🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Năm Đứa Trẻ Và Nó - E. Nesbit
Ebooks
Nhóm Zalo
Mục lục
1. Chương 1: Đẹp như ban ngày
2. Chương 2: Tiền vàng
3. Chương 3: Bị truy nã
4. Chương 4: Đôi cánh
5. Chương 5: Không còn cánh
6. Chương 6: Một tòa lâu đài không có bữa tối 7. Chương 7: Một cuộc vây hãm khó khăn 8. Chương 8: To lớn hơn cậu bé bán bánh 9. Chương 9: Trưởng thành
10. Chương 10: Mảnh da đầu của kẻ bại trận 11. Chương 11: Điều ước cuối cùng
Chương 1
Đẹp như ban ngày
C
ăn nhà cách ga tàu chỉ khoảng ba dặm, nhưng cỗ xe ngựa lộc cộc lên đường chưa được đến năm phút, lũ trẻ đã ló đầu ra ngoài cửa sổ khoang ngồi và nhao nhao lên: “Đã gần đến chưa vậy?” Thi thoảng thấp thoáng thấy xuất hiện một căn nhà lẻ loi ven đường là chúng lại háo hức reo lên: “Ồ, có phải cái nhà này không?” Nhưng vẫn chưa phải nhà chúng, cho đến khi cỗ xe đưa chúng lên trên đỉnh đồi, băng qua một mỏ đá vôi rồi dừng lại. Ở đó có một ngôi nhà màu trắng với khoảnh vườn xanh ngát cùng những hàng cây ăn quả. Mẹ lũ trẻ lên tiếng: “Đến nơi rồi!”
“Ngôi nhà này trắng quá!” Robert cảm thán. “Nhìn những khóm hồng kìa!” Anthea nói. “Những quả mận nữa!” Jane tiếp lời. “Khá là tao nhã đấy!” Cyril thừa nhận.
Em bé út ít nhất nhà cũng nói theo: “Muốn đi bộ cơ.” Cỗ xe ngựa dừng kịch lại với một tiếng lộc cộc cuối cùng.
Mấy đứa trẻ hấp tấp đến nỗi giẫm cả lên chân nhau khi tranh giành để được xuống trước, nhưng chẳng đứa nào tỏ vẻ bận tâm đến ngôi nhà. Mẹ lũ trẻ cũng không hề tỏ ra nóng vội; kể cả khi đã chậm rãi bước từng bước xuống xe, bà vẫn thong thả đứng nhìn người ta chuyển hành lí rồi trả tiền cho người đánh xe, chứ không tham gia vào chuyến tham quan kì thú khắp khoảnh sân, vườn cây ăn quả với cả khu vườn bỏ hoang mọc đầy những bụi mận gai dại,
kế sữa, dã tường vi và mâm xôi phía sau cánh cổng vỡ cùng với đài phun nước khô cong bên chái nhà. Việc khám phá này chứng minh bọn trẻ con đã khôn lớn hơn. Căn nhà này chẳng có gì đáng để khen là đẹp, nó cũng thường thôi. Mẹ lũ trẻ còn nghĩ căn nhà này khá bất tiện và bực mình khi không có lấy một cái kệ hay tủ nào cả. Cha chúng cũng từng than phiền rằng cả mái tôn lẫn mái tường ở đây đúng là cơn ác mộng của một kiến trúc sư. Căn nhà này nằm ở nơi hẻo lánh của vùng nông thôn, quanh đây chẳng có lấy một căn nhà nào khác. Bọn trẻ thì đã sống ở Luân Đôn sầm uất suốt hai năm trời mà chẳng có dịp nào đi biển, thế nên ngôi nhà màu trắng đối với chúng chẳng khác nào một Lâu đài Thần tiên tọa lạc tại Thiên đường nơi Hạ giới. Luân Đôn thì như ngục tù trong tâm trí lũ trẻ con, đặc biệt khi chúng không có họ hàng giàu có.
Tất nhiên là Luân Đôn có những cửa hàng san sát và rạp chiếu phim, những chương trình biểu diễn nổi tiếng cùng nhiều thứ khác, nhưng nếu không có họ hàng giàu có, bạn sẽ chẳng thể được đưa đi xem phim hay mua sắm gì ở đó cả. Luân Đôn cũng chẳng có những thứ tốt đẹp để trẻ con chơi mà không làm hỏng chúng hoặc tự làm đau mình - như cây cối, đất cát, rừng cây và sông suối. Gần như mọi thứ ở Luân Đôn đều có hình thù tẻ ngắt - tất cả đều bị bẻ thẳng tăm tắp thay vì mọi kiểu dáng tự nhiên như ở thôn quê. Không có hai cái cây nào giống hệt nhau, như người ta vẫn bảo là làm gì có hai khóm cỏ giống hệt nhau cơ chứ. Nhưng ở những con phố ngoài kia, nơi mà bụi cỏ trơ trụi không mọc nổi ấy, thì cái gì mà chẳng giống nhau. Thế nên nhiều đứa trẻ sống ở thành thị mới trở nên cáu gắt, bẳn tính. Chúng không hiểu mình bị làm sao, mà ngay cả cha mẹ, cậu mợ, anh em họ, người giám hộ, cô giáo và vú em của
chúng cũng chẳng hiểu; nhưng tôi thì có và giờ cả bạn cũng hiểu rồi đấy. Trẻ con ở nông thôn thỉnh thoảng cũng hư, nhưng là vì lí do khác.
Lũ trẻ đã kịp khám phá khắp khu vườn cùng nhà phụ trước khi chúng bị bắt đi tắm rửa, chúng rõ ràng là phấn khích vô cùng khi được ở tại ngôi nhà màu trắng này. Từ giây phút đầu tiên đặt chân đến đây, chúng đã bắt đầu cảm thấy thích thú rồi; khi chúng phát hiện đằng sau ngôi nhà là cả một vườn hoa nhài trắng thơm ngát như loại nước hoa đắt tiền nhất dùng làm quà sinh nhật, khi chúng được giẫm chân trần lên vườn cỏ xanh mướt khác hẳn với thảm cỏ nâu úa ở công viên quận Camden Town, và khi chúng tìm ra khu chuồng ngựa có một cái chuồng bồ câu trên nóc còn sót lại mấy búi cỏ khô thì chúng gần như chắc chắn mình đã thích mê rồi. Cho đến khi Robert ngã khỏi cái xích đu bị hỏng và mọc cục sưng to bằng quả trứng trên đầu, khi Cyril bị kẹt một ngón tay vào cánh cửa chuồng thỏ, thì chúng không còn phải lăn tăn nghi ngờ chút gì rằng mình cực kì yêu thích nơi này nữa.
Điều tuyệt vời nhất là ở đây không có quy định cấm đi đâu hay làm gì. Ở Luân Đôn, gần như mọi thứ đều được dán nhãn “Không được động vào”, và mặc dù đó chỉ là cái nhãn vô hình đi chăng nữa thì cũng chẳng có gì khác biệt, bởi bạn vẫn biết mình không được phép chạm vào, hoặc nếu chưa ai cấm cản thì sớm muộn gì cũng có người nhắc nhở thôi.
Ngôi nhà màu trắng nằm bên rìa một quả đồi, ngay sau lưng là một rừng cây, mỏ đá vôi nằm một bên sườn đồi và mỏ đá nằm bên còn lại. Còn phía dưới chân đồi là một vùng đất bằng phẳng, ở đó có những tòa nhà màu trắng hình dáng kì quặc để người ta nung vôi
trong đó, có cả một nhà máy bia to đùng sơn màu đỏ chót và vài căn nhà khác nữa. Những ống khói lớn thường nhả khói nghi ngút vào lúc hoàng hôn, cả thung lũng như chìm vào một màn sương vàng, lò vôi và lò sấy hoa bia le lói và ẩn hiện như những thành phố kì ảo bước ra từ truyện Nghìn lẻ một đêm.
Giờ khi mà đã bắt đầu kể cho bạn nghe về nơi này, tôi cảm thấy là mình có thể cứ thế kể mãi, kể mãi và khiến câu chuyện này trở thành câu chuyện về tất cả những thứ hay ho mà các bạn nhỏ này đã làm - cũng chỉ là những thứ như chính tuổi thơ của bạn mà thôi, bạn biết rõ những trò đấy mà. Nhưng dù thú vị đến mấy thì cũng có lúc những đứa trẻ cảm thấy chán ngấy, cũng như thỉnh thoảng bạn cũng như vậy. Thế nên tôi sẽ chỉ kể cho bạn nghe những điều thực sự lạ lùng đã xảy ra. Người lớn thường thấy rất khó khăn để tin vào những điều kì diệu, trừ phi họ có cái mà họ gọi là bằng chứng xác thực mắt thấy tai nghe. Nhưng trẻ con thì tin tưởng vào hầu hết mọi thứ, những người lớn cũng biết điều này. Đó là lí do vì sao người lớn từng nói với bạn rằng trái đất tròn như quả cam, trong khi rõ ràng là bạn thấy nó bằng phẳng dù có nhiều chỗ hơi lổn nhổn lồi lõm với núi và sông; tại sao mà người lớn nói là trái đất quay quanh mặt trời trong khi bạn thấy là sáng nào mặt trời cũng thức giấc ở hướng đông rồi đi ngủ vào buổi chiều ở hướng tây như một mặt trời ngoan ngoãn, và trái đất thì cứ nằm im thin thít như một chú cún con. Tôi dám cá là bạn từng tin tưởng mọi thứ về trái đất và mặt trời, và nếu thế thì bạn sẽ thấy khá dễ dàng để tin là Anthea và Cyril cùng mấy đứa nhỏ khác đã ở vùng nông thôn cả tuần lễ cho tới khi chúng tìm được một vị tiên. Ít nhất, chúng gọi Nó như thế, bởi vì Nó tự nhận mình như vậy. Tất nhiên là Nó biết rõ Nó là ai nhất. Nhưng Nó chẳng
giống bất cứ vị tiên nào mà bạn từng trông thấy, nghe thấy hay đọc thấy cả đâu.
Nó ở mỏ khai thác đá. Cha đã đi vắng đột xuất vì có công chuyện, còn mẹ thì phải đi chăm sóc bà bị ốm. Cả cha và mẹ đều rời khỏi nhà khá vội vàng. Không có cha mẹ ở nhà, căn nhà có vẻ trống trải và yên ắng đến đáng sợ. Lũ trẻ cứ thơ thẩn hết từ phòng này sang phòng kia, lúc thì nhặt mẩu giấy, lúc lại nhặt sợi dây rơi ra từ hành lí chưa dọn, cố tìm ra cái để chơi không và ước gì có việc gì đó để làm. Cyril nói:
“Anh bảo này, chúng mình hãy lấy xẻng của Margate rồi đi đào cát trong mỏ đi. Chúng mình có thể giả vờ như đấy là bãi biển.” “Cha từng nhắc đến mỏ một lần rồi.” Anthea nói. “Cha bảo là ở đó có những mảnh sò ốc hàng ngàn năm tuổi.”
Thế là cả bọn cùng đi. Tất nhiên là chúng chỉ dám đi đến bên rìa mỏ đá để tìm kiếm linh tinh chứ không dám đi xuống dưới vì sợ là cha sẽ không cho phép chơi ở đấy, cũng như là ở mỏ đá vôi. Mỏ đá không thực sự nguy hiểm nếu không cố trèo xuống dưới rìa mỏ, nếu chỉ đi chầm chậm quanh con đường đẩy xe thì vẫn an toàn.
Mỗi đứa trẻ cầm theo một cái xẻng và thay nhau bế Cừu. Đó là em bé, chúng gọi em bé như thế bởi vì lần đầu tiên em nói, em nói “be be” nghe y như một con cừu vậy. Chúng gọi Anthea là Báo, đọc thì thấy buồn cười nhưng nghe hơi giống tên cô bé1.
1. Anthea trong tiếng Anh đọc nghe hơi giống Panther - nghĩa là con báo.
Mỏ rất rộng lớn, cỏ mọc um tùm quanh rìa. Những trảng cỏ dại héo khô vẫn còn lốm đốm những bông hoa màu tím và vàng. Nhìn bao quát khắp mỏ giống như một cái chậu rửa tay khổng lồ. Ở đó có
rất nhiều sỏi đá, những lỗ hang để đưa đá ra ngoài trông giống như lỗ thoát nước ở chậu rửa. Cao cao phía bên cạnh đường dốc là các lỗ nhỏ mà chim nhạn vẫn thường làm tổ ở đấy.
Lũ trẻ xây một lâu đài cát, tất nhiên là ra bãi biển nghịch cát thì ai cũng xây lâu đài. Nhưng xây lâu đài trên nền cát khô cong thế này thì kém vui hơn nhiều khi mà chẳng phải lo những cơn sóng thủy triều sẽ tràn tới và cuốn trôi lâu đài đi mất, trong khi người thì bị ướt đến tận eo.
Cyril muốn đào một cái hang để chơi trốn tìm ở trong ấy nhưng những đứa khác thì lại sợ chơi thế có nguy cơ bị chôn sống luôn, vậy nên cuối cùng, lũ trẻ quyết định là tất cả sẽ chỉ đào mỗi một cái hang xuyên qua lâu đài cát đến tận Úc. Những đứa trẻ này, chúng tin rằng trái đất hình cầu và chắc chắn là ở đầu bên kia mặt đất có những cô bé, cậu bé người Úc đang bước đi với cái đầu lộn ngược, giống như những con ruồi đang chổng ngược trên trần nhà, với cái đầu lơ lửng chúc xuống trong không trung.
Lũ trẻ đào bới một hồi lâu, tay dính đầy cát, nóng rẫy và đỏ ửng lên. Khuôn mặt chúng cũng bóng nhẫy và lấm tấm mồ hôi. Em Cừu tưởng cát là đường nâu nên thử bốc cát vào miệng rồi khóc ầm lên khi nhận ra là cát không có vị ngon như là em trông đợi. Em chán nản và mệt mỏi nên nằm nhoài ra một khoảng trống rộng ấm áp ở giữa lâu đài còn đang xây dang dở và ngủ thiếp đi. Nhờ thế mà các anh chị của em được rảnh tay để chăm chỉ đào bới. Cái hố xuyên thẳng sang Úc càng lúc càng sâu đến nỗi Jane, có biệt danh là Đuôi Sóc, phải kêu lên, khẩn nài anh chị mình dừng lại.
“Nếu đáy của cái hố này mà đột ngột sụt xuống...” Cô bé nói. “Chúng mình sẽ xuyên thẳng đến chỗ những bạn người Úc thì cát
sẽ bắn hết vào mắt các bạn ấy mất.”
“Đúng đấy.” Robert đồng tình. “Thế thì các bạn ấy sẽ ghét chúng mình mất, rồi thế nào cũng lại ném đá chúng mình, chẳng cho chúng mình xem chuột túi, các con thú có túi hay cây bạch đàn xanh, đà điểu châu Úc hay gì nữa cho mà xem.”
Cyril với Anthea biết rõ là nước Úc chẳng thể nào gần đến thế nhưng cả hai vẫn đồng ý là không dùng xẻng nữa mà quay sang đào bằng tay. Việc này khá dễ, bởi vì cát ở dưới đáy hố rất mềm mịn và khô ráo, y như cát biển. Ở đó còn có những mảnh vỏ sò nhỏ nữa.
“Chắc là ở đây từng có cả một biển nước, ướt nhẹp và sáng lấp lánh.” Jane nói. “Với những chú cá tung tăng bơi lội, cá lịch, san hô và những nàng tiên cá nữa chứ. ”
“Còn có cả cột buồm của những con thuyền và kho báu của người Tây Ban Nha bị đắm tàu nữa. Anh ước gì chúng ta có thể tìm thấy vàng thỏi hay gì đó.” Cyril nói.
“Thế làm thế nào mà biển lại bị mang đi đâu mất rồi?” Robert hỏi. “Không phải là đựng trong xô rồi mang đi đâu, đồ ngốc ạ.” Anh cậu bé nói. “Cha nói là tâm trái đất trở nên quá nóng, giống y như khi em thỉnh thoảng chơi trên giường ấy, đất bên dưới dâng cao lên như quả núi, thế là biển bị đổ đi hết, giống như khi cái chăn bị kéo phăng ra khỏi người chúng mình, chỉ còn lại những quả núi thế nên nó trở thành vùng đất khô cằn. Giờ chúng mình đi tìm kiếm vỏ sò nào. Anh nghĩ cái hang kia trông có vẻ hay hay, anh đã thấy có cái gì đấy thò ra nhìn cứ như là một mảnh mỏ neo của con tàu đắm, nó ở trong cái hố sang châu Úc ấy.”
Những đứa khác đều đồng ý nhưng Anthea thì vẫn cứ tiếp tục đào. Cô bé lúc nào cũng thế, cứ hễ bắt tay vào làm việc gì là muốn
làm bằng xong mới thôi. Cô bé thấy nếu cái hố chưa xuyên được đến Úc mà đã bỏ cuộc như thế thì thật đáng xấu hổ. Cái hang của Cyril gây thất vọng bởi vì chẳng có vỏ sò nào, mảnh vỡ mỏ neo của một con tàu đắm hóa ra chỉ là một mảnh của cái cuốc chim cầm tay bị gãy. Chui vào trong hang toàn là cát thế khiến bọn trẻ trở nên khát khô cổ bởi vì đây không phải là bãi biển. Mấy đứa đang định rủ nhau về nhà uống nước chanh thì Anthea bỗng nhiên hét lên:
“Cyril! Anh lại đây đi! Ôi, nhanh lên! Nó còn sống đấy! Nhanh không thì nó chạy mất!”
Tất cả chạy như bay quay lại.
“Chắc là chuột thôi, có gì đâu mà ngạc nhiên.” Robert nói. “Cha nói là chuột hay thích làm tổ ở mấy chỗ cũ kĩ. Nếu như biển ở đây từ hàng ngàn năm trước thì chỗ này chắc chắn cũ xì rồi.”
“Biết đâu là rắn đấy.” Jane bỗng rùng mình lên tiếng. “Để xem đã.” Cyril nói, nhảy xuống cái hố. “Anh không sợ rắn. Anh thích rắn mà. Nếu đấy mà là một con rắn thì anh sẽ bắt về nuôi. Rồi anh đi đâu, nó sẽ đi theo đấy. Đêm đi ngủ thì anh sẽ để cho nó quấn quanh cổ anh.”
“Không, anh không được làm như thế đâu đấy.” Robert phản đối vì cậu bé chung phòng với Cyril. “Nhưng nếu đấy là chuột thì anh nuôi cũng được.”
“Ôi, đừng có ngốc thế!” Anthea nói. “Nó không phải chuột đâu, nó to hơn nhiều. Mà nó cũng chẳng phải là rắn đâu. Nó có chân mà. Chị nhìn thấy rồi, thấy cả lông nữa! Không, đừng dùng xẻng. Anh sẽ làm nó bị thương mất! Đào bằng tay đi.”
“Để thay vào đó nó sẽ làm anh bị thương chứ gì! Thế thì hay hơn đấy nhỉ?” Cyril nói, nắm chặt cái xẻng.
“Ôi, đừng mà.” Anthea nói. “Đuôi Sóc, không được làm thế. Nghe thì có vẻ ngốc nghếch nhưng hình như nó đã nói gì đó. Thật đấy, nó đã nói câu gì đấy mà.”
“Cái gì cơ?”
“Nó nói là: “Các người hãy để tôi yên!”.”
Nhưng Cyril thì cho là chắc chắn đầu óc của em gái mình đã bị mất não rồi, thế nên cậu và Robert vẫn cứ đào bằng xẻng trong khi Anthea ngồi bên miệng hố, nhảy lên nhảy xuống vì sốt ruột và háo hức. Hai đứa trẻ đào một cách cẩn thận và chỉ cho tất cả mấy đứa khác đúng là có cái gì đó cựa quậy ở dưới đáy của cái hố nối sang Úc.
Rồi bỗng Anthea kêu lên: “Em không sợ. Để em đào.” Rồi cô bé quỳ xuống và bắt đầu bới cát giống y như một con chó bới cái xương mà nó đã chôn ở đấy.
“Ôi, chị sờ thấy lông của nó.” Cô bé kêu lên, nửa cười nửa khóc. “Chị chạm vào được này! Thật đấy!”
Rồi bỗng có một giọng nói khô khốc, khản đặc từ trong lòng cát vang lên khiến tất cả hoảng hồn ngã ngửa ra, nhảy lùi lại, tim đập nhanh thình thịch như muốn văng ra khỏi lồng ngực.
“Để cho ta yên!” Nó nói. Giờ thì ai cũng có thể nghe rõ ràng giọng nói ấy. Mấy đứa nhìn nhau dò xét xem đứa kia có nghe thấy giống mình không.
“Nhưng chúng tớ muốn thấy bạn mà.” Robert can đảm lên tiếng. “Tớ ước gì bạn đi ra ngoài này.” Anthea cũng cố gắng lấy can đảm nói.
