🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Namaskar! Xin Chào Ấn Độ
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Namaskar! Xin chào Ấn Độ
Tác giả: Hồ Anh Thái
Nhà xuất bản: Văn Nghệ
Số trang: 344
Năm xuất bản: 2008
E-book này được thực hiện trên tinh thần thiện nguyện, phi lợi nhuận và phục vụ cộng đồng người đọc chưa có điều kiện mua sách giấy.
Bạn nên mua sách giấy để ủng hộ đơn vị xuất bản và thưởng thức trọn vẹn tác phẩm.
https://thuviensach.vn
Namaskar! Xin chào!
Namaskar là lời chào hỏi phổ biến nhất ở Ấn Độ, chào cả khi gặp mặt lẫn khi chia tay. Câu chào Namaskar còn có nghĩa là “tôi xin cúi mình trước bạn”. Hai bàn tay chắp vào nhau, đưa lên chạm vào trán, ở nơi có “con mắt thứ ba” theo quan niệm của đạo Hindu, sau đó hạ xuống, chắp trước ngực. Thông thường chỉ cần chắp hai tay trước ngực là đủ. Hai tay chắp vào nhau mang ý nghĩa Một Tinh Thần, hay là cái tiểu ngã gặp được Đại Bản Ngã. Bàn tay phải tượng trưng cho bản thể thiêng liêng và cao quý hơn, bàn tay trái đại diện cho bản thể trần tục hơn.
Thay cho câu Namaskar nhiều chất kính trọng, người ta còn chào câu Namaste thân mật hơn. Namaskar có thể bắt đầu xuất hiện từ cổ đại: người ta chắp tay trước ngực khi mới đến để cho thấy rằng mình đã có mặt với thiện chí và không mang theo vũ khí.
https://thuviensach.vn
Lời mở đầu
Càng bơi càng khó thấy bờ
Ấn Độ là một bảo tàng sống. Hầu như rất nhiều phong tục tập quán có từ mấy nghìn năm được lưu giữ trọn vẹn cho đến tận bây giờ. Chẳng hạn, hãy nhìn thiếu nữ đi trên đường kia. Tấm sari cô mang trên người cũng chính là tấm sari của mấy nghìn năm trước. Cái dáng đi khoan thai, có phần hơi chậm rãi, đi mà như ngày rất dài, đời rất dài, cũng chính là dáng đi mấy nghìn năm của người Ấn Độ. Bao nhiêu ý kiến của các tổ chức phụ nữ, các đoàn thể yêu cầu cải tiến trang phục cho hợp với đời sống lao động hiện đại, nhưng hầu như rất ít được hưởng ứng... Nhờ thế và nhờ nhiều điều như thế, Ấn Độ luôn luôn là một bảo tàng sống.
Đấy là nhận xét của phần lớn những người nghiên cứu văn hóa phương Đông. Lớp chúng tôi ngày ấy đa số là người Âu - Mỹ, khi hỏi vì sao họ chọn Ấn Độ để nghiên cứu, mà không phải là Trung Quốc, không phải là Ai Cập? Họ đều bảo chính là vì Ấn Độ còn lưu giữ hầu như nguyên vẹn mọi thứ. Không phải lưu giữ hiện vật chết trong bảo tàng, mà lưu bằng cả một đất nước, một xã hội sống động. Những cái nôi văn minh khác đều đã bị tàn phá ít nhiều bởi thiên tai và những cuộc cách mạng, bởi những biến động lịch sử. Riêng ở việc bảo tồn sống động này, liệu ta có phải biết ơn tính bảo thủ của người Ấn?
Những ngày đầu ở Ấn Độ, tôi như chìm giữa một biển sương mù. Cái nóng làm cho người ta u mê, ý nghĩ chậm chạp, cử động chậm chạp, phản ứng chậm chạp. Một buổi chiều sau giờ học, tôi ngồi một mình ở bến xe buýt, trong cái nóng chỉ chực làm cho mình mê đi, dẫu có tỉnh cũng chỉ là cái tỉnh của cơn mộng du. Chính vào lúc ấy, hình như có một bóng người đi qua trước mặt. Một cánh tay đột ngột chìa tới như định cào vào mặt tôi. Lập tức gạt phắt cánh tay ra. Cánh tay ấy lại cố gắng chìa vào mặt tôi lần nữa. Tôi lại hất ra.
https://thuviensach.vn
Choàng tỉnh từ cơn u mê, tôi thấy một ông già râu dài tóc búi như hiện về từ cổ đại, trên trán quệt mấy vệt màu đỏ màu trắng, cổ đeo tràng hạt, tay cầm cây đinh ba nhỏ bằng đồng sáng bóng, một bình nước cũng bằng đồng sáng bóng. Chính ông vừa hai lần xỉa tay vào mặt tôi và hai lần bị tôi hất tay ra. Ông từ bỏ hành động lạ lùng ấy, lặng lẽ bước đi. Ông đi một lúc rồi mà trống ngực tôi vẫn đập thình thình.
Đấy là một kỷ niệm khiến tôi ngượng mãi. Về sau, nghiên cứu tìm hiểu và trải nghiệm trong đời sống Ấn Độ, tôi mới biết ông già gặp ở bến xe hôm ấy là một du sĩ. Những giáo sĩ lang thang như thế ta có thể gặp ở khắp thủ đô New Delhi, khắp Ấn Độ. Ông có thể từng là một công chức, có thể là một doanh nhân thành đạt, sau khi đã gây dựng gia đình, dựng vợ gả chồng cho con cái, tự thấy đã trọn việc đời, thì quyết định xa lánh đời trần tục, lên đường theo đuổi đời sống tinh thần. Hành động chìa tay vào mặt tôi lúc ấy, đơn giản chỉ là ông muốn quệt lên trán tôi một vệt phẩm màu, để ban phước.
Một lần khác, tôi đưa một ông sếp đi thăm mấy ngôi đền Hindu và Phật giáo, nhân ông đi công tác ngang qua Ấn Độ. Chuyến tham quan vui vẻ, người hướng dẫn lẫn người đi chiêm bái đều hài lòng. Chỉ có điều, sau khi ra khỏi một ngôi đền, ông đứng trước bậc thềm, vừa xỏ lại đôi giày vừa ngập ngừng hỏi như không tin vào điều ông mới nhìn thấy: Sao đền chùa ở đây nó lại vẽ cả hình thập ngoặc phát xít?
Tất nhiên tôi đã giải thích ngay cho ông về cái chữ vạn (swastika), một chữ thiêng của người Aryan, sau này thành thiêng liêng đối với nhiều tôn giáo như Hindu, đạo Phật, đạo Jain và việc vì sao nó lại bị sử dụng thành chữ thập ngoặc phát xít... Nhưng từ đó những chuyện lúng túng khi bất ngờ va phải văn hóa Ấn Độ và đời sống Ấn Độ khiến tôi nung nấu ý tưởng phải làm gì đó giúp cho những người đến sau. Việt Nam được coi là chịu ảnh hưởng của hai luồng văn hóa Trung và Ấn, ta ở trên bán đảo Trung-Ấn, nhưng thử hỏi đã có bao nhiêu phần văn hóa Ấn Độ được phổ cập? Kiến thức của người
https://thuviensach.vn
Việt về Ấn Độ có lẽ không bao giờ so sánh được với hiểu biết về Trung Hoa.
Tôi đã tận dụng thời gian để góp nhặt kiến thức về Ấn Độ trong một thời kỳ dài sau đó. Sáu năm trời dọc ngang khắp các vùng miền trên tiểu lục địa Ấn Độ. Nhiều năm sau đó ở các nước khác, nhưng vẫn tiếp tục đề tài, tận dụng những phương pháp của các nước mà soi chiếu ngược trở về Ấn Độ. Tự nguyện xâm nhập vào văn hóa Ấn Độ giống như tự nguyện nhảy xuống biển, cả một đại dương văn hóa khiến cho ta càng bơi càng không thấy bờ. Tôi đã choáng váng mất mấy năm đầu trước một đất nước quá xa lạ. Khác hẳn cảm giác sau này khi tôi lần đầu đến Trung Quốc, cứ như mình trở về nhà sau một chuyến đi dài hàng trăm năm. Trước Ấn Độ ta thấy mình thật nhỏ bé. Ở đó cái gì cũng to, người to tướng, da ngăm đen và da trắng bóc pha trộn; nhà to, đền đài cung điện thành quách... cho đến cây trái đều to. Hình như người Ấn tư duy cái gì cũng lớn, cũng mang tính toàn cảnh bao quát. Lúc không trầm tư mặc tưởng ù trì thì hành động cũng hoành tráng. Còn bí ẩn thì không cần phải nói nhiều, tư tưởng Ấn Độ, tâm trạng Ấn Độ là thứ mà càng tìm hiểu lại càng không hiểu nổi. Dường như vậy.
Người ta có thể đi thăm một đất nước bất kỳ trong ít ngày, trở về viết được một bài báo, bài bút ký dày dặn. Tôi thì phải sau bốn năm ở Ấn Độ mới dám viết truyện ngắn đầu tiên, tìm cách lý giải cho mình và cho độc giả về tính cách Ấn Độ. Và bây giờ, sau hai chục năm, sau khi ở Ấn Độ và qua nhiều nước Âu - Mỹ tiếp tục nghiên cứu về Ấn Độ, tôi mới tập hợp những bài viết thành một cuốn sách mang tính biên khảo. Đây là kết quả của những nghiên cứu, những chuyến đi thực địa, những điều lượm lặt từ sách vở và từ những cuộc đàm đạo với các bậc đạo sư, các vị học giả, những cuộc cùng ăn cùng ở cùng làm với người bình dân Ấn Độ. Có những điều khi nghe dân chúng nói, về đối chiếu lại thấy có sai khác, phải sử dụng đến trực giác, thực nghiệm và lý thuyết để phân định. Tuy vậy, như đã nói ở trên, Ấn Độ là như thế mà không phải như thế. Ta đã chấp nhận bơi giữa đại dương thì cũng phải chấp nhận càng bơi càng khó thấy bờ.
https://thuviensach.vn
Những điều tôi ghi lại ở đây, chỉ nhằm giúp cho ai đó muốn có chút kiến thức nhập môn về Ấn Độ. Đại dương Ấn Độ đã được đưa vào trong một cái chai nhỏ. Hay là như một nhà báo Việt Nam đi cùng tôi vào sa mạc Thar ở vùng Jaisalmer, chị đã lấy một ít cát kỷ niệm vào cái lọ nho nhỏ, cả một sa mạc nằm trong lòng tay. Những khái niệm đã được tóm lược và đơn giản hóa ở mức dễ tiếp nhận nhất. Độc giả sẽ gặp những tư tưởng, những sản phẩm văn hóa, những biểu tượng ký hiệu, những phong tục tập quán... được trình bày theo quan niệm của đạo Hindu. Từ đó, người đọc sẽ có điều kiện so sánh ảnh hưởng của chúng đối với các tôn giáo khác như đạo Phật, đạo Jain, đạo Sikh; và ảnh hưởng đối với các nền văn hóa khác, những đất nước khác trong khu vực. Cách trình bày này có thể còn để thiếu nhiều thứ. Cấu trúc của cuốn sách này cũng để mở cho việc bổ sung nhiều vấn đề trong những lần tái bản.
Nói tóm lại, tôi mong muốn cuốn sách này có ích cho những ai nhập môn Ấn Độ học hoặc lần đầu tiên đến Ấn Độ. Họ sẽ không lặp lại kỷ niệm vụng về của tôi hai mươi năm trước. Khi một bàn tay thiện chí chìa về phía ta, ta không lo sợ mà gạt phắt nó ra.
https://thuviensach.vn
Theo dòng lịch sử Ấn Đội
https://thuviensach.vn
Nền văn minh thung lũng sông Indus
Từ khoảng 2.500 năm trước Công nguyên, nền văn minh lớn đầu tiên của Ấn Độ đã phát triển dọc theo thung lũng sông Indus (nay thuộc Pakistan), ở những thành phố lớn như Mohenjodaro và Harappa, một nền văn minh đã phát triển ở mức độ tinh xảo và phức tạp. Mãi đến đầu thế kỷ XX người ta mới phát hiện ra những thành phố này, sau đó khai quật thêm một số thành phố khác như Lothal, ở gần Ahmedabad, thuộc đất Ấn Độ ngày nay.
Các thành phố ở thung lũng sông Indus không hẳn là do vua chúa cai quản mà chủ yếu là do những tập đoàn tôn giáo. Tại đó, kỹ thuật xây dựng đã phát triển ở mức độ cao. Từ 4.000 năm trước, người ta đã xây dựng những nhà tắm công cộng trong thành phố, những hệ thống cống rãnh phức tạp, thậm chí còn tổ chức cả việc thu nhặt rác thải. Mặc dù đã thực hiện nhiều cuộc khai quật khảo cổ, sự phát triển và diệt vong của nền văn minh này vẫn còn là điều bí ẩn. Đến nay người ta vẫn chưa thể đọc được chữ viết của thời ấy, cũng như chưa lý giải được vì sao một nền văn minh bậc cao như vậy lại có thể sụp đổ nhanh chóng trước sự xâm nhập của người Aryan.
https://thuviensach.vn
Những cuộc xâm nhập đầu tiên
Còn rất ít cứ liệu về những cuộc xâm nhập đầu tiên của người Aryan, mặc dù ngày nay dân miền Bắc Ấn Độ được coi là thuộc dòng giống Aryan, và dân miền Nam là Dravidian. Khoảng năm 1.500 trước CN, từ phía Bắc, người Aryan dần dần tràn qua Ấn Độ, từ Punjab và Sind (nay thuộc Pakistan) vượt qua sông Hằng về phía Bengal. Dưới thời Darius (521-486 trước CN) Punjab và Sind trở thành một phần đất thuộc đế chế Ba Tư. Cho đến ngày nay, Sind và một phần Punjab cũng không còn thuộc lãnh thổ Ấn Độ, mà là của Pakistan.
Năm 326 trước CN, Alexander Đại đế của Macedonia đã tới cửa ngõ Ấn Độ, trong cuộc hành binh từ Hy Lạp đến. Nhưng ở chặng cuối cuộc viễn chinh sức cùng lực kiệt, quân sĩ của ông không chịu hành quân qua sông Beas, điểm cực đông của đế chế Ba Tư mà Alexander Đại đế đã chiếm được. Vì vậy Alexander Đại đế đã quay bước, không tiếp tục bành trướng thế lực về phía Ấn Độ. Bằng chứng lâu đời nhất chứng tỏ sự xuất hiện của ông ở phương Đông là sự phát triển của nghệ thuật Gandhara, một sự pha trộn lạ lùng giữa nghệ thuật Hy Lạp với tín ngưỡng Phật giáo.
https://thuviensach.vn
Sự xuất hiện của tôn giáo
Hindu và đạo Phật là hai tôn giáo lớn ra đời ở Ấn Độ.
Hindu là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới. Ngay cả nền văn minh thung lũng sông Indus do các giáo sĩ thống trị cũng đã có rất nhiều yếu tố giống với đạo Hindu sau này. Người ta cho rằng tất cả những sách kinh lớn của đạo Hindu đều thực sự gắn với các sự kiện lịch sử. Kinh Veda (được soạn vào khoảng năm 1.500 đến 1.200 trước CN) có kể về thắng lợi của Thần Sáng tạo Brahma trước Ngọc Hoàng Indra, đồng thời là Thần Sấm sét và Chiến trận. Có thể chi tiết này cho biết về sự phục hồi của đạo Bà La Môn (tiền thân của đạo Hindu) sau những cuộc xâm lược của người Aryan.
Trong tiến trình lịch sử, đạo Hindu đã trải qua nhiều lần suy tàn và phục hưng, nhưng sự thách thức lớn nhất đối với nó là đạo Phật, một tôn giáo lớn khác của Ấn Độ. Đạo Phật xuất hiện vào khoảng năm 500 trước CN, rồi bắt đầu phát triển mạnh trong dân chúng dưới thời hoàng đế Ashoka. Nhưng sau đó, đạo Phật không thu nạp được đa số tín đồ và mờ nhạt dần khi đạo Hindu phục hồi, vào khoảng từ năm 200 trước công nguyên đến năm 800 Công nguyên.
Bên cạnh hai tôn giáo lớn này, đạo Jain và đạo Sikh cũng ra đời tại Ấn Độ. Những tôn giáo lớn ra đời ở Ấn Độ sẽ được trình bày ở một phần sau.
https://thuviensach.vn
Đế chế Maurya và hoàng đế Ashoka
Hai thế kỷ trước khi Alexander Đại đế hành binh về phương Đông, ở miền Bắc Ấn Độ có một vương quốc đã bắt đầu phát triển. Năm 321 trước CN, khi Chandragupta lên cầm quyền, đế chế Maurya đã bành trướng đến những vùng do Alexander Đại đế bỏ lại. Từ thủ đô của mình (nay là Patna, thủ phủ bang Bihar) đế chế Maurya cuối cùng đã tràn khắp miền bắc Ấn Độ.
Dưới thời hoàng đế Ashoka, đế chế này đã đạt tới đỉnh cao. Năm 262 trước CN, Ashoka theo đạo Phật. Trên khắp đế chế của mình, ông cho dựng lên những cây cột lớn bằng đá, trên đó khắc những chỉ dụ của hoàng đế, xác định rõ những di tích thật liên quan đến cuộc đời Đức Phật. Nhờ những chỉ dụ này mà về sau nhân loại có căn cứ để xác định rằng Đức Phật là nhân vật có thật, không phải huyền thoại. Ngày nay có thể thấy chỉ dụ và cột đá Ashoka ở Delhi, bang Gujarat, bang Orissa, Sarnath (bang Uttar Pradesh) và Sanchi (bang Madhya Pradesh).
