🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nền Giáo Dục Của Người Giàu Ebooks Nhóm Zalo MICHAEL ELLSBERG NỀN GIÁO DỤC CỦA NGƯỜI GIÀU Bản quyền tiếng Việt © 2013 Công ty Cổ phần Sách Alpha Tạo ebook: Tô Hải Triều Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Giới thiệu Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com TẠI SAO TRÍ TUỆ THỰC TIỄN luôn đánh bại trí tuệ hàn lâm? (Trường đời quan trọng hơn sách vở?) Người ta rót vào tai bạn rằng nếu học hành chăm chỉ ở trung học, đạt điểm số cao, vào một trường đại học danh tiếng, có tấm bằng trong tay thì chắc chắn bạn sẽ thành công trong suốt cuộc đời. Điều này có thể đúng nếu chúng ta sống cách đây 50 năm. Còn ngày nay, mọi chuyện đã khác. Giờ đây, nếu muốn thành công, bạn phải tự trau dồi thêm cho mình các kỹ năng và tư duy thực tế. Điều này vẫn đúng cho dù bạn có học đại học hay không. Cuốn sách này sẽ chỉ dẫn cho bạn cách làm điều đó. * * * Trong một buổi phỏng vấn xin việc, một người 37 tuổi học MBA ở Harvard ngồi đối diện với một thanh niên khoảng 25 tuổi bỏ học giữa chừng đã vài lần “lỡ hẹn” với tấm bằng đại học chuyên ngành sân khấu và đạo diễn của Đại học Nam California (USC). Người có bằng MBA mặc vest sang trọng, đeo cà vạt vàng. Chàng thanh niên hơn 20 tuổi mặc quần jean, áo nỉ chui đầu, không mặc sơ mi bên trong, râu ria tua tủa, tóc tai bờm xờm không chải như thể anh ta vừa chui ra khỏi giường và lao thẳng đến buổi phỏng vấn vậy. Buổi phỏng vấn diễn ra vô cùng nhạt nhẽo. Người phỏng vấn chẳng mảy may ấn tượng với bảng thành tích học tập của người được phỏng vấn và thấy anh ta không đủ kinh nghiệm để đem lại giá trị thực cho một công ty mới thành lập trong bối cảnh thị trường khó khăn như công ty của anh. Bryan Franklin, từng là một sinh viên chuyên ngành sân khấu bỏ học giữa chừng quyết định sẽ tuyển dụng một người vào vị trí nhân viên hành chính và nhập liệu cho mình với mức lương 10 đô-la một giờ thông qua kênh tuyển dụng Craigslist vài ngày trước đó. Khi còn theo học đại học, Bryan từng thành lập và điều hành, quản lý phát triển một công ty thiết kế âm thanh. Tổng cộng có tới hơn 300 phim truyện được biên tập hoặc lồng tiếng ở studio của anh, trong đó có Gladiator, The Last Samurai và Arfitificial Intelligence. Bằng nỗ lực tự vươn lên, khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng và chưa bao giờ cần đến sự hỗ trợ từ các nhà đầu tư, Bryan đã bán công ty của mình vào năm 2000 sau khi Dody Dorn được đề cử giải Oscar dành cho biên tập viên với bộ phim Memento thực hiện ở studio này. Nhờ bán công ty mà “tôi mua được một ngôi nhà trên đường Lombard, San Francisco,” Bryan nói thêm với nụ cười mãn nguyện. Vào đầu năm 2002, anh điều hành doanh nghiệp thứ ba do chính mình thành lập và đầu tư vốn. Bryan chia sẻ rằng việc kinh doanh rất phát đạt và cần một trợ lý, vì thế anh đã đăng quảng cáo tuyển dụng trên Craigslist. “Trong vòng 24 giờ, tôi nhận được 200 phản hồi. Hầu hết các ứng viên đều là cử nhân đại học, một vài thạc sỹ và nghiên cứu sinh mới vượt qua kỳ thi đầu vào, thậm chí có cả một số tiến sỹ đã tốt nghiệp và khoảng sáu MBA. Có một MBA tốt nghiệp Harvard khiến tôi tò mò. Tôi đưa anh ta vào danh sách chốt gồm 10 ứng viên được phỏng vấn. “Anh ta đến nhà tôi trong bộ đồ công sở chỉn chu. Tôi nói sơ qua về website mà anh ta sẽ chịu trách nhiệm nhập số liệu với mức lương 10 đô-la một giờ và thấy anh ta quả thật là “một con gà” về công nghệ Web. Tôi không tin nổi anh ta đã nhắc đến từ “IPO” và cả “ưu tiên thanh khoản” trong buổi phỏng vấn. Khi tôi nói rằng: “Xem nào, tôi đang tìm kiếm người nhập số liệu và chăm sóc khách hàng. Tôi muốn chắc chắn rằng khi khách hàng gọi đến, họ sẽ cảm thấy mình là Thượng đế.” Thì anh ta đáp lại: “Ồ, anh biết đấy, tôi nghĩ cần phải xây dựng chiến lược xem chúng ta sẽ thúc đẩy những mối quan hệ nào…” Buổi phỏng vấn cứ thế diễn ra. Có lúc anh ta hùng hồn nói: “Luôn có những con đường và giải pháp khác nhau để dẫn đến thành công, vì thế một trong những điều tôi sẽ thực hiện trong tuần đầu tiên đi làm là thiết lập một “ma trận ưu tiên” để chúng ta cùng tham khảo…” Lúc đó, tôi hình dung trong đầu cảnh tượng anh ta ngồi hí hoáy vẽ ma trận ưu tiên còn tôi thì phải hùng hục giải quyết tất cả mọi việc. “Cuối cùng, tôi đã thuê một phụ nữ Mỹ gốc Phi còn khá trẻ. Cô ấy chỉ học hết trung học nhưng có tinh thần làm việc nhiệt tình và sở hữu nhiều “trí thông minh đường phố.” Cô đã hoàn thành xuất sắc công việc của mình suốt hơn 3 năm qua, được tăng lương vài lần và hiện đang quản lý một nhóm 3 nhân viên dưới quyền.” Đương nhiên, bạn có thể học được rất nhiều điều thú vị từ trường đại học, nhưng thực tế, chúng lại chẳng giúp ích gì cho thành công trong sự nghiệp và tài chính của bạn. Bạn có thể mở rộng tầm hiểu biết, mài giũa các kỹ năng tư duy phê phán, đưa ra những ý tưởng và quan điểm mới mẻ, đam mê khám phá những di sản văn hóa hay tìm hiểu trí tuệ của những nhà tư tưởng vĩ đại nhất hành tinh. Đó đều là những đam mê đáng theo đuổi. Giả sử, trong một thị trường bất ổn, bạn muốn là Bryan Franklin hơn là vị thạc sỹ Harvard nọ. Nói cách khác, bạn muốn tối ưu hóa các cơ hội của mình trong cuộc sống, là nhà tuyển dụng trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế thay vì là kẻ xin việc. Để đạt tới mục tiêu tối đa hóa cơ hội thành công về chuyên môn trong bất kỳ điều kiện kinh tế nào, bạn cần phải bắt đầu học hỏi những gì? Đây chính là câu hỏi trọng tâm mà cuốn sách này sẽ trả lời. Tôi sẽ đưa ra lời giải đáp cụ thể, chi tiết cho câu hỏi này trong hàng trăm trang sách tiếp theo. Nhưng trước tiên, bạn hãy tìm lời giải cho câu hỏi: Tại sao ngày hôm đó Bryan không có bằng đại học lại ngồi ở vị trí nhà tuyển dụng và tại sao người đàn ông có bằng MBA của Harvard lại là người tìm việc? Tôi không có thông tin cá nhân nào về người có bằng MBA kia, vì thế tôi chỉ có thể đưa ra phỏng đoán về cảnh ngộ khó khăn của anh ta. Nhưng tôi lại rất tường tận câu chuyện của Bryan vì anh ấy là bạn thân của tôi. Tính đến thời điểm đó, anh ấy đã dành 10 năm ròng để trau dồi những kỹ năng giúp anh thành công như kinh doanh, marketing, lãnh đạo, quản lý, tài chính và kế toán từ những trải nghiệm kinh doanh thực tế ở các công ty do chính anh gây dựng lên bằng nguồn tài chính của mình. Nói cách khác, Bryan đã hướng đến sự tự giáo dục bên ngoài các lớp học, như một số nhà nghiên cứu gọi là “trí tuệ thực tiễn” hay còn có tên là “trí tuệ đường phố”, để hoàn thành mọi thứ trong cuộc sống thật hiệu quả. Còn người đàn ông học MBA ở Harvard có vẻ đã học và nghiên cứu các tài liệu về marketing, kinh doanh, quản lý, lãnh đạo, tài chính và kế toán. Nhưng tôi đoán chủ yếu là những lý thuyết sáo rỗng. Để hoàn thiện chương trình cơ bản cho học viên, trọng tâm của nền giáo dục này là trí tuệ hàn lâm để hoàn thành tốt các bài kiểm tra thay vì trí tuệ thực tiễn nhằm giải quyết các vấn đề thực tế. Cả hai người đều được giáo dục rất tốt nhưng tôi đoán, nền giáo dục của một người thiên về lý thuyết với kiến thức sẵn có trong kho của các trường đại học, cao đẳng, nền giáo dục của người còn lại (đó là nỗ lực tự học hỏi không giống bất kỳ lớp học chính thức nào) thiên về thực hành. Nền giáo dục của một người mang tính chất quan liêu, mô phạm và sách vở; người còn lại thu nhận kiến thức từ những vật lộn trong cuộc sống, những bờ vực của thất bại cá nhân. Một người được giáo dục trong ngôi trường danh giá, người còn lại được tôi luyện trong trường đời. Một người tập trung vào tri thức sách vở, người kia quan tâm tới tri thức đường phố. Theo bạn, tri thức nào sẽ giành chiến thắng trong thời đại kinh tế suy thoái? Tri thức nào sẽ chiến thắng khi nền kinh tế khởi sắc trở lại? Trong cuộc tranh luận không hồi kết giữa trí tuệ thực tiễn và trí tuệ hàn lâm, giữa tri thức đường phố và tri thức sách vở, có một chút mơ hồ liên quan đến thiên hướng mà cha mẹ, họ hàng, các thầy cô, các nhà truyền thông và các chính trị gia “lái” chúng ta theo ngay từ khi chúng ta còn là những đứa trẻ. Trong bộ phim The Graduate (Tạm dịch: Lễ tốt nghiệp) có một cảnh nổi tiếng là trong bữa tiệc tốt nghiệp tổ chức xung quanh bể bơi của gia đình, nhân vật Benjamin, do nam diễn viên Dustin Hoffman thủ vai, một cử nhân quản trị kinh doanh mới tốt nghiệp, nhận được lời khuyên chân thành về nghề nghiệp từ một người bạn của gia đình. “Tôi muốn nói với cậu một từ. Chỉ một từ thôi… Cậu có muốn nghe không?” người bạn của gia đình hỏi. Benjamin gật đầu đồng ý. “Plastics.” Lời khuyên cho thành công: “Học chăm chỉ thời trung học, bước vào một đại học danh tiếng và cầm lấy tấm bằng tốt nghiệp” đang dần trở nên rỗng tuếch, cũ rích và lỗi thời. Nếu bạn muốn biết ngày nay, một tấm bằng đại học chứng nhận trí tuệ học thuật của bạn có giá trị tới đâu, bạn chỉ cần đăng một quảng cáo tuyển dụng việc làm thêm trên mạng. Bản thân tôi cũng đăng rất nhiều quảng cáo tuyển dụng trong nhiều năm qua, gồm nhiều việc làm thêm lặt vặt, khuân vác, lau dọn gara hay đẩy xe rác. Như trong ví dụ của Bryan, tôi có thể khẳng định rằng: Cho dù công việc có tẻ nhạt hay được trả công thấp đến mức nào đi chăng nữa, bạn vẫn nhận được hàng loạt đơn xin việc từ các cử nhân đại học. Những ứng viên đầy bằng cấp có tất cả những công cụ mà xã hội, gia đình, thầy cô và mọi người xung quanh cho là cần thiết để thành công. Thế nhưng trong trường hợp của Bryan, tình trạng khủng hoảng kinh tế những năm 2000 đã khiến hàng trăm cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ xếp hàng để có được công việc tẻ nhạt với mức lương bèo bọt 10 đô-la/giờ đăng bởi một chủ doanh nghiệp trẻ không có bằng đại học. Bạn muốn chạy theo bằng cấp hay theo đuổi thành công? Trong thời đại công nghiệp hóa ngày nay, những người có kinh tế ở mức khá trở lên cho rằng điều quan trọng nhất mà những đứa trẻ từ 6 đến 22 tuổi cần theo đuổi chính là điểm số. Điều đáng quan tâm thứ hai là những hoạt động ngoại khóa như các môn thể thao, âm nhạc, các hoạt động tình nguyện để tô điểm cho hồ sơ và bản CV đầu vào đại học. Nhưng nếu hỏi rằng mối quan tâm hàng đầu của các bậc phụ huynh, thầy cô giáo, các chính trị gia và xã hội muốn con trẻ của họ để tâm tới suốt 16 năm trời, từ 6 đến 22 tuổi là gì, thì câu trả lời quá rõ ràng và đơn giản: Đạt được điểm tốt. Bạn đã bao giờ dừng lại và suy nghĩ xem những vấn đề này kỳ quái thế nào chưa? Vì sao tất cả chúng ta đều bị thuyết phục rằng các khóa đào tạo sẽ mang đến cho bạn những tri thức học thuật hiệu quả, cần thiết và tiên quyết cho thành công trong cuộc sống? Tại sao tất cả chúng ta đều bị thuyết phục rằng mớ kiến thức ấy xứng đáng để chúng ta cống hiến 16 năm đẹp đẽ nhất cuộc đời? Chúng ta có nên dành phần lớn tuổi trẻ của mình, những năm tháng vui vẻ nhất, tràn đầy nhiệt huyết nhất, đam mê nhất và sáng tạo nhất, để theo đuổi những con số và con chữ bé nhỏ nhằm chứng tỏ trí tuệ học thuật? Ken Robinson, tác giả cuốn sách The element: How Find your Passion Changes Everything (Tạm dịch: Nguyên tố: Tìm kiếm đam mê thay đổi mọi thứ) rất quan tâm đến câu hỏi khó nhằn này. Trong chương trình TED (Technology Entertainment and Design: Thiết kế và giải trí công nghệ), có một cuộc nói chuyện qua video rất nổi tiếng với tựa đề “Ken Robinson nói rằng trường học giết chết sự sáng tạo” (sau này nó trở thành một trong những cuộc nói chuyện được tải nhiều nhất từ TED.com), Ken cho rằng: “Nếu bạn bước chân vào nền giáo dục chính thống như một kẻ ngoại đạo và thắc mắc: ‘Nền giáo dục công lập phục vụ điều gì?’ Tôi nghĩ khi nhìn vào kết quả đầu ra, nhìn vào những người thành công nhờ nó, người tạo nên được những điều tốt đẹp và cả những người chiến thắng, bạn sẽ phải kết luận rằng toàn bộ mục đích của hệ thống giáo dục công lập trên toàn thế giới là sản sinh ra các giáo sư đại học. Không phải vậy sao? Họ luôn là người dẫn đầu… Tôi yêu quý các giáo sư đại học, nhưng bạn biết đấy, chúng ta không tôn vinh họ như những đỉnh cao thành công của nhân loại. Họ chỉ là một hình thái khác của cuộc sống.” Nhà phê bình giáo dục đương đại Charles Murray quan niệm: “Các loại hình công việc đòi hỏi nền giáo dục đại học giống như người đầu bếp phải qua giai đoạn nỗ lực học nghề để trở thành một đầu bếp thượng hạng, dẫu đây chỉ là lĩnh vực thu hút một số ít người.” Nhưng nếu bạn không muốn dấn thân vào con đường khoa học nghiên cứu, bạn sẽ thấy chỉ có trí tuệ hàn lâm là không bao giờ đủ. Phát triển tri thức thực tiễn sẽ cải thiện đáng kể năng lực và thành công của bạn. Cuốn sách này chính là cẩm nang giúp bạn phát triển những kỹ năng thực tế thiết yếu. Chúng tôi tập trung vào bảy kỹ năng quan trọng cần thiết để bạn đạt tới thành công trong cuộc sống và sự nghiệp. Dĩ nhiên, những kỹ năng thực tế này không thể thay thế cho tấm bằng đại học. Bạn có thể học được nhiều điều tuyệt vời ở trường đại học. Bạn có thể nảy ra những ý tưởng mới, mở rộng cái nhìn về cuộc sống, học về kỹ năng tư duy phản biện nhạy bén và đắm mình trong kho tàng văn hóa, trí tuệ của nhân loại. Nhưng tôi dám chắc rằng dù bạn đã học xong đại học, bạn vẫn không được học cách biến những kiến thức học thuật trừu tượng thành những ứng dụng thực tế trong cuộc sống của chính mình. Hơn nữa, việc bổ sung những kỹ năng thực tế là không bắt buộc trong các trường đại học. Vì thế, những kỹ năng trình bày trong cuốn sách này là phần bổ sung thiết yếu cho hệ giáo dục đại học để bạn thành công hơn nữa trong công việc và cuộc sống. Kỹ năng thành công số 1 CÁCH TẠO SỰ KHÁC BIỆT MÀ KHÔNG TỐN QUÁ NHIỀU CÔNG SỨC Vào một đêm năm 1967, ca sỹ, nhạc sỹ kiêm tay guitar 21 tuổi tên là David đã phải nhập viện ở Paris do suy nhược cơ thể nghiêm trọng. Lý do là vì dù chơi nhạc ở các quán bar, hộp đêm và những buổi khiêu vũ trên khắp nước Pháp và Tây Ban Nha, David cũng không kiếm đủ tiền để mua thức ăn. Nếu tối nay không chơi nhạc, ngày mai anh sẽ chẳng có gì bỏ vào miệng. Hai năm trước đó, David đang học lớp 6 ở Cambridge, Anh (tương đương với 2 năm cuối cấp 3 tại Mỹ.) David không thi lấy chứng chỉ bậc A, các kỳ thi quyết định đầu vào đại học tại Anh. Điều duy nhất David thực sự quan tâm là nhạc rock, anh sống hết mình cho nó, tham gia vào các ban nhạc địa phương và cũng sống bằng niềm đam mê của mình, hết buổi chơi nhạc này đến buổi chơi nhạc khác, cả ở Pháp và Tây Ban Nha. Nếu bạn chứng kiến khoảnh khắc sức tàn lực kiệt của một chàng trai 21 tuổi trên giường bệnh tại Paris, không một xu dính túi để mua đồ ăn cho mình, có thể bạn sẽ không bao giờ nghĩ rằng lựa chọn không tham gia thi lấy chứng chỉ bậc A của anh là đúng hay chàng trai đó sẽ có một tương lai xán lạn. Và khi dự đoán đó có thể chính xác với hầu hết các nghệ sỹ nghèo đói, thì với anh nghệ sỹ ốm o về thể xác nhưng mạnh mẽ về tâm hồn này, dự đoán đó chẳng hợp lý chút nào. David trở về Anh và một năm sau đó, Nick Mason, tay trống thân quen với David đã đề nghị anh cùng gia nhập vào một ban nhạc nhỏ lấy tên là Lưu trang Pink Floyd. Ban nhạc này đã bán được hơn 200 triệu album trong vòng hơn 40 năm sau đó. The Dark Side of the Moon là album nổi tiếng nhất của ban nhạc, đã bán được hơn 45 triệu bản trên toàn thế giới, được xếp vào danh sách những album bán chạy nhất, được chào đón nồng nhiệt nhất và gây ảnh hưởng nhất mọi thời đại. Trong vai trò của tay guitar chính, ca sỹ chính và nhạc sỹ chính của ban nhạc, David Gilmour đã tạo ra rất nhiều bản hit trong hơn 40 năm qua, dễ dàng trở thành một trong những nhạc sỹ ấn tượng nhất trong lịch sử nhạc rock. Tôi cũng là một fan nhạc rock. Tôi muốn cảm ơn David vì đã mang những cơn lốc âm nhạc đến rất nhiều đêm cuồng nhiệt tại trường đại học, những bài hát triết lý về ý nghĩa cuộc sống hay bồi dưỡng tình yêu thay vì chuyện học hành. Những trải nghiệm thời đại học với tôi rất ý nghĩa nhưng không thể phủ nhận rằng âm nhạc đã mang đến nhiều niềm vui, niềm hứng khởi và sự trân trọng cuộc sống cho tôi và cả hàng triệu người khác cho tới một thập kỷ sau khi ra trường. David Gilmour đã tạo nên sự khác biệt vô cùng lớn lao trong cuộc sống của rất nhiều người trên hành tinh này. Thế giới sẽ nghèo nàn hơn nếu thiếu anh và âm nhạc của anh. Tôi cho rằng David đã sống một cuộc đời đầy ý nghĩa. Chắc hẳn, bạn vẫn còn điều gì đó hồ nghi về câu chuyện của David, câu chuyện về người đã tạo nên sự khác biệt lớn trên thế giới. Một năm trước khi nổi tiếng, David vẫn là một nhạc sỹ với những món quà âm nhạc, lòng quyết tâm gây ảnh hưởng trong thế giới âm nhạc và sống một cuộc sống đầy ý nghĩa như khi nổi tiếng. Nhưng lúc đó, thế giới không quan tâm liệu anh muốn tạo ra ảnh hưởng thế nào hay “giá trị” mà anh muốn mang lại. Thực tế, David không thể xoay xở cuộc sống của mình chỉ nhờ vào số tiền mà công chúng trả cho những món quà âm nhạc của anh. Một trong những nhạc sỹ vĩ đại nhất trong lịch sử nhạc rock gần như chết đói trước khi anh và ban nhạc của mình được “khai quật”. Tất cả chúng ta hay ít nhất là những người đầy ắp ý tưởng muốn tạo sự khác biệt trên thế giới, cho dù trong lĩnh vực kinh doanh, nghệ thuật, chính trị, từ thiện, khoa học hoặc công nghệ. Ít nhất là chúng ta muốn tạo ra sự khác biệt ở chính cộng đồng mình. Điều này thực sự có ý nghĩa: Tạo nên sự khác biệt, gây ảnh hưởng và sống có mục đích. Vẫn tồn tại những nghịch lý để “tạo nên sự khác biệt” và “gây ảnh hưởng”. Thế giới không phải lúc nào cũng quan tâm liệu chúng ta có muốn tạo nên sự khác biệt hay gây ảnh hưởng không. Thực tế, nó có thể đi ngược lại với những gì ta cố gắng. Thế giới không tự dang tay đón chúng ta chỉ vì chúng ta có những lý tưởng tốt đẹp. Nó có thể cười cợt vào cái gọi là “lý tưởng” ấy hoặc phổ biến hơn là lắc đầu ngao ngán và ngoảnh mặt làm ngơ trước bất cứ điều gì. Tôi đã hỏi David về bí quyết đưa anh đến thành công và câu trả lời rất thẳng thắn là: “Tôi đã gặp may. May mắn đóng một vai trò rất rất quan trọng để làm nên thành công của tôi. Họ nói anh phải tự tạo ra may mắn cho chính mình nhưng đôi khi tôi không chắc chắn lắm về điều đó. Rất nhiều người cũng có quyết tâm như tôi, đi đúng theo con đường mà tôi từng đi, cũng đầu tư nhiều tâm sức vào ngành công nghiệp âm nhạc chứ không theo học đại học, nhưng cuối cùng âm nhạc vẫn không thể nuôi sống được họ. Về sau, họ bị mắc kẹt trong những công việc “giật gấu vá vai”. Họ sẽ không phải sống qua những ngày như thế nếu kiên trì theo đuổi sự nghiệp học hành. Đây hoàn toàn không phải hướng đi mà tôi muốn gợi ý cho tất cả mọi người, trừ trường hợp bạn chắc chắn 110% và chứng minh được rằng niềm đam mê của bạn là điều bạn phải theo đuổi và sẵn lòng vì nó mà từ bỏ rất nhiều thứ khác.” Rất ít người ước mơ về thứ mình dễ dàng đạt được. Rất ít người chỉ ước mình mãi là một quản lý cấp trung mờ nhạt hoặc một nhân viên bàn giấy vô danh trong các văn phòng quan liêu trong suốt cuộc đời mình. Chúng chẳng giống với mục đích sống cho lắm. Ước mơ và mục đích sống là thứ lãng mạn, phiêu lưu và đầy hứng khởi. Chúng ta mơ ước trở nên nổi tiếng, giàu có và tạo được tiếng vang trong thế giới rộng lớn này. Chúng ta mơ ước trở thành những ngôi sao nhạc rock. Nếu không phải là những ngôi sao nhạc rock đích thực như David thì cũng là một vận động viên, một diễn viên, một tác giả, một đạo diễn, một nghệ sỹ, một chính trị gia, một nhà khoa học xuất sắc, một CEO giàu kinh nghiệm, một tỷ phú hay triệu phú nổi tiếng (giống như một số doanh nhân mà tôi phỏng vấn trong cuốn sách này). Cũng có thể chúng ta mong muốn tạo được danh tiếng trong các lĩnh vực truyền thống như luật, y tế, học thuật, hay tác động lớn đến cộng đồng ở vị trí lãnh đạo hoặc từ thiện. Cũng có thể chúng ta ước mơ trở thành một giáo viên xuất sắc và tạo nên khác biệt ở hàng trăm trẻ em. Sự thật là những ước mơ tạo dựng sự khác biệt luôn đi kèm với rủi ro. Bạn càng khao khát trở thành một ngôi sao trong lĩnh vực nào đó, dù là giáo viên, bác sỹ, luật sư, nghệ sỹ, nhạc sỹ hoặc doanh nhân, bạn càng phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn trong sự nghiệp. Rất ít người tạo được danh tiếng trong lĩnh vực của mình, tạo dựng được sự khác biệt cho cuộc sống của nhiều người khác, hay xác định chí hướng cho sự nghiệp của mình đơn giản chỉ bằng việc chăm chăm đi theo một kịch bản đã viết sẵn và đặt chân lên con đường có nhiều người lui tới. Bạn có thể tìm được một sân vận động đầy những thanh niên 21 tuổi tài năng với nghị lực và lòng quyết tâm cao, tất cả đều đam mê gây ảnh hưởng tới thế giới theo cách của tuổi trẻ trong các lĩnh vực như âm nhạc, nghệ thuật, văn học, diễn xuất, làm phim, chính trị, khoa học, công nghệ, truyền thông, từ thiện hoặc kinh doanh. Trong sân vận động gồm những nhân tài này, chỉ có một hoặc hai người sẽ trở thành “siêu sao” trong lĩnh vực của mình như David Gilmour. Cuối cùng, rất nhiều người trong sân vận động đó bị vỡ mộng và phải cúi đầu chịu thua. Một cảnh tượng thật đáng sợ. Rất nhiều người trẻ nghĩ tới viễn cảnh đó mà sợ hãi, không còn dám liều lĩnh, đành trung thành với những kịch bản an toàn trong sự nghiệp để gặp ít rủi ro, thất bại nhất và đương nhiên, thành tựu đạt được cũng chẳng có gì nổi bật. Vậy điều phân biệt giữa một hoặc hai “siêu sao” vươn tới ước mơ của mình với những cá nhân đầy ắp ý tưởng, giàu đam mê và tài năng nhưng lại thất bại là gì? Rất nhiều chuyên gia được phỏng vấn về bí quyết thành công đều đề cập đến tài năng, nghị lực, lòng quyết tâm, sự tự tin, kiên trì – những phẩm chất “xưa như trái đất” về sự nỗ lực tự vươn lên. Sự trung thực, biết lượng sức mình của các siêu sao như David Gilmour đã hoàn thiện danh sách các phẩm chất đáng quý đó. Họ cũng coi trọng vai trò của sự ngẫu nhiên, sự đồng điệu và những cơ hội may mắn. Các “ngôi sao” này tỏa sáng nhờ những phẩm chất đó. Chúa đã mỉm cười với họ. Những thời cơ vừa chín muồi. Sự may mắn vô hình hiện hữu. Họ không gọi đó là một “dịp may”. Nếu không có rủi ro đi kèm với nỗi sợ hãi, chúng ta đã chẳng cần mơ ước, thay vào đó là bắt tay vào hiện thực hóa nó ngay lập tức. (Cửa hàng tạp hóa lúc nào cũng tuyển thu ngân. Nếu bạn mong muốn trở thành một thu ngân, bạn có thể biến ước mơ thành sự thật ngay lập tức. Nhưng tôi cá rằng đó không phải là ước mơ của bạn.) Vậy làm thế nào để chúng ta dung hòa những giấc mơ tạo dựng sự khác biệt cháy bỏng, giấc mơ được làm chủ một cuộc sống có ý nghĩa, có tầm ảnh hưởng và có lý tưởng với thực tế phũ phàng là thế giới không phải lúc nào cũng “để mắt” tới sự khác biệt mà chúng ta muốn tạo ra hay dành tặng điểm A cho nỗ lực của chúng ta? Vượt qua những thác ghềnh trước mắt này là một trong những năng lực quan trọng nhất mà bạn có thể luyện rèn mà thành. Nếu chẳng lưỡng lự giữa hai dòng nước, chưa chắc bạn đã được thoải mái trong cuộc sống. Nếu lựa chọn theo đuổi những đỉnh cao sự nghiệp quá xa vời mà không lường trước những rủi ro, có thể bạn sẽ phải nhận kết cục như David ở tuổi 21, phải nhập viện vì suy nhược cơ thể. Và hiếm ai đang chênh vênh gần miệng hố tử thần đủ may mắn để có thể thực hiện một cuộc lội ngược dòng ngoạn mục như David đã từng làm. Còn nếu nhượng bộ nỗi sợ hãi và lựa chọn một con đường an toàn, hay