“Ôi giời, thôi được, nếu đó là điều ước của cô.” Giọng nói lên tiếng. Sau đó cát lún xuống, loạt soạt rồi có thứ gì đó lông lá, màu nâu, béo ú quay tròn chui ra từ hang, cát từ trên mình nó chảy xuống. Rồi nó ngồi đó, lấy tay phủi phủi những hạt cát cuối cùng ra khỏi mắt.
“Ta tin là ta đã bị mất giấc ngủ rồi đấy.” Nó vươn vai nói. Lũ trẻ đứng quanh cái hố thành một vòng tròn, nhìn chằm chằm sinh vật mà chúng vừa tìm thấy. Đúng là rất đáng để quan sát. Mắt nó mọc trên sợi râu dài như mắt của ốc sên nên có thể nhô ra khỏi cát để quan sát giống như ống nhòm của gián điệp. Nó có đôi tai vểnh ra giống như tai dơi trong khi thân mình thì lại như của nhện, được bao phủ bởi một lớp lông mềm dày. Tay chân của nó phủ đầy lông, bàn chân và bàn tay lại đủ ngón giống như khỉ. “Nó là cái quái gì vậy nhỉ?” Jane nói. “Chúng ta có nên đưa nó về nhà không?”
Con vật kì quái rướn đôi mắt dài nhìn cô bé và nói: “Con bé này lúc nào cũng ăn nói huyên thuyên vậy hả, hay là trong đầu nó đổ đầy đậu phụ thiu nên làm cho nó đần độn mất rồi?”
Sinh vật vừa nói vừa nhìn Jane với vẻ khinh miệt.
“Em ấy không cố ý ăn nói ngớ ngẩn vậy đâu.” Anthea lịch sự đáp. “Không ai trong số chúng cháu có ý vậy mà, dù ông có nghĩ thế nào đi chăng nữa thì cũng đừng hiểu sai ý chúng cháu! Đừng sợ, ông biết đấy, chúng cháu sẽ không làm ông đau đâu.”
“Làm đau ta á!” Nó nói. “Ta mà sợ á? Ôi trời đất ơi! Sao cô dám ăn nói cứ như thể ta là một kẻ tầm thường vậy.” Tất cả lông trên người nó xù lên như một con mèo đang nổi điên, chuẩn bị khiêu chiến.
“Chà...” Anthea nói, vẫn rất nhã nhặn. “Nếu chúng cháu biết trước rằng ông phi thường như thế thì chúng cháu đã suy nghĩ trước cách ăn nói cho phải phép rồi, chứ chẳng khiến ông cáu làm gì. Chúng cháu đã nói năng thiếu cẩn trọng quá. Thế cho hỏi, ông là ai ạ? Xin ông đừng giận! Bởi vì chúng cháu thực sự không biết mà.”
“Các cô cậu không biết ư?” Nó nói. “Thôi được, ta nghĩ là giờ thời thế thay đổi rồi, nhưng... thôi được... thực sự thì... cô thực sự nghiêm túc khi nói là cô nhìn thấy tận mắt mà không biết trước mặt mình là Psammead à?”
“Sammyadd á? Nghe như tiếng Hy Lạp ấy.”
“Ai cũng nói thế cả.” Sinh vật kia nói bằng giọng sắc lạnh. “Trong tiếng Anh phổ thông nhé, ta là TIÊN CÁT. Thế các cô cậu nhìn mà không biết Tiên cát à?”
Nó trông có vẻ buồn lòng và tổn thương nên Jane phải hấp tấp nói: “Tất nhiên là giờ chúng cháu thấy rồi. Khá dễ hiểu khi người ta đến đây để ngắm ông.”
“Nói nãy giờ thì ra các cô cậu đến để nhìn ngó ta ư?” Nó nói một cách bực bội, chuẩn bị cuốn mình vào lại trong cát.
“Ôi, đừng đi mà! Nói chuyện thêm chút nữa đã.” Robert kêu lên. “Cháu không biết ông là một Tiên cát nhưng ngay khi nhìn thấy ông thì cháu đã biết ông là điều kì diệu nhất mà cháu từng được thấy trên đời rồi.”
Tiên cát có vẻ như bớt phẫn nộ đi ít nhiều trước câu nói này. “Ta không để tâm đâu.” Nó nói. “Cho tới khi nào cậu còn có vẻ là một người lễ phép phải đạo. Nhưng ta không định sẽ có cuộc nói chuyện lịch sự nào với cậu cả. Nếu cậu ăn nói nhã nhặn với ta, có thể ta sẽ trả lời câu hỏi của cậu, có thể không. Giờ thì nói gì đó đi.”
Lúng túng quá nên chẳng có ai nghĩ ra được điều gì để nói. Mãi cho đến khi cuối cùng thì Robert nghĩ ra câu “Ông sống ở đây bao lâu rồi?”. Và cậu ngay lập tức hỏi.
“Ồ, nhiều thế hệ rồi - vài nghìn năm rồi.” Psammead đáp. “Kể cho chúng cháu nghe đi. Đi mà.” “Toàn bộ đều có trong sách vở cả đấy.”
“Trong sách vở đâu có ông!” Jane nói. “Ôi, kể hết cho chúng cháu nghe về ông đi mà! Ông tốt thế mà chúng cháu chẳng biết gì về ông cả.”
Tiên cát vuốt ve hàng ria mép dài như ria chuột và mỉm cười với lũ trẻ.
“Làm ơn kể đi mà!” Tất cả lũ trẻ đồng thanh nói.
Thật kì diệu khi có thể nhanh chóng thân quen với nhiều thứ, cho dù đó là những thứ lạ lùng nhất. Năm phút trước, bọn trẻ chẳng thể nào hình dung được là trên thế gian này lại có một Tiên cát và giờ thì chúng đang nói chuyện cứ như thể là chúng đã quen với nó từ khi mới sinh ra vậy. Nó đảo mắt và nói:
“Trời nắng quá - giống như những ngày xưa ấy. Giờ các cô cậu săn Megatherium1 ở đâu?”
1. Megatherium là một chi lười đất với kích cỡ tương đương loài voi, sống cách đây 2 triệu đến 8.000 năm.
“Cái gì cơ?” Bọn trẻ đồng thanh hỏi. Rất khó để luôn ghi nhớ được rằng hỏi trống không là bất lịch sự, nhất là trong những khoảnh khắc bất ngờ hoặc bối rối.
“Giờ lũ Pterodactylus2 có đông đúc lắm không?” Tiên cát tiếp tục. 2. Pterodactylus là một loài thằn lằn bay sống ở kỉ Jura, cách đây khoảng 150 triệu năm.
Lũ trẻ không tài nào trả lời nổi.
“Các cô cậu ăn sáng bằng gì?” Tiên cát hỏi một cách kiên nhẫn. “Ai ban cho các cô cậu?”
“Trứng và thịt hun khói, bánh mì và sữa, cháo yến mạch với mấy thứ nữa. Mẹ cho chúng cháu thức ăn. Mega - cái - gì - ấy - nhỉ và Ptero - ông - gọi - là - gì - ấy - nhỉ là cái gì vậy? Có ai ăn chúng vào bữa sáng à?”
“Hả? Vào thời của ta thì hầu như ai cũng ăn sáng bằng Pterodactylus hết! Pterodactylus là một loài vừa giống cá sấu lại vừa giống chim. Vị của chúng ngon tuyệt hảo. Các cô cậu cứ hiểu thế này nhé: tất nhiên là có cả đống Tiên cát chứ không phải mình ta. Cứ mỗi sáng sớm thức dậy, các cô cậu đi ra ngoài và tìm họ. Khi các cô cậu tìm được một Tiên cát, nó ban cho các cô cậu điều ước. Con người thường cử các cậu bé xuống dưới bãi biển từ lúc sớm tinh mơ, trước bữa sáng, để nói lên điều ước trong ngày của mình. Thường thì cậu con trai cả của các gia đình hay được dặn là ước có một con Megatherium đã nấu sẵn. Nó to đùng như con voi ấy, các ngươi hiểu không, thế nên có cả đống thịt. Nếu ai mà thích cá thì họ lại ước có Ichthyosaurus1, con đấy dài khoảng hai mươi đến bốn mươi thước, thế nên cũng có nhiều thịt lắm. Thay vì gà vịt thì có Plesiosaurus2 cũng khá là vừa miệng. Rồi những đứa trẻ khác có thể ước có những thứ khác. Nhưng mà khi người ta tổ chức tiệc tối thì lúc nào cũng phải có Megatherium hết, và Ichthyosaurus nữa, bởi vì nó là đặc sản mà, cái đuôi thì nấu súp ngon không chê vào đâu được.”
1. Ichthyosaurus là một chi thằn lằn cá từ cuối kỉ Tam Điệp và đầu kỉ Jura, sinh sống ở châu Âu và châu Á.
2. Plesiosaurus là một chi bò sát biển lớn đã tuyệt chủng, thuộc bộ Plesiosauria.
“Thế phải có cả ti tỉ đống thịt đông lạnh bị bỏ lại.” Anthea nói, cô bé vẫn ước ngày nào đó sẽ trở thành một quản gia tốt. “Ôi không đâu!” Psammead nói. “Chẳng có ai lại đi làm thế cả. Vì sao ư, tất nhiên là vì sau hoàng hôn, những gì còn sót lại đều sẽ bị biến thành đá hết. Ta nghe nói là thời nay, con người vẫn tìm thấy hóa thạch của loài Megatherium và những loài khác ở khắp nơi phải không?”
“Ai nói với ông như vậy?” Cyril hỏi. Nhưng Tiên cát đã cau mày và bắt đầu đào bới cát nhanh như gió với đôi tay lông lá. “Ôi, đừng đi mà!” Tất cả kêu lên. “Nói với chúng cháu thêm về cái thời mà người ta ăn sáng bằng Megatherium đi! Thế trời khi đó có giống bây giờ không?”
Nó ngưng việc đào bới lại.
“Chẳng giống tẹo nào.” Nó nói. “Nơi ta sống xưa kia hầu như chỉ toàn là cát, san hô thì mọc trên cây, ốc mút to như cái ấm trà. Chắc giờ các cô cậu cũng có thể tìm thấy chúng nhưng chúng đều đã biến thành đá hết rồi. Tiên cát chúng ta thường sống ở bờ biển, bọn trẻ thường đem xẻng với ô dù đến để xây những tòa lâu đài cát cho chúng ta ở. Đó là chuyện của hàng ngàn năm trước rồi, nhưng ta nghe nói là trẻ con thời bây giờ vẫn còn xây lâu đài trên cát. Khó mà từ bỏ được thói quen nhỉ?”
“Nhưng sao giờ ông không sống trong lâu đài nữa?” Robert hỏi. “Đó là một câu chuyện buồn.” Psammead u sầu nói. “Đó là bởi vì lũ trẻ thường đào những con hào cho lâu đài, rồi sóng biển kéo bọt nước theo đấy. Dính nước là Tiên cát sẽ bị cảm lạnh ngay rồi sẽ
chết sau khi bị sốt càng lúc càng cao. Bất cứ khi nào các cô cậu tìm thấy một Tiên cát và được ban một điều ước, các cô cậu thường ước có một con Megatherium và ăn gấp đôi nhu cầu thật sự của cơ thể bởi vì phải hàng tuần sau thì mới được ước điều tiếp theo.”
“Ông đã từng bị ướt rồi à?” Robert thắc mắc.
Tiên cát rùng mình. “Chỉ một lần.” Nó nói. “Đầu sợi ria mép thứ mười hai trên mép ta bị lộ ra trước gió, ta cảm thấy không khí nơi đó vẫn còn khá ẩm thấp. Đó là lần duy nhất nhưng cũng quá đủ với ta rồi. Ta rời đi ngay khi mặt trời hong khô chân sợi ria mép tội nghiệp của ta. Ta đã đi thật xa, bỏ biển cả lại phía sau lưng rồi chôn mình sâu trong một ngôi nhà, dưới lớp cát ấm áp và ở đó cho tới tận ngày nay. Giờ thì biển cả đã cuốn đi để thay đổi chỗ ở rồi. Thôi, ta sẽ không hé răng nói thêm gì cho các cô cậu nữa cả.”
“Ông làm ơn đi mà, chỉ một chút nữa thôi.” Lũ trẻ nói. “Giờ ông còn có thể ban điều ước được nữa không ạ?”
“Tất nhiên rồi.” Nó nói. “Chẳng phải là ta vừa ban cho các cô cậu điều ước của mình vài phút trước rồi đấy sao? Các cô cậu đã nói là “Tớ ước gì bạn đi ra ngoài này” và ta đã ra.”
“Ôi, làm ơn đi mà, chúng cháu không thể có thêm điều ước khác sao?”
“Được, nhưng mà nhanh lên đấy. Ta mệt mỏi với các cô cậu lắm rồi.”
Tôi tin là bạn vẫn thường xuyên nghĩ rằng nếu được ban cho ba điều ước thì mình sẽ ước gì, hẳn là bạn đều đã từng có lần ghen tị với vợ chồng ông lão trong câu chuyện Ông lão đánh cá và con cá vàng, và hẳn bạn sẽ đinh ninh là nếu như có cơ hội thì chắc chắn mình có thể nghĩ ra ba điều ước thật hữu dụng mà chẳng tốn chút
thời gian suy nghĩ nào cả. Những đứa trẻ này vẫn nói về những ước mơ của mình suốt, nhưng giờ, khi cơ hội đến với chúng quá đột ngột, chúng không tài nào nghĩ cho thông suốt được.
“Nhanh lên!” Tiên cát càu nhàu. Không ai nghĩ ra được cái gì, chỉ có Anthea là cố xoay xở để nhớ về điều ước bí mật của riêng mình với Jane mà hai đứa chưa bao giờ nói cho bọn con trai nghe. Cô bé biết là bọn con trai chẳng bận tâm gì về điều đó hết, nhưng dù sao có điều ước thì vẫn hơn không.
“Cháu ước gì ngày nào chúng cháu cũng đẹp như ban ngày.” Cô bé hấp tấp nói.
Lũ trẻ nhìn nhau nhưng mỗi đứa đều có thể thấy rằng đứa kia cũng không đẹp gì hơn thường ngày cả. Psammead nhướng đôi mắt dài lên và có vẻ nín thở, toàn thân nó lúc lắc cho đến khi lông lá xù hết lên làm nó trông to gấp đôi lúc trước. Bỗng nhiên nó thở hắt ra một hơi dài.
“Ta e rằng mình thực sự không thể làm thế được.” Nó nói với vẻ hối lỗi. “Chắc là ta không tập luyện đủ nhiều.”
Bọn trẻ vô cùng thất vọng.
“Ôi, cứ thử lại đi ạ.”
“Được thôi.” Tiên cát nói. “Sự thật là ta cần giữ lại một chút sức mạnh để dành cho những điều ước của các cô cậu khác nữa. Nếu các cô cậu bằng lòng với việc mỗi ngày chỉ một điều ước thì ta sẽ có thể tập luyện để thực hiện điều ước đó được. Các cô cậu đồng ý không?”
“Có chứ, ôi, có ạ!” Jane và Anthea nói. Bọn con trai thì gật đầu nhưng không tin tưởng lắm là Tiên cát sẽ ban điều ước cho chúng
mỗi ngày như lời nó nói. Bọn con gái thường cả tin hơn bọn con trai nhiều mà.
Nó vươn vai làm hai mắt lồi xa hơn nữa rồi cứ phình to lên mãi. “Chị hi vọng là nó không tự làm đau chính mình.” Anthea bảo. “Hoặc là làm nứt vỡ lớp da.” Robert nói.
Lũ trẻ cảm thấy nhẹ nhõm hẳn khi Tiên cát sau khi đã phình to đến nỗi gần như lấp hết cái hố trên cát thì bất ngờ thở phào ra và trở về kích thước bé nhỏ ban đầu.
“Được rồi.” Nó nói, thở hổn hển một cách nặng nhọc. “Ngày mai có lẽ sẽ dễ dàng hơn.”
“Làm thế có đau lắm không ạ?” Anthea hỏi.
“Chỉ cái sợi ria mép tội nghiệp của ta thôi, cảm ơn cô.” Nó nói. “Nhưng mà cô đúng là đứa trẻ tốt bụng và biết điều đấy. Ngày vui nhé!”
Rồi nó cuống cuồng cào cát bằng cả chân lẫn tay và mất hút vào trong cát. Lũ trẻ nhìn nhau ngơ ngác và ngạc nhiên khi nhận ra mình đang đứng một mình giữa ba người hoàn toàn xa lạ. Tất cả đều xinh đẹp chói lòa.
Bọn chúng đứng một lúc ngây như phỗng. Đứa nào cũng đều nghĩ là anh chị em của mình đã bị cuốn đâu đó rồi và những đứa trẻ xa lạ này thừa lúc mình mải nhìn Tiên cát phình to thành khổng lồ, nhân lúc không chú ý nên đã đứng thế chỗ. Anthea lên tiếng đầu tiên:
“Xin lỗi.” Cô bé nói rất lịch sự với Jane, giờ đã có đôi mắt to tròn màu xanh da trời và mái tóc mây bồng bềnh màu nâu đỏ. “Nhưng em có nhìn thấy hai cậu bé và một cô bé đâu không?” “Em cũng đang định hỏi chị điều đó.” Jane nói. Rồi Cyril kêu lên:
“Trời ơi, là em à! Anh biết cái lỗ thủng trên tạp dề của em! Em là Jane, phải không? Còn em là Báo; anh thấy rõ cái khăn tay bẩn mà em quên không thay sau khi em cứa phải ngón tay cái! Ôi! Cuối cùng thì điều ước cũng thành thật rồi. Nào, nhìn anh xem anh có đẹp trai như mấy đứa không?”
“Nếu anh là Cyril, em thích anh hơn nhiều so với anh của trước kia đấy.” Anthea quả quyết. “Anh trông hệt như bức tranh về cậu bé với mái tóc vàng hát trong dàn hợp xướng ấy. Còn nếu đó là Robert thì em ấy nhìn y như nhạc sĩ chơi đàn organ người Ý vậy. Tóc của em ấy đen tuyền.”
“Hai chị thì nhìn y như những bé gái trong thiệp Giáng sinh ấy, những cái thiệp Giáng sinh ngớ ngẩn.” Robert tức giận nói. “Tóc của Jane chẳng khác gì cà rốt.”
Quả đúng là bọn trẻ đẹp như trong một bức tranh với những tông màu rực rỡ của người Venice mà các họa sĩ luôn ngưỡng mộ. “Nào, cứ bới móc lỗi của nhau thì chẳng ích gì đâu.” Anthea nói. “Chúng mình đi đón em Cừu rồi về nhà ăn tối thôi. Những người giúp việc sẽ trầm trồ ngưỡng mộ chúng mình cho mà xem.” Lúc bọn trẻ tìm thấy em bé thì em đang đi lại một mình. Đứa nào đứa nấy thở phào nhẹ nhõm khi tìm thấy em vẫn nguyên vẹn, trông y như trước, không thể nói là “đẹp như ban ngày” được. “Em nghĩ là em ấy quá bé để tự biết ước.” Jane nói. “Lần sau chúng mình hãy đặc biệt nhắc đến cả em ấy nhé.”
Anthea chạy về phía trước và dang rộng vòng tay. “Đến với chị Báo của em đi nào, vịt con.” Cô bé nói.
Em bé ngoảnh nhìn lại một cách thờ ơ, cứ thế đưa ngón tay hồng hào dính đầy cát vào miệng. Anthea vẫn là người chị mà bé
yêu quý nhất.
“Nào, đến đây đi.” Cô bé nói. “Đi đi!” Em bé nói.
“Đến với chị Sóc của em đi.” Jane thử lên tiếng và dang tay ra. “Chị Báo cơ.” Em Cừu phụng phịu nói, môi em run run như hờn dỗi.
“Nào, đến đây đi, chàng trai.” Robert cũng thử dỗ em. “Đến cưỡi ngựa trên lưng Yobby nào.”
“Không!” Em bé gào lên, quay lưng bỏ chạy. Và rồi bọn trẻ hiểu ra vấn đề: Em bé không nhận ra chúng!
Bọn trẻ thất vọng nhìn nhau. Đứa nào cũng cảm thấy thật tồi tệ. Mà trong tình huống khẩn cấp kinh khủng thế này, chúng lại chỉ nhìn thấy những đôi mắt xinh đẹp của những người hoàn toàn xa lạ thay vì những đôi mắt vui tươi, tinh nghịch, thân thuộc, trìu mến, dễ thương của anh chị em mình.
“Đây đúng là điều kinh khủng nhất.” Cyril nói khi cố nhấc em Cừu lên nhưng em cứ cào cấu như con mèo rồi rống lên như một con bò tót. “Chúng ta phải kết bạn với em ấy trước đã. Anh không thể bế em ấy về nhà khi em ấy cứ gào thét như thế này được. Phải làm quen với chính em ruột của mình, thật rõ ngớ ngẩn.”
Tuy nhiên, đó chính xác là những gì bọn trẻ phải làm. Tốn cả tiếng đồng hồ, nhiệm vụ chẳng dễ dàng chút nào bởi vì lúc này em Cừu đã đói như một con sư tử và khát như bị bỏ quên trên sa mạc.
