🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Năm 1922, Năm Ác Báo - Stephen King Ebooks Nhóm Zalo Giới thiệu Năm 1922, Năm Ác Báo được viết nên bởi chính nỗi ám ảnh của nhân vật chính; Ông ta rơi vào những cơn ảo giác, mộng mị, hoang tưởng và tự kết liễu cuộc đời mình theo cách đau đớn và kinh khủng nhất. Wilfed James, một chủ trại nhỏ tại Nebraska, chỉ vì 100 mẫu đất tốt mà đã phạm sai lầm giết vợ. Anh ta cuốn theo cả đứa con trai của mình để rồi phải hối tiếc suốt đời. Sự dằn vặt tội lỗi của James trở thành những cơn ác mộng kéo dài khiến bao tai họa thảm khốc gián xuống đầu James, tước đi dần những thứ anh ta yêu quý nhất, cho đến khi đoạt nốt tính mạng anh ta. Tất nhiên, nếu câu chuyện chỉ dừng lại ở việc James giết được người vợ thì 1922, năm ác báo sẽ không phải là tác phẩm được viết nên bởi Stephen King nữa. Cuộc sống sau cái chết của người vợ mới là điều đáng phải bàn. Nhân vật chính James tưởng rằng cuộc đời hai cha con từ đây đã bình yên với ruộng vườn, cậu con trai ngày ngày lái xe tải đến trường, hẹn hò với cô bạn gái, bố con ông qua mặt được ông lão cảnh sát già địa phương và tay luật sư về sự biến mất của người vợ nhưng sự thực cái chết của người mẹ vẫn luôn ám ảnh trong cuộc sống của hai người và đó mới là thời điểm bi kịch bắt đầu. Ngày 11 tháng Tư, 1930 Khách sạn Magnolia Omaha, Nebraska GỬI BẤT CỨ AI QUAN TÂM: Tên tôi là Wilfred Leland James, và đây là lời tự thú của tôi. Vào tháng Sáu năm 1922 tôi đã sát hại vợ mình, Arlette Christina Winters James, và phi tang thi thể cô ta bằng cách ném xuống một cái giếng cũ. Con trai tôi, Henry Freeman James, đã giúp tôi trong tội ác này, mặc dù ở tuổi 14, con trai tôi không phải chịu trách nhiệm; tôi đã lừa gạt thằng bé tham gia vào việc này, lợi dụng sự sợ hãi của nó và khuất phục những lời phản đối hoàn toàn bình thường của nó trong một quãng thời gian suốt hơn hai tháng trời. Đây là một việc làm khiến tôi ân hận còn cay đắng hơn chính bản thân tội ác, vì những lý do mà lời thú tội này sẽ trình bày rõ. Nguyên do đã dẫn tới tội ác tôi gây ra và sự nguyền rủa tôi phải chịu đựng là 100 mẫu[1] đất tốt ở Hemingford, Nebraska. Khu đất này vợ tôi được thừa kế từ ông bố của cô ta, John Henry Winters. Tôi mong muốn sát nhập khu đất này vào trang trại thuộc quyền sở hữu vô thời hạn của chúng tôi, có tổng diện tích chừng 80 mẫu vào năm 1922. Vợ tôi, vốn chưa bao giờ thích thú gì đời sống điền trang (hay việc trở thành vợ của một chủ trang trại), lại muốn bán nó cho Công ty Farrington để lấy tiền mặt. Khi tôi hỏi vợ tôi liệu cô có thực sự muốn sống ở phía cuối gió một lò sát sinh của Farrington hay không, cô ta nói với tôi chúng tôi hoàn toàn có thể bán luôn cả trang trại của mình cùng với lô đất của bố cô ta - trang trại của bố tôi, và trước đó, của ông nội tôi! Khi tôi hỏi vợ liệu chúng tôi có thể làm gì với tiền mà không còn đất nữa, cô ta nói chúng tôi có thể chuyển tới Omaha, hay thậm chí tới St. Louis, và mở một cửa hiệu. “Anh sẽ không bao giờ sống ở Omaha,” tôi nói. “Các thành phố là để dành cho những kẻ ngốc.” Câu nói thật mỉa mai, nếu xét đến nơi tôi đang sống lúc này, nhưng tôi sẽ không sống ở đây lâu nữa; tôi biết rõ điều đó cũng như tôi biết thứ gì đã gây ra những âm thanh tôi nghe thấy trong các bức tường. Và tôi biết tôi sẽ tìm thấy mình ở đâu sau khi cuộc sống trần thế này kết thúc. Tôi tự hỏi không biết liệu Địa Ngục có thể tồi tệ hơn thành phố Omaha hay không. Có thể nó chính là thành phố Omaha, nhưng không hề có vùng đồng quê đẹp đẽ yên bình nào bao quanh; chỉ là một khoảng trống rỗng mù mịt khói, sặc sụa mùi lưu huỳnh, đầy ắp những