thậm chí là phân vân và không xác định rõ tầm ảnh hưởng mình muốn tạo ra, mục tiêu mình muốn đạt được, thì cuối cùng bạn sẽ cảm thấy hối tiếc. Bạn có thể hài lòng với mức thu nhập an toàn và ổn định của mình nhưng trong lòng có thể day dứt không yên. Chẳng ai gọi đó là “thành công” cả. Vì thế, trong phần mở đầu của bất kỳ cuộc thảo luận về thành công nào, điều bạn cần không phải là bài thuyết trình dài dòng, nào là “hãy tin tưởng vào bản thân”, “tự tin vào chính mình” hay “nỗ lực hơn nữa”, như nội dung chuẩn mực của nhiều cuốn sách khác. Đó phải là một cuộc thảo luận trung thực về cách thức vươn tới những ước mơ đáng trân trọng, cách vượt qua những rủi ro và đặt chân vào thương trường thực tế một cách suôn sẻ. Xung đột giữa việc tạo dựng ảnh hưởng với việc lựa chọn một cuộc sống tẻ nhạt Bạn càng khao khát muốn tạo dấu ấn trong lĩnh vực mình yêu thích, mục tiêu của bạn càng sâu đậm thì tiềm năng bạn gặp rủi ro càng cao. Có nghĩa là nguy cơ “trắng tay” của bạn càng cao hoặc công sức của bạn sẽ đổ xuống sông xuống bể và buộc phải chấp nhận thất bại. Vậy tại sao lại tồn tại xung đột giữa lựa chọn một cuộc sống an phận và nỗ lực tạo dựng sự khác biệt, giữa cuộc sống tẻ nhạt và sống có mục đích. Tôi sẽ giúp bạn vạch ra một kế hoạch chi tiết để vượt qua những thác ghềnh này. Nhưng trước tiên, hãy đọc câu chuyện đầy kịch tính trong gia đình dưới đây, một hiện tượng như “cơm bữa” ở hàng nghìn hộ gia đình trên toàn nước Mỹ hàng năm. Cha mẹ đã chắt chiu và tiết kiệm trong nhiều năm, thậm chí là vài chục năm để cho con gái của họ học đại học với hy vọng cô có thể ngẩng đầu với thiên hạ. Khi cô con gái học đại học, cô quyết định chọn chuyên ngành nghệ thuật kịch hoặc lịch sử nghệ thuật. Một cuộc tranh cãi nảy lửa đã diễn ra trong gia đình: Cha mẹ: Nhưng làm thế nào con có thể kiếm sống nhờ chuyên ngành nghệ thuật (kịch, biên kịch, triết học, văn học, thơ)? Làm gì có nơi nào đăng tuyển dụng: “Cần tuyển nhân viên chính thức chuyên ngành nghệ thuật”? Con gái: Nhưng thưa cha mẹ, đây là đam mê của con. Bố mẹ muốn con sống cuộc đời của một con tàu không người lái, cả ngày ngồi trong xó phòng của những công ty tẻ ngắt và để năng khiếu nghệ thuật trong con chết dần chết mòn sao? Cha mẹ: Đương nhiên, bố mẹ ủng hộ đam mê của con. Bố mẹ chỉ muốn con có một phương án dự phòng khi nghệ thuật chẳng nuôi sống được con. Con thông minh và vừa đưa ra một lý lẽ rất thuyết phục, sao con không nghĩ mình sẽ trở thành một luật sư giống anh họ con, Sue? Lúc ấy, con vừa có thể hoạt động nghệ thuật khi có thời gian rảnh rỗi. Diễn xuất là nghề tay trái, con ạ. Con gái: Cha mẹ không hề hiểu con! Cuộc sống không bó gọn trong một công việc an toàn đến mức tẻ nhạt. Nó lớn lao và ý nghĩa hơn nhiều so với số tiền mà cha mẹ có trong tài khoản ngân hàng. Cha mẹ sẽ hối tiếc vì đã ngăn cản con theo đuổi ước mơ của mình, v.v… Những tranh luận tương tự cũng diễn ra khi những đứa con vừa tốt nghiệp cấp ba nói với bố mẹ rằng mình không có dự định học đại học hay khi các sinh viên đại học thông báo cho cha mẹ rằng mình sẽ nghỉ học. Cameron Johnson, một doanh nhân tự do thành đạt, một tỷ phú tự lập (một sinh viên bỏ học giữa chừng) đã hai lần tranh cãi với cha mẹ mình tương tự thế. Lần thứ nhất là khi còn học cấp 3, anh đã nói với cha mẹ rằng mình sẽ không thi đại học vì anh quá bận rộn với việc xây dựng kế hoạch kinh doanh đang thành công của mình. “Michael Dell cũng chẳng có bằng đại học,” tôi nói với bố mẹ mình. “Bill Gates cũng chẳng có bằng đại học.” Bố mẹ tôi nói rằng tôi không phải là Michael Dell hay Bill Gates gì hết. Tôi là con trai họ và họ muốn tôi học hành tử tế. Cameron đã đuối lý và buộc phải trở thành sinh viên của trường Đại học Công nghệ Virginia. Tuy nhiên, một thời gian ngắn sau khi nhập học, cuộc tranh luận thứ hai đã xảy ra khi anh thông báo với cha mẹ việc anh sẽ bỏ học để đầu tư kinh doanh. Họ nói: “Không, không thể được!” Tôi nói rằng: “Bố mẹ xem các ngôi sao bóng rổ đều bước thẳng trường cấp 3 tới NBA4, hay các diễn viên và nhạc sỹ chẳng cần bận tâm tới trường đại học bởi họ đã sớm dấn bước trên con đường sự nghiệp. Còn cả các doanh nhân thành đạt, họ chẳng cần đến 4 năm học để tìm hiểu về lĩnh vực của mình. Nếu mất những 4 năm học, con cũng chỉ dậm chân tại vị trí trước khi vào đại học, trong khi hiện tại con đang có lợi thế để tiến xa hơn. Đầu tư những 4 năm trời trong trường đại học nghĩa là 4 năm đó con sống ngoài rìa thế giới kinh doanh. Trong thời đại Internet bùng nổ bây giờ, mọi thứ thay đổi đến chóng mặt, các bạn đồng môn khác sẽ chẳng thể đuổi kịp được con.” Bố tôi lên tiếng: “Học đại học chẳng chết ai.” Tôi đáp lại: “Con đồng ý, nếu con muốn thì 10 năm nữa học cũng chẳng muộn.” Bố nói: “Cameron, con có thể mất nhà, mất công ty, tiền bạc, thậm chí là vợ con, nhưng không thể thất học. Học vấn là thứ duy nhất không rời bỏ con.” Tôi đáp lại rằng: “Điều đó đúng nhưng con không đồng ý. Con vẫn đang học hỏi, tại trường đời. Cho dù con không ngồi trên giảng đường hàng ngày, nhưng con vẫn học với nhịp độ nhanh hơn các bạn bởi họ phải cố gắng tiếp thu bài giảng của thầy cô còn con học được chúng bằng cách trải nghiệm chúng.” Những tranh luận và các câu chuyện kịch tính kiểu này trong các gia đình, tôi thấy, chẳng khác nào những tranh luận của chúng ta về sự an toàn với thái độ anh hùng trong cuộc sống. Sự an toàn và thái độ anh hùng hoàn toàn đối lập nhau. Hãy tưởng tượng một bộ phim mà nhân vật anh hùng chẳng cần mạo hiểm hay xông pha gian khó để chớp lấy cơ hội, và bao quanh anh ta là một lớp nilon bảo vệ để tránh những va chạm và tổn thương thường nhật. Bộ phim có cảnh anh ta đi bộ trên vỉa hè, vào một ngày nắng đẹp trong lớp vỏ nilon bao bọc tới một cửa hàng và mua vài nguyên liệu cho bữa tối. Hết phim! Liệu bộ phim này có hấp dẫn không? Trẻ nhỏ luôn muốn tạo dựng ảnh hưởng lớn đến thế giới, muốn thay đổi thế giới, để tạo ấn tượng về sự tồn tại của mình. Chúng muốn một lý tưởng và sự nhiệt tình. Chúng muốn trở thành anh hùng. Không đứa trẻ nào muốn là một nhân viên bàn giấy hay nhân viên văn phòng tẻ nhạt. Cha mẹ bọn trẻ cũng muốn con cái của mình cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa và sống thoải mái nhưng họ thấy nghề nghiệp mà chúng mơ ước (nghệ thuật và giải trí, văn học, viết blog, truyền thông, thể thao, xã hội học và kinh doanh…) đầy rủi ro. Về điểm này, bố mẹ của chúng hoàn toàn đúng: Những nỗ lực này tiềm ẩn đầy rủi ro. Nói cách khác, khả năng thất bại khi theo đuổi các ngành nghề này rất cao so với lựa chọn trở thành một nha sỹ hay kế toán. Vì thế, với quyền lực bất khả̉ xâm phạm và thương lượng để bảo vệ và định hướng cho các con, các ông bố bà mẹ thường hướng các con theo con đường an toàn, ít rủi ro khi hướng nghiệp cho con. Họ có xu hướng nói về các kế hoạch trù bị hay những đường thoái lui và cân nhắc về những niềm đam mê của chúng. Tại sao lại tồn tại mâu thuẫn giữa sự an toàn và tinh thần anh hùng, giữa tầm ảnh hưởng và sự mờ nhạt? Lý do hết sức đơn giản: theo định nghĩa “gây ảnh hưởng”, “tạo dựng sự khác biệt” hay “sống có mục đích” liên quan đến việc thoát khỏi những lề lối đã tồn tại trong bất kỳ một thị trường, tổ chức, lĩnh vực, vùng miền hay xã hội nào. Nó liên quan đến đổi mới hoặc trải nghiệm tiên phong. Bryan Franklin mà tôi nhắc đến trong phần Mở đầu đã định nghĩa khả năng tiên phong là “tạo ra tương lai chưa từng tồn tại cho những người khác.” Nếu những gì bạn đang cố gắng đạt được không diễn ra theo ý bạn, thì thật khó để nói rằng bạn đang gây được nhiều ảnh hưởng hay mục đích của bạn có điểm gì nổi bật. Ngoài ra, nỗ lực thay đổi hiện tại, gây ảnh hưởng hay sống với niềm đam mê của bản thân kéo theo những rủi ro về tài chính hơn là không làm gì cả. Điều này chỉ đúng khi bạn là một chuyên gia trong các lĩnh vực truyền thống (như bác sỹ, luật sư) đang nỗ lực đạt tới những điều lớn lao trong công ty hoặc lĩnh vực của mình vì sự nghiệp của mọi người trong các lĩnh vực kinh doanh và nghệ thuật. Có hai lý do đơn giản sau: Mọi người thường cảm thấy an toàn và thoải mái hơn với những gì quen thuộc chứ không phải lạ lẫm. “Ảnh hưởng” là một sự thay đổi, vì thế nếu muốn tạo ra ảnh hưởng trong lĩnh vực của mình, có nghĩa là bạn đang kêu gọi mọi người đầu tư mạo hiểm vào những điều chưa mới mẻ. Sự đổi mới hay khả năng tiên phong của bạn càng lớn thì bạn càng đòi hỏi mọi người bỏ qua sự an toàn và thoải mái nhiều hơn – điều chẳng lấy gì làm dễ dàng nếu họ không vượt qua được vô số trở ngại. Niềm thích thú cố hữu của nhiều người là thực tại và chẳng thèm đoái hoài tới “ảnh hưởng” của bạn, thẳng thừng từ chối sự đổi mới. Thậm chí, có thể họ còn bảo bạn giữ lấy cái ảnh hưởng của mình và biến đi! Càng cố gắng thay đổi hiện tại thật nhiều, bạn càng bị những người này tìm cách đánh bật khỏi tổ chức, cộng đồng, thị trường hay thậm chí còn cố gắng làm tổn hại đến danh tiếng và sự nghiệp tương lai của bạn. Bất kỳ ai tham gia vào chính trường đều hiểu rõ điều này. Bất kỳ nghệ sỹ hoặc doanh nhân nào nỗ lực tạo nên cái mới đều biết điều này. Nếu bạn muốn giàu có hoặc nổi tiếng, thì sau khi đọc cuốn sách này, bạn sẽ biết rằng cần phải tạo nên sự khác biệt làm biến đổi cuộc sống của nhiều người. (Theo định nghĩa, bạn không thể giàu có và được gọi là nổi tiếng nếu ảnh hưởng mà bạn tạo ra chỉ làm thay đổi cuộc sống của vài người.) Những người giành được chiến thắng cuối cùng thường nắm trong tay quyền lực, sự giàu có, nổi tiếng, sự ủng hộ hoặc tạo được tiếng vang chủ yếu nhờ “tiếng lành đồn xa”. Cấp dưới/khách hàng/người hâm mộ này mang đến những cấp dưới/khách hàng/người hâm mộ khác, đến tận khi một nhóm lớn – mà tác giả nổi tiếng Seth Goldin gọi là một “lớp người” – vây xung quanh nhà lãnh đạo, công ty hoặc nghệ sỹ đó. Đây chính là cách hầu hết các nghệ sỹ, nhạc sỹ, diễn viên, tác giả và doanh nhân giàu có thường làm – hiệu ứng truyền miệng. Hiệu ứng truyền miệng càng lan rộng thì tốc độ của nó càng nhanh chóng và mạnh mẽ (mà Malcolm Gadwell gọi là “điểm bùng phát”.) Thực sự, truyền miệng là một trong những phương thức quảng bá không thể dự đoán được trên thế giới. Không ai biết cơn chấn động tiếp theo của công chúng sẽ là gì. Cơn sốt lan truyền trong công chúng đã khiến những người nổi tiếng thậm chí là một thiên tài thiện ý như David Gilmour đã phải gật đầu thừa nhận tầm quan trọng của sự may mắn trong thành công của anh. Trong sự nghiệp, khi nào phải đứng trước hai con đường, dường như lúc nào bạn cũng phải cân não để chọn lựa giữa một con đường dễ đoán định (trong đó bạn là một mắt xích khiêm tốn trong một kịch bản đã viết sẵn) và một con đường tạo cho bạn cơ hội gây ảnh hưởng nhiều hơn (như vị trí lãnh đạo) nhưng cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn. Điều này hoàn toàn đúng với một luật sư, giám đốc của một tập đoàn, một doanh nhân mới khởi nghiệp hay một nhạc sỹ. Vấn đề này có thể được nhìn nhận theo cách khác: Dù ở giai đoạn nào của sự nghiệp, bạn vẫn thường đứng giữa một con đường an toàn hơn và một con đường mạo hiểm hơn; giữa một con đường chắc chắn hơn và một con đường cho bạn cảm giác sống có mục đích và ý nghĩa hơn. Bạn khó lòng trở thành anh hùng nếu không trải qua những khó khăn và rủi ro. Một cách tốt để nghĩ về “sống một cuộc sống có ý nghĩa” là “tạo ra sự khác biệt trong cuộc sống của những người mà bạn quan tâm tới.” Ý nghĩa này không có gì kỳ lạ khi bạn gắn liền với những huyền thoại và truyện kể có những anh hùng chấp nhận mọi hiểm nguy để tạo nên điều tốt đẹp cho cuộc sống con người. Nếu bạn không sẵn sàng tạo sự khác biệt trong cuộc sống của bất kỳ ai, chắc rằng bạn sẽ không cảm nhận được cuộc sống của mình có ý nghĩa. Bạn có thể dừng lại, như nhân vật trong The Secret Life of Walter Mitty (Tạm dịch: Cuộc sống bí mật của Walter Mitty), sống một cuộc sống tầm thường và chỉ mơ mộng đơn thuần về chủ nghĩa anh hùng, theo cách gọi của Thoreau là “cuộc sống của sự âm thầm tuyệt vọng”. Tạo ra một điều khác biệt thật sự và sống với những mục tiêu ý nghĩa mang nhiều hiểm nguy, bao gồm cả những nguy hiểm của sự thất bại, từ chối, hay thậm chí là phá sản và sụp đổ. Vậy làm sao để chúng ta chèo lái được mong muốn an toàn với khát khao làm nên một điều khác biệt trong thế giới này? Làm sao để chúng ta chuyển giữa mong muốn về chủ nghĩa anh hùng, sự phiêu lưu, sự lãng mạn với những cấp bậc của sự tiên đoán trong cuộc sống? Làm sao để chúng ta hòa hợp những giấc mơ lý tưởng với thực tế khắc nghiệt của thị trường? Đó là những câu hỏi mà tôi sẽ trả lời trong chương này và xuyên suốt trong phần còn lại của cuốn sách. Kế hoạch cụ thể mà tôi sắp chia sẻ sẽ giúp bạn có một cuộc sống có ý nghĩa, tạo dựng sự khác biệt và trốn thoát cuộc tranh giành/cuộc rượt đuổi/sự giam cầm của kịch bản có sẵn từ cha mẹ hay xã hội, mà cuối cùng, bạn vẫn không nghèo đói nếu theo đuổi kịch bản ước mơ đã được ấp ủ. Tôi gọi đây là “Nghệ thuật kiếm sống”. Để giải thích cho nghệ thuật này, hãy để tôi kể cho các bạn nghe câu chuyện về một người đã đạt được rất nhiều ước mơ và vượt qua những hiểm nguy bằng sự khéo léo của mình. Ông ấy không phải là một tỷ phú nhưng ông ấy đã sống một cuộc đời đầy hấp dẫn. Anthony Sandberg và nghệ thuật kiếm sống Vì một lý do nào đó, khi nhiều người đạt đến tầm ảnh hưởng nào đó trong cuộc sống và thấy rằng những điều họ phải làm để đạt được ảnh hưởng đó đang dần trở nên vô nghĩa, họ bắt đầu có niềm hứng thú với… lái thuyền. Khi ấy, Anthony Sandberg sẽ xuất hiện ngay lập tức, sẵn sàng đưa họ ra khơi. “Đó là khi họ đến lái thuyền cùng tôi! Họ có thể nhận ra rằng mình đã bỏ lỡ điều gì đó. Trong cuộc hành trình, những con người liên tục trì hoãn biết rằng cả đời họ luôn ủng hộ việc đi theo con đường đã định và làm theo những gì có sẵn.” Anthony điều hành một trong những trường lái lớn nhất và thành công nhất thế giới, trường lái OCSC tại Berkeley Marina (http://ocscsailing.com). Hiện nay, Anthony đã 62 tuổi. Ông rời Đại học Dartmouth khi đang học dở năm cuối năm 1971. Cả nước Mỹ đang căng thẳng với vấn đề chiến tranh Việt Nam và trong suốt năm cuối đại học của Anthony, nhiều phong trào biểu tình phản đối chiến tranh dâng cao. Phần lớn thời gian Anthony dành cho việc tổ chức những chuyến xe bus chuyên chở người tham gia biểu tình xuống các vùng Boston, New York và Washington, D.C. Khi cuộc xâm lược Campuchia nổ ra vào năm 1970, “việc học hành chẳng còn ý nghĩa gì với tôi nữa. Tôi muốn hòa vào không khí chung của toàn nước Mỹ lúc đó. Tôi bỏ hẳn học kỳ cuối và bắt đầu dành toàn bộ thời gian để tổ chức các cuộc biểu tình của sinh viên ở D.C. Vì thế, tôi không bao giờ được nhận bằng đại học. Tôi nghĩ mình có thể hoàn thành chương trình học và kiếm một tấm bằng khác bây giờ (cười khúc khích), nhưng tôi không chắc nó còn có tác dụng gì với mình nữa không.” Sandberg là người đầu tiên trong gia đình được học đại học. Bố của ông là một đầu bếp còn mẹ là nhân viên chạy bàn. Ông lớn lên trong một gia đình gốc Hawaii không mấy khá giả, và theo lời kể của Sandberg, khi chuyển đến California, gia đình họ phải sống khá chật vật. Để phụ giúp gia đình, ông đã rời trường trung học và xa gia đình từ năm 16 tuổi để kiếm một công việc trên tàu và đi vòng quanh thế giới. Một năm sau đó ông trở lại trường học mặc dù vẫn sống xa gia đình và tự kiếm sống nuôi thân. Trường Đại học Dartmouth rất cảm động trước lòng quyết tâm của ông và lá thư ông kể về hành trình phiêu lưu trên biển để kiếm tiền ăn học. Họ đã cấp cho ông một suất học bổng toàn phần. Hai năm đầu học tại Dartmouth ông luôn là một sinh viên xuất sắc, nhưng đến hai năm cuối, ngoài việc hiếm khi tới lớp học đầy đủ do bận rộn tổ chức biểu tình, ông còn cảm thấy sự miệt thị của bạn bè dành cho mình khi họ đã sẵn sàng cho công việc và cuộc sống sau khi tốt nghiệp. “Vào năm cuối đại học, tất cả những bạn để tóc dài suốt bốn năm bắt đầu cắt ngắn và mua những bộ đồ công sở. Đồng hồ sinh học đã “điểm chuông”, đã tới lúc họ phải làm hài lòng cha mẹ mình hoặc thực hiện kế hoạch đã vẽ ra. Tôi thấy hầu như họ chẳng vướng chút bận tâm đến nguyện vọng riêng của mình trong cuộc sống. Sự thật là chẳng có phần thưởng nào cho việc bạn làm theo đam mê mà chỉ có phần thưởng cho những thái độ phải phép.” Sau khi rời khỏi trường học và khi các cuộc biểu tình bị dẹp yên, tinh thần khởi nghiệp của Sandberg trỗi dậy, nhiệt huyết không kém gì lần đầu tiên đặt chân vào đại học và bắt đầu con đường kinh doanh với sự hỗ trợ của một số quỹ đầu tư mạo hiểm. Ông đã thành lập công ty chuyên kinh doanh đồ thể thao rồi sau đó là công ty đồ da. Ông nhận một số công việc trên các du thuyền của các tỷ phú ở Địa Trung Hải, Hy Lạp, Thổ Nhĩ̃Kỳ, Croatia và Tây Ban Nha. Sau đó, ông gia nhập Tập đoàn Peace ở Nepal. “Tôi có cơ hội gặp gỡ những người giàu nhất và cả những người nghèo nhất thế giới.” Khi trở về từ Tập đoàn Peace, ông lại tiếp tục tìm hiểu và thử nghiệm nhiều thứ. “Tôi tò mò về hàng triệu thứ khác nhau và muốn khám phá chúng.” Ông hứng thú vô cùng với nền công nghiệp năng lượng mặt trời mới bùng nổ lúc bấy giờ. Ông đã dành 6 tháng làm thợ sửa chữa ống nước vì thời điểm này năng lượng mặt trời sử dụng nước là nhân tố làm nóng. Ông bắt đầu thành lập công ty hàn ống nước và lắp đặt các thiết bị năng lượng mặt trời, thuê các thợ hàn ống nước có bằng cấp làm việc dưới quyền mình. Vào thời điểm đó, ông cũng bắt đầu dạy lái thuyền bán thời gian ở các trường dạy lái. Ở ngôi trường đó, ông đã nhận được một vài lời khuyên làm thay đổi cuộc đời ông mãi mãi. “Tôi đã gặp một vị khách sộp. Ông ấy nói rằng: ‘Anthony, cậu chắc chắn là một trong những hướng dẫn viên lái thuyền tốt nhất mà tôi từng gặp. Nhưng cậu sẽ chẳng khá lên được nếu cứ mãi là một hướng dẫn viên lái thuyền. Cậu phải nắm bắt được điều thực sự cần thiết, phân tích, hệ thống hóa nó, biến nó thành cẩm nang hữu ích cho nhiều người. Đầu tiên là một nhóm rồi sau đó mở rộng dần dần.’” Một ý tưởng lóe lên trong đầu Anthony khi nghe lời khuyên đó (Xem Kỹ năng thành công số 2 để tìm kiếm đúng cố vấn cho mình). Ông bị ám ảnh bởi ý tưởng thành lập trường lái riêng. Thời gian này, lái thuyền chỉ dành cho những tay tài phiệt giàu có. Không có trường đào tạo lái thuyền nào dễ tham gia như ngày nay (trường của Anthony trở thành một ví dụ điển hình cho kiểu trường đó, ông đã đón đầu xu hướng này). Ông muốn tranh thủ niềm đam mê lái thuyền và đưa nó vào tầm với của nhiều người và nhiều tầng lớp. “Lúc đó, tôi đang ngồi trong chiếc xe tải hàn chì. Sự háo hức bồn chồn đã thôi thúc tôi cho ra đời kế hoạch kinh doanh sau một đêm dài thức trắng. Mọi vấn đề liên quan: Những con thuyền nên được bảo vệ thế nào, nhân viên được đào tạo ra sao, khách hàng nên được đón tiếp thế nào, quá trình nghiên cứu sẽ phát triển hướng nào đã được tôi giải quyết. “Trường bắt đầu giảng dạy từ chiếc thuyền đi mượn ở bến thuyền Berkeley. Anh định mượn thuyền bằng cách nào? Anh đã từng nhìn thấy một bến thuyền trống trơn chưa? (cười). Ở đó chật ních những chiếc thuyền mà ông chủ của chúng không biết lái và đổi chủ 3 năm 1 lần. Tôi đi bộ đến bến thuyền Berkeley và nói với mọi người rằng: “Tôi sẽ bảo dưỡng thuyền hộ các anh và hướng dẫn cách lái, nếu các anh để tôi sử dụng chúng tại trường của tôi trong tuần này.” Tôi đã mượn thuyền thành công! Thành thực mà nói, ngày nay một đứa trẻ cũng có thể làm điều đó! (Cười) Khi làm vậy, tôi có một khách hàng, tiếp đến là 3 rồi 5 người. Tất cả đều do sự tự thân vận động. Không cần vay vốn đầu tư, chỉ cần một giấy phép kinh doanh giá 6 đô-la.” Ngôi trường cứ thế phát triển “như diều gặp gió”. Hiện nay nó đã nằm trọn trong khuôn viên rộng 6 mẫu Anh, đối diện với cầu Cổng Vàng. Với hơn 30 năm trong nghề, Anthony và các cộng sự đã hướng dẫn hơn 25.000 học viên lái thuyền và hiện tại đang có hơn 80 nhân viên, quản lý hơn 50 thuyền và du thuyền. Ông hiện đang sống trong một căn hộ sang trọng mặt hướng ra vịnh nằm trong khu phức hợp trường lái này. Ông thường dẫn đầu các đội tàu nhỏ của sinh viên học lái và các nhà mạo hiểm đi khắp từ Nam cực, Patagonia, Thổ Nhĩ̃Kỳ, Hy Lạp, và Galápagos, Địa Trung Hải, Trung và Nam Mỹ, Tahiti, Australia và Nam Thái Bình Dương, và dành thời gian cho các chuyến phiêu lưu khám phá của bản thân. Mặc dù cuộc sống đã rất vương giả và trường lái ngày một phát triển vững mạnh nhưng hiện tại Anthony không ngừng bước. Ông đang dự định thực hiện bước thứ hai trong cuộc đời mình. Ông nhen nhóm ý tưởng dạy kinh doanh cho trẻ em. Cuối cùng, ông đã quyết định hướng dẫn những đứa trẻ nghèo khổ thuộc vùng vịnh này phương cách khởi nghiệp. “Tôi không muốn các lớp đại trà. Tôi muốn tìm 10 đứa trẻ mong muốn trở thành doanh nhân. Tôi có thể dạy chúng khởi nghiệp từ hai bàn tay trắng. Chỉ cần đam mê, chúng sẽ làm nên tất cả.” Anthony muốn dạy kinh doanh cho bọn trẻ vì một lý do hết sức đơn giản: ông tin rằng tương lai của thế giới phụ thuộc vào những người trẻ biết những kỹ năng này. “Hiện giờ, chúng ta đang rơi vào tình trạng khủng hoảng. Chúng ta có thể cần đến 10 năm để cứu các đại dương với đủ loại vấn đề nghiêm trọng. Tuy nhiên, tôi tin tương lai của thế giới không đến từ các tổ chức phi lợi nhuận. Tôi nghĩ nó đến từ các doanh nghiệp vì kinh doanh có một sức mạnh vô cùng mãnh liệt. Tôi chỉ không nghĩ rằng các doanh nghiệp tiếp tục “bán bánh” còn các tổ chức phi lợi nhuận tiếp tục xin “bố thí” mà phải đưa ra những hành động đủ nhanh và quyết liệt. Các doanh nghiệp biết rõ mình cần làm gì nhưng quan trọng là phải có lương tâm và muốn biến thế giới này trở thành nơi tốt đẹp hơn chứ không phải chạy theo lợi nhuận bằng bất cứ giá nào. Hành tinh này không chỉ dành cho ngày hôm nay.” Anthony Sandberg có thể không nổi tiếng, có thể không phải là một tỷ phú của Thung lũng Sillicon nhưng ông giàu có trên mọi phương diện. Và để đạt được sự giàu có này, ông không và chưa bao giờ trì hoãn bất kỳ ý nghĩa, mục đích, sự phiêu lưu và niềm hứng khởi nào trong cuộc sống. Cuộc sống vô cùng ý nghĩa với chính bản thân ông và với rất nhiều người được ông hướng dẫn và lãnh đạo. “Câu khẩu hiệu của chúng tôi ở trường lái đó là ‘Khuyến khích sự tự tin’,” ông chia sẻ. “Không phải là ‘Học lái tốt hơn’ mà là tự tin thực hiện một hành trình ngắn trên biển, rồi tiến xa thêm chút nữa, chút nữa và rồi đột nhiên, cả thế giới ở dưới chân bạn.” * * * Điều Anthony chia sẻ chính là “Nghệ thuật kiếm sống”, là nghệ thuật tạo ra sự nghiệp vững chắc với mức tài chính cao và cho phép bạn theo đuổi ước mơ và tạo dựng sự khác biệt. Để hiểu hết ý này, hãy cùng tôi quay lại cuộc tranh cãi giữa cha mẹ và cô con gái được trích dẫn ở đầu chương. Cha mẹ và con gái đang tranh luận về sự đối lập giữa tiền bạc, sự đảm bảo về tài chính với đam mê, mục tiêu, ý nghĩa và khả năng tạo dựng sự khác biệt. Mặc dù cha mẹ và con gái ở hai phe đối lập nhau, mọi ý kiến đều chỉ dựa trên phỏng đoán rằng: Tiền bạc và sự đảm bảo về tài chính hoàn toàn tách biệt, không có mối liên hệ nào với việc sống có mục đích và tạo ra một cuộc sống có ý nghĩa. Cha mẹ tán thành một cuộc sống tẻ nhạt và buồn