Ashoka còn gửi sứ thần ra nước ngoài, ở Sri Lanka, tên ông được dân chúng nhắc đến với lòng thành kính, bởi vì Ashoka đã cho con trai là Mahinda (có thuyết nói rằng hoàng đế đã gửi con gái là Sanghamitta) mang đạo Phật đến vùng đất này. Cũng trong thời gian Ashoka cầm quyền, nghệ thuật và điêu khắc được phát triển mạnh. Mẫu hiệu của hoàng đế đặt trên đỉnh cột (bốn con sư tử chụm lưng vào nhau) ngày nay là quốc huy và con dấu của nước Cộng hòa Ấn Độ. Dưới thời Ashoka, đế chế Maurya thu phục được nhiều vùng đất của Ấn Độ hơn tất cả những người cầm quyền của Ấn Độ sau này. Sau khi Ashoka qua đời, năm 232 trước CN, đế chế này nhanh chóng bị chia cắt, cuối cùng sụp đổ vào năm 184 trước CN.
https://thuviensach.vn
Thời kỳ hậu đế chế Maurya
Đế chế Gupta
Sau đế chế Maurya, có một loạt đế chế khác ra đời và sụp đổ. Ở vùng tây bắc, những người kế tục Alexander Đại đế bành trướng thế lực về phía Punjab, và vùng này thuộc về vương quốc Gandhara. Ở miền đông và đông nam, người Andhra và Telugu từ ven biển đã bành trướng vào nội địa, trong khi người Sunga trực tiếp thay thế đế chế Maurya từ năm 184 đến 70 trước CN. Trong thời kỳ này có thêm nhiều công trình Phật giáo được hoàn thành, những đền chùa lớn trong hang đá ở miền trung Ấn Độ được khởi công xây dựng. Đây là thời kỳ của Phật giáo Tiểu thừa (Hinayana) với đặc điểm: hình ảnh của Đức Phật không được thể hiện trực tiếp, mà chỉ thông qua biểu tượng như những stupa (bảo tháp tưởng niệm Đức Phật), những dấu chân Phật, cây bồ đề nơi Phật ngồi và đắc đạo, hoặc hình ảnh con voi mà thân mẫu Phật mơ thấy... Mặc dù giáo phái này tiếp tục chiếm đa số đến năm 400 CN, nhưng từ năm 100, nó đã bị nhánh Đại thừa (Mahayana) nổi lên và dần dần thế chỗ.
Năm 319 CN, Chandra Gupta II sáng lập ra đế chế Gupta, trang sử đầu tiên của đế chế Gupta. Những người kế tục ông đã bành trướng khắp miền bắc Ấn Độ, đầu tiên từ Patna, sau đó từ những thủ phủ khác như Ayodhya. Năm 455 đế quốc Gupta bắt đầu nhường chỗ cho thời hậu Gupta, nhưng thời kỳ Gupta thực sự còn tiếp tục cho đến năm 606. Trong thời kỳ này, nghệ thuật nở rộ với những tác phẩm xuất sắc nhất được sáng tác tại các khu hang động Ajanta, Ellora và ở các vùng Sanchi, Sarnath. Thơ ca và văn chương cũng ở vào thời đại hoàng kim. Tuy vậy, đến cuối thời kỳ Gupta, đạo Phật và đạo Jain đều bắt đầu suy tàn, và một lần nữa đạo Hindu phục hồi.
Sự xâm lược của rợ Bạch Hung (White Huns) báo hiệu sự kết thúc của kỷ nguyên này. Trước đó, họ đã đuổi được người Gandhara từ
https://thuviensach.vn
phía bắc, cạnh Peshawar, chạy về phía Kashmir. Miền bắc Ấn bị chia cắt thành một số vương quốc Hindu riêng biệt, và thực sự không được thống nhất lại cho tới khi người Hồi giáo đến.
Ở miền Nam Ấn Độ
Trong lịch sử Ấn Độ, các sự kiện xảy ra ở vùng này thường không có tác động đáng kể đến vùng khác. Những vương quốc ra đời và sụp đổ ở miền bắc nhìn chung không có ảnh hưởng hoặc liên quan gì đến những vương quốc ở miền nam. Trong khi đạo Phật (và cả đạo Jain, ở mức độ thấp hơn) đang thay thế đạo Hindu ở miền trung và bắc Ấn, thì ở miền nam đạo Hindu vẫn tiếp tục phát triển.
Sự hưng thịnh của miền Nam dựa trên quan hệ buôn bán lâu đời với các nước khác. Người Ai Cập, rồi người La Mã, đã buôn bán bằng đường biển với người nam Ấn. Sau đó là sự thông thương với Đông Nam Á. Đã có thời đạo Phật và đạo Hindu phát triển trên quần đảo Indonesia, người dân ở đó coi Ấn Độ như một bậc thầy về nghệ thuật. Một trong những bản anh hùng ca nổi tiếng nhất của đạo Hindu, Ramayana (kể về hoàng tử Rama và nàng Sita) ngày nay còn được kể đi kể lại bằng nhiều hình thức nghệ thuật ở Đông Nam Á. Thêm vào đó, miền nam Ấn cũng chịu ảnh hưởng của bên ngoài. Năm 52 CN, vị thánh tông đồ St. Thomas đã đến Kerala, sau đó tử vì đạo ở Madras. Đến nay, vùng này vẫn còn chịu ảnh hưởng mạnh của Thiên Chúa giáo.
Chola, Pandya, Chera, Chalukya và Pallava là những vương quốc lớn ra đời ở miền nam. Vương triều Chalukya chủ yếu thống trị ở vùng Deccan thuộc miền trung Ấn, mặc dù thỉnh thoảng có bành trướng lên phía bắc. Đặt thủ đô tại Badami (thuộc bang Karnataka) họ đã cầm quyền từ năm 550 đến 753, rồi sụp đổ và bị vương triều Rashtrakuta thay thế. Năm 972 Chalukya một lần nữa trở lại thống trị cho đến năm 1190. Sâu xuống phía nam, vương triều Pallava đi tiên phong trong nghệ thuật kiến trúc Dravadia, phong cách đa dạng và hầu như rất kỳ dị. Họ còn mang văn hóa Ấn Độ đến đảo Java (Indonesia), đến Thái Lan và Campuchia.
https://thuviensach.vn
Năm 850 triều Chola lên cầm quyền và dần dần thay thế triều Pallava. Căn cứ vào ngôi đền tại Tanjore thì họ cũng là những nhà xây dựng tuyệt vời. Họ đã bành trướng qua biển bằng những cuộc tấn công quần đảo Ceylon (Sri Lanka ngày nay) và một cuộc chiến tranh kéo dài với đế chế Srivijaya ở Sumatra. Đã có lúc họ kiểm soát được một phần Sumatra và bán đảo Malay.
https://thuviensach.vn
Những cuộc xâm lược đầu tiên của người Hồi giáo
Ở miền Bắc
Trong lúc những vương quốc Hindu thống trị ở miền nam, còn đạo Phật hưng thịnh rồi suy tàn ở miền bắc, thì người Hồi giáo đã từ Trung Đông xâm nhập vào Ấn Độ. Năm 622, giáo chủ Mohammed phải bỏ chạy khỏi Mecca, rồi năm 630 quay trở lại để bắt đầu thời kỳ bành trướng nhanh chóng của đạo Hồi. Gần một thế kỷ sau, người Arab theo lời dạy của Mohammed, đã mang kinh Koran và thanh kiếm đến tấn công vùng Sind và Gujarat.
Những cuộc tấn công đầu tiên là của Mahmud vào vùng Ghazni. Ngày nay Ghazni chỉ là một thị trấn nhỏ nằm giữa Kabul và Kandahar ở Afghanistan, nhưng từ năm 1001 Mahmud hầu như năm nào cũng phải mở cuộc tấn công vào đó. Quân Đội của Mahmud vào Ấn Độ, hủy diệt những đền chùa “dị giáo” và cướp đi tất cả những gì có giá trị. Năm 1033 sau khi Mahmud qua đời, những người kế tục đã thực sự chiếm được Varanasi. Nhưng năm 1038 người Thổ Seljuk, cũng đang bành trướng về phía đông, chiếm được Ghazni và ngay sau đó những cuộc tấn công vào Ấn Độ đã ngừng lại.
Những cuộc đột nhập đầu tiên này chỉ đơn thuần là cướp phá, phải đến năm 1192 người Hồi giáo mới đến Ấn Độ thường xuyên. Vào năm đó, Mohammed vùng Ghori, người đã bành trướng khắp Punjab, mới vào sâu trong đất Ấn Độ và chiếm Ajmer (bang Rajasthan). Năm sau, tướng của ông ta là Qutab-ud-din chiếm Varanasi và Delhi rồi sau khi Mohammed bị giết vào năm 1206, Qutab-ud-din trở thành vị Sultan (hoàng đế đạo Hồi) đầu tiên của Delhi. Trong vòng 20 năm, các Sultan đã nắm được toàn bộ vùng lưu vực sông Hằng. Nhưng các Sultan của Delhi không hề ổn định trên ngai vàng. Tùy thuộc vào khả năng từng người mà vương quốc được mở rộng hoặc thu hẹp.
https://thuviensach.vn
Năm 1297, Ala-ud-din Khilji đẩy biên giới xuống miền nam, tới Gujarat, sau đó viên tướng của ông còn đi sâu hơn nữa xuống phía nam nhưng không tiếp tục mở rộng vương quốc. Năm 1338 Mohammed Tughlaq quyết định dời thủ đô từ Delhi xuống phía nam, đến Daulatabad, gần Aurangabad (thuộc bang Maharashatra), nhưng trong khi đang di chuyển hầu hết dân cư đi thì ông ta lại thay đổi quyết định, đưa dân quay trở lại miền bắc. Ngay sau đó, vương quốc Bahmani ra đời ở đây và các vị Sultan của Delhi bắt đầu rút về miền bắc. Họ chỉ suy yếu đi khi hoàng đế Timur từ vùng Samarkand tấn công vào Ấn Độ năm 1398.
Ở miền nam
Một lần nữa những sự kiện ở miền nam Ấn Độ lại không liên quan đến miền bắc, bởi vì người Aryan không bành trướng xuống phía nam được. Khoảng từ năm 1000 đến 1300, đế chế Hoysala với trung tâm là Belur, Halebid và Somnathpur đã lên đến đỉnh cao, nhưng năm 1328 nó sụp đổ trước cuộc tấn công cướp bóc của Mohammed Tughlaq, sau đó là của liên minh những vương quốc Hindu.
Có hai vương quốc lớn khác ở phía bắc bang Karnataka ngày nay: một của người Hồi giáo và một của Hindu. Vương quốc Hindu ở Vijayanagar, thủ đô là Hampi, thành lập năm 1330 và có thể là vương quốc Hindu mạnh nhất ở Ấn Độ trong thời gian các hoàng đế đạo Hồi của Delhi đang thống trị miền bắc.
Đồng thời vương quốc Bahmani của đạo hồi cũng rất phát triển, nhưng năm 1389 nó bị chia cắt thành năm vương quốc riêng biệt tại Berar, Ahmednagar, Bijapur, Golconda và Ahmedabad.
Năm 1520 vương quốc Hindu chiếm được Bijapur, nhưng năm 1565 đối thủ Hồi giáo của họ đã hủy diệt Vijayanagar. Sau đó các vương quốc Bahmani đã rơi vào tay những hoàng đế Moghul.
https://thuviensach.vn
Các Moghul
Moghul (còn gọi là Mughal hoặc Mongol) là danh từ chỉ các hoàng đế theo đạo Hồi. Trong lịch sử Ấn Độ, chỉ có hoàng đế Ashoka (thế kỷ III trước CN) mới là một nhân vật vĩ đại có thể sánh được với các hoàng đế Moghul. Những hoàng đế hùng mạnh này đã mở ra một thời đại hoàng kim mới cho Ấn Độ và mở rộng ảnh hưởng ra khắp đất nước, tới chừng mực chỉ có hoàng đế Ashoka trước kia, và sau này là người Anh, mới sánh được. Các Moghul lên cầm quyền rất nhanh, sụp đổ cũng rất nhanh. Tất cả chỉ có sáu Moghul. Sau vị Moghul cuối cùng là Aurangzeb, các hoàng để chỉ còn là người có danh nghĩa mà thôi.
Các Moghul không chỉ đơn thuần làm công việc cai trị, mà còn rất yêu thích việc xây dựng và để lại những đền đài tuyệt vời. Taj Mahal, tòa lăng mộ bằng cẩm thạch màu trắng của hoàng đế Shah Jahan được coi là một trong những lâu đài vĩ đại bậc nhất trên thế giới, ngày nay là biểu tượng nổi tiếng nhất của Ấn Độ. Các cung điện của nhà vua đã làm sửng sốt những du khách đầu tiên từ châu Âu đến. Dưới thời các Moghul, văn học và nghệ thuật cũng rất phát triển.
Đáng kể nhất chỉ có sáu Moghul và đây là thời gian cầm quyền của họ:
1. Babur 1527-1530
2. Humayun 1530-1556
3. Akbar 1556-1605
4. Jehangir 1605-1627
5. Shah Jahan 1627-1658
6. Aurangzeb 1658-1707
https://thuviensach.vn
Babur, mang trong mình dòng máu của cả Thành Cát Tư Hãn (Mông Cổ) và Timur, từ thủ đô Kabul (Afghanistan) hành binh tới Punjab và đánh bại Sultan của Delhi tại Panipat. Thắng lợi ban đầu này không hoàn toàn tiêu diệt được sự chống đối và năm 1540 đế chế Moghul bất ngờ bị chấm dứt, khi Humayun bị Sher Shah đánh bại. Humayun phải biệt xứ cho đến khi tập hợp được lực lượng, quay về giành lại ngai vàng. Đến năm 1556, Akbar - con trai và là người thừa kế của Humayun, lên ngôi từ năm 14 tuổi - đã đủ khả năng để cai trị một cách có hiệu quả toàn bộ đế chế.
Akbar được coi là người vĩ đại nhất trong tất cả các Moghul, bởi vì ông không chỉ có khả năng quân sự, mà còn là một người có văn hóa, uyên bác và có thái độ công bằng, ông thấy được vấn đề mà các nhà cầm quyền Hồi giáo trước đó không thấy là số lượng người Hindu ở Ấn Độ quá lớn và không thể dễ dàng khiến họ khuất phục. Vì vậy ông đã tập hợp họ lại, sử dụng nhiều người theo đạo Hindu làm cố vấn, tướng lĩnh và quản lý chính quyền. Akbar còn quan tâm sâu sắc đến tôn giáo và đã dành nhiều thời gian để đàm đạo với các chuyên gia tôn giáo thuộc đủ mọi tín ngưỡng, bao gồm cả Thiên Chúa giáo. Cuối cùng ông xây dựng nên một tôn giáo kết hợp những luận điểm hay nhất của tất cả các tôn giáo mà ông đã nghiên cứu.
Jehangir nối ngôi của Akbar, nhưng dành quá nhiều tâm sức để quan tâm đến vùng Kashmir, cuối cùng đã chết trên đường hành quân tới đó. Lăng mộ của ông được xây dựng tại Lahore, nay thuộc Pakistan.
Shah Jahan thì gắn bó với Agra và Delhi. Ông đã cho xây rất nhiều công trình vĩ đại để ghi nhớ những công trạng vinh quang của các hoàng đế Moghul. Nổi tiếng nhất trong số đó là lâu đài Taj Mahal. Có người cho rằng chính sự say mê xây dựng đã khiến ông bị con trai là Aurangzeb bắt cầm tù, nhầm ngăn chặn sự xa hoa về kiến trúc của vua cha.
https://thuviensach.vn
Aurangzeb là vị Moghul vĩ đại cuối cùng. Mặc dù đã kéo dài biên giới của đế chế đến nơi xa nhất, ông làm cho nó sụp đổ vì không tuân thủ những luật lệ cơ bản do Akbar đề ra. Akbar đã kết hợp được sự tinh tường và ý thức công bằng, đã gạt bỏ được mối bất đồng đối với người theo đạo Hindu bằng cách đưa họ vào bộ máy cầm quyền và tôn trọng tín ngưỡng của họ. Ngược lại, Aurangzeb là một người khắt khe và cuồng tín. Niềm tin của ông đối với đạo Hồi sâu sắc, khắc kỷ và mang tính thanh giáo. Kết quả là ông không được dân chúng tin yêu và tôn kính, phải đương đầu với những cuộc nổi dậy từ mọi phía, ở nhiều nơi trên đất Ấn Độ, những đền thờ của đạo Hồi được xây dựng ngay chính trên nền móng những đền chùa của tôn giáo khác mà trước đó bị Aurangzeb triệt phá. Hành động xúc phạm này gây thù hận giữa các tôn giáo tận đến ngày nay. Năm 1707 cùng với việc Aurangzeb qua đời, đế chế Moghul nhanh chóng bị chia cắt. Trái ngược với lăng mộ nguy nga của các Moghul trước đó, Aurangzeb chỉ có một lăng mộ đơn giản ở Rauza, cạnh Aurangabad.
Cho đến thời gian xảy ra cuộc binh biến và người Anh đem đày phát vãng vị Moghul cuối cùng, đồng thời hành hình con trai ông ta, mặc dù vẫn có các “hoàng đế Moghul”, song những hoàng đế này chỉ còn là Moghul hữu danh vô thực.
Sau đế chế Moghul, các tiểu bang vẫn tiếp tục tồn tại một thời gian, ở miền nam, tổng trấn Hyderabad trở thành một trong những bang do người Anh bảo hộ và tồn tại cho đến ngày Ấn Độ độc lập. Các Nawab (quý tộc cầm quyền) ở Oudh thuộc miền bắc Ấn cai trị một cách dị thường và rất tồi tệ cho đến năm 1854, khi người Anh cho vị Nawab cuối cùng về hưu. Trước đó ở vùng Bengal, các Moghul vẫn đụng độ với người Anh, và số phận của họ đã phải kết thúc bằng trận Plassey năm 1757.
https://thuviensach.vn
Thời kỳ Maratha
Cường quốc Moghul không chỉ đơn giản là bị một thế lực mạnh hơn thay thế. Nó sụp đổ do nhiều nhân tố khác và do những thủ lĩnh khác. Một trong những nhân tố này là người Maratha.