Cuối cùng thì em cũng đồng ý để cho những người lạ này lần lượt bế em về nhà, nhưng từ chối không ôm ấp gì chúng nên bế em nặng kinh khủng, mệt đứt cả hơi.
“Ơn trời, chúng ta về đến nhà rồi!” Jane nói, loạng choạng bước qua cánh cổng bằng sắt đến chỗ Martha, người giúp việc, đang
đứng ở cửa trước, hai mắt tròn lên kinh ngạc. “Đây! Bế em bé đi ạ!” Martha đón em bé từ tay Jane.
“Cảm ơn nhé, em bé an toàn về nhà rồi.” Chị khách sáo nói. “Còn những đứa trẻ khác đâu? Các cô cậu tốt bụng quá! Các cô cậu là ai vậy?”
“Tất nhiên là chúng tôi rồi.” Robert nói.
“Nhưng ai là chúng tôi mới được cơ chứ?” Martha hỏi với vẻ bực mình.
“Tôi nói với chị rồi, là chúng tôi mà, chúng tôi đẹp hơn mọi ngày thôi.” Cyril nói. “Tôi là Cyril và đây là những đứa còn lại đấy. Chúng tôi đói chết đi được rồi ấy. Để chúng tôi vào đi và đừng có ngớ ngẩn như thế nữa.”
Martha chỉ đơn thuần đẩy Cyril ra và cố gắng đóng cửa lại trước mặt cậu bé.
“Tôi biết là trông chúng tôi khác, nhưng tôi là Anthea và chúng tôi quá mệt rồi, đã quá giờ ăn tối lâu rồi.”
“Thế thì về nhà các người mà ăn tối, các người là ai cũng vậy thôi. Nếu trẻ con nhà chúng tôi mà cũng thích chơi trò đóng kịch, nói mình là người này người nọ với người khác thì cứ thử xem chúng sẽ lãnh hậu quả thế nào.” Nói xong, chị sập cửa lại. Cyril rung chuông inh ỏi. Không ai trả lời. Bác đầu bếp thò đầu ra ngoài cửa sổ quát:
“Khôn hồn thì biến đi, cứ láu cá kiểu ấy nữa là ta sẽ báo cảnh sát đấy.”
Rồi bác cũng sập cửa lại.
“Không ổn rồi.” Anthea nói. “Ôi, chạy đi đã, không thì chúng ta bị bỏ tù mất!”
Bọn con trai nói thế thật là vô lí, luật pháp của nước Anh không thể nào bỏ mình vào tù chỉ vì mình quá xinh đẹp được, nhưng tất cả vẫn nối đuôi nhau rời khỏi khuôn viên ngôi nhà.
“Em cho là chúng ta sẽ quay về hình dạng của mình sau hoàng hôn thôi.” Jane nói.
“Anh không biết nữa.” Cyril nói một cách buồn bã. “Giờ có lẽ cũng không giống thế nữa - biết bao nhiêu thứ đã đổi thay đáng kể kể từ thời Megatherium rồi.”
“Ôi!” Anthea bỗng nhiên òa lên. “Có lẽ chúng mình sẽ hóa thành đá vào lúc hoàng hôn, giống như bọn Megatherium hóa thạch ấy, thế thì sang ngày mai, chúng mình sẽ chẳng còn sót lại một mảnh nhỏ nào trên thế gian này nữa.”
Cô bé thút thít khóc, Jane cũng bắt đầu khóc theo. Ngay cả mặt bọn con trai cũng tái đi. Chẳng ai còn tâm trí để nói gì nữa. Đó là một buổi chiều tồi tệ. Chẳng có căn nhà nào gần đó để lũ trẻ có thể xin một mẩu bánh mì hay thậm chí chỉ là một cốc nước. Bọn chúng sợ đi vào trong làng, bởi vì bọn chúng đã thấy Martha cầm một chiếc rổ đi xuống làng, ở đó có một đồn cảnh sát địa phương. Đúng là lũ trẻ đẹp như ban ngày, nhưng thật chẳng thoải mái chút nào khi bị đói như một con thú đi săn và khát y như một miếng bọt biển khô kiệt.
Ba lần liền, lũ trẻ cố van nài để những người giúp việc trong ngôi nhà màu trắng cho chúng vào và hãy lắng nghe câu chuyện của chúng. Và rồi Robert lẳng lặng đi ra phía sau nhà một mình, định bụng sẽ nhảy bật lên để trèo vào một trong những cánh cửa sổ sau nhà rồi từ đó mở cửa cho những đứa khác. Nhưng tất cả cửa sổ
đều cao ngoài tầm với, rồi Martha còn dội nguyên một chậu nước lạnh vào cậu từ trên thành cửa sổ xuống và nói:
“Biến đi, đồ khỉ đột khó ưa.”
Cuối cùng, lũ trẻ đành ngồi xếp hàng bên dưới bờ giậu, đặt chân trần lên sỏi khô và chờ đợi hoàng hôn buông xuống, tự hỏi liệu rằng khi mặt trời lặn, bọn chúng sẽ hóa thành đá hay chỉ đơn giản là trở về đúng hình dáng của mình như trước. Mỗi đứa đều cảm thấy cô đơn như ở giữa những người xa lạ nên cố để không nhìn nhau, dù rằng giọng nói vẫn là của chúng nhưng gương mặt lại đẹp đến mức chói lòa nên khá là khó chịu để ngắm nhìn.
“Em không tin là chúng ta sẽ thành đá cả đâu.” Robert lên tiếng, phá vỡ sự im lặng khổ sở giữa chúng. “Bởi vì Tiên cát nói là ông ấy sẽ ban cho chúng ta điều ước khác vào ngày mai, nếu chúng ta biến thành đá hết cả thì làm sao ông ấy ban điều ước cho chúng ta được, đúng không?”
Những đứa khác đáp “Không đâu!” nhưng chúng vẫn cảm thấy hoàn toàn không thoải mái.
Lại một sự im lặng khốn khổ kéo dài, và bị phá vỡ khi Cyril bất ngờ nói: “Anh không muốn dọa bọn con gái các em đâu nhưng anh tin là nó đã bắt đầu xảy ra với anh rồi. Chân của anh gần như đã chết rồi. Anh đang dần biến thành đá, anh biết rõ thế, rồi vài phút nữa sẽ đến lượt các em thôi.”
“Không sao đâu.” Robert nói vẻ trấn an. “Có lẽ anh sẽ là người đá duy nhất, còn tất cả bọn em sẽ không sao cả, bọn em sẽ nâng niu bức tượng của anh và treo những vòng hoa lên đó.”
Nhưng rồi khi bọn trẻ bắt đầu hiểu ra rằng chân Cyril bị thế là bởi vì cậu đã ngồi quá lâu không cử động, đôi chân sẽ bắt đầu tê dần và
nhoi nhói như bị kim châm, những đứa trẻ khác khá cáu kỉnh. “Dọa bọn em sợ thế làm gì chứ!” Anthea nói.
Sự im lặng rầu rĩ lần thứ ba bị phá vỡ bởi Jane. Cô bé lên tiếng: “Nếu chúng ta có thể bình an vô sự thoát khỏi chuyện này, chúng ta hãy bảo Sammyadd thực hiện điều ước theo cách nào mà người giúp việc nhà mình không nhận ra sự khác biệt ấy, cho dù chúng ta ước gì đi chăng nữa.”
Những đứa trẻ còn lại chỉ làu bàu ừ hử trong họng. Lũ trẻ đang quá sầu não nên không thể nghĩ ra được giải pháp nào tốt đẹp cả. Cuối cùng cơn đói, nỗi sợ hãi, sự mệt mỏi, bực tức, cả bốn điều khó chịu này dồn lại đem đến một thứ tốt lành, đó là giấc ngủ. Bọn trẻ sắp hàng gà gật ngủ, những đôi mắt xinh đẹp nhắm nghiền trong khi những cái miệng xinh xắn thì há ra. Anthea thức giấc đầu tiên. Mặt trời đã buông xuống nhường chỗ cho mặt trăng đang nhú dần lên.
Anthea tự nhéo mình một cái rõ đau để chắc chắn là mình vẫn còn có cảm giác chứ chưa hề bị hóa thành đá rồi lần lượt nhéo những người khác. Họ cũng vậy, vẫn còn mềm.
“Dậy đi!” Cô bé nói, gần như phát khóc lên vì vui mừng. “Ổn cả rồi, chúng ta không phải là đá. Và ơ kìa Cyril, trông anh thật dễ thương và xấu xí, những nốt tàn nhang cũ kĩ, mái tóc nâu và cả đôi mắt nhỏ nữa. Tất cả các em cũng vậy!” Cô bé nói thêm vào, để không đứa nào phải cảm thấy ghen tị.
Khi quay trở về nhà, bọn trẻ nghe Martha cằn nhằn kinh khủng và kể lể về những đứa trẻ lạ mặt.
“Ôi, trông thì ưa nhìn, tôi phải thừa nhận thế, nhưng mà láo xược kinh khủng.”
“Tôi biết.” Robert nói, cậu đã có thừa kinh nghiệm để biết là giải thích mọi việc cho Martha thì cũng chẳng ích gì.
“Mà các cô các cậu đã ở nơi quái quỷ nào suốt từ bấy đến giờ hả, mấy đứa nhóc nghịch ngợm này?”
“Ở bên con đường đất.”
“Thế sao các cô các cậu không về nhà từ mấy tiếng trước đi?” “Chúng tôi không thể, là tại họ.” Anthea nói.
“Ai cơ?”
“Những đứa trẻ đẹp như ban ngày ấy. Chúng giữ chúng tôi lại tới tận sau hoàng hôn. Chúng tôi không thể về được cho tới khi chúng đi khỏi. Chị không biết chúng tôi ghét chúng như thế nào đâu! Ôi, mang cho chúng tôi ít xúp đi, chúng tôi đói ngấu rồi.”
“Đói! Phải lắm!” Martha tức giận. “Lang thang thơ thẩn suốt cả một ngày như thế. Ai chà, tôi hi vọng đây sẽ là một bài học để các cô các cậu đừng có mà giao du với bọn trẻ con lạ mặt nữa. Ở dưới làng có bệnh sởi đấy! Giờ thì nhớ này, nếu các cô các cậu mà thấy chúng lần nữa thì đừng nói với chúng nửa lời, không nói năng gì mà cũng không liếc mắt, cứ đi thẳng về và mách với tôi. Tôi sẽ cho vẻ đẹp của bọn chúng tơi tả luôn!”
“Nếu như gặp lại chúng lần nữa, chúng tôi sẽ nói với chị.” Anthea nói, và Robert thì đảo mắt nhìn vào chỗ thịt bò đông lạnh đang được đem ra đặt lên khay nấu nướng, nói bằng giọng trầm mủi lòng.
“Chúng tôi sẽ rất lấy làm vui sướng nếu không bao giờ phải gặp lại chúng cả.”
Và đúng là bọn trẻ không bao giờ gặp lại chúng nữa.
Chương 2
Tiền vàng
A
nthea thức giấc vào buổi sáng sau một giấc mơ y như thật. Cô bé mơ thấy mình đang đi dạo trong vườn bách thú, dưới bầu trời mưa lâm râm mà không mang theo ô. Những con thú tỏ ra thiểu não vì cơn mưa, chúng gầm gào một cách âu sầu. Cô bé tỉnh dậy, cả tiếng gầm lẫn cơn mưa ấy đều đang đến cùng một lúc. Tiếng gầm là tiếng ngáy nặng nề của cô em gái Jane, cô bé bị cảm nhẹ và vẫn chìm trong giấc mơ. Cơn mưa đang lộp độp rơi xuống mặt Anthea từ góc chiếc khăn tắm ướt sũng mà Robert đang nhẹ nhàng vắt nước để đánh thức chị dậy.
“Ôi giời ạ, bỏ nó đi!” Anthea cằn nhằn. Robert nghe lời, cậu không phải đứa em trai quá bướng bỉnh dù rất nghịch ngợm trong mấy trò tranh giành bánh táo, đặt bẫy treo hay mấy trò khiến người cùng giường mất ngủ, cậu cũng hay lăng xăng pha trò để cả nhà đều vui.
“Chị vừa có một giấc mơ buồn cười cực ấy.” Anthea nói. “Em cũng thế.” Jane nói, bỗng nhiên thức dậy và nói luôn không báo trước. “Em mơ thấy chúng mình tìm thấy một Tiên cát ở trong một mỏ cát, nó nói nó là Sammyadd và mỗi ngày nó sẽ ban cho chúng ta một điều ước...”
“Nhưng đấy là giấc mơ của em mà.” Robert nói. “Em đang định đến kể chị nghe, và điều ước đầu tiên đã thành sự thật y như chúng
mình ước. Em mơ thấy các chị ngốc đến nỗi ước gì chúng ta đẹp như ban ngày và chúng ta đã được toại nguyện chứ, đúng là khủng khiếp.”
“Nhưng những người khác nhau cũng có thể mơ giấc mơ giống hệt nhau được á?” Anthea ngồi trên giường bần thần nói. “Bởi vì chị mơ thấy tất cả những cái đó cũng giống như mơ thấy sở thú và cơn mưa vậy; trong mơ, Cừu không nhận ra chúng ta, những người hầu gái thì đóng sầm cửa nhà lại bởi vì vẻ đẹp chói lóa khiến chúng ta trở thành những kẻ giả mạo và...”
Giọng cậu anh cả vang đến từ phòng bên kia.
“Đến đây đi, Robert.” Cậu bé nói. “Em sẽ bị muộn bữa sáng nữa đấy, trừ phi em định trốn không tắm như hôm thứ Ba đấy nhé.” “Em đến ngay đây, một giây nữa thôi.” Robert đáp. “Em không trốn, em đã tắm sau bữa sáng ở trong phòng thay đồ của cha mà, bởi vì phòng bọn mình đang được dọn dẹp.”
Cyril xuất hiện ở ngưỡng cửa, đã ăn mặc chỉnh tề.
“Anh ơi.” Anthea lên tiếng. “Bọn em đã có chung một giấc mơ. Tất cả bọn em đều mơ tìm thấy một Tiên cát.”
Giọng cô bé chùng xuống trước ánh mắt có vẻ khinh miệt của Cyril. “Mơ á?” Cậu nói. “Mấy đứa ngốc nghếch. Đấy là thật đấy. Anh bảo bọn em tất cả đều đã xảy ra mà. Đấy là lí do vì sao anh mới xuống nhà sớm thế. Chúng ta sẽ đi ngay sau bữa sáng và ước một điều ước khác. Chỉ có điều là chúng ta phải nghĩ cho thông suốt trước khi đi, cân nhắc xem chúng ta muốn cái gì, không ai được phép ước điều mà những người khác chưa tán thành. Không được ước nhan sắc tuyệt trần gì cả nữa đâu đấy nhé, anh xin kiếu. Anh sợ quá rồi!”
Ba đứa trẻ còn lại thay quần áo trong trạng thái vẫn còn sững sờ. Nếu toàn bộ giấc mơ về Tiên cát đó là thật, những bộ quần áo này có vẻ rất giống một giấc mơ, bọn con gái nghĩ. Jane cảm thấy Cyril đúng, nhưng Anthea thì không dám chắc lắm, mãi cho đến khi bọn chúng nhìn thấy Martha và nghe chị phàn nàn về những đứa trẻ hư hỏng ngày hôm trước. Lúc đó thì Anthea chắc chắn. Đến lúc ấy thì Anthea mới dám khẳng định là chúng không mơ.
“Đưa cả em bé đi.” Cyril nói. “Em Cừu đâu rồi?”
“Martha đang định đưa em ấy đến Rochester để thăm họ hàng nhà chị ta. Mẹ nói là mẹ cho phép. Chị ta đang thay đồ cho em ấy.” Jane nói. “Mặc chiếc áo khoác và đội chiếc mũ đẹp nhất. Cho em xin bánh mì và bơ ạ.”
“Chị ta có vẻ thích đem em ấy theo nhỉ.” Robert nói với giọng thắc mắc.
“Người hầu hay thích đem các em bé đi gặp họ hàng mà.” Cyril nói. “Anh đã nói chuyện này trước đây rồi, cứ như đấy là thứ quý giá nhất của họ ấy.”
“Em đoán họ giả vờ những đứa bé ấy là con họ và họ chẳng phải là người hầu gì hết, mà đã kết hôn với một ông công tước quý tộc của giới thượng lưu, và họ sẽ nói những đứa trẻ là những tiểu công tước và nữ công tước ấy.” Jane gợi ý với vẻ mơ màng, lấy thêm chút mứt cam. “Em đoán Martha sẽ nói thế với họ hàng của chị ta. Rồi thì chị ta sẽ vừa vui vừa sợ chết khiếp vì sợ ai biết.”
“Chị ta sẽ không vui bằng việc sẽ sợ chết khiếp khi đem theo chàng công tước tí hon của chúng ta đến Rochester đâu.” Robert nói. “Nếu chị ta mà có chút nào giống anh thì chắc chắn là không.”
“Cứ thử nghĩ đến việc đi bộ đến tận Rochester với em Cừu trên lưng! Ôi, quá đỉnh!” Cyril nói vẻ hoàn toàn đồng tình. “Chị ta đi bằng xe ngựa mà.” Jane nói. “Chúng mình ra tiễn chị ta với em Cừu đi, như thế thì vừa được coi là lịch sự và tốt bụng mà lại có thể vừa yên tâm là được giải phóng cả ngày khỏi cả hai người đó.” Bọn trẻ làm theo lời Jane nói.
Martha mặc lễ phục ngày Chủ nhật với hai tông màu tím đậm nhạt khác nhau, vùng ngực hơi chật khiến chị ta phải hơi khom người xuống cho chiếc váy khỏi căng ra, chiếc mũ màu xanh với một bông hoa đồng nội màu hồng và ruy băng trắng. Chị có một cái
cổ áo đính những hạt ngọc màu vàng, thắt một nơ xanh lá cây. Em Cừu thì mặc bộ vest lụa hảo hạng màu kem và đội mũ. Chiếc xe ngựa thuê đón một nhóm nhỏ người từ ngã tư đường. Khi mái bạt màu trắng và những bánh xe màu đỏ chậm rãi lăn đi trong làn bụi mỏng...
“Giờ thì đến chỗ Sammyadd thôi!” Cyril nói, và thế là lũ trẻ lên đường.
Vừa đi, lũ trẻ vừa quyết định về điều ước mà bọn chúng sẽ xin. Mặc dù đứa nào cũng hối hả nhưng không dám thử trèo xuống bên rìa của mỏ đá mà đi vòng theo lối đi thấp an toàn hơn vốn dùng để đẩy xe. Lũ trẻ đã xếp đá quây lại thành một hình tròn quanh chỗ Tiên cát biến mất, thế nên chúng có thể dễ dàng tìm ra ngay. Mặt trời chói chang như đổ lửa, bầu trời xanh biếc không một gợn mây. Chạm vào cát nóng đến bỏng tay.
“Ôi, biết đâu sau tất cả, đó lại chỉ là một giấc mơ thì sao.” Robert nói trong lúc bọn con trai bới được cái xẻng của mình từ chỗ hố cát mà lũ trẻ đã chôn ở đấy và bắt đầu đào.
“Biết đâu em nói có lí đấy.” Cyril nói. “Một người trải qua mọi chuyện y như những người khác.”
“Biết đâu anh nhốt cái lưỡi lịch sự ở trong đầu rồi.” Robert đáp trả.
“Biết đâu đến lượt con gái bọn em đào rồi.” Jane cười nói. “Con trai bọn anh có vẻ đang càng lúc càng ấm đầu rồi đấy.” “Biết đâu sao anh không ngậm miệng lại và giữ những lời bình luận cho riêng mình đi?” Robert nói, giờ người cậu bé đã nóng bừng thật.
“Bọn chị không thế đâu.” Anthea trả lời ngay. “Robert thân yêu, em đừng có gắt gỏng như thế, bọn chị sẽ không nói một lời nào đâu, em sẽ là người nói với Tiên cát về điều ước mà chúng mình đã quyết định sẽ xin. Em nói thì tốt hơn bọn chị nhiều.”
“Biết đâu chị lại đang giả vờ khiêm tốn thì sao.” Robert nói nhưng không có vẻ cáu kỉnh nữa. “Cẩn thận kìa, giờ bới bằng tay thôi!”
Bọn trẻ bỏ xẻng để đào bằng tay cho tới khi chạm được vào phần thân lông lá giống bụng nhện, chân và tay dài ngoằng, tai dơi, mắt ốc sên của Tiên cát. Tất cả đều thở phào nhẹ nhõm, giờ thì chắc chắn mọi thứ không thể là giấc mơ được.
Psammead ngồi dậy và rũ cát ra khỏi lông.
“Sáng nay, cái ria mép còn lại của ông thế nào ạ?” Anthea lịch sự hỏi.
“Chẳng có gì để khoe khoang cả.” Nó nói. “Nó có một đêm thiếu ngủ, nhưng cảm ơn cô đã hỏi thăm.”
“Cháu xin nói.” Robert lên tiếng. “Hôm nay ông có sẵn sàng ban điều ước không ạ, bởi vì chúng cháu rất muốn có thêm một điều
ước phụ bên cạnh điều ước chính? Điều ước phụ chỉ là thứ bé tí tẹo thôi.” Cậu bé nói thêm.
“Hừm!” Tiên cát nói. (Nếu đang đọc to cuốn sách này lên, bạn vui lòng phát âm chữ hừm đúng ngữ điệu nhé, bởi vì chính xác Tiên cát đã nói như thế đấy.) “Hừm! Các cô cậu biết không, cho đến tận khi nghe thấy các cô cậu mâu thuẫn lẫn nhau ngay trên đầu ta, mà to tiếng lắm đấy nhé, ta đã nghĩ là mình hoàn toàn chỉ mơ thấy các cô cậu thôi. Thỉnh thoảng ta có những giấc mơ y như thật vậy.”
“Ông cũng mơ ư?” Jane hấp tấp nói, thế là lại bị lạc xa mất khỏi chủ đề về sự mâu thuẫn. “Cháu ước gì...” Cô bé nói thêm một cách lịch sự. “Ông có thể kể cho chúng cháu nghe về những giấc mơ của ông, chắc hẳn phải hấp dẫn lắm.”
“Đây là điều ước của ngày hôm nay à?” Tiên cát vừa ngáp vừa nói.
Cyril lẩm bẩm gì đó nghe như “đúng là bọn con gái” còn những đứa khác thì lặng im. Nếu bọn trẻ nói “đúng” thì sẽ tạm biệt luôn điều ước khác mà bọn chúng quyết định sẽ hỏi xin. Nhưng mà nói “không” thì lại có vẻ thô lỗ quá, người có giáo dục và được dạy về phép lịch sự chẳng ai lại đi nói thế bao giờ, thế nên đứa nào cũng thở phào nhẹ nhõm khi Tiên cát nói:
“Phải xem ta có đủ sức mạnh để ban cho các cô cậu điều ước thứ hai hay không đã, hay là xem ta có tâm trạng tốt không, các cô cậu có lịch sự không, điều ước ấy có lí không hoặc là mấy thứ cỏn con tương tự thế.”
“Chúng cháu không muốn ép ông phải thực hiện tất cả những điều ước đâu ạ, chúng cháu có thể tự mình xoay xở chúng khá tốt rồi.” Cyril nói một cách tha thiết; trong khi những đứa khác áy náy
nhìn nhau và ước gì Tiên cát sẽ có tâm trạng tốt mà ban cho chúng một hàng dài điều ước rồi biến tất cả thành hiện thực hết. “Ai chà!” Psammead nói, nhướng đôi mắt ốc sên dài lên, đột ngột đến nỗi một trong hai con mắt dí sát vào mặt của Robert. “Chúng ta hãy bắt đầu với điều ước nhỏ trước.”
“Chúng cháu không muốn người hầu trong nhà nhận ra những món quà mà ông ban cho chúng cháu.”
“Vô cùng tốt bụng đã ban cho chúng cháu.” Anthea thầm thì. “Ý cháu là, vô cùng tốt bụng đã ban cho chúng cháu.” Robert nói. Tiên cát phình người ra một chút rồi thở hắt ra...
“Ta đã thực hiện điều ước đó cho cậu rồi đấy, dễ như trở bàn tay. Dù sao thì, mọi người cũng chẳng bận tâm mấy đâu. Thế điều ước tiếp theo là gì?”
“Chúng cháu muốn...” Robert nói chậm rãi. “Được giàu hơn cả như trong giấc mơ của người khác.”
“Tham lam.” Jane nói.
“Thế chứ gì?” Tiên cát đột ngột nói. “Nhưng nó sẽ chẳng đem tới cho các cô cậu mấy điều tốt đẹp đâu.” Tiên cát lầm bầm một mình. “Để xem nào, nhưng ta không thể đi xuyên qua giấc mơ được, các cô cậu biết đấy. Thế các cô cậu muốn bao nhiêu, thích vàng hay là ngân phiếu?”
“Vàng ạ, hàng triệu đồng vàng.”
“Đầy mỏ cát này có đủ không?” Tiên cát vung tay nói. “Ôi, đủ ạ!” “Thế thì đi ra khỏi đây trước khi ta bắt đầu, không thì các cô cậu bị chôn sống trong vàng bây giờ.”
Tiên cát vươn đôi cánh tay mỏng manh dài ngoằng và hối hả xua chúng đi, thế là lũ trẻ co giò chạy hết sức có thể thẳng lên con
đường vẫn thường để đẩy xe cút kít chở đá ra khỏi mỏ. Chỉ có Anthea là vẫn còn đủ tĩnh trí để vừa chạy vừa nói to: “Chúc ông buổi sáng tốt lành, cháu hi vọng ria mép của ông sẽ khá hơn vào ngày mai.”
Lúc bọn trẻ quay đầu và nhìn lại, chúng phải nhắm nghiền mắt, sau đó mới he hé mở ra dần từng li từng tí bởi vì cảnh tượng trước mắt quá chói lóa đến nỗi mắt chúng không thể thích nghi ngay được. Cứ như thể là cố nhìn thẳng vào mặt trời lúc đứng bóng buổi trưa giữa một ngày hè oi ả vậy. Khắp trong mỏ cát đều đầy kín, đến đúng miệng mỏ, là những đồng vàng mới tinh sáng lấp lánh. Ngay cả những lối ra vào hầm mỏ cũng đều bị phủ kín bởi vàng. Con đường để đẩy xe cút kít vòng quanh miệng mỏ giờ vàng đang nằm thành từng đống như những viên đá nằm bên lề đường. Khắp nơi đều phát ra tia sáng lấp lánh của vàng khối. Góc và cạnh của vô số đồng tiền vàng đang phản chiếu ánh sáng của mặt trời giữa trưa, lấp lánh và phát sáng, trông như miệng một lò luyện kim khổng lồ, hoặc như những ráng vàng thỉnh thoảng xuất hiện trên bầu trời vào lúc hoàng hôn.
Lũ trẻ đứng đó với cái miệng há hốc, không nói được một lời nào.
Robert nhặt một trong những đồng tiền vàng ngay rìa mép của con đường đẩy xe và ngắm nhìn nó. Cậu bé lật cả hai mặt lên quan sát. Rồi cậu lên tiếng bằng giọng trầm khàn, không giống như thường ngày. “Không phải đồng vàng của Anh.”
“Dù sao thì đó cũng là vàng.” Cyril nói. Giờ thì cả lũ bắt đầu tranh nhau nói. Đứa nào cũng vốc vàng lên đầy tay, vàng chảy tràn ra khỏi những kẽ tay như nước, tiếng rơi của chúng nghe thật vui tai. Lúc
đầu, bọn trẻ quên không nghĩ đến việc tiêu tiền, chỉ thích thú chơi đùa. Jane ngồi xuống giữa hai đống vàng, Robert bắt đầu vùi cô bé giống như mọi người hay vùi nhau xuống cát ẩm khi nô đùa bên bãi biển. Nhưng Jane bị vùi được non nửa người thì cô bé đã kêu lên. “Ôi, dừng lại đi! Nặng quá! Đau em!”
Robert nói “Còn lâu!” rồi cứ thế tiếp tục.
“Để em ra đi, em đã bảo anh rồi.” Jane khóc và được kéo ra ngoài, từng tí một.
“Anh không biết cảm giác ấy như thế nào đâu.” Cô bé nói. “Cứ như có cả một tảng đá đè lên người ấy, hoặc là giống như bị xiềng xích.”
“Anh bảo này.” Cyril nói. “Nếu điều này mà cho chúng ta thứ gì đó tốt lành thì chắc chắn không phải là ở đây vui đùa thế này đâu. Hãy nhét đầy túi đi rồi đi mua sắm gì đó đi. Các em đừng quên là đến sau hoàng hôn thì nó sẽ biến mất hết đấy. Anh ước gì chúng ta đã hỏi Sammyadd xem tại sao mọi thứ không biến thành đá. Nhưng có thể những đồng vàng này sẽ biến thành đá. Mấy đứa nghe này, có một con ngựa nhỏ và một cái xe kéo ở trong làng đấy.”
“Anh muốn mua nó à?” Jane hỏi.
“Không, ngốc à, chúng ta sẽ thuê nó. Rồi sau đó chúng ta sẽ đi đến Rochester và mua hàng đống, hàng đống thứ. Thế này nhé, chúng ta cầm được bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu. Cho dù nó không phải là đồng tiền vàng Anh đi chăng nữa. Một mặt nó có khắc hình cái đầu của một người đàn ông, mặt còn lại thì khắc cái gì đó như một quân Át bích. Anh đã bảo cứ nhét cho đầy túi và đi thôi. Bọn em có thể huyên thuyên trong lúc chúng ta đi, nếu như bọn em cứ phải huyên thuyên luôn mồm thì mới chịu được.”
Cyril ngồi xuống và bắt đầu nhét đầy các túi. “Mấy đứa cứ cười nhạo anh vì lo xa khi mà may áo có tới chín cái túi, nhưng mà giờ thì các em xem này!”
Mấy đứa em nghe theo lời Cyril. Cyril ních đầy vàng vào chín cái túi, lại buộc túm vào trong khăn tay rồi nhét cả vào trong áo giữa chỗ sơ vin với quần bằng thắt lưng rồi đứng dậy. Nhưng rồi cậu lảo đảo và ngồi phịch xuống.
“Bỏ bớt hàng hóa đi.” Robert nói. “Không thì anh sẽ làm đắm con tàu thủy già nua này mất. Đó là hậu quả của việc có tới chín cái túi đấy.”
Thế là Cyril đành phải bỏ bớt vàng ra.
Bọn trẻ cùng nhau đi bộ vào trong làng. Con đường dài hơn một dặm và rất bụi bặm, mặt trời dường như càng lúc càng thiêu đốt, vàng đựng trong túi càng lúc càng có vẻ nặng trĩu hơn.
Jane bảo: “Em chẳng biết chúng mình tiêu hết cái đống này kiểu gì. Chúng mình phải vác theo tới cả ngàn bảng ấy. Em đang định bỏ một ít của em lại ở sau cái hốc bên rìa kia. Chúng mình sẽ đi thẳng đến làng rồi mua một ít bánh quy vì còn lâu mới tới giờ ăn tối.” Cô bé lấy ra một hay hai nắm vàng rồi thả vào cái hốc của một hòn đá. “Chúng mới tròn và vàng làm sao!” Cô bé nói. “Sao anh chị không ước nó là bánh gừng nhân hạt để chúng mình ăn luôn?”
“Chà, đây không phải bánh, và bọn mình đã không ước thế.” Cyril nói. “Đi nhanh nào!”
Nhưng càng lúc bọn trẻ càng trở nên uể oải. Trước khi đến được làng thì chúng đã phải dừng lại vài lần nữa để giấu vàng trong những cái hốc hay bụi cây bên vệ đường làm kho báu bí mật. Cuối cùng bọn trẻ đến làng với một ngàn hai trăm đồng vàng trong túi.
Mặc dù mang theo cả đống tài sản kếch xù, nhưng nhìn bên ngoài chúng vẫn bình thường giống những đứa trẻ mà một xu bẻ đôi cũng không có.
Hơi nước từ những chiếc lò với làn khói xanh từ bếp củi tạo thành đám sương mù lờ mờ lơ lửng trên những mái ngói đỏ trong làng. Cả bốn đứa ì ạch ngồi xuống bên ngoài hàng rào của ngôi nhà đầu tiên chúng gặp, đó là quán trọ Blue Boar.
Cả bọn quyết định là Cyril sẽ đi vào trong Blue Boar để hỏi mua bia gừng, bởi vì Anthea bảo là: “Một người đàn ông đi vào mấy hàng quán công cộng thì chẳng có gì là sai trái nhưng nếu bọn trẻ con vào thì không hay lắm.” Mà Cyril gần như là một người lớn rồi vì cậu bé là anh cả, thế nên cậu bé phải đi. Thế là Cyril đi vào trong khi những đứa còn lại ngồi dưới nắng và chờ đợi.
“Ôi, trời nóng quá!” Robert nói. “Lũ chó hay thè lưỡi ra ngoài mỗi khi trời nóng; em tự hỏi không biết là nếu bọn mình thè lưỡi ra như chó thì có mát không nhỉ?”
“Chúng mình có thể thử xem.” Jane đáp. Thế là tất cả cố thè lưỡi ra ngoài dài hết cỡ, làm cổ họng cũng phải há rộng ra theo, nhưng chỉ khiến chúng càng khát khô cổ hơn, chưa kể đến việc những người qua đường cứ nhìn chằm chằm. Thế là bọn trẻ lại rụt lưỡi vào, vừa đúng lúc Cyril cầm bia gừng quay lại.
“Anh phải trả bằng tiền riêng của anh, trong số hai đồng và bảy xu mà anh định dùng để mua thỏ đấy.” Cậu bé nói. “Họ không mua bán bằng vàng. Lúc anh lấy vàng ra, họ đã cười phá lên. Anh có lấy thêm vài miếng bánh bông lan nữa, từ một cái lọ thủy tinh trên quầy bar. Với cả một ít bánh quy.”
Bánh bông lan vừa mềm vừa khô, mà bánh quy cũng khô nốt, đúng là nó mềm nhưng bánh quy là thứ không nên ăn lúc này. Chỉ có bia gừng là làm bọn trẻ sảng khoái hẳn.
“Giờ đến lượt em thử mua thứ gì đó xem sao.” Anthea nói. “Em là người lớn thứ nhì. Xe ngựa kéo ở đâu nhỉ?”
Đó là ở Chequers, Anthea đi bằng lối sau vào trong sân bởi vì ai cũng biết là một cô thiếu nữ thì không nên vào quán rượu công cộng. Cô bé vào một lúc, rồi bước ra và nói:
“Ông ta bảo sẽ sẵn sàng lên đường ngay.” Cô bé nói. “Ông ta có một cỗ xe cừ lắm, ông ta sẽ đưa bọn mình đến Rochester và về, với cả đợi luôn bọn mình mua sắm xong xuôi nữa. Em nghĩ là em sắp xếp rất giỏi.”
“Em đang tự thấy là mình quá sức tháo vát hả?” Cyril nói một cách mỉa mai. “Em đã xoay xở như thế nào?”
“Dù sao đi nữa em không ngu ngốc đến độ lôi từ túi ra một vốc đầy tiền rồi làm như nó có vẻ rẻ rúng đâu.” Cô bé trả đũa lại. “Em chỉ tìm thấy một anh chàng trẻ tuổi đang làm gì đó chân con ngựa với miếng bọt biển và một cái xô. Em lấy ra một đồng vàng và nói: “Anh có biết đây là cái gì không?” Anh ta trả lời không biết rồi gọi cha anh ta ra. Rồi một người đàn ông trung niên bước đến, ông ta nói đó là một đồng vàng, đủ để muốn mua gì cũng được. Em bèn hỏi về xe ngựa kéo, em nói ông ta sẽ được trả đồng vàng này nếu chở chúng mình đến Rochester. Tên ông ta là S. Crispin. Thế là ông ấy bảo: “Được thôi!”.”
Đúng là một trải nghiệm mới mẻ khi di chuyển trên chiếc xe độc mã được kéo bởi một con ngựa suốt cả đoạn đường dài của miền quê xinh đẹp, cảm giác vừa lạ lẫm, vừa dễ chịu. Đứa nào cũng im
lặng suy nghĩ về bao nhiêu là kế hoạch tiêu tiền hay ho trên đường đi. Tất nhiên là chúng im thin thít không hé răng, bởi vì không thể để cho người đánh xe già nghe thấy chúng có cả một đống vàng được. Người đàn ông dừng ở cây cầu như bọn trẻ yêu cầu.
“Nếu bác định đi mua một chiếc xe và ngựa thì mua ở đâu ạ?” Cyril hỏi, vờ như lơ đễnh, hỏi chơi để cho có chuyện mà nói. “Chỗ Billy Peasemarsh ở đầu đường Saracen.” Người đàn ông già thản nhiên đáp. “Đáng lí ra tôi không nên đưa ra đề xuất khi có ai đó hỏi han về lũ ngựa, nhưng tôi không nghĩ là có người đàn ông nào hiểu rõ về ngựa và có nhiều ngựa như ông ấy đâu. Nhưng nếu cha cậu đang định tậu về thứ gì đó như một chiếc xe ngựa, sẽ chẳng có người đàn ông nào ở Rochester thẳng thắn hay thật thà hơn Billy, tôi chắc chắn thế.”
“Cảm ơn bác ạ.” Cyril nói. “Thẳng tiến đến đầu đường Saracen thôi các em.”
Giờ bọn trẻ bắt đầu nhìn thấy cây cột treo những bảng chỉ đường lên xuống đứng như một người đang biểu diễn nhào lộn. Người lớn nào cũng nói tiền bạc là thứ khó kiếm mà lại dễ tiêu. Nhưng tiền của thần tiên thì lại dễ kiếm mà tiêu thì lại khó, không chỉ khó mà còn gần như là không thể. Sáng sớm nay, Anthea không may lỡ ngồi lên mũ của mình nên muốn mua một cái mũ khác. Cô bé chọn một cái rất đẹp, được đính những bông hoa hồng màu cánh sen và những chiếc lông công màu xanh. Nó được treo trong tủ kính có gắn mác: “Mốt Paris, 3 đồng vàng.”
“Em mừng quá!” Cô bé nói. “Bởi vì nếu nó nói là đồng vàng thì nó nghĩa là đồng vàng, không phải là loại đồng bảng Anh mà chúng mình không có.”
Nhưng khi cô bé lấy ra ba đồng tiền vàng trong tay, giờ đã hơi bẩn vì cô bé quên đeo găng tay lúc ra mỏ cát chơi, quý cô trẻ mặc bộ váy lụa màu đen ở trong cửa hàng nhìn cô bé chằm chằm rồi đi vào thì thầm với một quý bà già và xấu hơn, cũng mặc lụa màu đen rồi họ đưa trả lại cô bé tiền và nói rằng đó không phải đồng tiền hiện đang lưu hành.
“Đó là tiền thật mà.” Anthea nói. “Đó là tiền của cháu.” “Ta tin thế.” Quý bà nói. “Ta không bận tâm cháu có được nó từ đâu, nhưng nó không phải là loại tiền đang được lưu hành.” “Em đoán chắc chắn là họ nghĩ chúng mình ăn cắp nó.” Anthea nói khi quay lại cùng các anh chị em của mình ở ngoài đường. “Nếu chúng mình mà có găng tay thì họ sẽ không nghĩ chúng mình thiếu thật thà. Chỉ tại tay em bẩn nên mới khiến họ nghi ngờ thôi.” Thế là bọn trẻ chọn một cửa hàng khiêm tốn hơn, mấy cô bé mua găng tay vải cốt tông, loại sáu xu ba, nhưng khi bọn trẻ đưa những đồng vàng ra, người phụ nữ gườm gườm nhìn qua cặp kính cận và lạnh lùng bảo rằng bà ấy không đổi tiền, thế là mấy đôi găng tay được trả bằng một phần trong số hai đồng bảy xu mà Cyril định để mua thỏ, rồi mua luôn một cái ví giả da cá sấu màu xanh lá cây có giá chín xu rưỡi. Bọn trẻ cố thử đến thêm mấy cửa hàng nữa, cửa hàng đồ chơi, khăn tay lụa và sách, tranh ảnh, quần áo. Nhưng ngày hôm đó, ở Rochester không có ai thèm đổi tiền cả, bọn trẻ cứ đi từ cửa hàng nọ đến cửa hàng kia, quần áo càng lúc càng bẩn, tóc tai thì bù xù cả lên, Jane ngồi phịch xuống một cái đài phun nước bên đường. Mặc dù bụng đã đói meo, nhưng bọn trẻ hiểu là sẽ chẳng ai bán cho chúng cái gì ăn được bằng những đồng vàng chúng đang có. Sau khi cố thử qua hai quán ăn trong tuyệt vọng,
bọn trẻ đã đói cồn cào ruột gan vì mùi bánh thơm phức tỏa ra từ các cửa hàng. Cả bọn thầm thì với nhau lên kế hoạch rồi ghé vào một cửa hàng bánh thứ ba, tên là Beale. Trước khi người đứng sau quầy tính tiền kịp để ý, mỗi đứa trẻ đã nhón lấy ba cái bánh bao, cắn mỗi cái một miếng rõ to, giữ khư khư chúng trong những đôi tay lấm lem, ngoạm luôn một miếng bự chảng vào một cái bánh mì kẹp. Bọn chúng đứng ngây đó, với mười hai cái bánh bao cắn dở, miệng đầy bánh. Người bán bánh bị sốc, ông vội bước ra khỏi quầy bán hàng.
“Đây ạ!” Cyril cầm sẵn một đồng tiền vàng đã chuẩn bị trước khi vào cửa hàng đưa cho người bán hàng và cố gắng nói một cách dứt khoát nhất có thể. “Cháu trả tiền cho những cái bánh đó.”