chán, buộc con gái phải theo đuổi ngành nghề mà cô hoàn toàn không hứng thú (thậm chí vô cùng dị ứng) để đánh đổi sự đảm bảo về tài chính. Con gái thích thú một cuộc sống của những đam mê, mục đích và ý nghĩa mà không mảy may cân nhắc xem cô sẽ thanh toán các hóa đơn của mình như thế nào. “Nghệ thuật kiếm sống” là nghệ thuật tìm kiếm những cách thức sáng tạo để mang lại sự dung hòa cả về tiền bạc và ý nghĩa cuộc sống. Tôi gọi đó là nghệ thuật bởi rõ ràng không phải lúc nào sự ổn định về tài chính cũng song hành với việc tạo dựng sự khác biệt theo cách mà bạn mong muốn. Lưu ý là không phải chúng ta đang bàn đến “sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống” kiểu như “viết những vở kịch trong thời gian rảnh rỗi để thỏa đam mê trong khi vẫn là một luật sư” mà cha mẹ tán thành. Chúng ta đang nói về một công việc là mục tiêu, là thu nhập, là ý nghĩa cuộc sống và cũng là sự khác biệt bạn đang tạo ra trên hành tinh này. Nó khó lòng nắm bắt được nhưng rất đáng thực hiện, không giống như “sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống” đã bị thổi phồng quá nhiều. “Nghệ thuật kiếm sống” còn đi kèm với nhiều yêu cầu khác như chính xác điều bạn muốn tạo nên sự khác biệt là gì, các vấn đề về kinh doanh, sáng tạo được giải quyết thế nào,... để bạn vừa kiếm được những đồng tiền “sạch” vừa tạo dựng được sự khác biệt. Bạn sẽ phải đưa ra một cách giải quyết duy nhất phù hợp với bản thân và hoàn cảnh của bạn. Cách giải quyết đó không giống bất kỳ ai vì một lý do rất đơn giản: Trong lịch sử loài người, sự khác biệt mà bạn muốn tạo ra không giống với ai khác. Nếu có, thì nó không được gọi là sự “khác biệt” nữa. Khác biệt không phải “na ná” nhau mà là điều chưa ai từng làm trước đó chứ không phải chỉ là khác biệt trong mắt những người mà bạn muốn gây ảnh hưởng. Làm được điều gì đó chưa ai từng làm liên quan đến sự thiếu chắc chắn, nguy hiểm và rủi ro, là khuất mất tầm nhìn vào bờ theo cách diễn đạt của Anthony. Bạn càng muốn gây ảnh hưởng lớn lao bao nhiêu trong thị trường, sự nghiệp, nền công nghiệp, chuyên môn hay thế giới, bạn càng phải tiến xa bờ bấy nhiêu. Tôi sẽ không huyễn hoặc bạn rằng không có bất kỳ mối hiểm nguy nào trên con đường kiến tạo sự khác biệt đó. Nhưng qua cuốn sách này, tôi sẽ mang đến cho các bạn một bộ công cụ và kỹ năng để tối thiểu hóa những nguy hiểm và tối đa hóa cơ hội tạo dựng sự khác biệt. Hãy bắt đầu ngay bây giờ. Bốn bước để dung hòa tiền bạc và cuộc sống có ý nghĩa: buộc “nghệ thuật kiếm sống” phải vận hành Trong phần này tôi sẽ nhắc đến 3 nhóm người: Bạn sẽ vui vẻ tiếp tục đi trên con đường kiếm sống hiện tại trong phần đời còn lại, nếu công việc bạn đang làm có vẻ có ý nghĩa với bạn nhưng thực tế lại không phải vậy. Bạn sẽ vui vẻ tiếp tục đi trên con đường kiếm sống hiện tại trong phần đời còn lại bởi nó có vẻ có ý nghĩa với bạn nhưng số tiền kiếm được từ việc đó không đủ sống. Bạn sẽ chẳng vui vẻ gì với đồng tiền mà bạn đang kiếm được lẫn ý nghĩa của công việc bạn làm. Khỉ thật! Tôi sẽ nói đến những người thuộc nhóm B và nhóm C trước còn nhóm A sau cùng. Bước 1: Tự mình kiếm sống Nếu bạn thuộc nhóm B hoặc C thì có việc để làm rồi đây. Hãy tự mình kiếm sống đi. Tôi thuộc nhóm B trong suốt một khoảng thời gian dài vô cùng tồi tệ của tuổi 20. Tôi có thể vui vẻ tiếp tục viết những thứ bỏ đi suốt phần đời còn lại của mình (Xin lỗi bạn đọc!), nhưng tôi không sống nổi với đồng lương kiếm được từ công việc đó. Nếu bạn thuộc nhóm B và C, hãy tự mình kiếm tiền trong khả năng của bạn. Đó là điều mà hầu hết những người trong cuốn sách này làm. Họ có được nguồn tài chính ổn định từ khi còn trẻ, thường là từ khi còn là thiếu niên. Hãy kiếm lấy một công việc đều đặn, công việc bàn giấy hay một công việc tạm thời. Đừng cho rằng chúng “dưới tầm” của bạn, miễn là bạn có tiền. Hãy cứ xếp hàng chờ đợi nếu cần phải thế. Tạm thời để lại “nghệ thuật”, “mục tiêu” hay “ý nghĩa” ra phía sau và tìm cho được sự ổn định tài chính, để bản thân bạn có được cảm giác đủ tiền trả tiền thuê nhà, thanh toán hóa đơn đúng hạn, mua một chiếc áo đẹp để ra ngoài ăn tối. Hãy tìm ra cách tốt nhất để đạt được sự ổn định về tài chính dù làm công việc nào. Điều này sẽ được mô tả chi tiết hơn trong Kỹ năng thành công số 7: “Tư duy làm chủ đối lập với tư duy làm thuê”. Đó là cách tôi và tất cả các doanh nhân tự lập trong cuốn sách này đã làm. Bước 2: Tạo ra nhiều cơ hội để thử nghiệm hơn Bước này (và các bước còn lại) đều áp dụng được cho cả 3 nhóm người được liệt kê ở trên. (Giả sử những người trong nhóm A đã ổn định về tài chính rồi vì thế họ đã trải qua bước 1). Bước tiếp theo, một khi bạn đã có động lực kiếm tiền thì bạn sẽ tạo ra được nhiều cơ hội để thử nghiệm. Việc tìm kiếm sự dung hòa giữa tiền bạc và ý nghĩa cuộc sống đòi hỏi rất nhiều trải nghiệm. Cuộc trải nghiệm nào cũng cần đầu tư thời gian, tiền bạc và môi trường để thử - sai. Qua bước 1, đạt được sự ổn định về tài chính, bạn sẽ dễ dàng chấp nhận một số rủi ro tính toán trước hơn. Ví dụ, khi thành lập trường lái, Anthony Sandberg đã có sự hậu thuẫn về tài chính từ việc kinh doanh ống nước và thiết bị năng lượng mặt trời. Elliott Bisnow, người mà chúng ta sẽ gặp ở Kỹ năng thành công số 2 tổ chức được Hội nghị thượng đỉnh Series khi anh ấy có sẵn tiền từ việc kinh doanh thư thông báo bất động sản. Vợ tôi, Jena, cũng đã làm rất nhiều công việc tẻ nhạt khác nhau trước khi cô ấy bắt đầu sự nghiệp dạy yoga và huấn luyện chăm sóc sức khỏe, niềm đam mê có ý nghĩa với cuộc sống của cô ấy. Cô ấy cũng phải chờ đợi gặt hái được thành quả từ việc dạy yoga và huấn luyện chăm sóc sức khỏe trước khi mở được một trung tâm chăm sóc sức khỏe. Frank Kern, người chúng ta sẽ gặp ở Kỹ năng thành công số 3 cũng phải chịu đựng qua hàng loạt những công việc chẳng lấy gì làm hứng thú khi gây dựng công ty quảng cáo qua Internet. Bằng cách đó bạn sẽ tìm được ý nghĩa cuộc sống một cách khác biệt qua các hóa đơn được thanh toán đúng hạn và sự đảm bảo về tài chính. Con đường này sẽ ít áp lực hơn việc bạn gồng mình lên trong lúc còn tay trắng. Tới khi đã có hàng trăm “cột chống” xung quanh bạn thì khả năng thất bại của bạn sẽ thấp hơn. Việc thanh toán hóa đơn đúng hạn mang lại cho bạn một cảm giác mê hoặc và dần dần nó trở thành thói quen và bạn sẽ chẳng bao giờ muốn quay lại vạch xuất phát. Bạn còn gặp phải một vấn đề nữa là thời gian cần có để ổn định tài chính trong cuộc sống là rất lớn nhưng không mục tiêu nào lớn hơn công việc của bạn. Đó là nguồn gốc của bước 2 . Bạn cần thời gian và môi trường cho những thử nghiệm về khả năng lãnh đạo, đổi mới, tạo dựng sự khác biệt và tìm ý nghĩa cuộc sống. Nếu bạn đang làm việc tự do (như tôi trong thời gian này) thì bạn có thừa thời gian rảnh rỗi mỗi ngày để bắt đầu theo đuổi điều có ý nghĩa với mình. Tuy nhiên, nếu bạn đang làm việc 70 giờ/tuần ở các công sở thì bạn chẳng còn mấy thời gian cho những công việc khác ngoài công việc chính. Trong trường hợp này, bạn nên chủ động đón nhận một vài thử thách trong công việc. Hãy thử thuyết phục sếp quan tâm tới chất lượng công việc thay vì số lượng giờ làm của bạn. Có một số cuốn sách rất hay hướng dẫn cách thực hiện chuyển đổi này. Bạn có thể tìm đọc Chương 12 trong cuốn Tuần làm việc bốn giờ của Tim Ferriss có tên: “Biến mất”. Thời gian thoải mái, làm việc ở nhà, làm việc từ xa, làm việc qua máy tính xách tay và điện thoại không còn là xa vời và đã tồn tại từ nhiều năm trước. Chẳng có lý do gì cản trở bạn tạo nên sự linh hoạt trong ngày làm việc của mình. Lý do duy nhất là nỗi sợ và sự thiếu tin tưởng vào bản thân của chính bạn. Chúng chẳng có gì tốt đẹp cả. Bước 3: Hãy tranh thủ thử nghiệm những lúc có thời gian Với thời gian linh hoạt gia tăng trong ngày và trong tuần hoặc ít nhất là thái độ dễ chịu của sếp về cách đánh giá dựa trên chất lượng công việc thay vì số giờ làm việc, bạn có thể trải nghiệm một số rủi ro trong quá trình tạo nên sự khác biệt trong tổ chức, nơi làm việc hay lĩnh vực hoạt động. Mời bạn đọc Kỹ năng thành công số 7 và áp dụng tư duy làm chủ ở nơi bạn làm việc. Giải quyết các vấn đề mà bạn không được “thuê” để xử lý và đóng góp những cách thức thúc đẩy công việc mức độ cao mà bạn không được “thuê” làm. Việc lãnh đạo sẽ tạo cho bạn cảm giác sống có ý nghĩa, có sức ảnh hưởng và sáng tạo hơn. Hãy dành thêm thời gian để đọc cuốn sách Linchpin: Are You Indispensable? (Tạm dịch: Chốt trục: Liệu có cần thiết?) của Seth Godin. Đây là cuốn sách hay nhất về chủ đề thực hành tài lãnh đạo trong tổ chức mà tôi biết. Seth gọi đó là “chốt trục” cho dù vị trí chính thức và công việc của bạn là gì. Hãy trở thành một “chốt trục” trong tổ chức của bạn. Hầu hết các cá nhân trong cuốn sách này đã tự tạo ra cơ hội làm một việc gì đó đầu tiên theo cách này khi chưa từng nghe đến Seth Godin. Với giờ làm việc linh hoạt trong ngày và trong tuần (từ bước 2), hãy bắt đầu thử nghiệm các nguồn ý nghĩa, đam mê, mục đích ngoài công việc, từ những nỗ lực nghệ thuật đến từ công việc từ thiện hay tình nguyện. Khá nhiều người hài lòng khi có một công việc đảm bảo chi trả các hóa đơn, liên tục tạo dựng được sự khác biệt và tìm được ý nghĩa cuộc sống thông qua việc tôi rèn khả năng lãnh đạo và trong ngày, trong khi vẫn có thời gian để theo đuổi niềm đam mê ngoài công việc. Seth Godin đã gợi ý con đường này cho rất nhiều người. Anh ấy nói với tôi rằng: “Suốt 50 nghìn năm, con người đã làm những điều họ đam mê và làm để kiếm sống. Tôi không nghĩ rằng tới thời nay, điều này sẽ biến mất mãi mãi. Thơ ca không bao giờ vắng bóng. Không ai được trả tiền để sáng tác thơ ca. Nếu muốn thì bạn cứ sáng tác thôi.” Bước 4: Tự đột phá (dành cho những ai muốn thay đổi sự nghiệp để trở thành doanh nhân hoặc ông chủ) Nếu lĩnh vực hoặc tổ chức bạn đang làm việc hiện nay không phản ánh sâu sắc mục đích, ý nghĩa sống của bạn thì bạn cần rời khỏi bước 3 trong phần dung hòa tiền bạc và ý nghĩa cuộc sống. Bạn muốn niềm đam mê và ý nghĩa cuộc sống của mình gắn bó với một hướng đi mới thay vì công việc, tổ chức hay “nghề tay trái” hiện tại. Với thời gian làm việc linh hoạt có được trong bước 2 và 3, hãy thử trải nghiệm để tìm một công việc khác có ý nghĩa và đem thu nhập nghiêm túc cho bạn ngoài nguồn thu nhập chính hiện nay. Có thể là thành lập một doanh nghiệp nhỏ, thử “khởi nghiệp” một công việc ngoài giờ, tự tìm hiểu một công việc khác, tìm cách kiếm tiền từ những đam mê sáng tạo và nghệ thuật của mình. Cho dù bạn chọn công việc gì chăng nữa, nếu bạn muốn từ bỏ công việc hiện tại và kiếm sống bằng công việc thay thế, bạn phải đầu tư thêm thời gian để nghiên cứu các kỹ năng quan trọng như marketing, kinh doanh và mạng lưới. Bạn sẽ phải gói những đam mê, tài năng và mục tiêu của chính bạn, những điều bạn quan tâm nhất và làm tốt nhất vào trong những kỹ năng thành công cơ bản này. Nếu biết cách làm điều đó, bạn sẽ kiếm được bộn tiền và sống trọn trong đam mê và mục đích cuộc sống. Cản trở rất lớn trong hành trình này là trong suy nghĩ của chúng ta, tiền bạc và ý nghĩa cuộc sống hoàn toàn tách biệt nhau và chúng ta không tìm được cách để mang chúng lại gần nhau. Nếu bạn biết kết hợp tư duy với các kỹ năng thành công trong cuốn sách này, bạn có thể tìm ra vô số cách kiếm tiền từ những ước mơ, niềm đam mê, tầm nhìn và các kỹ năng sáng tạo của mình. Tôi không nói rằng điều này dễ dàng hoặc không có rủi ro, nhưng qua các câu chuyện trong suốt cuốn sách này, bạn sẽ biết thêm nhiều ví dụ cụ thể và có cảm hứng để thực hiện chúng. Thất bại là mẹ thành công Một trong những yếu tố rất quan trọng để bạn bắt đầu thực hiện 4 bước trong phần Dung hòa tiền bạc với ý nghĩa cuộc sống là phát triển mối quan hệ mới. Thực tế, điều khác biệt nhất giữa triệu phú tự học với những người bình thường khác là ở mối quan hệ mới. Những người chỉ trích cuốn sách của tôi cho rằng điểm khác biệt là họ dám mạo hiểm hơn người khác. Lý lẽ họ đưa ra là: Những người được phỏng vấn đơn giản là giành chiến thắng trong ván bài rulet và tôi không nhắc đến những người chơi bị thua sạch tiền. Thế nhưng, tôi không tin những nhân vật trong cuốn sách này chỉ đơn giản là đặt cược lớn hơn vào sự may mắn ngẫu nhiên. Hơn thế, họ đã phát triển một phong cách làm việc có định hướng và thống nhất, cho phép họ được thực hiện nhiều vụ cá cược nhỏ mà vẫn đảm bảo ̣ không bị loại khỏi cuộc chơi. Tôi tin rằng điểm khác biệt quan trọng hơn cả sự may mắn, đó là sự kiên trì. Hầu hết những người nảy ra ý tưởng khởi nghiệp đều nhận thấy ý tưởng mang tính rủi ro rất cao, gắn liền với những khó khăn chồng chất và tiềm tàng nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Họ gần như hoảng loạn trước các rủi ro có thể gặp khi rời bỏ công việc chán ngắt nhưng an toàn hiện tại. Hình ảnh tương lai về các doanh nhân vô gia cư sau các vụ đầu tư mạo hiểm thất bại đã khiến những người đam mê khởi nghiệp mắc kẹt trong các công việc bàn giấy suốt phần đời còn lại. Hầu hết những người tự học trong cuốn sách này đều nếm trải nỗi đau khổ để chắc chắn rằng “khuyết điểm của họ không quá lớn” hay một doanh nghiệp thất bại không có nghĩa là sụp đổ hoàn toàn, đó chỉ là một chút chao đảo, một vài bài học được rút ra và một lần nữa có thể bắt đầu lại. Không có gì nghiêm trọng cả. Họ bình tĩnh, thoải mái với thất bại, không bồn chồn hay tỏ ra nghiêm trọng vì với họ, thất bại là một phần của quá trình học hỏi. Hãy nghe câu chuyện của Mike Faith, chủ sở hữu Headsets.com, một công ty có doanh thu hàng triệu đô-la mỗi năm nhờ những bộ tai nghe điện thoại không dây. Mike bị mắc chứng khó đọc nhẹ và học đuối dần trong những năm cấp ba tại Anh. Anh chưa bao giờ thấy mình phù hợp và đam mê với môi trường học thuật sáo rỗng, vì thế anh quyết định bỏ học khi mới 15 tuổi. Trong nhiều năm sau đó, sự nghiệp của anh bắt đầu có vẻ như một trận đấu bóng bàn với những cuộc đầu tư mạo hiểm, hết cuộc này tiếp nối cuộc khác liên tiếp thành công. Ở tuổi 15, khi vẫn còn sống cùng cha mẹ, Mike đã bắt đầu trực tiếp kinh doanh tấm cách nhiệt cửa sổ (thêm điều nữa: sống cùng gia đình là một lợi thế giúp hạn chế khó khăn tài chính mà các bạn trẻ có thể tận dụng.) Mike rất giỏi kinh doanh. Bằng số tiền tự kiếm được, anh đã mua được chiếc ô tô đầu tiên khi mới 17 tuổi và mua nhà khi mới 21 tuổi, rồi chuyển ra khỏi nhà để sống tự lập. Không lâu sau đó, anh đầu tư mua tài sản của các công ty phá sản và bán lại để ăn chênh lệch. Anh tham gia vào thị trường bất động sản đang phất lên của nước Anh vào cuối những năm 1980. Khi thị trường sụp đổ, anh trắng tay. “Giữa tuổi 20, tôi kiếm được hàng triệu đô-la đầu tiên và cũng mất tất cả sau đó không lâu.” Với những ai còn hoài nghi về khởi nghiệp thì đó là phần kết của câu chuyện tưởng tượng: Họ sẽ đón nhận cuộc sống nghèo khổ túng quẫn trong sự ăn năn hối lỗi vì đã quá mạo hiểm. Nhưng đối với Mike, đây mới chỉ là bắt đầu. (Thực sự, rất nhiều người tôi phỏng vấn cho cuốn sách này đã từng ít nhất một lần phá sản.) Đây là lúc xuất hiện tư duy khác biệt xung quanh những rủi ro. Mike nói: “Cảm giác trải nghiệm đó thật tuyệt vời. Thành công trong kinh doanh mới chỉ là bắt đầu; phải chuẩn bị tinh thần đối mặt với thất bại và đứng lên, tự động viên chính mình.” Đây là lúc cần đến sự kiên trì. Đối với Mike, thất bại này không phải là sụp đổ vĩnh viễn. Anh khởi đầu với tâm thế chấp nhận cuộc sống đầy những rủi ro. Thay vì nhìn nhận thất bại như một điều cần phải né tránh bằng mọi giá (như hầu hết chúng ta đều nghĩ), anh ấy đã thiết lập sẵn cho cuộc sống và tư duy của mình sự cần thiết của những thất bại và cách đương đầu với chúng. Thay vì nhìn nhận thất bại lớn đầu tiên của mình như một dấu chấm hết, anh xem nó như cơ hội thú vị để thay đổi kế hoạch cuộc sống. Những năm 1990, Mike và vợ anh đã bán tất cả tài sản còn lại. Với 1.000 đô la trong túi, họ tiếp nối tinh thần dám nghĩ dám làm của các thế hệ doanh nhân đi trước và chuyển đến Mỹ. Anh làm việc chính thức cho một công ty phần mềm và kết hợp tự đầu tư kinh doanh. Mike thành lập một công ty chuyên bán các poster luật lao động mà phòng nhân sự của các công ty buộc phải có ở nơi làm việc. Anh có hàng trăm nghìn khách hàng. Sau đó, công ty anh bán thêm các poster mã vùng và các bản đồ mã Zip và trở thành doanh nghiệp 2 triệu đô-la sau vài năm. “Chúng tôi sử dụng tai nghe điện thoại trong công ty poster của mình. Nhưng có rất ít dịch vụ kinh doanh sản phẩm này và tôi (cũng như nhiều người khác) không dễ dàng mua được loại mình thích. Với tôi chừng ấy là đủ dữ liệu để chúng tôi nghĩ đến việc đầu tư vào lĩnh vực này. Đây là lĩnh vực chưa được khai thác trong thị trường này. Câu hỏi đầu tiên được đặt ra liên quan đến quy mô thị trường. Tôi nghĩ: “Ai cũng sử dụng điện thoại, đây quả là một thị trường lớn”. Tôi quyết định đầu tư kinh doanh tai nghe điện thoại và chỉ sáu tuần sau, dự án kinh doanh đã bắt đầu khởi động.” Hiện nay, công ty đạt doanh thu 30 triệu đô-la một năm nhờ kinh doanh tai nghe. Nghe Mike nói, hẳn bạn cũng không thể tin nổi cách tiếp cận rủi ro hoàn toàn khác biệt của Mike. Chắc chắn, anh cũng như các doanh nhân tôi phỏng vấn trong cuốn sách này không giới hạn toàn bộ cuộc sống tương lai của mình vào một ước mơ duy nhất hay chán nản sau khi bị phá sản. Họ không bao giờ từ bỏ việc nắm bắt một mong muốn bất kỳ nào đó và chọn lựa những công việc an toàn nhưng tẻ nhạt, họ tiếp tục thử - sai chúng, nỗ lực và kiên trì trước mọi thất bại. Họ tìm mọi cách xoay xở cho đến khi tìm ra sự hấp dẫn mới. “Tôi không thể cưỡng lại được. Đó là cơn nghiện. Đó là ước muốn không thể kiềm chế được,” Mike nói và nở một nụ cười tinh quái khi tôi phỏng vấn tại văn phòng của anh ở San Francisco. Mike có ý thức nuôi dưỡng lòng kiên trì. Sau thất bại, họ sẵn sàng đứng lên, phủi bụi, chấp nhận tình thế và thử một lần nữa. Đó là yếu tố tiên quyết trong quá trình học hỏi. Nếu không có thất bại, sẽ không có thành công. Những con người này nghiện học hỏi thực tế. Việc học hỏi đó tất yếu liên quan đến thất bại, rất nhiều là khác. “Những người từng thành công vẫn có thể tiếp tục mắc sai lầm. Đơn giản là họ được trải nghiệm nhiều hơn mà thôi,” Mike đã nói với tôi. “Đó là sự khác biệt”. Mike cho rằng, thế hệ trẻ ngày nay, những người muốn kết hợp niềm đam mê với tiền bạc nên “bắt đầu với niềm đam mê và động lực. Bạn phải có được niềm khao khát, đam mê rồi hãy bắt tay vào thực hiện một số việc. Hãy thử một vài công việc kinh doanh nhỏ lẻ. Giắt túi một vài thất bại. Xác định những điều nên làm và không nên làm và đừng quan tâm đến thất bại, hãy quan tâm đến việc bạn học được gì.” Từ trước đến nay, làn sóng dấy lên trong các cuộc thảo luận là liệu con số không chính thức 95% các doanh nghiệp nhỏ thất bại trong 5 năm đầu tiên mới bước chân vào kinh doanh có gợi cho bạn suy nghĩ gì khi bắt đầu theo đuổi ước mơ của mình không? Số liệu này mang lại hình ảnh 95% các chủ sở hữu doanh nghiệp đều trở thành kẻ ăn xin đường phố sau khi bán nhà để chi trả cho các khoản nợ kinh doanh của mình. “Số liệu đó chỉ là mớ chuyện tào lao,” John Kaufman, tác giả cuốn sách The Personal MBA: Master the Art of Business (Tạm dịch: MBA: Chuyên gia về nghệ thuật kinh doanh) nói với tôi như vậy. Anh ấy phân tích rằng số liệu này dựa trên số lượng Schedule C (lợi nhuận hoặc thất bại từ các hoạt động kinh doanh) đã lưu trữ hoặc các mẫu đơn khác liên quan đến việc sở hữu kinh doanh, sau đó việc lưu trữ ngừng ở một thời điểm nào đó. Ngoài ra, “số liệu đó được tính toán dựa trên số lượng các doanh nghiệp thoái vốn trong vòng 5 năm mà không phá sản hoặc các chủ doanh nghiệp ngừng cung cấp dịch vụ, sản phẩm mãi mãi. Vẫn có trường hợp các công ty không đủ tiền để tiếp tục với lĩnh vực hiện tại và chuyển sang hướng kinh doanh mới. Cũng có khi doanh nghiệp được mua lại. Đó thực sự là dấu hiệu đáng mừng. ‘Công ty tôi phải thực hiện hình thức thoái vốn vì tôi được các công ty khác trả giá cao và thu về lợi nhuận lớn.’ Tất cả các doanh nghiệp thoái vốn đều được tính vào số mang án tử: ‘Thật kỳ lạ, quá nhiều doanh nghiệp và doanh nhân thất bại và phải ra đường ở’, thật đúng là...!” Cách tốt nhất để tránh được những câu chuyện hù dọa kiểu này khi tiếp cận giấc mơ của mình, thậm chí khi doanh nghiệp không tạo ra lợi nhuận chăng nữa, đó là thành lập một công ty dịch vụ. Thông thường mức giá khởi nghiệp và tổng chi phí cho nó thấp, bạn không cần phải vay mượn nhiều để bắt đầu và có thể thu về lợi nhuận ngay lập tức. Thậm chí nếu công ty làm ăn không thuận lợi thì hậu quả thất bại sẽ được giảm thiểu và nếu có rơi vào 95% người thất bại bị lưu trữ vào Schedule C trong 5 năm thì bạn cũng sẽ không phải ra đường. Nó chỉ không phải là thương vụ sộp. Bạn có thể đóng cửa doanh nghiệp để trở về với công việc thường ngày và thử tìm kiếm một cơ hội khác. “Những điều tốt nhất mà bạn có thể làm khi thành lập một doanh nghiệp,” John nói với tôi, “thứ nhất, là giữ tổng chi phí đầu tư thấp nhất có thể và thứ hai là chắc chắn rằng bạn có thể thu về lợi nhuận nhanh nhất có thể. Nếu có thể dự tính trước doanh thu, bạn sẽ chỉ phát triển và phát triển thêm nữa dựa vào số tiền mặt mà doanh nghiệp bỏ ra, thay vì phải nhận đầu tư, vay nợ và nhiều hình thức khác.” Trong cuốn sách của mình, John nói về khái niệm có tên gọi là “vận tốc nhịp”. Anh trích dẫn câu nói của Eric Schimidt, CEO của Google: “Mục tiêu của chúng tôi là tận dụng lợi nhuận trên mỗi đơn vị thời gian và tiền bạc.” John, người từng bỏ học Đại học Cincinnati nhưng đã tự học hỏi từ công việc kinh doanh phát đạt viết rằng: “Khi đưa ra một lời đề nghị mới, mục tiêu tiên quyết của bạn là nên tác động thông qua mỗi chu kỳ lặp đi lặp lại nhanh nhất có thể. Sự lặp đi lặp lại là một dạng cấu trúc giúp bạn đưa ra lời đề nghị tốt hơn, càng học hỏi nhanh hơn, bạn càng tiến bộ nhiều hơn. Điều đó có nghĩa là, hãy thử một điều mới mẻ nhưng không vượt quá tầm với của bản thân và tiềm ẩn ít rủi ro nhất, để quan sát cách thức hoạt động của nó và tiếp tục duy trì nếu nó hoạt động tốt và đừng ngại quay vòng trong phạm vi hẹp nếu nó không hoạt động. Làm được điều đó, bạn sẽ luyện tập trước những thất bại nhỏ để nhận được phản hồi thực tế, điều chỉnh hoạt động của nó nhanh nhất có thể, tránh đầu tư quá nhiều nguồn lực vào con đường cụt. Tôi ngạc nhiên khi thấy nhiều người không theo đuổi đến cùng các ước mơ của mình vì lo sợ rơi vào 95% những kẻ thất bại hoặc điều gì tương tự thế. Hãy xem xét sự tương đồng giữa kinh doanh và hẹn hò. Dù không có số liệu khoa học cụ thể nào để lý giải cho điều này, nhưng theo tôi 95% các cuộc hẹn hò đều thất bại. Bây giờ, hãy tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu tất cả chúng ta biết rằng tỷ lệ thành công thấp của các cuộc hẹn hò đều xuất phát từ sự ám ảnh của cuộc hẹn đầu tiên trong quá khứ: “Ôi Chúa ơi, tôi không bao giờ hẹn hò lần nào nữa! Tôi có thể lại bị từ chối mất!” Nếu vậy thì thế hệ này có lẽ sẽ là thế hệ cuối cùng. May mắn thay, khi nói đến việc hẹn hò, con người nhận thấy sự khác biệt lớn giữa khả năng cao rằng bất cứ cuộc hẹn hò nào cũng thất bại và khả năng thấp rằng tất cả các cuộc hẹn hò từ giờ trở đi sẽ thất bại. Làm kinh doanh giống hệt hẹn hò. Nếu có thể hạn chế những mất mát tình cảm và tài chính trong mỗi lần lặp lại và không “nhảy lầu” nếu công ty phá sản hoặc buổi hẹn hò thất bại thì bạn có thể tiếp tục cố gắng, cố gắng hơn nữa. Cuối cùng, hầu hết mọi người đều thấy sự hài hòa đầy sáng tạo giữa niềm đam mê và tiền bạc sẽ mang lại lợi ích cho họ, giống như việc ai rồi cũng có được cuộc hẹn hò tuyệt vời nhất và dẫn lối cho những dự định xa hơn. Ngoài sự nỗ lực, giữa tinh thần doanh nhân sáng tạo và các cuộc hẹn hò còn có sự giao thoa khác: Nếu không cho phép bản thân gục ngã trước thất bại thì qua những thất bại đó, bạn sẽ học hỏi được nhiều điều và cải thiện được những khó khăn mỗi khi vấp phải. Câu chuyện của Dustin Moskovitz Vào đầu năm 2004, Dustin Moskovitz đang làm việc 24 giờ/tuần ở vị trí chuyên viên hệ thống máy tính, dành 40 giờ/tuần để lên lớp và làm bài tập về nhà như một sinh viên năm hai Đại học Harvard. Và trong thời gian này, anh cùng các bạn trong ký túc xá cũng thực hiện một dự án nhỏ có tên là TheFacebook.com. Thật khó tin nhưng lúc đó, Facebook chưa được xem là một hiện tượng nổi bật trong lịch sử thông tin liên lạc và cuộc sống xã hội của loài người như hiện nay. Ban đầu, Facebook mới là thành quả của một vài chàng trai cùng ký túc xá và chỉ có khoảng 60 đến 70 nghìn người sử dụng, ít hơn nhiều so với số người sử dụng của các công ty đàn anh đi trước. “Rủi ro lớn nằm ở chính những gã khổng lồ này. Chúng tôi nghĩ, phải nỗ lực hơn nữa nếu không muốn bị họ đánh bại. Số lượng người sử dụng Friendster, MySpace, thậm chí LiveJournal vào thời điểm đó nhiều hơn chúng tôi hàng triệu người,” Dustin chia sẻ. “Một người có tên là Adam Goldberg đã thành lập Cộng đồng CU ở Columbia trước khi chúng tôi thành lập Facebook khoảng một kỳ học. Hiện tại anh ấy là bạn tôi. Adam thực sự rất giỏi thiết kế mạng xã hội. Ngay sau khi thấy chúng tôi thực hiện chiến lược liên–trường thì anh ấy đã cùng tham gia. Vào thời điểm đó, dự án không có vẻ gì là bỏ đi, nó giống một cơ hội kinh doanh hấp dẫn nhưng thực tế có rất nhiều đối thủ lớn và họ hoàn toàn có thể đánh bại chúng tôi bất cứ lúc nào, đặc biệt là Google. Họ dễ dàng giành chiến thắng vào năm 2004. Đương nhiên, bây giờ đã là câu chuyện khác”. Dustin cùng các bạn đồng môn, các bạn cùng phòng và hai nhà đồng sáng lập Mark Zuckerberg và Chris Hughes đã đưa ra một quyết định táo bạo là chuyển đến Palo Alto mùa hè năm 2004 với dự định trở lại Harvard vào mùa thu. “Nhưng vừa qua tháng 6, Facebook có thêm khoảng 150 nghìn người sử dụng và chúng tôi nghĩ: ‘Việc vừa học vừa làm thật khó cho dù không có 60 đến 80 giờ học trên lớp, đi kèm với bài tập về nhà và bài tập lớn mỗi tuần. Chúng tôi bắt đầu tự hỏi ‘Việc quay trở lại trường trong học kỳ tới, vừa điều hành công ty vừa học liệu có cần thiết?’ Chúng tôi nhanh chóng nhất trí với nhau rằng: ‘Không, chúng tôi có thể sẽ thất bại nếu ôm đồm cả hai việc’. Vì thế Mark và tôi quyết định không quay trở lại Harvard.” Tới đây tôi mới hỏi Dustin: “Rất nhiều người trên thế giới nghĩ rằng được vào học tại Harvard thực sự là một cơ hội tuyệt vời và một khi tốt nghiệp Harvard, chúng ta sẽ có cuộc sống ổn định. Còn anh, anh đã có trong tay cơ hội tuyệt vời đó và công ty mới thành lập được 6 tháng đang chưa chắc chắn về khả năng giành chiến thắng, tại sao anh vẫn quyết định chấp nhận rủi ro như thế?” “Đầu tiên,” anh ấy nói, “Harvard cho phép bạn bảo lưu kết quả học trong một thời gian. Vì thế, tôi có thể quay lại khi nào muốn. Bạn bè của tôi có thể đã rời khỏi trường nhưng tôi có thể kết giao lại. Dự án này là một rủi ro nhưng rủi ro không lớn khi so sánh với cơ hội lúc đó. “Tôi gọi cho bố mẹ và nói rằng: ‘Con sẽ nghỉ học một kỳ và xem tình hình thế nào.’ Bố tôi rất phấn khởi: ‘Tuyệt vời, bố cũng không đủ tiền cho con học kỳ tiếp theo đâu!’ (cười) “Đến mùa hè, Facebook trở thành một vụ làm ăn lớn. Số lượng người sử dụng tăng lên chóng mặt. Chúng tôi cho đăng quảng cáo trên trang này và kiếm được khá nhiều tiền. Chúng tôi nghĩ đây là cơ hội kinh doanh thực sự. Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận ra rằng chúng tôi phải cố gắng hết sức bằng bất cứ giá nào bởi vì còn có rất nhiều “lính mới” khác sẵn sàng chiến đấu đến cùng để đánh bại chúng tôi. “Chúng tôi biết mình đang phát triển các kỹ năng và rất nhiều kỹ năng có thể kiếm ra tiền. Khi mọi người đều đã biết đến Facebook, chúng tôi hoàn toàn có thể quay trở lại Harvard. Điều này chẳng có gì là rủi ro cả.” Mọi người thường có cảm giác rằng nếu bạn rời khỏi một vị trí ổn định nào đó, như trường học hay một công việc thoải mái để theo đuổi niềm đam mê ý nghĩa hơn nhưng cũng thiếu chắc chắn hơn, bạn sẽ hoàn toàn tuyệt vọng và mệt mỏi nếu niềm đam mê ấy chết yểu. Điều đó hoàn toàn chỉ là cường điệu. Khó khăn từ những bước đầu của một dự án kinh doanh và mạng xã hội để hình thành nên một công ty có giá trị hàng triệu đô-la đã được phóng đại quá mức. Không thể nghĩ rằng Dustin, Mark và toàn bộ đội hình Facebook từ khi sơ khai là những thiên tài vô cùng chăm chỉ. Nhưng họ cũng thừa nhận rất nhiều cơ may góp phần tạo nên thành công của họ. Liệu có phải sự lựa chọn duy nhất nào cũng mang cơ hội thu về lợi nhuận thấp còn rủi ro phá sản cao? Không hẳn thế. Như chúng ta vừa thảo luận trong chương này, có rất nhiều điều cần phải bàn luận về vấn đề này. Trong một bài đăng trên blog có tựa đề “Một trong một triệu,” Seth Goldin đã viết: “Niềm đam mê điên cuồng một mục tiêu cụ thể (rủi ro) nào đó là một ý tưởng tuyệt vời nếu cách thức bạn lựa chọn hay thực hiện mang đến cho bạn những kết quả khác, lần sau tốt hơn lần trước. ‘Lái’ thị trường theo ý mình, giao hàng đúng thời gian, đảm nhận những công việc quan trọng và khó nhằn thực sự là tất cả những gì bạn cần để phát triển lâu dài. Lúc đó mục tiêu cần đạt tới không còn quá khó khăn nữa.” Tuy nhiên, bạn sẽ giành chiến thắng ở cả hai phương diện nếu vừa học các kỹ năng kinh doanh có giá trị vừa theo đuổi ước mơ của mình. Bạn là người chiến thắng nếu thành công nhờ những nỗ lực của bạn. Bạn cũng sẽ thắng khi thất bại bởi hiếm có bài học rèn luyện kỹ năng kinh doanh nào có tính thực tiễn hơn sự thất bại thảm hại. Bạn chỉ có được cả hai chiến thắng này nếu toàn tâm toàn ý theo đuổi giấc mơ. Seth chia sẻ: “Liệu việc dành cả thời thiếu niên và tuổi 20 trong phòng tập violin có giúp bạn trở thành một giáo viên violin, một chỉ huy dàn nhạc hoặc một công việc gì đó liên quan đến âm nhạc? Nếu niềm hạnh phúc của bạn đơn giản chỉ là chơi các bản nhạc hay tổ chức một buổi biểu diễn cá nhân thì bạn đang mất đi quá nhiều công sức.” Hãy học hỏi các kỹ năng kinh doanh liên quan tới ngành nghề của bạn và chúng sẽ “sinh lời” và hữu dụng với bạn trong bất kỳ tình huống nào. Đương nhiên, với Dustin thì việc theo đuổi ước mơ mang lại cho anh ấy bộn tiền. Nhiều năm qua, Mark Zuckerberg là tỷ phú tự lập trẻ nhất thế giới, nhưng Dustin còn trẻ hơn Zuckerberg những 8 ngày tuổi. Khi giá trị của Facebook tăng cao vào năm 2010, tài sản của Dustin đã lên đến 2 tỷ đô-la và anh ấy đã sớm chiếm ngôi vị tỷ phú trẻ nhất thế giới của Zuckerberg. Dustin lại bắt đầu cuộc đầu tư mạo hiểm tiếp theo mang tên Asana (http://asana.com), làm nên một cuộc cách mạng trong việc hợp tác nơi công sở như cuộc cách mạng xã hội hóa mà Facebook đã tạo ra. Tôi không có thói quen ăn vận như các triệu phú nhưng trong trường hợp này thì ngược lại. Tôi đang mặc bộ vest hiệu Hugo Boss màu đen (không cà vạt) đến buổi phỏng vấn Dustin ở quán cà phê ngay cạnh văn phòng của Asana ở San Francisco. Còn anh ấy đang mặc quần jean và áo phông. “Tôi không có thói quen mua những thứ đắt tiền và không có ý thay đổi phong cách sống nhiều kể từ khi Facebook thành lập. Tôi cũng không hứng thú khi để tài sản của mình nằm ứ một chỗ. Tôi tin vào khả năng các thị trường tư bản gây ảnh hưởng tích cực đến thế giới, nhưng tôi cũng sẽ cho đi một chút!” Dustin và Zuckerberg đã ký vào Cam kết Hiến tặng của Bill Gates và Warren Buffet, với lời hứa sẽ dành tặng ít nhất một nửa số tài sản của mình. Trong lá thư công bố cam kết hiến tặng của mình, Dustin viết: “Nhờ thành công của Facebook, tôi đã kiếm được tài sản ngoài mong đợi. Tôi thấy rằng phần thưởng này không chỉ là tài sản cá nhân của riêng tôi mà tôi hy vọng nó sẽ là một công cụ mang đến nhiều lợi ích hơn cho thế giới… Trong những năm tới, vợ tôi và tôi sẽ bắt tay làm từ thiện để có những đóng góp tích cực nhất. Chúng tôi sẽ tài trợ và đầu tư bằng cả tâm hồn và hướng đến thúc đẩy một cộng đồng toàn cầu hùng mạnh hơn về kinh tế, vững bền và an toàn hơn.” Kỹ năng thành công số 2 CÁCH TÌM KIẾM CÁC CỐ VẤN VÀ NGƯỜI HƯỚNG DẪN TUYỆT VỜI (Xây dựng mạng lưới kết nối với những người có ảnh hưởng và quyền lực) Mọi người cho rằng chàng trai 20 tuổi Elliott Bisnow thật điên khùng và ngớ ngẩn khi anh ấy gọi điện cho những người hoàn toàn xa lạ, mời họ tham gia một chuyến trượt tuyết miễn phí hoàn toàn tới Utah và Elliott là người chi trả toàn bộ chi phí vé máy bay, khách sạn, vé vào khu trượt tuyết và ăn uống bằng thẻ tín dụng cá nhân của mình. Nhưng Elliott Bisnow hoàn toàn không điên khùng hay ngớ ngẩn. Năm 2005, khi vừa vào Đại học Wisconsin–Madison, Elliott bắt đầu nảy ra ý tưởng tạo nên sự khác biệt cho những người mà anh quan tâm. Cha anh đã đầu tư khá nhiều tiền để thành lập công ty thư quảng cáo đầu tư bất động sản Bisnow.com nhưng không mang lại lợi nhuận. Elliott đã tìm thấy cơ hội hỗ trợ công việc kinh doanh của gia đình. Anh nảy ra ý tưởng bán quảng cáo trong thư mà gọi theo thuật ngữ chuyên môn là mở rộng bán các vị trí quảng cáo. “Ở ký túc xá, hàng ngày tôi thức dậy lúc 5 giờ sáng, thi thoảng vào khoảng 4 giờ 30 phút. Tôi sẽ gửi e-mail kinh doanh từ 5 tới 6 giờ. Tôi nhận được học bổng tennis ở trường, vì thế tôi sẽ tập tennis từ 6 giờ đến 7 giờ. Thời gian đó là vào cuối mùa thu ở Madison, vì thế tôi phải khó nhọc băng qua mưa tuyết để trở về phòng ký túc. Từ 7 giờ 30 đến khoảng 10 giờ, tôi gọi điện để xin tài trợ và đạt được một số thỏa thuận. Năm học đầu tiên, tôi không đến lớp cả học kỳ. Tôi ở trong phòng ký túc xá và chốt được các thương vụ từ 10 đến 50 nghìn đô-la. Tôi có nhiều máy tính, nhiều điện thoại cá nhân. Tôi chỉ tìm kiếm, thực hiện các cuộc gọi ngẫu nhiên (cold-calling) và giao dịch.” Một hôm, Elliott nhìn thấy khói bốc lên từ căn phòng của một nhân viên tư vấn nhà ở. Tò mò, anh mở cửa và phát hiện ra Anthony Adams đang là những chiếc áo phông. Hóa ra anh ta đang kiếm được khoảng 1.000 đô-la một tháng nhờ bán áo phông có in hình vui nhộn. Số tiền đó dùng để trả học phí còn căn phòng đang ở được miễn phí vì anh ta là nhân viên quản lý khu ký túc. Elliott đã hỏi anh ta rằng: “Anh tự kinh doanh bằng cách nào thế?” Anthony trả lời: “Ồ, tôi có một công ty trách nhiệm hữu hạn, một tài khoản ngân hàng và tôi chỉ bán áo phông thôi.” Elliott đã hơi bất ngờ. “Tôi không hiểu – anh không phải làm thuê cho ai sao? Ai thuê anh thế?” Và Anthony đã giải thích cho anh ấy biết doanh nhân là gì. “Khoan đã, ý anh là tôi có thể tự kiếm tiền mà không cần phải làm việc cho bất kỳ ai hả?” Elliott hỏi Anthony và anh ta gật đầu. “Thế anh làm gì sau khi ra trường?” Elliott hỏi. Câu hỏi đó được trả lời bằng một cái nhìn chòng chọc có ý rằng “Cậu bị ngớ ngẩn à?”. Đầu óc còn non trẻ của Elliott đã được thổi vào một suy nghĩ mới, rằng bạn không cần làm việc cho bất kỳ ai mà vẫn có thể kiếm được tiền. Anh tin rằng mình cũng có thể thành lập một công ty bán áo phông. Thời gian còn lại của cả năm học đầu tiên được dùng để thử nghiệm nhưng thất bại thảm hại. Đến năm thứ hai, anh thành lập một công ty tư vấn cố gắng thu hút tất cả các cửa hàng ở Madison thuê anh tuyển chọn các sinh viên đại học có khả năng đưa ra các giải pháp marketing cho họ. Công ty này cũng thất bại. (Một tình huống đáng xấu hổ đã xảy ra: Anh định gửi e-mail giới thiệu dịch vụ cho một khách hàng tiềm năng nhưng thay vì gửi danh sách tất cả các cuộc gọi trong cùng một buổi giới thiệu thì anh lại gửi thông tin chi tiết từng cuộc gọi tới một khách hàng cụ thể.) Nhưng, Elliott nói: “Anh sẽ học hỏi qua những trải nghiệm và thất bại. Với công ty thứ hai này, tôi hiểu rõ hơn cách kết hợp các yếu tố với nhau trong kinh doanh. Các vụ chào hàng của tôi ngày càng tốt hơn. Đến lần thứ ba, khi kinh doanh thư quảng cáo bất động sản, tôi đã có hai năm kinh nghiệm giới thiệu dịch vụ và bán hàng. Hai năm qua tôi đã học hỏi được rất nhiều điều nên tôi đã bán thành công các sản phẩm dịch vụ thư quảng cáo.” Với tài kinh doanh và nỗ lực không mệt mỏi (thậm chí phải bỏ học), anh ấy đã có một doanh nghiệp thư quảng cáo bất động sản với doanh thu 7 con số. Cuối cùng, anh quyết định rời hẳn trường để tập trung phát triển kinh doanh. Tới khi không thể tự xoay xở công việc một mình mà không có ai hỗ trợ, anh có ý định thuê thêm một nhân sự cho công ty nhưng anh không biết phải làm thế nào để thuê được người, tìm ở đâu và đánh giá như thế nào. Anh nghĩ chắc hẳn cũng có một số doanh nhân trẻ khác tại Mỹ phải đối mặt với các câu hỏi này, vì thế anh bắt đầu thực hiện một cuộc điều tra nhỏ và quả đúng như anh đoán. Anh tình cờ có được danh sách top 25 doanh nhân dưới 25 tuổi theo khảo sát của tạp chí BusinessWeek và top 30 doanh nhân dưới 30 tuổi từ Inc. “Những chàng thanh niên này trở thành thần tượng mới của tôi,” Elliott đã chia sẻ vậy. Anh bắt tay thực hiện các cuộc gọi liên hệ với các CEO trẻ trong danh sách mà mình có được. Nếu như chìa khóa cho các thương vụ làm ăn lớn là phải có một sản phẩm tuyệt vời để tung ra thị trường thì Elliott lại mong muốn có được cuộc chào hàng lớn nhất lịch sử: “Thực hiện chuyến đi trượt tuyết miễn phí hoàn toàn tới Utah với một số CEO trẻ hàng đầu khác, vé máy bay sẽ là vé hạng nhất và chúng tôi sẽ gặp nhau ở đó để chia sẻ thông tin và kiến thức.” Như Elliott nói: “Thuyết phục ai đó tham gia vào một chuyến trượt tuyết miễn phí chẳng có gì khó khăn cả.” Trước đây, hầu hết các CEO trẻ đều chưa từng gặp nhau và đây cũng là cơ hội để họ được gặp gỡ các nhà lãnh đạo trẻ khác. 20 CEO tham gia vào chuyến đi đầu tiên này vào tháng Tư năm 2008. Trong đó có Josh Abramson và Ricky Van Veen, đồng sáng lập CollegeHumor; Vimeo và BustedTees đều là sinh viên bỏ học giữa chừng từ Blake Mycoskie, người thành lập TOMS Shoes; và Ben Lerer, đồng sáng lập Thrillist. Độ tuổi trung bình của những người tham gia chuyến đi này là 26. Năm tuần trước chuyến đi, Elliott phải đối mặt với khoản tiền 40.000 đô-la trong thẻ tín dụng cá nhân để chi trả cho chuyến đi. Lấy hết tự tin, anh sử dụng kỹ năng bán hàng tự học hỏi của bản thân để gọi điện cho các nhà tài trợ để xin tài trợ cho chuyến đi và cuối cùng, anh cũng có được khoản tiền đó. Chuyến đi đã rất thành công. “Họ chưa từng gặp nhiều doanh nhân trẻ khác đến thế. Trong vòng ba ngày, họ tạm lánh cuộc sống thường nhật, gặp gỡ nhiều người thú vị, bàn luận và học hỏi từ nhau những bài học về kinh doanh. Chúng tôi đã có những tình bạn tuyệt vời,” Elliott chia sẻ. Chuyến đi quá suôn sẻ đến mức Elliott quyết định thực hiện một chuyến đi khác nữa vào sáu tháng sau với 60 nhà lãnh đạo trẻ. Dĩ nhiên, anh đã tìm được tài trợ cho chuyến đi. Dustin Moskovitz cũng tham dự vào chuyến đi thứ hai này cùng với Tony Hsieh từ Zappos. Chuyến đi đã thu hút được sự chú ý của các doanh nhân trẻ và ngày càng phát triển. Elliott rủ thêm một vài người bạn giúp đỡ mình để tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Series (http://summitseries.com), một hội nghị thường niên dành riêng cho các khách mời là doanh nhân, nhà đổi mới, các lãnh đạo tài năng được tạp chí Forbes gọi là “Davos cho thế hệ Y”, gồm Jeremy Schwartz (sinh viên Học viện Âm nhạc Berklee bỏ học), Brett Leve, Jeff Rosenthal và các doanh nhân trong chuyến đi lần này. Tạp chí New York Times cho rằng: “Không có kế hoạch chi tiết nào cho những gì mà Bisnow và các cộng sự của mình đang làm. Có lẽ nó tương đồng với Davos, diễn đàn được tổ chức hàng năm ở Thụy Sỹ dành cho các tỷ phú và nguyên thủ quốc gia, vượt qua cả chương trình The Real World của MTV.” Hội nghị thượng đỉnh Series diễn ra vào năm 2009 rất đặc biệt khi Văn phòng Nhà Trắng hứa với công chúng thực hiện một bàn tròn đàm phán với các doanh nhân trẻ. Nhân viên trong Văn phòng từng nghe Hội nghị Series là hội thảo mạng lưới kinh doanh toàn cầu hấp dẫn nhất cho thế hệ Facebook. Vì thế họ liên lạc với Elliott và đề nghị anh và đội ngũ của Series cùng họ tổ chức sự kiện này cho Nhà Trắng. Elliott và đội ngũ những chàng thanh niên ở độ tuổi 20 đã đến với hội trường chính của một nơi quyền lực nhất toàn cầu. Elliott cùng Bill Clinton, Mark Cuban và các cộng sự không tốt nghiệp đại học, Ted Turner, Sean Parker, Russell Simmons và người đồng sáng lập Twitter, Evan Williams cùng tham gia vào Hội nghị thượng đỉnh Series. Ngoài người đồng sáng lập Facebook (cũng là một người bỏ học đại học) Mark Zuckerberg, Elliott có thể là một trong những thanh niên trẻ có mối quan hệ rộng nhất thế giới hiện nay. Elliott không còn quản lý công việc kinh doanh thư quảng cáo gia đình mà tập trung toàn bộ vào Series. Đó là lĩnh vực kinh doanh tiền tỷ thứ hai của anh. Anh ấy cũng gây được hơn 2 triệu đô-la phục vụ mục đích từ thiện từ các thành viên tham gia sự kiện. Tới nay, Elliott vẫn chưa quay trở lại trường Madison sau “thời gian nghỉ phép”. Tôi gặp Elliott và những người đồng sáng lập cùng các chuyên viên cao cấp khác, tất cả đều ở tuổi 20+, ở một khu nghỉ dưỡng lớn tại Miami. Tám người trong số họ vài tháng một lần, chuyển tới những thành phố mới để sống, nơi họ có thể gặp gỡ qua các cuộc hội thảo và làm việc từ xa qua máy tính xách tay và điện thoại. Tôi hỏi Elliott là bằng cách nào anh ấy có được thành công từ khi còn quá trẻ như thế. Anh ấy đã chia sẻ rất thẳng thắn rằng: “Tôi cho rằng 100% thành công của tôi từ trước đến nay là nhờ những người tôi đã gặp và học hỏi. Điều đó chẳng còn gì phải nghi ngờ nữa. Jim Rohn, (một tác giả tiến bộ, một sinh viên bỏ học) đã nói: ‘Bạn là người trung bình cộng của 5 người mà bạn dành thời gian nhiều nhất’. Rộng hơn nữa, bạn là phản ánh của 20 đến 30 người cho bạn lời khuyên tốt nhất. Mọi thứ đều liên quan đến con người và bắt đầu từ bạn. Vậy nên, hãy để xung quanh bạn là những người vĩ đại mà bạn có thể học hỏi. “Hầu hết mọi người đều coi trường đại học là môi trường để học hỏi, sau khi tốt nghiệp và bước ra đời thực là xong việc học hành. Còn tôi lại coi cuộc sống là trường học. Đối với tôi, lúc nào cũng là học hỏi, học hỏi không ngừng. Mọi người cho rằng: ‘Rời trường học là thoát nợ học hành và chẳng còn phải dính líu gì đến sách vở nữa.’ Còn tôi đọc sách và trao đổi với mọi người mỗi ngày. Tôi luôn ra ngoài và tìm gặp những người mới mà tôi có thể học hỏi.” Đó là sự thật. Theo một trong số các lãnh đạo trẻ thành công nhất thế giới thì: Nếu bạn muốn thành công và tác động tích cực đến cuộc sống của chính mình, hãy tìm kiếm những cá nhân xuất chúng để học hỏi và bao quanh mình bằng những người như thế. Vậy làm sao để bạn tìm thấy những cố vấn quyền lực bên ngoài lớp học? “Mối quan hệ không phải là thứ có thể trao qua đổi lại. Nó liên quan đến khả năng cho đi nhiều nhất và nếu thấy bạn thành công, tôi thực sự hạnh phúc. Nếu tôi là bạn của bạn, bạn sẽ giúp đỡ tôi. Nếu bạn khiến những người quen biết mình hỏi lẫn nhau rằng: ‘Tôi giúp gì được cho anh không?’ thì bạn sẽ tiến xa hơn trên con đường thành công. Nếu là một thiên tài và muốn giúp đỡ người khác, hãy cho đi, cho đi, cho đi, rồi mọi thứ sẽ đến với bạn.” Một số độc giả có thể cho rằng: “Ồ, Bisnow nói thì đơn giản rồi. Anh ấy đang điều hành một doanh nghiệp có doanh thu 7 con số và có thẻ tín dụng 40 nghìn đô-la chi trả cho các CEO nổi tiếng đi trượt tuyết để nhận được lời khuyên từ họ cơ mà. Anh ấy có thể đầu tư và chấp nhận rủi ro. Tôi không có một công ty có doanh số 7 con số và chắc chắn không thể mạo hiểm đầu tư 40.000 đô-la để có thể thực hiện một chuyến đi như thế. Làm sao để áp dụng lời khuyên “cho đi” này vào tình huống của tôi?” Một câu hỏi thật thú vị! Làm sao tôi có thể tìm thấy hai trong số những cố vấn thú vị nhất thế giới? Khi vừa khởi hành trên con đường chinh phục thành công và tìm kiếm cố vấn có nhiều kinh nghiệm hơn mình, bạn có thể cho đi những gì cho người có nhiều quyền lực hơn, giao thiệp rộng hơn và thành công hơn bạn? Hãy để tôi kể cho bạn nghe câu chuyện về hai trong số những người hướng dẫn quyền lực nhất của tôi trong cuộc sống, Bryan và Eben Pagan (một người từng bỏ học đại học), một cố vấn đáng tôn trọng, người sở hữu nhiều kỹ năng marketing sáng tạo nhất và cách tôi kết nối với họ. Nếu phải dự đoán tỷ lệ thành công trong tương lai của Eben Pagan từ khi còn học trung học và đại học (điều mà phần lớn các bậc cha mẹ, giáo viên vẫn thường làm) thì tỷ lệ này sẽ rất thấp. Với Eben, trong thập niên 1970 và 1980 ở Oregon, khi cái đói nghèo bủa vây con người, việc học hành chỉ là “phí thời gian”. Anh thường chỉ đạt điểm trung bình trong các kỳ học. Phần lớn thời niên thiếu anh dành cho việc chơi trong một ban nhạc rock Thiên chúa giáo. Anh bỏ học trường công sau học kỳ đầu tiên để có thời gian đi công diễn cùng ban nhạc của mình. “Tôi theo đuổi dòng âm nhạc đó suốt 5 năm, trong nhiều ban nhạc khác nhau. Tôi đi công diễn với ban nhạc này rồi làm album với ban nhạc khác. Tuy nhiên, không lâu sau, tôi nhận ra rằng thật khó để đi xa hơn. Tất cả chúng tôi đều có ước mơ trở thành nghệ sỹ nhưng khó lòng biến ước mơ đó thành hiện thực. Tôi muốn mình thành công hơn nữa với đam mê của mình. Tại thành phố Oregon quê hương tôi, tôi không biết ai thành công hay giàu có và tôi cũng không biết ai quen người thành công hay giàu có. Theo trực giác của tôi thì dường như những người giàu có thường liên quan đến bất động sản. Vì thế, tôi quyết định học về bất động sản và có được giấy phép kinh doanh bất động sản. Nhưng tôi đã thất bại thảm hại trong lĩnh vực này. Tôi nhớ mình đã bán được vài ba ngôi nhà trong năm đầu tiên, có cả những ngôi nhà nhỏ giá rẻ. Tổng cộng, tôi đã kiếm được khoảng 2.000 đô-la. Tôi vẫn làm việc bán thời gian ở công trường xây dựng.” Sự khởi đầu này chẳng có triển vọng gì. Tuy nhiên, nếu sử dụng thành tích học tập và quá trình khởi nghiệp là nhân tố đánh giá cho thành công tương lai của Eben thì chúng ta đã nhầm. Nhờ tham gia vào thị trường bất động sản, Eben đã khám phá ra được điều mà sau này trở thành thế mạnh trong cuộc sống của anh: kiến thức tự học về kinh doanh và marketing. Anh bắt đầu tìm hiểu về chúng từ sau cuộc hội thảo của Joe Stumpf, một hướng dẫn viên về marketing và bất động sản ở Eugene, Oregon. “Tôi nghĩ ngay rằng bằng cách nào đó, tôi phải làm việc cho người đàn ông này và học hỏi những kinh nghiệm của ông ta. Nhưng tôi không biết phải thực hiện điều đó như thế nào vì ông ấy đang phải điều hành rất nhiều hội thảo lớn trên toàn nước Mỹ và cơ hội gặp mặt ông ta dường như là không tưởng. “Vì thế, tôi bắt đầu gọi điện cho các nhân viên bán hàng qua điện thoại của ông ấy. Họ đang cố gắng bán hàng nên sẽ tiếp chuyện bất kỳ ai. Tôi kể cho họ những trải nghiệm của mình tại buổi hội thảo và thân thiện hơn với họ. Một lần, tôi tìm thấy bộ băng đĩa của Tony Robbins ở Goodwill với giá 10 đô-la Mỹ, tôi cũng biết rằng một trong những người mà tôi đang bắt chuyện sẽ thích nó, vì thế tôi gói bộ băng đó vào và gửi nó cho anh ta. Mọi chuyện diễn ra như thế. “Một hôm, họ gửi cho tôi một vài cuộn băng ghi âm của Joe. Tôi gọi cho họ và nói: ‘Bản ghi âm chương trình này không tốt lắm, tôi nghĩ nó có thể tốt hơn nữa.’ Tôi có hiểu biết nền tảng về âm thanh từ những ngày còn chơi nhạc. Tình cờ, người phụ trách việc thu âm làm việc không tốt nên họ cho anh ta nghỉ việc. Vì thế, tôi đã nói chuyện với Giám đốc công ty này và tới làm việc cho họ. Tôi đảm nhận công việc tổ chức về âm thanh và hình ảnh cho các hội thảo tại công ty được ba năm. Tôi chưa bao giờ làm chuyên viên nghe nhìn nhưng có kiến thức về các thiết bị nên tôi hoàn thành rất tốt công việc của mình. “Hóa ra đây lại là quyết định đặc biệt nhất trong sự nghiệp kinh doanh của tôi. Tôi đã tìm được người thành công và làm việc cho người đó. Từ đó, tôi có thể bước chân vào thế giới marketing và kinh doanh. Tôi nghe nhiều thiên tài kinh doanh và marketing trước đây nói và tìm đọc tất cả những cuốn sách của họ. Cuốn Influence: The Psychology of Persuasion (Những đòn tâm lý trong thuyết phục) của Cialdini đã ảnh hưởng rất lớn đến tôi. “Tôi bắt đầu áp dụng tất cả những gì tôi học được về marketing và kinh doanh để tư vấn cho các công ty bất động sản cách marketing và giao dịch thành công. Các khách hàng của tôi nhờ đó mà đạt được thành công lớn và tôi chỉ cần làm việc một tuần mỗi tháng mà vẫn có thể sống thoải mái với nguồn thu nhập đó của mình.” Ở lĩnh vực tư vấn, Eben bắt đầu thành lập một công ty chuyên bán sản phẩm và dịch vụ (chủ yếu là sách điện tử, các thẻ thành viên, các khóa huấn luyện trực tuyến và các hội thảo cuối tuần trực tiếp) liên quan đến vấn đề giới tính giúp phụ nữ và nam giới hấp dẫn hơn trong mắt nhau. Anh ấy đã phát triển nó thành một công ty trị giá 20 triệu đô-la. Có quá nhiều người hỏi anh ấy về cách đưa doanh nghiệp phát triển nhanh chóng đến vậy. Anh đã mở chi nhánh thứ hai để hướng dẫn các kỹ năng về marketing (http://gurublueprintblog.com) cho các doanh nhân. Trong thế giới marketing qua Internet, Eben là một huyền thoại sống, được biết đến rộng rãi như người thực hành các kỹ năng này thành công nhất trên thế giới. Công ty Hot Topic Media của anh tới nay đã thu về khoảng 30 triệu đô-la mỗi năm với khoảng 70 nhân viên trên toàn cầu. Anh đã tự thành lập công ty và phát triển nó suốt 10 năm qua mà không cần sự hỗ trợ của bất kỳ nhà đầu tư nào. Hiện nay, anh là một tỷ phú tự vươn lên và nếu muốn, sẽ không bao giờ phải làm việc thêm ngày nào trong cuộc đời mình nữa. Nhưng anh vẫn chưa có ý định nghỉ hưu trên một hòn đảo xinh đẹp ở Bahamas, vẫn muốn điều hành, phát triển doanh nghiệp của mình và làm việc 12 giờ một ngày. Anh điều hành công việc kinh doanh thông qua một chiếc MacBook, trong văn phòng có thể nhìn ra toàn cảnh tòa nhà Empire State hay tranh thủ làm việc trên đường đi tham dự và phát biểu tại các hội thảo toàn cầu. Lần đầu tiên tôi nghe tên Eben qua một người bạn từng tham gia chương trình học của ông. Bạn tôi cho nghe một cuốn băng ghi âm về cách viết một lá thư kinh doanh trực tiếp. Một thời gian ngắn sau khi lắng nghe bản ghi âm đó, khoản tiền tôi thu được từ việc viết thư kinh doanh cho khách hàng nhiều hơn so với việc viết lời giới thiệu sách đã làm mấy năm qua, tôi thường kiếm được khoảng 1.000 đô-la cho vài giờ làm việc và khách hàng của tôi quay trở lại nhiều hơn vì những bản quảng cáo mà tôi học được từ Eben đã mang lại rất nhiều lợi nhuận cho họ. Tôi biết Eben là người mà tôi cần học hỏi và kết giao. Khi được biết anh bạn tôi đã đăng ký một khóa học trực tiếp với Eben và tôi có thể tham dự với một tấm vé đi cùng, tôi chớp lấy thời cơ. Đương nhiên, khó lòng gặp được trực tiếp giáo viên khi anh ấy đang đứng trên bục giảng, thuyết giảng trước hàng trăm người mà hầu hết đã phải chi ra hàng ngàn đô-la để được ngồi ở đây nhận lấy lời khuyên và hỗ trợ từ Eben. Cuối tuần đó đã mê hoặc tôi. Câu trả lời của Eben trước một tình huống cụ thể cứ ám ảnh tôi từ dịp cuối tuần đó. Một người trong đám đông hỏi: “Làm sao tôi có thể liên hệ trực tiếp với người cố vấn dày dạn kinh nghiệm, người sẽ dẫn dắt tôi trong cuộc sống và cả kinh doanh?” Eben trả lời: “Lãnh đạo giống như một chiếc bút mực. Hãy tưởng tượng các nhà lãnh đạo như dòng mực ngay đầu ngòi bút và sẵn sàng chảy ra. Dòng mực này chỉ có thể ra khỏi ngòi nếu nó được thúc đẩy bởi dòng mực sau nó. Nếu bạn muốn thành công, hãy tìm kiếm các nhà lãnh đạo đang làm nên những điều kinh ngạc trên thế giới và thúc đẩy họ. Hãy tìm kiếm những người quyền lực và giúp họ đạt được mục đích của mình. Nếu bạn giúp ích cho họ, họ sẽ giúp đỡ bạn.” Khoảng một năm sau đó, tôi và Jena, vợ tôi cùng xuất hiện ở festival Burning Man tại Nevada vì nghe nói Eben sẽ xuất hiện ở đây và có một bài phát biểu. Jena và tôi có một người bạn tên là Annie Lalla, một huấn luyện viên có giao thiệp rộng nhưng đang phải vật lộn để duy trì công việc kinh doanh đang khó khăn của mình và đang học hỏi thêm các kỹ năng kinh doanh và marketing. Tôi buộc Annie tham gia vào buổi diễn thuyết, lôi cô ấy tới đây để học được điều gì đó về marketing từ Eben. Lúc đó, tôi không hề biết rằng tôi đã mang cô vợ tương lai đến cho Eben. (Điều này khá giống với việc “đẩy dòng mực”.) Đương nhiên, lúc đó, điều chúng tôi quan tâm nhất là vây quanh anh ấy sau bài phát biểu, bắt tay và hỏi anh ấy các câu hỏi về bài nói chuyện vừa kết thúc. Nhưng sau đó, mọi chuyện hóa ra không chỉ đơn thuần như thế với Eben và Annie… Khi trở về từ Burning Man, tôi thấy một dòng cập nhật được đăng trên blog của Eben khi đã khá khuya với nội dung: anh ấy sẽ tổ chức một buổi gặp mặt riêng tư có quy mô nhỏ tại Ojai, California với người hướng dẫn thân thiết, David Deida. Đây là một trong những chuyên gia mà tôi đã học hỏi được nhiều nhất để có được mối quan hệ tuyệt vời với Jena. Tôi xô ghế đứng dậy, chạy vào phòng ngủ, đánh thức Jena dậy và hét lên với cô ấy: “Eben sẽ tổ chức một buổi gặp mặt đơn giản với David Deida vào cuối tháng tới! Giá vé vào là 2.500 đô-la và được tổ chức tại California. Chúng ta sẽ tham gia!” Jena đã lầm bầm một câu gì đó rằng sẽ nói chuyện với tôi vào sáng hôm sau và tiếp tục vùi đầu vào gối. Tôi gọi cho Annie và nói với cô ấy về cơ hội này. Cô ấy nói rằng mình thích Eben phát điên lên được khi anh ấy cất lời ở Burning Man (anh ấy khá bảnh trai) nhưng cô ấy đã chẳng làm gì hơn ngoài việc bắt tay anh ấy sau bài diễn thuyết. Cô ấy đã đồng ý tham gia ngay lập tức. Jena hỏi tôi liệu đánh đổi nhiều thứ vào cuối tuần này như thế có sáng suốt không. Tôi nói với cô ấy rằng: “Kết giao với một người thầy uy lực có thể thay đổi cuộc đời em mãi mãi. Điều đó không đáng sao?” Cô ấy đã đồng tình với lòng nhiệt tình của tôi và cả ba chúng tôi cùng nhau đi từ New York đến Ojai. Tôi không thể giao lưu trực tiếp với Eben khi anh ấy đang đứng trên bục diễn thuyết trước hai trăm người nhưng trong một cuộc gặp mặt thân mật về định hướng phát triển bản thân chỉ có 30 người thì tôi có thể. Ở buổi gặp mặt, Eben đã nhìn thấy mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa tôi với Jena và đặt ra một số câu hỏi xung quanh nó. Tôi đã tìm được cách giúp đỡ Eben và đẩy dòng mực lãnh đạo ngược lên đầu ngọn bút. Đoán biết anh ấy muốn xin tôi vài chỉ dẫn nên tôi đã trải lòng và chia sẻ với anh tất cả. Sau này, anh ấy có hai lần mời Jena, Annie và tôi đến gặp trực tiếp để hỏi về các mối quan hệ của chúng tôi. Giờ đây, anh ấy không chỉ là một người bạn tuyệt vời mà còn là một cố vấn tuyệt vời cho Jena và tôi trong sự nghiệp. Tôi học hỏi được từ anh cách tạo dựng thành công nhiều hơn suốt 16 năm đi học của mình. Và phần còn lại của câu chuyện giữa Eben và Annie chỉ là thời gian. Eben chuyển từ Los Angeles đến New York để sống với Annie và hiện nay họ đã đính hôn. * * * Câu chuyện về cách tôi gặp vị cố vấn tuyệt vời của mình, người đã cho tôi những hướng dẫn miễn phí thay vì mức phí 10.000 đô-la của một giáo sư đại học có vẻ dài dòng và quanh co, vì những câu chuyện thực tế luôn như vậy. Không có công thức ngắn gọn nào cho việc kết giao với những cố vấn quyền lực. Elliott đã làm được bằng việc mời các nhà lãnh đạo tham gia một chuyến trượt tuyết. Tôi đã làm vậy qua Burning Man và một buổi gặp mặt thân mật. Con đường này có vẻ khá dài nhưng tìm được một cố vấn giỏi, cuộc đời bạn có thể thay đổi được hướng đi. Nó xứng đáng với nỗ lực mà bạn bỏ ra. Tiếp theo là câu chuyện về cách tôi gặp mặt cố vấn thứ hai trong cuộc đời mình, Bryan Franklin. Tôi liên tục được nghe về Bryan (http://bryanfranklin.com) thông qua những người bạn của bạn bè tôi. Anh ấy được cho là một trong những người thầy thành công nhất nước Mỹ. Anh ấy mới 38 tuổi nhưng đã kiếm được 1 triệu đô-la một năm trong vòng 10 năm qua nhờ hướng dẫn các chuyên gia cao cấp ở các công ty tầm cỡ nhất Thung lũng Sillicon như Google, Apple, LinkedIn và Cisco về kinh doanh và lãnh đạo. Anh ấy điều hành một chương trình đào tạo lãnh đạo, marketing và kinh doanh trong nhiều năm trị giá 18.000 đô-la. Một khách hàng của Jena đã tham gia chương trình và Jena vô cùng kinh ngạc trước kết quả kinh doanh mà vị khách hàng này học hỏi được từ chương trình. Lần đầu tiên nghe về Bryan, tôi cũng vô cùng ngạc nhiên. Một người đàn ông 38 tuổi kiếm được khoảng 1 triệu đô-la một năm trong vai trò hướng dẫn kinh doanh và lãnh đạo cho các chuyên viên cao cấp 50 tuổi ở các công ty có doanh thu hàng tỷ đô-la và làm điều đó từ khi mới 20 tuổi. Làm thế quái nào anh ta lại dạy được những điều về kinh doanh và lãnh đạo mà họ không biết và mỗi khóa học lên đến 18.000 đô-la mỗi năm? Ngoài ra, tôi bị kích thích trí tò mò trước những thông tin nghe được. Gã này là ai vậy? Jena đã gặp anh ấy một lần khi Bryan biết cô ấy sống ở New York và anh bày tỏ mong muốn tổ chức một chương trình kéo dài một năm tại đây dưới sự giúp đỡ của cô ấy. Tôi không biết nhiều về anh ngoài những điều được nghe kể lại nên tò mò muốn tìm hiểu thêm. Tôi chủ động liên hệ với anh ấy và nói: “Tôi biết rất nhiều người ở New York và có thể giúp anh đứng trước một khán phòng chật cứng những người quan tâm và thích thú với những điều anh nói.” Anh ấy nói sẽ đến New York một vài tháng sau và chấp nhận lời đề nghị của tôi. Jena và tôi đã gửi đôi lời tới những người quen biết. Bài giới thiệu có nội dung khá đơn giản: “Chúng tôi không biết nhiều về anh chàng này nhưng những gì anh ấy đã làm quả thật đáng kinh ngạc. Vì thế hãy cùng chúng tôi tham gia buổi gặp mặt miễn phí với anh ấy do chúng tôi tổ chức và cùng nhau học hỏi từ chàng thanh niên xuất chúng này.” Khá nhiều người tin tưởng vào những lời nhận xét của chúng tôi nên rủ thêm bạn bè đi cùng, làm cho căn phòng chật như nêm với hơn 75 người tham dự. Bài diễn thuyết có tựa đề: “Cách đưa doanh nghiệp của bạn tiến đến một tầm cao mới.” Bài diễn thuyết thật đáng nghe (bạn sẽ được nghe nhiều hơn về nội dung của nó và về Bryan vào phần sau của cuốn sách) và tôi mong muốn trở thành học trò của anh. Jena và tôi thậm chí còn tổ chức thêm ba buổi diễn thuyết chật ních người như thế trong vài tháng sau đó. Từ đó trở đi, anh ấy đã kết hợp với Jena và tôi để thực hiện chương trình đào tạo về lãnh đạo, marketing và kinh doanh kéo dài một năm đầu tiên tại New York. Chúng tôi đón tiếp anh và vị hôn thê, Jenifer mỗi lần họ đến đây. Chúng tôi tìm mọi cách mà mình biết để thúc đẩy anh ấy đến với các đối tác kinh doanh, thậm chí là cả khách hàng. (Tôi giới thiệu anh ấy với Eben và từ đó họ trở thành bạn tốt của nhau, Bryan còn tham gia phát biểu tại một trong những sự kiện của Eben.) Jena và tôi luôn tự nhủ làm sao để có thể “cho” anh ấy nhiều hơn nữa, làm sao để đóng góp và giúp đỡ anh ấy nhiều hơn nữa, làm sao có thể cung cấp cho anh ấy thứ mà anh ấy muốn? (Thậm chí, chúng tôi còn dặn dò anh ấy về chế độ dinh dưỡng và thói quen ăn uống! Anh ấy thường xuyên về nhà chúng tôi ăn uống và tỏ ra rất thích thú.) Chúng tôi đã nói với anh ấy rằng: “Lúc nào cậu cũng nói về sự phát triển cá nhân trong khi lĩnh vực này cậu làm chẳng tốt chút nào. Đã đến lúc hình thành thói quen tốt cho mình đi!” Cuối cùng, anh ấy cũng nghe lời góp ý của chúng tôi. Chúng tôi nhận thấy tất cả những điều này chỉ để đổi lấy cơ hội trao đổi với anh ấy 10 phút và được nghe ý kiến của anh ấy thôi cũng đáng. Anh ấy đã trở thành một trong những cố vấn, người thầy, người bạn thân đặc biệt nhất trong cuộc sống và công việc của chúng tôi. Tôi thực sự rất hãnh diện vì sức ảnh hưởng mà hai sinh viên bỏ học giữa chừng, Bryan và Eben đã tác động đến cuộc sống của tôi, tác động đến từng trang của cuốn sách này. Đầu tư vào nguồn vốn kết giao Nếu bạn muốn thu phục được các cố vấn và người hướng dẫn quyền lực vào đội của mình thì bí quyết đó là hãy cho đi. Cho đi và cho đi. Hãy ủng hộ họ. Hình dung ra cách giúp đỡ họ và hiện thực nó. Hãy là dòng mực phía sau họ và thúc đẩy họ tiến lên. Hãy mạnh dạn cho đi và hỗ trợ họ để kích thích tư duy của họ. Và trong khi được kỳ vọng vào một việc gì đó, bạn hãy thực hiện bằng tất cả sự chân thành. Những xúc động thật sự nằm ở sự cho đi chứ không phải nhận về. Hãy vui vẻ với cơ hội được giúp đỡ ai đó đang làm những điều tuyệt vời cho thế giới này, rồi bạn sẽ được đền đáp xứng đáng (theo kinh nghiệm của tôi thì luôn là như thế). Nhưng đừng tập trung hết vào những thành quả mà bạn có thể nhận được, hãy chú tâm vào cách thức hỗ trợ họ. Trong các câu chuyện của tôi về quá trình kết giao với Eben và Bryan, tôi đánh dấu các ví dụ về hai điều khác biệt mà tôi có thể cho họ. Hai điều này, tôi sẽ giải thích cụ thể ngay sau đây, đều được tôi gọi là “nguồn vốn kết giao”. Vốn là một thứ được sử dụng để tạo nên giá trị, bản thân nó không hề mất đi trong quá trình tạo ra giá trị. (Ví dụ, cái búa là công cụ dùng để đóng đinh vào gỗ để làm nhà, nó không trở nên vô dụng sau khi cái nhà được tạo thành hay trong quá trình tạo ra ngôi nhà đó.) Trong xã hội tư bản, người sở hữu nguồn vốn nhiều nhất là người giàu nhất và có nhiều phương tiện nhất để ngày càng giàu hơn. Một số người dành thời gian của họ để cóp nhặt tài chính như tiền mặt, cổ phiếu và trái phiếu hay bất động sản như nhà cửa. Trái lại, những người mà tôi phỏng vấn cho cuốn sách này đã dành rất nhiều thời gian, công sức cũng như tiền bạc để đầu tư vào việc phát triển và duy trì những gì tôi gọi là “nguồn vốn kết giao.” Nguồn vốn kết giao có thể giúp bạn mở rộng mạng lưới quan hệ (“bộ lạc” của bạn như cách gọi của Seth Goldin) và nó sẽ không biến mất hoặc cạn kiệt khi bạn mở rộng mạng lưới này. Hai dạng lớn nhất của nguồn vốn kết giao là (a) những mối kết giao đã tồn tại từ trước và (b) khả năng cho đi lời khuyên tích cực. Những mối kết giao sẵn có: Tôi kết nối Eben với Annie, người hóa ra lại là một trong những người quan trọng nhất cuộc đời anh ấy. Tôi không thể làm được điều đó nếu Annie không có trong mạng lưới của tôi. Tôi kết nối Bryan với Eben. Tôi cũng không thể làm được điều đó nếu Eben không có trong mạng lưới của tôi. Nhờ đó, Bryan đã trở thành một phần bền chặt hơn trong mạng lưới của tôi. Đó là một trong những loại tình huống giàu–trở–nên–giàu–hơn, tiền–sinh– tiền. Không thể phủ nhận rằng: Mạng lưới càng rộng thì khả năng xảy ra các tình huống này càng cao. Bạn càng có nhiều mối quan hệ thì khả năng ổn định tài chính của bạn càng lớn. Lý do đơn giản là: Bạn càng có quan hệ rộng, mạng lưới của bạn càng phát triển và càng có nhiều người muốn tham gia vào nó. Ngày càng có nhiều người muốn kết nối với Elliott Bisnow bởi anh ấy có giao thiệp rất rộng. Đây là hiệu ứng quả cầu tuyết: Một khi bạn có một mạng lưới hoạt động tốt, thì tốc độ phát triển sẽ càng nhanh và mạnh hơn. Thực tế, tôi chưa thấy có tài sản nào khác có thể phát triển nhanh đến vậy. Vì nó được hình thành bởi con người và sự quan tâm. Con người không giống như tiền bạc, cổ phiếu, vàng khối, miếng đất hay các cỗ máy, họ nói chuyện, chia sẻ với nhau những điều mà họ quan tâm. Elliott Bisnow tổ chức chuyến đi trượt tuyết quy mô đầu tiên vào năm 2008, chỉ hai năm rưỡi trước khi tôi viết cuốn sách này. Hiện nay, anh ấy đứng đầu một trong những mạng lưới kinh doanh lớn nhất hành tinh. “Con đường phát triển của ngành công nghệ di động diễn ra nhanh chóng đến mức khiến chính anh cũng phải ngạc nhiên,” một phóng viên tờ Washington Post đã viết như vậy vào đầu năm 2010, một năm rưỡi sau chuyến trượt tuyết thành công đầu tiên của mình. “Không ai nghĩ tôi có thể làm được thế đến tận một năm trước đây,” bài báo trích lời của Elliott. “Thời trung học, tôi không có gì nổi bật. Tôi không có nhóm bạn thân nào hay ngồi ăn trưa và trò chuyện với nhau. Ở đại học cũng vậy.” Có thể kết nối mọi người với nhau là tài sản vô cùng quý giá. Số lượng người trong mạng lưới của bạn phát triển, từ đó gia tăng khả năng kết nối mọi người. Quả cầu tuyết đang lăn sẽ khiến bạn vô cùng ngạc nhiên vì tốc độ của nó. Vấn đề là: Làm cách nào có được quả cầu tuyết khi bạn còn chẳng có chút tuyết nào trong tay? Làm sau bạn có thể phát triển mạng lưới của mình khi bạn vẫn chưa có một mạng lưới nào? Đây là câu hỏi quan trọng sẽ được chúng tôi làm rõ trong các chương tiếp theo. Nhưng đầu tiên, hãy nói về thành tố lớn thứ hai của nguồn vốn kết giao. Một lời khuyên “dao xếp Thụy Sỹ” Thành tố lớn thứ hai của nguồn vốn kết giao đó là khả năng đưa ra những lời khuyên có giá trị và thích hợp. Đưa ra lời khuyên ư? Cho người thành công và quyền lực hơn bạn ư? Hoàn toàn có thể! Dưới đây là cách làm. Eben nói rằng ba khía cạnh cuộc sống mà hầu hết mọi người dành phần lớn thời gian của mình để lo lắng là tiền bạc, các mối quan hệ và sức khỏe. Theo kinh nghiệm của tôi, rất ít người được thỏa mãn ở cả ba khía cạnh này trong cuộc sống, ít nhất là như họ mong muốn. Nếu bạn đang nói chuyện với ai đó được xã hội đánh giá là thành công hơn bạn thì có thể họ chỉ thành công hơn bạn ở một lĩnh vực mà thôi (công việc, marketing, kinh doanh, sự nổi tiếng, v.v…). Theo những gì tôi đã trải qua, hầu hết mọi người, dựa theo tiêu chuẩn xã hội, đều thành công hơn tôi, nhưng cũng đang phải vật lộn với ít nhất một khía cạnh hay vấn đề nào đó mà tôi biết rõ hơn họ. Họ cũng là con người và đã là con người thì sẽ gặp khó khăn. Tôi sẽ gợi ý cho bạn hai câu hỏi mà nếu bạn áp dụng chúng ở các sự kiện, bữa tiệc và hội thảo, chúng sẽ thay đổi cuộc đời bạn mãi mãi và mạng lưới của bạn sẽ phát triển nhanh hơn bạn nghĩ: Điều thú vị nhất đối với bạn trong cuộc sống/công việc hiện tại là gì? Thách thức đối với bạn trong cuộc sống/công việc hiện tại là gì? Nếu bạn đang ở nơi riêng tư (tiệc cocktail, tiệc tối…), hãy hỏi về cuộc sống của họ; nếu nơi đó liên quan đến công việc kinh doanh (hội thảo, mạng lưới và sự kiện….), hãy hỏi về công việc của họ. Chú ý: Đây không phải là câu cửa miệng của bạn mỗi gặp mặt ai đó lần đầu. Đương nhiên là không. Bạn phải có được sự tin cậy hoặc tạo được mối quan hệ qua buổi nói chuyện trước đã. Nhưng nếu đã đặt ra những câu hỏi này rồi, hãy chân thành giúp họ dù bất kỳ mục tiêu, sự khích lệ hay thách thức nào mà họ đề cập đến trong câu trả lời, bạn sẽ ngạc nhiên trước khả năng mở rộng mạng lưới một cách thần kỳ. Khi đặt câu hỏi cho người mà tôi muốn là người tư vấn cho mình, tôi phải là người có tầm nhìn, nguồn lực hoặc các mối quan hệ có thể giúp họ trong các lĩnh vực họ còn khó khăn. Tôi chăm chú lắng nghe bất cứ câu hỏi nào và nếu biết ai đó hoặc điều gì đó hữu dụng đối với những vấn đề mà họ đưa ra, tôi đều đề xuất phương án gợi ý. Tôi luôn tìm kiếm cách thức gây ảnh hưởng và ý nghĩa để hỗ trợ những người mà tôi trò chuyện. Mối quan tâm của họ có thể liên quan đến sức khỏe, mối quan hệ, thậm chí có thể là một vấn đề cụ thể nào đó trong công việc kinh doanh mà tôi đã trải qua hoặc chưa từng nghe thấy. Tôi gợi ý cho họ các cuốn sách, khóa học và các website đã từng hữu ích với tôi để chúng có thể giải quyết và có tác dụng với bất cứ vấn đề nào họ đề cập. Tôi thường ghi chú lại và gửi cho họ cuốn sách mà tôi vừa gợi ý. Và đương nhiên, tôi cũng gợi ý cho họ những người mà tôi biết có thể giúp họ giải quyết vấn đề, khó khăn hay mục tiêu cụ thể. Đôi khi, chỉ cần một đôi tai biết lắng nghe, một sự cảm thông hay đơn giản vài lời an ủi cũng đã là món quà tuyệt vời mà bạn có thể cho đi. Bạn nghĩ những người giỏi giao thiệp, có quyền lực và giàu có không gặp khó khăn gì trong cuộc sống sao? Trong trường hợp của Eben, bằng cách đặt ra những câu hỏi này, tôi đã cho anh ấy lời khuyên về mối quan hệ và kết nối anh ấy với Bryan, người bạn tốt của anh ấy sau này. Khi thắc mắc liệu Eben hay Annie có thành đôi hay không, Bryan đã phân tích lý do tại sao Annie lại là một nửa hoàn hảo với Eben, tại sao anh ấy thật điên khùng khi để cô ấy ra đi như hai người anh em. Theo các tiêu chuẩn xã hội, Bryan là người thành công hơn tôi nhưng tôi vẫn cho anh ấy lời khuyên về sức khỏe và chế độ dinh dưỡng, một lĩnh vực mà qua trải nghiệm tự học hỏi, tôi biết nhiều hơn anh ấy. Thêm nữa, tôi không chờ đợi anh ấy hỏi xin lời khuyên của tôi. Khi đã thân thiết, tôi nói thẳng với anh ấy. Tôi bảo anh ấy cần chú ý hơn đến sức khỏe và thói quen ăn uống của mình, một phần cuộc sống mà tôi cảm thấy anh ấy đang lơ là. Điều đó hiệu quả như một “lời thức tỉnh” mà bạn có thể cho ai đó. Thật ngạc nhiên, thay vì từ chối, phớt lờ hay tỉnh bơ trước những lời gợi ý của tôi, Bryan thực sự lắng nghe và làm theo những gì tôi gợi ý. Cuối cùng, từ một người anh ấy quý mến, tôi trở thành người anh ấy thực sự trân trọng trong cuộc sống. Lời khuyên của bạn phải rõ ràng, khiêm tốn và chân thành hết sức. Thường thì, bạn không thể làm được điều đó ngay từ đầu. Bạn phải tạo dựng niềm tin và gắn kết bằng sự khéo léo và trí tuệ xã hội của mình. (Nếu cảm thấy mình cần mài giũa thêm về trí tuệ xã hội, bạn có thể tìm đọc cuốn sách Social Intelligence: The New Science of Human Relationship (Trí tuệ xã hội: Môn khoa học mới về mối quan hệ của con người) của Daniel Goleman sẽ rất hữu ích. Tôi gợi ý cuốn sách này vì trí tuệ xã hội là điều mà chúng ta không được học khi ngồi trên ghế nhà trường.) Nếu bạn có thể đưa cho ai đó một “lời thức tỉnh” đáng yêu về một khía cạnh nào đó trong cuộc sống mà họ vẫn còn “mù mờ” hay chỉ là một lời khuyên đúng lúc giúp họ vượt qua những vấn đề hoặc khó khăn và bước thêm một bước đến với một mục tiêu quan trọng, họ sẽ mãi mãi mang ơn bạn. Tôi thậm chí đã từng đưa ra cho Bryan một lời khuyên về marketing. Tại sao tôi, người kiếm được số tiền chỉ bằng một phần nhỏ mà Bryan, người đang hỏi xin anh ấy những hướng dẫn về kinh doanh, lại đưa ra một lời khuyên về marketing cho anh ấy? Rất đơn giản. Anh ấy thực sự là một chuyên gia về kinh doanh và