Trong thời kỳ Hồi giáo, ở miền bắc Ấn Độ còn có những thế lực Hindu hùng mạnh, nổi bật nhất là những Rajput. Tập trung ở bang Rajasthan, Rajput là một đẳng cấp tráng sĩ, thuộc dòng những ông hoàng nghĩa hiệp. Trong lịch sử Ấn Độ, họ đóng vai trò giống như các hiệp sĩ phóng túng trong lịch sử Anh. Các Rajput chống lại tất cả những kẻ ngoại bang xâm lược, nhưng chưa bao giờ thống nhất và hợp lại một mối. Một khi không chiến đấu chống ngoại xâm thì họ quay lại đánh lẫn nhau. Trong thời kỳ Moghul, một số tướng lĩnh xuất sắc nhất trong quân đội là những Rajput.
Maratha là một đẳng cấp binh sĩ Hindu ở miền trung Ấn Độ. Người Maratha bắt đầu nổi lên với Shivaji - một người thừa kế vương quốc của cha mình, từ năm 1646 đến 1680 đã chứng tỏ sức mạnh quân sự và tính anh hùng của người Maratha trên khắp miền trung Ấn. Truyền thuyết về những kỳ tích của Shivaji nổi tiếng khắp nơi nhờ những nhà kể chuyện lang thang trong các làng xóm. Ông là một người anh hùng đặc biệt ở vùng Maharashtra, nơi ông đã làm nên những chiến công lẫy lừng. Nhưng Shivaji còn được sùng kính vì hai lý do khác: là người thuộc đẳng cấp thấp Sudra, ông đã chứng tỏ rằng lãnh tụ vĩ đại không nhất thiết phải là người đẳng cấp cao của đạo Bà La Môn, và ông cũng đã bộc lộ những khả năng tuyệt vời trong việc đương đầu với các Moghul. Đã có lần Shivaji bị các Moghul bắt được, đem về Agra, nhưng dĩ nhiên là ông trốn thoát và tiếp tục những cuộc phiêu lưu.
Năm 1739, khi Nadir Shah từ Ba Tư đến cướp phá Delhi, đế chế Moghul đang xuống dốc lại càng thêm suy yếu. Nhưng sự bành trướng của các Maratha cũng đột ngột dừng lại. Năm 1761, tại
https://thuviensach.vn
Panipat, nơi hơn 200 năm trước Babur thắng trận và lập nên đế chế Moghul, các Maratha bị Ahmad Shah Durani của Afghanistan đánh bại. Mặc dù việc bành trướng về phía tây bị đình lại, người Maratha vẫn củng cố thế lực ở miền trung Ấn và ở vùng đất của mình là Malwa. Nhưng rồi ngay sau đó Maratha đã phải sụp đổ vì tay của đế quốc hùng mạnh cuối cùng ở Ấn Độ - đó là người Anh.
https://thuviensach.vn
Sự bành trướng của thực dân Anh
Người Anh không phải là thế lực châu Âu đầu tiên đến Ấn Độ, cũng không phải là người cuối cùng cuốn gói ra đi, mà là người Bồ Đào Nha. Năm 1498, Vasco da Gama đã đi vòng qua mũi Hảo Vọng thuộc châu Phi để đến vùng bờ biển ngày nay là Kerala. Việc tiên phong mở đường khiến cho người Bồ Đào Nha có thể độc quyền điều khiển quan hệ buôn bán giữa Ấn Độ và châu Âu suốt một thế kỷ. Năm 1510, Bồ Đào Nha chiếm được Goa, vùng thuộc địa mà họ cai trị cho đến tận 1961, 14 năm sau khi người Anh rời Ấn Độ.
Năm 1612, người Anh bắt đầu xâm nhập vào Ấn Độ khi họ lập nên một điểm buôn bán ở Surat, thuộc bang Gujarat. Trước đó, năm 1600 nữ hoàng Elizabeth I ban đặc quyền cho một công ty kinh doanh London, cho phép họ độc quyền trong quan hệ buôn bán giữa Anh và Ấn Độ. Suốt 250 năm, quyền lực của Anh được thực hiện ở Ấn Độ không phải thông qua một chính quyền nào, mà thông qua Công ty Đông Ấn. Những điểm buôn bán của Anh được mở ra ở các bờ biển khác, như ở Madras năm 1640, Bombay 1668, Calcutta 1690. Anh và Bồ Đào Nha không phải là số ít người châu Âu ở Ấn Độ. Người Hà Lan cũng đã có những điểm buôn bán của mình. Và năm 1672 người Pháp cũng mở những trung tâm buôn bán ở Pondicherry, một vùng thuộc địa (cũng như Goa của Bồ Đào Nha) vẫn bị Pháp cai trị ngay cả khi người Anh đã rời Ấn Độ.
Lẽ tất nhiên sự thù địch giữa Anh và Pháp xuất hiện trên khắp Ấn Độ. Năm 1746, Pháp chiếm Madras và chỉ chịu trả lại vào năm 1749. Những năm sau đó quan hệ này càng trở nên căng thẳng. Nếu Anh gây chiến với một thủ lĩnh địa phương nào đó, thì chắc chắn Pháp sẽ cung cấp cho thủ lĩnh này vũ khí, binh lính và kỹ thuật chuyên môn. Năm 1756, Suraj-ud-daula, vị Nawab của vùng Bengal, tấn công Calcutta và “xúc phạm” người Anh bằng vụ “Hố Đen Calcutta”. Đó chỉ là một căn phòng canh gác nhỏ, ở dưới tầng hầm, nhưng đã nhồi 146 người Anh bị vị lãnh chúa theo đạo Hồi bắt được. Bị ngạt,
https://thuviensach.vn
sáng hôm sau chỉ còn 23 người sống sót. Một năm sau, Robert Clive chiếm lại Calcutta và đánh bại lãnh chúa Suraj-ud-daula cùng những kẻ ủng hộ người Pháp trong trận Plassey. Đây không chỉ là việc bành trướng thế lực của Anh mà còn ngăn chặn được ảnh hưởng của Pháp.
Lúc này Ấn Độ đang ở trong tình trạng thay đổi liên tục, bởi vì sự chia rẽ của đế chế Moghul tạo nên những khoảng trống. Người Maratha là thế lực thực sự duy nhất ở Ấn Độ có thể lấp được chỗ trống này mà họ chỉ là một nhóm vương quốc nhỏ khi thì hợp tác với nhau, khi thì chia rẽ. Ở miền Nam, nơi ảnh hưởng của các Moghul không lớn, tình hình càng rối ren hơn do sự đối đầu của Anh - Pháp và việc thủ lĩnh này hất cẳng thủ lĩnh kia.
Tình hình càng lộn xộn hơn với hàng loạt cuộc chiến tranh giữa Anh và Tipu Sultan. Trong cuộc chiến tranh Mysore lần thứ IV, 1789- 1799, Tipu Sultan bị giết ở Srirangapatnam và người Anh tiến thêm một bước, còn Pháp lại thêm một bước lùi.
Năm 1803 cuộc chiến tranh kéo dài giữa Anh với người Maratha cuối cùng đã kết thúc, chỉ có Punjab vẫn nằm ngoài vòng cai trị của Anh. Nhưng năm 1849, sau hai cuộc chiến tranh với người Sikh, rốt cục Anh cũng chiếm được Punjab.
https://thuviensach.vn
Ấn Độ dưới ách thống trị của Anh
Đến đầu thế kỷ XIX, Ấn Độ đã thực sự nằm dưới ách thống trị của Anh. Anh cai trị được Ấn Độ một phần cũng vì sự sụp đổ của các hoàng đế Moghul để lại những chỗ trống cần bù lấp và họ tuân theo những luật lệ do hoàng đế Akbar đã đề ra. Đối với người Anh, về cơ bản Ấn Độ chỉ là nơi tìm kiếm lợi nhuận, cho nên nền văn hóa và tôn giáo của Ấn Độ được tôn trọng. Hơn nữa, Anh còn có một quân đội thiện chiến, có kỷ luật và những cố vấn chính trị sắc sảo. Họ theo đuổi chính sách chia để trị và những hiệp ước riêng rẽ với từng bên đã cho phép Anh can thiệp vào các bang, nếu như việc điều hành chính quyền thiếu hiệu quả. Tất nhiên khái niệm “thiếu hiệu quả” được giải thích theo cách có lợi cho phía Anh.
Ngay cả khi bị Anh cai trị, Ấn Độ vẫn là một nước bị phân chia thành nhiều bang, về danh nghĩa có nhiều bang được độc lập nhưng thực tế là nằm trong vòng ảnh hưởng mạnh của Anh. Chính sách duy trì các bang do những Maharaja (đại lãnh chúa) và Nawab cai trị, tồn tại cho đến ngày độc lập và gây ra rất nhiều phiền phức.
Nhằm thu được nhiều lợi nhuận, người Anh đã mở mang các mỏ thép và than, phát triển chè, cà phê và bông, xây dựng cơ sở cho mạng lưới đường sắt rộng lớn của Ấn Độ ngày nay. Họ còn khởi công những công trình thủy lợi mà cho đến nay vẫn đang phát huy tác dụng.
Trong lĩnh vực chính quyền và pháp luật, Anh đã mang đến cho Ấn Độ một bộ máy chính quyền hoạt động tốt, có hiệu quả. Mặt tiêu cực của nó là bệnh quan liêu giấy tờ, nhưng mặt tích cực là cho đến ngày độc lập, Ấn Độ đã có một hệ thống chính quyền được tổ chức tốt hơn, có hiệu quả hơn, ít tham nhũng hơn chính quyền của những nước vốn là thuộc địa khác.
https://thuviensach.vn
Bên cạnh đó, Anh cũng gây ra những hậu quả không tốt cho nền sản xuất và xã hội Ấn Độ. Hàng dệt rẻ tiền của Anh tràn vào làm què quặt ngành tiểu thủ công nghiệp của các địa phương. Một mặt, Anh đã đặt Sati (việc thiêu sống người vợ theo người chồng vừa mới chết) ra ngoài vòng pháp luật, mặt khác họ khuyến khích hệ thống Zamindar (những địa chủ không có mặt trên ruộng đất của mình). Tầng lớp địa chủ vắng mặt này giảm nhẹ gánh nặng cho việc điều hành chính quyền và việc thu thuế của người Anh, nhưng làm tăng thêm số nông dân không ruộng đất và bị bần cùng hóa - một vấn đề ngày nay vẫn thường xuyên phải giải quyết ở bang Bihar và Tây Bengal. Anh cũng cho dùng tiếng Anh trong các hoạt động chính quyền và ở một nước có quá nhiều ngôn ngữ như Ấn Độ thì ngày nay tiếng Anh vẫn là công cụ giao tiếp trên khắp đất nước.
Năm 1857, gần nửa thế kỷ sau khi Anh đã cai trị được Ấn Độ một cách vững vàng, một cuộc binh biến nổ ra trong quân đội người bản xứ. Cho đến nay, người Anh vẫn cho đó chỉ là một cuộc binh biến, trong khi các sử gia Ấn Độ gọi đó là “cuộc chiến tranh giành độc lập’’. Nguyên nhân của cuộc binh biến cũng chưa được sáng tỏ. Việc phế bỏ những lãnh chúa thiếu khả năng được coi là đổ thêm dầu vào lửa ở một số vùng, nhưng nguyên nhân chính lại là những viên đạn. Một tin đồn lan truyền trong binh lính người Ấn rằng loại đạn mới cấp được bôi trơn bằng mỡ lợn và mỡ bò. Đa số binh lính theo đạo Hồi và đạo Hindu, mà đối với người theo đạo Hồi thì lợn là giống vật đáng ghê tởm, trong khi với người Hindu bò lại là con vật thiêng.
Người Anh tỏ ra chậm chạp trong việc bác bỏ tin đồn, lại còn chậm hơn trong việc chứng minh rằng đó là điều vô lý, hoặc hứa hẹn sẽ thay loại đạn khác. Kết quả là một cuộc binh biến phối hợp lỏng lẻo nổ ra trong những tiểu đoàn thuộc quân đội Bengal. Trong số 74 tiểu đoàn, chỉ có 7 tiểu đoàn trung thành, 20 tiểu đoàn vứt bỏ vũ khí, và 47 tiểu đoàn làm binh biến. Cuộc binh biến ban đầu nổ ra ở Meerut, gần Delhi, rồi nhanh chóng tràn khắp miền bắc Ấn Độ. Đã có những cuộc tàn sát, những hành động tàn bạo vô ý thức của cả hai bên, những cuộc vây hãm triền miên, những trận chiến đấu dài ngày và
https://thuviensach.vn
những thắng lợi có tính quyết định... nhưng cuối cùng cuộc binh biến tan rã một cách lặng lẽ. Nó không tràn ra khỏi miền bắc Ấn và mặc dù có những lãnh tụ xuất sắc, cuộc binh biến không có được sự phối hợp thực sự nhằm một mục đích chung.
Người Anh đã làm hai việc sau khi cuộc binh biến kết thúc: thứ nhất, không tìm kiếm những kẻ chủ mưu và trả thù, mặc dù sự trả thù và cướp bóc có xảy ra ở mức độ không chính thức. Thứ hai, công ty Đông Ấn bị gạt bỏ, và việc điều hành bây giờ mới được trao cho chính quyền Anh quốc. Những năm còn lại của thế kỷ XIX là thời kỳ phát triển tột bậc của đế chế Anh. Có hai bước phát triển song song đã dần dần mở đường cho một nước Ấn Độ ngày nay. Việc đầu tiên, Anh bắt đầu từng bước trao quyền, đưa thêm người vào tiến trình quyết định những việc quan trọng. Hệ thống dân chủ bắt đầu được thực hiện, mặc dù chính quyền Anh duy trì việc cai trị toàn bộ. Việc thứ hai, trong hoạt động dân sự, người Ấn Độ đã được trao những chức vụ cao hơn.
Đồng thời đạo Hindu một lần nữa phục sinh và có những cải cách toàn diện. Hindu là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới, nhưng trước kia nó từng bị thu hẹp trước sự phát triển của đạo Phật, không có được sự ủng hộ rộng rãi. Một lần nữa, người ta nhận ra rằng đạo Hindu không đến được với quảng đại quần chúng và đòi hỏi một sự cải cách triệt để nhằm biến Hindu thành một tôn giáo không chỉ dành riêng cho các giáo sĩ và đẳng cấp cao Bà La Môn. Những nhà cải cách như Ram Mohan Roy, Ramakrishna và Swami Vivekananda đã tạo nên sự thay đổi rộng khắp trong xã hội Hindu, mở đường cho tín ngưỡng Hindu ngày nay, một tín ngưỡng có sức lôi cuốn mạnh mẽ ngay cả với xã hội phương Tây hiện đại.
Bước sang thế kỷ XX, cuộc đấu tranh chống sự cai trị của Anh mang một màu sắc mới. Nghị viện, được thành lập để mang đến cho Ấn Độ một hình thức tự trị, giờ đây đã bắt đầu làm công việc thực sự của mình. Bên ngoài nghị viện, nhiều nhân vật cũng gây sức ép đế giành độc lập với những hoạt động có tính chất vũ trang hơn. Cuối cùng, người Anh đã vạch ra một con đường đi đến độc lập tương tự
https://thuviensach.vn
cuộc cải cách của Canada và Australia, nhưng Chiến tranh Thế giới I đã làm cho kế hoạch này phải xếp lại. Sau chiến tranh, cuộc đấu tranh lại tiếp tục một cách nghiêm túc với người lãnh đạo là Mahatma Gandhi.
https://thuviensach.vn
Mahatma Gandhi và kháng cự thụ động
Năm 1915 Mohandas Gandhi trở về Ấn Độ từ Nam Phi, nơi ông đã hoạt động với cương vị là một luật sư và lãnh đạo cuộc đấu tranh của cộng đồng Ấn Độ ở đó. Trở về nước, ông nhanh chóng tập trung vào vấn đề đòi độc lập, đặc biệt là sau vụ thảm sát tại Amritsar năm 1919, khi quân Anh bắn vào một đám đông biểu tình không vũ trang. Gandhi, sau đó được tôn là Mahatma (đại thánh) đã thực hiện chủ trương kháng cự thụ động (satyagraha) trước sự cai trị của Anh. Thành công chủ yếu của ông là đã đưa cuộc đấu tranh giành độc lập từ chỗ là của tầng lớp trung lưu xuống đến các làng xóm. Ông lãnh đạo phong trào chống đánh thuế vào muối và những cuộc tẩy chay hàng dệt của Anh. Vì những hoạt động này, Mahatma Gandhi bị bắt giam nhiều lần.
Những chiến sĩ cách mạng khác không tán thành chính sách bất hợp tác và bất bạo động của Mahatma Gandhi, cho nên thỉnh thoảng đã xảy ra những cuộc đấu tranh khốc liệt và đẫm máu. Tuy nhiên, đảng Quốc Đại và Mahatma Gandhi vẫn đi hàng đầu, cho dù mãi đến sau Chiến tranh Thế giới II họ mới đạt được mục đích. Lúc đó nền độc lập đã ở trong tầm tay, vì chiến tranh đã giáng một đòn quyết định vào chủ nghĩa thực dân và huyền thoại về tính ưu việt của châu Âu. Anh không còn khả năng và tham vọng duy trì một đế chế lớn nữa, nhưng trong nội bộ Ấn Độ đã nảy sinh một vấn đề gay gắt. Cộng đồng khá lớn của người theo đạo Hồi nhận ra rằng một nước Ấn Độ độc lập sẽ là một nước Ấn Độ do người theo đạo Hindu áp đảo, họ cũng hiểu rằng mặc dù Mahatma Gandhi có cách giải quyết đúng đắn và công bằng, những người khác trong đảng Quốc Đại vẫn không sẵn sàng chia sẻ quyền lực.
https://thuviensach.vn
Vấn đề trao trả độc lập
Chiến tranh thế giới II kết thúc thì trao trả độc lập cho Ấn Độ cũng là việc trước mắt. Đảng Quốc Đại không chịu quan hệ với Liên đoàn Muslim (của người Hồi giáo). Để trả đũa, những người Hồi giáo đòi thành lập nhà nước Pakistan độc lập, tách khỏi Ấn Độ. Tháng 7- 1945, Công đảng thắng cử ở Anh, tình hình thuận lợi đối với việc tìm kiếm một giải pháp cho vấn đề Ấn Độ.
