phẩm của những người theo chủ nghĩa tự do như Henry Hazlitt hay Henry Grady Weaver. Tuy sự cải đạo này là từ từ (kéo dài suốt thập niên 1950), nhưng cuối cùng ông đã trở thành người nhiệt thành ủng hộ chính sách tiền tệ lành mạnh, thuế má thấp, Chính phủ ít can thiệp vào nền kinh tế, và trách nhiệm cá nhân. Năm 1964, ông ủng hộ nhiệt tình Barry Goldwater ứng cử Tổng thống. Tại hội nghị tiền tệ Bretton Woods năm 1944, Mỹ thuyết phục các quốc gia khác dùng đồng dollar Mỹ thay vì vàng để đảm bảo cho đồng nội tệ của từng nước. Vì nước Mỹ cam kết quy đổi 1 ounce vàng cho mỗi 35 USD, mặt khác Mỹ nắm giữ 80% lượng vàng của thế giới, nên đề xuất của họ mau chóng được chấp nhận. Tuy nhiên, 40 năm lạm phát tiền tệ sau đó do những chuyên gia theo Keynes tại Fed gây ra đã khiến vàng bị định giá quá thấp khi neo với USD. Sự bất cân xứng đó gây ra cuộc “chảy máu vàng”, khi các Chính phủ các nước khác, dẫn đầu là Pháp vào năm 1965, đổ xô đi đổi giấy bạc của Hệ thống Dự trữ Liên bang (USD) lấy vàng đem về. Nhận ra khả năng có thể mua vàng với mức giá của năm 1932, các nước khác mau chóng làm việc đó và khiến dự trữ vàng của Mỹ có nguy cơ cạn kiệt. Năm 1968, các cố vấn kinh tế của Tổng thống Johnson lập luận rằng cuộc chảy máu vàng nói trên không bắt nguồn từ tỷ giá quy đổi vàng-USD quá hấp dẫn, mà từ nỗi lo ngại rằng dự trữ vàng của Mỹ không đủ để quy đổi cho toàn bộ lượng giấy bạc của Hệ thống Dự trừ Liên bang được nắm giữ ở cả bên trong và bên ngoài nước Mỹ. Để giải tỏa nỗi lo này, họ khuyên Tổng thống Mỹ bãi bỏ khoản đảm bảo 25% vàng cho đồng USD nội địa, từ đó có thể dùng lượng dự trữ này đảm bảo cho những người nắm giữ USD ở các nước khác. Có thể cách làm này sẽ làm yên lòng các Chính phủ ngoại quốc và ngăn chặn đợt “xuất huyết” vàng vừa nêu. Irwin Schiff, khi đó là một chủ doanh nghiệp ở Connecticut, cho rằng ý tưởng đó thật là kỳ quặc. Irwin gửi một lá thư cho Thượng Nghị sỹ Texas là ông John Tower, người tham gia ủy ban giải quyết vấn đề vàng lúc đó, nêu rõ Mỹ chỉ có 2 lựa chọn: giảm cơ cấu giá cả chung xuống cho phù hợp với giá vàng của năm 1932, hoặc tăng giá vàng để phù hợp với mức giá của năm 1908. Nói cách khác, để trả giá cho 40 năm lạm phát theo kiểu Keynes, lúc này nước Mỹ hoặc là phải làm sao để giảm giá hàng hóa nói chung, hoặc phá giá đồng USD. Tuy Irwin lập luận rằng giảm phát là cách làm có trách nhiệm hơn, vì nó giúp khôi phục sức mua của đồng tiền, song ông cũng hiểu rằng các nhà kinh tế (một cách sai lầm) luôn coi giá cả giảm là thảm họa, và rằng Chính phủ luôn ưa thích lạm phát hơn (vấn đề này sẽ được trình bày kỹ trong cuốn sách này). Hiểu xu hướng đó, ông đề xuất rằng ít ra Chính phủ phải thừa nhận sự giảm giá trị của USD và phá giá USD so với vàng. Trong bối cảnh này, ông tính toán giá vàng sẽ vào khoảng 105 USD / ounce. Ông cũng lo ngại khả năng xảy ra một lựa chọn thứ ba: Chính phủ không làm gì cả (thực tế mọi chuyên đã xảy ra đúng như vậy). Cũng như ngày hôm nay, lựa chọn đặt ra là đối diện với vấn đề hay để chúng lại cho các thế hệ tương lai. Họ đã chọn cách “để lại cho con cháu”, và chúng ta chính là thế hệ con cháu đó! Tower rất ấn tượng với lập luận cơ bản của Irwin và đã mời ông trình bày trước toàn thể ủy ban. Tại buổi họp này, tất cả những chuyên gia cao cấp về tiền tệ của Hệ thống Dự trữ Liên bang, Bộ Tài chính và Quốc hội đề thống nhất rằng việc loại bỏ bản vị vàng sẽ khiến đồng USD mạnh hơn, giá vàng giảm xuống, và mở ra một kỷ nguyên thịnh vượng mới. Còn trong phần trình bày của mình, Irwin khẳng định việc dỡ bỏ bản vị vàng sẽ khiến đồng USD yếu đi, giá vàng tăng vọt. Quan trọng hơn, ông nhấn mạnh rằng việc để đồng tiền không có bất kỳ giá trị nội tại nào sẽ dẫn tới những đợt lạm phát nặng nề, cũng như những khoản nợ lớn của Chính phủ. Ý kiến của ông thuộc thiểu số, bị phớt lờ hoàn toàn, và bản vị vàng được gỡ bỏ3! Ngược với mọi dự đoán của các nhà kinh tế, lượng dự trữ vàng (phục vụ cho việc quy đổi USD ra vàng) gia tăng không sao chặn đứng được việc đổi USD lấy vàng đem ra khỏi nước Mỹ. Cuối cùng, năm 1971 Tổng thống Nixon đóng cửa sổ quy đổi này, cắt đứt luôn mối liên hệ cuối cùng giữa USD và vàng. Từ lúc đó, hệ thống kinh tế toàn cầu hoàn toàn dựa vào những đồng tiền vô giá trị. Thập kỷ tiếp theo, nước Mỹ chứng kiến những đợt lạm phát tồi tệ nhất, giá vàng leo lên mức 800 USD/ounce. Năm 1972, Irwin bắt đầu cuộc tấn công đầu tiên nhắm vào những người Keynesian, những người mà theo ông đã đưa kinh tế Mỹ đi sai đường. Tác phẩm The biggest con: how the Government is fleecing you nhận được nhiều lời khen của giới học thuật, bán khá chạy. Trong nhiều giai thoại sử dụng trong cuốn sách, có câu chuyện về ba người đàn ông bắt cá bằng tay trên một hòn đảo... Câu chuyện này có nguồn gốc là cách giết thời gian trong những chuyến đi xe hơi của gia đình chúng tôi. Khi kẹt xe, cha tôi Irwin thường “giải khuây” cho hai cậu con trai bằng những bài học kinh tế cơ bản, thể hiện dưới dạng những câu chuyện vui vui. Câu chuyện vừa nêu có tên là “Câu chuyện Cá”. Câu chuyện ngụ ngôn đó là trọng tâm của một chương trong cuốn The biggest con: how the Government is fleecing you. Tám năm sau, sau khi nhận được rất nhiều phản hồi của độc giả nói rằng họ rất thích thú với câu chuyện, cha tôi quyết định phát triển nó thành một tác phẩm có minh họa hoàn chỉnh. Đó là tác phẩm How an economy grows and why it doesn’t, xuất bản lần đầu năm 1979, và nhận được sự mến mộ gần như là tôn sùng từ những người theo trường phái kinh tế Áo. Ba mươi năm sau, khi quan sát nền kinh tế Mỹ bên bờ vực thẳm, mà Chính phủ vẫn lặp lại ở mức độ trầm trọng hơn những lỗi lầm của quá khứ, anh em chúng tôi quyết định rằng đây là lúc thích hợp để cập nhật lại và kể lại “Câu chuyện Cá” cho thế hệ hôm nay. Rõ ràng, chưa bao giờ chúng ta lại cần sự thấu hiểu rõ ràng về kinh tế như giai đoạn hiện nay. Câu chuyện Cá mà chúng tôi sẽ kể, theo chúng tôi, là công cụ tốt nhất để giúp mọi người hiểu rõ hơn nền kinh tế vận hành như thế nào. Ấn bản này mang tham vọng lớn hơn nhiều so với cuốn sách ba mươi năm trước của cha chúng tôi. Phạm vi mà chúng tôi đề cập rộng hơn, những nỗ lực gắn kết các sự kiện lịch sử vào câu chuyện cũng sâu hơn. Có thể nói đây là một biến tấu của câu chuyện ban đầu! Chúng tôi nghĩ rằng cuốn sách sẽ hấp dẫn với những ai vẫn thường đứng ngây như phỗng khi nghe các nhà kinh tế bàn đến những khái niệm chẳng liên quan gì đến thực tế. Chúng tôi muốn chỉ ra rằng những mô hình kinh tế Keynesian, theo đó Chính phủ có thể thoải mái chỉ tiêu bất chấp hậu quả với niềm tin rằng những đồng tiền vô giá trị là một loại “chất bôi trơn” hiệu quả trong kinh tế, chẳng những là sai lầm mà còn nguy hiểm nữa. Tin xấu là khi gỡ bỏ cặp mắt kính màu hồng mà các nhà kinh tế không nhớ mình vẫn đang đeo, thì bạn sẽ thấy rõ đất nước của chúng ta đang đối diện với những vấn đề nghiêm trọng, hơn nữa chúng ta đang làm cho mọi việc xấu đi chứ không hề tốt đẹp hơn. Tin tốt là nếu chúng ta chịu nhìn ra mọi việc, ít ra chúng ta cũng còn có khả năng giải quyết vấn đề. Và tuy chủ đề cuốn sách là hoàn toàn nghiêm túc, chúng tôi tiếp cận nó với óc hài hước, một điều khá quan trọng trong giai đoạn đầy căng thẳng hiện nay. Đó cũng chính là điều mà Irwin từng mong ước. CHƯƠNG I: MỘT Ý TƯỞNG RA ĐỜI Ngày xửa ngày xưa, có ba người đàn ông sống trên một hòn đảo nhỏ. Tên họ lần lượt là Able, Baker và Charlie. Hòn đảo này chẳng thể coi là một thiên đường nhiệt đới như người ta thường nói, mà chỉ là một vùng đất khắc nghiệt, không hề có tiện nghi nào cả. Đặc biệt, thức ăn cực kỳ hạn chế: chỉ có một loại thức ăn duy nhất là cá mà thôi! Thật may mắn là xung quanh đảo có rất nhiều cá, hơn nữa chúng chỉ thuộc một loài đồng nhất một cách lạ kỳ, con nào cũng như con nào. Mỗi con cá ở đây vừa đủ lớn để một người có thể dùng trong một ngày. Tuy nhiên, hòn đảo này là một nơi quá cách biệt, nơi đây không hề có bất kỳ kỹ thuật đánh bắt cá hiện đại nào của con người từng xuất hiện. Cách bắt cá duy nhất mà ba chàng trai của chúng ta có thể làm là nhảy ùm xuống biển và cố dùng tay chụp lấy những con cá trơn tuột này. Với kỹ thuật thô sơ đó, mỗi người trong bọn họ chỉ bắt được một con cá trong một ngày, tức là vừa đủ để sống qua ngày kế tiếp. Hoạt động này chính là toàn bộ nền kinh tế của hòn đảo. Một ngày của cư dân trên đảo bao gồm việc thức dậy, bắt cá, ăn và... đi ngủ. Một cuộc sống chẳng có gì phong phú, nhưng dù sao có còn hơn không! Và như thế, trong cái xã hội đảo quốc siêu đơn giản và hoàn toàn dựa trên món Không có tiết kiệm! Không có tín dụng! Không có đầu tư! Mọi thứ sản xuất ra đều được tiêu thụ trọn vẹn! Chẳng có khoản tiết kiệm hay dự phòng nào cho những lúc khó khăn, và cũng chẳng có khoản dư dả nào để cho vay. Tuy các cư dân trên đảo sống trong một xã hội nguyên sơ như vậy, họ không hề ngu ngốc hay thiếu tham vọng. Như tất cả mọi người trên đời, ba chàng trai Able, Baker và Charlie cũng muốn nâng cao mức độ cuộc sống của mình. Nhưng để làm được điều này, họ phải có khả năng bắt được nhiều hơn một con cá hàng ngày - mức tối thiểu để họ tồn tại. Không may là do bị hạn chế chỉ với đôi tay không, mà lũ cá lại hết sức nhanh lẹ, ba người này chỉ có thể kiếm vừa đủ thức ăn để sống mà thôi. Một đêm nọ, ngước lên bầu trời đầy sao, chàng Able bắt đầu trầm tư về ý nghĩa cuộc đời: “Không lẽ tất cả chỉ có thế thôi sao? Cuộc đời này phải có gì hơn thế chứ!”. Able muốn làm một việc gì đó ngoài việc cả đời chỉ dùng tay bắt cá. Anh ta muốn có những bộ quần áo đẹp hơn, thời trang hơn bằng lá cọ để khoác lên người. Anh ta muốn có chỗ ở tốt hơn để tránh những cơn gió mùa, và cuối cùng anh ta còn mơ có ngày sẽ đạo diễn một bộ phim dài nữa kìa! Nhưng nếu cả ngày chỉ hì hục bắt cá kiếm ăn, làm sao những ước mơ đó có thể trở thành hiện thực? Able bắt đầu suy nghĩ, suy nghĩ và suy nghĩ... Rồi bất chợt, một ý tưởng về một dụng cụ bắt cá lóe lên trong đầu anh ta. Đây sẽ là một dụng cụ nối dài cánh tay của con người, đồng thời hạn chế tối đa khả năng đào thoát của các chú cá một khi đã bị chụp trúng. Với dụng cụ tinh vi này, có thể bắt được nhiều cá hơn trong khoảng thời gian ngắn hơn. Và với khoảng thời gian tiết kiệm được theo cách này, anh ta có thể bắt đầu may quần áo đẹp, làm nhà và hoàn tất kịch bản bộ phim mà mình mơ ước. Khi hình dáng dụng cụ này bắt đầu hiện ra trong đầu, Able chợt thấy lòng rộn rã. Và anh ta bất chợt hình dung ra một tương lai vui vẻ, thoát khỏi công việc bắt cá bằng tay không vất vả hàng ngày... Able quyết định gọi dụng cụ vừa phát minh ra là cây vợt bắt cá, và bắt đầu tìm vật liệu để chế tạo cây vợt này. Ngày hôm sau, Baker và Charlie thấy Able không đi bắt cá như thường lệ. Thay vào đó, người bạn của họ đứng trên bờ cát và dùng vỏ cây cọ bện thành những sợi dây. Baker la lên “Ê bồ, làm gì đó? Bộ tính ăn chay hay sao mà không đi bắt cá? Cứ ngồi làm mấy cái đó là đói bụng đó nha”. Able giải thích “Tôi muốn chế tạo một dụng cụ có thể mở ra vô vàn cơ hội cho khả năng bắt cá. Khi làm xong, tôi sẽ tốn ít thời gian để bắt cá hơn, và sẽ chẳng bao giờ lo đói nữa”. Charlie trợn tròn mắt và tự hỏi liệu bạn mình có bị điên hay không “Điên khùng, tôi nói với anh đó, điên khùng rồi...Nếu cái dụng cụ của anh không bắt cá được, đừng có đến xin cá của tôi đó. Tôi không điên nên tôi sẽ không chịu trách nhiệm cho tính dở hơi của anh đâu!”