marketing truyền miệng nhưng kinh nghiệm viết quảng cáo của tôi cho thấy anh ấy không biết nhiều về viết quảng cáo trực tiếp. Tôi bắt đầu hướng dẫn anh ấy viết quảng cáo và thậm chí còn viết cho anh ấy một bản mẫu. Đây là một vài lĩnh vực, trong đó có bộ ba lĩnh vực sức khỏe, tiền bạc và các mối quan hệ, mà bạn có thể đưa ra lời khuyên có giá trị để hỗ trợ những người quyền lực và thành công hơn bạn. Bạn sẽ ngạc nhiên trước cách các cố vấn tương lai cởi mở đón nhận sự giúp đỡ của bạn. Và nếu bạn giúp họ, họ sẽ giúp bạn. Marketing và kinh doanh Tôi nhận thấy rằng hầu hết những người đã thành lập các công ty về marketing không biết chính xác về kinh doanh. Và hầu hết những người thành lập các công ty kinh doanh thì không biết chính xác về marketing. Nếu học được cả hai kỹ năng này để thành công trong cuộc sống (Xem thêm Kỹ năng thành công số 3 và 4), thì bạn có thể đưa ra lời khuyên cho nhiều người khác nhau, như tôi có thể làm với Bryan. Cụ thể, bạn nên học hỏi về viết quảng cáo và marketing trực tiếp, một lĩnh vực mà Eben giảng dạy, trực tiếp liên quan đến việc thúc đẩy doanh số và doanh thu hiện nay (đối lập với marketing hình ảnh và thương hiệu, loại hình tiêu tốn một lượng lớn tiền bạc để thúc đẩy doanh thu tối đa về lâu dài.) Nếu có thể giúp họ thúc đẩy doanh số và doanh thu, bạn sẽ không bao giờ là một kẻ ngoài cuộc, bạn sẽ thấy họ luôn muốn nói chuyện với bạn và chờ đợi lời khuyên của bạn. Một khóa học về marketing trực tiếp trong vòng vài tháng của Eben và một số người khác (chúng ta sẽ gặp trong Kỹ năng thành công số 3) và khoảng một năm áp dụng chúng trong thực tế đã rất hữu ích với tôi. Tôi đã tư vấn cho một số công ty trị giá hàng tỷ đô-la và hiện nay tôi hiểu về marketing trực tiếp hơn 99% những người khác trong cùng lĩnh vực kinh doanh. Điều đó không hề khoa trương. Nói vậy để nhấn mạnh rằng marketing là điểm mù thực sự đối với hầu hết các doanh nghiệp và nó xa lạ vì họ đã quá quen với marketing thương hiệu. Nếu bạn quan sát các nguồn lực mà tôi liệt kê trong Kỹ năng thành công số 3 thì bạn cũng sẽ biết thêm về marketing trực tiếp hơn 99% các doanh nhân khác. Tôi cũng ngạc nhiên với số người mà tôi có thể kết giao nhờ chút kiến thức về marketing này. Đó là chiêu tuyệt hảo trong các bữa tiệc. Trong một bữa tiệc, tôi được gặp tiểu thuyết gia nổi tiếng Erica Jong. Tôi hỏi chuyện cô ấy và biết được về bộ tuyển tập truyện ngắn mà cô ấy sẽ xuất bản vào năm sau. Nghe cô ấy nói, tôi thấy ngay rằng các phương tiện marketing trực tiếp qua mạng Internet có thể hỗ trợ cho những nỗ lực marketing mà nhà xuất bản của cô ấy dự định sử dụng. Lúc đó, tôi đã cho cô ấy một vài lời khuyên marketing để quảng bá cuốn sách theo quan điểm của tôi. Vài phút sau, cô ấy lấy bút và viết thông tin liên lạc của mình vào một tờ giấy và nói rằng “Tôi phải trao đổi thêm với anh về việc này.” Erica hiện nay là một người bạn của tôi, tôi giúp đỡ cô ấy mảng quảng bá cuốn sách, còn cô ấy cũng vui vẻ đưa cho tôi những lời khuyên và hướng dẫn hỗ trợ sự nghiệp viết lách của tôi. Cô ấy có lẽ sẽ không thể trở thành một người bạn thân thiết của tôi nếu tôi không xây dựng nguồn vốn kết giao là những lời khuyên có giá trị liên quan đến một chủ đề quan trọng với cô ấy. Câu chuyện còn hấp dẫn hơn thế. Erica mời tôi đến một bữa tiệc mà cô ấy tổ chức và giới thiệu tôi với nhân viên PR của cô ấy, Sandi Mendelson. Điều tương tự đã xảy ra. Tôi đã cho Sandi một vài ý tưởng về marketing qua mạng xã hội, điều mà tôi đã có kha khá vốn. Sandi mời tôi đến văn phòng của cô ấy để tiếp tục trao đổi và từ đó, chúng tôi hợp tác cùng nhau. Sandi cũng là cầu nối giữa tôi và nhà văn Esther Newberg, người đóng vai trò quan trọng trong quá trình biến cuốn sách này của tôi thành hiện thực và Esther cũng đã kết nối tôi với Portfolio. Tất cả bắt đầu từ lời khuyên về marketing của tôi cho một tiểu thuyết gia tại một bữa tiệc. Đó chỉ là câu xã giao và vui đùa vô thưởng vô phạt giữa những người bạn với nhau. Bất cứ khi nào tôi gặp những người bạn mới, tôi thường tìm hiểu xem họ đang phải đối mặt với vấn đề gì và cho họ những lời khuyên của mình về marketing liên quan đến vấn đề hay khó khăn đó. Có thể bạn thấy điều đó thật nực cười nhưng tôi chắc chắn nó có tác dụng. Hầu hết các trường hợp tôi trải qua, nó được đánh giá cao. Bạn tự nhủ rằng: “Nhưng tôi đâu biết nhiều về marketing như anh,” nhưng đừng quên rằng tôi chỉ học hỏi Eben trong vài tháng trước khi bắt đầu áp dụng chúng trong thực tế. Nếu bạn vẫn quả quyết rằng bạn không thể học được chúng trong một vài tháng để vận dụng và đạt được những lợi ích mà tôi đã mô tả ở đây, thì làm ơn hãy trả lại cuốn sách này, ngồi xuống ghế và bật tivi lên xem thôi. Nghiêm túc đấy! Thức ăn, cân nặng và chế độ dinh dưỡng Hầu hết những người thành công về tiền bạc và kinh doanh đều làm việc với cường độ rất cao mà chẳng đoái hoài đến sức khỏe của mình. Những thành công của họ từ trước đến nay đều được đánh đổi bằng sức khỏe. Nếu trong cuộc sống, bạn học được cách vượt qua những thách thức lâu năm về sức khỏe của chính mình và đạt được cân nặng lý tưởng hay tự học hỏi những kiến thức về dinh dưỡng, sức khỏe và phong cách sống khỏe mạnh, có nghĩa là ở những chủ đề này, bạn biết nhiều hơn nhiều doanh nhân thành công khác. Nếu bạn nghiên cứu kỹ lưỡng về chúng và trải nghiệm những gì tốt nhất cho cuộc sống của chính mình, bạn nên nghiêm túc tìm hiểu về các lĩnh vực này. Nếu cuộc trò chuyện của bạn đi theo hướng này, hãy đưa ra câu trả lời cho khó khăn mà mọi người đang tưởng như tuyệt vọng, không có lấy một lời khuyên. Những lời khuyên của bạn quý giá hơn bạn tưởng. Tôi đã đưa ra lời khuyên cho Bryan và giúp anh ấy có được thói quen ăn uống khoa học, từ bỏ thói quen vô cùng báo động trước đây. Cuối cùng, tôi đã giúp anh ấy thành công và kéo anh ấy gần hơn vào đội ngũ của mình. Tinh thần, mục tiêu và ý nghĩa cuộc sống Nếu bạn quan tâm và hiểu biết nhiều hơn về vấn đề tâm lý và sự tồn tại trong cuộc sống thì việc bạn đưa ra lời khuyên hữu ích liên quan đến vấn đề này là một điều tuyệt vời có thể hỗ trợ những người có quyền lực và thành công hơn bạn. Có hàng tá những câu chuyện về các cá nhân tạo ra thành công, tiền bạc và danh vọng, nhưng rồi vẫn cảm thấy “trống rỗng”. Thực tế, không nguyên tắc nào không có ngoại lệ, kể cả sự giàu có về vật chất. Xã hội chúng ta đang theo đuổi sự giàu có về vật chất ngày càng nhiều. Tôi chẳng phản đối sự giàu có về vật chất, thậm chí chính tôi cũng tích cực làm việc để kiếm được nhiều tiền hơn nữa. Nhưng hầu hết mọi người không nhận ra rằng sự giàu có về vật chất không tỷ lệ thuận với sự giàu có về tinh thần. Vì thế, trong những người giàu có, thành công, nổi tiếng và quyền lực mà tôi từng gặp, hầu như không tồn tại ngoại lệ khi họ đều gặp phải những vướng mắc thường trực liên quan đến sự tồn tại, ý nghĩa, mục tiêu và sự thỏa mãn trong cuộc sống. Họ cảm thấy cân bằng hơn khi có ai đó lắng nghe và chia sẻ các vấn đề cùng họ. Thực tế, các cố vấn quyền lực không phải là những người giàu có về vật chất, thường xuyên phải đối mặt với những rắc rối này theo tần suất hàng ngày. Lý do hết sức đơn giản là: với nhiều người ở tầng lớp trung lưu (a) sự háo hức giàu có đã san bằng những câu hỏi về tâm lý trong quá trình tăng tốc trên con đường tiến đến thành công, hoặc (b) những thắc mắc về sự tồn tại trong cuộc sống đã bão hòa, họ chỉ đứng bên lề cuộc sống, theo đuổi mục tiêu của họ, bình thản tận hưởng cuộc sống, hoặc cả hai. Tuy nhiên, nếu những người giàu có hoàn toàn không theo đuổi sự tích cóp của cải và quyền lực thì họ thường xuyên phải đối mặt với những đấu tranh tâm lý. Họ lên đến đỉnh thành công và nhận ra rằng việc mọi người đều điên cuồng tìm mọi cách để cán đích là một trò hề bởi kết quả cuối cùng không như họ tưởng. Vì thế họ bắt đầu cân nhắc những câu hỏi lớn hơn về ý nghĩa cuộc sống. Đương nhiên, rất nhiều người có quyền, có tiền và giao thiệp rộng hoàn toàn đạt được sự viên mãn về tinh thần và ý nghĩa cuộc sống, đang sử dụng quyền lực và sức ảnh hưởng của mình vì mục tiêu lớn hơn là thay đổi thế giới. (Họ là những người tuyệt vời nhất thế giới vì họ đang tạo ra tương lai cho chúng ta. Hãy là dòng mực phía sau thúc đẩy họ mạnh nhất có thể.) Nhưng nhiều người khác ở vị trí này thực sự bối rối, cảm thấy mất mát, áp lực và thậm chí chán nản trong cuộc sống. Nếu bạn hiểu biết và nghiền ngẫm các câu hỏi liên quan đến sự tồn tại của cuộc sống, bạn có thể đưa ra lời khuyên hấp dẫn bằng cách chia sẻ những hiểu biết và suy ngẫm của mình với người bạn mong muốn là cố vấn của mình trong công việc và tiền bạc. Thường thì, chỉ những cuộc trò chuyện thân thiện và chân thành về những thắc mắc lớn trong cuộc sống mới giúp bạn có thêm những người bạn mới. Sở thích, đam mê và mục tiêu cuộc sống Bạn có thể kết nối với những người có tầm ảnh hưởng thông qua sở thích và đam mê chung. Quan niệm này đã khiến các khóa học golf chưa bao giờ trở nên lỗi thời. Tôi không thích golf nên tôi sẽ không viết nhiều về golf. Nhưng tôi thấy rằng những sở thích đa dạng và thời thượng có thể tối đa hóa cơ hội chia sẻ với những người bạn gặp gỡ trong cuộc sống. Ví dụ, tôi thích nhạc flamenco và các điệu nhảy salsa. Tôi đã gặp vợ mình khi cô ấy đang hướng dẫn một lớp học nhảy salsa ở Burning Man. Đó là ví dụ dễ thấy nhất về “mạng lưới” mà tôi từng trải nghiệm trong cuộc đời mình. Điều đó xảy ra bởi tôi có niềm đam mê với salsa. Tôi có một người bạn tên là Hitch McDermid. Sau nhiều năm học hỏi, anh đã trở thành giáo viên AcroYoga9 hàng đầu. Đây là kiểu yoga mà một người (làm “nền”) nằm ngửa trên nền nhà và giữ một người khác (“người bay”) bằng hàng loạt các động tác kỹ thuật đẹp mắt chỉ với đôi tay và bàn chân giơ thẳng. Nếu bạn gặp Hitch ở một bữa tiệc, bạn sẽ được “bay” lên, được giữ thăng bằng trên tay và chân anh ấy, cách gặp gỡ và kết nối thật thú vị với ai đó! Thực tế, thông qua một người mà anh ấy gặp ở một bữa tiệc, Hitch đã kết nối với một nhóm nhạc điện tử Thievery Corporation nổi tiếng và hướng dẫn họ AcroYoga trong hậu trường trước các buổi biểu diễn. Nếu bạn biết nhiều về rượu vang thượng hạng, nấu ăn nghệ thuật, rượu tequila10, các điệu tango, du lịch Mỹ Lantin hoặc Đông Nam Á, triết lý hoặc thiền Phật giáo, massage, lướt ván, marketing qua mạng xã hội, nghệ thuật đương đại, một sở thích hay đam mê bất bình thường và thú vị nào đó, bạn sẽ muốn chia sẻ tài năng của mình với những người bạn muốn kết nối. (Đương nhiên, những sở thích “thông thường” như là chèo thuyền, đá bóng hay bóng rổ cũng được, tuy nhiên những sở thích này với hiệu ứng “câu lạc bộ” khiến việc mở rộng mạng lưới theo chiều rộng trở nên khó khăn hơn. Bạn có thực sự muốn chia sẻ về bóng rổ hay bóng đá với người mù tịt về chúng chứ?) Các mối quan hệ. Trong hầu hết mọi trường hợp mà tôi đã gặp, có rất ít sự kết nối giữa thành công trong kinh doanh, tiền bạc và niềm vui trong các mối quan hệ, nếu có thì thường theo hướng tiêu cực. Một người bạn của tôi thuộc nhóm mạng lưới kinh doanh lâu năm và cao cấp đã nói với tôi rằng ở buổi gặp mặt lần thứ 20 của hội, gần như tất cả các thành viên đã kết hôn (hầu hết là nam) từ khi mới thành lập nhóm đến hiện tại đều đã ly hôn. Có thể thấy nhiều người giàu có và thành công trong kinh doanh bằng việc đánh đổi hạnh phúc của mình, họ dành tất cả cho công việc mà bỏ quên gia đình. Và nhiều doanh nhân có tầm ảnh hưởng lớn (cả nam lẫn nữ) mà tôi đã gặp đều kiểm soát bản thân hết mức vì họ sợ sự đầu hàng, mất kiểm soát và dễ bị tổn thương nếu mở rộng trái tim. Họ sợ mở cửa trái tim và thậm chí còn chẳng biết cách làm nếu muốn. Nếu nhờ những kinh nghiệm và học hỏi trong cuộc sống, bạn học được cách mở rộng trái tim và bước vào tình yêu hoặc các buổi hẹn hò ngọt ngào thì bạn có thể giúp đỡ các cố vấn của mình bằng cách giúp họ nhẹ nhàng bước vào các mối quan hệ sâu sắc hơn, cởi mởi về tình cảm hơn, tìm kiếm hoặc tạo ra nhiều tình yêu thương hơn nữa trong cuộc sống. Thực sự cho đi món quà “dịch vụ trái tim này” là bạn đã cho đi món quà giá trị nhất có thể. * * * Đó là tất cả những gì cần có để trở thành “người tư vấn đáng tin tưởng nhất” của người mà bạn muốn kết giao. Trở thành cố vấn tin tưởng của một người thành công thực sự là một trong những cách thức có tác dụng nhất để mang lại thành công cho chính bạn. Bạn nên đọc toàn bộ cuốn sách The Trusted Advisor (Tạm dịch: Người cố vấn chân thành) của David Maister, Charles Green và Robert Galford và Networking with the Affluent (Tạm dịch: Mối quan hệ phong phú) của Thomas J. Stanley. Đây là hai trong số những cuốn sách kết giao tuyệt vời nhất mà tôi từng đọc. Cuốn sách của Stanley liệt kê nhiều cách giúp bạn có thể hỗ trợ những nhân vật ảnh hưởng và quyền lực mà mình muốn kết giao. (Hãy nhớ rằng, dù làm gì vẫn phải dựa trên sự chân thành, nếu không chúng sẽ gây ra khó chịu!) Trong đó có các phương pháp như “Thám báo có tài,” “Người thúc đẩy doanh số,” “Người ủng hộ” và “Nhà nghiên cứu luật pháp”. Đọc cuốn sách này chi tiết hơn và bạn sẽ có được những cách thức tuyệt vời để hỗ trợ những người mà bạn muốn học hỏi. Một nguồn tuyệt vời khác có thể áp dụng vào một số chiến lược công nghệ số và mạng xã hội đến từ David Siteman Garland (http://www.therisetothetop.com). Trong bài viết của mình “Từ Tim Ferriss đến Seth Goldin: Cách phỏng vấn và xây dựng các mối quan hệ với những người có tầm ảnh hưởng nhất trên thế giới,” quan điểm của anh ấy gặp gỡ với quan điểm của những người khác trong chương này: khi bạn tìm thấy những cách thức sáng tạo để hỗ trợ người mà bạn muốn kết giao, “đừng đòi hỏi được đáp lại… Nếu làm vậy, bạn sẽ tách biệt bản thân khỏi 98% những người còn lại.” Tiếp đến, anh đưa ra một quy trình chi tiết và cụ thể để bạn hỗ trợ một cách sáng tạo cho những người có ảnh hưởng thông qua Internet. Bất cứ ai hứng thú với chủ đề này đều nên đọc nó. Những dòng tinh tế và đơn giản này nếu áp dụng vào thực tế còn có thể giúp bạn nhiều hơn nữa trong việc đạt được những mục tiêu của bản thân, thay vì các khóa học ở trường đại học. Nó có sẵn trên trang Web và nhiều nguồn đăng miễn phí khác và tôi sẽ chỉ cho bạn một vài trong số đó ở phần sau của cuốn sách này. Sự tự học hỏi và nghiên cứu về một trong những lĩnh vực liên quan đến khả năng đưa ra lời khuyên thường hay thay đổi. Nó thường luân chuyển để mở rộng tìm hiểu sang một lĩnh vực khác nữa. Hiếm ai có hiểu biết hoàn hảo, nên nếu bạn hiểu rõ về các lĩnh vực marketing và kinh doanh, sức khỏe và dinh dưỡng, tinh thần và các quan điểm cá nhân, sở thích và đam mê, bạn đã có được vốn sống để giúp đỡ mọi người. Nó giống như một con dao xếp Thụy Sỹ, luôn ở sẵn trong túi để phòng trợ cho bạn bất cứ tình huống nào. Và nếu bạn càng cho đi nhiều, càng hỗ trợ người khác nhiều, bạn càng thu hút được nhiều cố vấn và người hướng dẫn trong các lĩnh vực này, những người sẽ giúp bạn học thêm được nhiều điều… Và bạn sẽ càng có thêm nhiều cơ hội giúp đỡ mọi người, v.v… Đây là cách để luật hấp dẫn có tác dụng trong thực tế cuộc sống. Russell Simmons, triệu phú thành công nhờ tự học đã nói với tôi rằng: “Bạn càng vui vẻ cho đi bao nhiêu thì càng nhiều người sẽ háo hức vây xung quanh bạn. Bạn trở thành thứ ‘chất kết dính’.” Cách để trở thành một nhà tư bản “cho đi” đẳng cấp thế giới Thường thì một người trẻ vừa rời ghế nhà trường và bắt đầu bước ra cuộc đời rất muốn kết giao với các cố vấn và hướng dẫn quyền lực bằng khả năng cho đi, nhưng họ không có nhiều để cho, vì thế họ tình nguyện cho đi hai thứ hiếm hoi mình có: thời gian và sự cần cù, với hy vọng chúng sẽ mang họ đến với người có tầm ảnh hưởng. Đã có lúc, ý tưởng đó thật tuyệt. Lịch sử không thiếu những câu chuyện về những người trẻ triển vọng đã cống hiến hết mình cho một cố vấn quyền lực và những nỗ lực học hỏi cao nhất để đổi lấy kiến thức và mối kết giao có giá trị để đi tới thành công sau này. Benjamin Franklin, tác giả của một trong những cuốn hồi ký được bạn đọc đón nhận nhiều nhất trong lịch sử, đã bỏ học từ cấp I và từng phục vụ chính thức trong xưởng in của anh trai mình khi mới 12 tuổi. Tuy nhiên, nếu bạn đánh đổi thời gian và sự cần cù để nhận được những hướng dẫn, thì chắc chắn bạn có thể nhanh chóng biến những hướng dẫn này thành nguồn vốn kết giao. Coi thời gian và sự cần cù như là khả năng cho đi chính có thể sẽ giới hạn phạm vi cho đi của bạn. Mỗi ngày đều có quỹ thời gian giới hạn, nếu quá sức, bạn có thể mệt mỏi. Vào thế kỉ XXI, thì kiểu cho đi này không có nhiều tiềm lực và khả năng thúc đẩy trong giới kinh doanh. Họ sẽ nhanh chóng đạt đến mức tới hạn về phạm vi cho đi. Khi tôi trò chuyện với Elliot về ý định viết cuốn sách này, anh ấy đã viết ngay ba lá thư giới thiệu những người phỏng vấn tiềm năng, trong đó có Marc Ecko, một nhà thiết kế thời trang tự học. Trong vòng 24 giờ, tôi đã có một cuộc hẹn phỏng vấn với một trong những người có ảnh hưởng nhất trong giới thời trang. Không bao giờ tôi có được cơ hội tuyệt vời nhanh đến vậy nếu không được Elliott giới thiệu. Thư giới thiệu này chỉ mất của Elliott vài phút, nhưng nó đã giúp tôi và dự án của tôi rất nhiều. Anh ấy đã bỏ ra những phút quý giá này để mang về một người yêu mến mình lâu dài. Có lẽ chẳng còn cơ hội nào hơn để anh ấy giành được sự ngưỡng mộ, sự quan tâm và mong muốn giúp đỡ ngược lại từ tôi bằng việc dành thời giờ trong ngày pha cà phê, lên lịch các cuộc hẹn và photo tài liệu cho tôi? Hình ảnh của Elliott Bisnow, một trong những người có mối quan hệ rộng nhất thế giới ở 25 tuổi, dành thời gian pha cà phê và viết báo cáo cho một ai đó, thật khó tưởng tượng nổi. Đó cũng là cách nhiều người 20 tuổi, gồm cả những người 20 tuổi đã tốt nghiệp đại học, gắn cuộc sống của mình với các công việc bàn giấy chán ngắt. Nhưng sự khác biệt giữa những người có cuộc sống mờ nhạt, quẩn quanh và người có tầm ảnh hưởng rộng lớn và có thể tác động đến cuộc đời của ai đó chỉ trong hai phút như Elliott Bisnow đã cho thấy sức mạnh của nguồn vốn kết giao. Bằng việc phát triển nguồn vốn kết giao – những “tài khoản ngân hàng tình cảm” của bạn về niềm tin, sự tin tưởng và kinh nghiệm cũng như kiến thức, để đưa ra những lời khuyên quý giá, bạn đã có thể nhân đôi ảnh hưởng của mình đến cuộc sống của người khác nhờ thời gian bạn đầu tư để tạo nên nó. Bạn vẫn cần thêm thời gian để có thể tạo nên ảnh hưởng như Elliott vẫn cần dành thêm vài phút nữa để tạo ra các lá thư giới thiệu. Nhưng những phút ngắn ngủi đó lại vô cùng quý giá với tôi, đối lập với hai phút pha cà phê của một người bạn đồng môn với công việc chán ngắt bởi hai phút này đã được hòa quyện với một dạng nguồn vốn quyền lực, chính là mạng lưới tiềm năng và sự tin tưởng của Elliott. Giống như trong kinh doanh, bạn phối hợp sức lao động của mình với nhiều nguồn lực hơn (kỹ thuật, kỹ năng, các dịch vụ hỗ trợ, v.v…) và thu về năng suất tính trên giờ làm việc. Ngày nay, các nhà kinh tế nói với chúng ta rằng giáo dục là một trong những dạng đầu tư quan trọng nhất, đó là nguồn vốn con người. Tôi hoàn toàn đồng ý với họ về quan điểm này. Nhưng điểm tôi không đồng ý là dạng đầu tư mà giáo dục hướng đến. Các nhà kinh tế nói về đầu tư nguồn vốn con người luôn có ý chỉ nền giáo dục chính thức của chính ta. Như tôi đã tranh luận và sẽ vẫn tiếp tục tranh luận trong cả cuốn sách này: Trừ khi bạn muốn tham gia vào các lĩnh vực mà bằng cấp là yếu tố không thể thiếu như ngành y, luật, học thuật,… hay những ngành mà bằng cấp là tiêu chí được ưa thích để đạt mục đích thăng quan tiến chức trong các tổ chức chính phủ, thì theo quan điểm của tôi, nền giáo dục chính thức là một loại hình đầu tư nguồn lực con người có hiệu quả kém. Bạn nhận được nguồn vốn con người nào trong nền giáo dục đại học chính thức ngày nay? Khả năng viết luận hay các tài liệu khoa trương, sáo rỗng. Khả năng nhồi nhét bài vở suốt đêm trước kỳ thi với những thứ bạn sẽ quên ngay tuần sau và không bao giờ sử dụng trong đời nữa. Khả năng học bài vào các tối thứ Hai, thứ Ba, thứ Tư và tiệc tùng vào tối thứ Năm, thứ Sáu, thứ Bảy và Chủ nhật. Khả năng gia nhập vào nhóm xã hội với những cuộc nhậu nhẹt thâu đêm và sử dụng chất kích thích. Khả năng làm theo những gì người lớn hơn chỉ bảo. Khả năng thanh toán nợ dài hạn từ 20.000 đô-la đến 100.000 đô-la. Những khả năng này sẽ đẩy bạn đến với một công việc khởi đầu tầm thường và chẳng lấy gì làm đảm bảo. Bạn sẽ nhận về những thành quả xoàng xĩnh từ khoản đầu tư học hành vì lý do hết sức đơn giản là tất cả những lời chỉ bảo, những lời khoa trương về giá trị của nền giáo dục đại học rồi cũng “bốc hơi” do sức nóng gay gắt của cuộc khủng hoảng kinh tế, chúng chẳng bổ sung giá trị cho bất cứ điều gì và bất cứ ai trên thương trường. Vì thế, thành quả khiêm tốn luôn dành cho những người đầu tư thời gian và nỗ lực trên các giảng đường đại học. Các dạng nguồn vốn con người có giá trị bạn cần tự học hỏi trong cuộc sống: Cách kết giao và mở rộng mạng lưới giáo viên và cố vấn giỏi giang (như chủ đề của chương này). Cách để khởi dựng và quản lý một công ty. Cách marketing và bán hàng hiệu quả (Kỹ năng thành công số 3 và số 4). Cách lãnh đạo người khác. Cách khám phá ra mục tiêu và ý nghĩa cuộc sống (Kỹ năng thành công số 1). Những dạng nguồn vốn con người này mang đến hàng núi giá trị và được trả công xứng đáng, chính là những thành quả kinh doanh hay sự hài lòng trong cuộc sống và tiền bạc. Bạn có thể học những điều này khi còn ở trường đại học nhưng thường thông qua các hoạt động ngoại khóa như hội sinh viên, các tổ chức văn hóa, từ thiện, chính trị hoặc tôn giáo, các đội thể thao, v.v… Các tổ chức ngoại khóa này là một dạng tự học cần thiết miễn phí hoặc với giá thành thấp. Càng tập trung vào chúng, bạn càng ít tập trung vào các cơ hội chính thức mà bạn bỏ tiền ra đầu tư ở trường đại học. Elliott Bisnow thành công hơn nhiều người ở tuổi 25 khác bởi anh ấy tập trung hoàn toàn vào việc đầu tư và phát triển nguồn vốn con người thực tế này, loại nguồn vốn sản sinh ra các kết quả và giá trị thực tiễn thay vì nguồn vốn dựa trên nền tảng học thuật chỉ cho kết quả ảo hoặc chỉ xứng đáng với một số công việc ở các cơ quan nhà nước với mức lương thấp. Elliott không được thừa hưởng nguồn vốn giá trị này từ khi sinh ra. Anh ấy đầu tư thời gian và công sức của mình để phát triển nó, học hỏi trong suốt thời gian bán hàng hai năm đầu sau khi bỏ học ở trường Madison, Wisconsin. Những khoản đầu tư này mang lại cho anh khả năng bán hàng – một trong những dạng nguồn vốn con người giá trị và kinh tế nhất (Xem Kỹ năng thành công số 4). Anh ấy vận dụng các kỹ năng bán hàng này để tạo ra nguồn vốn tài chính cho công ty đạt mức 7 con số, cho phép anh có được khoản tín dụng lớn và khả năng tổ chức các chuyến đi trượt tuyết. Anh đã sử dụng các chuyến đi trượt tuyết để tạo các mối quan hệ thân mật và hiệu quả với những người sẵn có giao thiệp rất rộng. Nói cách khác, anh ấy đã đầu tư các dạng nguồn vốn khác nhau (kỹ năng bán hàng, nguồn vốn tài chính) vào nguồn vốn kết giao. Điều khác biệt của Ellitot với gần như tất cả những người hơn 