Những cuộc bầu cử ở Ấn Độ cho thấy một điều rõ ràng: đất nước đã bị chia rẽ trên cơ sở tôn giáo. Liên đoàn Muslim do Muhammad Ali Jinnah lãnh đạo, phát ngôn cho đa số người Hồi giáo, còn đảng Quốc Đại do Jawaharlal Nehru lãnh đạo, đại diện cho người Hindu. Mahatma Gandhi vẫn giữ nguyên vai trò cha già dân tộc đối với phía Quốc Đại, nhưng ảnh hưởng chính trị của ông không còn như trước.
Giữa lúc ấy, Jinnah công khai tuyên bố: “Ấn Độ hoặc là sẽ phải chia cắt, hoặc sẽ bị hủy diệt”. Điều này trái với nguyện vọng xây dựng một nước Ấn Độ vĩ đại độc lập của đảng Quốc Đại và là trở ngại lớn nhất đối với việc trao trả độc lập cho Ấn Độ. Nhưng khả năng có một cuộc tắm máu và xung đột cộng đồng ngày càng tăng. Đầu năm 1946, một phái đoàn Anh thất bại trong việc hòa giải giữa hai bên và Ấn Độ đã ở bên bờ nội chiến. Tháng 8-1946, Liên đoàn Muslim tuyên bố một “ngày hành động trực tiếp” dẫn đến cuộc chém giết người Hindu ở Calcutta, rồi ngay sau đó là những cuộc trả thù của người Hindu với người Hồi giáo. Sau khi thất bại trong việc hòa giải, tháng 2-1947, chính quyền Anh đi đến một quyết định quan trọng. Huân tước Louis Mountbatten được đưa sang thay thế viên phó vương đương nhiệm là Huân tước Wawell và Ấn Độ sẽ được độc lập từ tháng 6-1948.
Trước đó, vùng Punjab và Bengal đã ở trong tình trạng hỗn loạn. Viên phó vương mới với tinh thần còn nước còn tát, cố gắng thuyết phục các nhóm xung đột rằng một nước Ấn Độ thống nhất chính là
https://thuviensach.vn
mục tiêu đúng đắn nhất. Nhưng cả hai bên, đặc biệt là Jinnath, vẫn không chịu nhượng bộ. Người ta đành phải đi đến một quyết định miễn cưỡng là chia cắt đất nước. Chỉ có Mahatma Gandhi vẫn kiên quyết chống lại việc chia cắt. Quan điểm của ông là thà có nội chiến còn hơn là đương đầu với sự quấy rối của một nước láng giềng.
Chia một đất nước thành nhiều vùng là công việc quá khó khăn. Mặc dù một số vùng hoàn toàn chỉ có người Hindu hoặc người Hồi giáo, nhưng ở những vùng khác, dân cư lại chung sống xen lẫn nhau, có cả những nơi người Hồi giáo như sống trong một ốc đảo bị cộng đồng Hindu vây bọc xung quanh. Ngay cả khi cuộc di dân đã kết thúc, Ấn Độ vẫn là nước có cộng đồng lớn người Hồi giáo, đứng hàng thứ ba trên thế giới, sau Indonesia và Pakistan. Thậm chí hiện nay người Hồi giáo ở Ấn Độ vẫn nhiều hơn cộng đồng Hồi giáo của Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, hoặc bất kỳ một nước Arab nào. Điều này chứng minh sự bất lực hoàn toàn trong việc phân chia khu vực người Hồi giáo và người Hindu.
Việc quan trọng bậc nhất là vạch đường giới tuyến được trao cho một trọng tài độc lập người Anh. Punjab và Bengal là những vùng khó chia nhất, ở vùng Bengal, Calcutta là thành phố có đa số dân Hindu, có bến cảng và những nhà máy đay, bị cắt rời khỏi đông Bengal, một nơi đa số là người Hồi giáo với ngành chính là trồng đay, nhưng lại không có nhà máy và bến cảng.
Ở Punjab tình hình còn tồi tệ hơn, bởi sự đối kháng giữa các cộng đồng đang ở mức độ cực kỳ gay gắt. Đây là một trong những vùng đất màu mỡ và trù phú nhất, 55% dân số là người Hồi giáo, 30% Hindu, nhưng cũng có một số lượng lớn người theo đạo Sikh có vũ trang. Với việc tuyên bố đường giới tuyến, chỉ ít ngày sau khi độc lập, một cuộc tắm máu khủng khiếp đã xảy ra. Biên giới được vạch hầu như chính giữa hai thành phố lớn của vùng Junjab: Lahore và Amritsar. Trước ngày độc lập, dân số Lahore là 1,2 triệu, gồm khoảng 500.000 người Hindu và 100.000 người Sikh. Khi cuộc chuyển dân đã chấm dứt, ở Lahore tổng cộng chỉ còn 1.000 người Hindu và Sikh.
https://thuviensach.vn
Hàng tháng trời, cuộc di dân lớn bậc nhất trong lịch sử nhân loại đã diễn ra giữa miền đông và miền tây bang Punjab. Những chuyến tàu chở đầy người Hồi giáo chạy về miền tây bị người Hindu và Sikh chặn lại, ra sức chém giết. Nhiều chuyến tàu về đến ga mới biết toàn bộ hành khách đã bị giết chết, từ đó xuất hiện khái niệm “chuyến tàu ma”. Những chuyến tàu chở người Sikh và Hindu về miền đông cũng chịu chung số phận. Lực lượng quân đội duy trì trật tự tỏ ra không có tác dụng, thậm chí còn tham gia vào những cuộc bắn giết. Đến khi những vụ lộn xộn ở Punjab chấm dứt, đã có hơn 10 triệu dân chạy về hai phía, người ta tính rằng ít nhất có khoảng 250.000 người bị giết (một số tài liệu khác ước tính khoảng 500.000). Ở Bengal, có khoảng 1 triệu người chạy sang tây Bengal, hầu hết là người Hindu, bởi vì rất ít người Hồi giáo chạy từ tây Bengal sang đông Pakistan.
Trên đất Ấn Độ lúc này vẫn còn một số nhà nước vương quyền. Đưa những đối tượng này nhập vào Ấn Độ hoặc Pakistan là một công việc đau đầu. Một trong những đối tượng là vùng Kashmir, đa số là dân Hồi giáo, nhưng Maharaja (đại lãnh chúa) của vùng này lại là người Hindu. Đến tháng 10-1947, đại lãnh chúa vẫn chưa biết nên chọn Ấn Độ hay Pakistan. Quân đội của những người Pathan đói rách từ Pakistan đã vượt biên giới tiến về thủ phủ Srinagar, có ý đồ xâm chiếm Kashmir mà vẫn không khiêu khích Ấn Độ và Pakistan. Người Pathan vào Kashmir để cướp bóc, nhưng hành động cướp bóc làm chậm cuộc hành quân của họ, khiến cho Ấn Độ có đủ thời gian đưa quân đến thủ phủ Srinagar, ngăn chặn kịp thời việc chiếm đóng thành phố này. Cuối cùng vị đại lãnh chúa thiếu quyết đoán đã lựa chọn Ấn Độ. Một cuộc chiến tranh ngắn ngủi giữa Ấn Độ và Pakistan nổ ra. Liên Hợp quốc phải nhảy vào. Kể từ đó Kashmir trở thành nguyên nhân chính của sự xung đột Ấn Độ - Pakistan. Đa số áp đảo là người Hồi giáo và gắn liền với Pakistan về mặt địa lý, phần lớn dân Kashmir có xu hướng ủng hộ yêu sách đòi trả Kashmir cho Pakistan. Nhưng Ấn Độ vẫn kiên trì lảng tránh một cuộc trưng cầu ý dân. Cho đến nay, cả Ấn Độ lẫn Pakistan vẫn không chấp nhận đường biên giới chính thức ở khu vực này.
https://thuviensach.vn
Tấn thảm kịch cuối cùng của giai đoạn trao trả độc lập là sự kiện ngày 30-1-1948, một kẻ cuồng tín theo đạo Hindu đã ám sát Mahatma Gandhi tại nơi truyền giảng của ông là Birla House, New Delhi. Thế lực Hindu cực đoan coi Mahatma Gandhi là trở lực chính đối với hoạt động vũ trang của họ nhằm tàn sát người Hồi giáo và họ đã gây ra thảm họa này.
https://thuviensach.vn
Ấn Độ từ sau ngày độc lập
Kể từ khi giành được độc lập, Ấn Độ có những bước phát triển mạnh, nhưng cũng gặp phải nhiều khó khăn nghiêm trọng, sản lượng nông nghiệp được nâng lên đáng kể, còn công nghiệp phát triển đến mức cuối những năm 1970 Ấn Độ được coi là một trong 10 nước có nền công nghiệp phát triển bậc nhất. Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ, Jawaharlal Nehru, cố gắng theo đuổi chính sách không liên kết một cách nghiêm túc, mặc dù Ấn Độ vẫn duy trì mối quan hệ tốt với kẻ thống trị cũ là Anh - điều này gây ra chút ít phiền phức mỗi khi phê phán chủ nghĩa đế quốc. Mặc dù có chính sách không liên kết, Ấn Độ vẫn có xu hướng gần gũi với Liên Xô, một phần vì những cuộc xung đột với Trung Quốc, và một phần vì Mỹ ủng hộ Pakistan - kẻ thù sát sườn của Ấn Độ. Kể từ ngày độc lập, đã ba lần Ấn Độ xung đột với Pakistan (1948, 1965, 1971) vì những bất đồng liên quan đến Kashmir và Bangladesh. Xung đột biên giới cũng nổ ra với Trung Quốc và cho đến nay, mặc dù đã có một vài tín hiệu cải thiện quan hệ, Ấn Độ vẫn còn bất đồng về khu vực Aksai Chin (ở Ladakh) bị Trung Quốc chiếm đóng năm 1962.
Những sự kiện bên ngoài như vậy cũng có ảnh hưởng đến việc tập trung vào các vấn đề nội bộ. Cũng như ở các nước thế giới thứ ba, vấn đề tăng dân số vẫn là mối lo ngại chính. Ấn Độ đã vượt qua được cuộc khủng hoảng năng lượng đầu tiên vào những năm đầu thập kỷ 1970 và thực hiện khá thành công cuộc cách mạng xanh.
https://thuviensach.vn
Ấn Độ dưới thời Indira Gandhi
Indira Gandhi lên cầm quyền từ năm 1966. Năm 1975, trước những vụ lộn xộn và sự chống đối căng thẳng, bà ban bố tình trạng khẩn cấp, một tình trạng mà ở nhiều nước khác có thể dẫn đến chế độ độc tài. Trong thời kỳ này, nhiều chính sách với những mặt tích cực và tiêu cực của nó đã được thực hiện. Tránh được sự kiềm chế thường xuyên của Quốc hội, Indira Gandhi đã hạn chế được lạm phát một cách đáng kể, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế. Mặt tiêu cực của nó là việc bắt giam nhiều chính khách đối lập, hệ thống tòa án bị khống chế và giật dây, báo chí bị trói buộc... Một số kế hoạch do con trai của Indira Gandhi là Sanjay Gandhi đề ra như kế hoạch “ô tô cho nhân dân”, và cưỡng ép sử dụng biện pháp triệt sản... gây ra sự phẫn nộ trong dân chúng. Bất chấp mọi biểu hiện bất mãn ở xung quanh, năm 1977, Indira Gandhi quyết định tổng tuyển cử để tăng cường lòng tin vào sự lãnh đạo của mình. Sanjay phản đối việc tổ chức bầu cử và đã chứng tỏ là người sáng suốt, vì ngay sau đó Indira Gandhi cùng đảng Quốc Đại bị thất cử. Đảng Janata (Nhân dân) được tập hợp một cách vội vã trước bầu cử, đã lên cầm quyền.
Tuy vậy Janata chỉ là kế sách của một số người, nhiệm vụ duy nhất của nó là đánh bại Indira Gandhi. Một khi đã nắm được chính quyền, họ tỏ ra lúng túng về nhiều mặt. Người lãnh đạo là Moraji Desai dường như quan tâm đến những việc như bảo vệ bò, cấm rượu... hơn là giải quyết những vấn đề cơ bản của đất nước. Lạm phát lại tăng vọt, bạo động xảy ra ở nhiều nơi, nền kinh tế suy sụp... Cho nên người ta không hề ngạc nhiên khi đảng Janata tan rã vào năm 1979. Cuộc bầu cử 1980 đã đưa Indira Gandhi trở lại cầm quyền với đa số phiếu lớn hơn bao giờ hết.
https://thuviensach.vn
Ấn Độ những năm 1980-1990
Đầu những năm 1980, Indira Gandhi phải đương đầu với rất nhiều khó khăn. Bà tỏ ra không thành công trong việc giải quyết những xung đột cộng đồng, những cuộc tàn sát tầng lớp tiện dân, hàng loạt vụ tham nhũng và sự thô bạo của cảnh sát, cùng những cuộc nổi dậy ở Junjab và vùng đông bắc. Tiếp đó là cái chết của Sanjay Gandhi, con trai và là một chính khách sắc sảo kế tục sự nghiệp của bà. Năm 1984 Indira Gandhi quyết định đưa quân tấn công vào Đền Vàng của đạo Sikh ở thành phố Amritsar thuộc bang Punjab để tiêu diệt một lực lượng ly khai (Khalistan) chạy vào đó nương náu. Liền sau đó, Indira Gandhi bị những cận vệ người Sikh của chính bà sát hại ngay trong dinh thủ tướng. Việc Indira Gandhi đưa quân vào ngôi đền thiêng liêng nhất của đạo Sikh làm nổ bùng lên những xung đột tôn giáo giữa đạo Hindu và đạo Sikh, làm chết hơn 3.000 người, hầu hết là người Sikh.
Con trai cả của Indira Gandhi là Rajiv Gandhi, từng là phi công của hãng Hàng không Ấn Độ, lên cầm quyền với số phiếu áp đảo, bắt đầu một thời gian cầm quyền năng động. Nhiều học giả nước ngoài nhận định rằng cho đến nay Ấn Độ có 3 thủ tướng kiệt xuất: Jawaharlal Nehru, Indira Gandhi và Rajiv Gandhi. Rajiv Gandhi đã mang đến cho Ấn Độ những chính sách mới và thực dụng: khuyến khích kỹ thuật hiện đại và đầu tư nước ngoài, nới lỏng việc hạn chế nhập khẩu, xây dựng nhiều ngành công nghiệp mới. Dưới thời Rajiv Gandhi, số lượng dân trung lưu tăng lên đáng kể, chỉ trong mấy năm số ô tô riêng đã tăng rất nhanh. Tuy nhiên, những chính sách này có phải là tối ưu đối với Ấn Độ hay không, thì vẫn là một câu hỏi khó trả lời. Hơn nữa, tình trạng lộn xộn vẫn tiếp tục ở Punjab, và cuộc nội chiến ở Sri Lanka cũng gây ra rất nhiều khó khăn cho Ấn Độ. Rajiv Gandhi không thể ngăn chặn được sự ủng hộ của người Tamil Ấn Độ đối với người Tamil ở Sri Lanka, bởi vì ông cần sự ủng hộ của chính quyền bang Tamil Nadu, nơi sinh sống của hầu hết người Tamil Ấn Độ. Rajiv Gandhi cũng không giúp được kinh nghiệm gì
https://thuviensach.vn
cho chính quyền đảo quốc Sri Lanka để giải quyết tình trạng lộn xộn, khi mà chính ông cũng gặp phải tình trạng tương tự ở bang Punjab trên đất nước mình.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn, Ấn Độ vẫn là nước làm được những việc mà những nước đông dân như Liên Xô và Trung Quốc không làm được ở những năm 1980: cung cấp lương thực thực phẩm cho nhân dân mà không phải nhập khẩu. Tuy nhiên, việc cung cấp này cũng luôn gặp phải khó khăn, cho nên lương thực thực phẩm thường bị ứ đọng ở Punjab, trong khi những vùng khác dân vẫn thiếu đói.
Chỉ sau một thời gian ngắn, chính phủ của Rajiv Gandhi bị vướng vào những vụ tham nhũng, đặc biệt là hợp đồng mua bán vũ khí với Công ty Bofors của Thụy Điển. Năm 1991, Rajiv Gandhi bị một nữ chiến sĩ của phong trào ly khai LTTE (Những Con hổ Giải phóng Tamil Eelam, Sri Lanka) ám sát trong khi đi tuyên truyền tranh cử ở bang Tamil Nadu.
Một thành viên xuất sắc trong ban lãnh đạo đảng Quốc Đại là Narasimha Rao lên làm chủ tịch đảng và chiến thắng trong cuộc bầu cử 1991. Năm 1992, kinh tế đất nước phát triển vượt bậc nhờ sự thả nổi một phần đồng rupee trước nhiều ngoại tệ mạnh, một quyết định có tính tạo đà của bộ trưởng Tài chính Manmohan Singh.