Ông Beale vồ lấy đồng tiền, cắn thử rồi nhét vội luôn vào túi. “Đi đi.” Ông ta nói, cộc lốc và thô thiển như mấy gã đầu đường xó chợ.
“Nhưng còn tiền thừa?” Anthea, người rất có ý thức tiết kiệm, nói.
“Tiền thừa!” Người đàn ông nói. “Để tao trả tiền thừa cho lũ chúng mày! Khôn hồn thì xéo hết cả đi rồi lũ chúng mày sẽ thấy mình may mắn vì tao không gọi bọn cớm đến để tra khảo xem chúng mày lấy vàng ở đâu đấy!”
Rời khỏi tiệm bánh có hàng ngàn chiếc bánh thơm nức mũi, cả những chiếc bánh mềm cực kì thơm ngon giống như một thứ bùa mê lôi cuốn tâm hồn, ngay cả trái tim can đảm nhất cũng phải nao núng trước ý nghĩ về việc mạo hiểm đến gặp ông Billy Peasemarsh ở đầu đường Saracen để đề cập đến việc mua ngựa với xe kéo. Bọn con trai đã bỏ cuộc hẳn, nhưng Jane thì lúc nào cũng là một
đứa trẻ đầy hi vọng và Anthea thì lại rất cứng đầu cứng cổ, thế là sự sốt sắng của hai đứa con gái đã chiến thắng.
Cả nhóm lúc này trông đã nhếch nhác và bẩn thỉu không để đâu cho hết, can đảm kéo nhau đến đầu đường Saracen. Phương pháp tấn công trực diện đã thành công ở Chequers thì giờ lại một lần nữa được thử nghiệm tại đây. Ông Peasemarsh đang ở trong sân, và Robert là người mào đầu cho việc thương thảo các điều khoản mua bán...
“Người ta nói với cháu là ông có rất nhiều ngựa với xe để bán.” Mấy đứa đã đồng ý là Robert nên là người phát ngôn của chúng, bởi vì trong các cuốn sách, lúc nào cũng là các quý ông đi mua ngựa chứ chẳng thấy các quý cô đi mua ngựa bao giờ, mà ban nãy Cyril đã một mình vào quán trọ Blue Boar rồi.
“Họ nói với cháu đúng rồi đấy, chàng trai trẻ ạ.” Ông Peasemarsh đáp. Đó là một người đàn ông tầm thước với đôi mắt biếc xanh, đôi môi mỏng cứ mím chặt lại.
“Chúng cháu muốn mua một con ạ.” Robert lịch sự nói. “Hẳn là thế rồi.”
“Ông có thể làm ơn cho chúng cháu xem vài con không ạ? Để chọn ạ.”
“Cháu là con cái nhà ai vậy?” Ông Billy Peasemarsh dò hỏi. “Cháu được sai đến đây để hỏi trước à?”
“Cháu bảo ông rồi mà.” Robert nói. “Chúng cháu muốn mua vài con ngựa với cỗ xe, có một ông bảo bọn cháu ông là một người rất thẳng thắn và lịch sự, cháu cũng không nghi ngờ là ông ấy nhầm lẫn đâu ạ.”
“Lạy thánh thần trên cao!” Ông Peasemarsh nói. “Ta có nên mang cả chuồng ngựa ra chạy nước kiệu để cho cháu chọn không? Hay là ta nên gửi cháu đến chỗ cửa hàng Bishop xem họ có con ngựa đồ chơi hoặc là vài ba thứ gì đó tương tự?”
“Làm ơn đi ông!” Robert nói. “Nếu như không phiền ông quá. Ông là một người rất tốt bụng mà.”
Ông Peasemarsh đút hai tay vào túi quần rồi cười phá lên, bọn trẻ không thích cái cách ông ta làm thế. Rồi ông ta gọi to: “Willum!” Một người trông coi chuồng ngựa xuất hiện ở cửa chuồng. “Đây, Willum, đến và nhìn lũ vịt con này này! Muốn mua cả trại ngựa giống cơ đấy. Bọn chúng mà có nổi hai xu trong túi thì ta sẽ đóng tiền bảo lãnh cho luôn!”
Ánh mắt Willum nhìn theo ngón tay đang chỉ trỏ của ông chủ với vẻ khinh miệt rành rành.
Dù cả hai đứa con gái đã kéo áo khoác và van nài Robert rời đi, nhưng cậu vẫn nói với vẻ rất tức giận:
“Cháu không phải là một cậu công tước trẻ, mà cháu cũng chẳng phải giả vờ như thế làm gì. Và nếu nói đến hai xu thì theo ông đây là cái gì?” Vậy là trước khi những đứa khác kịp ngăn lại, cậu đã kéo hai túi áo để lộ những đồng vàng lấp lánh rồi bốc ra cho ông Peasemarsh nhìn. Ông ta nhìn chằm chằm rồi chộp luôn lấy một đồng, và cắn thử. Jane cứ nghĩ ông ta sẽ nói: “Con ngựa tốt nhất ở trong chuồng của ta là của các cháu.” Nhưng những đứa khác hiểu biết hơn. Quả là một sự choáng váng, thậm chí còn là nỗi tuyệt vọng thật sự, khi ông ta nói ngắn gọn đúng một câu:
“Willum, đóng các cửa sân lại!” Willum cười toe toét và đi đóng cửa.
“Chúc ông buổi chiều vui vẻ!” Robert hấp tấp nói. “Giờ thì chúng cháu sẽ không mua một con ngựa nào của ông, dù ông có nói gì đi nữa. Cháu hi vọng đây sẽ là một bài học cho ông.” Cậu nhìn thấy một cánh cổng lách vẫn còn mở, nên vừa nói vừa đi thẳng. Nhưng ông Billy Peasemarsh đã chặn đường cậu.
“Không nhanh thế chứ, mấy đứa hư hỏng này!” Ông ta nói. “Willum, đi gọi cảnh sát tới đây.”
Willum rời đi. Lũ trẻ đứng rúm vào với nhau như những con cừu sợ hãi trong lúc chờ cảnh sát tới. Ông ta nói rất nhiều. Trong đó có câu: “Chúng mày ngoan ngoãn thì nên thành khẩn khai thật là vàng của ai!”
“Đây là tiền vàng của chúng cháu.” Cyril dũng cảm nói. “Tất nhiên là chúng mày sẽ chối bay chối biến rồi! Lại còn lôi kéo mấy đứa con gái vào việc này nữa. Trừ phi... ta sẽ thả mấy đứa con gái đi nếu lũ con trai ngoan ngoãn đi cùng ta đến chỗ cảnh sát.” “Chúng cháu sẽ không đi đâu hết.” Jane dũng cảm nói. “Không đi nếu không có các anh trai cháu đi cùng. Tiền của các anh ấy thì cũng là tiền của chúng cháu, ông già độc ác ạ.”
“Thế thì lũ chúng bay lấy tiền ở đâu ra hử?” Gã đàn ông nói, rít lên qua kẽ răng.
Jane thoáng liếc nhìn về phía các anh chị mình.
“Cứng họng rồi hả? Nào, nói đi chứ! Lũ chúng bay lấy nó ở đâu hả?”
“Ở ngoài mỏ đá.” Jane thật thà nói.
“Lại nói láo tiếp rồi.” Gã đàn ông bảo.
“Chúng cháu nói thật.” Jane nói. “Ở đó có một ông tiên, khắp người phủ lông màu nâu, với tai vểnh ra như tai dơi, mắt dài như
mắt ốc sên, ông ấy ban điều ước hàng ngày và tất cả đều trở thành sự thật hết.”
“Mày bị ấm đầu hử?” Gã đàn ông gằn giọng. “Cả lũ con trai chúng mày không biết xấu hổ khi kéo con bé bị khùng nặng này vào việc trộm cắp tội lỗi của chúng mày sao?”
“Em ấy không bị điên, đấy là sự thật.” Anthea nói. “Có một ông tiên ở đó. Lần sau gặp ông ấy, tôi sẽ ước một điều gì đó cho ông nếu như trả thù không phải là xấu xa!”
Lúc này, Willum đã quay trở lại với vẻ mặt hằn học, sau lưng anh ta là một viên cảnh sát. Sau đó, ông Peasemarsh rỉ tai nói thầm thì với người cảnh sát này một lúc lâu.
“Tôi cho rằng ông nói đúng.” Cuối cùng người cảnh sát lên tiếng. “Dù sao đi nữa, tôi sẽ tạm giữ chúng vì số tiền phi pháp này để phục vụ cho việc điều tra. Rồi quan tòa sẽ ra phán quyết. Gửi mấy đứa con gái tội nghiệp đến trại tế bần, còn bọn con trai thì cho vào trại cải tạo, chắc phải thế thôi. Nào, giờ thì đi mau, bọn ranh con này! Nhặng xị lên thì chẳng ích gì đâu. Ông đưa mấy đứa con gái đi nhé ông Peasemarsh, tôi sẽ áp giải bọn con trai này.”
Ghê tởm và tức giận đến mức không thốt được nên lời, cả bốn đứa trẻ bị đưa đi dọc con đường Rochester.
Nước mắt tức giận và cả xấu hổ làm ướt nhòa đôi mắt chúng, thế nên khi Robert đi qua đường, cậu không nhận ra một giọng nói quen thuộc cất lên. “Ôi, cậu chủ Robert, cậu làm gì ở đây vậy hả?” Và một giọng nói khác cũng quen thuộc không kém. “Chị Báo; đi với chị Báo của em cơ!”
Bọn trẻ chạy ùa đến chỗ Martha và em bé!
Martha đã cư xử không chê vào đâu được. Chị từ chối tin bất cứ lời nào của viên cảnh sát hay kể cả là của ông Peasemarsh, cho dù họ có ép Robert phải dốc hết các túi áo để chứng minh về mấy đồng vàng đi nữa.
“Tôi chẳng nhìn thấy cái gì cả.” Chị nói. “Các ông vô lí thái quá rồi đấy, cả hai ông! Chẳng có vàng với mã gì ở đây hết, chỉ có đôi bàn tay của đứa trẻ tội nghiệp bị lấm lem bẩn thỉu thôi, trông cứ như là thợ nạo ống khói ấy. Tôi chưa từng thấy việc gì vô lí đùng đùng như cái ngày hôm nay cả!”
Bọn trẻ đã nghĩ đây quả là hành động bảo vệ vô cùng đáng quý của chị Martha, cho tới khi chúng nhớ ra là Tiên cát đã hứa rằng sẽ không bao giờ để những người hầu nhận ra một chút gì về món quà của tiên. Thế nên tất nhiên là Martha không thể nhìn thấy vàng và chị ta cũng chỉ đang nói sự thật thôi, điều đó tất nhiên là đúng đắn đấy, và cũng chẳng có gì mà đáng quý cả.
Trời bắt đầu chuyển sang nhá nhem lúc tất cả đến sở cảnh sát. Viên cảnh sát nói chuyện với thanh tra cảnh sát, người này ngồi trong một căn phòng lớn trống rỗng, một cái lồng nằm phía cuối phòng nhìn giống như cũi trẻ em với những song sắt để nhốt tù nhân trong đó. Robert tự hỏi không biết cái này được gọi là xà lim hay là vành móng ngựa.
“Cậu đưa những đồng xu ấy ra đây đi, sĩ quan.” Thanh tra cảnh sát nói.
“Lột túi của chúng mày ra.” Viên cảnh sát nói.
Cyril đút cả hai tay vào trong túi, ngây người ra một lúc rồi bắt đầu cười phá lên, cười sặc sụa đến mức nghe như cậu đang khóc. Các túi của cậu hoàn toàn trống rỗng. Túi của những đứa khác cũng
thế. Tất nhiên là thế rồi, bởi vì khi hoàng hôn buông xuống, tất cả vàng của Tiên cát đều sẽ biến mất.
“Lột hết túi áo ra và đừng có làm ồn nữa.” Viên cảnh sát ra lệnh. Cyril lột túi áo ra, từng túi một trong chiếc áo khoác có đến chín cái túi. Và cả chín cái túi này đều trống rỗng cả.
“Thôi!” Viên cảnh sát kêu lên.
“Tôi không biết bọn nhãi này đã làm gì nữa, mấy đứa ăn mày nhiều mánh khóe lắm! Chúng bước đi ngay trước mũi tôi ngay đường, thế nên tôi có thể dán mắt vào trông chừng nhất cử nhất động để chúng không thể lẻn vào lủi mất giữa đám đông hay là gây cản trở giao thông được.”
“Rất tận tâm.” Viên thanh tra cảnh sát cau mày.
“Nếu các ông đã bắt nạt những đứa trẻ vô tội này xong...” Martha nói. “Tôi sẽ thuê một chiếc xe chở bọn trẻ về dinh thự của cha chúng. Chuyện này chưa xong đâu, chàng trai trẻ ạ! Tôi đã nói với ông là bọn trẻ chẳng có một đồng vàng nào, thế mà ông cứ cố vờ vịt là nhìn thấy những đôi tay tội nghiệp yếu ớt ấy cầm vàng. Đúng là thời thế nhiễu nhương, người ta lại đi giao nhiệm vụ cảnh sát cho một người nhìn gà hóa cuốc như vậy. Đáng lẽ mắt mũi kèm nhèm thì càng phải nói ít đi để người khác không biết chứ; ông canh giữ đầu phố Saracen nên chắc là biết một hớp rượu làm người ta mất ý chí hơn bao giờ hết mà.”
“Ôi vì Chúa, đưa bọn trẻ đi đi.” Viên thanh tra cảnh sát càu nhàu. Trong khi tất cả lục tục rời khỏi sở cảnh sát, viên thanh tra bắt đầu lên tiếng “Nào, nào” với cả viên sĩ quan và ông Peasemarsh, câu mà ông ta đã nói ít nhất hai mươi lần vì không chịu nổi sự lắm mồm của Martha.
Martha bảo sao làm vậy. Chị đưa bọn trẻ về nhà trên một chiếc xe ngựa lớn. Dù chị có đứng về phía chúng mà trở nên thô lỗ với cảnh sát, thì chị vẫn tức giận với chúng về việc tự ý thuê xe đi, đến nỗi không đứa nào dám nhắc đến ông già chủ xe còn đang đợi chúng ở Rochester nữa. Và thế là, sau một ngày giàu vô số kể, bọn trẻ leo lên giường chìm trong giấc ngủ say, chỉ giàu lên có mỗi một đôi găng tay trắng mà đã bẩn hết bên trong vì chúng phải vội vàng nhét đôi tay lấm lem vào trong để che đi, một chiếc ví giả da cá sấu và mười hai xu bánh đã tiêu hóa trong bụng.
Điều khiến bọn trẻ day dứt nhất là sợ đồng tiền vàng đã trả cho ông già sẽ biến mất lúc hoàng hôn cùng với những đồng tiền khác. Thế nên hôm sau, cả bọn kéo nhau xuống làng tìm ông già để xin lỗi vì việc đã không gặp ông ở Rochester hôm đó. Nhưng ông già vẫn rất thân thiện. Đồng vàng không hề biến mất. Ông ấy đã đục một cái lỗ để đeo nó bằng dây xích đồng hồ. Còn với đồng vàng mà người thợ nướng bánh đã lấy thì bọn trẻ cảm thấy chúng chẳng cần bận tâm xem liệu nó có biến mất hay không.
Nhưng sau cùng thì sự việc này vẫn cứ ám ảnh tâm trí Anthea khiến cô bé day dứt mãi, cuối cùng, cô bé bí mật gửi mười hai xu qua đường bưu điện đến “Ông Beale, Thợ làm bánh, Rochester”. Bên trong, cô bé viết: “Để trả cho những chiếc bánh”.
Tôi hi vọng đồng tiền vàng đó đã biến mất bởi vì người làm bánh quả thực không phải người tử tế chút nào. Bên cạnh đó, từng ấy bánh cũng chỉ có giá bảy xu ở các cửa hàng thực sự đứng đắn khác.
Chương 3
Bị truy nã
B
uổi sáng sau cái hôm trở thành chủ sở hữu của vô số của cải, ấy thế mà vẫn không thể mua được cái gì thực sự hữu ích hay đem lại chút vui vẻ nào, ngoại trừ hai đôi găng tay vải cốt tông, mười hai xu bánh bao, một chiếc ví giả da cá sấu cùng một chuyến đi bằng xe ngựa, lũ trẻ thức giấc mà không có chút hào hứng nào như ngày hôm trước, khi bọn chúng cảm thấy cực kì may mắn vì đã tìm ra Psammead, hay Tiên cát, để nhận được một điều ước mới mỗi ngày. Giờ chúng mới chỉ được cho hai điều ước là xinh đẹp và giàu có, mà chính xác thì cả hai đều chẳng khiến chúng hạnh phúc chút nào. Dù sao thì so với những chuyện kì lạ này, tuy có hơi khốn đốn đi chăng nữa thì cũng vẫn hơn là cả ngày chỉ có ăn và ngủ rồi chơi mấy trò chán ngắt, nhất là vào những thời điểm chẳng có mấy thứ ngon lành để ăn, ngoại trừ thịt cừu nguội và vài món khó nuốt.
Chẳng thể bàn bạc được gì trước bữa sáng bởi vì ai cũng ngủ quên, bọn trẻ phải cố lắm mới có thể tỉnh giấc và mặc quần áo chỉnh tề sao cho chỉ bị muộn bữa sáng mười phút mà thôi. Trong bữa ăn, bọn trẻ thi thoảng cũng đã cố gắng để cùng nhau thỏa thuận về điều ước với Psammead, nhưng đúng là bất khả thi khi vừa phải tập trung ăn sáng lại vừa phải trông chừng để cho Cừu ăn no. Sáng nay em ấy tỏ ra đặc biệt hiếu động. Em không chỉ uốn éo qua lưng cái ghế tựa cao, tì sát ngực vào lưng tựa để bị nghẹt thở rồi tím tái hết
cả mặt lại. Em còn bỗng dưng vớ lấy cái thìa và đánh vào đầu Cyril một cú rõ đau, rồi khóc òa lên khi bị lấy mất thìa. Em nhúng nắm tay mũm mĩm của mình vào món bánh mì kẹp sữa rồi nằng nặc đòi ăn mứt, mà mứt thì chỉ được phép ăn trong giờ uống trà. Em hát nghêu ngao, trèo cả lên bàn rồi đứng đó ra lệnh phải “đi pộ”. Đoạn đối thoại gần như là thế này:
“Nghe này, về Tiên cát ấy... Cẩn thận! Em bé làm đổ hết sữa bây giờ.”
Sữa liền được chuyển sang một chỗ an toàn.
“Phải rồi... về Tiên cát này... Không, Cừu, không được hư với chị Báo như thế.”
Rồi Cyril cố gắng nói. “Mấy thứ chúng ta có được, chẳng có gì trở nên... Suýt nữa thì em bé vớ được mù tạt!”
“Anh tự hỏi liệu chúng ta có nên ước... Ôi kìa! Em như thế là hư đấy, bé con ạ!” Đôi chân hồng hào của em bé quơ nhanh một cái, bể cá chép vàng đặt giữa bàn liền nghiêng sang một bên, đổ lênh láng cả nước và cá lên người em bé và các anh chị của bé.
Tất cả đều gần như phát bực lên chẳng kém gì con cá vàng, chỉ có em Cừu là vẫn bình thản như không. Khi đống nước trên sàn đã được lau sạch, còn con cá vàng thoi thóp đã được thả lại vào trong nước, em bé được Martha đưa đi thay quần áo, những đứa còn lại cũng phải đi thay gần hết đồ. Những chiếc váy yếm và áo khoác ướt sũng nước bể cá vàng được mang đi phơi khô, rồi Jane còn phải vá lại cái váy đã bị rách ngày hôm trước nữa chứ, nếu không thì cô bé sẽ phải mặc chiếc váy lót đẹp nhất của mình suốt cả ngày. Chiếc váy màu trắng, mềm mại và nhiều bèo nhún, được trang trí với những dải dây cực kì, cực kì xinh xắn, gần như xinh bằng một bộ
váy ngoài. Nhưng nó vẫn không phải váy ngoài, mà lời của Martha thì là luật. Chị ta sẽ không cho phép Jane mặc chiếc váy ngoài đẹp nhất, và cũng không chấp nhận ý kiến của Robert rằng Jane cứ mặc chiếc váy lót đẹp nhất của mình và coi như nó là váy ngoài.
“Làm thế là không đứng đắn.” Chị ta bảo. Một khi câu này đã được thốt ra thì dù ai nói gì cũng vô ích cả. Lớn lên rồi các bạn sẽ hiểu thôi.
Vậy là Jane đành phải vá lại cái váy. Nó bị rách ngày hôm qua, lúc cô bé chẳng may ngã lăn xuống ở đại lộ Rochester, đúng chỗ mà chiếc xe kéo chở nước vừa băng qua. Một hòn đá nhọn làm cô bé bị ngã trầy đầu gối, quần tất bị thủng một lỗ to tướng, còn cái váy thì rách toạc. Tất nhiên, những đứa còn lại đâu tệ đến mức lén bỏ đứa em của mình ở lại làm việc, thế nên chúng ngồi trên sân cỏ quanh chiếc đồng hồ mặt trời, để cho Jane dồn hết tâm trí vào việc khâu vá. Em Cừu vẫn đang được Martha đưa đi thay quần áo, nên bọn trẻ giờ đã có thời gian để trò chuyện.