20 tuổi khác, và gần như tất cả mọi người trong thế giới kinh doanh là Elliott tách riêng sức lao động với nguồn vốn của mình: Một nhóm người mang đẳng cấp toàn cầu mà anh ấy giúp đỡ và những người khác giúp đỡ lại anh. Anh trở thành một nhà tư sản – tư sản cho đi và giúp đỡ người khác. Dạng thứ hai của nguồn vốn kết giao – dạng thứ hai của khả năng cho đi để bạn mở rộng mạng lưới cố vấn và hướng dẫn cho mình là khả năng đưa ra lời khuyên. Có một nghịch lý là bạn đang tìm kiếm lời khuyên, làm thế nào để cho đi lời khuyên và nhận về lời khuyên? Làm sao để giành được sự yêu mến nhiều hơn? Bằng việc chạy ra ngoài và xin mọi người? Bằng việc đánh đổi điều gì đó? Những hành động đó có thể có tác dụng tạm thời, dành cho những ai thiếu bản lĩnh, với một niềm đam mê nghèo nàn và yếu ớt. Nhưng cách để nhận được tình cảm thực sự trong sáng và chân thành trong cuộc sống phải là cho đi tình cảm trong sáng và chân thành. Tôi sử dụng từ “chân thành” để nói rằng cho đi mà không đòi hỏi nhận lại. Nếu bạn cho đi mà mong chờ được đền đáp thì ý nghĩa của nó sẽ trở nên tầm thường. Bạn càng hào phóng cho đi với những người xung quanh mình (cụ thể là đội ngũ của mình), bạn càng nhận lại được nhiều sự giúp đỡ. Đó là hiệu quả của khả năng cho đi. Tôi không lý giải được tại sao nhưng chắc chắn nó có tác dụng bởi tất cả những gì liên quan đến giá trị đều như vậy. Để nhận về giá trị, hãy cho đi giá trị. Vậy bạn có thể cho đi loại giá trị nào? Chúng ta đã nói nhiều về thời gian và nỗ lực. Đó là những gì mà những người 20 tuổi cho đi, để nhận về sự thiếu coi trọng và đồng lương rẻ mạt của các vị trí trong các tổ chức nhà nước, nơi mà họ chỉ làm theo lệnh của người khác, bỏ công sức để phục vụ kế hoạch của người khác. Đó là điểm dừng bế tắc. Có những mối quan hệ cho đi. Một khi bạn có được mạng lưới lớn của mình, thì đó là một dạng cho đi thúc đẩy thời gian rất hiệu quả. Điều đó có nghĩa là khi bạn xây dựng được mạng lưới rộng khắp thì bạn sẽ không mất nhiều thời gian, chỉ cần tới một cuộc điện thoại hay một e-mail để kết nối hai người trong cùng mạng lưới hay với ai đó bạn mới quen qua người đã quen thân từ lâu. Những kết nối này có thể là nhân tố thay đổi cuộc đời nhiều người. Nếu những kết nối này luôn được cân nhắc cẩn thận, chúng sẽ mang lại giá trị cho cả hai người được giới thiệu – một dạng cho đi vô tận và không mệt mỏi. Và cuối cùng, có lời khuyên cho đi tuyệt vời. Bạn có thể mất nhiều năm hoặc hàng chục năm để xây dựng nền tảng kiến thức cho mình nhưng khi đã có chúng thì những lời khuyên cho đi chỉ mất vài phút mà ẩn chứa sức mạnh và khả năng thay đổi cuộc sống vô cùng lớn. Nếu bạn đưa ra lời gợi ý ngọt ngào cho ai đó đang gặp khó khăn với công việc kinh doanh, mối quan hệ, hay sức khỏe của mình, dẫn dắt họ đi đúng hướng và thay đổi tương lai của họ thì bạn vừa mang đến giá trị vô cùng lớn chỉ bằng một lời gợi ý nhỏ. Bạn có thể lấy làm lạ khi các bác sỹ hay luật sư kiếm được 500 đến 1.000 đô-la mỗi giờ nhờ những lời khuyên của họ, gấp hàng trăm lần một cử nhân đại học làm ở quán cà phê cùng thời lượng làm việc. Điều đó có vẻ thật khó hiểu bởi trong suy nghĩ của mọi người, nền giáo dục đại học chất lượng hơn và đáng đầu tư để có một cuộc sống khá hơn. Bạn có biết cách kiếm được 6.000 đô-la một giờ nhờ đưa ra lời khuyên mà không cần có bằng đại học không? Tôi cá là bạn không biết! Hãy đến với một bài học nhỏ về sức mạnh của việc học cách đưa ra lời khuyên thực sự. Cách kiếm được 6.000 đô-la/giờ dù không có bằng đại học Vài năm trước đây, tôi làm tư vấn marketing với mức lương 5.000 đô-la một tháng. Tính trung bình, tôi nhận được 250 đô-la một giờ. Một mức thu nhập không tồi! Tính theo giờ thì số tiền tôi kiếm được hơn nhiều luật sư và chắc chắn hơn phần lớn các tiến sỹ tâm lý trong mỗi buổi tư vấn. Tất cả là nhờ các kỹ năng mà tôi tự học. Tôi cảm thấy hài lòng với giá trị mà tôi cung cấp cho khách hàng khi họ đang kiếm được nhiều hơn cả số tiền tôi kiếm được mỗi tháng với lợi nhuận và doanh thu cao hơn. Vào một thời điểm nào đó, công ty sẽ thu được lợi nhuận lớn hơn từ một nguồn lực marketing lớn hơn nằm ngoài khả năng của tôi. Công ty đó đủ lớn để đầu tư vào các ý tưởng marketing cao cấp hơn những gì tôi cung cấp cho họ. Vì thế tôi gợi ý họ nên liên lạc với Eben – một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về marketing online để xin tư vấn. CEO của công ty này đã xem một số video online của Eben và thực sự rất ấn tượng. Ông ấy đã đồng ý nói chuyện với Eben và đề nghị anh ấy đưa ra một vài dịch vụ tư vấn. Nhưng Eben lại không thường làm tư vấn. Anh ấy quá bận rộn với công việc kinh doanh online – công việc mang về cho anh ấy 30 triệu đô-la mỗi năm (khoảng 100.000 đô-la mỗi ngày). Khoản tiền tư vấn theo giờ chẳng đáng gì với anh ấy, nên nếu Eben có dành vài giờ để tư vấn cho một công ty nào đó, anh ấy có thể nhận tiền trả cho những lời khuyên của mình chứ không bao giờ nhận lại những sản phẩm thu được từ chúng. Nếu dành vài giờ để hoàn thiện một video để bán online, anh ấy có thể tiếp tục bán nó cả đời. Thành quả đó tiếp tục được cho đi, thúc đẩy và mở rộng. Đã nhiều lần Eben nói với tôi rằng anh ấy sẽ làm công việc tư vấn nếu bạn bè đề nghị giúp đỡ. Anh ấy không nhận tiền mà sử dụng khoản đó để hỗ trợ tổ chức từ thiện Safe Conflict Project (http://www.safecoflict.org), do những người bạn thân nhất của anh, Amber Lupton (bỏ học đại học giữa chừng) và Nathan Otto điều hành. Đó là cách anh ấy làm từ thiện. Thù lao trả cho anh ấy là bao nhiêu? 50.000 đô-la một ngày. Khoảng 6.000 đô-la một giờ. Mức lương này có vẻ hấp dẫn. Số tiền anh ấy kiếm được mỗi ngày nhiều hơn rất nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học làm cả năm và hơn nhiều người trên thế giới này kiếm được cả đời. Tại sao một giờ cố vấn của anh ấy lại có giá trị cao đến thế, trong khi một giờ làm việc của một sinh viên vừa tốt nghiệp đại học gần đây lại chỉ có giá trị bằng 1% số đó? Đó là bởi Eben đã tập trung học hỏi các kỹ năng và kiến thức thực tế – nguồn vốn con người. Chúng cho phép anh ấy cho đi nhiều hơn nữa những lời khuyên có giá trị. Cụ thể là, lời khuyên nhỏ của anh tạo ảnh hưởng lớn đến kết quả cuối cùng của tổ chức và cá nhân trong một thời gian ngắn, vì thế họ sẵn sàng trả hàng ngàn đô-la để được anh ấy cho lời khuyên theo giờ. Vậy chúng ta phải làm gì để kết nối với những người có quyền lực? Như trường hợp của Eben, đưa ra lời khuyên hữu ích là một trong những món quà giá trị nhất mà bạn có thể đưa cho ai đó và là một trong những cách thúc đẩy nhất để kết nối với mọi người. Điều này có nghĩa là một giờ của người có những lời khuyên hữu ích được coi trọng hơn nhiều so với một giờ của người nỗ lực, cần cù và không ngừng mệt mỏi làm việc. Hãy tưởng tượng lời khuyên của bạn có trị giá 6.000 đô-la/giờ và bạn có thể dành những giờ trị giá 6.000 đô-la này cho bất kỳ ai bạn muốn. Thử nghĩ xem sẽ có nhiều người muốn kết giao với bạn hơn không? Đây quả là một tài sản cho đi, cho đi và cho đi đến vô tận. Như chúng ta đang thảo luận, thì đây là dạng kỳ lạ của nguồn vốn kết giao. Trái lại, hầu hết chúng ta đều mài đũng quần trong các phòng học và những ý thức trì trệ đã ăn sâu vào tiềm thức như: Làm sao để thực hiện được các yêu cầu, trở thành sinh viên giỏi và nhân viên mẫu mực hay làm sao để làm hài lòng cha mẹ, thầy cô và sếp? Làm sao để hoàn thành bài tập về nhà, quy trình, lịch trình và các yêu cầu nơi công sở? Chúng ta “mất điểm” trong mắt các doanh nhân khác, những người chúng ta muốn kết nối vì các kỹ năng này chẳng ảnh hưởng gì đến kết quả công việc kinh doanh của họ. Chúng ta chỉ đơn giản cố gắng biến mình thành một bộ phận của cỗ máy. Hiện nay, nhiều người Ấn Độ và Trung Quốc được học hành tử tế làm việc cho chúng tôi đã vui vẻ thú nhận rằng các kỹ năng mà họ được học trong suốt 16 năm chẳng áp dụng được vào nơi làm việc, chẳng giúp ích được việc gì. Các chương trình phần mềm thậm chí cũng có thể thay thế được công việc của chúng tôi. Eben, Elliot và những người tôi phỏng vấn để viết cuốn sách này kiếm được nhiều tiền hơn cả tôi và bạn, cũng có nhiều người muốn kết nối với họ hơn trong mạng lưới công việc, bởi họ có ảnh hưởng lớn đến thế giới và công việc kinh doanh của nhiều người hơn bạn và tôi. Cụ thể, họ học cách gây ảnh hưởng đến người khác thông qua các kỹ năng và kiến thức mà chúng ta sẽ thảo luận trong chương này. Ảnh hưởng lớn hơn? Điều này nghe có vẻ hơi mơ hồ nhỉ. Không phải tất cả chúng ta đều có ảnh hưởng sao? Tất cả chúng ta đều quan trọng sao? Đương nhiên, tất cả chúng ta đều quan trọng, đều có ảnh hưởng, ít nhất là với cuộc sống của một số người nhất định. Chúng ta gây ảnh hưởng đến những người chúng ta yêu quý và đến những người yêu quý chúng ta nhiều hơn bất cứ ai cho dù chúng ta kiếm được nhiều hay ít tiền. Nhưng chúng ta đang nói về tiền bạc. Trong nền kinh tế tư bản, nói chung (cũng có một số ngoại lệ đặc biệt), tiền “chảy vào túi” những người gây ảnh hưởng lớn nhất đến phần lớn những người có nhiều tiền. Bạn có thể đi ngược với cuộc chơi và kêu gọi cuộc nổi dậy phân chia lại tài sản. Nhưng nếu bạn vẫn chọn chơi trò đó thì bạn có thể học được quy tắc của nó. Brian Tracy, một trong những tác giả đầy động lực, một diễn giả, một đào tạo viên về lãnh đạo và kinh doanh thành công nhất mọi thời đại, một người bỏ dở bậc trung học, (trước khi trực tiếp tham gia chương trình MBA mà không có bằng trung học và đại học), đã viết: “Số tiền bạn kiếm được là thước đo giá trị mà những người khác đánh giá sự đóng góp của bạn… Để gia tăng giá trị của số tiền mà bạn có được, bạn phải gia tăng giá trị công việc bạn đang thực hiện. Để kiếm thêm tiền, bạn phải mang lại nhiều giá trị.” Blogger và tác giả phát triển cá nhân (tốt nghiệp Đại học Calilfornia, Northridge) Steve Pavlina cũng diễn tả quan điểm tương tự trong cuốn sách của mình, Personal Development for Smart People: The Conscious Pursuit of Personal Growth (Tạm dịch: Phát triển cá nhân cho người thông minh: Mục tiêu rõ ràng của sự phát triển cá nhân). Anh chỉ ra sự đối lập giữa tư duy “người đóng góp” và tư duy “kẻ lười biếng” nằm ở tinh thần người cho đi dành cho người nhận lại. Anh viết: “Với tư duy người đóng góp, tiền bạc bạn nhận về giống như mức thù lao dành cho đóng góp của bạn. Theo quan điểm xã hội, khoản tiền đó “đổi lấy những đóng góp được định giá của bản thân, nhờ đó, bạn được trao quyền trích giá trị tương ứng từ xã hội tại cùng thời điểm bạn lựa chọn”… Yếu tố hạn chế thu nhập duy nhất của bạn là lượng giá trị xã hội mà bạn có thể tạo ra. Nếu bạn muốn kiếm thêm tiền, hãy phát triển kỹ năng và tài năng để việc tạo ra nhiều giá trị xã hội trở nên dễ dàng hơn. Tập trung vào việc cho đi và tự khắc bạn sẽ nhận về thành quả. Nhìn một cách cụ thể, những quan điểm này khá gây tranh cãi. Tại sao có thể nói rằng các chuyên gia phố Wall nhận được hàng tỉ đô-la tiền thưởng trong khi họ “làm bốc hơi” gấp 3 lần số tiền đó về giá trị cổ phần – đây gần như gây ra một cơn tan chảy tài chính toàn cầu, mà lại cung cấp “giá trị xã hội” đáng giá hàng tỷ đô-la? Liệu những người giàu có đang xây dựng những du thuyền dành cho tỷ phú có thực sự cung cấp nhiều giá trị xã hội đến vậy? Cách nhìn này phớt lờ phần lớn thất bại về hiệu quả thị trường, khuấy đảo sự kết hợp giữa sức mạnh và sự tập trung vào tài chính – vận động hành lang cho các chính sách được ưu tiên và các lực lượng thị trường méo mó, tạo nên một trò đùa về các bảng biểu liên quan đến “các thị trường hiệu quả”. Thế giới trao thưởng cho những người giàu có làm ô nhiễm các dòng sông hơn là người trồng cây gây rừng, cho dù xã hội được lợi từ không khí trong lành thay vì các dòng sông ô nhiễm. Công việc bình thường hàng ngày của bạn có nhiều điều tương đồng với những gì mà Tracy và Pavlina nói. Cả hai tác giả này đều phản đối thừa nhận quan điểm bạn sẽ kiếm được tiền theo ý muốn đơn giản chỉ bằng cách xuất hiện ở nơi làm việc và làm công việc của mình, mà không để ý đến giá trị hữu hình mà bạn thực sự tạo ra trong cuộc sống của mọi người. Zig Ziglar, một diễn giả, tác giả, chuyên viên đào tạo kinh doanh, một tỷ phú tự vươn lên đầy huyền thoại (từng bỏ học Đại học Nam Carolina để theo đuổi sự nghiệp kinh doanh của mình) đã nói: “Bạn có thể có được bất cứ thứ gì mình muốn trong cuộc sống, nếu giúp người khác có được thứ họ muốn.” Quan điểm và các kỹ năng “giúp đỡ người khác có được điều họ muốn” là phương pháp chính để kết nối với các cố vấn và hướng dẫn viên quyền lực trong cuộc sống, và cũng nhờ đó chúng ta sẽ kiếm được nhiều tiền hơn theo ý muốn và đạt được sự hài lòng trong cuộc sống. Điều này không hề tồn tại trong nền giáo dục hiện tại của chúng ta, từ tiểu học đến bậc đại học. Chúng ta học cách nghiên cứu lý thuyết, xa rời sự thật, làm bài kiểm tra, viết các bài tập học thuật và làm theo các hướng dẫn. Eben, Elliott và những người khác được nhắc đến trong cuốn sách này đều tập trung tự học để tích lũy các kỹ năng giúp họ đóng góp công sức của mình vào thành công của người khác với mức độ ảnh hưởng lớn hơn và thúc đẩy hơn. Cụ thể, họ tập trung vào khả năng mang lại những lời khuyên và tài lãnh đạo có giá trị, ảnh hưởng lớn, thúc đẩy những lĩnh vực đáng quan tâm mà chúng ta đã xác định trong các phần trước: Tiền bạc và kinh doanh, doanh số và marketing, tinh thần và mục đích, sức khỏe cũng như các mối quan hệ. Trong bất kỳ lĩnh vực nào, ai cũng ước muốn “có thứ gì đó”. Nếu bạn học được cách giúp họ đạt được thứ họ muốn trong lĩnh vực này, bạn có thể kết nối với bất cứ ai bạn muốn, và đương nhiên, bạn cũng sẽ kiếm được bộn tiền. Bởi những lĩnh vực này rất gần với nỗi sợ hãi, lo lắng và các ước mơ sâu thẳm nhất của họ nên họ sẽ muốn gần gũi và kết nối với bạn nếu bạn có thể giúp họ. Tôi không giải thích chính xác mối quan hệ giữa việc rộng lòng cho đi mà không kỳ vọng nhận lại trong mạng lưới của bạn và trong công việc với việc bạn nhận được thành quả, nhưng tôi biết rằng: bạn càng thừa nhận tư duy cho đi mà không mong mỏi nhận về thì càng có nhiều người vây quanh bạn và kết nối với mạng lưới của bạn. Họ càng muốn thuê bạn. Kinh nghiệm của tôi và của nhiều người đều cho thấy điều ấy. Có thể lý giải là do mọi người tin tưởng người cho đi, họ biết mình sẽ được quan tâm chăm sóc, họ biết mình sẽ nhận về giá trị vô cùng lớn, họ biết rằng bạn không chỉ làm điều đó vì tiền mà vì bạn quan tâm. Điều ngược lại cũng đúng. Càng dễ có tiền bạc và vật chất, bạn càng ít quan tâm tới nhu cầu về vật chất để tập trung vào giúp đỡ người khác. Đương nhiên, không có mối quan hệ trực tiếp và tương ứng giữa sự giàu có và tinh thần cho đi của bạn. Vẫn có nhiều người giàu có tham lam, ích kỷ, chỉ biết nhận về và tích trữ. Vẫn có nhiều người nghèo nàn về vật chất nhưng có trái tim đôn hậu và luôn sẵn sàng cho đi cả trái tim mình thậm chí cả những tài sản khiêm nhường của bản thân. Nhưng nhìn chung, người giàu có bao giờ cũng dễ cho đi hơn. Oseph Simmons không tiếp tục học Đại học Cộng đồng LaGuardia khi sự nghiệp âm nhạc hip–hop của anh đang ở thời điểm thăng hoa, khi “Run” của Run D.M.C – một nhóm tiên phong đầu thập niên 1980 đã làm thay đổi bộ mặt của ngành âm nhạc toàn cầu. Hiện nay, một mục sư có niềm tin vào phép lạ, Đức cha Run đã khích lệ các tín dân của mình ổn định về tài chính và tích lũy của cải vì mục đích sẵn sàng giúp đỡ người khác. Ông ấy nói với họ rằng, “thật khó giúp những người nghèo khi bạn là một trong số họ.” Trong cuốn Linchpin (Chốt trục) Seth Godin đã nhắc đến tầm quan trọng thiết yếu của việc cho đi trong kinh doanh: “Thật khó để hào phóng khi bạn đang đói. Thế nhưng sự hào phóng sẽ giúp bạn khỏi đói.” Không thắc mắc gì nữa, quan điểm mà chúng ta đang tìm hiểu là một nghịch lý. Cho đi để nhận về, nhận để cho đi. Những món quà mà bạn nhận được là một phần sự nghiệp của bạn còn những món quà mà bạn không nhận được không phải là một phần sự nghiệp của bạn. Không gì có thể thực sự được phân tích thỏa đáng. Trong những trường hợp nhất định nào đó, bạn cần chấp nhận nghịch lý này. Với quan điểm này, những người giàu có nhất không phải là những người dự trữ giá trị nhiều nhất mà là người có giá trị lưu thông nhiều nhất trong cuộc đời. Tỷ phú Russell Simmons, người đồng sáng lập của thương hiệu Def Jam và Phat Fashions, người đã bỏ học Đại học City tại New York để trở thành nhạc trưởng và quản lý nghệ sỹ, viết trong cuốn sách Do You! của mình rằng: “Tích lũy tiền trong tài khoản ngân hàng càng lớn hay càng nhiều ô tô trong gara chẳng mang về thành công nào cho bạn. Thành công thực sự dựa trên dòng chảy cho đi và nhận về liên tục. Thực tế, nếu bạn tra từ sự giàu có (affluence) trong từ điển thì bạn sẽ thấy gốc từ của nó là một cụm từ Latin có nghĩa là “lưu thông sự giàu có”. Vì thế muốn thực sự giàu có, bạn phải luôn để những gì bạn nhận được lưu thông trên toàn thế giới.” Bạn có thể chế giễu lòng “hảo tâm” này của một người giàu có và nghĩ: “Vậy sao anh chẳng cho đi tất cả hàng trăm triệu đô-la đi?” Nghe có vẻ khó chịu nhưng để trả lời những người đặt ra câu hỏi đó thì xin thưa: Russell Simmons cho đi nhiều hơn bạn và anh ấy có quyền giữ lại cho mình nhiều hơn bạn. Anh ấy cho đi nhiều hơn và nhận về nhiều hơn. Anh ấy ảnh hưởng lớn hơn hầu hết chúng ta, anh ấy tạo ra nhiều tiền bạc hơn. Anh ấy làm được điều đó bởi anh ấy có nhiều giá trị được lưu thông cả trong lẫn ngoài cuộc sống của mình. Quan niệm của các kế toán về cổ phần và dòng lưu thông là: tiền trong tài khoản ngân hàng là một cổ phần, khoản tiền gửi vào và rút ra là dòng lưu thông. Nên khi nghĩ tới sự giàu có và tầm ảnh hưởng, chúng ta thường quy ra thành lượng cổ phần. Còn điều mà Simmons, Seth Godin và Run nhắc đến lại là ảnh hưởng được mô phỏng bằng dòng lưu thông. Càng nhiều giá trị lưu thông, chúng ta càng thu lợi nhiều hơn và càng nhiều ảnh hưởng được sinh ra. Simmons sử dụng cổ phần và dòng lưu thông không ngừng để có thể sản sinh ra các loại hình từ thiện và kế hoạch để giải quyết những khó khăn khác nhau. Anh ấy không thể tạo ra ảnh hưởng nếu nghèo. (Thực tế, hầu hết các tổ chức từ thiện, phi lợi nhuận và tình nguyện trên thế giới nói chung không thể tồn tại nếu không có sự hậu thuẫn của người giàu.) Có thể đã đến lúc ngừng thèm muốn khả năng tự tạo ra ảnh hưởng, thay vào đó hãy quan sát cách chúng ta có thể tạo ra tầm ảnh hưởng đó cho chính mình, để cũng có thể hào phóng và rộng rãi cho đi như Simmons đã làm. Bạn và bất kể ai cũng thèm muốn vị trí của Eben Pagan và 50.000 đô-la anh ấy kiếm ra mỗi ngày. Nhưng hãy để tôi hỏi bạn vài điều: Nếu bạn có khả năng kiếm được 50.000 đô-la một ngày nhờ các kỹ năng được thị trường đánh giá cao và hiến số tiền đó cho hoạt động từ thiện hay tình nguyện nào đó, bạn sẽ làm thế chứ? Eben lúc nào cũng làm vậy. Bạn có thể mơ ước vị trí của Elliott Bisnow và các cộng sự tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Series, được sống trong những ngôi nhà đẹp và du lịch đến những miền đất lạ trên khắp thế giới. Nhưng họ cũng vừa gây dựng được 2 triệu đô-la cho hoạt động từ thiện từ các thành viên trong nhóm. Liệu bạn có muốn gây hai triệu tiền quỹ cho chính hoạt động từ thiện của mình? Theo kinh nghiệm của tôi, những người này đang cho đi, cho đi và cho đi. Họ cho đi khi có cơ hội, cho thời gian và nguồn lực ngoài công việc. Cho đi, cho đi và cho đi. Chẳng có gì phải băn khoăn khi có quá nhiều người muốn vây xung quanh họ và mạng lưới của họ lại lớn đến thế. Bởi chúng ta thích vây quanh những người hảo tâm, cả thế giới yêu mến những người cho đi. Hơn nữa, (điều này thậm chí hấp dẫn hơn nữa): Một điểm chung ở tất cả những người tự học thành công là họ cho đi mà không màng đến bản thân, họ không thấy mâu thuẫn giữa việc bản thân được sống thoải mái và việc giúp đỡ người khác. Hầu hết chúng ta đều tách biệt hai điều này. Chúng ta có xu hướng tập trung vào việc cải thiện chất lượng sống mà không chú ý cải thiện thế giới, lo lắng cho bản thân hơn là toàn tâm toàn ý cho một hoạt động từ thiện nào đó. Hai lĩnh vực này tương đồng với hai loại công việc chính mà các sinh viên đại học mới tốt nghiệp thường chọn lựa: Các công việc hành chính dành cho sinh viên mới ra trường và các công việc phi lợi nhuận ở cấp độ thấp nhất. Tôi không hiểu được các bạn đồng môn Đại học Brown của mình, những người muốn “tạo sự khác biệt trên hành tinh,” chấp nhận các công việc 36.000 đô-la một năm để làm công việc dán phong bì ở một tổ chức phi lợi nhuận nào đó và ăn mì gói mỗi đêm. Sự khác biệt mà một người dành thời gian dán phong bì để nhận về 36.000 đô-la một năm tạo ra cho thế giới thật chẳng đáng gì. Hơn nữa, công việc dán phong bì cũng chẳng cần tới 4 năm đại học. Họ có thể dành 4 năm từ 18 đến 22 tuổi để học hỏi các kỹ năng và tư duy để tạo ảnh hưởng thực sự đến cuộc sống của những người khác như cách mọi người trong cuốn sách này đã học. Họ cần học hỏi nhiều hơn về dòng lưu thông, về tầm ảnh hưởng thay vì chấp nhận công việc hiện tại với điều hoang tưởng rằng nếu có tiền, quyền và lợi nhuận thì sẽ tạo nên sự khác biệt. Cách cho đi khi bạn vừa chân ướt chân ráo vào nghề và gần như tay trắng Chắc hẳn không ít độc giả còn hoài nghi về điều này. Tôi có tiền để tới dự buổi diễn thuyết của Eben Burning Man ở Los Angeles và đến kỳ nghỉ cuối tuần đắt đỏ ở Ojai để gặp gỡ anh ấy. Tôi có Bryan trong mạng lưới của mình và lại giới thiệu anh ấy cho rất nhiều khách hàng tiềm năng khác. Tôi có kiến thức về marketing đủ để đưa cho doanh nhân thành công Bryan một lời khuyên marketing có giá trị. Tôi lại là bạn thân thiết với Annie Lalla nên trở thành điểm bắc cầu cho cuộc hôn nhân của cô ấy với Eben. Nói cách khác, mạng lưới của tôi đã phát triển rộng rãi phần lớn nhờ sự kết giao, sự cho đi và mạng lưới trong quá khứ. Đó là một vòng tròn phát triển theo thời gian, bạn càng cho đi nhiều bao nhiêu, bạn càng nhận về nhiều bấy nhiêu và càng nhận về nhiều bao nhiêu, bạn càng phải cho đi bấy nhiêu. Nhưng có bạn thắc mắc: “Tôi phải làm sao nếu không có gì để cho đi? Nếu tôi tay trắng và không có tiền để thực hiện một vòng nước Mỹ, để đến Ojai, để đến các bữa tiệc vui vẻ chè chén với các cố vấn quyền lực? Phải làm sao nếu tôi không có ai và không có mạng lưới nào để kết nối với bất cứ ai? Phải làm sao nếu tôi không có bất cứ lời khuyên nào dành cho bất cứ ai? Phải làm sao nếu tôi chỉ mới chân ướt chân ráo vào nghề và gần như tay trắng? Làm sao tôi có thể cho đi và hỗ trợ các giáo viên và cố vấn của mình lúc đó? Được rồi, bạn là người khá thẳng thắn về vấn đề này! Đừng quá lo lắng. Nếu bạn chỉ vừa mới khởi hành con đường chinh phục thành công và chẳng có gì để cho đi, hãy cho đi sự nhiệt huyết và sẵn sàng thực hiện lời khuyên của người khác. Điều đó đáng giá nhiều hơn bạn nghĩ. Keith Ferrazzi (http://www.keithferrazzi.com) là tác giả hai cuốn sách bán chạy nhất theo bình chọn của Tạp chí New York Times là Never Eat Alone (Đừng bao giờ đi ăn một mình) và Who’s got your back (Ai che lưng cho bạn). Hai cuốn sách này hoàn toàn đáng đọc nếu bạn hứng thú với bất cứ điều