. Không nản chí, Able tiếp tục đan vợt! Đến cuối ngày hôm đó, Able đã hoàn thành dụng cụ bắt cá của mình. Nói theo ngôn ngữ kinh tế, anh ta đã tạo ra tư liệu sản xuất qua sự hy sinh (việc bắt cá trong ngày hôm đó - ND) của bản thân! KIỂM TRA THỰC TẾ Trong ví dụ đơn giản này, Able đã chứng minh một nguyên tắc kinh tế cơ bản có thể dẫn đến việc nâng cao mức sống, đó là giảm tiêu dùng (tiêu dùng dưới mức) và chấp nhận rủi ro! Tiêu dùng dưới mức (underconsumption): Để có thời gian làm cây vợt, Able không thể đi bắt cá trong ngày hôm đó. Anh ta phải từ bỏ thu nhập - ở đây là những chú cá bắt được bằng tay - mà lẽ ra anh ta đã có thể có được và ăn được! Điều này không có nghĩa là Able không có nhu cầu về cá. Thực tế thì Able thích ăn cá và nếu ngày đó không có một con để ăn thì anh ta vẫn đói. Nhu cầu về cá của Able so với hai người bạn của anh ta là không khác nhau. Tuy nhiên, anh ta đã chọn cách trì hoãn sự tiêu dùng để có thể tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Chấp nhận rủi ro (risk taking): Able cũng đã chấp nhận rủi ro vì anh ta hoàn toàn không biết trước liệu dụng cụ mà mình làm ra có hoạt động được hay không, hoặc dụng cụ đó có giúp anh ta bắt được đủ cá để bù cho sự hy sinh anh ta đã bỏ ra hay không. Hoàn toàn có thể xảy ra khả năng anh ta kết thúc với một đám dây nhợ lằng nhằng và cái dạ dày trống trơn! Nếu ý tưởng thất bại, Able không thể trông mong sự giúp đỡ hay bù đắp nào từ các bạn, những người mà dù sao đi nữa cũng đã có thiện chí cảnh báo cho Able về nguy cơ của hành động điên rồ này. Theo thuật ngữ kinh tế, tư liệu sản xuất là một công cụ được làm ra và sử dụng không vì chính bản thân nó, mà là để làm ra một thứ gì đó mà người ta mong muốn, ở đây, cái mà Able muốn không phải là cây vợt bắt cá, mà phải là lũ cá bắt được! Cây vợt có thể giúp anh ta bắt nhiều cá hơn, và do vậy nó sẽ là một tư liệu sản xuất, và có giá trị. Đêm hôm đó, trong khi Baker và Charlie no nê lăn quay ra ngủ, thì chàng Able trằn trọc với cơn đói và hình ảnh những chú cá thơm ngon quay cuồng trong trí óc. Tuy nhiên, cơn đói phần nào bị đè nén bởi hy vọng rằng mình đã làm một điều đúng đắn, và một tương lai tươi sáng, đầy ắp cá đang chờ đợi! Ngày hôm sau, Baker và Charlie xúm vào chế nhạo “phát minh” của Able. Baker phán: “Nè, trông giống y chang một cái nón đẹp, nhỉ!”. Charlie bồi thêm: “Đội nón này mà chơi tennis thì chắc là nóng bức lắm đây!”. “Cứ cười cho đã đi”, Able phản pháo. “Để xem cuối cùng ai sẽ là người cười to nhất khi tôi bắt về được một đống cá!”. Rồi đó, khi Able bước xuống nước và bắt đầu thử dùng cây vợt để chụp cá, thoạt tiên anh ta rất vất vả để điều khiển được dụng cụ mới này. Nhưng chỉ mấy phút sau, anh đã quen và gỡ ra một con cá từ cây vợt. Baker và Charlie trố mắt nhìn và ngưng cười. Vài tiếng đồng hồ sau, khi Able bắt được con cá thứ hai, hai bạn của anh hoàn toàn chết sững! Nói gì thì nói, thường họ vẫn phải mất cả một ngày mới bắt được đúng một con cá! Vậy đó, từ hành động đơn giản này, nền kinh tế đảo quốc của chúng ta đã thay đổi một cách cực kỳ sâu sắc. Able đã tăng năng suất của bản thân, và điều đó có lợi cho tất cả mọi người. Lúc này, Able bắt đầu suy nghĩ về vận may bất ngờ của mình. “Vì chỉ dành một ngày ta đã có thể kiếm đủ cá để ăn trong hai ngày, cứ cách một ngày ta lại có thể nghỉ ngơi và làm chuyện khác, ngoài bắt cá! Chà, những khả năng này thật là vô tận!”. KIỂM TRA THỰC TẾ Với việc tăng gấp đôi năng suất, từ nay Able có thể kiếm được nhiều hơn nhu cầu tiêu thụ của bản thân. Tăng trưởng năng suất sẽ kéo theo tất cả những lợi ích khác về kinh tế. Trước khi Able liều lĩnh chấp nhận rủi ro để làm ra cây vợt bắt cá, hòn đảo của chúng ta không hề có cái gọi là "tiết kiệm". Chính việc anh ta sẵn lòng thử thách bản thân và chịu đói bụng đi ngủ hôm đó đã đem lại tư liệu sản xuất (capital equipment) đầu tiên, chính nguồn tư liệu sản xuất này tạo ra tiết kiệm (để đơn giản, hãy giả định những chú cá ở đây không hề bị ươn). Chính việc sản xuất dôi dư này là huyết mạch của một nền kinh tế mạnh mẽ, khoẻ khoắn. ĐIỀU CÒN ĐỌNG LẠI Trừ loài người, với mọi loài sinh vật khác thì hoạt động kinh tế chi đơn thuần là tồn tại qua ngày. Trong điều kiện cạnh tranh nguồn thức ăn hạn hẹp, sự khắc nghiệt của tự nhiên, sự đe dọa từ những loài thú săn mồi và bệnh tật, mà lại hầu như không có bất kỳ “phát minh, sáng kiến” gì, rõ ràng sự tồn tại, sống sót (cùng một ít thời gian dành cho việc sinh sản và duy trì nòi giống) chính là tất cả những gì mà các loài vật có thể có được. Con người cũng sẽ chịu tình cảnh tương tự (điều này thực sự đã xảy ra đối với loài người trong một quá khứ không xa xôi là bao!) nếu chúng ta không có hai thứ. Bộ óc lớn và đôi tay khéo léo. Sử dụng hai tài sản quý giá này, con người có thể làm ra những công cụ và máy móc, những thứ làm tăng rất nhiều khả năng giành được nhiều thứ hơn từ môi trường xung quanh. Nhà kinh tế Thomas Woods thích thách đố các học trò của ông với một thí nghiệm tư duy đơn giản sau đây: Nếu tất cả máy móc và công cụ biến mất, thì chúng ta sẽ có một nền kinh tế như thế nào? Máy móc và công cụ ở đây là xe hơi, xe tải, máy cán thép, cuốc xẻng, xe đẩy, cưa, búa v.v... tất cả mọi thứ. Nếu chúng biến mất và con người phải săn bắn, hái lượm, trồng trọt và làm ra mọi thứ chúng ta cần bằng đôi bàn tay không của mình, thì sẽ ra sao? Không còn nghi ngờ gì, khi đó cuộc sống sẽ vô cùng khó khăn. Cứ tưởng tượng chỉ riêng việc ăn uống bằng tay và răng, không có muỗng nĩa gì hết, cũng đã khó khăn như thế nào rồi! Việc săn bắt các con thú lớn coi như... bỏ! Bọn thú nhỏ hơn, như thỏ chẳng hạn, thì chúng ta có thể khống chế được, nhưng trước tiên cũng phải tóm được chúng cái đã. Điều gì sẽ xảy ra khi phải trồng và hái rau bằng tay không, hay khi không có bao tải để đựng những thứ thu hoạch được để mang về nhà? Rồi hãy tưởng tượng làm sao chúng ta có thể làm ra quần áo và đồ dùng nếu không có nhà máy, thậm chí không có cả kéo và đinh? Khi đó, dù con người có thông minh khôn khéo tới đâu đi nữa, cuộc sống của chúng ta cũng không thể khá hơn, ít nhất là về mặt kinh tế, so với cuộc sống của loài vượn và đười ươi! Các công cụ thay đổi mọi thứ và tạo ra khả năng của một nền kinh tế. Những ngọn lao, cây giáo giúp chúng ta săn thú, cuốc xẻng giúp chúng ta trồng cây, lưới hay vợt giúp chúng ta bắt cá. Tất cả những dụng cụ đó đều nâng cao hiệu quả của lao động. Càng sản xuất ra nhiều thì con người càng tiêu thụ nhiều, và cuộc sống càng trở nên thịnh vượng sung túc hơn. Định nghĩa đơn giản nhất về kinh tế học là nỗ lực tối đa hóa sự sẵn có để sử dụng của các nguồn lực bị giới hạn (mọi nguồn lực đều có giới hạn!) để đáp ứng càng nhiều nhu cầu của con người càng tốt. Công cụ, tư liệu sản xuất và sự cải tiến hay cách tân chính là những chìa khóa của phương trình cân bằng hai khái niệm này. Nếu ghi nhớ điều này, bạn sẽ dễ dàng nhận ra cái gì làm kinh tế tăng trưởng: tìm ra những cách thức tốt hơn để sản xuất ra nhiều thứ mà con người muốn có hơn. Nguyên tắc này là bất biến, bất kể quy mô của nền kinh tế lớn đến đâu đi nữa. CHƯƠNG 2: CHIA SẺ CỦA CẢI Dường như Able - nhà kinh doanh, một người dám chấp nhận rủi ro để thực hiện một ý tưởng kinh doanh hay tạo ra lợi ích - sẽ có một tương lai tươi sáng. Nhưng những cư dân còn lại của hòn đảo thì sao? Phải chăng chúng ta vừa tạo ra một hệ thống đẳng cấp, bao gồm những người có của và những kẻ chẳng có gì? Liệu Baker và Charlie có phải chịu thiệt thòi vì thành công của Able hay không? Có lẽ là không. Dù bản thân Able chưa bao giờ có ý định làm lợi cho người khác, chính tư liệu sản xuất của anh ta đã giúp ích cho mọi người xung quanh. Chúng ta hãy cùng xem việc này đã xảy ra như thế nào. Sau khi chứng kiến Able bắt cá một cách dễ dàng, hai ông bạn Baker và Charlie quyết định đề nghị Able chia sẻ dụng cụ bắt cá mới mẻ này. Charlie lên tiếng trước “Nè, Able! Cách một ngày anh mới dùng cây vợt một lần, đúng không? Vậy trong ngày mà anh không bắt cá, anh có thể cho tôi mượn cây vợt được không?”. “Thôi mà, chia sẻ cho anh em với nha, bồ!", Baker thêm vào. Nhưng Able đâu có phải là gã khờ. Anh ta nhớ lại sự hy sinh của bản thân, những lời chế nhạo của bạn bè, và anh ta cũng nghĩ đến những rủi ro nữa. “Cho họ mượn, lỡ họ làm hỏng vợt, hay... không thèm trả lại thì sao? Khi đó mình coi như mất trắng, lại trở về vạch xuất phát!”. Với tất cả những suy tính đó, Able từ chối: “Xin lỗi các bồ, không được đâu. Tôi tự làm cây vợt bắt cá, thì các bồ cũng có thể làm được. ít ra thì các bồ cũng biết trước là nó có thể dùng để bắt cá được!”. Mặc dù Charlie thấy rõ hiệu quả của việc dùng vợt bắt cá, anh ta vẫn cứ lo lắng về việc phải tự mình làm ra một dụng cụ như vậy. Anh ta trả lời Able: “Làm sao tôi biết cách làm cho đúng? Tôi chưa từng làm điều đó bao giờ, hơn nữa tôi chịu đói rất kém. Mỗi khi đói là tôi lại run hết cả người. Có khi chưa làm xong cây vợt bắt cá thì tôi đã chết đói mất tiêu rồi”. Baker bèn đưa ra một đề nghị khác: “Được rồi, anh bạn keo kiệt! Tụi này hiểu là bạn sẽ không làm ơn làm phước gì cho tụi này rồi. Hay là làm như vầy đi: Bạn cho tụi này vay một ít cá trong số cá dư ra của bạn, trong thời gian tụi này làm vợt bắt cá. Như vậy sẽ không ai chết đói, và sau này khi đã có vợt, tụi này sẽ bắt được nhiều cá hơn và trả lại cho bạn tất / cả số cá đã vay, được không?”. Ý kiến này hấp dẫn hơn, nhưng Able vẫn hoài nghi. “Cho vay cá, tôi chẳng được ai đảm bảo rằng các anh sẽ không nằm ườn ra trên bờ biển và chẳng làm gì cả. Hoặc ngay cả khi các anh làm ra cây vợt bắt cá của mình, chắc gì nó đã dùng được. Trong cả hai trường hợp, các anh sẽ chẳng bao giờ có thể trả lại cá cho tôi, và như thế tôi sẽ mất đi khoản tiết kiệm cá của mình mà chẳng được gì sất. Các anh phải đưa ra đề nghị nào tốt hơn kìa!”. Charlie và Baker thừa nhận Able có lý. Họ đã đòi hỏi bạn mình chịu một rủi ro mà chẳng được lợi ích cá nhân gì để bù lại cả. Nhưng viễn cảnh có thêm nhiều cá quả thật là quá hấp dẫn và đáng thèm muốn. Chẳng bao lâu sau, hai người nghĩ ra một cách để lôi kéo Able thử một cơ hội khác. Họ suy nghĩ, nghiền ngẫm những con số, và cuối cùng một ý tưởng tài chính đã ra đời! Baker tiến đến Able và đề nghị: “Chúng mình hãy thỏa thuận thế này nhé: Cứ một con cá bạn cho tụi này vay, tụi này sẽ trả lại hai con. Đó là lợi nhuận với tỷ lệ 100%. Trên hoang đảo này, liệu bạn có thể kiếm đâu ra một khoản lời như thế?”