Tuy vậy Narasimha Rao tiếp thu từ chính quyền trước rất nhiều khó khăn, nặng nề nhất là xung đột cộng đồng giữa người Hindu và người Hồi giáo xung quanh ngôi đền Hồi giáo ở Ayodhya, bang Uttar Pradesh. Người Hindu cho rằng ngôi đền này đã được xây trên chính nền móng ngôi đền thờ thần Rama, bị người Hồi giáo đến phá hủy cách đó hàng trăm năm. Tháng 12-1992, những người Hindu quá khích, được sự dung túng của đảng BJP (Bharatiya Janata Party, Đảng Nhân dân Ấn Độ), một đảng chủ trương phục hưng tinh thần Hindu giáo, đã xông vào phá đền thờ Babri Masjid của người Hồi giáo. Xung đột tràn lan ở miền bắc Ấn, hơn 250 người bị giết,
https://thuviensach.vn
1100 người bị thương sau hàng loạt trận đánh bom ở Bombay (từ năm 1996 đổi tên là Mumbai).
Mối quan hệ lúc nào cũng sôi sục giữa Ấn Độ và Pakistan là vấn đề nổi bật trong những năm 1990. Ấn Độ lên án Pakistan huấn luyện và trang bị vũ khí cho quân khủng bố ở Kashmir. Tất nhiên Pakistan bác bỏ lời buộc tội và lên án hành động thù địch của quân đội Ấn Độ.
Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc Hindu đi kèm với những vụ tham nhũng làm tổn hại đến chính quyền của Narasimha Rao. Năm 2000, N. Rao bị cáo buộc đã hối lộ để đối lấy sự ủng hộ trong cuộc bầu cử nghị viện có tính sống còn năm 1993, nhưng sau đó ông lại được trắng án. Những khó khăn này gây ra nhiều sóng gió và đảng Quốc Đại bị đảng BJP đánh bại trong cuộc tổng tuyển cử năm 1996. Chính phủ do BJP lập nên chỉ tồn tại chưa đầy hai tuần, rồi được thay thế bằng một liên minh gồm 13 đảng mang tên Mặt trận Thống nhất. Nhưng liên minh này cũng chỉ tồn tại được 9 tháng, cho đến tháng 4-1997, khi Quốc Đại không ủng hộ liên minh nữa.
Năm 1998, đảng BJP và các đồng minh chiếm được đa số ghế quốc hội. Điều này khiến ông Sitaram Kesri phải từ chức chủ tịch đảng Quốc Đại và bà Sonia Gandhi được bầu lên thay. Sonia Gandhi, vợ góa của Rajiv Gandhi, là người gốc Italy và việc bà lên nắm quyền lãnh đạo Quốc Đại gây ra sự chỉ trích trong và ngoài đảng, bởi theo tinh thần dân tộc hẹp hòi, chức vụ chủ tịch đảng (đồng thời là khả năng trở thành thủ tướng một khi đảng thắng cử) thông thường chỉ dành cho người gốc Ấn. Bất kể thế nào, Sonia Gandhi vẫn vững vàng ở vị trí thủ lĩnh. Các nhà chiến lược cho rằng bà nhận làm thủ lĩnh để chuẩn bị một bước cho con gái là Priyanka và con trai là Rahul Gandhi, những thủ lĩnh đích thực của Quốc Đại trong tương lai.
Năm 1998, chính phủ của BJP, do thủ tướng Atal Behari Vajpayee đứng đầu, làm cho cả thế giới phải lo ngại bằng cách cho thử năm quả tên lửa hạt nhân trong sa mạc ở vùng Rajasthan. Hy vọng tìm
https://thuviensach.vn
được một nghị quyết hòa bình cho vùng Kashmir bị tan vỡ khi Pakistan cũng lao vào thử vũ khí hạt nhân, gây ra sự lo ngại về cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân ở vùng Nam Á. Bất chấp sự lên án của thế giới, thậm chí nhiều nước còn trừng phạt kinh tế đối với Ấn Độ, trong cuộc bầu cử năm 1999, đảng BJP lại thắng cử và Vajpayee lại tiếp tục làm thủ tướng.
https://thuviensach.vn
Ấn Độ từ sau năm 2000
Vấn đề trọng tâm khi bước sang thiên niên kỷ mới vẫn là sự bất đồng kéo dài giữa Ấn Độ và Pakistan về khu vực xung đột Kashmir. Bất kể những cam kết của cả hai bên là duy trì đối thoại, quan hệ hai nước đột ngột xấu đi sau khi người ta phát hiện ra rằng những kẻ khủng bố táo tợn tấn công vào Quốc hội Ấn Độ ở Delhi ngày 13-12- 2001 chính là lực lượng ly khai Kashmir có liên hệ với Pakistan. Sự tăng cường quân ồ ạt sau đó, việc pháo kích qua biên giới ở vùng Kashmir và những lời cáo buộc gay gắt lẫn nhau làm cho quan hệ hai nước càng trở nên căng thẳng.
Bên cạnh đó, bước sang thế kỷ XXI, mâu thuẫn giữa các cộng đồng tôn giáo vẫn tiếp tục nóng bỏng. Đầu năm 2002, sau khi 51 người Hindu bị giết trong vụ những kẻ bạo loạn Hồi giáo đốt một chuyến tàu hỏa, phe Hindu bèn trả thù cộng đồng Hồi giáo ở bang Gujarat. Các vụ bạo loạn làm chết ít nhất 1000 người, chủ yếu là người theo đạo Hồi (các tổ chức nhân quyền đưa ra con số hơn 2500 người). Tháng 9-2002, hai kẻ khủng bố cực đoan đã bắn vào ngôi đền Akshardham ở Gandhinagar, giết chết 31 người. Nhiều vùng ở bang Gujarat trở nên mất ổn định.
Tháng 5-2004, liên minh do đảng Quốc Đại đứng đầu đánh bại BJP, giành được quyền thành lập chính phủ. Chủ tịch Quốc Đại Sonia Gandhi đã từ chối đứng ra làm thủ tướng theo lệ thường, nhường bước cho ông Manmohan Singh lên thành lập chính phủ. Là cựu bộ trưởng Tài chính, Manmohan Singh đã có ngay những bước đi cấp thiết tạo đà cho nền kinh tế Ấn Độ. Nhưng một chính phủ của nhiều đảng liên minh vẫn chưa phải là sự hứa hẹn ổn định lâu bền cho Ấn Độ. Vẫn luôn tiềm tàng nguy cơ bất đồng, dẫn đến việc một đảng trong liên minh rút lại sự ủng hộ và chính phủ liên bang sẽ sụp đổ. Ấn Độ vẫn luôn đứng trước những khó khăn do sự khủng hoảng về chính phủ trung ương trong những năm đầu thế kỷ XXI.
https://thuviensach.vn
Những tôn giáo chính ra đời ở Ấn Độ
Ấn Độ là đất nước nhiều tôn giáo, theo ước tính thì số lượng tôn giáo là hàng trăm và số lượng thần thánh có thể đến hàng nghìn, hoặc như người ta vẫn nói vui “thần thánh đông hơn người”. Đây là mảnh đất dễ tiếp nhận và tiếp nhận rất sớm những tôn giáo lớn như đạo Thiên Chúa, đạo Hồi và đạo Lửa. Nhưng trên hết Ấn Độ là quê hương của những tôn giáo lâu đời bậc nhất của loài người như đạo Hindu, đạo Phật, đạo Jain, trong đó đạo Phật đã chinh phục một cách hòa bình đức tin của một phần nhân loại.
https://thuviensach.vn
Đạo Hindu
Hindu là tôn giáo lớn nhất ở Ấn Độ, xuất hiện gần 1500 năm trước Công nguyên, hiện nay tín đồ chiếm hơn 80% dân số, tức là khoảng trên 800 triệu người. Đây cũng là tôn giáo lớn nhất ở châu Á, mặc dù ngoài Ấn Độ, tín đồ Hindu chỉ chiếm đa số ở Nepal và đảo Bali của Indonesia.
Từ thời kỳ nền văn minh thung lũng sông Indus đã có một tôn giáo rất gần gũi với đạo Hindu về nhiều mặt. Sau đó tôn giáo này được phát triển thông qua những cuộc hành lễ phối hợp giữa người Dravidian (chủng tộc ở miền nam Ấn Độ) và người Aryan (xâm nhập Ấn Độ vào khoảng 1500 trước CN). Khoảng 1500 năm trước CN, những cuốn kinh Veda xuất hiện dẫn đến việc hình thành cơ cấu tôn giáo còn lỏng lẻo của đạo Hindu. Ngày nay đạo Hindu có khá nhiều sách kinh, trong đó kinh Bhagvad Gita (ở Việt Nam đã có bản dịch là Chí tôn ca) được coi là những lời giáo huấn của thần Krishna, Ramayana (câu chuyện về hoàng tử Rama và nàng Sita), Mahabharata (Cuộc đại chiến trong dòng họ Bharata, cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt giữa những người anh em trong một dòng họ), kinh Veda (tri thức thần thánh), Upanishad (áo nghĩa thư), nằm trong hệ thống Veda, là phần cuối của Veda, đào sâu vào bản chất siêu hình của vũ trụ và tâm linh) và Purana... Hai sử thi Ramayana (đầy đủ, hơn 1000 trang) và Mahabharata (tóm lược, khoảng 600 trang) cũng đã được dịch ra tiếng Việt.
Về cơ bản, đạo Hindu cho rằng con người phải trải qua rất nhiều lần phục sinh và đầu thai để cuối cùng đạt tới moksha (sự giải thoát cuối cùng), trạng thái linh hồn được cứu vớt, con người thoát khỏi vòng luân hồi. Với mỗi lần đầu thai, người ta có thể hoặc là tiến gần tới moksha, hoặc là càng đi xa hơn. Điều này do một yếu tố gọi là karma, nghiệp hay là luật nhân quả, quyết định (nghĩa đen của karma là hành động). Trong cuộc đời, nếu con người làm điều xấu thì hậu quả là họ sẽ phải nhận một karma xấu, cuộc đầu thai kế tiếp
https://thuviensach.vn
sẽ là một kiếp thấp kém hơn. Ngược lại, nếu làm điều thiện thì sẽ được đầu thai thành một kiếp người cao quý hơn và đó là một bước để tiến gần hơn đến chỗ thoát khỏi vòng luân hồi.
Dharma là quy luật tự nhiên, chỉ ra sự hòa hợp trọn vẹn về mặt xã hội, đạo đức và tinh thần của mỗi đời người. Có ba hình thức Dharma:
- Sự hòa hợp vĩnh cửu, liên quan đến toàn bộ vũ trụ.
- Sự hòa hợp chi phối các đẳng cấp và mối quan hệ giữa các đẳng cấp đó.
- Quy tắc đạo đức mà mỗi cá nhân phải tuân theo.
Đạo Hindu có ba việc chính phải được thực hiện cho tốt: - Thờ cúng.
- Hỏa táng tử thi.
- Những luật lệ và quy định của hệ thống đẳng cấp.
Người ta không thể từ bỏ một tôn giáo để cải theo đạo Hindu. Chỉ có thể sinh ra đã là người theo đạo Hindu, hoặc là không. Tương tự như vậy, một khi đã là tín đồ Hindu, người ta không thể thay đổi đẳng cấp, sinh ra ở đẳng cấp nào thì sẽ thuộc đẳng cấp đó cho đến hết đời. Tuy vậy đạo Hindu có sức hấp dẫn với khá nhiều người phương Tây, một số Guru (giáo sĩ) người Ấn đã ra nước ngoài và thành công trong việc truyền đạo.
Sadhu (du sĩ) là những người lang thang trên con đường tự khám phá linh hồn của mình. Rất dễ nhận ra họ qua các đặc điểm: cởi trần, trên mặt và trán có những nét vẽ bột màu, tóc và râu được tết hoặc búi lại. Những sadhu môn đệ của thần Siva đôi khi mang theo cả những chiếc đinh ba. Sadhu có thể từng là một thương nhân, một chủ trại, một công chức... Họ cho rằng việc làm ăn và đời sống gia
https://thuviensach.vn
đình đã hoàn tất, đã đến lúc từ bỏ tất cả để lên đường theo đuổi đời sống tâm linh. Sadhu thực hiện nhiều cách tự hành xác, thường đi khắp nơi trên đất Ấn Độ, cùng nhau tham gia các cuộc hành hương hoặc những cuộc hội họp tôn giáo.
https://thuviensach.vn
Vấn đề đẳng cấp ở đạo Hindu
Hệ thống đẳng cấp là một trong những điều bí ẩn và khó hiểu nhất ở Ấn Độ. Gắn liền với những nhóm xã hội, nó theo một trật tự thứ bậc và trong lòng đẳng cấp hầu như không có sự chuyển đổi. Từ caste (đẳng cấp) lần đầu tiên xuất hiện vào thế kỷ XV khi các du khách Bồ Đào Nha dùng từ casta để nhắc đến sự phân chia trong xã hội Ấn Độ.
Không thể biết chính xác nguồn gốc của việc phân chia này, nhưng người ta cho rằng ban đầu nó được các giáo sĩ Bà La Môn truyền bá để duy trì vĩnh viễn địa vị tối cao của họ. Cũng có thể nó bắt nguồn từ khi người Aryan xâm lược Ấn Độ, thay cho việc tiêu diệt người bản xứ sau khi chinh phục, người Aryan ban cho họ một địa vị thấp nhưng rõ ràng, về sau, hệ thống đẳng cấp hình thành với bốn đẳng cấp:
- Brahmin (tăng lữ): các giáo sĩ Bà La Môn.
- Kshatriya (vũ sĩ): tướng lĩnh cầm quyền và binh lính. - Vaishya (bình dân tự do): thương nhân và chủ đất. - Sudra (tiện dân): thợ thủ công và đầy tớ.
Theo đạo Hindu, các đẳng cấp này ra đời từ bốn bộ phận trên cơ thể của Thần Sáng Tạo Brahma: Brahmin (miệng), Kshatriya (cánh tay), Vaishya (bắp đùi), và Sudra (bàn chân). Bốn đẳng cấp chính về sau còn được chia thành rất nhiều đẳng cấp nhỏ.
Ban đầu việc phân chia đẳng cấp dựa vào nghề nghiệp, nhưng dần dần nó dựa vào nguồn gốc đẳng cấp của gia đình, tức là dù có làm nghề gì khác, người ta vẫn không tránh được “lý lịch”.
https://thuviensach.vn
Theo thời gian, phường trở nên quan trọng hơn đẳng cấp. Phường chủ yếu dựa theo nghề nghiệp (ví dụ phường dệt, phường kim hoàn...) và đóng vai trò của những hội đoàn bảo vệ quyền lợi cho thành viên. Các phường rất nghiêm ngặt, không cho phép linh động hoặc chuyển đổi, ngay cả khi những nghề cũ tan rã và nghề mới xuất hiện. Sự cứng nhắc khó thay đổi là điều bất lợi bởi nó ngăn cản giao lưu và tiếp thụ những ý tưởng mới giữa các nghề nghiệp khác nhau.
“Người hạ lưu” hay là “người ngoài đẳng cấp”: trong đạo Hindu ban đầu không có sự thừa nhận khái niệm “người hạ lưu”, mặc dù sau này nó có được bổ sung vào các kinh sách đế hợp thức hóa. Chỉ đơn giản là các đẳng cấp cao tạo ra thêm tầng lớp này để thực hiện những lao động giản đơn “bẩn thỉu” mà họ ghê sợ như trông coi nghĩa địa, dọn vệ sinh, đóng giày dép... Những người vi phạm luật đẳng cấp đôi khi sẽ bị trục xuất ra khỏi đẳng cấp và xếp vào loại “người ngoài đẳng cấp”, tức là ở dưới tất cả các đẳng cấp, không thuộc đẳng cấp nào, là tầng lớp hạ lưu. Đến đầu thế kỷ XX, tầng lớp hạ lưu còn bị cấm bước chân đến các đền thờ. Trong đền thờ, nếu một người đẳng cấp cao bị một kẻ hạ lưu vô ý chạm vào, hoặc chỉ bị cái bóng của kẻ đó che lên người, thì người này bị coi là đã nhiễm bẩn, phải thực hiện nhiều cuộc cúng tế để làm cho thân thể sạch sẽ trở lại.
Những người đẳng cấp cao luôn cố gắng ngăn cản mọi cuộc hôn nhân lấy lẫn nhau giữa các đẳng cấp và ngăn chặn phong trào của người đẳng cấp thấp đòi được “nâng cấp”. Chẳng hạn người Bà La Môn cố giữ độc quyền khả năng hiểu những bản kinh và làm cho các nghi lễ càng ngày càng phức tạp để chỉ có họ mới có thể thực hành và cắt nghĩa được. Chúa đất thì ra sức làm sao cho chỉ có mình là tầng lớp duy nhất sở hữu tài sản và ruộng đất. Còn tướng sĩ tự coi là chỉ có mình đủ năng lực để cầm quyền.
Từ thế kỷ XI, khi Ấn Độ bị xâm lăng và những kẻ xâm lược coi rẻ mạng sống cũng như tài sản của người bản xứ, hệ thống đẳng cấp trở nên càng nghiêm ngặt, mỗi cộng đồng trở thành một pháo đài
https://thuviensach.vn
bảo vệ những quy tắc xã hội của riêng mình. Một số ví dụ: chính điện của các đền thờ được canh gác cẩn mật, chỉ tín đồ đích thực mới được ra vào; tục tảo hôn trở nên phổ biến, để bé gái lấy chồng trước khi dậy thì và không rơi vào tay quân xâm lược...
Ngày nay thành kiến đẳng cấp đã giảm nhiều, nhưng vẫn còn ảnh hưởng đáng kể, đặc biệt là giữa những người ít học. Mahatma Gandhi đã nỗ lực đưa tầng lớp hạ lưu bước chân vào xã hội, mở những đền thờ riêng cho họ và đặt cho tầng lớp này cái tên Harijan, có nghĩa là “con của thần linh”. Sau khi Ấn Độ độc lập năm 1947, tầng lớp Harijan được quyền bình đẳng và quyền lợi xã hội của họ được ghi trong hiến pháp. Hiện nay họ chiếm khoảng 16% trong tổng số hơn 1 tỷ dân.