gì trong chương này. Keith, tốt nghiệp Đại học Yale và có bằng MBA Harvard, được coi là một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về thành công nhờ nghệ thuật xây dựng các mối quan hệ và những kỹ năng mềm thiết yếu khác. Tôi hỏi Keith về cách cho đi khi còn tay trắng và nhận được câu trả lời: “Mọi người luôn đặt ra câu hỏi ‘tôi cho đi thế nào?’ khi mới bắt đầu con đường thành công. Thực ra, bạn có rất nhiều thứ để cho đi. Món quà lớn nhất bạn có thể cho đi là ý tưởng tạo ra sự khác biệt, tài sản được kế thừa và tầm quan trọng. “Tôi nhận được rất nhiều yêu cầu từ các thanh niên, họ hỏi tôi: ‘Ngài Ferrazzi, cháu đã xem ngài phát biểu hay trình bày về một số vấn đề. Cháu có thể ăn tối, uống cà phê và hỏi xin một vài lời tư vấn được không?” Đây là cách tiếp cận hoàn toàn sai lầm. Tôi muốn nói với họ rằng: ‘Hãy đọc sách của tôi, rồi hãy nói chuyện với tôi’. Sự khiếm nhã khi đề nghị tôi nhắc lại điều mà tôi đã viết thành sách và dành nhiều năm chia sẻ với mọi người thật lố bịch. “Cách đúng đắn nhất để biến nó thành hành động thành công là hãy hào phóng, hào phóng kể một câu chuyện. Kể câu chuyện về cách bạn nhận được sự khích lệ từ chính những chỉ dẫn và kinh nghiệm học được từ họ, cách chúng ảnh hưởng đến cuộc sống của bạn và cách bạn chuyển món quà đó cho người khác. Nếu những gì bạn thực hiện thông qua các hướng dẫn của tôi và cách bạn chia sẻ cho người khác lay chuyển được tôi, thì đương nhiên tôi muốn giúp bạn. Tôi đã giúp tất cả những bạn trẻ đã kết giao với tôi qua các câu chuyện về những điều tuyệt vời mà họ đã làm nhờ áp dụng các khái niệm trong các cuốn sách của tôi. Khi tôi đầu tư thời gian và nỗ lực giúp đỡ một bạn trẻ, phần tôi nhận về đó là lòng biết ơn và thành công của họ.” Keith kể cho tôi nghe một câu chuyện về cách anh đã làm để tìm kiếm lời khuyên từ một cố vấn quyền lực từ khi còn trẻ. “Lúc đó, tôi xây dựng một mối quan hệ với Chủ tịch của Baxter International đương nhiệm là Vernon Loucks. Ít nhất, mỗi quý một lần, tôi làm phiền ông ấy bằng một e-mail cập nhật tình hình và để ông ấy biết những lời khuyên của ông ấy đã ảnh hưởng đến tôi như thế nào – cách tôi áp dụng nó, nó hữu ích ra sao và chân thành cảm ơn ông ấy, thể hiện tình cảm và sự tôn trọng của tôi dành cho ông ấy và kèm theo đó là một câu hỏi khác. Một quý sau, tôi chia sẻ với ông ấy cách tôi áp dụng lời khuyên và tình hình diễn ra. Đó thực sự là một chu kỳ hoàn hảo. Tôi liên lạc với ông ấy trong nhiều năm sau đó và đó quả là một mối quan hệ tuyệt vời.” Elliott Bisnow nói với tôi rằng: “Mọi người thích đưa ra lời khuyên. Nếu bạn lịch sự đề nghị ai đó ngồi xuống, nói chuyện với bạn, đưa cho bạn lời khuyên, mọi người đều sẵn lòng. Thật ngạc nhiên khi rất hiếm ai hỏi xin lời khuyên.” Có quá nhiều thứ mà mọi người không bao giờ làm. Đó là sự lười tự thân vận động, tự nỗ lực vươn lên. Khi học trung học, đại học, chơi thể thao, chúng ta chỉ làm theo hướng dẫn tuần tự chẳng có tác dụng gì cho bản thân. Nhiều người quan niệm rằng học đại học mới là học tập, còn không học đại học nghĩa là chẳng biết gì, điều đó thật ngớ ngẩn. Điều quan trọng là cách học, thời gian nào cũng vậy. Tôi thấy rằng để có thể tối đa hóa việc học, tôi cần học cả những thứ khác ngoài Khoa học, Toán học và Lịch sử cổ đại. Trường đại học chỉ đào tạo bạn trở thành một người bình thường. Nếu bạn muốn là một luật sư, bạn cần một chứng chỉ luật, điều đó quá bình thường. Bạn còn cần được giáo dục qua những va vấp ngoài cuộc đời nữa. Đón chào bạn đến với nền giáo dục trải nghiệm hiện thực. Kỹ năng thành công số 3 BÍ QUYẾT MARKETING VÀ TỰ HỌC MARKETING CỦA NHỮNG NGƯỜI THÀNH CÔNG Frank Kern, chàng thanh niên bỏ học giữa chừng đang ghi các món khách hàng gọi tại một nhà hàng ăn nhanh Hy Lạp ở Macon, Georgia, thì một người bạn thân cũ lâu không gặp từ khi anh nghỉ học bước vào cửa hàng và gọi một suất gà rán. Hai người bạn vừa vui vừa thoáng chút ngỡ ngàng khi nhìn thấy nhau tại quầy gọi đồ ăn. Frank nói: “Anh bạn! Rất vui được gặp cậu! Tớ nghe nói cậu học trường Y! Tình hình thế nào rồi?” Người bạn đáp lại rằng: “Ồ, mọi chuyện đều ổn, cậu ạ! Thế cậu cũng ổn chứ?” “Ừm, bây giờ..., ừm, tớ làm ở nhà hàng ăn nhanh này.” Thời gian đó, Frank đang rất nản lòng. Vào dịp Giáng sinh, anh muốn lái xe về thăm cha mẹ mình. “Tôi phát hiện ra rằng mình thậm chí không còn đủ xăng để về thăm họ và trở lại nơi làm việc. Quãng đường khoảng 17 km và tôi cũng chẳng còn một xu để mua xăng.” Làm việc với đồng lương ít ỏi trong một nhà hàng ăn nhanh, không có đủ tiền để mua xăng cho hơn 30 km về để thăm cha mẹ, đó là những gì chúng ta thường tưởng tượng khi nghĩ về một người bỏ học. Khi Frank bỏ học, bố mẹ anh đã đuổi anh ra khỏi nhà và nói: “Hãy cứ đi mà làm một tên đầu bếp đi.” Kể từ đó, anh không chứng minh được rằng cha mẹ mình đã nhầm. Nhưng những người bỏ học đó hoàn toàn có thể thay đổi. Dù bạn đang là bồi bàn của một nhà hàng ăn nhanh hay một nhân viên hành chính nơi công sở chán ngắt vừa mới ra trường, bạn đều sẽ chẳng tạo ra thứ gì tốt đẹp hơn cho bản thân mình nếu không thực hiện một bước ngoặt: Từ việc nhìn nhận bản thân như là kẻ bám đuôi thụ động đi trên con đường người khác vạch sẵn cho mình trở thành người chủ động chịu trách nhiệm, tự tạo ra con đường thành công cho chính mình. Vì thế, bạn học được bao nhiêu không thành vấn đề, vấn đề là bạn phải thực hiện cuộc chuyển đổi tư duy quan trọng này. Với Frank, cuộc chuyển đổi này diễn ra sau hai trải nghiệm cười ra nước mắt. Anh ấy mong muốn có được cuộc sống tốt đẹp hơn, anh ấy không muốn sống tay trắng và yếu đuối mãi nữa. Ông nội Frank là một tỷ phú tự học, người từng bỏ học từ lớp 8. Ông ấy bắt đầu kinh doanh từ khi còn nhỏ, tự gây dựng sự nghiệp từ nghề bán ô tô và sau này sở hữu chuỗi đại lý phân phối ô tô ở Macon. Sau này, ông ấy sử dụng các khoản tích lũy này để tham gia đầu tư bất động sản và có được thành công. Frank ý thức được thành công của ông nội mình, nhưng không chú ý nhiều đến nó. Bây giờ anh bắt đầu nghĩ: “Nếu ông có thể làm được tất cả những điều đó mà không có bằng đại học thì mình cũng có thể thành công như thế.” Khi còn nhỏ, Frank đã không quan tâm tới bản thân và tương lai của mình một cách nghiêm túc. Anh vẫn nhớ những ngày còn đi học. “Từ lớp 3 trở đi, tôi thấy mọi chuyện thật tồi tệ. Tôi mất hứng thú học hành khi bị điểm kém “như cơm bữa” và bị mẹ tôi thường xuyên mắng mỏ. Tôi thường lẩm bẩm: ‘Ai gây ra chuyện tồi tệ này thế, thật điên rồ.’” Thần tượng của Frank ở trung học là Duane Allman, Jimi Hendrix và Jim Morrison (Chú ý: Các nhạc sỹ này đều có chung điểm gì?) “Tôi lao vào tiệc tùng thâu đêm. Tôi nghĩ mình chẳng sống được bao lâu. Với tôi, sống gấp và chết trẻ là lẽ tất yếu. Vì thế, tôi không bao giờ nghĩ xa về kế hoạch sự nghiệp tương lai. Tôi gia nhập vào một ban nhạc, chúng tôi chơi nhạc với tần suất thật khủng khiếp. Chúng tôi chơi solo guitar các bản rock miền Nam liên tục 8 giờ đồng hồ trong tình trạng say mèm.” Từ thời học trung học, Frank vào làm thu ngân ở một khách sạn 8 giờ một ngày, từ 3 giờ chiều đến 11 giờ đêm. “Tôi nghĩ: ‘nếu cuộc sống thực sự cũng như thế này thì tôi chẳng muốn sống nữa. Thà chết còn hơn. Tôi muốn biến mất hoàn toàn, tai nạn xe máy, bị bắn hoặc sốc thuốc cũng được, tôi không quan tâm.” Tại Đại học Georgia, Frank học hành làng nhàng và thường xuyên bỏ học. Ba học kỳ trôi qua. Anh sống cuộc sống của một ngôi sao nhạc rock đang tìm chỗ đứng, giống như tôi những năm 20 tuổi đi tìm con đường trở thành nhà văn đích thực. Anh tiệc tùng liên miên và đắm chìm trong rượu. Tôi hỏi lúc đó anh ấy có nghĩ mình là một kẻ lãng tử nổi loạn không. “Không, thế thì cường điệu quá. Tôi thực sự chỉ là một đứa trẻ lạc lối mất hết hy vọng. Tôi lao vào tiệc tùng bất cứ khi nào và cuối cùng có thể trở thành cậu quý tử hư hỏng hoặc tương tự thế. Tôi không muốn sống trong “cái lồng” hay những công việc nhảm nhí chán ngắt.” Sau khi bỏ học và chuyển ra ngoài sống, anh ấy xin làm nhân viên giao hàng cho một tiệm Pizza Hut, rồi đến công việc rửa bát đĩa và chuẩn bị đồ ăn, tiếp đến là công việc lắp đặt hàng rào ở tàu điện ngầm trong khi vẫn chơi trong ban nhạc của mình. (Thật thú vị là nhiều người né tránh các công việc hành chính tẻ ngắt lại thường dính vào các công việc dịch vụ chán hơn nếu họ không sở hữu những kỹ năng và tư duy kinh doanh. Họ thấy công việc văn phòng và công việc có thu nhập thấp là hai lựa chọn duy nhất để tồn tại trên thế giới này.) Vài năm sau đó, anh ấy cứ nghỉ rồi lại xin học trở lại. Cứ khi nào mệt mỏi với công việc lương thấp thì anh lại quay về trường học với hy vọng mình sẽ có bằng đại học và một công việc tốt hơn. Thế nhưng, thái độ hoài nghi với học hành vẫn thế. “Tôi đang học trường Kinh doanh thuộc Đại học Macon và quan sát thấy chẳng có thầy giáo nào trong trường giàu có cả. Cả trường đều gửi xe ở cùng một địa điểm. Tôi thấy các giáo sư thường lái những chiếc xe Honda Accords cũ rích đã qua sử dụng và chợt nghĩ: ‘Cứ từ từ xem sao!’” Thi thoảng, trong thời gian loay hoay giữa việc học và nghỉ học để làm các công việc lương thấp, anh hoàn toàn tuyệt vọng. Và anh thề sẽ sống đàng hoàng hơn, ngoài các công việc hành chính chán ngắt hay các công việc dịch vụ lương thấp. Đó là khi anh gặp ông nội một cách nghiêm túc, học hỏi về cuộc sống của ông và tìm hiểu tất cả những kiến thức từ ông. “Cuối cùng, những gì tôi học hỏi được từ ông hơn tất cả những gì được học ở trường. Dường như ông sinh ra để làm kinh doanh. Ông dạy tôi về tầm quan trọng của kinh doanh. Tôi học được bí quyết kiếm tiền là phải có sản phẩm để bán, dù bạn tự bán hay thuê ai đó bán và thu lãi. Ông luôn nói rằng: ‘Cách duy nhất để kiếm tiền là mua cái gì đó ở một mức giá và bán với giá cao hơn. Nếu nỗ lực hết sức để làm vậy thì cháu sẽ kiếm được nhiều tiền như cháu muốn.’ Tôi đề nghị ông giúp đỡ và được ông chỉ dẫn các kỹ năng cần thiết và cả cách thức tư duy. Ông nói rằng: ‘Cháu có thể làm bất cứ điều gì mình muốn. Những người tự cho mình là chuyên gia, bảo con phải làm cái này, làm cái kia, không làm cái này, không làm cái kia chỉ là những gã vớ vẩn. Xã hội này vẫn còn nhiều mô hình bất cập.’ Và ông dùng ngay các câu chuyện cá nhân của mình như là một minh họa về điều đó, bởi ông không học qua lớp 8. Khi vẫn còn theo học, tôi thường đến nhà thăm ông vào các buổi tối và ông nói rằng: ‘Con phải trả bao nhiêu tiền mỗi buổi học?’ Ông có những quan điểm rất dứt khoát về các vấn đề này, rằng nếu không có việc làm thì chúng ta chỉ là những kẻ ăn bám mà thôi.” Khả năng tự kinh doanh của anh ấy đã hoàn toàn chìm nghỉm suốt thời trung học nhưng giờ đây anh đã sẵn sàng nỗ lực tự vươn lên với nền tảng tự học hỏi và sự hướng dẫn của ông nội. “Cuối cùng, tôi thấy rằng vẫn còn những con đường khác ngoài làm việc hành chính, vẫn có các doanh nhân kiếm ra nhiều tiền và làm nhiều điều tốt đẹp trên thế giới mà không phải làm thuê cho ai. Khi tôi gặp gỡ nhiều người quen của ông, rất ít người đi theo con đường truyền thống – học để lấy bằng đại học và rồi đi xin việc. Từ đó, tôi thực sự tin tưởng vào con đường tôi sẽ đi, để sở hữu doanh nghiệp của riêng mình. Một khi tôi có niềm tin vững chắc ấy, tôi không còn màng đến lựa chọn nào khác.” Frank bắt đầu làm những công việc kinh doanh khác nhau. Anh tìm đọc các tác phẩm của Dan Kennedy. Và một chuyện đã xảy ra với Frank, như đã từng xảy ra với tôi và nhiều người tìm thấy con đường của mình: Mọi thứ đều thay đổi sau lần đầu tiên gặp Dan Kennedy. Dan Kennedy tốt nghiệp trường trung học Revere vào đầu những năm 1970, làm một công việc kinh doanh trong khi bắt đầu tự học viết quảng cáo trực tiếp. Hiện giờ, anh là một trong những người viết quảng cáo được trả cao nhất trên thế giới, khoảng 100.000 đô-la hoặc hơn thế cho một lá thư kinh doanh, cộng với tiền bản quyền. Anh được biết đến là một trong những thiên tài marketing, một người thực hành giỏi và một giáo viên cừ khôi, vì thế rất nhiều người tiếp cận và học hỏi từ anh. Anh nhận mình “là một chuyên gia marketing trực tiếp tự học hỏi 100%. Không bằng đại học, không chứng chỉ nghề. Tôi chỉ học hỏi tất cả những gì có thể, nỗ lực và siêng năng hết mình.” Một lúc nào đó, nếu bạn thích thú với tiền và việc kiếm tiền, bạn học hỏi công việc của Kennedy (http://www.danKennedy.com). Anh ấy sẽ xua đuổi bạn, làm bạn tức điên, khiến bạn giận tím mặt, quẳng cuốn sách của anh ấy vào đâu đó, nhưng bạn vẫn cần tìm hiểu về anh ấy. Nếu mở lòng mình, thông điệp bạn có thể nhận được từ Kennedy đó là Cẩm nang Marketing. Những kiến thức này sẽ mang đến lợi nhuận cho bạn, giống tôi và Frank, và bạn sẽ “kiểm soát được nó”. Bạn sẽ biết rằng nếu bạn nghiêm túc về tài chính, dù bạn đang làm gì, công ty lớn hay nhỏ, là nhân viên hay doanh nhân, bạn đều phải là một học trò học marketing trọn đời. Theo Kennedy: “Bạn luôn phải nhớ rằng mình đang hoạt động trong lĩnh vực marketing. Bạn không làm nghề giặt khô là hơi, kinh doanh nhà hàng, sản xuất công cụ, tiệc cưới hay hóa chất công nghiệp. Bạn đang làm trong ngành marketing giặt khô là hơi, marketing nhà hàng, marketing sản xuất công cụ, marketing tiệc cưới hay marketing hóa chất công nghiệp.” Khi bạn hiểu rõ những điều này thì tầm nhìn về các kỹ năng marketing sẽ trở nên hoàn hảo. Vậy marketing là gì? Cameron Johnson, triệu phú tự học, một sinh viên khao khát học hỏi về marketing nói chung và Dan Kennedy nói riêng, đã đưa ra một quan điểm rất rõ ràng. Bất cứ khi nào thành lập một trong những công ty kinh doanh lợi nhuận, nhiều trong số đó được bán và thu về lợi nhuận không nhỏ, Cameron Johnson đặt ra một vài câu hỏi đơn giản: “Mọi người trong ngành công nghiệp này cần gì? Điều gì khiến họ bận tâm, buồn phiền, điều gì khiến họ bỏ tiền ra?… Khách hàng thay đổi mỗi ngày. Luôn có những người và phân khúc thị trường chưa được đáp ứng. Để tiếp cận thị trường, bạn không cần dựa vào sự may mắn, thời gian hoặc sự thay đổi thị hiếu của người sử dụng, chỉ cần dựa vào khả năng quan sát và sáng tạo. Chọn lựa một phân khúc thị trường, tìm hiểu nhu cầu và quan sát xem điều gì có thể giúp mọi người hoàn thành công việc của mình tốt hơn.” Đây là quan điểm marketing chất lượng. Lý do mà hầu hết chúng ta ghét từ “marketing” đó là phần lớn các hình thức marketing mà chúng ta trải nghiệm không tuân theo ý tưởng nền tảng này. Những người marketing muốn bán được hàng, vì thế họ cố gắng đẩy nó về phía chúng ta như thể đang ép buộc. Trái lại, nếu sản phẩm hoặc dịch vụ được thiết kế để giải quyết vấn đề khó nhằn hoặc đáp ứng một nhu cầu trái khoáy nào đó, và khách hàng thì đang gặp phải khó khăn hay nhu cầu bị bỏ ngỏ thì họ sẽ vui vẻ cân nhắc sử dụng sản phẩm hoặc dịch vụ đó. Niềm vui khi có một sản phẩm xuất hiện và giải quyết được khó khăn, mối nhức nhối khiến bạn phiền muộn trong nhiều năm, niềm hứng khởi về vấn đề sức khỏe, công nghệ, sửa chữa nhà, cảm giác sung sướng khi bạn biết rằng cuối cùng cũng có một cách giải quyết vấn đề hiệu quả, đó mới là bản chất thật sự mà marketing hướng đến. Giải quyết một vấn đề đã đeo đẳng quá lâu luôn mang lại lợi thế đặc biệt. Không chỉ khách hàng cảm thấy khá hơn, mà bạn cũng vui hơn. Sean Parker, Chủ tịch sáng lập Facebook, cũng là một người không học đại học, đã thể hiện quan điểm rất rõ ràng của mình khi tôi nói chuyện với anh ấy. “Những người thành công nhất thường không thể thoải mái nếu gặp phải vấn đề đang gặm nhấm tư tưởng cho đến khi họ giải quyết được chúng. Rõ ràng, họ cần giải quyết điều này ngay lập tức, còn chậm trễ xử lý phút nào, họ còn bứt rứt phút đó. Đó là kết quả thực tế hơn bất cứ quan niệm xa vời nào, đó là cách giải quyết vấn đề triệt để và hiệu quả.” Vấn đề Sean muốn giải quyết khi lần đầu tiên anh nảy ra ý tưởng về TheFacebook (trước khi nó là Facebook) là gì? Đó không phải là kiểm tra các đồng nghiệp, các bạn cùng phòng thân thiết của bạn, của những người bạn của bạn, cho dù anh thừa nhận rằng khi còn độc thân, anh đã xác định được cách giải quyết cho vấn đề đó. Sean nói với tôi một cách say mê, rõ ràng về các vấn đề mà anh ấy bắt đầu giải quyết. “Không có khái niệm nào mang tính toàn cầu, thống nhất, được công nhận về sự nhận danh khi bạn chuyển từ trang này sang trang khác. Tại thời điểm đó không có một phương thức đăng nhập hay hệ thống xác thực người dùng chung nào.” Đó là vấn đề nan giải mà Sean muốn giải quyết. “Microsoft đã thử xử lý nó bằng Microsoft Passport. Không ai có đủ tin tưởng vào Microsoft khi làm điều đó. AOL đã thử với Magic Caroet. Sun đưa ra Liberty Alliance. Họ là những công ty đã bỏ ra nhiều công sức nhất để giải quyết vấn đề và tôi cảm thấy cách giải quyết duy nhất lại tới từ những công ty nhỏ hơn. Nhưng những nỗ lực đó cần đến một số ứng dụng khác. “Tôi đã sử dụng một kỹ thuật để giải quyết vấn đề với sổ địa chỉ online Plaxo. Nhưng cách đó cũng không mang lại hiệu quả cho tới khi tôi thấy TheFacebook. Đó dường như là sự bắt đầu đúng đắn. Mark Zuckerberg, người thành lập Facebook là một anh chàng thông minh và nhiều hoài bão nhất mà tôi từng gặp, đã xây dựng nên mạng lưới xã hội. Cậu ấy cũng tiếp thu hết những phản hồi của tôi về cái đích chúng tôi muốn đạt đến. Hãy nhìn vào những gì mà Mark đã làm ngay cả khi tôi rời khỏi công ty. Cậu đã tạo ra Facebook Connect và mạng lưới xác thực người dùng, cho phép các trang mạng khác sử dụng dữ liệu và lấy được danh sách bạn bè từ Facebook. Cậu ấy đã thực hiện dự định đó một cách hoàn hảo. Và hiện nay, khi nền tảng đã được xây dựng nên, đó cũng là câu trả lời của cậu ấy cho câu hỏi: ‘Làm sao chúng ta có thể tích hợp nó vào cơ cấu của Internet?’” Giải quyết triệt để một vấn đề sẽ giúp bạn đi qua những thăng trầm trong kinh doanh một cách thoải mái. Khi Sean sử dụng Plaxo thất bại, anh ấy đã hoàn toàn tay trắng. Nhưng anh vẫn tiếp tục cố gắng, tập trung vào giải quyết một vấn đề lớn hơn. Anh ấy kể lại: “Tôi lang thang khắp nơi, không nhà cửa, không tài sản suốt năm đầu tiên nỗ lực phát triển Plaxo, gặp gỡ và giới thiệu công ty mới để thu hút các nhà đầu tư mạo hiểm. Khó khăn đến mức, tôi thấy chiếc áo len cuối cùng của mình đã có một chỗ bị rách. Khi tôi bước vào buổi gặp mặt giới thiệu trực tiếp với Mike Moritz của quỹ đầu tư Sequoia Capital, người sau này trở thành nhà đầu tư của tôi, tôi phải thừa nhận rằng áo tôi bị rách, nên không thể đưa tay lên thoải mái được, vì sợ ông ấy thấy chỗ rách đó. Tôi thậm chí chẳng còn xu nào để sắm quần áo. Nếu bạn được thúc đẩy bằng khát khao giải quyết một vấn đề nào đó, bạn sẽ đam mê hết mình. Nếu tình trạng hiện tại thôi thúc bạn mong muốn được hợp tác với một doanh nhân thì bạn sẽ không chấp nhận để mình phải đối mặt với sự bẽ bàng khi phải lang thang. Sean đã kết nối thành công với Mark Zuckerberg khi TheFacebook mới được thành lập và giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành nên Facebook ngày nay. Anh đã bổ sung thêm các chức năng đổi mới đặc biệt cho Facebook như chia sẻ hình ảnh, đánh dấu bạn bè (tag). Anh còn giới thiệu Zuckerberg với Peter Thiel (người mà chúng ta sẽ gặp trong phần sau của cuốn sách), nhà đầu tư đầu tiên của Facebook. Hiện nay, Facebook đang trên đà trở thành nơi duy nhất đăng nhập và xác nhận người dùng cho một phạm vi Internet rộng lớn. Sean sở hữu 7% cổ phần trong Facebook đáng giá hàng tỷ đô-la. Vì thế, phần đầu tiên của marketing không liên quan gì đến truyền thông, quảng cáo hay thông điệp. Nó liên quan đến khái niệm về bản thân sản phẩm hoặc dịch vụ và mức độ khả thi của nó nhằm đáp ứng được các nhu cầu/giải quyết các vấn đề của một thị trường mục tiêu cụ thể. Trong cuốn Purple Cow (Con bò tía) của Seth Godin, marketing hiệu quả “bắt đầu với một vấn đề mà bạn có thể giải quyết cho khách hàng, người nhận ra rằng mình đang gặp vấn đề). Nói theo cách khác, marketing hiệu quả không phải là hoạt động sau khi sản phẩm ra đời như hầu hết các hoạt động marketing hiện nay (và đó là lý do tại sao chúng ta lại ghét từ “marketing” đến thế). Nếu bạn bắt đầu bằng marketing – với những suy nghĩ làm rõ và đáp ứng các nhu cầu của một thị trường theo cách thức hấp dẫn, hiệu quả và triệt để vấn đề thì khách hàng sẽ vui mừng với những gì bạn cung cấp. Một khi bạn đưa ra một sản phẩm thực sự giải quyết được vấn đề của khách hàng (chứ không phải giải quyết vấn đề của chính bạn liên quan đến nhu cầu kiếm tiền), bạn vẫn có thể cho họ biết điều đó. Các hình thức giao tiếp cụ thể, như Dan Kennedy hướng dẫn, mà tôi đã gợi ý cho nhiều doanh nghiệp nhỏ, được gọi là marketing trực tiếp. Phương thức này có thể là một dấu hiệu xấu cho bạn bởi hiện nay có rất nhiều loại marketing trực tiếp tiêu cực, không mấy thiện cảm như thư rác, các chương trình quảng cáo đêm khuya kiểu như: “Đợi chút, những con dao Ginsu miễn phí đang đợi bạn đặt hàng – hãy đặt mua ngay bây giờ!” v.v… Nhưng có những cách thức thực hành marketing trực tiếp rất rõ ràng sẽ được tiết lộ thêm trong phần sau của chương này. Và khi được thực hiện đúng cách, nó sẽ mang lại hiệu quả bất ngờ về tài chính, đồng thời cung cấp những thông tin hữu ích về công ty, sản phẩm, dịch vụ, hoạt động từ thiện và bất cứ dịch vụ nào khác mà bạn muốn chia sẻ với cộng đồng. Đó là phương thức marketing ưa thích của những người mới khởi nghiệp, những người không có những khoản đầu tư lớn để thực hiện các hoạt động marketing nhằm đạt được mục tiêu quảng bá sản phẩm và dịch vụ. Tất cả các dạng marketing trực tiếp đều hướng đến việc tạo ra phản hồi cụ thể, dù là đăng một thư quảng cáo mới, thanh toán các dịch vụ, tài trợ cho một tổ chức từ thiện, kêu gọi một chính trị gia hỗ trợ hợp pháp hóa một vấn đề nào đó. Cho dù bạn có hoạt động trong những lĩnh vực đó hay không thì các hình thức marketing trực tiếp vẫn rất hiệu quả. Hầu hết các hình thức marketing mà bạn thấy (bao gồm cả các hình thức marketing mà bạn học ở đại học và chương trình MBA) được gọi là marketing thương hiệu và hình ảnh. Nó khá lỏng lẻo và không hướng đến một phản hồi cụ thể nào. Hình thức này rất tốn kém với mục tiêu vẽ nên một “hình ảnh” tuyệt đẹp trong tư tưởng của khách hàng về sản phẩm và dịch vụ hoặc mang lại cho họ cảm giác tin cậy và gần gũi khi mua hàng hoặc sử dụng dịch vụ, với hy vọng rằng hình ảnh tuyệt đẹp hoặc cảm giác tin cậy và gần gũi ấy có thể móc được hầu bao của khách hàng khi khách đến cửa hàng và tình cờ nhìn thấy sản phẩm. Nếu bạn đang tự kinh doanh và không có thời gian và tiền bạc để đầu tư vào hình thức marketing này, bạn cần thấy các thành quả ngay lập tức, bạn nên sử dụng marketing trực tiếp. Nếu bạn đang làm việc cho một tập đoàn lớn, bạn nên trở thành một chuyên gia nội bộ về marketing trực tiếp và gây ấn tượng mạnh với họ nhờ kết quả mà bạn có thể mang lại cho họ. (Bạn không để chúng trong bản mô tả công việc sao? Hãy đọc Kỹ năng thành công số 7 về lý do tại sao bạn nên xé toạc bản mô tả công việc vừa viết và bỏ nó vào thùng rác nếu muốn tạo điểm nhấn trong tổ chức.) Trong cuốn sách tuyệt vời No B.S. Direct Marketing (Tạm dịch: Marketing trực tiếp không bằng cấp) theo quan điểm của tôi, phần nội dung chỉ dẫn