Anthea và Robert rụt rè cố gắng che giấu suy nghĩ thầm kín nhất của mình rằng Psammead không đáng tin; nhưng Cyril nói: “Muốn nói gì thì cứ nói toẹt ra đi, anh ghét cái kiểu úp úp mở mở, cái gì cũng bảo là “không biết” lắm, cái kiểu thì thà thì thầm như thế.” Vậy là Robert đành phải lên tiếng: “Hẳn là úp mở - chị Anthea và em đâu có bô bô như hai người, thế nên bọn em mới thay đồ nhanh hơn và có thời gian để suy nghĩ, và nếu hai người hỏi em...” “Bọn em có hỏi anh đâu.” Jane đáp, cắn đứt sợi chỉ khâu mặc dù cô bé đã bị nghiêm cấm làm điều đó.
“Anh không quan tâm ai hỏi ai không.” Robert đáp. “Nhưng chị Anthea và anh nghĩ Sammyadd là một kẻ nham hiểm độc ác. Nếu
nó có thể ban điều ước cho chúng ta, thì chắc là nó cũng tự ban điều ước cho nó được, anh chắc chắn mỗi lần nó đều ước sao cho điều ước của chúng ta sẽ chẳng có ích lợi gì hết. Cứ mặc kệ con quái vật phiền phức ấy, chúng ta ra mỏ đá vôi chơi xây lô cốt đi.”
Cyril và Jane thì lạc quan hơn - tính cách của chúng vốn đã như vậy rồi.
“Anh không nghĩ Sammyadd cố tình làm thế đâu.” Cyril nói. “Hơn nữa, thật là ngu ngốc khi chúng ta ước có vô số tiền bạc. Năm mươi bảng tính bằng đồng hai shilling sẽ hợp lí hơn nhiều. Ước ao trở nên xinh đẹp như ban ngày cũng quả là ngốc xít. Anh không muốn cãi nhau đâu, cơ mà đúng thế đấy. Chúng ta cần phải cố gắng tìm ra một điều ước thực sự hữu ích rồi mới ước.”
Jane dừng tay và nói:
“Em cũng nghĩ thế, thật là quá ngu ngốc khi có một cơ hội như thế này mà lại phí phạm nó. Chỉ trừ trong mấy cuốn sách chứ em chưa bao giờ thấy có ai lại may mắn như vậy; chắc chắn phải có đến hàng đống thứ để chúng ta ước mà không hóa ra công cốc như hai điều chúng ta đã ước. Hãy suy nghĩ thật kĩ rồi ước cái gì thật hay để chúng ta có thể tận hưởng những ngày thực sự vui vẻ - khi còn có thể.”
Nói rồi Jane lại tiếp tục mê mải khâu vá, thời gian cứ thế trôi qua, mấy đứa kia lại nhao nhao tranh nhau nói một lúc. Ai có mặt ở đó cũng sẽ chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì, nhưng bọn trẻ này đã quá quen kiểu “ông nói gà bà nói vịt”, thích nói gì thì nói, vừa nói vừa dỏng tai lên để nghe ba đứa còn lại thao thao bất tuyệt.
Khi chiếc váy đã được vá xong, bọn trẻ bị Martha bắt đi rửa tay. Rõ thật vô lí, vì ngoài Jane ra có ai làm gì hay động vào cái gì đâu,
không làm gì thì làm sao tay bẩn được cơ chứ. Sau một hồi bàn luận chán chê, lũ trẻ quyết định năm mươi bảng tính bằng đồng hai shilling là một điều ước đúng đắn.
Và thế là lũ trẻ may mắn sắp sửa có được mọi thứ trên thế gian chỉ với mấy điều ước, nhanh chóng xuất phát đến mỏ đá để ước với Psammead. Martha chặn chúng ở cổng và bắt chúng mang em bé đi theo.
“Không muốn đưa em bé đi cùng cơ đấy! Tại sao chứ, ai cũng muốn chơi với em bé, đáng yêu như con vịt con thế này! Họ sẽ muốn cậu bé bằng cả trái tim ấy chứ; mà cô chủ cậu chủ đã hứa với mẹ sẽ đưa cậu chủ ra ngoài mỗi ngày đẹp trời mà.” Martha nói.
“Tôi biết là thế.” Robert rầu rĩ đáp. “Nhưng ước gì em Cừu không quá nhỏ tuổi và bé tí như thế. Lúc đó thì đưa em ấy ra ngoài vui hơn nhiều.”
“Cậu chủ sẽ lớn dần lên theo thời gian thôi.” Martha đáp. “Còn về sự bé tí của cậu chủ thì tôi nghĩ là dù cậu ấy có bé hay to, cậu cũng chẳng muốn bế cậu ấy theo đâu. Mà cậu ấy đã lẫm chẫm biết đi rồi còn gì, thật là tạ ơn đôi chân bụ bẫm của cậu chủ, thật là cưng mà! Em bé có thể tận hưởng bầu không khí mới mẻ nữa, phải không nào bé con?” Nói rồi Martha thơm em Cừu, đặt em vào vòng tay Anthea rồi trở lại với chiếc máy khâu để hoàn thành cái váy không tay mới. Chị ta rất có tài trong việc sử dụng cái máy.
Em Cừu bật cười thích thú và bập bẹ “Đi cùng chị Báo” rồi leo lên lưng Robert la hét đầy phấn khích, và cố gắng đút đá cho Jane ăn. Tất cả những hành động đó khiến cho em trở nên thật đáng yêu, và chẳng ai còn thấy khó chịu vì phải mang em theo cùng nữa.
Jane thậm chí còn cao hứng đến mức bảo nên dành cả một tuần để ước những điều có thể đảm bảo cho tương lai em bé, bằng cách ước những món quà như các bà tiên tốt bụng trao cho các hoàng tử sơ sinh trong những câu chuyện cổ tích. Nhưng Anthea nhắc nhở cô bé rằng điều ước của Tiên cát chỉ có hiệu lực đến khi mặt trời lặn mà thôi, thế nên chúng không thể nào giữ được chút lợi ích gì cho em bé trong những năm sau cả; thế là Jane quả quyết rằng tốt hơn là ước có năm mươi bảng tính bằng đồng hai shilling, lấy tiền rồi mua cho em Cừu một chú ngựa gỗ bập bênh giá ba bảng mười lăm xu, giống như những con ngựa trong dãy cửa hàng Quân đội và Thủy quân.
Cuối cùng, lũ trẻ quyết định là khi đã ước và có được tiền thì sẽ thuê ông Crispin chở chúng đến Rochester lần nữa, đưa cả Martha đi cùng, nếu buộc phải đưa chị ta theo. Rồi chúng sẽ lên một danh sách những thứ thực sự mong muốn trước khi bắt đầu.
Tràn đầy hi vọng và hừng hực quyết tâm, chúng đi vòng quanh con đường dành cho xe cút kít dẫn vào mỏ đá. Vừa đi vừa mải mê mơ mộng, lũ trẻ thấy mình như những đứa trẻ trong các câu chuyện cổ tích. Nhưng vừa bước qua mỏm đá của khu mỏ, đôi má hây đỏ của chúng tái mét. Cả bọn khựng lại, nhìn nhau với vẻ ngơ ngác và bối rối. Giờ chúng mới nhớ ra là hôm qua, khi xin Psammead ban cho sự giàu có và nó đang chuẩn bị lấp đầy khu quặng với những đồng vàng lấp lánh - hàng triệu đồng tiền vàng - thì nó bảo lũ trẻ chạy ra khỏi khu quặng vì lo sợ chúng sẽ bị chôn sống dưới đống kho báu đồ sộ đó. Vậy là bọn trẻ nháo nhào bỏ chạy. Thế nên chúng chẳng có thời gian xếp vòng đá để đánh dấu nơi Psammead đã biến
mất như lần trước. Chính vì thế mặt bọn trẻ đứa nào đứa nấy mới ngơ ngác như vậy.
“Không sao đâu.” Jane nói đầy hi vọng. “Chúng ta sẽ sớm tìm thấy ông ấy thôi.”
Nói thì dễ nhưng tìm mới khó. Bọn trẻ tìm mãi, mặc dù chúng đã tìm thấy mấy cái xẻng nhưng vẫn chẳng thấy Tiên cát đâu. Cuối cùng, chúng phải ngồi xuống nghỉ ngơi - không phải vì mệt mỏi và nhụt chí, mà là bởi em Cừu muốn được thả xuống. Không thể tập trung tìm thứ gì khi đem theo một em bé nghịch ngợm được. Em Cừu, như Martha đã nói, đang cảm nhận bầu không khí miền quê trong lành và tăng động như một con bọ chét cát châu Âu vậy. Những đứa lớn thì hăm hở tiếp tục nói về những điều ước mới khi (hoặc nếu) chúng tìm được Psammead lần nữa. Nhưng Cừu chỉ muốn chơi cho thỏa thích.
Em bốc một nắm cát ném vào mặt Anthea, rồi đột nhiên tự dúi đầu xuống cát và vung vẩy hai chân lên không. Tất nhiên là em bị dính cát vào mắt, cũng như Anthea, em thét ầm lên.
Robert chu đáo luôn mang theo một chiếc bình màu nâu đựng bia gừng bên mình, đề phòng khi bị khát. Cái bình vội vàng được bật nắp - nó là thứ chất lỏng duy nhất bọn trẻ có lúc này, và thực sự cần thiết để rửa cát khỏi mắt Cừu. Tất nhiên là gừng gây xót kinh khủng, em bé gào to hết cỡ rồi giãy giụa chân tay. Trong lúc khó chịu quờ quạng và quẫy đạp, bé con đạp văng cái bình và dòng bia gừng ngon tuyệt tan biến vào lớp cát mãi mãi.
Lúc ấy Robert, bình thường vốn luôn là một người anh hiền lành, tự dưng buột miệng:
“Ai cũng muốn chơi với em bé, hẳn rồi! Chỉ có họ là không thôi; Martha cũng đâu có thực sự muốn em bé, không thì chị ta cứ trông coi em bé luôn đi. Thằng nhóc đúng là một cục nợ, đúng là vậy đấy. Thật tệ quá. Em chỉ ước tất cả mọi người đều muốn chơi với em bé bằng tất cả tấm lòng; khi đó may ra chúng ta mới có tí bình yên.”
Lúc này em Cừu đã nín rồi, bởi Jane sực nhớ ra có một cách an toàn để lấy dị vật ra khỏi mắt đứa trẻ con, đó là dùng cái lưỡi mềm của mình. Điều này sẽ khá dễ nếu đủ dịu dàng với đứa trẻ.
Tất cả trở nên im lặng. Robert chẳng mấy tự hào vì mình đã lỡ lời, đám trẻ còn lại cũng không hùa theo cậu. Khi ai đó lỡ miệng nói gì đó, tất cả mọi người chỉ im lặng và chờ đợi người đó xin lỗi.
Sự im lặng bị phá vỡ bởi một tiếng thở dài - tiếng thở hắt ra. Lũ trẻ đồng loạt quay đầu lại như bị giật dây cùng một lúc. Rồi tất cả thấy Tiên cát đang ngồi ngay gần đó, với nụ cười rộng ngoác trên gương mặt lông lá.
“Chào buổi sáng.” Nó nói. “Ta thực hiện điều ước đó khá dễ dàng đấy! Giờ tất cả mọi người đều muốn chơi với thằng bé rồi.” “Chẳng thành vấn đề.” Robert sưng sỉa đáp, bởi cậu biết mình đã cư xử khá tồi tệ. “Ai muốn thằng bé không quan trọng - ở đây thì chẳng ai muốn nó hết.”
“Vong ơn bội nghĩa...” Psammead nói. “Là một thói xấu đáng sợ.” “Chúng cháu không có ý vô ơn đâu ạ.” Jane vội vàng đáp. “Nhưng chúng cháu không thực sự muốn điều ước đó. Robert chỉ nói vậy thôi. Ông không thể thu hồi nó và cho chúng cháu điều ước khác sao?”
“Không - ta không thể.” Tiên cát đáp cụt lủn. “Cắt xén và thay đổi - cái đó không phải việc của ta. Các cô các cậu nên cẩn thận với
những gì mình ước chứ. Từng có một cậu bé ước có một con Plesiosaurus thay vì Ichthyosaurus, bởi nó quá lười để nhớ những cái tên đơn giản hàng ngày, cha của nó đã tức điên lên với nó, bắt nó đi ngủ sớm trước giờ uống trà và không cho nó ra ngoài đi chơi thuyền cùng với những đứa trẻ khác mà ngày hôm sau là diễn ra buổi dã ngoại của trường rồi. Nó tới và quăng mình xuống gần ta vào buổi sáng hôm dã ngoại ấy, rồi giãy giụa chân cẳng rồi ước gì được chết quách đi. Tất nhiên là sau đó nó đã được toại nguyện.”
“Thật kinh khủng!” Bọn trẻ đồng thanh nói.
“Tất nhiên là chỉ tới khi mặt trời lặn thôi.” Psammead đáp. “Dù vậy thì vẫn quá đủ với cha mẹ thằng bé. Ta đảm bảo với mấy đứa - nó đã bị phạt khi tỉnh dậy. Nó không bị biến thành đá - ta quên mất vì sao rồi - nhưng hẳn phải có lí do nào đó. Họ không biết chết tức là chỉ ngủ mà thôi, rồi người ta sẽ tỉnh dậy không ở chỗ này thì ở chỗ kia, hoặc có thể thức dậy ở nơi nào đó tốt hơn. Nó đã bị phạt khi khiến cho cha mẹ nó phát hoảng lên như thế. Nó bị cấm nếm thịt Megatherium trong một tháng. Nó chỉ được ăn hàu và dừa cạn, cùng mấy thứ tầm thường như thế.”
Lũ trẻ đều mất tinh thần bởi câu chuyện kinh khủng này. Chúng hoảng sợ nhìn Psammead. Đột nhiên em Cừu nhận ra thứ gì đó có lông mềm màu nâu ở gần mình.
“Mè1, mè, mè con.” Nó nói và chộp lấy.
1. Ý em nói là “mèo”.
“Không phải mèo con đâu em.” Anthea chỉ kịp nói khi Tiên cát giật mình nhảy lùi về phía sau.
“Ôi, sợi ria bên trái của ta!” Nó nói. “Đừng để thằng bé chạm vào ta. Nó ướt lắm.”
Lông trên người nó dựng đứng cả lên vì sợ - bởi cái áo ngoài của Cừu bị ướt sũng bia gừng.
Psammead bắt đầu đào cát bằng đôi tay và chân của mình, rồi biến mất trong tích tắc.
Bọn trẻ xếp đá thành một vòng tròn để đánh dấu.
“Chúng ta nên về nhà thôi.” Robert nói. “Em nên nói xin lỗi, nhưng dù sao thì điều ước nếu vô dụng thì cũng vô hại, mà giờ chúng ta đã biết cần phải tìm Tiên cát ở đâu vào ngày mai rồi.”
Những đứa còn lại tỏ ra cao thượng, không ai trách mắng Robert cả. Cyril bế em Cừu giờ đã bình tĩnh trở lại, rồi chúng ra về trên con đường an toàn dành cho xe cút kít.
Con đường gần như dẫn thẳng ra đường chính.
Vừa vào đường chính, cả bọn phải dừng lại để chuyển em Cừu từ trên lưng Cyril sang lưng Robert. Bỗng có một chiếc xe ngựa không mui sang trọng tiến lại gần, với người đánh xe và một người hầu ngồi đằng trước, một quý bà ngồi phía sau. Bà ta có vẻ ngoài thật lộng lẫy trong chiếc váy viền những dải ren trắng cùng nơ đỏ và chiếc ô che nắng xen kẽ đỏ trắng. Bà ta bế trong lòng một chú chó xù trắng đeo nơ đỏ trên cổ. Bà nhìn xuống lũ trẻ, đặc biệt chú ý tới em bé và mỉm cười với em. Bọn trẻ vốn đã quen với điều này, bởi em Cừu, như mọi người hầu đã từng nói, là “một đứa trẻ đầy thu hút”. Thế nên chúng lịch sự vẫy tay chào quý bà và nghĩ chiếc xe cứ thế lăn bánh đi tiếp. Nhưng không, quý bà ra hiệu dừng xe, rồi bà vẫy Cyril tiến lại gần cỗ xe và nói:
“Đứa bé đúng là tuyệt hảo làm sao! Ôi, ta sẽ rất vui lòng được nhận nuôi nó! Các cháu nghĩ mẹ thằng bé liệu có thấy phiền không?”
“Mẹ sẽ rất phiền là khác.” Anthea đáp ngắn gọn.
“Ồ, nhưng ta sẽ nuôi nấng nó trong đủ đầy, các cháu biết mà. Ta là phu nhân Chittenden. Các cháu hẳn từng thấy hình của ta trên các tờ báo ảnh rồi. Mọi người gọi ta là người đẹp, các cháu biết đấy, nhưng tất nhiên đó chỉ là những lời sáo rỗng ấy mà. Dù sao thì...”
Bà ta mở cửa cỗ xe và nhảy ra ngoài. Chân bà ta đi đôi giày cao gót màu đỏ tuyệt đẹp với những cái khóa bạc. “Cho ta bế đứa bé một phút thôi.” Bà nói. Rồi bà ta bế lấy đứa bé một cách kì cục, như thể bà ta chưa bế em bé bao giờ vậy.
Rồi đột nhiên bà ta nhảy lên xe ngựa với em Cừu vẫn trên tay, đóng sầm cửa và hô: “Chạy xe!”
Em Cừu khóc ré lên, con chó trắng nhỏ sủa nhặng xị, còn người đánh xe thì ngần ngừ.
“Chạy đi, ta ra lệnh cho ông!” Quý bà kêu lên; người đánh xe đành miễn cưỡng làm theo vì không muốn bị mất việc. Ông ta chỉ có công việc này để nuôi sống cả gia đình.
Bốn đứa trẻ quay ra nhìn nhau, không ai bảo ai mà cùng co giò đuổi theo chiếc xe. Con đường mịt mù tung đầy bụi dưới vó ngựa và những đôi chân gấp gáp cố để đuổi kịp chiếc xe.
Em Cừu khóc càng lúc càng to, nhưng rồi tiếng gào khóc dần chuyển thành tiếng nức thở thút thít, thỉnh thoảng nấc cụt rồi im hẳn. Bọn trẻ biết là em Cừu khóc mệt quá nên đã thiếp đi mất rồi.
Cỗ xe ngựa vẫn cứ đi tiếp, những đôi chân nhuốm đầy bụi cát đã bắt đầu chậm lại vì mỏi mệt thì cỗ xe dừng lại trước một căn nhà nghỉ trên khu đất lớn. Mấy đứa trẻ vội ngồi sụp xuống nấp sau cỗ xe khi quý bà bước ra. Bà nhìn em bé đang say ngủ trên cỗ xe và ngần ngừ.
“Ôi bé cưng ơi, ta sẽ không làm phiền thằng bé.” Bà ta nói và đi vào căn nhà để phàn nàn với một người phụ nữ về việc một ổ trứng gà có vẻ bị hỏng rồi.
Người đánh xe cùng người giúp việc nhoài người ra để nhìn em Cừu đang say ngủ.
“Đứa bé xinh quá - ước gì đứa bé là của tôi.” Người đánh xe nói. “Thằng bé sẽ không thích anh lắm đâu.” Người giúp việc cáu kỉnh đáp. “Thằng bé quá xinh đẹp để thích nổi anh đấy.” Người đánh xe giả vờ như không nghe thấy. Ông ta nói tiếp: “Tôi thực lòng ngạc nhiên với bà ấy thật đấy! Bà ấy vốn ghét trẻ con lắm mà. Còn chẳng thèm sinh con nữa kia. Tính khí thì khó lường, nào có chịu kết hôn với ai đâu.”
Lũ trẻ vẫn đang ngồi lom khom trên lớp cát trắng phía sau cỗ xe, chúng bắt đầu trao đổi những ánh nhìn thấp thỏm.
“Tôi bảo này.” Người đánh xe nói với vẻ chắc chắn. “Tôi sẽ giấu anh bạn bé nhỏ này sau bụi cây và bảo với bà ấy rằng những người em trai của bà ấy đã bắt thằng bé đi mất rồi! Rồi tôi sẽ quay trở lại đó bế nó về sau.”
“Ồ, không đâu anh bạn.” Người giúp việc đáp. “Tôi chưa từng bị ai thu hút như đứa bé này cả. Nếu có ai nên có được thằng bé, thì người đó phải là tôi!”
“Không đời nào!” Người đánh xe đáp trả. “Anh đâu muốn có con, kể cả nếu có đi chăng nữa thì đứa nào với anh mà chẳng giống nhau hết. Còn tôi lại là người đã kết hôn và cũng có chút hiểu biết rồi. Tôi có thể nhận ra một đứa bé tuyệt hảo ngay lần đầu thấy nó. Tôi sẽ mang nó về ngay khi có thể.”