Không phải bao giờ yếu tố đẳng cấp cũng ấn định con người trong một nghề nghiệp hoặc một địa vị xã hội. Chẳng hạn có rất nhiều người Bà La Môn chỉ là nông dân nghèo, và mấy trăm năm trước, Shivaji, thủ lĩnh hùng mạnh của người Maratha, lại thuộc đẳng cấp tiện dân. Không một ai trong số những thủ lĩnh Maratha sau đó thuộc đẳng cấp cao. Tuy nhiên có thể phân biệt được rằng người giàu thuộc đẳng cấp cao, và người quét dọn nhà cửa thuộc tầng lớp hạ lưu. Thực tế là khi hãng Hàng không Ấn Độ đưa người Harijan đầu tiên lên máy bay làm chiêu đãi viên thì tin này đã được báo chí Ấn Độ đưa lên trang nhất.
Khó mà nhận biết được một người Hindu thuộc đẳng cấp nào. Một người cùng đinh thường làm đầy tớ hoặc làm những công việc “bẩn thỉu” như quét dọn, thu nhặt rác, chữa giày dép... Nếu một người đàn ông đeo một sợi dây thiêng quanh cổ thì đó là một người Bà La Môn. Nhưng ngày nay không phải người Bà La Môn nào cũng đeo sợi dây thiêng, vả lại những người theo Hỏa giáo cũng đeo sợi dây như thế. Còn tất nhiên một người Ấn theo đạo Sikh hoặc đạo Hồi thì không thuộc đẳng cấp nào cả.
Hệ thống đẳng cấp hiện nay vẫn tồn tại không chính thức, đặc biệt là ở những vùng nông thôn xa xôi, với những tập tục nghiêm ngặt để
https://thuviensach.vn
tránh xung đột nảy sinh do phân biệt. Mỗi đẳng cấp lại chia thành nhiều tầng lớp nhỏ, cho nên một người đầy tớ có thể được phép lau chùi đồ đồng, nhưng lại không được lau chùi đồ vật bằng vàng bạc. Nhiều quy định đẳng cấp cổ hủ đã được nới lỏng đáng kể, tuy vậy những người Hindu ít học và đầy thành kiến vẫn ghê sợ khi để cho người đẳng cấp thấp làm đầu bếp. Những người được giáo dục chu đáo hơn thì không còn ngần ngại bắt tay người nước ngoài không có đẳng cấp, cũng không sợ việc đi ra nước ngoài sẽ “đánh mất” đẳng cấp của mình. Cũng có những người đẳng cấp thấp gặp may như ông Satyen Sam Pitroda. Là con trai một người thợ mộc, ông yêu cô Anju là con gái một gia đình Bà La Môn và bị cả hai gia đình kịch liệt phản đối. Năm 1964 Sam Pitroda sang Mỹ học, rồi họ tổ chức lễ cưới ở đó với hai bàn tay trắng. Giờ đây Sam Pitroda là triệu phú và là nhà bác học đầu ngành của Ấn Độ trong công cuộc hiện đại hóa ngành vô tuyến viễn thông. Tổng thống Ấn Độ kết thúc nhiệm kỳ năm 2002, ông R. K. Narayanan, cũng là người thuộc tầng lớp hạ lưu, nhưng ông đã vươn lên giữ nhiều trọng trách trong chính phủ, từng là phó tổng thống, chủ tịch Thượng Nghị viện, phó giám đốc trường đại học tổng hợp. Jawaharlal Nehru, là đại sứ Ấn Độ ở nhiều nước như Anh, Trung Quốc, là tổng lãnh sự tại Việt Nam những năm 1962-1963.
Tuy nhiên vấn đề đẳng cấp hiện vẫn là một gánh nặng đối với chính phủ Ấn Độ. Nhiều năm qua, vẫn thường xảy ra đụng độ và khủng bố nhằm vào những người đẳng cấp thấp, ở những vùng hẻo lánh, người đẳng cấp cao vẫn còn hành hình những người Harijan mà họ cho là dám “lên mặt” với làng xóm. Năm 1973, bộ trưởng Quốc phòng Jagjivan Ram được mời đến khánh thành pho tượng một chiến sĩ đấu tranh cho tự do tại trường Đại học Tổng hợp Hindu ở Benares, nơi ông từng là sinh viên. Khi ông đến, đám sinh viên thuộc đẳng cấp cao đã ném giày dép và sỉ nhục ông, bởi vì Ram là con trai một người thợ sửa giày thuộc tầng lớp cùng đinh. Sau khi ông vội vã ra đi, đám sinh viên này đã dùng nước thánh sông Hằng đế tẩy rửa làm cho pho tượng trong sạch trở lại.
https://thuviensach.vn
Năm 1980, tại một làng nhỏ, nhiều người cùng đinh bị giết vì chú rể không chịu xuống ngựa khi đám cưới đi ngang qua một nhóm người đẳng cấp cao. Năm 1981, tại Ahmedabad xảy ra nhiều cuộc khủng bố do việc dành thêm chỗ trong các trường đại học cho người cùng đinh. Những người đẳng cấp cao không trúng tuyển đã gây ra cuộc bạo động này. Cuối năm 1990 hàng loạt cuộc biểu tình, tuyệt thực, đập phá xe cộ đã nổ ra, thậm chí hơn 100 sinh viên khắp Ấn Độ đã tự thiêu để phản đối chính phủ ưu tiên dành chỗ làm việc trong các cơ quan nhà nước cho người nghèo. Ngoài những nguyên nhân khác như lo ngại bị thất nghiệp sau khi ra trường, còn ẩn giấu một lý do mang tính đẳng cấp.
https://thuviensach.vn
Đạo Phật
Có bốn địa danh liên quan đến Đức Phật thì ba nơi ngày nay thuộc lãnh thổ Ấn Độ: Boddhgaya là nơi Người đắc đạo và trở thành Đấng Giác Ngộ. Sarnath là nơi Đức Phật đến giảng bài kinh đầu tiên và Kushinagar là nơi Người qua đời. Hiện nay chỉ có Lumbini, nơi hoàng tử Siddhartha ra đời, là thuộc lãnh thổ Nepal.
Mặc dù hiện nay chỉ có gần 10 triệu người theo đạo Phật (chưa đến 1% dân số), Ấn Độ vẫn có vai trò quan trọng đối với tôn giáo này, bởi vì đây là nơi đạo Phật ra đời và trên đất Ấn Độ vẫn còn nhiều di tích chứng minh.
Có người cho rằng đạo Phật không hẳn là một tôn giáo bởi nó không thờ thần thánh nào. Đúng hơn đạo Phật là một hệ thống triết học và quy tắc đạo đức. Phật giáo ra đời ở miền bắc Ấn vào khoảng 500 năm trước CN, khi Hoàng tử Siddhartha Gautama được giác ngộ. Đức Phật không phải là người cuối cùng giác ngộ, vì tín đồ đạo Phật tin rằng giác ngộ là cái đích của mọi người, sớm hay muộn, cuối cùng người ta đều đi tới cái đích này.
Đức Phật không chấp bút viết ra những lời giáo huấn, tất cả đều được đồ đệ của Người ghi lại sau này. Ngày nay đạo Phật có hai giáo phái:
1 - Hinayana, phái Tiểu Thừa, được nhắc đến nhiều bằng danh từ Theravada, phái Phật giáo Nguyên thủy, để tránh sự phân biệt Tiểu - Đại. Phật giáo Nguyên thủy cho rằng con đường đạt tới cõi Niết Bàn - mục đích cuối cùng của các tín đồ đạo Phật - là việc tự tu. Phật giáo Nguyên thủy chú trọng vào cuộc sống tu tập của các nhà tu hành hơn là đời sống của người thế tục. Các sách kinh của Phật giáo Nguyên thủy được viết bằng tiếng Pali. Phái Phật giáo Nguyên thủy ban đầu không tin rằng Đức Phật hiện diện trong hình dạng một người trần. Trong các tác phẩm tranh tượng, Đức Phật chỉ được thể
https://thuviensach.vn
hiện qua hình ảnh tượng trưng như cây bồ đề, nơi Người đã ngồi và giác ngộ, hoặc con voi mà thân mẫu Người mơ thấy trước khi thụ thai Người, hoặc là bánh xe luân hồi... Tuy vậy ngày nay Phật tử phái Phật giáo Nguyên thủy cũng đã sử dụng tượng Phật. Phái này hiện tồn tại chủ yếu ở Sri Lanka, Miến Điện, Việt Nam...
2 - Mahayana, phái Đại thừa, chủ yếu dựa vào sự đồng tâm thờ Phật của tất cả các tín đồ và cuối cùng hết thảy sẽ đạt tới giác ngộ. Đại thừa vì vậy được coi là chú trọng cả vào đời tu hành lẫn đời thế tục. Phái Đại Thừa bớt khắt khe và khổ hạnh hơn, dễ được tiếp nhận hơn. Sự khác biệt rõ ràng giữa Đại Thừa so với Tiểu Thừa còn ở chỗ Phật giáo Đại Thừa thờ các vị Bồ Tát (Boddhisattva). Bản kinh của phái Đại Thừa viết bằng tiếng Sanskrit. Phái Đại Thừa hiện tồn tại chủ yếu ở Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam...
Từ bỏ vật chất để tìm kiếm sự giải thoát, nhưng khác với giáo sĩ của các tôn giáo đương thời, Đức Phật nhận ra rằng việc nhịn ăn khổ hạnh không đưa con người tới đích. Vì vậy Người truyền bá trung đạo: điều độ trong tất cả mọi việc. Đức Phật dạy rằng toàn bộ cuộc đời là một nỗi thống khổ triền miên, sự đau khổ đó phát sinh từ những ham muốn vật chất, coi những ham muốn đó là quan trọng. Bằng cách đi theo con đường chân chính tám chặng (bát chính đạo), những ham muốn này sẽ được chế ngự, con người sẽ đạt đến cõi Niết Bàn, tức là được giải thoát hoàn toàn khỏi vòng luân hồi đau khổ. Trong quá trình đó, con người phải trải qua nhiều kiếp đầu thai trước khi đến đích cuối cùng. Con đường này đưa người ta qua vòng luân hồi với nhiều karma (nghiệp). Nhưng karma không chỉ đơn thuần là số mệnh, karma còn là luật nhân quả: hành vi của con người ở kiếp này sẽ quyết định vai trò và những gì mà người đó sẽ phải trải qua ở kiếp sau.
Ở Ấn Độ, thế kỷ III trước CN, hoàng đế Ashoka (273-232 trước CN) từ một tín đồ Bà La Môn đã cải theo đạo Phật. Một trong những vị hoàng đế vĩ đại nhất trong lịch sử Ấn Độ, Ashoka đã chinh phục hầu hết tiểu lục địa, tạo dựng nên một vương quốc thống nhất. Sau những cuộc chinh chiến xác người chất cao như núi, máu đổ xuống
https://thuviensach.vn
những dòng sông ở xứ Kalinga khiến cho sông nghẽn dòng, Ashoka thấy được cái vô minh vô thường của kiếp người và thực sự sám hối. Việc cải đạo của Ashoka làm cho Phật giáo phát triển rất nhanh. Ashoka có công lớn với đạo Phật khi ông cho dựng lên ở những nơi in dấu chân Đức Phật những chỉ dụ khắc trên đá, nêu rõ đó là nơi Đức Phật ra đời (Lumbini), nơi Phật được khai minh (Boddhgaya), nơi Người giảng bài kinh đầu tiên (Sarnarth), nơi người qua đời (Kushinagar) và nhiều nơi khác. Những pho lịch sử khắc trên đá này khi được khai quật lên rải rác vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã trở thành những văn bản quý, chứng minh rằng Đức Phật là nhân vật có thật, không phải do người đời tưởng tượng và thần thánh hóa.
Đế chế của Ashoka mở rộng hầu khắp lãnh thổ Ấn Độ nên đạo Phật cũng được truyền bá rộng rãi. Hoàng đế còn gửi sứ giả đến các nước để giảng kinh Phật và cho con trai là Mahinda (có thuyết nói rằng hoàng đế đã gửi con gái là Sanghamitta) mang đạo Phật sang Sri Lanka cùng với một cây bồ đề nhỏ, tách từ cây bồ đề nơi Đức Phật đã ngồi và được giác ngộ.
Nhưng nếu như Phật giáo nhanh chóng phát huy ảnh hưởng ra ngoài biên giới như vậy, thì ngay trên đất Ấn Độ, tôn giáo này đã gặp phải sự phản công mạnh mẽ của đạo Hindu, một sản phẩm tinh thần thực sự phù hợp với Ấn Độ. Đạo Phật, cùng với nó là đạo Jain, được coi như là sự “nổi loạn” về tư tưởng (một cách hòa bình) ở thế kỷ VI trước CN, đòi phá bỏ hệ thống đẳng cấp hà khắc, chống lại sự tha hóa và tham nhũng của các giáo sĩ Bà La Môn cùng nghi lễ tôn giáo tốn kém và phức tạp của họ. Đồng thời hai tôn giáo này truyền bá tinh thần khoan dung, không bạo lực. Đạo Jain dần dần thỏa hiệp với đạo Bà La Môn (tiền thân của đạo Hindu) và trụ lại. Còn đạo Phật đã có thời gần như không tồn tại nổi trên đất Ấn Độ, bị đạo Bà La Môn phục hồi giành lại nhiều tín đồ. Ngày nay, tín đồ đạo Phật ở Ấn Độ vẫn bác bỏ quan điểm của đạo Hindu rằng Đức Phật là kiếp thứ chín của thần Bảo Vệ Vishnu, cho đó là thủ đoạn nhập nhằng của đạo Hindu trong quá trình phục hưng, nhằm thu hút các tín đồ Phật giáo cải sang đạo Hindu.
https://thuviensach.vn
Đạo Jain
Cùng thời với Phật giáo, đạo Jain (phát âm là Gien) do Mahavira, giáo sĩ thứ 24 và cũng là giáo sĩ cuối cùng của tôn giáo này, sáng lập ra vào khoảng 500 năm trước CN. Mahavira bác bỏ mọi quyền năng của các bản kinh Veda và địa vị tối cao của đẳng cấp giáo sĩ Bà La Môn. Ông cũng phản đối sự hành lễ tốn kém và rườm rà do đẳng cấp này bày ra. Đạo Jain chủ trương một lối sống đạo đức, khổ hạnh và tự hành xác một cách cực đoan để đạt tới sự cứu vớt linh hồn. Một trong những yếu tố để đạt tới sự cứu rỗi là ahimsa (không bạo lực) hay là sự tôn trọng toàn bộ sự sống và tránh gây thương vong cho mọi sinh linh. Vì lẽ đó, tín đồ đạo Jain là những người ăn chay nghiêm ngặt, một số sư sãi còn dùng khẩu trang che miệng để tránh vô tình nuốt phải ruồi muỗi và côn trùng, bằng cách đó phạm tội sát sinh.
Đạo Jain có hai giáo phái: Svetambara (áo trắng) là giáo phái chính có thể gặp ở khắp nơi. Giáo phái thứ hai Digambara khá đặc biệt, lối sống khổ hạnh hơn. Tên của giáo phái này có nghĩa là “áo trời”, bởi vì trên người họ không có một mảnh vải che thân, để chứng tỏ không màng đến việc sở hữu bất cứ một thứ tài sản nào, kể cả quần áo. Tượng giáo sĩ Mahavira trong đền thường ở dạng khỏa thân và có tính nghệ thuật cao. Một lẽ dễ hiểu là do mang bộ áo trời tự nhiên như vậy, tu sĩ phái Digambara thường chỉ quẩn quanh trong đền thờ ở trên núi cao, sống cuộc sống khổ hạnh, hầu như rất hiếm khi rời ẩn viện xuống đồng bằng. Nhắc đến đạo Jain, có người Việt gọi đó là Vô Tàm giáo, có thể là do đặc điểm áo trời này chăng? Nếu như vậy thì thật không thỏa đáng, vì áo trời chỉ là một giáo phái, không phải là cả đạo Jain, một tôn giáo không có gì là vô tàm, vô sỉ. Bản thân giáo phái áo trời cũng có một triết lý sống đáng trọng.
Ngôi đền nổi tiếng Sravana Belagola thuộc bang Karnataka miền nam Ấn là của giáo phái “áo trời”. Trong quần thể đền, có một pho tượng cao 18m, tạc từ một khối đá duy nhất, là pho tượng đá
https://thuviensach.vn
nguyên khối cao bậc nhất thế giới. Tượng dựng trên đỉnh núi cao khoảng 200m, cho nên từ rất xa du khách đã có thể nhìn thấy. Nhưng muốn lên đến nơi thì phải leo 614 bậc đá cao và dốc đứng.
Đây là tượng của giáo sĩ đạo Jain thuộc giáo phái “áo trời”. Chuyện xưa kể lại rằng thời đó có hai vị hoàng tử cùng tranh giành một ngai vàng do vua cha để lại. Cuối cùng Bahubali là hoàng tử em đã chiến thắng. Nhưng ngay lập tức chàng bị dằn vặt khi thấy người anh, Bharat, bị xiềng trong ngục tối.
Bahubali ăn năn sám hối rồi trả lại ngai vàng cho Bharat, lui vào rừng sâu sống cuộc đời khổ hạnh của một giáo sĩ đạo Jain. Đức vua anh đã cho dựng tượng Bahubali trên đỉnh núi này vào năm 981.