. Able bị thuyết phục. “Đề nghị này làm tôi quan tâm rồi đấy”, anh ta nói nghiêm túc. Able thầm nghĩ về món hời sắp tới: “Nếu mình cho bọn kia vay hai con cá, mình sẽ lấy về được bốn con. Thế là không phải làm gì mà tự nhiên có thêm hai con cá nữa. Chà chà, mình sẽ thành vua cá xứ đảo này”. Nói một cách hình ảnh, chúng ta có thể thấy chính vào thời điểm này Able đã “vượt vũ môn”. Còn nếu đây là một bộ phim của Hollywood, từ lúc này Able đã bắt đầu vểnh râu như một đại gia, kiếm tiền trên lưng người khác, giành được lợi nhuận từ lao động của họ. Tuy nhiên, hình ảnh đó chưa hẳn đã chính xác. Ngay cả khi ý định của Able chỉ là làm đầy thùng cá của bản thân, sự tham lam ích kỷ đó (chúng tôi không tìm ra từ nào có vẻ “nhẹ nhàng” hơn từ này!) vẫn tạo ra một lợi ích vốn không thể tồn tại nếu anh ta... không tham lam. Điều quan trọng cần lưu ý ở đây là Able hoàn toàn không nhất thiết phải cho vay cá. Anh ta có một loạt lựa chọn sau đây: 1. Cứ giữ lấy số cá dư thừa của mình để mai mốt lấy ra ăn. Đây đương nhiên là lựa chọn an toàn nhất. Anh ta chắc chắn sẽ không mất mát gì, nhưng đồng thời khoản tiết kiệm (cá) cũng chẳng thể tăng thêm. 2. Chiều chuộng bản thân bằng cách... chén luôn số cá còn dư. 3. Thành lập một công ty cho thuê vợt đánh cá. Tính toán của anh ta là: nếu ăn một con cá dự trữ / một ngày trong vòng hai ngày, anh ta có thể đan thêm hai cái vợt nữa. Kế đến, sẽ cho Baker và Charlie thuê hai cây vợt này, với giá thuê là... nửa con cá / ngày. Như thế, với hai người thuê vợt, mỗi người trả nửa con cá hàng ngày, thì Able sẽ đủ cá ăn mà khỏi phải tự mình đi bắt cá nữa. Bravo! về hưu sớm và nghỉ ngơi được rồi! Vẫn trong kịch bản này, một khi đã thuê được vợt, Baker và Charlie sẽ bắt được hai con cá mỗi ngày. Sau khi trả cho Able nửa con cá (phí thuê vợt!), mỗi người sẽ còn lại 1,5 con, tức là nhiều hơn nửa con mỗi ngày so với trước khi đi thuê vợt. Rõ ràng đây là một giải pháp khiến tất cả đều có lợi. Mặc dù nghe có vẻ hấp dẫn, song Able vẫn nhận thấy một số khiếm khuyết trong logic của mình. Baker và Charlie có thể thuê vợt trong hai ngày, rồi khi đã có dư cá (khoản tiết kiệm), họ sẽ ngồi nhà và tự làm vợt cho mình. Như thế, theo kịch bản này thì Able chi có thể ngồi chơi xơi... cá vỏn vẹn có hai ngày mà thôi. Và đó là một rủi ro thực sự! 4. Cho Baker và Charlie vay hai con cá, và tính lãi suất 100%. Như thế, nếu họ trả đủ cả vốn lẫn lời, Able sẽ nhận lại bốn con cá. Tất nhiên, vẫn có rủi ro bị... xù nợ! Giờ phải quyết định... quyết định... quyết định ra sao đây, Able? Tóm lại, chàng Able của chúng ta (cũng như cả xã hội) có năm cách xử lý các khoản tiết kiệm của mình, như sau: 1. Tiếp tục tiết kiệm. 2. Tiêu dùng. 3. Cho người khác vay. 4. Đầu tư. 5. Kết hợp cả 4 cách nói trên. Đương nhiên là quyết định sau cùng của Able sẽ tùy vào kỳ vọng về rủi ro và lợi ích của bản thân anh ta. Nhưng dù lựa chọn quyết định nào đi nữa, anh ta cũng đang làm lợi cho nền kinh tế của hòn đảo và không áp đặt gánh nặng nào cho những người bạn láng giềng của anh ta. Và cuối cùng, Able chọn cách cho vay. KIỂM TRA THỰC TẾ Kết quả của việc Able có khả năng và sẵn lòng cho vay cá là Baker và Charlie giờ đây đã có vợt bắt cá, công cụ mà trước đây họ còn thiếu. Khi mọi người đều có vợt bắt cá, công suất bắt cá của hòn đảo tăng gấp đôi, từ 3 con/ngày lên 6 con/ngày! Nền kinh tế của chúng ta đã tăng gấp đôi về quy mô, và tương lai dường như sáng sủa hơn. Nhưng điều này xảy ra không chỉ vì ba chàng trai trên đảo không hài lòng với mức sống hiện tại của họ. Sự đòi hỏi có một cuộc sống phong phú hơn, nói theo thuật ngữ kinh tế là "nhu cầu", mới chỉ là điều kiện cần cho sự tăng trưởng kinh tế, chứ chưa đù để đảm bảo đạt được sự tăng trưởng đó. Một cách tự nhiên, mọi người đều có nhu cầu ngày càng tăng. Dù đã có bao nhiêu của cải đi nữa, chúng ta vẫn muốn nhiều hơn, nói nôm na là "được voi, đòi tiên"! Cũng có thể là con người không đòi hỏi nhiều vật chất hơn, mà là nhiều thời gian hơn, nhiều niềm vui hơn, nhiều lựa chọn hơn. Tất cả những đòi hỏi đó đều cần nhiều tư liệu sản xuất hơn. Cả Able, Baker và Charlie đều có những nhu cầu về cá giống nhau suốt bao nhiêu năm qua. Sự khác biệt ở đây là cuối cùng họ đã có thể tăng năng suất bắt cá để đáp ứng những nhu cầu đó. Do bắt được nhiều cá hơn, cư dân đảo nay đã có thể ăn nhiều hơn một con cá trong ngày. Nhưng nền kinh tế không tăng trưởng vì họ tiêu dùng nhiều hơn. Ngược lại, người ta tiêu dùng nhiều hơn vì kinh tế tăng trưởng. Khái niệm này hết sức đơn giản, nhưng các nhà kinh tế hiện đại có thể làm được nhiều điều đáng kinh ngạc từ một khái niệm đơn giản như thế. Với một số người, dường như Able đã sử dụng lợi thế của bản thân để “bóc lột” những người hàng xóm đang gặp khó khăn. Đúng là sau này Able kiếm ra lợi nhuận mà không phải làm việc, nhưng điều đó không có nghĩa là anh ta tự nhiên có được nó mà không làm gì. Lợi nhuận thu được chính là sự đền bù cho rủi ro mà Able đã gánh chịu. Hơn nữa, việc Able kiếm ra lợi nhuận không hề ngăn cản bước tiến của những người khác. Do Able muốn kiếm lời từ khoản tiết kiệm của mình, Baker và Charlie có cơ hội làm những cây vợt bắt cá (tư liệu sản xuất) của họ mà không phải tiêu dùng dưới mức, hay hạn chế tiêu dùng. Nếu thành công, họ sẽ cải thiện được tương lai kinh tế của bản thân mà không phải trải qua những đêm nhịn đói. Ngoài ra họ có thể thu được những khoản lợi ngoài dự đoán nữa, chính xác hơn là dầu cá. Nếu họ thất bại và không trả được số cá đi vay lúc đầu, chính Able mới là người chịu thiệt. Như vậy, về cơ bản, người cho vay chỉ có thể có lợi nếu người đi vay có lợi mà thôi. Tất nhiên, có những người không thể thấy rõ những lợi ích song phương như vậy. Ví dụ, điều gì sẽ xảy ra khi Baker và Charlie ghen tỵ với của cải gia tăng của Able và đòi... chia phần? Hãy tưởng tượng một kịch bản khác như sau: Baker bực bội càu nhàu:"Hãy nhìn thằng cha Able đang lên mặt với anh em mình kìa. Hắn thì chải chuốt trong bộ đồ lớn bằng lá cọ, còn anh em ta thì mồ hôi mồ kê nhễ nhại, hì hục bắt mấy con cá trơn tuột này. Hắn ta có lòng thương người hay không chứ? Không lẽ không chia cho mình một hai con cá nhép để mình có thể nằm nghỉ một hai ngày được sao? Able có cả đống cá, làm sao nó biết được nếu mất một con cá?”. Charlie đồng tình: “Đúng đó! Này, anh bạn mới phất, chia bớt chút đỉnh cho bạn bè đi chớ!”. Hoặc một kịch bản khác nữa cũng có thể xảy ra: Giả sử rằng Able cảm thấy ái ngại đôi chút khi bỗng dưng giàu có hơn các bạn, do đó bị lý lẽ của hai người kia thuyết phục và đem số cá dư ra cho họ mà không đòi hỏi điều gì. Thế thì khi đó Baker và Charlie sẽ làm gì với số cá dôi dư này? Khi đó, do không phải chịu gánh nặng trả nợ, nhiều khả năng họ sẽ dùng “món quà” từ Able để kéo dài thời gian chơi bời giải trí. Thực ra mà nói, chẳng có gì sai nếu người ta vui chơi, bởi đó là mục đích của hầu hết các hoạt động của con người. Vấn đề là những ngày nghỉ của Baker và Charlie không làm gia tăng năng lực sản xuất (hay công suất bắt cá) của hòn đảo nói chung. Đồng thời, tuy lựa chọn mang tính từ thiện nói trên có thể làm Able trở nên hào hiệp và được yêu mến hơn, nó không thể mang lại một sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như một khoản vay. Kết luận sau cùng là: bất cứ điều gì dẫn tới việc gia tăng sản xuất (trong ví dụ này là việc bắt cá) cũng sẽ làm lợi cho hòn đảo. Càng bắt được nhiều cá, mọi người càng có khả năng ăn nhiều hơn, có thời gian làm những việc khác ngoài bắt cá, hay thậm chí được ngồi chơi, khỏi phải làm gì cả. KIỂM TRA THỰC TẾ Một số người tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu Able trở nên tham lam, chỉ muốn ngày càng giàu hơn với số của cải mới kiếm được. Điều đó có thật sự là một nguy cơ không? Nếu cách duy nhất để làm gia tăng khoản tiết kiệm (trong khi bản thân Able không phải lao động) là để người khác sử dụng / vay khoản tiết kiệm đó, thì đâu có lý do gì Able phải "găm hàng"? Bởi nếu làm như vậy, của cải của anh ta sẽ giữ nguyên, hay thậm chí giảm đi khi bản thân tiêu dùng. Như vậy, điều tốt nhất của chủ nghĩa tư bản tư nhân là ở chỗ nó buộc tất cả những ai vốn chỉ hành động vì lợi ích riêng của mình phải làm sao để tăng mức sống của những người khác. ĐIỀU CÒN ĐỌNG LẠI Của cải hay sự giàu có (wealth) là một thuật ngữ mang tính tương đối. Trong một xã hội nguyên thủy với rất ít hàng hóa vật chất ngày xưa, ngay cả người giàu nhất cũng không thể giàu có về mặt vật chất bằng với một người nghèo trong xã hội công nghiệp ngày nay được. Vào thời Trung Cổ, ngay cả những ông vua hùng mạnh nhất cũng thiếu những tiện nghi cơ bản mà hầu như mọi người Mỹ thông thường coi như đương nhiên, chẳng hạn hệ thống sưởi và ống nước trong nhà, rau xanh ngay trong mùa đông v.v... Và mặc dù Baker và Charlie coi việc chỉ phải đi bắt cá hai ngày một lần là đỉnh cao của sự xa hoa đáng mơ ước, có lẽ với chúng ta một cuộc sống như vậy chẳng có gì cao xa cả. Nhưng sự thật là nhiều người cho rằng việc có nhiều mức độ giàu có là bất công. Lập luận cơ bản của họ là niềm tin rằng người giàu trở nên giàu có bằng cách chiếm đoạt của cải từ những người khác, từ đó hình thành người nghèo. Trong kinh tế học hiện đại, người ta đặt tên cho ý tưởng này là “lý thuyết lao động về giá trị", theo đó lợi nhuận được tạo ra bằng cách trả lương cho người lao động ít hơn với những gì họ đáng được nhận. Theo quan điểm này, những nhà kinh doanh mạo hiểm như Able hay những tập đoàn lớn, chỉ có thể làm giàu nếu họ thành công bằng cách... làm nghèo người khác. Ý tưởng này chỉ mang vẻ bề ngoài đạo đức và chẳng liên quan gì đến thực tế cả. Lý do mà người giàu trở nên giàu có (ít nhất là vào lúc đầu) là việc họ đã mang lại điều gì đó có giá trị cho người khác. Able cung cấp các khoản vay cá cho các bạn của anh ta, những người không tiết kiệm đủ. Nếu anh ta có kiếm được lợi nhuận, đó chẳng qua là vì dịch vụ mà anh ta cung cấp có đôi chút giá trị với những người khác. Còn nếu Able là một “đại ca” trên đảo và ăn cướp phân nửa số cá mà hai người kia bắt được hàng ngày, chúng ta có thể suy luận rằng sự giàu có của Able bắt nguồn từ sự nghèo khó của những người bị Able bóc lột, áp chế. Tuy nhiên, hành động này (trong đó rõ ràng bao gồm việc bắt người khác hành động ngược với lợi ích của họ) xét trên tổng thể không hề làm tăng năng lực sản xuất của hòn đảo: Able chỉ đơn giản là ăn chặn những gì người khác làm ra, còn sản xuất của cả hòn đảo vẫn y nguyên. Nhiều khả năng là công suất tổng thể còn giảm đi nữa, khi những kể bị áp bức làm việc ít đi vì thấy rằng thành quả lao động của họ có thể bị đánh cắp. Trong suốt chiều dài lịch sử, chúng ta thấy đầy rẫy các ví dụ ở quy mô lớn về sự cưỡng ép này: chế độ nô lệ, chế độ nông nô và phong kiến v.v... Tuy người lao động phản ứng lại bằng bạo lực khi quyền lợi của họ bị từ chối, phản ứng của họ hẳn sẽ tốt hơn rất nhiều nếu như họ là người hưởng lợi từ lao động của bản thân. Thật không may là trong lịch sử toàn cầu, rất hiếm khi sự tự do kinh tế trên quy mô lớn diễn ra. Nhưng khi lợi ích cá nhân được cho phép phát triển, năng lực sản xuất sẽ mở rộng nhanh chóng. CHƯƠNG 3: NHỮNG CÁCH THỨC SỬ DỤNG TÍN DỤNG Việc sử dụng tín dụng là ví dụ hoàn hảo về việc tự do kinh tế đã làm lợi cho tất cả mọi người như thế nào. Miễn là bên cho vay và bên đi vay tự do thỏa thuận các điều kiện của họ, kết quả chung sẽ là thành công. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy trong những phần sau, thị trường cho vay có thể bị làm méo mó bởi các lực lượng bên ngoài. Khi đó, những tai nạn sẽ đến! Chúng ta hãy cùng tiếp tục câu chuyện trong các chương trước. Able đã quyết định cho hai anh bạn Baker và Charlie vay cá để họ có thức ăn trong thời gian tự làm ra vợt bắt cá. Những khoản cho vay kinh doanh (business loans) kiểu này là cách sử dụng tốt nhất cho khoản tiết kiệm, bởi chúng có xu hướng làm mở rộng sản xuất. Tất nhiên, chỉ riêng hành động cho vay tiền - hay cho vay cá, như trong ví dụ - để khởi sự một doanh nghiệp hay một phương án kinh doanh, hoàn toàn không đảm bảo được rằng vụ kinh doanh đó sẽ thành công. Người đi vay có thể không triển khai trọn vẹn được kế hoạch ban đầu của mình. Đó chính là điều có thể xảy ra nếu Baker và Charlie không làm được những cây vợt bắt cá hiệu quả. Trong những trường hợp khác, phương án kinh doanh có thể thất bại nếu ý tưởng ban đầu chẳng đem lại hứa hẹn gì. Chẳng hạn, thay vì hỏi vay Able cá để có thời gian làm vợt, hai anh Baker và Charlie lại hỏi vay cá để ăn trong thời gian suy nghĩ hoàn thiện một kỹ thuật... thôi miên cá hàng loạt!!!! Nếu lũ cá không bị thôi miên theo cách này, khoản vay ban đầu sẽ trở nên vô ích, cả với bên đi vay (Baker và Charlie) lẫn bên cho vay (Able). Kết luận ở đây là: các khoản cho vay kinh doanh nếu thất bại sẽ làm lãng phí kho tiết kiệm của xã hội nói chung, và làm giảm năng lực sản xuất. Theo đó, bên cho vay sẽ khó lòng thu hồi vốn gốc, chứ đừng nói gì đến tiền lãi vay. Nhưng những kế hoạch kinh doanh thành công sẽ bù đắp lại cho những kế hoạch hay phương án kinh doanh thất bại! Điều quan trọng là cần hiểu rằng: các khoản cho vay kinh doanh không phải là lựa chọn duy nhất đối với khoản tiết kiệm của xã hội. Ngoài ra, Able còn có thể thực hiện các loại cho vay khác: cho vay tiêu dùng và cho vay khẩn cấp. Cho vay tiêu dùng (consumption loans) Giả sử rằng thay vì cho Baker và Charlie vay cá để làm vợt bắt cá, Able nhượng bộ đòi hỏi của hai người bạn về việc cho họ vay cá để họ có thể... nghỉ ngơi. “Nè, vua cá”, Baker cằn nhằn “Có lẽ anh nên giải lao chút xíu, đừng đếm cá nữa và cho tôi và bồ tèo Charlie vay vài ba con cá đi. Tụi này cũng đáng được hưởng thụ cuộc sống chứ, đâu phải chỉ có anh. Hơn nữa, vài ngày sau là tụi này hoàn trả đầy đủ mà”. Able trả lời “Tin tôi đi, tôi biết đi bắt cá nhiều lúc rất chán. Nhưng nếu cho vay một con cá, tôi vẫn đòi các anh trả lại hai con, để bù lại cho rủi ro mà tôi phải chịu”. “Đừng lo, vua cá!”, Charlie đáp lại ngay. “Sau khi nghỉ mát về, tụi này sẽ hoàn toàn sung sức và đánh bắt cá tốt hơn, để trả đủ cho bồ cả vốn lẫn lời”. Nhưng làm sao mà hai chàng lười kia có thể trả cả gốc và lãi của khoản “vay đi nghỉ mát” này được, nếu họ không nâng cao năng lực sản xuất của mình? Nghỉ chơi vài ngày xong, với đôi tay không họ cũng vẫn chỉ bắt được một con cá một ngày mà thôi. Khi đó, để trả nợ vay cho Able như đã hứa, họ phải cắt giảm lượng tiêu thụ cá hàng ngày, tức là ăn ít hơn một con cá một ngày. Nói cách khác, mức sống của họ phải giảm đi để trả nợ nần! Lường trước được những điều này, Able giải thích lý lẽ cho hai người bạn: “Này, sao các anh lại muốn vay trước, rồi có lúc phải nhịn ăn nhịn uống để trả nợ? Sao không ráng nhịn một ngày, ngồi đan vợt, để mai mốt có dụng cụ bắt cá, và khi đó có thể nghỉ ngơi bất cứ khi nào các anh muốn?”. Nhưng Baker và Charlie không nghe. “Dẹp cái trò đạo đức ấy đi. Cứ cho tụi này vay là được!”. Able đành phải từ chối không cho vay. Một giao dịch như vậy sẽ đặt khoản tiết kiệm của anh ta vào những rủi ro không cần thiết, hơn nữa, nó cũng có nghĩa là không còn vốn để cho. vay những khoản có lợi ích hơn. Từ chối cho vay, Able bị bạn bè chê bai, nhưng thực ra anh ta đã giúp ngăn chặn những khó khăn trong tương lai của họ. Trong thực tế, các khoản cho vay tiêu dùng không làm cải thiện năng lực sản xuất một cách căn bản đều sẽ trở thành gánh nặng cho cả hai bên cho vay và đi vay. KIỂM TRA THỰC TẾ Bất cứ khi nào một lực lượng bên ngoài (ví dụ: Chính phủ) khuyến khích hay yêu cầu những người có khoản tiết kiệm phải cho vay vì những lý do không liên quan gì tới khả năng hoàn trả, thì khi đó khả năng thất thoát vốn cho vay là hầu như không thể tránh khỏi. Những lệch lạc như vậy trên thị trường tín dụng sẽ làm hoang phí khoản tiết kiệm của xã hội nói chung. Trong nỗ lực làm những điều đúng đắn, các Chính phủ mong muốn gây ảnh hưởng đến cách thức cấp tín dụng từ các khoản tiết kiệm. Họ thông qua những luật lệ khiến cho một số hình thức cho vay trở nên hấp dẫn hơn so với các hình thức khác. Nhưng vấn đề là Chính phủ đâu có nguồn tiết kiệm, nguồn đó nằm ở trong các cá nhân! Nếu do những khích lệ của Chính phủ mà các khoản cho vay được cấp cho những cá nhân / doanh nghiệp sau này không trả được nợ (chuyện này vẫn thường xảy ra!), thì thiệt hại sẽ rơi xuống đầu những cá nhân đã tiêu dùng dưới mức trước đó để hình thành nên những khoản tiết kiệm nói trên. Thực sự thì Able sẽ hiếm khi cho vay ngay nếu anh ta bị buộc phải cho vay những khoản mà chính anh ta cũng cảm thấy là quá rủi ro, chẳng hạn như trường hợp "thôi miên cá" đã nêu. Kết quả khi đó sẽ là: Able sẽ quyết định không làm việc chăm chỉ hay hy sinh các thú vui của bán thân quá nhiều để tiết kiệm như trước đây! Cho vay khẩn cấp (emergency loans) Hóa ra việc Able từ chối cho Baker và Charlie vay để đi nghỉ mát (cho vay tiêu dùng) lại là một điều cực kỳ may mắn. Vì chỉ một tuần sau đó, cả hai anh Baker và Charlie đều lăn ra ốm vì dịch đậu mùa Pokalani, khiến họ không thể đi bắt cá trong suốt một tuần. Lúc này, trong tình trạng khẩn cấp, Able ở vào vị thế buộc phải cấp một khoản cho vay tiêu dùng từ khoản cá tiết kiệm trước đó của mình, để hai anh bạn quý có cái ăn trong khi ốm đau, để họ bình phục mà còn đi làm trở lại. Mặc dù hiểu rằng rủi ro bị xù nợ là cao, nhưng Able cũng thấy rõ rủi ro của việc không cho vay còn cao hơn nhiều. Khác với cho vay tiêu dùng thông thường, nếu khoản cho vay khẩn cấp không được thực hiện, Baker và Charlie có thể sẽ chết và hòn đảo sẽ mất đi một phần năng lực sản xuất của nó. KIỂM TRA THỰC TẾ LIỆU ABLE CÓ THẾ MỞ RỘNG TÍN DỤNG HAY KHÔNG? Khi đối diện khả năng suy giảm kinh tế, các chính trị gia và giới ngân hàng thường thảo luận về sự cần thiết phải "mở rộng tín dụng" bằng cách tăng lượng tiền sẵn sàng để cho vay. Nhưng liệu việc này có thể thực hiện bằng mệnh lệnh hay không? Xét trong hòn đảo của chúng ta, làm sao Able có thể cho vay nhiều cá hơn so với số cá mà anh ta để dành trước đó? Nói cách khác, tổng cung tín dụng của hòn đảo bị hạn chế bởi tổng cung của tiết kiệm. Cần lưu ý rằng nếu trước đó Able đã sử dụng khoản tiết kiệm để cho vay tiêu dùng không hiệu quả, thì giờ đây anh ta sẽ không còn khả năng cho vay khẩn cấp nữa. Thực sự mà nói, các khoản tiết kiệm có thể xem là một vấn đề sống còn của xã hội. Thật không may là người ta chấp nhận một cách rộng rãi rằng: để thúc đẩy các hoạt động mà các chính trị gia và lý thuyết gia xã hội cho là có lợi, Chính phủ thường tìm cách gây ảnh hưởng lên việc phân bổ nguồn tiết kiệm. Điều này được thực hiện qua một loạt bảo lãnh cho vay của Chính phủ, các khoản hoàn lại thuế đã đóng hay phạt thuế do không khai hay đóng thuế đúng hạn với cá nhân và tổ chức. Với những biện pháp có chủ đích đó của Chính phủ, kết quả sẽ là việc cá nhân / doanh nghiệp sẵn sàng đi vay nhiều hơn, còn các ngân hàng cũng sẵn sàng cho vay nhiều hơn với một số loại hình cho vay nhất định. Nhiều nguồn lực của xã hội sẽ hướng về hoạt động tín dụng được cổ súy đó, chẳng hạn như cho vay xây nhà, học tập ở bậc đại học, hay chế tạo tấm thu năng lượng mặt trời v.v... Ý tưởng trung tâm của động lực này là quan niệm cho rằng so với những người có khoản tiết kiệm thì các nhà hoạch định kế hoạch của Chính phủ hiểu đúng và rõ hơn về những gì là tốt cho xã hội nói chung. Tuy nhiên, không có gì chứng minh là quan niệm này đúng cả. Thực sự thì lịch sử có đầy rẫy các ví dụ về những kế hoạch to lớn xuất phát từ những trung tâm nghiên cứu của các Chính phủ, sau đó thất bại thảm hại so với những hứa hẹn ban đầu. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng hơn là việc “nhét” Chính phủ vào giữa người có khoản tiết kiệm và người đi vay sẽ tách biệt nguyên nhân và kết quả của hành động cho vay, từ đó dẫn tới việc phân bổ kém hiệu quả các nguồn tiết kiệm. Các nhà cho vay tư nhân thường chỉ quan tâm đến kết quả tài chính của một khoản cho vay, hơn là biểu tượng chính trị của hành động đằng sau nó. Các doanh nghiệp gắn bó với những mô hình kinh doanh thành công, được điều hành bởi những người chủ giàu thành tích kinh doanh sẽ có khả năng trả nợ tốt hơn. Do đó, những doanh nghiệp hay phương án kinh doanh như vậy sẽ thu hút các bên cho vay nhiều hơn. Tương tự lý thuyết chọn lọc tự nhiên của Darwin tạo ra những loài mạnh mẽ, khỏe khoắn hơn, các nguyên tắc cho vay này có xu hướng tạo ra những công ty khỏe khoắn hơn, và một nền kinh tế mạnh mẽ hơn. Nhưng điều đó sẽ không xảy ra nếu kết quả tài chính của khoản cho vay chỉ là mối quan tâm thứ yếu. Các khoản cho vay cấp cho những tổ chức hay cá nhân không thành công trong việc tạo ra một sự đổi mới, cách tân cần thiết, hay mở rộng năng lực sản xuất sẽ làm suy yếu nền kinh tế nói chung, thông qua việc làm phung phí các khoản tiết kiệm. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ cùng tìm hiểu trong những phần sau, việc liên tục tăng lượng cung tiền (căn cứ trên khả năng vay nợ dường như vô hạn của Chính phủ) đã che giấu Sự thật rằng tín dụng thực bị hạn chế bởi nguồn cung hữu hạn của tiết kiệm. Ngày nay người ta giả định rằng cách duy nhất cần thiết để làm cho thị trường tín dụng vận hành tốt là những người sẵn lòng đi vay (sẵn lòng vay và sẵn lòng hoàn trả vốn gốc và lãi đúng hạn - ND). Nhưng cũng giống như bất kỳ nguồn lực nào khác, các khoản tiết kiệm phải được tích lũy trước khi cho vay ra. CHƯƠNG 4: MỞ RỘNG KINH TẾ Vài tuần sau đó, Able, Baker và Charlie đều bắt được nhiều cá với những cây vợt của mình. Tiêu chuẩn chung trên đảo về năng suất bắt cá giờ đây là 2 con / ngày. Do mỗi người hàng ngày chỉ cần ăn một con cá, nguồn cung tiết kiệm của hòn đảo mau chóng phình to. Đôi khi họ cũng phung phí và ăn hai con cá một ngày, nhưng nhìn chung cả ba người đều rất thận trọng với những gì đang kiếm được. Được giải phóng khỏi việc cứ mở mắt ra là phải đi bắt cá, cư dân trên đảo cuối cùng đã có sự tự do để làm những hoạt động khác, vui vẻ hơn và có lợi hơn. Able có thể dành thời gian thiết kế và chế ra những bộ quần áo tiện dụng hơn, thời trang hơn bằng lá cọ. Baker phát huy kỹ năng ẩm thực bằng cách đi hái dừa, còn Charlie làm cái lều đầu tiên trên hòn đảo! Mọi việc đều suôn sẻ, nhưng Baker tin là tình hình vẫn còn có thể tốt hơn nữa. Anh ta nói “Nếu có thể mở rộng sản xuất với những cây vợt bằng tay, tại sao chúng ta không phát huy và công nghiệp hóa mọi thứ?”