“Tôi thì lại cho rằng...” Người giúp việc khinh khỉnh đáp. “Anh có quá đủ con rồi. Rồi thì chuyện gì sẽ xảy ra với Alfred, Albert, Louise, Victor Stanley, Helena Beatrice và còn...”
Người đánh xe thọi một cú vào cằm người giúp việc và bị đáp trả ngay một cú vào hông. Hai người bắt đầu lao vào nhau ẩu đả, vật lộn, ném đá tứ tung, con chó nhỏ nhảy lên bục trước của cỗ xe và sủa nhặng xị. Cyril lom khom trên nền cát, chậm rãi tiếp cận bên thành xe ở chỗ cách cuộc chiến xa nhất. Cậu tháo chốt cửa trong lúc hai người kia vẫn đang mải đánh nhau và không chú ý, bế em Cừu lên và lom khom ẵm đứa trẻ đang ngủ đi dọc con đường vào một khu rừng. Mấy đứa trẻ khác bám theo sau cậu, và rồi giữa hàng cây phỉ dày đặc, những cây sồi non cùng những quả hạt dẻ ngọt bùi, bọn trẻ dừng lại nấp sau hàng cây dương xỉ diều hâu nặng mùi cho đến khi nghe thấy giọng nói đầy giận dữ của quý bà “đỏ pha trắng” khiến cả hai người đàn ông im bặt, ngừng cãi cọ rồi rời nhau ra để đi lùng sục. Sau một hồi tìm kiếm mãi không thấy, cuối cùng cỗ xe ngựa cũng chịu rời đi.
“Ơn trời!” Cyril nói, cậu thở phào nhẹ nhõm khi tiếng bánh xe đã hoàn toàn biến mất. “Tất cả mọi người đều muốn có em bé - không thể nhầm lẫn được! Sammyadd đã lại cho chúng ta “toại nguyện”! Đúng là gã độc ác nham hiểm! Chúng ta phải mang được thằng bé về nhà an toàn bằng mọi giá.”
Bọn trẻ ngó ra ngoài, thấy hai con đường, bèn thu hết can đảm chọn con đường ngắn hơn. Anthea được giao nhiệm vụ ôm em Cừu vẫn đang ngủ say.
Hiểm nguy bám theo từng bước chân lũ trẻ. Có một thằng bé vác củi đi qua bỗng dừng lại, quăng vội bó củi đi rồi đòi được nhìn,
rồi lại xin bế em bé; nhưng Anthea không bị mắc lừa lần thứ hai. Bọn trẻ đi tiếp, nhưng thằng bé kia vẫn cứ nhằng nhẵng bám theo, Cyril và Robert không làm cách nào đuổi cậu ta đi được cho đến khi chúng phải dọa đấm cậu bé đó một trận. Sau đó, có một cô bé mặc chiếc váy yếm kẻ ca rô xanh trắng cứ bám riết lấy chúng phải đến hơn một cây số, khóc lóc đòi “đứa bé quý hóa”, lũ trẻ phải dọa dẫm sẽ trói nó lên cây, và theo như lời Cyril là “để bọn gấu đến ăn thịt ngay khi trời tối”, khiến nó òa khóc.
Còn với các anh chị của đứa trẻ đang được tất cả mọi người săn đón, việc trốn sau bụi cây bất cứ khi nào thấy bóng người tiến lại gần rõ ràng là một việc làm khôn ngoan, thế nên chúng mới có thể giữ em Cừu khỏi thứ tình cảm phiền phức của một người giao sữa, một người đập đá, và một người đánh xe bò chở đầy thùng dầu hỏa. Chúng gần về tới nhà thì điều tồi tệ nhất xảy đến. Ngay khi quành qua ngã rẽ trên đường, chúng bất ngờ bắt gặp hai chiếc xe lớn, một căn lều cùng một toán người gipsy cắm trại bên lề đường. Bao quanh hai cái xe là những chiếc ghế nan gỗ và giường nôi, giá hoa đứng và cả chổi lông nữa. Một nhóm trẻ con ăn mặc rách rưới đang cần mẫn nướng bánh bên đường, hai người đàn ông hút thuốc nằm dài trên cỏ, và ba người phụ nữ đang giặt đồ trong can nước màu đỏ cũ kĩ đã bị vỡ mất nửa trên.
Chẳng mấy chốc, tất cả đám người gipsy, từ đàn ông, phụ nữ đến trẻ nhỏ, đều vây quanh Anthea cùng em bé.
“Hãy để ta ôm thằng bé, hỡi quý cô trẻ tuổi.” Một người phụ nữ nói, bà ta có nước da màu gụ cùng mái tóc màu xám bụi. “Ta sẽ không làm tổn hại một sợi tóc nào của thằng bé, quả đúng là một tuyệt tác nhỏ đáng yêu!”
“Cháu e là không thể ạ.” Anthea đáp.
“Hãy để ta ôm thằng bé.” Một người phụ nữ khác lên tiếng, da mặt bà ta cũng mang màu gụ, mái tóc bà ta đen nhánh với những lọn xoăn tít. “Ta có những mười chín đứa con cơ, khoảng tầm đấy.”
“Không ạ.” Anthea can đảm đáp, nhưng tim cô bé đang đập mạnh như muốn nghẹt thở.
Rồi một người đàn ông sấn sổ lao lên. “Không thể nào sai được!” Ông ta kêu lên. “Đứa con mất tích đã lâu của ta! Đứa trẻ có một cái bớt hình quả dâu tây bên tai trái phải không? Không có sao? Thế thì đúng là con ta rồi, con ta không có cái bớt nào cả. Nó bị người ta bắt mất từ khi mới lọt lòng. Trả thằng bé đây, chúng ta sẽ không truy cứu các cô cậu tội bắt cóc.”
Rồi ông ta giằng lấy em Cừu từ tay Anthea, cô bé đỏ bừng mặt và òa khóc trong bức xúc.
Mấy đứa trẻ còn lại đứng đó sững sờ; đây có lẽ là điều tồi tệ nhất từng xảy đến với chúng. Kể cả bị đưa lên đồn cảnh sát ở Rochester cũng chưa là gì so với việc này. Cyril mặt trắng bệch, đôi tay cậu run lên, nhưng rồi cậu ra hiệu cho mấy đứa em giữ im lặng. Cậu cố gắng suy nghĩ một lúc rồi lên tiếng:
“Chúng cháu không hề muốn giữ nó nếu nó thật sự là con của chú. Nhưng chú thấy đấy, thằng bé quen hơi chúng cháu rồi. Chú sẽ có nó nếu chú muốn nó.”
“Không, không được!” Anthea kêu lên, và Cyril lườm cô bé. “Tất nhiên là chúng ta muốn có thằng bé rồi.” Những người phụ nữ đáp khi cố gắng giành lại em bé từ tay người đàn ông kia. Em Cừu bắt đầu rú lên.
“Ôi, thằng bé bị đau rồi!” Anthea ré lên; còn Cyril thấp giọng nghiêm khắc nạt cô bé “Yên nào!”
“Em phải tin anh.” Cậu thì thầm. “Mọi người nghe cháu này.” Cậu nói. “Không quen biết thì em ấy cáu kỉnh và quấy lắm. Hãy để chúng cháu ở đây đến khi em ấy quen với mọi người hơn, rồi khi đến giờ đi ngủ, cháu xin lấy danh dự ra thề rằng chúng cháu sẽ rời đi và để mọi người giữ em ấy nếu mọi người muốn. Rồi khi chúng cháu đã đi thì các cô chú tự quyết ai mang em ấy về nuôi nhé, bởi ai cũng muốn có em ấy hết.”
“Nghe hợp lí đấy.” Người đàn ông đang bế em Cừu vừa nói vừa cố gắng nới lỏng chiếc khăn quàng cổ màu đỏ mà em đã túm lấy khiến nó thít chặt quanh cái cổ màu gụ của ông ta đến nỗi ông ta khó mà thở được. Những người gipsy còn lại thì thầm với nhau, Cyril cũng nhân cơ hội này thì thầm với mấy đứa em: “Chúng ta sẽ thoát khi mặt trời lặn!”
Mấy đứa em đều hết sức kinh ngạc và thán phục sự sáng dạ của anh trai khi nhớ tới chi tiết này.
“Ồ, hãy để chúng cháu bế em bé cho ạ!” Jane nói. “Các cô chú biết mà, chúng cháu sẽ chỉ ngồi đây và chăm em bé hộ các cô chú cho đến khi nào em ấy quen với các cô chú hơn thôi.”
“Thế còn bữa tối thì sao?” Robert đột ngột hỏi. Lũ trẻ quay sang nhìn cậu bé với vẻ không vừa lòng.
“Hẳn là vẫn còn nghĩ được đến bữa tối thịnh soạn khi mà em tr... ý chị là em bé...” Jane vội hạ giọng. Robert lén nháy mắt với cô bé và nói tiếp:
“Các cô chú sẽ không phiền nếu cháu chạy về nhà để lấy bữa tối chứ ạ?” Cậu bé nói với những người gipsy. “Cháu có thể mang giỏ
đựng đồ ăn tối đến đây ạ.”
Mấy đứa trẻ chợt cảm thấy mình thật cao thượng khi không màng gì đến ăn uống và tỏ vẻ khinh bỉ cậu bé. Chúng không nhận ra ý định sâu xa của cậu. Nhưng những người gipsy thì nhận ra ngay trong chớp mắt. “À phải rồi!” Họ đáp. “Để cậu mang cảnh sát tới đây bằng cách dối trá rằng thằng bé là của cô cậu chứ không phải của bọn ta chứ gì! Tưởng bọn ta ngu ngốc đấy hả?” Họ đáp.
“Nếu thấy đói thì các cháu có thể ăn cùng chúng ta.” Một người phụ nữ với mái tóc sáng màu tử tế nói. “Đây, Levi, đứa trẻ phước lành kia gào khóc to quá. Trả nó lại cho cô bé này đi, xem mấy đứa có làm cho thằng bé quen với chúng ta hơn được không.”
Vậy là em Cừu được trả lại, nhưng những người gipsy cứ túm tụm vây quanh đến nỗi em vẫn không thể nào nín được. Người đàn ông quàng chiếc khăn màu đỏ nói:
“Này, Pharaoh, nhóm lửa đi; các cô gái đi trông nồi đi. Để cho đứa bé chút không gian.” Vậy là những người gipsy đành miễn cưỡng quay trở lại với công việc, còn lũ trẻ cùng em Cừu ngồi lại trên thảm cỏ.
“Em bé sẽ bình an vô sự sau khi mặt trời lặn.” Jane thì thào. “Nhưng, ôi, thật tệ quá! Nếu khi tỉnh táo trở lại họ nổi điên lên thì sao! Họ có thể sẽ đánh cho chúng ta một trận hoặc trói chúng ta lên cây, hoặc tra tấn kiểu gì đó.”
“Không, họ không làm thế đâu.” Anthea vừa đáp vừa quay sang dỗ em. “Ôi, em Cừu của chị, đừng khóc nữa mà, tất cả đều ổn rồi, chị Báo ở đây với em rồi, vịt con ạ... Họ không phải người xấu, nếu không họ đã chẳng chia cho chúng ta đồ ăn tối.”
“Bữa tối ư?” Robert đáp. “Em sẽ không đụng đến những thứ đồ ăn khủng khiếp của họ đâu. Em sẽ nghẹn mất!”
Những đứa trẻ còn lại cũng đồng tình. Nhưng khi bữa tối đã chuẩn bị sẵn sàng thì cơn đói cồn cào khiến chúng sẵn lòng ăn những gì được bày ra. Bữa tối có thịt thỏ luộc, hành tây và thịt loài chim nào đó trông giống như thịt gà nhưng chân có nhiều gân hơn và mùi nặng hơn. Em Cừu ăn món bánh mì ngâm nước nóng và có đường nâu rải lên trên. Em tỏ ra khoái khẩu lắm, nên ngồi yên trong lòng Anthea để cho hai người phụ nữ gipsy bón. Cả buổi chiều dài dằng dặc nóng nực hôm ấy, Robert, Cyril, Anthea và Jane cứ phải giữ cho em Cừu thật vui vẻ và phấn khởi, trong khi những người gipsy thì đã tỏ vẻ sốt ruột lắm rồi. Cho đến khi những cái bóng dài ra và tối lại dọc bãi cỏ, thằng bé đã thực sự “làm quen” với người phụ nữ có mái tóc sáng màu, thậm chí còn vừa lòng vẫy gửi một cái hôn tay tới lũ trẻ, đứng lên và cúi chào với bàn tay đặt trên ngực - “y chang một quý ông” - với hai người đàn ông. Cả nhóm người gipsy đều rất vui mừng vì thằng bé, anh chị nó cũng thích thú thể hiện thành quả của thằng bé cho những vị khán giả đang vô cùng hứng thú và nhiệt tình. Nhưng chúng mong đợi mặt trời lặn nhiều hơn.
“Chúng ta đang dần quen với việc chờ đợi mặt trời lặn đấy.” Cyril thì thào. “Anh ước gì chúng ta có thể ước những điều thực sự có lí, thực sự hữu ích, để chúng ta sẽ không phải tiếc nuối mỗi lần mặt trời lặn.”
Những cái bóng cứ càng lúc càng dài ra, rồi cuối cùng chẳng còn cái bóng nào nữa, chỉ còn một bóng sáng lờ mờ trùm lên cảnh vật, bởi dù mặt trời đã khuất tầm mắt - nấp sau quả đồi - thì vẫn chưa lặn hẳn. Nhưng những người gipsy đang dần mất kiên nhẫn.
“Giờ thì mấy nhóc.” Người đàn ông có chiếc khăn màu đỏ nói. “Đến lúc các cô cậu trở về nhà rồi đấy! Thằng bé rất ổn và thân thiện với chúng ta rồi - cứ giao nó lại đây và giữ lời hứa đi nào.”
Phụ nữ cùng trẻ em vây quanh em Cừu với bàn tay đầy thân thiện vươn ra, những khuôn mặt rạng rỡ, những nụ cười trìu mến, nhưng tất cả đều không thể hấp dẫn em Cừu trung thành. Em quắp lấy Jane bằng cả hai tay hai chân và bật ra tiếng gầm gừ buồn nhất trong cả ngày.
“Thế là không ngoan đâu.” Người phụ nữ nói. “Đưa thằng bé lại đây, thưa cô. Chúng tôi sẽ làm nó nín khóc sớm thôi.” Lúc này mặt trời vẫn chưa chịu lặn.
“Kể cho bà ấy nghe em làm cách nào đưa nó đi ngủ đi.” Cyril thì thào. “Nói bất cứ thứ gì để câu giờ - và chuẩn bị tinh thần dừng lại khi mặt trời già ngu ngốc cuối cùng cũng chịu lặn.”
“Được, cháu sẽ giao em ấy lại trong vòng một phút.” Anthea mở lời và nói rất nhanh. “Nhưng em ấy cần được tắm nước ấm vào mỗi tối và tắm nước mát vào mỗi sáng, thằng bé cần đi tắm cùng một con thỏ sứ, và Samuel bé nhỏ sẽ cầu nguyện trong bồn trên một cái đệm đỏ trong giờ tắm nước mát; nếu các cô chú để xà phòng dính vào mắt em Cừu...”
“Nắt1 Cừu.” Thằng bé lặp lại - nó đã thôi gào thét để lắng nghe. 1. Cừu nói ngọng, cậu bé muốn nói là “mắt”.
Người phụ nữ bật cười. “Cứ làm như ta chưa từng tắm cho trẻ con bao giờ vậy!” Bà ta đáp. “Đến đây - trao thằng bé cho chúng ta nào. Đến với Melia nào, bé con.”
“Đi đi, ấu í2!” Em Cừu ngay lập tức trả lời.
2. Cừu muốn nói là “xấu xí”.
“Vâng, nhưng...” Anthea nói tiếp. “Về những bữa ăn của thằng bé; cô thực sự phải để cháu nói cái này, thằng bé ăn một quả táo cùng một quả chuối vào mỗi sáng, cùng với bánh mì kèm sữa cho bữa sáng, thỉnh thoảng là một quả trứng ăn kèm với tách trà, và...”
“Ta đã nuôi lớn mười đứa trẻ.” Người phụ nữ với những lọn tóc xoăn đen nói. “Những người khác ở đây cũng đã từng nuôi nấng trẻ con rồi. Đến đây nào, cô bé, mang thằng bé lại đây - ta không chờ thêm được nữa đâu. Ta phải ôm nó.”
“Chúng ta còn chưa quyết ai sẽ có được thằng bé mà, Esther.” Một người đàn ông nói.
“Người đó sẽ không phải cô đâu, Esther ạ, cô đã có bảy đứa trẻ để chăm rồi.”
“Tôi không chắc về điều đó đâu nhé.” Chồng Esther đáp. “Tôi không được quyền lên tiếng ở đây hay sao?” Chồng Melia đáp.
Zillah, một cô gái, nói: “Tôi thì sao? Tôi còn độc thân - chẳng có ai để chăm sóc - tôi cần phải có thằng bé.”
“Cô im miệng đi!”
“Anh im miệng đi!”
“Đừng có tỏ vẻ xấc xược với tôi!”
Tất cả mọi người đều trở nên cực kì giận dữ. Những gương mặt gipsy sạm màu trông cau có và khao khát. Đột ngột, một sự thay đổi càn quét qua họ, như thể một miếng bọt biển vô hình đã xóa sạch sự bực tức cùng khao khát của họ, chỉ để lại một khoảng trống rỗng.
Bọn trẻ nhận ra mặt trời đã lặn hẳn rồi. Nhưng chúng quá sợ hãi để cử động. Còn những người gipsy đang cảm thấy thật bối rối, bởi
miếng bọt biển vô hình đã xóa sạch mọi cảm xúc trong lòng họ trong vài giờ qua, khiến họ chẳng thể nói nên lời.
Bọn trẻ còn không dám thở mạnh. Đột nhiên, Anthea cả gan bế em Cừu ra trước người đàn ông với chiếc khăn màu đỏ. “Em bé đây ạ!” Anthea nói.
Người đàn ông lùi lại. “Ta không muốn cản đường cháu nữa, cô bé ạ.” Giọng ông khàn khàn.
“Ai thích thì có thể chăm thằng bé cùng với tôi.” Một người đàn ông khác lên tiếng.
“Dù sao thì tôi cũng đã có đủ trẻ con rồi.” Esther đáp. “Mà đây đúng là một đứa bé xinh xắn đấy nhỉ.” Amelia nói. Bà là người duy nhất bây giờ vẫn còn trìu mến nhìn em Cừu đang thút thít.
Zillah nói. “Nếu không kịp suy nghĩ kĩ thì ta đã phải hối hận rồi. Ta không muốn có thằng bé đâu.”
“Thế chúng cháu đưa nó đi nhé?” Anthea hỏi.
“Chà, cứ làm vậy đi.” Pharaoh chân thành đáp. “Chúng ta sẽ không đòi hỏi gì nữa đâu!”
Rồi những người gipsy vội vã quay trở lại lều, bận rộn chuẩn bị cho buổi tối. Tất cả trừ Amelia. Bà đi cùng lũ trẻ tới tận chỗ quành của con đường. Bà nói:
“Cô bé, cho ta hôn thằng bé một cái - ta không hiểu thứ gì đã làm cho chúng ta cư xử ngu ngốc như thế. Người gipsy không bắt cóc trẻ con đâu, mặc dù người ta có thể dọa cháu như vậy khi cháu cư xử tồi tệ. Chúng ta đã có đủ những đứa trẻ để chăm sóc rồi, hầu như ai cũng thế. Nhưng ta không còn đứa con nào nữa.”
Bà cúi người về phía Cừu; thằng bé nhìn bà và bất ngờ đặt một bàn tay lấm lem vuốt ve mặt bà.
“Thương, thương!” Cừu nói. Rồi nó để người phụ nữ hôn mình, hơn thế, em đáp lại một cái hôn lên bên má màu nâu của bà - đúng là một nụ hôn rất đẹp, như mọi nụ hôn của thằng bé, chứ không bị ướt nước dãi như vài đứa trẻ khác. Người phụ nữ gipsy di chuyển đầu ngón tay mình trên trán em, như thể bà đang viết gì lên đó, rồi làm tương tự với ngực, bàn tay và bàn chân thằng bé. Bà nói:
“Cầu cho bé con trở nên dũng cảm, kiên cường trong suy nghĩ, giàu yêu thương trong tâm hồn, sức mạnh để làm việc trên đôi tay, sức khỏe trên đôi chân để đi đây đi đó và luôn luôn được an toàn để trở về nhà của mình.” Rồi bà nói gì đó bằng thứ tiếng lạ lùng mà chẳng ai có thể hiểu được, và nói thêm:
“Chà, ta nên nói “tạm biệt” thôi - ta rất mừng được gặp các cháu.” Rồi bà quay người và trở về nhà - căn lều bên lề đường xanh rì cỏ.