Lễ hội được tổ chức tại đền 12 năm một lần. Lễ hội năm 1993 và 2005 có đến hàng trăm nghìn người hành hương và du khách nước ngoài đổ về đây. Khán đài được dựng ngay đằng sau pho tượng, dành cho quan khách của chính quyền bang và các vị chức sắc trong đạo. Đến giờ làm lễ, pho tượng được tắm trong sữa dội từ trên đầu xuống, cùng với nước dừa, bơ tinh khiết, hạnh nhân, chà là, tiền xu bằng vàng, bột gỗ đàn hương, hàng tấn cánh hoa hồng... tức là những gì thanh khiết và quý giá theo quan niệm của tín đồ đạo Jain.
Đền thờ đạo Jain nổi tiếng ở tính quần thể, thường do nhiều ngôi đền giống nhau, được xây dựng trong cùng một quần thể, hợp thành. Trong đền có rất nhiều cột, như ngôi đền Dilwara ở bang Rajasthan có đến 1444 chiếc cột bằng đá cẩm thạch trắng, chạm khắc tinh xảo, nhưng không hề có hai cột giống nhau. Đền thờ của đạo Jain được trông coi rất cẩn thận và sạch sẽ.
Ngày nay trên khắp Ấn Độ có khoảng 10 triệu tín đồ đạo Jain, tập trung nhiều nhất ở miền tây và tây nam. Dù chỉ có một cộng đồng nhỏ, tín đồ đạo Jain được coi là những người rất thông minh, hiền hòa và đặc biệt phát đạt trong việc kinh doanh. Giáo lý của họ không chủ trương phân chia đẳng cấp, nhưng trên thực tế lại chấp nhận nó. Đây là một trong những bằng chứng về sự thỏa hiệp của đạo
https://thuviensach.vn
Jain với đạo Hindu, nhờ đó tôn giáo này tồn tại được song song với đạo Hindu qua những thăng trầm của lịch sử, mặc dù không hề phát huy được ảnh hưởng ra ngoài biên giới Ấn Độ.
https://thuviensach.vn
Đạo Sikh
Sikh không phải là một dân tộc, thực ra danh từ người Sikh là để chỉ tín đồ của một tôn giáo. Một nhầm lẫn nữa là coi người Sikh là thủ phạm của các cuộc bạo động và khủng bố trên đất Ấn Độ. Trên thực tế, hành động đánh bom, tàn sát dân thường là do một thiểu số người Sikh cực đoan gây ra. Nhóm người có vũ trang này, được sự ủng hộ của các thế lực nước ngoài, vẫn đang đòi tách bang Punjab ra khỏi Ấn Độ để được quyền tự trị và thành lập một quốc gia độc lập mang tên Khalistan. Hành động của họ bị phần lớn cộng đồng người Sikh phản đối.
Có thể gặp người Sikh khắp nơi trên đất Ấn Độ, nhưng nhiều nhất vẫn là ở bang Punjab. Hiện nay tín đồ đạo Sikh có khoảng 20 triệu người. Trong tất cả các tôn giáo, người Sikh nổi bật bởi 5 đặc điểm (5K), do giáo sĩ Gobind Singh quy định để dễ nhận ra nhau:
- Kesha: không cắt tóc và không cạo râu.
- Kangha: mang theo lược chải đầu bằng gỗ hoặc bằng ngà. - Kacha: mặc quần soóc.
- Kara: vòng đeo tay bằng sắt.
- Kirtipan: mang kiếm hoặc dao găm.
Quan niệm sống tôn trọng sự phát triển tự nhiên của mọi vật, người Sikh không cạo râu và không cắt tóc, cho nên họ phải vấn tóc thành búi, rồi đội lên đầu một vành khăn. Mặc quần ngắn và đeo kiếm, vì người Sikh có tinh thần thượng võ, không thích đi lại với tấm dhoti bùng nhùng quanh chân, và không chịu để bị bắt vì không có vũ khí chống trả. Tại lễ tuyên thệ trước một kỳ họp Nghị viện, trong số các nghị sĩ người Sikh, có một người bị lực lượng bảo vệ phát hiện mang theo một con dao dài, lưỡi cong, ông tuyên bố việc đeo con
https://thuviensach.vn
dao chỉ là tuân thủ những quy định đối với một người Sikh, dứt khoát không chịu để dao lại ở phòng ngoài và cuối cùng ông đã bỏ về, không dự lễ tuyên thệ.
Guru Nanak, sinh năm 1469, là người sáng lập ra đạo Sikh. Mục đích ban đầu của tôn giáo này là tập hợp các tín đồ xuất sắc nhất của đạo Hindu và đạo Hồi. Giáo lý cơ bản của đạo Sikh gần gũi với giáo lý Hindu, nhưng phản đối kịch liệt tính hình thức và cuồng tín của hai tôn giáo trên. Đạo Sikh truyền bá sự khoan dung, chú trọng xây dựng một cuộc sống chân thực, thật thà và làm điều thiện. Một điều khác biệt về căn bản so với đạo Hindu là đạo Sikh chống lại việc phân chia đẳng cấp và chủng tộc, đồng thời không có tập quán hành hương đến các con sông (như sông Hằng đối với người theo đạo Hindu). Tuy vậy, họ không phản đối việc hành hương đến các thánh địa. Họ thờ cúng tại đền thờ, gọi là gurudvara, rửa tội cho con cái khi chúng đã lớn và hiểu về tôn giáo, và hỏa táng người chết. Ngôi đền lớn nhất, thiêng liêng nhất của đạo Sikh là Đền Vàng ở bang Punjab. Sách kinh đạo Sikh là bản kinh Granth Saheb, bao gồm trước tác của mười giáo sĩ đạo Sikh, cùng với những bản kinh của đạo Hindu và đạo Hồi.
Thế kỷ XVI, giáo sĩ Gobind Singh bổ sung cho đạo Sikh yếu tố vũ trang, nhằm đối phó với nạn người Sikh bị khủng bố. Từ đó tất cả người Sikh đều có thêm phụ danh là Singh, có nghĩa là sư tử. Người Sikh chỉ tin một Đấng Tối Cao và chống lại việc thờ cúng tượng thần. Họ có thái độ khoan dung và yêu mến mọi người, coi trọng sự mến khách đến mức có thể che chở cho bất cứ ai tìm đến nương náu trong đền thờ của mình. Đây chính là lý do những kẻ khủng bố cực đoan người Sikh bị truy đuổi đã tìm đến lẩn trốn trong Đền Vàng năm 1984 và thủ tướng Indira Gandhi phải dùng đến lực lượng vũ trang tấn công vào đền với quy mô lớn.
Người Sikh hiện chiếm khoảng 2% dân số, là cộng đồng tôn giáo vào loại dễ chịu nhất ở Ấn Độ, bởi luôn có thái độ tôn trọng sự phát triển tự nhiên của con người. Người Sikh rất nổi tiếng về trình độ kỹ
https://thuviensach.vn
thuật và giàu kiến thức trong lĩnh vực máy móc, từ xe máy cho đến máy bay hiện đại.
https://thuviensach.vn
Những tôn giáo ngoại nhập
https://thuviensach.vn
Đạo Hồi
Ở Ấn Độ, tín đồ đạo Hồi chiếm khoảng 14% dân số, xấp xỉ 150 triệu người. Do đó, Ấn Độ là một trong những nước có cộng đồng đạo Hồi lớn nhất thế giới. Theo thống kê, kể từ ngày độc lập, Ấn Độ đã có hai tổng thống, một số bộ trưởng nội các và thủ hiến bang là tín đồ đạo Hồi. Bộ trưởng Nội vụ trong chính phủ V. P. Singh đầu những năm 1990, ông Mufti Mohammed Sayeed cũng là một tín đồ có phẩm hàm cao và chính phủ V. P. Singh đã đưa ngày lễ chính của đạo Hồi làm một ngày lễ toàn quốc, các công sở và trường học được nghỉ. Trong tất cả các tôn giáo ở châu Á, Hồi giáo là tôn giáo trẻ tuổi bậc nhất và phổ biến bậc nhất. Hồi giáo chiếm địa vị độc tôn ở vùng Bắc Phi và Tây Á, là tôn giáo chính ở các nước Đông Á và Nam Á như Bangladesh, Pakistan, Malaysia và Indonesia.
Giáo chủ Mohammed, người sáng lập tôn giáo này, sinh năm 570 tại Mecca, nay thuộc Saudi Arabia. Năm 610, ông tiếp nhận được sự khai minh đầu tiên từ đấng Allah (Chúa Trời). Cuộc tiếp xúc này và những lần sau đó, được ông nhớ và ghi lại trong cuốn kinh Koran. Tiếp nhận sứ mệnh của mình, Mohammed bắt đầu giảng đạo và lấy Mecca làm trung tâm. Tín đồ Hồi giáo là những người theo thuyết đơn thần một cách nghiêm ngặt, chỉ coi Allah là đấng tối cao, không công nhận một thần thánh nào khác. Họ cho rằng nhận thức thánh thần thông qua hình ảnh là tội lỗi. Giáo huấn của đạo Hồi liên quan chặt chẽ với kinh Cựu ước. Chúa Jesus Christ và Moises cũng được coi là những giáo sĩ của đạo Hồi, mặc dù Jesus không phải là con của Chúa Trời.
Năm 622, Mohammed và các tín đồ phải bỏ chạy khỏi Mecca vì đã can thiệp vào công việc của chính quyền địa phương. Họ tới Medina - “thành phố ánh sáng”, và đến năm 630 thì đủ mạnh để quay lại chiếm Mecca. Mohammed qua đời năm 632, nhưng chỉ trong vòng hai thập kỷ, đạo Hồi đã được truyền bá rộng rãi trong thế giới Arab.
https://thuviensach.vn
Tín ngưỡng đạo Hồi còn đi xa hơn phạm vi tín ngưỡng của một tôn giáo ở chỗ nó kêu gọi các tín đồ: khi cần thiết, hãy dùng cả thanh kiếm để truyền giáo và bảo vệ đạo. Trong thời cực thịnh, đạo Hồi đã phát triển qua ba lục địa. Người Arab, những tín đồ đầu tiên của đạo Hồi, nổi tiếng là tàn bạo nếu ai đó chống lại họ, nhưng cũng là những ông chủ công bằng nếu người ta chịu quy phục. Vì vậy ở nhiều nơi, dân chúng cho rằng tốt hơn hết là chịu đầu hàng. Bằng cách này, các tín đồ đạo Hồi đã đè bẹp sự chống trả của đế chế Byzantine đang mục nát, có một ông vua theo đạo Thiên Chúa, và không được dân chúng ủng hộ.
Đạo Hồi sang phương Tây trong khoảng 100 năm, rồi bị đẩy lùi ở Poitiers (Pháp) năm 732, nhưng tiếp tục tràn sang phương Đông, kéo dài hàng thế kỷ. Hồi giáo khôi phục đế chế Ba Tư (Iran ngày nay), nhưng đế chế này đã suy tàn sau những cuộc chiến tranh triền miên với người Byzantine. Năm 711, người Anh đến Tây Ban Nha, cùng lúc cho tàu buôn kéo đến sông Indus ở Ấn Độ. Đây là một cuộc tập kích ngẫu nhiên hơn là một cuộc xâm lược quy mô, nhưng đến thế kỷ XII thì toàn bộ miền bắc Ấn Độ lại rơi vào tay đạo Hồi. Cuối cùng, đế chế Moghul (của đạo Hồi) đã thống trị hầu khắp tiểu lục địa Ấn Độ. Từ đây, đạo Hồi được người Ấn Độ truyền bá sang Đông Nam Á.
Ngay từ thời kỳ đầu, trong đạo Hồi đã có chia rẽ và các giáo phái tồn tại cho đến ngày nay. Năm 656, vị Caliph thứ 3, người nối nghiệp của Mohammed, bị con rể là Ali giết chết và thế chân. Năm 661, Ali bị Suria ám sát và ông này tự tôn là Caliph. Hầu hết tín đồ đạo Hồi hiện nay thuộc giáo phái Sunnite (Sunni), tín đồ của Caliph này. Số còn lại là giáo phái Shia hoặc Shiite, tín đồ theo Ali.
Mặc dù ngay từ khi ra đời đã phát triển mạnh như vậy nhưng ngày nay, đạo Hồi đã trở nên khó thay đổi. Hồi giáo thống trị Ấn Độ trong một thời gian dài, nhưng không mở được đường thâm nhập vào tôn giáo và xã hội Hindu. Cải theo đạo Hồi về cơ bản chỉ là những người thuộc đẳng cấp thấp nhất. Điều này dẫn đến hậu quả là năm 1947, trong cuộc di cư của người Hindu về Ấn Độ và tín đồ Hồi giáo về
https://thuviensach.vn
Pakistan, phía Pakistan đã mất rất nhiều nhân viên văn phòng và quan chức nhà nước có kiến thức, còn Ấn Độ chỉ mất những người thuộc đẳng cấp thấp. Tuy nhiên, dù cho Hồi giáo không nhận được nhiều người cải đạo, nhưng ảnh hưởng mạnh mẽ của Hồi giáo có thể thấy rõ trong nghệ thuật, trong kiến trúc và món ăn của Ấn Độ.
Những tín điều bắt buộc của đạo Hồi cũng đơn giản. Chẳng hạn:
1 - Phải tuyên thệ rằng: “Không có thần thánh nào khác ngoài Đức Allah, và Mohammed là nhà tiên tri của người”.
2 - Mỗi ngày cầu kinh Koran 5 lần.
3 - Trong đời người, phải hành hương đến Mecca hoặc một thánh địa đạo Hồi khác.
Ngày thứ sáu là ngày thiêng liêng của đạo Hồi, cho nên đền thờ chính ở mỗi thành phố được gọi là Jama Masjid (đền thờ ngày thứ sáu). Những người đã hành hương đến Mecca thì trở thành một Haji (người đã đến Mecca).
https://thuviensach.vn
Đạo Lửa hay là Hỏa giáo
Đây là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới, do giáo sĩ Zarathustra sáng lập tại Ba Tư (Iran ngày nay) vào khoảng thế kỷ thứ VI hoặc VII trước Công nguyên, ông sinh tại Mazar-i-Sharif (nay thuộc Afghanistan). Đã có thời Hỏa giáo phổ biến rộng rãi từ Ấn Độ đến Địa Trung Hải, nhưng ngày nay chỉ còn ở Shiraz thuộc Iran, Karachi thuộc Pakistan và Bombay (Mumbai) thuộc Ấn Độ. Tín đồ Hỏa giáo được gọi là Parsi (phát âm tương tự như Persia - Ba Tư), vì họ đã chạy từ Ba Tư đến Ấn Độ để tránh bị khủng bố.
Hỏa giáo là một trong những tôn giáo đầu tiên mặc nhiên công nhận một vị thần vô hình và có quyền lực tuyệt đối. Kinh sách của đạo là Zend - Avesta, miêu tả xung đột liên tục giữa các thế lực thiện và ác. Thần của họ là Ahura Mazda, thần Ánh Sáng, được tượng trưng bằng ngọn lửa. Con người tin vào sự chiến thắng của cải thiện đối với cái ác, bằng cách tuân theo những nguyên tắc:
- Humata: ý nghĩ đẹp,
- Hukta: Lời nói hay,
- Huvarshta: Việc làm tốt.
Tín đồ Hỏa giáo thờ cúng ở đền thờ lửa, mặc một tấm áo thiêng (sadra) và đeo một sợi dây thiêng (kasti). Ngọn lửa vĩnh cửu trong các ngôi đền là biểu tượng của vị thần. Người theo Hỏa giáo tôn trọng sự trong sạch của mọi vật, cho nên họ không hỏa táng hoặc chôn cất tử thi, vì như vậy sẽ làm ô nhiễm ngọn lửa, ô nhiễm đất đai, không khí và nước. Khi có người qua đời, họ đặt tử thi vào “Tháp Yên Lặng” để cho quạ và kền kền phân hủy.
Mặc dù chỉ có khoảng 100.000 tín đồ, tập trung ở Bombay, người theo Hỏa giáo rất phát đạt trong việc kinh doanh và trong các ngành công nghiệp. Họ cũng rất nổi tiếng bởi tính thương người. Ảnh
https://thuviensach.vn
hưởng của người theo Hỏa giáo lớn đến mức mỗi khi có sự bất đồng giữa Ấn Độ và Pakistan, thì họ được coi là kênh liên lạc để đối thoại.
Số lượng tín đồ Hỏa giáo đang giảm dần, do sự đòi hỏi khắt khe rằng người theo Hỏa giáo chỉ được kết hôn với người trong đạo, và đứa trẻ chỉ được công nhận là người Hỏa giáo nếu có cả bố lẫn mẹ là tín đồ Hỏa giáo.
https://thuviensach.vn
Đạo Thiên Chúa
Đạo Thiên Chúa chiếm 2% dân số Ấn Độ, khoảng hơn 20 triệu tín đồ. Những cộng đồng đạo Thiên Chúa xuất hiện ở Kerala cùng lúc với sự xuất hiện cộng đồng Thiên Chúa giáo ở châu Âu, do thánh Thomas, một trong những tông đồ của Jesus Christ, đã đến miền Nam Ấn Độ vào năm 54. Người Bồ Đào Nha cũng để lại một cộng đồng lớn tín đồ Thiên Chúa giáo tại Goa. Tuy vậy, nếu chỉ tính số lượng người cải đạo thì có thể nói Thiên Chúa giáo không thành công lắm ở Ấn Độ. Tín đồ Thiên Chúa giáo nhìn chung đều xuất thân từ đẳng cấp thấp. Dù sao, họ cũng chiếm đa số ở hai bang nhỏ miền bắc là Mizoram và Nagaland. Họ chiếm 1/4 dân số ở Kerala và 1/3 ở Goa, hai vùng thuộc miền nam.