. Anh ta mơ về một tư liệu sản xuất to lớn và hữu hiệu hơn những gì đang có. Rồi đó, Baker bắt tay lập kế hoạch chế ra một dụng cụ bắt cá tinh vi hơn, có thể thay đổi triệt để nền kinh tế của hòn đảo. Đó là một cái lưới với những chiếc cửa một chiều, có thể liên tục bắt cá suốt ngày đêm: cá bơi vào thì được, nhưng sau đó chúng không thể bơi ra được! Nếu dụng cụ chạy tốt, họ sẽ chẳng bao giờ phải lo đi bắt cá nữa. Nhưng Baker cũng sớm nhận ra rằng bản thân anh ta không thể tự làm dự án này một mình được. Anh ta nghĩ đến những vật liệu cần thiết, lưới, khung, rồi việc dựng lên cái lưới nữa. Rõ ràng chỉ riêng khoản tiết kiệm, sức lực và sự khôn khéo của anh ta là chưa đủ cho một dự án to lớn như thế này. Với những suy tính đó, Baker quyết định đề xuất thành lập một liên doanh. Bộ ba người bạn có thể lập ra một công ty, hạn chế tiêu dùng trong một thời gian, tích lũy tiết kiệm và dành trọn một tuần cho việc làm ra cái lưới nói trên. Sau khi nghe kế hoạch của Baker, mọi người bắt đầu suy tính tới các rủi ro tiềm tàng của công việc này. Cũng như với dự án “vợt bắt cá” của Able trước đây, rõ ràng chẳng ai dám đảm bảo dự án này sẽ thành công. Ngay cả nếu ba người làm ra được một cái lưới, nó vẫn có thể tan ra từng mảnh ngay lần đầu tiên tiếp xúc với biển cả hung dữ. Mà lần này không giống lần trước, khi Able chỉ chịu rủi ro là một con cá. Lần này họ đang đặt cược với số cá hơn 20 con! Tuy nhiên, nhu cầu bắt được nhiều cá hơn đã thắng nỗi sợ mất đi khoản tiết kiệm. Ba người quyết định tiếp tục thẳng tiến! Sau những nỗ lực tột bậc, họ đã làm xong bộ lưới bắt cá vĩ đại đầu tiên của hòn đảo. Bộ lưới này hiệu quả như mong đợi, với năng suất bình quân khoảng 30 con cá / tuần một cách thật gọn gàng. Trừ một vài chỗ cần chỉnh sửa không đáng kể, cũng như phải bảo trì đôi chút, bộ lưới này hầu như hoàn toàn tự động. Chẳng mấy chốc mà ba chàng trai của chúng ta sẽ ngập đầu trong cá! Với số tiết kiệm tăng cao do cải thiện năng suất, bộ ba làm thêm một bộ lưới đánh cá tương tự nữa. Số cá đánh được giờ đây dồi dào đến mức họ có thể dành toàn bộ thời gian trong ngày vào những công việc khác. Đó là: Charlie dùng khoản tiết kiệm của mình để có thời gian chế ra một cái ván trượt nước. Với “đồ nghề” cực cool này, anh ta có thể thưởng thức một hoạt động giải trí tuyệt vời! Như đã biết, Able dùng khoản tiết kiệm vào việc thành lập một công ty quần áo, không chỉ may đồ cho bản thân mà còn cung cấp cho bất kỳ cư dân đảo nào có nhu cầu chưng diện. Rồi khi rảnh rỗi, Able cũng bắt đầu tập diễn kịch một mình, đúng theo sở thích nghệ thuật của anh ta! Phần mình, Baker dành thời gian rảnh để nghiền ngẫm về những vấn đề giao thông hiện chưa hoàn thiện của hòn đảo, từ đó phát triển các thiết kế cho chiếc xuồng và xe đẩy đầu tiên trên đảo. KIỂM TRA THỰC TẾ Các khoản tiết kiệm không chỉ đơn thuần là một phương tiện làm tăng khả năng tiêu dùng của con người. Hơn thế, chúng còn có tác dụng như một tấm đệm, bảo vệ nền kinh tế khỏi những sự cố bất ngờ. Giả dụ một cơn mưa gió mùa lớn ập đến hòn đảo và cơn mưa lớn này quét sạch cả hai bộ lưới đánh cá thì sao? Tuy nhiên nhà kinh tế ngày nay xem các thảm họa tự nhiên có tác dụng kích thích kinh tế, sự thật là lũ lụt, hỏa hoạn, động đất, bão tố v.v... sẽ tàn phá của cải và làm giảm mức sống của người dân. Nếu hai bộ lưới đi tong do bão lũ, năng suất bắt cá của đảo sẽ giảm mạnh, và ba người bạn của chúng ta lại phải hạn chế tiêu dùng một lần nữa để tạo ra các khoản tiết kiệm để xây dựng lại các tư liệu sản xuất vừa bị mất đi. Nhưng hãy nhớ rằng một lượng tiết kiệm phụ thêm trong trường hợp này sẽ giúp ngăn chặn sự sụp đổ, tạo điều kiện cho việc sớm tái thiết tư liệu sản xuất bị hư hỏng. Đó là lý do tại sao Able, Baker và Charlie vẫn rất cần phải tiếp tục tiêu dùng dưới mức và tiết kiệm để phòng hờ cho những lúc hoàn cảnh khó khăn. ĐIỀU CÒN ĐỌNG LẠI Trong quá khứ, Hoa Kỳ được biết đến như là một đất nước của những người tiết kiệm. Trong hầu hết chiều dài lịch sử của mình, các công dân Mỹ nhìn chung tiết kiệm khoảng 10% (hoặc hơn) thu nhập hàng năm của họ. Điều này không chỉ làm tăng nguồn cung tiết kiệm khổng lồ để tài trợ cho hoạt động công nghiệp mở rộng, mà còn giúp các gia đình và cộng đồng chịu đựng, vượt qua được những khó khăn bất ngờ của nền kinh tế. Tuy nhiên, gần đây các nhà kinh tế lại cực kỳ hạ thấp vai trò của tiết kiệm trong chuỗi giá trị kinh tế. Những người theo Keynes coi tiết kiệm là có hại cho tăng trưởng vì hành động này rút bớt tiền khỏi lưu thông và làm giảm chi tiêu (cái mà họ cho là yếu tố quan trọng nhất trong việc tạo ra tăng trưởng kinh tế). Bị ảnh hưởng bởi tư tưởng này, các nhà làm chính sách đã đưa ra những quy tắc thưởng cho người chi tiêu và phạt những ai tiết kiệm. Kết quả là, trong nhiều năm trở lại đây người Mỹ đã chi tiêu nhiều hơn những gì họ kiếm được. Trong một nền kinh tế khép kín (như hòn đảo trong ví dụ ở cuốn sách này) điều này hẳn nhiên là không thể. Nhưng trong thế giới hiện đại, dòng tiền xuyên qua các đường biên giới quốc gia cùng với phẩm chất ma thuật của máy in tiền đã nhất thời che mắt người Mỹ trước sự thật giản đơn rằng chúng ta không thể tiêu dùng nhiều hơn những gì chúng ta sản xuất ra, không thể vay mượn nhiều hơn những gì chúng ta tiết kiệm được... ít nhất là không thể trong dài hạn. Khi làn gió ngược trong kinh tế bắt đầu thổi mạnh vào năm 2008, các nhà chính trị và kinh tế, theo phản xạ, tìm kiếm một phương tiện để khiến người tiêu dùng chi tiêu nhiều hơn, tiết kiệm ít hơn nữa. Họ hoàn toàn lạc hậu! Tự thân việc chi tiêu chẳng có nghĩa gì cả. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu bạn chi ra một triệu USD chỉ để mua không khí??? Điều đó có làm lợi gì cho xã hội đâu? Có chăng chỉ có người bán không khí cho bạn có lợi mà thôi, vì anh ta sẽ sở hữu số tiền 1 triệu USD đó, vốn là của bạn. Sử dụng các phương pháp kế toán kinh tế hiện đại, chẳng hạn như việc đo lường GDP, thì giao dịch này dường như đúng là một hoạt động có thực, vì nó sẽ được hạch toán như là 1 triệu USD tăng trưởng! Nhưng hành động mua bán không khí có cải thiện nền kinh tế nói chung đâu. Không khí vẫn luôn ở đó mà thôi! Việc ai đó bỏ tiền ra mua không khí chẳng làm thay đổi bất kỳ điều gì cả. Thực sự mà nói, chi tiêu chỉ là thước đo chúng ta dùng để đo lường sản xuất. Bởi mọi thứ sản xuất ra cuối cùng đều sẽ được tiêu thụ, thế thì tại sao chi tiêu lại quan trọng? Ngay cả những thứ không ai muốn mua cũng sẽ được tiêu thụ hay mua, nếu giá của nó giảm đủ mạnh. Nhưng chỉ đến khi sản xuất hay chế tạo ra một thứ gì đó xong xuôi thì chúng ta mới có thể tiêu thụ nó. Do đó, chính sản xuất mới là cái làm gia tăng giá trị. Hành vi tiết kiệm tạo ra tư liệu sản xuất để tạo điều kiện mở rộng sản xuất. Kết quả là một dollar tiết kiệm được sẽ có ảnh hưởng kinh tế tích cực hơn một dollar tiêu xài. Chỉ có điều, xin bạn đừng cố giải thích điều đó cho một nhà kinh tế hay một chính trị gia nhé! CHƯƠNG 5: CÓ PHÚC CÙNG HƯỞNG Những quy luật kinh tế giống nhau sẽ vận hành trong các xã hội, từ xã hội kinh tế đơn giản đến những xã hội phức tạp hơn... Hãy nhớ lại rằng ban đầu việc Able sẵn sàng hy sinh tiêu dùng cá nhân để tạo ra tư liệu sản xuất đã làm lợi cho các cư dân khác của hòn đảo. Do chương trình cho vay khôn ngoan của Able, những người khác làm ra những chiếc vợt bắt cá, sau đó tận dụng sự gia tăng năng suất để tài trợ cho việc làm ra những bộ lưới bắt cá hiệu quả vượt trội hơn nữa. Ngoài việc nâng cao chế độ ăn uống, tạo điều kiện cho mọi người có những bộ cánh hấp dẫn hơn, giao thông dễ dàng hơn, năng suất gia tăng còn đem lại cho cư dân đảo nhiều thời gian giải trí hơn, cùng với thú lướt ván ngày càng phát triển! Những đồn đại về sự xa hoa chưa từng có nói trên mau chóng lan tới những hòn đảo lân cận, nơi mà người ta vẫn chỉ dùng tay bắt cá và đương nhiên là chẳng ai có thời gian đâu mà vui chơi giải trí. Thế là hàng đoàn dân nhập cư kéo đến, với hy vọng đi tìm cuộc sống tốt đẹp hơn. Tại hòn đảo này, năng suất cao hơn nghĩa là nó có thể nuôi sống một lượng dân cư đông hơn, điều này lại dẫn tới sự đa dạng nhiều hơn về mặt kinh tế. Một số dân nhập cư đi làm công cho những người chủ của bộ lưới bắt cá, một số khác vay cá để có thời gian khai phá đất đai để trồng trọt trên đảo, hướng tới một “thực đơn” cân bằng hơn cho mọi người, không chỉ ăn toàn cá như trước đây! Những người còn lại cũng đi vay để làm những nghề khác. Chẳng mấy chốc, nền kinh tế đa dạng của hòn đảo bao gồm cả những người xây lều, người làm xuồng, làm xe đẩy, mọi nghề mà bạn có thể nghĩ ra! Xã hội lúc này chế tạo ra thức ăn và công cụ dồi dào đến mức một số người không cần phải làm ra của cải vật chất gì hết, mà vẫn có thể tồn tại. Kết quả là một khu vực dịch vụ (service sector) ra đời. Chẳng hạn, để làm cho cá ăn ngon hơn, một số cư dân đảo sáng tạo ra hệ thống đặc biệt để chế biến cá, thường là ướp gia vị và sau đó đem nướng. Khả năng của những đầu bếp này được đánh giá cao đến mức những người đánh cá và thợ dựng lều khá giả sẵn sàng trả cho họ một ít cá để có được món cá ngon lành từ kỹ năng “nấu nướng” của những đầu bếp này! Những nghề dịch vụ khác chẳng mấy chốc cũng hình thành. Sự cám dỗ và lợi ích xã hội của môn lướt ván được đánh giá cao đến mức con cháu của Charlie mở một ngôi trường dạy lướt ván. Khi xã hội phát triển và nhiều nghề nghiệp, nhiều dịch vụ được cung cấp, người ta cần một phương tiện trao đổi, để có thể thanh toán cho những người như thợ làm lều, đầu bếp, hay thầy dạy lướt ván. Cho đến thời điểm đó, hòn đảo vẫn áp dụng phương thức hàng đổi hàng (barter), theo đó người ta trao đổi một hàng hóa hay dịch vụ lấy một hàng hóa / dịch vụ khác. Nhưng quy trình này phiền toái và kém hiệu quả. Một người làm ra những ngọn giáo có thể cần một người đầu bếp, nhưng lúc đó chưa chắc anh đầu bếp lại cần mua giáo của anh kia! Mà ngay cả khi nhu cầu của họ khớp nhau, một ngọn giáo sẽ tương đương với mấy bữa ăn? Để thay thế hệ thống thương lượng lộn xộn này, hòn đảo của chúng ta cần một thứ gì đó có thể được tất cả mọi người chấp nhận và dùng để trao đổi lấy bất cứ thứ gì. Nói cách khác, cư dân đảo cần có Tiền! Thoạt tiên, do mọi cư dân đảo đều ăn cá, người ta quyết định rằng cá sẽ được dùng làm tiền tệ. Nói ngắn gọn, mọi mức giá cả và thù lao, lương bổng đều tính bằng cá. Và do mức sống tối thiểu hàng ngày vẫn được coi là một con cá / ngày, một con cá có một giá trị mà tất cả mọi người đều có thể tham chiếu. Cơ cấu giá cả của hòn đảo, do vậy, liên quan tới giá trị thực hay giá trị nội tại của cá - tiền tệ. Hiệu suất và giảm phát Một nền kinh tế với người lao động chuyên môn hóa trong từng nghề hay dịch vụ cụ thể luôn hiệu quả hơn một nền kinh tế với các thành viên cùng làm một việc. Chuyên môn hóa làm tăng sản xuất, từ đó tăng mức sống. Giả sử một cư dân trên đảo trung bình mất 5 ngày để làm ra một chiếc xuồng. Với vợt bắt cá, một người có thể bắt 2 con cá hàng ngày. Như vậy, để làm ra một chiếc xuồng anh ta phải hy sinh thu nhập của 5 ngày, tương đương 10 con cá. Tuy nhiên, trên đảo có một anh chàng tên Duffy, khéo léo hơn trong việc đốn cây, cưa đục gỗ v.v..., anh này có thể làm xong chiếc xuồng chỉ trong vòng 4 ngày. Thế là, thay vì đi đánh cá hàng ngày như những người khác, Duffy quyết định chỉ làm xuồng mà thôi. Vì bản thân chỉ phải hy sinh, hay trì hoãn khoản thu nhập tương đương 8 con cá để làm 1 chiếc xuồng, Duffy có thể kiếm lời nếu tính phí là 9 con cá cho một chiếc xuồng mà anh ta làm ra. Theo đó, thu nhập của Duffy đã tăng lên do chuyên môn hóa! Với lợi thế vừa nêu của Duffy, các cư dân khác trên đảo nên mua xuồng từ anh ta. Nếu tự làm, họ phải hy sinh một khoản thu nhập là 10 con cá. Nếu mua xuồng, tức là trả 9 con cá cho một chuyên gia đóng xuồng, họ đã tiết kiệm được 1 con! Nhưng ngay cả nếu 9 con cá là một mức giá phải chăng, thì liệu những ai có thể trả được mức giá này để mua xuồng? Có lẽ chi là những đại gia giàu có nhất đảo mà thôi. Những người chưa đạt được mức tiết kiệm tích lũy cần thiết này sẽ phải tiếp tục bơi ngoài biển cho đến khi tiết kiệm đủ số! Rồi đó, sau nhiều năm dùng vỏ sò và đá để gọt, đục các khúc cây để làm xuồng, một ngày nọ Duffy đã sử dụng khoản tiết kiệm tích lũy của bản thân để làm ra các công cụ chuyên dụng trong việc chế tạo xuồng. Và cũng giống như Able ngày xưa, Duffy đã tiêu dùng