Lũ trẻ nhìn theo bà cho đến khi bà đi khuất. Robert nói: “Bà ấy thật ngốc nghếch! Kể cả mặt trời lặn cũng chẳng khiến bà ấy trở lại bình thường. Bà ấy nói cái gì thế!”
“Chà.” Cyril đáp. “Nếu em hỏi anh, anh nghĩ bà ấy khá tử tế...” “Tử tế sao?” Anthea đáp. “Bà ấy quá ân cần ấy chứ. Em nghĩ bà ấy quả là một người đáng trọng.”
“Bà ấy quá tốt bụng với mọi thứ.” Jane nói.
Rồi bọn trẻ đi về nhà - lúc này đã quá giờ uống trà và cực kì muộn để dùng bữa tối. Martha cằn nhằn như lẽ đương nhiên. Nhưng Cừu ít ra đã được an toàn.
“Em bảo này - hóa ra chúng ta đều muốn có em Cừu nhiều như bất kì ai khác.” Robert nói một lúc sau.
“Tất nhiên là vậy rồi.”
“Nhưng mọi người có thấy gì khác biệt khi mặt trời đã lặn không?”
“Không.” Tất cả đồng thanh.
“Thế thì tình cảm này của chúng ta đã kéo dài quá khoảnh khắc mặt trời lặn rồi.”
“Không đâu.” Cyril giải thích. “Điều ước không có tác dụng lên chúng ta. Chúng ta đã luôn yêu thương thằng bé bằng cả tấm lòng ngay khi là chính chúng ta rồi, chỉ là sáng nay chúng ta chẳng khác gì lũ lợn. Đặc biệt là em đấy, Robert ạ.”
Robert nghe lời trách với sự bình tĩnh lạ thường.
“Sáng nay em thực sự đã nghĩ mình không muốn có thằng bé.” Cậu nói. “Chắc em cư xử chẳng khác gì lợn thật. Nhưng mọi thứ trở nên hoàn toàn khác khi chúng ta suýt thì mất thằng bé.”
Chương 4
Đôi cánh
H
ôm sau là một ngày mưa gió sụt sùi, quá ướt át để chơi ngoài trời, càng không thể nghĩ đến việc làm phiền một Tiên cát vô cùng nhạy cảm với nước đến mức sau cả ngàn năm rồi, nó vẫn nhảy dựng lên khi cọng ria trái của nó gặp hơi gió ẩm. Hôm đó là một ngày buồn tẻ dài lê thê, phải đến tận chiều bọn trẻ mới bỗng dưng quyết định sẽ viết thư gửi cho mẹ chúng. Robert lỡ tay làm đổ lọ mực - một cái lọ to và đầy - lênh láng cả cái phần bàn mà Anthea vẫn luôn giả vờ là chiếc ngăn kéo bí mật - thực ra nó chỉ cất giữ kẹo cao su với những tấm bìa được sơn vẽ bằng mực Ấn. Đây cũng không hẳn là lỗi của Robert; chỉ không may là cậu bé vô tình nhấc lọ mực mà Anthea đã mở nắp sẵn đúng lúc em Cừu chui xuống dưới bàn và làm vỡ con chim đồ chơi. Em Cừu đã bật sợi dây điều khiển sắc lẻm nằm bên trong con chim vào chân Robert; thế nên cái ngăn kéo bí mật giờ lênh láng mực mặc dù chẳng ai cố ý. Thế là một dòng mực cũng tràn luôn vào lá thư đang viết dở của Anthea. Bây giờ lá thư đó trông như thế này:
Mẹ kính yêu, con hi vọng mẹ vẫn khỏe và bà đang bình phục. Ngày hôm trước chúng con...
Rồi đến một đống mực nhòe nhoẹt, cho đến cuối bức thư là dòng chữ được ghi bằng bút chì:
Không phải con làm đổ lọ mực đâu, nhưng dọn dẹp nó mất công lắm, nên con sẽ ngừng viết tại đây bởi đến giờ gửi thư rồi. Con gái thân thương của mẹ, Anthea.
Robert thậm chí còn chưa kịp viết thư. Cậu bé đang vẽ một con thuyền trên tờ giấy thấm mực trong khi vắt óc suy nghĩ xem nên viết gì. Vì lọ mực bị đổ nên cậu lại còn phải giúp Anthea lau sạch cái bàn, cậu còn hứa làm cho chị mình một cái ngăn kéo bí mật khác tốt hơn. Chị cậu bảo: “Chà, thế thì em làm luôn đi.” Vậy nên đến giờ gửi thư rồi mà cậu vẫn chưa viết xong. Cái ngăn kéo bí mật cũng chưa làm xong.
Cyril đã nhanh chóng viết xong một bức rất dài, rồi đi làm một cái bẫy sên mà cậu đã đọc được trong cuốn Người làm vườn tại gia, nhưng đến lúc cần phải gửi thì lá thư không cánh mà bay, tìm đằng trời cũng chẳng ra. Có lẽ lũ sên đã chén mất nó rồi.
Jane là người duy nhất gửi được thư. Cô bé vốn định kể cho mẹ nghe mọi chuyện về Psammead - thực ra, lũ trẻ đều định làm thế - nhưng cô bé nghĩ mãi vẫn chưa ra cách đánh vần tên nó nên chẳng kịp để kể câu chuyện cho ra hồn, mà thế thì kể lể làm gì nữa, nên cô bé đành viết tạm lá thư như sau:
Mẹ thân yêu của con ơi,
Chúng con vẫn khỏe lắm, đúng như mẹ đã dặn dò chúng con. Em Cừu có bị cảm nhẹ, nhưng Martha bảo không sao cả đâu, chỉ tại sáng hôm qua em ấy làm đổ con cá vàng lên người mình thôi. Hôm trước chúng con đi ra mỏ cát chơi, vòng theo con đường an toàn dành cho xe cút kít, và chúng con đã tìm ra một...
Suốt nửa tiếng, Jane đinh ninh là chẳng đứa nào biết đánh vần từ Psammead hết. Chúng tìm mãi cũng chẳng thấy cuốn từ điển
đâu. Thế nên Jane đành bỏ dở bức thư.
Chúng con đã tìm được một thứ kì lạ, nhưng gần đến giờ gửi thư rồi, nên cô gái nhỏ của mẹ sẽ dừng bút tại đây, Jane. Tái bút: Nếu mẹ có thể biến một điều ước thành sự thật, mẹ sẽ ước gì?
Có tiếng tù và của người đưa thư vang lên, Robert vội đội mưa chạy ra và đưa cho ông lá thư. Đó là lí do vì sao, mặc dù đứa nào cũng muốn kể cho mẹ nghe về Tiên cát, bà mẹ lũ trẻ vẫn chẳng hay biết gì.
Ngày hôm sau, chú Richard đến đưa lũ trẻ tới Maidstone bằng xe ngựa có hai hàng ghế ngồi đối diện, ngoại trừ em Cừu ở nhà. Chú Richard là một người chú cực kì tốt bụng, người chú tốt nhất của lũ trẻ. Chú ghé mua cho lũ trẻ đồ chơi ở Maidstone. Chú cho lũ trẻ vào một cửa hàng, cho chúng chọn thoả thích không lo giá cả, cũng chẳng bắt phải chọn cái này cái kia cho có tính giáo dục. Thật là khéo vì bọn trẻ vẫn còn ngốc nghếch và ngây thơ lắm, chúng sẽ vô tình chọn đúng thứ đồ chơi mang tính giáo dục mà vẫn cứ thích thú. Giả dụ như Robert, chọn mãi, chọn mãi rồi cuối cùng vội vàng vớ lấy một cái hộp in hình minh hoạ những con trâu đầu người với người đầu đại bàng có cánh trên hộp. Cậu bé tưởng sẽ có mấy con vật bên trong hộp như hình minh hoạ, khi về nhà cậu mới phát hiện ra đó là hộp câu đố Chủ nhật về người Nineveh cổ đại! Mấy đứa còn lại cũng chọn vội chọn vàng, mà cuối cùng cũng được ưng ý. Cyril có được một mẫu động cơ, mỗi cô bé có được một con búp bê, cùng một bộ ấm trà bằng sứ với hoạ tiết hoa lưu ly để “chơi chung”. Thứ “chơi chung” của hai cậu bé là một bộ cung tên.
Rồi chú Richard đưa chúng đi thuyền trên dòng Medway xinh đẹp. Sau đó tất cả uống trà tại một quán bánh ngọt xinh xắn. Đến lúc lũ trẻ quay về nhà thì đã quá muộn để kịp thực hiện bất kì điều ước nào cho ngày hôm đó.
Chúng không kể cho chú Richard nghe bất cứ điều gì về Psammead cả.
Ngày hôm sau, chú Richard hào hiệp dẫn bọn trẻ đi chơi là một ngày cực kì nóng bức. Mục dự báo thời tiết trên tờ nhật báo viết rằng hôm ấy chính là ngày nóng đỉnh điểm trong nhiều năm trời. Họ đã dự đoán rằng “trời nóng bức, vài nơi có mưa” và đúng là trời đã nóng thật. Thực ra, ông trời bận hâm nóng quá đến mức chẳng thèm mưa nữa, nên thành ra chẳng có giọt mưa nào.
Em đã bao giờ thức dậy vào lúc năm giờ trong một sáng hè đẹp trời chưa? Cảnh vật sẽ rất đẹp đấy. Ánh mặt trời nhuốm màu hồng và vàng. Một lớp sương ánh lên trên đồng cỏ và cây cối như những viên kim cương lấp lánh. Những chiếc bóng đổ hướng ngược lại so với buổi chiều tà, một cảnh tượng rất thú vị và sẽ khiến em cảm giác như mình đang ở một thế giới hoàn toàn khác vậy.
Anthea tỉnh dậy lúc năm giờ. Cô bé tự dậy.
Ngay lúc Anthea mở mắt, cô bé nghe thấy tiếng chiếc đồng hồ vàng dưới phòng ăn điểm mười một tiếng. Thế là cô bé biết còn ba phút nữa sẽ đến năm giờ. Chiếc đồng hồ vàng đó luôn luôn điểm sai, nhưng cũng chẳng sao nếu như hiểu được nó. Cũng như khi một người nói ngoại ngữ vậy, nếu bạn biết ngoại ngữ ấy thì cũng chẳng khác gì nghe hiểu tiếng mẹ đẻ cả. Mà Anthea thì hiểu ngôn ngữ của cái đồng hồ. Cô bé còn đang ngái ngủ, nhưng vẫn nhảy ra khỏi giường rồi nhúng cả mặt và tay mình vào bồn nước lạnh. Đây
là một phương pháp thần kì giúp ngăn cản bạn quay trở lại giường. Rồi cô bé thay đồ và gấp chiếc váy ngủ lại. Cô bé không cuộn nó lại từ cánh tay mà gấp theo đường nối từ diềm váy một cách thành thạo.
Rồi cô bé cầm đôi giày và nhẹ nhàng bước xuống lầu, mở cửa sổ phòng ăn và trèo ra ngoài. Thế này cũng không dễ dàng gì hơn là đi ra qua cửa chính, nhưng lại có vẻ thơ mộng hơn và ít bị Martha để ý hơn.
“Mình sẽ luôn dậy vào lúc năm giờ.” Cô bé tự nhủ. “Cảnh vật thật đẹp hết sảy.”
Trái tim Anthea đập dồn dập bởi cô bé đang thực hiện kế hoạch của riêng mình. Cô bé không chắc đó có phải là một kế hoạch tốt hay không, nhưng cô bé chắc chắn rằng sẽ không được hay ho cho lắm nếu kể cho các anh chị em của mình biết. Anthea đinh ninh là, dù đúng hay sai, cô bé nên thực hiện kế hoạch này một mình. Cô bé đi giày dưới mái hiên sắt, trên những viên gạch đỏ và vàng sáng bóng, rồi chạy thẳng tới mỏ cát và tìm ra chỗ của Psammead và đào nó lên; nó tỏ vẻ rất bực bội.
“Xấu tính quá đấy.” Nó nói, xù lông lên như loài chim bồ câu làm vào mùa Giáng sinh. “Thời tiết thì lạnh cóng, lại còn đang nửa đêm nữa chứ.”
“Cháu xin lỗi ông.” Anthea nhẹ nhàng đáp, cô bé cởi chiếc yếm trắng của mình ra để quấn quanh Tiên cát, ngoại trừ cái đầu, đôi tai giống tai dơi cùng đôi mắt như mắt ốc sên của nó.
“Cảm ơn.” Nó nói. “Thế này tốt hơn đấy. Sáng nay cô định ước gì?”
“Cháu không biết nữa.” Cô bé đáp. “Chỉ là ông thấy đấy, cho đến giờ thì chúng cháu chẳng may mắn chút nào. Cháu muốn nói chuyện với ông về việc đó. Nhưng... phiền ông có thể cho cháu ước sau bữa sáng được không? Thật là làm khó ai đó khi mà ông ép mọi người nói ra ước nguyện mà họ không thật sự muốn!”
“Cô không nên nói từ ước nếu không phải đang nói ra điều ước. Trước kia, người ta lúc nào cũng biết là mình muốn Megatherium hay là Ichthyosaurus vào bữa tối.”
“Cháu sẽ cố gắng không nói thế nữa.” Anthea đáp. “Nhưng cháu ước...”
“Cẩn thận!” Psammead nói với giọng cảnh báo, và nó bắt đầu tự phình to lên.
“Ồ, đó không phải là điều ước gì kì diệu đâu, chỉ là, cháu sẽ rất mừng nếu ông không phồng to đến nỗi muốn nổ bục ra để cho cháu thứ gì đó bây giờ. Nên đợi đến khi mọi người tới đây đầy đủ đã.”
“Chà, được thôi.” Nó đáp với vẻ khoan dung, rồi chợt rùng mình. “Ông có...” Anthea tốt bụng hỏi. “Có muốn đến đây ngồi trong lòng cháu không? Ông sẽ ấm hơn đấy, cháu có thể trùm vạt váy yếm quanh người ông. Cháu sẽ hết sức cẩn trọng.”
Anthea không ngờ rằng nó làm thế thật.
“Cảm ơn.” Nó nói. “Cô chu đáo quá.” Rồi nó leo lên lòng cô bé và nép người vào, cô bé vòng tay quanh nó với sự nhẹ nhàng xen lẫn chút sợ hãi. “Ái chà!” Nó cảm thán.
Anthea lên tiếng: “Mọi thứ mà chúng cháu đã ước đều trở nên khá khủng khiếp. Cháu ước sao ông sẽ tư vấn cho chúng cháu. Ông đã lớn tuổi như vậy thì hẳn phải rất thông thái.”
“Ta đã luôn hào phóng ngay từ khi còn là một đứa trẻ.” Tiên cát đáp. “Ta dành toàn bộ thời gian khi thức của mình để cho đi. Nhưng có một thứ mà ta sẽ không cho - ấy là lời khuyên.”
“Ông biết đấy.” Anthea nói tiếp. “Đây quả là một điều tuyệt vời - một cơ hội ngàn năm có một. Ông thật là tốt bụng, tử tế và đáng mến khi ban cho chúng cháu những điều ước, thật là tiếc nếu chúng cháu cứ phí phạm chúng như thế chỉ vì ngu ngốc không biết phải ước gì.”
Anthea thực sự nghĩ vậy - chỉ là cô bé không muốn nói ra trước mặt những đứa kia thôi. Nói mình ngu ngốc là một chuyện, còn nói người khác ngu ngốc lại là một chuyện khác.
“Cô bé ạ.” Tiên cát ngái ngủ đáp. “Ta chỉ có thể khuyên các cô cậu nên nghĩ trước khi nói thôi...”
“Nhưng cháu tưởng ngài không đưa ra lời khuyên kia mà.” “Cái này thì không tính.” Nó đáp. “Bởi các cô cậu có bao giờ chịu làm theo đâu! Hơn nữa, nó cũng chẳng phải là lời của ta. Chỉ là câu hay có trong mấy cuốn sách thôi.”
“Nhưng ông có nghĩ đôi cánh là một điều ước ngu ngốc không?” “Cánh ấy hả?” Nó hỏi lại. “Ta cho là các cô cậu có thể nghĩ ra thứ gì đó tệ hơn. Chỉ là, cẩn thận đừng bay cao quá vào lúc mặt trời sắp lặn. Ta từng nghe về một cậu bé người Ninevite. Cậu bé là con trai của vua Sennacherib. Một người du hành đã tặng cho cậu một Psammead. Cậu ta nhốt nó trong một cái hộp cát rồi đặt ở thềm cung điện. Đó đúng là một sự sỉ nhục lớn đối với Tiên cát chúng ta; nhưng dù sao đi nữa thì cậu ta cũng là con vua vùng Assyria mà. Một ngày nọ, cậu ta ước có đôi cánh và điều ước ấy thành hiện thực. Nhưng rồi cậu ta quên khuấy mất là chúng sẽ biến thành đá
khi mặt trời lặn, thế nên khi điều đó xảy ra, cậu ta ngã rầm xuống một trong những con sư tử có cánh đặt trên đỉnh cầu thang đồ sộ của cha mình, đôi cánh bằng đá của cậu ta lao vào đôi cánh bằng đá của lũ sư tử - chà, quả là một câu chuyện chẳng hay ho gì. Nhưng ta tin là trước đó cậu ta đã vô cùng thích thú.”
“Ông hãy cho cháu biết.” Anthea nói. “Tại sao những điều ước của chúng cháu lại không biến thành đá? Tại sao chúng chỉ biến mất mà thôi?”
“Autres temps, autres moeurs.” Tiên cát đáp trả.
“Đó là ngôn ngữ vùng Ninevite đó sao?” Anthea hỏi, cô bé chưa từng học bất kì ngoại ngữ nào khác ở trường trừ tiếng Pháp. “Ý ta là...” Psammead tiếp tục. “Ngày xưa người ta thường ước những món quà vật chất thường ngày - như voi ma mút và Pterodactylus và những thứ tương tự - mấy thứ đó có thể dễ dàng bị biến thành đá. Nhưng bây giờ người ta lại ước những thứ mơ tưởng hết sức tham vọng. Làm sao mà các cô cậu có thể biến xinh đẹp như ban ngày, hay được mọi người săn đón... thành đá cơ chứ? Cô thấy đấy, không thể được. Hai nguyên tắc không thể cùng tồn tại, thành ra chúng chỉ có thể biến mất. Nếu trở nên xinh đẹp như ban ngày mà biến thành đá được thì nó sẽ có tác dụng lâu lắm đấy, lâu hơn cả tuổi thọ của cô nữa. Cứ nhìn mấy bức tượng Hy Lạp thì biết. Là thế đó. Tạm biệt. Ta buồn ngủ quá rồi.”
Nó nhảy khỏi lòng cô bé - điên cuồng đào bới và biến mất hút. Anthea bị muộn bữa sáng. Robert lén đổ một thìa mật đường lên yếm của Cừu, để em được đưa đi thay đồ và tắm rửa ngay sau bữa sáng. Đó chắc chắn là một hành động đáng trách, nhưng là “một mũi tên trúng hai con chim” - nó khiến Cừu vui vẻ, vì em thích trở nên
dính dớp hơn tất cả mọi thứ, và đánh lạc hướng Martha để bọn trẻ có thể lẻn ra mỏ cát mà không phải mang theo em Cừu. Lũ trẻ đi trên đường thì gặp Anthea, vẫn đang thở không ra hơi vì sự biến mất nhanh chóng ban nãy của Tiên cát, hổn hển nói: “Chị đề nghị chúng ta lần lượt ước. Chỉ có điều, điều ước đó sẽ không được thực hiện nếu những người khác không nghĩ đó là một điều ước tốt. Mọi người thấy thế nào?”
“Thế ai sẽ ước đầu tiên?” Robert cẩn trọng hỏi.
“Chị, nếu em không phiền.” Anthea hối lỗi đáp. “Chị đã suy nghĩ về điều đó - chị muốn ước có đôi cánh.”
Tất cả im lặng. Mấy đứa trẻ muốn tìm nhược điểm của việc có cánh nhưng thật là khó, bởi chính từ “cánh” đã làm lồng ngực bọn trẻ nhộn nhạo phấn khích rồi.
“Không tệ lắm.” Cyril hào phóng đáp. Robert nói thêm: “Thật đó, chị Báo ạ, chị không ngốc giống như vẻ bề ngoài nhỉ.” Jane lên tiếng: “Em nghĩ đó là một điều ước hết sức đáng yêu, như kiểu một giấc mơ đẹp vậy.”
Chúng dễ dàng tìm được Tiên cát. Anthea nói: “Cháu ước chúng cháu đều có được những đôi cánh xinh đẹp để bay.” Tiên cát lại tự làm mình phồng to, và ngay lập tức mỗi đứa trẻ đều có cảm giác gì khá lạ lẫm, nửa nặng nửa nhẹ trên đôi vai. Psammead nghiêng đầu và dùng đôi mắt ốc sên của nó nhìn từ đứa trẻ này sang đứa trẻ kia.
“Không tệ lắm.” Nó mơ màng nói. “Nhưng Robert ạ, thực lòng mà nói trông cậu chẳng giống một thiên thần chút nào.” Robert gần như đỏ bừng mặt.