Ở một số thành phố, có những cộng đồng nhỏ người Do Thái và theo Do Thái giáo. Đặc biệt ở Cochin (Kerala) có một cộng đồng Do Thái là con cháu của những người Do Thái được cho là đã đến đây từ năm 587 trước Công nguyên.
https://thuviensach.vn
Những vị thần của đạo Hindu
https://thuviensach.vn
Những vị thần thời Veda
Những vị thần thời Veda rất có thể là kết quả của sự pha trộn những tư tưởng do người nhập cư mang đến với tư tưởng của người bản địa. Các vị thần này đã có mặt trong kinh Veda, cùng với những lễ nghi được miêu tả tỉ mỉ. Nhưng cũng có những trường phái tư tưởng cho rằng đạo Bà La Môn đã xuất hiện khá lâu trước khi người Aryan đến Ấn Độ.
Trong những bản kinh Veda, rõ ràng các vị thần đã xuất hiện dưới dạng con người hoặc loài vật, nhưng vẫn chưa có bằng chứng chắc chắn rằng khi ấy người ta đã thờ hình ảnh thần hay chưa. Còn có khả năng là ban đầu những đẳng cấp thấp thờ hình ảnh thần dưới dạng người hoặc vật, sau đó dần dần nó mới phát triển đến những đẳng cấp cao hơn trong xã hội.
Để phù hợp với các lực lượng phát triển, tôn giáo Veda cố phải thay đổi nhiều, chủ yếu là thay đổi những vị thần được thờ cúng và những hình thức lễ nghi. Một số vị thần thay đổi tính chất, một số mất thiêng trong khi số khác trở nên được ưa chuộng hơn, còn vai trò làm trung gian giữa thần linh và tín đồ trở thành độc quyền của các giáo sĩ (Bà La Môn) - chỉ có họ mới có thể thực hiện được các nghi lễ cần thiết. Điều này làm cho các vị thần trở nên xa cách, thậm chí một số thần còn bộc lộ những khía cạnh xấu. Kết quả là trong khi nhiều vị thần bị suy giảm vị trí, những vị khác trở nên phổ biến hơn và những vị thần mới xuất hiện. Phản ứng với tính chính thống nghiêm ngặt của các giáo sĩ, dần dần xuất hiện nhu cầu làm cho mối quan hệ giữa thần linh và tín đồ hài hòa hơn. Nhu cầu của cá nhân dâng hiến cho một vị thần đã kích thích lòng mong muốn tạc tượng thần, làm cho vị thần trở nên gần gũi hơn. Tiến trình này khá chậm chạp, không xuôi xẻ và có lẽ chỉ bắt đầu với những vị thần không nổi bật. Những thần được thờ sớm nhất bằng hình tượng là các vị thần cây Yaksha và các vị thần rắn Naga.
https://thuviensach.vn
Những vị thần thời sử thi
Hai sử thi đồ sộ Ramayana và Mahabharata là động lực tiếp tục thúc đẩy phát triển mối quan hệ giữa thần linh và con người. Những câu chuyện trong hai sử thi này về bản chất là mang tính thế tục, nhưng chúng không chỉ miêu tả chiến công của những người anh hùng mà còn nhắc đến ảnh hưởng của các vị thần đối với họ. Do đó những câu chuyện này được bổ sung, được mở rộng, hòa quyện vào lời dẫn chuyện, và hình ảnh các vị anh hùng hòa nhập vào tôn giáo rồi được thần thánh hóa.
https://thuviensach.vn
Những vị thần Purana
Sự phát triển của xã hội Ấn Độ mang đến những thay đổi trong khái niệm tôn giáo và làm tăng số lượng các vị thần. Đó là nhờ một tiến trình thu nạp, phối hợp và chấp nhận những vị thần bình dân (bao gồm cả nữ thần) vào hệ thống các vị thần vốn đã tinh vi và rất phát triển, thậm chí hòa trộn một số thần thành một vị thần mới. Một vị thần ít phổ biến của thời Veda là Vishnu đã được định danh thành người anh hùng Krishna của thời sử thi. Có lẽ mười kiếp của thần Vishnu dần dần trở nên phổ biến cũng là vì được người ta gắn với thần theo cách này. Về sau, Krishna trở nên gần gũi cùng với cây sáo và đồng cỏ - một vị thần phóng túng được bình dân ưa chuộng, trở thành đề tài cho rất nhiều thơ ca và huyền thoại.
Cùng lúc một vị thần sinh sôi của thời cổ là Shiva được nâng lên hàng các vị thần quan trọng, với rất nhiều hiện thân, làm cho thần nổi tiếng không kém gì Vishnu. Shiva và Vishnu tạo thành nhóm Tam thần, cùng với thần Sáng Tạo Brahma. Tuy vậy, cho dù rất có uy tín ở cổ đại, Brahma không hề được ngưỡng mộ rộng rãi như hai vị kia.
Bắt đầu từ thế kỷ IV và V Công nguyên, người ta đã nỗ lực tạo nên một số thứ bậc giữa nhiều vị thần, được thể hiện trong thần thoại và truyền thuyết. Cuối cùng toàn bộ những kiến thức về thần linh này được tổng hợp lại trong Purana (những câu chuyện cổ), với gia phả cụ thể của từng vị, đồng thời chỉ dẫn những vấn đề về tôn giáo. Nhiều vị thần sau đó mới bắt đầu xuất hiện là nhờ được chính thức hóa trong sách Purana. Đồng thời, sự phát triển của phái Tantra (thờ vị thần nữ của một thần nam, thường là Shiva) cũng tạo đà cho thần thoại Hindu phát triển, làm tăng thêm số lượng các vị thần.
Từ thế kỷ XV trở đi, người ta trở lại quan tâm đến phong trào Bhakti, dẫn đến việc khắp nơi thờ cúng Krishna, vị thần vào loại cổ nhất, có nhiều phẩm chất người.
https://thuviensach.vn
Sức sáng tạo trong đời sống tôn giáo Ấn Độ tạo thành một dòng chảy liên tục và thường xuyên cho đến thời hiện đại. Một ví dụ: khoảng những năm 1960, thần thoại và truyền thuyết về nữ thần Santoshi Mata mới trở nên hoàn chỉnh và gây được sự quan tâm mới.
https://thuviensach.vn
Vì sao các thần có nhiều tay?
Rất nhiều người khi bước chân vào đền thờ Hindu đã hỏi đúng câu này.
Hình ảnh các thần thường được trang trí trong đền thờ, tại nhà riêng, ở những lễ hội, trung tâm buôn bán... thể hiện trong các loại hình điêu khắc, tranh màu... Ở cuốn sách này, người viết sưu tầm được một số hình vẽ các thần trong hình thức tranh đen trắng. Trong những bức tranh để trang trí hoặc thờ cúng, các thần bao giờ cũng có nhiều tay.
Như đã trình bày ở trên, trong tiến trình phát triển tôn giáo, người ta có khi đã nhập nhiều vị thần lại để tạo nên một vị thần mới, do đó một số thần mang trong mình nhiều phẩm chất. Các họa sĩ và nhà điêu khắc khi sáng tạo hình tượng thần đã tìm ra cách giải quyết: tạo cho họ nhiều cánh tay. Mỗi bàn tay sẽ cầm một vật gì đó, thể hiện những khả năng khác nhau của vị thần.
https://thuviensach.vn
Một số bàn tay có thể không cầm gì, nhưng tư thế của lòng bàn tay và các ngón tay sẽ thể hiện tính cách của thần. Chẳng hạn, nếu các ngón tay chỉ xuống đất, vị thần ấy có phẩm chất từ tâm. Nếu các ngón tay hướng lên trên, tư thế ban phước, vị thần đó là người bảo hộ. Những cử chỉ này (mudra) biểu lộ sức mạnh của mỗi vị thần và giúp phân biệt các vị thần với nhau.
https://thuviensach.vn
Thờ cúng
Đạo Hindu không thờ cúng tập thể, ngoại trừ những giáo phái coi trọng việc dâng hiến (Bhakti). Trong đền thờ, tín đồ có thể có mặt tại những buổi lễ nhất định hoặc có thể nhờ một vị giáo sĩ làm lễ cho, hoặc cầu xin một vị thần nào đó giúp mình. Việc thờ cúng có mức độ khác nhau, tùy thuộc vào tầm cỡ của giáo phái, tầm cỡ của ngôi đền... Thờ cúng tại gia cũng khác nhau, phụ thuộc vào nhu cầu của từng cá nhân. Nhà giàu có thể thuê giáo sĩ riêng cho mọi nghi lễ gia đình. Những nhà khác có thể chỉ thuê giáo sĩ đến vào dịp đặc biệt. Một người bận rộn có thể chỉ cầu kinh buổi sáng hoặc buổi tối, chỉ thỉnh thoảng mới tới đền thờ lớn vào những dịp có lễ hội quan trọng.
Tại một ngôi đền, hoạt động tôn giáo bình thường diễn ra suốt ngày: sáng ra đánh thức thần dậy, tắm rửa, cúng dường thực phẩm, đêm đến cho thần nghỉ ngơi. Khi bước chân vào đền, tín đồ thỉnh chuông treo ngay lối vào. Thỉnh chuông để xua đi tất cả những âm thanh bên ngoài, giúp cho tín đồ tập trung và hướng vào nội tâm, đồng thời để báo về sự có mặt của tín đồ trước thần linh. Những ngọn đèn khua khua trước tượng thần, hàm ý thần là toàn bộ ánh sàng, đồng thời bày tỏ lòng kính trọng. Hương được đốt lên tượng trưng rằng vị thần lan tỏa khắp nơi, đồng thời là một cách thanh tẩy, làm vệ sinh. Đốt long não là để biểu thị bản ngã cần phải tan ra như long não và linh hồn cá nhân phải hợp nhất với Đấng Tối Cao. Tín đồ cúng dường kẹo bánh, hoa quả, gạo... cho thần. Lộc này (prasad) sau đó được phát cho thành viên trong gia đình hoặc cho các tín đồ có mặt trong đền. Vị giáo sĩ quệt lên trán của tín đồ một vệt màu đỏ hoặc vàng, gọi là tilak. Tilak được quệt ở giữa hai đường lông mày, nơi được coi là con mắt thứ ba hoặc con mắt tâm linh.
Sau khi cầu nguyện, tín đồ đi xung quanh tượng thần. Người ta tin rằng tượng thần tỏa ra hào quang và tín đồ cần tận dụng hào quang bằng cách đi quanh tượng theo chiều kim đồng hồ.
https://thuviensach.vn
Có hai loại thờ cúng. Loại thứ nhất là saguna: người cúng nhắm vào một hình tượng hoặc một tượng thần cụ thể giúp mình tập trung dễ dàng hơn. Loại thứ hai là nirguna: một bước cao hơn, người ta tập trung vào Đấng Toàn Năng bằng cách hướng tâm trí vào bên trong. Thờ cúng không bắt buộc phải đến đền thờ, người ta có thể thiền định tập trung vào Đấng Toàn Năng ở bất cứ nơi nào thuận tiện.
https://thuviensach.vn
Thần Sáng Tạo Brahma
Trong tranh tượng, thần Brahma thường được vẽ với bốn mặt quay về bốn hướng, thể hiện thần có mặt ở khắp nơi, đồng thời là bốn cuốn kinh Veda. Bốn cánh tay của thần tượng trưng cho bốn hướng. Tay cầm một số thứ như một tràng hạt, một bình nước, một cuốn sách (kinh Veda), cũng có thể là một cây quyền trượng, một cây cung hoặc một bông sen. Thảng hoặc tay thần có thể ở tư thế ban phước hoặc bảo hộ. Tràng hạt tượng trưng cho thời gian. Toàn bộ vũ trụ tiến hóa từ nước, Brahma tay cầm bình nước vì lẽ đó.
Thần có thể khoác trên người một tấm da hổ hoặc da sơn dương đen. Vai trái đeo sợi dây thiêng. Người ta có thể vẽ thần cưỡi trên một con thiên nga (biểu tượng của tri thức) hoặc trên một cỗ xe do bảy con thiên nga kéo.
https://thuviensach.vn
Brahma, tranh thờ, theo phong cách dân gian
Trong bản kinh Rig Veda, từ Brahman (hoặc Brahma) là để chỉ sức mạnh bí ẩn trong những lời thiêng, về sau, sức mạnh này gắn với kỹ năng của một giáo sĩ gọi là Brahmin (giáo sĩ Bà La Môn), người nói ra “lời”. Kinh Upanishad phát triển lên một bước, coi sức mạnh này mang tính vũ trụ và tạo ra những nhân tố hình thành lên mọi thứ, kể cả các vị thần. Cuối cùng, tinh thần sáng tạo tối cao này được nhân cách hóa mà thành Brahma.
https://thuviensach.vn
Nhắc đến sự hình thành vũ trụ thì rõ ràng thần Brahma có vai trò trong khoa học vũ trụ của Hindu giáo. Rất nhiều thần thoại trong những bản kinh sau này xoay quanh nguồn gốc và sự điều hành vũ trụ. Một thần thoại kể rằng Đấng Tối Cao tạo ra nước từ đất, đặt vào trong nước một cái hạt, về sau hạt thành quả trứng vàng, quả trứng vàng nở ra Brahma. Trong những thần thoại khác, Brahma khi thì là một con lợn lòi nâng đất lên cao hơn nước và tạo ra thế giới, hoặc trong hình dạng một con cá hay một con rùa. Nhưng về sau thần thoại Hindu phát triển theo hướng quy những hiện thân này về cho thần Vishnu, Brahma bị đẩy xuống hàng thứ hai.
Từ thế kỷ VI, dân chúng không còn thờ Brahma rộng rãi như trước nữa. Ngày nay, người ta vẫn còn thờ tranh tượng Brahma trong đền thờ, nhưng hầu như rất hiếm thấy thần ở vị trí chính. Trên khắp Ấn Độ, chỉ có hai đền thờ dành riêng cho thần Brahma ở Ajmer, bang Rajasthan và ở bang Orissa.
Theo khoa học nghiên cứu vũ trụ của Hindu giáo, xuyên qua thời gian và xuyên qua vũ trụ, một vòng quay cơ bản gọi là Kalpa (hay là Ngày của Brahma) tương đương với 4.320 triệu năm. Một đêm cũng có độ dài tương tự. 360 ngày và đêm này tạo thành một năm trong đời Brahma, mà cuộc đời của thần được tính là 100 năm.
https://thuviensach.vn
Thần Bảo Vệ Vishnu
Trong tranh tượng, Vishnu thường có nước da màu xanh nước biển, y phục màu vàng, có bốn tay hoặc nhiều hơn. Thần hay cầm hai vật đặc trưng là bánh xe và cái vỏ ốc. Bánh xe biểu hiện tinh thần Vũ trụ - sức mạnh sáng tạo và hủy diệt tạo nên vũ trụ đang chuyển động. Vỏ ốc liên quan đến nước và chỉ ra nguồn gốc tồn tại thông qua vòng xoáy trôn ốc. Vishnu còn cầm cái chùy, hàm ý quyền lực và sức mạnh tri thức là tinh túy của đời sống. Có thể một bàn tay mở hướng lên trên trong thế Abhaya Mudra, bày tỏ sự an ủi. Có thể thần còn cầm một bông sen và cưỡi trên Garuda (đại bàng, ở dạng nửa người nửa chim).
Vishnu thường được thể hiện ở thế nửa nằm nửa ngồi trên một cái giường do vua rắn Shesha Naga cuộn lại mà thành. Ngồi ở phía chân giường là nữ thần Laksmi, vợ Vishnu. Người ta cho rằng thần Brahma sinh ra từ bông sen mọc lên từ rốn của Vishnu.
Vishnu là một ví dụ về việc nhu cầu tôn giáo trong đời sống Ấn Độ đã thay đổi địa vị của các thần và thay đổi phẩm chất của họ.
https://thuviensach.vn
Vishnu đã được nhắc đến trong kinh Veda, rồi trở nên gắn liền với mặt trời, cuối cùng đạt được uy tín cao trong sử thi Mahabharata và các văn bản Purana. Thần đạt đến các phẩm chất: vĩnh hằng, liên tục và bảo hộ.
Theo thời gian, Vishnu thu nạp tính cách của một số vị thần khác, bao gồm cả các vị thần bình dân, để trở thành những kiếp khác
https://thuviensach.vn
nhau của Vishnu. Trong sử thi Mahabharata, Vishnu xuất hiện trong hình hài Krishna ở tính cách chinh chiến, nhưng về sau tính cách ấy được thay bằng khía cạnh yêu đương lãng mạn. Vishnu trải qua mười kiếp (ban đầu được tính là hai mươi bốn kiếp), thậm chí có khi là con rùa, lợn rừng và cá. Đó là kết quả thu nạp tín ngưỡng từ các vùng miền khác nhau của Ấn Độ.
Mười kiếp của Vishnu là:
- Cá (Matsya)
- Rùa (Kurma)
- Lợn rừng (Varaha)
- Nửa người nửa sư tử (Narasimha)
- Người lùn (Vamana)
- Parashumara: người hùng, thời giành quyền lực giữa hai đẳng cấp Bà La Môn - Vũ sĩ.
- Rama: người anh hùng trong sử thi Ramayana.
- Krishna: người anh hùng trong hai sử thi lớn.
- Đức Phật: đạo Hindu coi Phật là Vishnu đầu thai, dẫn dắt chúng sinh.
- Kalki: kiếp thứ mười và là kiếp cuối cùng của Vishnu, xuất hiện vào cuối thời đại máy móc. Kalki cưỡi một con ngựa trắng, tay cầm thanh kiếm chói lòa như sao chổi. Vị thần này sẽ đến để hủy diệt thế giới cũ xấu xa và tội lỗi, tạo dựng nên một thế giới mới, khôi phục đạo đức trong sáng cho thế gian.
Vishnu ngủ trên giường rắn Shesha Naga bốn tháng, từ tháng sáu - tháng bảy đến tháng mười - mười một. Đó là thời gian giữa hai vòng sáng tạo, chuẩn bị cho một vòng sáng tạo mới. Khoảng thời gian
https://thuviensach.vn