dưới mức để có thể tạo ra tư liệu sản xuất, hay công cụ. Với thiết bị tốt hơn, Duffy giảm thời gian làm một chiếc xuồng xuống chỉ còn 2 ngày mà thôi. Hiệu suất tăng lên khiến điểm hòa vốn của anh ta giờ chỉ là 4 con cá (tương đương 2 ngày làm việc) thay vì 8 con cá như trước kia. Bằng cách hạ giá bán từ 9 con cá / 1 chiếc xuồng xuống còn 6 con cá/ 1 chiếc xuồng, Duffy kiếm lời nhiều hơn (lợi nhuận là 2 con cá trên mỗi chiếc xuồng bán được, so với mức 1 con trước kia). Hơn thế, sản lượng của anh ta cũng tăng gấp đôi! Năng suất tăng lên làm lợi không chỉ cho Duffy, mà còn cho mọi cư dân trên đảo. Có nhiều người hơn trước đủ tiền mua xuồng ở mức giá 6 con cá, do đó số lượng khách hàng của Duffy tăng vọt. Kết quả của hiệu suất gia tăng - do tiết kiệm, cải tiến hay đầu tư - là giá xuồng giảm xuống, việc sở hữu một chiếc xuồng trở nên khả thi hơn cho nhiều người. Điều trước kia là thứ xa xỉ của nhà giàu nay trở thành một thứ ai ai cũng có! KIỂM TRA THỰC TẾ Như đã nói, giá giảm không ảnh hưởng xấu đến Duffy. Thực sự khi giá cả mọi thứ giảm do tăng trưởng năng suất ở những ngành nghề khác, số cá mà Duffy kiếm được có thể dùng để mua một số lượng hàng hóa nhiều hơn. Cải tiến, đổi mới là một quy trình một chiều. Với quá trình này, hiệu suất sẽ liên tục gia tăng, trừ phi con người quên đi những gì họ đã biết! Và kết quả là giá cả có xu hướng giảm xuống theo thời gian. Xu hướng giảm giá cũng khuyến khích hành vi tiết kiệm, khi người ta thấy rằng khoản tiết kiệm có thể dùng để mua được nhiều hàng hóa hơn trong tương lai. Nghe thì có vẻ kỳ cục, nhưng một con cá tiết kiệm chính là một con cá mà bạn kiếm được! Nguyên tắc này khuyến khích tiết kiệm, từ đó mở rộng số lượng vốn sẵn sàng để cho vay. Việc làm Khi xã hội diễn tiến phức tạp hơn, càng ngày càng có nhiều người quyết định làm việc cho người khác, bằng cách đánh đổi lao động để lấy tiền lương. Giá trị của lao động luôn luôn được nhân lên do việc sử dụng tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất càng tốt thì lao động càng có giá trị. Ví dụ, chúng ta có thể đào một cái hố to hơn khi có máy ủi so với khi chỉ có xẻng, ngay cả nếu chúng ta làm việc như nhau trong hai trường hợp. Vì thế, lý tưởng nhất là hãy làm việc với tư liệu sản xuất tốt nhất mà bạn có. Trong một xã hội tự do, mọi cá nhân tự quyết định sẽ dùng tư liệu sản xuất của ai để tối đa hóa giá trị lao động của họ. Trừ trường hợp ai đó cứ chọn lựa việc bắt cá bằng tay không (có thể vì những lý do biểu diễn!), mỗi người lao động đều tự do chọn lựa: Tiêu dùng dưới mức để tự làm ra một cái lưới đánh cá cho riêng mình Vay cá để mua lưới Làm việc cho ai đó đã có sẵn lưới đánh cá Lựa chọn đầu tiên đòi hỏi hạn chế tiêu dùng. Lựa chọn thứ hai đi kèm với những rủi ro. Do vậy, đa số chọn phương án 3, tức là làm việc để nhận lương. Ví dụ, anh chàng Finnigan mới tới đảo là một người rất to khoẻ. Tài năng đó sẽ bị bỏ phí nếu anh ta chỉ đi bắt cá, cho nên anh ta quyết định tập trung sức mình vào việc vận chuyển cá mà thôi. Chỉ dựa vào cơ bắp của mình, hàng ngày Finnigan, có thể giao 100 con cá từ bờ biển đến lều của mọi người. Với mức phí vận chuyển 2%, mỗi ngày Finnigan sẽ bỏ túi mỗi ngày 2 con cá. Tuy nhiên, do trước đó đã vay để làm ra một chiếc xe chở cá, công ty Murray’s Cart thực sự cạnh tranh gay gắt với Finnigan. Tuy không khoẻ mạnh bằng Finnigan, với chiếc xe của mình Murray có thể giao tới 300 con cá một ngày! Căn cứ vào năng suất vượt trội, Murray chỉ tính phí vận chuyển là 1%, tức là kiếm được 3 con cá mỗi ngày. Tóm lại, nhờ vào tư liệu sản xuất mà anh ta có thể tính phí thấp hơn mà vẫn thu nhập cao hơn Finnigan. Không có tư liệu sản xuất, Finnigan rõ ràng ở vào thế bất lợi. Nhận ra rằng nếu kết hợp anh chàng to khỏe Finnigan với cái xe thì năng suất vận chuyển cá có thể lên tới 400 con một ngày, Murray chợt nhận ra cơ hội. Với mức phí vận chuyển 1%, Finnigan (và chiếc xe) có thể tạo ra thu nhập là 4 con cá / ngày cho công ty. Khi đó Murray sẽ trả lương cho Finnigan là 3 con cá / ngày, con cá thứ tư Murray sẽ giữ lại như là khoản lợi nhuận. Về phía Finnigan, nếu nhận làm cho Murray, anh ta có thể tăng năng suất, giảm mức phí vận chuyển tính cho khách hàng, đồng thời có thu nhập cao hơn so với khi tự làm cho chính mình. Với mức lợi nhuận 1 con cá một ngày như kể trên, Murray sẽ không phải đi làm (vận chuyển cá) nữa, mà dành thời gian vào việc chế tạo thêm xe chở cá, tuyển thêm nhân viên cho công ty. Cùng lúc đó, việc có nhiều xe chở cá sẽ giúp giảm mức chi phí vận chuyển cho toàn bộ cư dân trên đảo. Hy vọng là sau này Finnigan sẽ dành dụm đủ tiền để làm ra chiếc xe chở cá cho riêng mình, từ đó cạnh tranh với ông chủ cũ Murray trong dịch vụ này. Để ngăn ngừa khả năng này, Murray phải trả cho Finnigan số lương nhiều hơn so với Finnigan có thể kiếm được khi tự làm cho mình, đủ để làm nản lòng ý muốn rời công ty của anh ta. Nhưng hãy lưu ý: động cơ duy nhất cho mọi hành động của Murray là tiềm năng có lợi nhuận của anh ta. Anh ta chẳng hề chủ ý giúp Finnigan, mà chỉ vô tình thôi. Kết quả của tất cả những chuyện này là người lao động được trả lương cao hơn và chi phí giảm đi cho tất cả mọi người. ĐIỀU CÒN ĐỌNG LẠI Trong kinh tế học ngày nay, không có chiến thắng nào lớn hơn về mặt tuyên truyền bằng việc bêu xấu một cách toàn diện hiện tượng giảm phát (và theo đó là sự chấp nhận đối với lạm phát). Theo những gì mà các nhà kinh tế và chính trị quan tâm, giảm phát - được định nghĩa là sự giảm giá nói chung của hàng hóa theo thời gian - đồng nghĩa với căn bệnh dịch hạch trong kinh tế! Ngay khi có dấu hiệu dù là nhỏ nhất về giảm phát, các Chính phủ sẽ thực thi các chính sách để đẩy giá lên. Nhưng giá giảm thì có gì xấu đâu? Do đã quen sống với tình trạng giá cả gia tăng, nhiều người hẳn sẽ cảm thấy sốc khi biết rằng giá cả tại Mỹ đã liên tục giảm trong vòng gần 150 năm, từ cuối thế kỷ XVIII đến tận năm 1913! Mà trong thời gian ấy, nước Mỹ cũng trải qua giai đoạn tăng trưởng kinh tế vào loại nhanh nhất trong lịch sử nhân loại. Nguyên nhân nằm ở chính những lý do mô tả trong chương này: hiệu suất gia tăng. Kết hợp với nguồn cung tiền ổn định (điều đã xảy ra ở Mỹ cho đến khi xuất hiện Hệ thống Dự trữ Liên bang), hiệu suất sẽ kéo giá cả đi xuống. Năng suất tăng rất cao do cuộc cách mạng công nghiệp tạo điều kiện cho những người thuộc giai cấp lao động có thể mua được mọi loại hàng hóa, từ đồ nội thất đến quần áo may đo, hệ thống ống nước trong nhà, phương tiện vận chuyển bằng bánh xe v.v... những thứ trước đây chỉ nhà giàu mới có tiền mua được. Giảm phát có nghĩa là 100 USD tiết kiệm vào năm 1850 có thể dùng để mua nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn vào năm 1880. Điều đó không phải là tốt đẹp hay sao? Ngày nay, ông bà của chúng ta thường than rằng giá cả hồi này sao mắc thế, trong khi vào thời họ còn trẻ, ông bà của họ (tức ông cố, ông sơ v.v... của chúng ta) lại thường “than” rằng ngày xưa giá cả mắc hơn nhiều! Bất chấp những lợi ích hiển nhiên của việc giá cả giảm đi, chúng ta vẫn cứ sợ giảm phát. Người ta nói với chúng ta rằng nếu giá cả có xu hướng giảm, con người sẽ dừng mua sắm, công ty sẽ dừng chi tiêu, công nhân sẽ mất việc, và nói chung mọi người sẽ quay trở lại thời kỳ đen tối về kinh tế. Nhưng sự thật là đã rất nhiều lần chúng ta chứng kiến việc giảm giá chẳng hề làm hại bất kỳ ngành công nghiệp nào. Hồi đầu thế kỷ XX, với việc liên tục giảm giá thành của xe hơi, ông chủ Henry Ford đã làm giàu nhanh chóng, công nhân của hãng Ford thì được trả lương cao nhất trong ngành. Câu chuyện tương tự cũng lặp lại gần đây với ngành công nghiệp máy tính: giá sản phẩm hạ liên tiếp, nhưng ngành này vẫn kiếm được cả đống tiền, và cuộc cách mạng máy tính vẫn tiếp diễn mạnh mẽ. Kết quả là hàng triệu người hàng năm sẽ chi tiêu ít hơn mà vẫn được hưởng lợi từ những điều kỳ diệu của kỹ thuật số. Bất chấp những điều đó, đa số mọi người cho rằng giảm phát chỉ chấp nhận được nếu nó bị hạn chế trong phạm vi một ngành nào đó. Tại sao? Các nhà kinh tế hiện đại đã giả định sai lầm rằng tiêu dùng thúc đẩy tăng trưởng, và khi có giảm phát thì người ta có xu hướng trì hoãn tiêu dùng, và ngay khi người ta chi tiêu thì giá thấp sẽ gây ra ảnh hưởng kinh tế ít hơn. Thật quá sức kỳ cục! Như chúng tôi đã nói ở trên, tiêu dùng chẳng có ý nghĩa gì cả, cái quan trọng là sản xuất! Mà cũng chẳng cần ai phải thuyết phục con người tiêu dùng. Nhu cầu của con người về cơ bản là vô tận, cho nên nếu người ta không thích một thứ gì đó thì hẳn là phải có lý do: hoặc là món hàng đó không tốt, hoặc là người ta không đủ tiền mua. Trong cả hai trường hợp, hành động tiết kiệm hay trì hoãn chi tiêu được thực hiện với một lý do hợp lý và có xu hướng làm lợi cho nền kinh tế nói chung. Thực sự thì nếu người ta không tiêu dùng, cách tốt nhất để kích cầu là giảm giá xuống mức phải chăng hơn. Sam Walton, ông chủ của hệ thống WalMart, đã kiếm hàng tỷ USD từ khái niệm siêu đơn giản này. Khi TV Plasma lần đầu xuất hiện, rất ít người Mỹ chịu mua. Ai cũng thích, song không nhiều người dám bỏ ra 10.000 USD để mang về nhà một cái TV loại này. Tuy nhiên, khi giá TV Plasma giảm, nhiều người lao vào mua và lợi nhuận của hãng sản xuất TV gia tăng, khi doanh số bù lại cho giá giảm. Một nhà kinh tế thiên tài mới chứng minh được rằng người tiêu dùng bị thiệt hại khi giá cả đi xuống. Giá thực phẩm và năng lượng giảm thực sự tệ hại hay sao? Giáo dục và y tế với chi phí thấp hơn liệu có cần Chính phủ bảo vệ chúng ta khỏi bị nguy cơ gây ra do giá giảm không? Bất chấp mọi lý do “bào chữa”, giảm phát vẫn là kẻ thù số một của kinh tế. Chẳng qua là vì lạm phát - cái đối nghịch với giảm phát - là người bạn thân nhất của mọi chính trị gia. Chúng ta sẽ bàn về điều này trong những chương sau. CHƯƠNG 6: CẤT VÀO KHO Khi các khoản tiết kiệm cá của dân đảo tăng lên, việc cất giữ trở thành một vấn đề quan trọng. Trước kia người ta giữ cá trong lều, nhưng như thế quá bất tiện và thậm chí là nguy hiểm. Tệ ăn cắp cá đã trở thành một vấn đề không thể xem thường. Ngoài ra, tuy muốn sử dụng khoản tiết kiệm dôi dư để làm giàu thông qua việc cho vay và đầu tư, hầu hết những người sở hữu tiết kiệm này không có thời gian và kiến thức để đánh giá chất lượng của những đề nghị kinh doanh người khác chào mời họ. Nắm bắt được cơ hội làm ăn này, một người tên Max Goodbank quyết định tung ra một dịch vụ mang tính cách mạng. Sau bao năm tự mình canh chừng số cá tiết kiệm được tại nhà, Max nhận ra cần phải có một cách cất giữ tốt hơn với số cá tiết kiệm này. Và sau khi thấy nhiều bạn bè bị lừa đảo khi cho người khác vay cá, anh ta hiểu rằng đa số mọi người cần được giúp đỡ trong việc quyết định cách thức cho vay khoản tiết kiệm của họ. Với những suy nghĩ đó, anh ta xây một cái kho với điều hòa nhiệt độ để tích trữ cá, kho này được những gã “hầm hố” nhất trên đảo canh gác! “Ngân hàng cá” này sẽ cất giữ toàn bộ số cá tiết kiệm trên đảo, giải quyết rốt ráo vấn đề ăn trộm cá. Tuy nhiên, đây mới chỉ là điểm khởi đầu.... Là một doanh nhân khởi nghiệp điển hình, Max hiểu rằng nếu chỉ làm việc giữ hộ cá cho người khác và thu phí, tiền lời thu được sẽ chẳng đáng là bao. Hiểu được giá trị của các khoản tiết kiệm, anh ta cũng biết rằng mình sẽ làm tốt hơn người khác trong việc cho vay. Vốn giỏi toán, Max luôn biết cách đánh giá các kế hoạch kinh doanh và cấu trúc các khoản cho vay công bằng và hợp lý. Thế là, Max cho vay cá, rồi dùng số cá kiếm được (lãi vay - ND) để trả lãi cho người gửi cá và trả lương cho các nhân viên bảo vệ. Phần chênh lệch còn lại sẽ là lợi nhuận cho anh ta! Và như thế, Ngân hàng Tiết kiệm và Cho vay Goodbank đã ra đời! Cũng như Able và Duffy, thoạt tiên Max chỉ lo làm giàu cho chính bản thân mình. Nhưng với hành động đó, anh ta giúp giải quyết các vấn đề gai góc của hòn đảo, bao gồm tiết kiệm, tín dụng và trộm cắp. Giờ đây, những người tiết kiệm bằng cách tiêu dùng dưới mức sẽ ủy thác trách nhiệm đầu tư cho ngân hàng Goodbank bằng cách gửi cá tiết kiệm vào ngân hàng này. Những ai cần vay để tài trợ cho các dự án tư liệu sản xuất nay chỉ cần liên hệ với ông chủ ngân hàng Goodbank, thay vì phải gặp ai đó có dư cá! Để kế hoạch này có thể hoạt động, Max ngay lập tức phải đảm bảo một số điều kiện sau đây. Một là hoạt động cho vay của ngân hàng phải có lời, điều này có nghĩa anh ta phải hết sức cẩn trọng khi đánh giá người đi vay, khi thu lãi vay, khi siết nợ (tịch biên tài sản thế chấp khi bên đi vay không trả được nợ). Hai là, anh ta phải làm vui lòng những người gửi cá thông qua việc đều đặn trả lãi huy động cá. Cuối cùng, anh ta phải làm sao để thu hút nhiều người đi vay hơn để duy trì vòng quay vốn này. Nếu thất bại, anh ta sẽ thất nghiệp và mất toàn bộ khoản đầu tư của mình. Đương nhiên, với khả năng chuyên môn hóa cao trong việc cho vay hiệu quả và sinh lời, Max trở thành chuyên gia hàng đầu trên đảo về kinh-tế-học cá (fish economics). Trong khi những người cho vay kém chuyên môn hơn thường bị ảnh hưởng bởi những yếu tố như lịch sử cá nhân, quan hệ gia đình, cảm tính v.v..., thì với ngân hàng Goodbank mọi chuyện chỉ được nhìn nhận dưới góc độ tiền bạc, hay tại hòn đảo này là vây cá và vảy cá. Lãi suất Do sự giàu có của bản thân gắn liền với thành bại của ngân hàng, Max ở vào một vị thế lý tưởng để quyết định các mức lãi suất huy động và cho vay cá. Về phía cho vay, anh ta chào lãi suất thấp nhất cho người đi vay an toàn nhất (tức là những ai có khả năng trả nợ cao nhất). Với những người đi vay rủi ro hơn, anh ta tính lãi suất cao hơn để bù đắp cho rủi ro gia tăng này. Lãi suất cho vay sẽ quyết định lãi suất áp dụng cho người gửi cá tiết kiệm, những người nhận tiền lãi theo một thang đối chiếu tương tự. Các khoản cá gửi tiết kiệm với kỳ hạn dài làm giảm rủi ro thiếu cá của ngân hàng, do đó người gửi sẽ hưởng lãi suất cao. Những người không thể cam kết gửi cá trong một thời gian dài chỉ nhận được mức lãi suất thấp hơn. Dù ngân hàng Goodbank quy định lãi suất, toàn bộ cơ chế lãi suất dao động theo những điều kiện thị trường, đa phần nằm ngoài tầm kiểm soát của Goodbank. Đôi khi sự gia tăng năng suất làm khoản tiết kiệm của hòn đảo tăng mạnh. Khi kho chứa cá gửi tiết kiệm của ngân hàng đã đầy tới nóc, ngân hàng sẵn lòng giảm lãi suất cho vay. Lý do là khi đó, một cách tương đối, các khoản mất mát (nếu bị xù nợ - ND) sẽ dễ chấp nhận hơn, và nền kinh tế đang “khỏe mạnh” và cung cấp nguồn tiết kiệm sẽ là môi trường thuận lợi cho các dự án kinh doanh mới. Do không cần huy động thêm, cùng với lãi suất cho vay hạ, lãi suất huy động cũng giảm theo, và điều này không khuyến khích người ta tiết kiệm nữa. Khi tiết kiệm đi xuống (điều này là nguy hiểm cho nền kinh tế), các yếu tố đối lập sẽ phát huy tác dụng để thúc đẩy tiết kiệm trở lại, từ đó lại làm đầy kho cá của ngân hàng trong câu chuyện của chúng ta. Khi có ít cá gửi tiết kiệm, ngân hàng Goodbank phải thận trọng hơn với các khoản cho vay. Do nguồn dự trữ mỏng, việc khách hàng không trả được nợ vay có thể có ảnh hưởng trầm trọng hơn. Để bù đắp cho rủi ro đang gia tăng, ông chủ Max phải tăng lãi suất cho vay, đồng thời cũng tăng lãi suất huy động để khuyến khích tiết kiệm nhiều hơn. Lãi suất tăng sẽ làm nản lòng người đi vay và làm chậm nhịp độ tăng trưởng kinh doanh của hòn đảo. Nhưng nó cũng lại khuyến khích tiết kiệm. Cuối cùng thì nguồn huy động của ngân hàng một lần nữa lại tăng, và lãi suất lại quay đầu đi xuống, theo những phân tích trong phần trên. Ngoài ra, tỷ lệ tiết kiệm thấp cho thấy người ta thích tiêu dùng ngay lập tức hơn. Kết quả là việc đầu tư dài hạn vào tư liệu sản xuất để sản xuất ra hàng hóa cho tiêu dùng trong tương lai sẽ không được khuyến khích. Cơ chế lãi suất đều đặn mang tính chu kỳ trên đây - vận hành theo kỳ vọng tối đa hóa lợi nhuận trên các khoản tiết kiệm, nỗi sợ mất vốn vào những dự án kinh doanh rủi ro, và sở thích về thời điểm tiêu dùng của từng cá nhân - sẽ tạo ra mức lãi suất làm ổn định thị trường. Quan trọng nhất là độ an toàn và tiện lợi của ngân hàng khuyến khích người ta tiết kiệm. Việc trì hoãn tiêu dùng sẽ tạo điều kiện tài trợ cho các dự án cung cấp tư liệu sản xuất khác, những dự án này sẽ nâng cao sản xuất trong tương lai, nâng cao mức sống của mọi người. Dưới sự điều hành thận trọng và khôn ngoan của Ngài Goodbank, hoạt động tiết kiệm và thương mại của hòn đảo tiếp tục tăng trưởng. Đầu tư mang tính rủi ro cao Do nhu cầu liên tục phải trả lãi cho những người gửi cá, Ngài Goodbank có xu hướng tránh xa những khoản cho vay nào có khả năng “xù nợ” cao. Anh ta từ chối việc đánh cược những khoản tiết kiệm của dân đảo vào các khoản cho vay để đi nghỉ, vay tiêu dùng, hay những dự án vay “đếm cua trong lỗ” - hứa hẹn rất nhiều song những căn cứ thực tiễn về kết quả sẽ mang lại chẳng có là bao. Tuy nhiên, một số người gửi tiết kiệm lại vẫn muốn chấp nhận rủi ro cao hơn để có lợi nhuận cao hơn. Đôi khi có những dự án rất hấp dẫn, nhưng lại quá rủi ro nên ngân hàng không tài trợ được. Chẳng hạn, hãng hàng không Sling-Flight Airways có một ý tưởng có thể cách mạng hóa việc di chuyển giữa các hòn đảo trong vùng. Nhưng Goodbank, đúng với bản chất của anh ta, từ chối cho vay dự án nhiều rủi ro này. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là những người đứng đằng sau Sling Flight đã hết cách. Một quỹ đầu tư mới xuất hiện, điều hành bởi Manny Fund - một đại gia thích khoa trương trong lĩnh vực cá. Manny thu thập cá của những người có nguồn cá tiết kiệm song không hài lòng với mức lãi suất khiêm tốn mà Goodbank chào. Rồi với số cá “huy động” được nói trên, anh ta chấp nhận rủi ro để đầu tư vào những dự án mạo hiểm. Một số dự án trong số đó thực sự thành công, như công ty nước giải khát Thiên Đường. Nhưng cũng có những dự án thất bại, như Công ty du lịch dưới nước Blubmarine. Như thế, trong khi Goodbank tiếp tục tài trợ cho việc tăng trưởng tư liệu sản xuất thông qua những hình thức đầu tư cẩn trọng, Manny Fund trở thành lựa chọn của những người chấp nhận rủi ro cao hơn. ĐIỀU CÒN ĐỌNG LẠI Ngoài việc làm méo mó thị trường tín dụng bằng cách thông qua những luật lệ ưu đãi cho một số loại hình cho vay và người đi vay nhất định, Chính phủ còn tác động lên dòng chảy tín dụng bằng một cách căn bản hơn: kiểm soát lãi suất. Trong gần 100 năm, Hệ thống Dự trữ Liên bang (về lý thuyết đây là một ngân hàng sở hữu tư nhân, nhưng thực tế nó là cánh tay nối dài của Bộ Tài chính Mỹ) đã xác định mức lãi suất cơ bản, làm cơ sở cho toàn bộ hệ thống lãi suất. Với việc tăng hay giảm lãi suất Fed funds4, Hệ thống Dự trữ Liên bang (Fed) không quy định mức lãi suất cụ thể khi một ngân hàng nào đó cho vay ra, nhưng họ thực sự tác động tới toàn bộ thị trường. Các ngân hàng luôn áp dụng lãi suất cho vay cao hơn đối với khách hàng, so với khi họ vay tiền từ Fed. Cho nên, khi Fed tăng hay giảm lãi suất, cá nhân và doanh nghiệp sẽ phải chịu mức lãi suất khi đi vay cao hơn hay thấp xuống. Fed được trao thẩm quyền này để giúp nền kinh tế vận hành ổn định trong cả những giai đoạn tốt đẹp cũng như khó khăn, về lý thuyết, trí tuệ tập thể của các nhà kinh tế tại Fed sẽ giúp nền kinh tế luôn đi đúng hướng, qua việc quyết định lãi suất tối ưu vào bất kỳ thời điểm nào một cách kịp thời. Ví dụ, Fed có thể vực dậy nền kinh tế đang suy thoái bằng cách giảm lãi suất đến mức các doanh nghiệp và người tiêu dùng cảm thấy muốn vay tiền! Trong thời kỳ kinh tế phát triển, khi sự tự tin thái quá thường dẫn đến những hành động ngu ngốc trong kinh doanh, Fed sẽ hành động ngược lại, tăng lãi suất đến mức nào đó sao cho những người đi vay phải cân nhắc cẩn thận trước khi vay tiền từ ngân hàng. Nhưng hệ thống này có hai khiếm khuyết cực kỳ lớn. Thứ nhất, người ta đã giả định rằng một nhóm nhỏ vài chuyên gia ở Fed có thể đưa ra những quyết định tốt hơn hàng triệu cá nhân ngoài xã hội, với những quyết định của riêng từng người (cũng được gọi là “thị trường”) về mức lãi suất phù hợp. Nhưng, như người ta từng nói, Fed chẳng có quyền lợi liên quan gì ở đây cả! Fed không huy động tiết kiệm, mà cũng chẳng chịu thiệt thòi gì khi các khoản cho vay trên thị trường trở nên xấu đi. Các cá nhân tiết kiệm tiền, còn lợi nhuận của ngân hàng phụ thuộc vào sự quản lý khôn ngoan khoản tiết kiệm đó. Không có mối liên hệ này, việc cho vay chắc chắn không hiệu quả. Hai là, các quyết định của Fed thường bị ảnh hưởng bởi những xét đoán về chính trị hơn là về kinh tế. Vì lãi suất thấp có xu hướng làm cho nền kinh tế trông bên ngoài dường như tốt hơn, giảm chi phí trả lãi cho vay mua nhà (thế chấp bằng chính căn nhà được mua) và các khoản vay khác, đồng thời giúp các định chế tài chính kiếm thêm lợi nhuận, luôn có rất nhiều người mong muốn giảm lãi suất. Các vị Tổng thống Hoa Kỳ muốn tái đắc cử luôn kêu gọi giảm lãi suất, gây sức ép với Fed để giúp họ làm điều đó. Về phía mình, các nhà làm chính sách tại Fed cũng thích được xã hội nhìn nhận như những người tốt sẵn lòng giúp đỡ nền kinh tế, chứ không phải như những lão Scrooge5bủn xỉn keo kiệt, kéo nền kinh tế vào suy thoái. Trong khi đó, các thành viên khác của xã hội, những người ủng hộ lãi suất cao, chủ yếu là những ai có khoản tiết kiệm, thì lại không có những nhóm có cùng chung lợi ích được tổ chức tốt. Tiếng nói của họ không bao giờ được quan tâm. Kết quả là có sự đồng thuận cao trong việc duy trì lãi suất quá thấp hơn là để nó quá cao. Xin các bạn nhớ cho rằng lãi suất thấp sẽ khuyến khích vay mượn và hạn chế tiết kiệm. Không có gì ngạc nhiên khi Hoa Kỳ đã chuyển từ một quốc gia của những người tiết kiệm thành một quốc gia của những người đi vay nợ! Ngoài ra, lãi suất quá thấp so với nguồn cung tiết kiệm đưa ra những tín hiệu sai lầm cho người đi vay về sức khỏe của nền kinh tế cũng như hiệu quả của các khoản đầu tư. Vì tiêu dùng không thực sự bị trì hoãn (như trong trường hợp lãi suất giảm do những lực lượng thị trường), các khoản đầu tư vào tư liệu sản xuất để thỏa mãn tiêu dùng tương lai sẽ ít có khả năng thành công. Kết quả cuối cùng là những đợt bong bóng giả tạo, tiếp theo là bong bóng vỡ tan, như đã xảy ra với chứng khoán và bất động sản tại Hoa Kỳ trong những năm gần đây. CHƯƠNG 7: CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ THƯƠNG MẠI Trước nay, dân đảo vẫn lấy nước uống từ những dòng suối trên núi. Họ mang nước từ suối về lều bằng bất kỳ cách gì có được. Vì thế, đa số người dân sống và làm việc không xa lắm so với nguồn nước. Việc không có nguồn nước tưới cũng gây khó khăn cho trồng trọt. Tất cả những thực tế này hạn chế năng suất nói chung của hòn đảo. Một năm kia, xảy ra một đợt hạn hán khủng khiếp, làm cạn khô nhiều dòng suối. Nỗi khổ vì thiếu nước ảnh hưởng lên tất cả mọi người! Cư dân đảo phải nỗ lực tìm ra một giải pháp để ngăn ngừa một thảm họa tương tự trong tương lai. Trí óc lanh lẹ của Able Fisher V (cháu năm đời của chàng Able trong phần đầu câu chuyện của chúng ta) đã giải quyết được vấn đề này. Anh ta nhận thấy nước mưa sau khi hết mưa sẽ đọng lại trong mấy cái ao. Bắt chước tự nhiên, anh ta chế ra một hệ thống thoát nước mưa và bể chứa, để tích trữ nước mưa dùng sau này. Nhưng đây là một dự án lớn, cung cấp nguồn nước cho toàn bộ hòn đảo. Theo những gì mà Able V tính toán, thì dự án Nước Mưa này sẽ đòi hỏi vốn lưu động khoảng 182.500 con cá, tức là đủ để hỗ trợ cho 250 nhân công tham gia lao động trong dự án suốt thời gian hai năm. Anh ta tìm đến Manny Fund để vay. Manny thích ý tưởng này, song ông ta không có đủ cá. Able V bèn tìm đến ngân hàng. Tại đây, trước sự ngạc nhiên của anh ta, cô Maxine Goodbank (hậu duệ của Ngài Max Goodbank thuở nào) tỏ ra là người biết lắng nghe! Dù chi phí có cao nhưng so với lợi nhuận tiềm năng thì rủi ro là có thể chấp nhận được. Nếu thành công, dự án sẽ tự trang trải chi phí và đảm bảo một tương lai tốt đẹp hơn cho toàn bộ mọi người trên đảo. Nhưng dù bà chủ ngân hàng có thích dự án này đến đâu đi nữa, ngân hàng Goodbank có lẽ vẫn không thể tài trợ dự án nếu như không huy động được đủ khoản cá tiết kiệm. Đơn giản là không có đủ số cá dư để nuôi sống 250 nhân công tham gia dự án, tức là không thể bắt cá, trong suốt hai năm ròng rã. Cuối cùng, dự án Nước Mưa hoàn thành tốt đẹp như đã được quảng cáo, cho phép những người đi vay trả đủ số tiền đã vay, cả gốc và lãi. Cư dân trên đảo đều vui vẻ và sẵn lòng trả một khoản phí thường niên cho nguồn nước này. Từ những khoản thu nhập đó, dự án Nước Mưa tuyển hơn 100 công nhân làm việc quanh năm để vận hành hệ thống ống nước bằng tre khá phức tạp này. Thành công ngoạn mục của dự án đã thay đổi diện mạo nền kinh tế của đảo. Nước được truyền qua các đường ống, với mức phí phải chăng, tới những khu vực xa xôi trên đảo, tạo điều kiện canh tác ở ngay cả những vùng đất cằn cỗi trước kia. Ngoài ra, dòng nước ổn định như vậy có thể sử dụng để chạy một số máy móc, từ đó sản sinh ra những ngành công nghiệp mới. Giờ đây không phải khổ sở múc nước bằng tay nữa, dân đảo có nhiều thời gian hơn cho việc sản xuất hàng tiêu dùng và cung cấp các dịch vụ cho việc phát triển các dự án cung cấp tư liệu sản xuất khác. Năng suất tăng cao khiến toàn xã hội (ở đây là hòn đảo!) bắt được nhiều cá hơn, từ đó mức sống cũng tăng theo. Thương mại Khi nền kinh tế trên đảo mở rộng, năng lực xuất khẩu sản phẩm ra bên ngoài cũng tăng theo. Chẳng bao lâu sau, những chiếc xuồng chở hàng khổng lồ bắt đầu vượt biển, chất đầy cá, xe đẩy, ván trượt nước, gươm giáo, những chiếc xuồng nhỏ. Những sản phẩm này nổi tiếng khắp đại dương vì phẩm chất và giá cả phải chăng, được mang đi trao đổi để đem về đầy ắp cá tươi và những hàng hóa khác chưa từng được biết đến trên đảo trước đây. Khi những nhà buôn trên đảo liên lạc được với những hòn đảo khác, thương mại phát triển mạnh, thúc đẩy tăng trưởng nhiều hơn nữa. Khi được tự do phát triển không kiềm chế, thương mại tự do làm lợi cho tất cả mọi người. Một số hòn đảo (hay thành phố, quốc gia, thậm chí dân tộc) thường có dồi dào một nguồn lực nào đó mà những nơi khác không có. Mỗi cá nhân, quốc gia hay hòn đảo, một cách rất tự nhiên, sẽ sử dụng những lợi thế riêng để thu lợi nhiều nhất từ những gì mình có. Ví dụ, hòn đảo Bongobia gần đó, đúng như tên của nó, sản xuất được rất nhiều bongo - một loại trống nhỏ gõ bằng tay. Cư dân đảo này rất giỏi làm bongo, ngoài ra trên đảo có rất nhiều cây thích hợp để làm loại trống này. Kết quả là có rất nhiều trống bongo được làm ra trên đảo, khiến giá trị của mỗi chiếc trống là không cao lắm. Nếu mua bán trong nội bộ đảo Bongobia, một cặp trống bongo chẳng đáng giá là bao. Cách xa Bongobia chừng trăm dặm, dân đảo Dervishia lại rất mê chơi trống bongo. Không may là trên hòn đảo này lại không có loại cây thích hợp để làm trống. Do đó, tại đảo Dervishia, trống bongo là một hàng hóa hiếm và có giá trị. Trong khi đó, đảo này lại có rất nhiều dầu dừa dưỡng da (giúp có được làn da rám nắng), nhưng dân đảo này vốn có làn da nâu và chẳng cần phòng chống tia cực tím làm gì, do đó loại dầu dừa này hầu như vô giá trị với họ. Cứ như là có duyên, tình cờ thế nào mà dân đảo Bongobia, vốn trắng trẻo hơn, lại luôn luôn gặp phiền phức từ việc da của họ bị cháy nắng kinh niên vì những đợt nắng nóng kéo dài do khí hậu đặc trưng của hòn đảo này. Khi hai đảo liên hệ với nhau, ngay lập tức họ phát triển mạnh mẽ thương mại về trồng bongo và dầu dừa. Mỗi đảo sử dụng lợi thế so sánh của mình để bán cho bên kia những sản phẩm có giá trị hơn tại nơi mua hàng so với tại nơi sản xuất ra chúng. Trong sự cộng sinh kiểu này, cả hai bên đều có lợi. Mức sống gia tăng và cư dân cả hai nơi đều hài lòng. Thương mại ở tầm quốc gia không khác gì so với chuyên môn hóa lao động ở tầm cá nhân. Mỗi cá nhân hay quốc gia bán những thứ mà họ có nhiều, hay những thứ mà họ làm ra giỏi nhất, để đổi lại những gì mà họ không có hay không làm ra một cách dễ dàng. KIỂM TRA THỰC TẾ: KINH TẾ HỌC LỚN VÀ KINH TẾ HỌC NHỎ Giờ đây, khi cộng đồng trên hòn đảo của chúng ta đã lớn hơn nhiều, so với thuở ban đầu chỉ có ba chàng trai dùng tay bắt cá kiếm ăn hàng ngày, một số người có thể nghĩ rằng kinh tế học trên hòn đảo này đã thay đổi. Phải chăng đúng là như vậy? Cũng như các nguyên tắc trong toán học chẳng thay đổi theo quy mô của bài toán, các nguyên tác kinh tế cơ bản không thay đổi theo quy mô của nền kinh tế. Chỉ có điều là chúng ta khó nhận ra những nguyên tắc đó do có quá nhiều tầng nhiều lớp xuất hiện giữa bên vay và bên cho vay mà thôi. Tuy nhiên, mối liên hệ trực tiếp giữa sự tự hy sinh tiêu dùng trước mắt, tiết kiệm, tín dụng, đẩu tư, động cơ kinh tế, cũng như các tiến bộ xã hội và kinh tế, thì vẫn hoàn toàn giống nhau. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng có thể có ảnh hưởng rất to lớn đến nền kinh tế. Tuy nhiên, việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng chỉ có ích nếu lợi ích tạo ra lớn hơn chi phí. Ngược lại, các dự án kiểu này sẽ làm lãng phí các nguồn lực và ngăn cản đà tăng trưởng. Ngày nay, nhiều nhà chính trị và kinh tế đã sai lầm khi xem đầu tư vào cơ sở hạ tầng không phải là một chi phí ngắn hạn để thu lợi trong dài hạn, mà là một biện pháp tức thời để tạo ra việc làm và thúc đẩy nền kinh tế. Quan điểm này có thể dẫn đến việc phân bổ các nguồn lực sai lầm và lãng phí, cũng như vô tình làm mất đi các công việc ở các khu vực khác. Suốt hơn nửa thế kỷ gần đây, Hoa Kỳ ít đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Chi phí của việc lãng quên xu thế này sẽ trở thành một gánh nặng cho nền kinh tế. Hơn nữa, lợi ích (của việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng - ND) chỉ xuất hiện trong tương lai, khi các dự án thành công. Trong câu chuyện của chúng ta, số cá lên tới 182.500 con được vay để xây dựng dự án Nước Mưa sẽ không thể được dùng tài trợ cho những dự án đầu tư tạo ra công ăn việc làm khác trên đảo. Rõ ràng đây là một cơ hội lớn. Nếu số cá này dùng để đầu tư vào một dự án cơ sở hạ tầng thất bại nào đó, chẳng hạn như dự án “Cây cầu không tới đâu"6nổi tiếng ở Alaska dạo trước, nguồn cung tiết kiệm của hòn đảo sẽ bị lãng phí, đồng thời 250 công nhân cũng mất toi hai năm lao động công cốc! Trong giai đoạn đầu của lịch sử Hoa Kỳ, các dự án như dự án Nước Mưa thường là sáng kiến của khu vực tư nhân. Do tính chất rủi ro cao của những dự án kiểu này, ngày nay trong thời kỳ Chính phủ kiểm soát toàn bộ, rất khó hình dung cơ sở hạ tầng có thể được tài trợ, xây dựng và vận hành một cách hiệu quả bởi các công ty tư nhân chạy theo lợi nhuận. Tuy nhiên, đúng là ngày xưa mọi chuyện đã có lúc như vậy. Ví dụ, hệ thống xe điện ngầm ở New York chủ yếu do các công ty tư nhân làm, và từng được vận hành bên ngoài sự kiểm soát của chính quyền thành phố này trong gần 4 thập kỷ. Bất chấp chi phí xây dựng rất cao, hệ thống này vẫn kiếm ra lợi nhuận cho những nhà đầu tư. Hơn nữa, một điều rất ấn tượng là tiền vé xe điện ngầm không hề tăng trong suốt 40 năm! Giờ đây, thật dễ dàng để thuyết phục cử tri rằng những tiện ích công cộng - chẳng hạn như cống thoát nước, đường cao tốc, kênh đào, cầu v.v...- cần được Chính phủ quản lý. Các chính trị gia đã lập luận thành công rằng các công ty tư nhân, vốn chỉ theo đuổi lợi nhuận thuần túy, sẽ bóc lột công chúng ngay khi có cơ hội sớm nhất. Bằng chứng hỗ trợ cho những lập luận trên đa phần là cảm tính. Điều chắc chắn hơn là việc Chính phủ kiểm soát độc quyền các dự án và dịch vụ công cộng hầu như luôn dẫn tới sự kém hiệu quả, tham nhũng và hối lộ, cũng như chất lượng đi xuống. Ngoài ra, khi một dự án do Chính phủ quản lý bị vượt dự toán hay yếu kém về phục vụ, các nguyên tắc của kỷ luật thị trường tự do không được vận dụng để giải cứu nó. Thay vào đó, Chính phủ chỉ cần tăng thuế, việc này sẽ làm lãng phí các nguồn lực xã hội và giảm mức sống của người dân. Thương mại cũng bị ảnh hưởng xấu từ những quan niệm sai lầm như vậy. Trong nỗ lực bảo vệ công ăn việc làm cho dân Mỹ trước sự cạnh tranh của lao động nước ngoài, những người phản đối tự do thương mại đã phớt lờ lợi ích của nhập khẩu, cùng với những chi phí khó thấy được với người tiêu dùng một khi họ có ít sự lựa chọn khi mua hàng hóa dịch vụ. Ví dụ, nếu một nhà sản xuất nước ngoài có thể bán áo thun tại Mỹ với giá rẻ hơn giá áo thun sản xuất tại Mỹ, thì người Mỹ sẽ tốn ít tiền mua áo thun hơn. Số tiền tiết kiệm được từ việc này sẽ được dùng để mua những hàng hóa khác, chẳng hạn như ván trượt nước. Điều này có thể làm lợi cho các công ty sản xuất ván trượt hoạt động tại Mỹ, hiện đang cung cấp những loại ván trượt tốt nhất. Thế còn điều gì sẽ xảy ra với những công nhân may áo thun ở Mỹ, nay bị mất việc làm? Nếu những ông chủ của họ không thể cạnh tranh trong ngành may áo thun, thì đúng là công nhân sẽ phải tìm việc khác. Nhưng mục tiêu của nền kinh tế nói chung không chỉ đơn thuần là tạo ra việc làm, mà là tạo ra những việc làm có thể tối đa hóa năng suất lao động. Về mắt tổng thể, một xã hội không thể có lợi với việc liên tục sử dụng lao động và tư liệu sản xuất một cách kém hiệu quả. Nếu Hoa Kỳ không có lợi thế cạnh tranh trong mặt hàng áo thun, họ cần tìm một sản phẩm khác mà họ có lợi thế để sản xuất. Nếu dựng lên những rào cản thương mại để bảo vệ công ăn việc làm trong nước, chi phí của áo thun sẽ tiếp tục cao. Khi đó, người tiêu dùng sẽ có ít tiền hơn để mua những hàng hóa khác, ví dụ ván trượt nước, và những nhà sản xuất hàng hóa khác này sẽ bị thiệt thòi. Nhìn ra một công ăn việc làm được giữ lại thì rất dễ, cái khó hơn là nhìn ra được công việc không được tạo ra! Rõ ràng là vô lý khi lãng phí lao động của chúng ta vào việc sản xuất ra những thứ có thể được sản xuất hiệu quả hơn ở nước ngoài. Nếu tập trung vào những hàng hóa dịch vụ mà chúng ta có thể làm ra một cách hiệu quả nhất, chúng ta có thể đem chúng đi đổi lấy những thứ mà nước ngoài làm tốt hơn. Và cuối cùng, chúng ta sẽ có nhiều của cải vật chất hơn. Tất nhiên, vấn đề nằm ở chỗ đồng dollar Mỹ được định giá cao quá mức