linh hồn lạc lối giống như bản thân tôi. Hai vợ chồng tôi đã cãi nhau kịch liệt về 100 mẫu đất kia trong suốt mùa đông và mùa xuân năm 1922. Henry bị mắc kẹt trong cuộc cãi vã đó, nhưng có phần ngả về phía tôi nhiều hơn; con trai tôi có ngoại hình giống mẹ nó, nhưng lại giống tôi ở tình yêu dành cho đất. Thằng bé là một đứa trẻ biết vâng lời, không có chút ương ngạnh nào của mẹ nó. Hết lần này đến lần khác, con trai tôi nói với mẹ rằng nó không hề muốn sống tại Omaha hay bất cứ thành phố nào khác, và sẽ chỉ chịu đi nếu vợ tôi và tôi đi đến nhất trí, điều chúng tôi không thể đạt được. Tôi đã nghĩ tới chuyện viện tới Pháp Luật, cảm thấy chắc chắn rằng, với vị thế người Chồng trong vụ việc này, bất cứ tòa án nào trong vùng cũng sẽ ủng hộ quyền của tôi trong việc quyết định cách thức và mục đích sử dụng khu đất đó. Thế nhưng vẫn có điều gì đó ngăn tôi lại. Đó không phải là nỗi sợ hãi những lời bàn ra tán vào của hàng xóm láng giềng, tôi chưa bao giờ bận tâm tới những lời đồn thổi trong vùng; đó là một thứ khác. Tôi đã trở nên căm ghét vợ mình, các vị hiểu chứ. Tôi dần mong muốn cô ta chết đi, và đó là điều đã ngăn tôi lại. Tôi tin rằng luôn có một con người khác bên trong mỗi chúng ta, một kẻ lạ lùng, một Kẻ Ma Quái. Và tôi tin rằng vào tháng Ba năm 1922, khi bầu trời hạt Hemingford tuyền màu trắng và tất cả các cánh đồng đều là một vạt bùn điểm tuyết, Kẻ Ma Quái bên trong người nông dân Wilfred James đã làm xong việc tuyên án vợ tôi và quyết định số phận của cô ta. Đó là thứ công lý mà các vị quan tòa vẫn đưa ra khi đội mũ đen[2]. Kinh Thánh có nói một đứa con bất hiếu cũng giống như một chiếc răng của rắn độc, nhưng một người Vợ hay cằn nhằn và vô ơn còn sắc nhọn hơn thế. Tôi không phải là một con quái vật; tôi đã cố cứu vợ mình khỏi Kẻ Ma Quái. Tôi nói với cô rằng nếu chúng tôi không thể đi tới nhất trí, vợ tôi nên tới sống cùng mẹ cô ở Lincoln, cách nơi chúng tôi đang sống sáu mươi dặm[3] về phía tây - một khoảng cách thích hợp cho một cuộc chia cách không hẳn là ly dị nhưng cũng đồng nghĩa với việc chấm dứt cuộc sống hôn nhân chung. “Và để lại cho anh khu đất của bố tôi, tôi đoán vậy có đúng không?” cô ta hỏi, và hất hàm. Tôi đã trở nên căm ghét cái hất hàm sỗ sàng đó biết chừng nào, nó thật giống với cử chỉ vùng vằng của một con ngựa non được dạy dỗ tồi, và cả cái hít mạnh luôn đi kèm với cử chỉ đó nữa. “Không bao giờ có chuyện đó đâu, Wilf.” Tôi nói với vợ tôi rằng tôi sẽ mua lại khu đất từ cô ta, nếu cô ta cứ khăng khăng như vậy. Tất nhiên sẽ phải mất một quãng thời gian - tám năm, mà cũng có thể là mười - nhưng tôi sẽ trả cho cô ta tới tận đồng xu cuối cùng. “Một ít tiền nhỏ giọt còn tệ hại hơn là không có gì,” vợ tôi đáp lại (thêm một cái hít mạnh và một cái hất hàm nữa). “Đó là một điều phụ nữ nào cũng biết. Công ty Farrington sẽ thanh toán toàn bộ tiền ngay lập tức, và ý tưởng của họ về mức giá cao nhất nhiều khả năng sẽ hào phóng hơn đề xuất của anh nhiều. Và tôi cũng sẽ không bao giờ sống ở Lincoln. Đó không phải là một thành phố, mà chỉ là một ngôi làng với nhiều nhà thờ hơn cả nhà dân.” Các vị thấy hoàn cảnh của tôi rồi chứ? Không lẽ các vị không hiểu cô ta đã đẩy tôi vào tình thế tồi tệ đến thế nào? Chẳng lẽ tôi không đáng có được dù chỉ một chút cảm thông của các vị sao? Không ư? Vậy hãy đọc tiếp. Tới đầu tháng Tư năm ấy - đúng ngày này tám năm về trước, nếu tôi nhớ không sai - cô ta tới gặp tôi lộng lẫy hào nhoáng. Vợ tôi đã dành gần hết cả ngày hôm đó tại “thẩm mỹ viện” ở McCook, và mái tóc cô ta rủ xuống quanh hai bên má thành từng lọn dày uốn cong, chúng làm tôi nhớ tới những cuộn giấy vệ sinh người ta vẫn thấy tại các khách sạn và nhà trọ. Vợ tôi nói cô ta có một ý tưởng. Ý tưởng đó là chúng tôi nên bán gộp luôn cả 100 mẫu đất lẫn trang trại cho Farrington. Vợ tôi tin rằng bọn họ hẳn sẽ chịu mua tất chỉ để có được khu đất của bố cô ta, vốn nằm gần đường xe lửa (và có lẽ vợ tôi có lý). “Sau đó,” ả lăng loàn chải chuốt đó nói tiếp, “chúng ta có thể chia tiền ra, ly dị, và bắt đầu cuộc sống mới của mỗi người. Cả hai chúng ta đều biết đó là điều anh muốn mà.” Như thể chính cô ta không muốn điều đó vậy. “À,” tôi nói (như thể đang cân nhắc nghiêm túc ý tưởng đó). “Vậy con trai chúng ta sẽ đi theo ai đây?” “Tôi, tất nhiên rồi,” vợ tôi nói, mắt trợn tròn. “Một đứa con trai 14 tuổi cần sống với mẹ nó.” Tôi bắt đầu “thuyết phục” Henry ngay từ hôm đó, kể cho con trai tôi biết về kế hoạch mới nhất của mẹ nó. Hai bố con tôi lúc ấy đang ngồi trong vựa cỏ khô. Tôi trưng ra khuôn mặt rầu rĩ nhất và nói với giọng phiền muộn nhất, vẽ lên một bức tranh về cuộc sống trong tương lai của nó nếu vợ tôi được phép thực hiện kế hoạch của cô ta: rằng cậu bé sẽ không còn cả trang trại lẫn bố, về việc nó sẽ phải tới một trường học lớn hơn rất nhiều, phải bỏ lại sau lưng tất cả bạn bè (hầu hết đều từ khi còn bé), và chuyện một khi tới ngôi trường mới đó, con trai tôi sẽ phải vật lộn tìm cho mình một vị trí giữa những người xa lạ, những kẻ sẽ cười nhạo nó, gọi nó là một thằng thộn nhà quê. Ngược lại, tôi nói tiếp, nếu chúng tôi có thể giữ lại tất cả đất đai, tôi tin chắc chúng tôi có thể trả hết nợ ngân hàng vào năm 1925 và sống hạnh phúc không nợ nần, hít thở không khí ngọt ngào thay vì phải chứng kiến những bộ ruột lợn nổi lềnh phềnh trôi xuống dòng suối vốn trong veo trước kia của chúng tôi từ sáng sớm tới tận chiều tối. “Giờ con muốn gì?” tôi hỏi sau khi đã mô tả ra bức tranh đó một cách chi tiết hết mức tôi có thể. “Ở lại đây với bố,” cậu bé nói. Nước mắt đang ròng ròng chảy xuống hai gò má con trai tôi. “Tại sao mẹ lại phải... lại phải...” “Nói tiếp đi con,” tôi nói. “Sự thật không bao giờ là nguyền rủa hết, con trai.” “Đê tiện đến thế!” “Bởi vì phần lớn đàn bà là như thế,” tôi nói. “Đó là một phần không thể giũ bỏ đi được trong bản chất của họ. Câu hỏi đặt ra ở đây là chúng ta sẽ phải làm gì với chuyện này.” Nhưng Kẻ Ma Quái bên trong tôi đã nghĩ sẵn tới cái giếng cũ nằm sau chuồng bò, cái giếng chúng tôi chỉ dùng làm nơi chứa nước thải vì nó quá nông và đầy bùn - chỉ sâu có 6 mét và chỉ hơn một vũng nước đọng dưới đáy cống một chút. Vấn đề còn lại chỉ đơn giản là làm cách nào thuyết phục con trai tôi đồng ý với giải pháp này. Và tôi bắt buộc phải làm như vậy, điều này hẳn các vị đã hiểu; tôi có thể giết vợ nhưng nhất thiết phải giữ lại đứa con trai yêu quý của mình. Sở hữu 180 mẫu đất - hay thậm chí cả nghìn mẫu - để làm gì nếu bạn chẳng có ai để cùng chia sẻ và chuyển giao lại? Tôi giả bộ đang cân nhắc về kế hoạch điên rồ của Arlette sẽ khiến khu đất trồng trọt màu mỡ bị biến thành lò mổ lợn. Tôi yêu cầu cô ta cho tôi thời gian để quen dần với ý tưởng này. Vợ tôi đồng ý. Và trong suốt hai tháng tiếp theo, tôi tiếp tục tác động lên Henry, làm cho con trai tôi quen với một ý tưởng khác hơn nhiều. Cũng không đến mức khó khăn như tôi đã nghĩ; con trai tôi thừa hưởng vẻ bề ngoài của mẹ nó (nhan sắc của một người đàn bà, các vị biết đấy, chính là thứ mật ong dẫn dụ đàn ông sa chân vào một tổ ong bầu) nhưng sự ương bướng đến Chúa cũng không chịu nổi của cô ta thì không. Chỉ cần mô tả lên một bức tranh về cuộc sống của cậu bé sẽ như thế nào tại Omaha hay St. Louis. Tôi úp mở đưa ra khả năng thậm chí cả hai tổ kiến đông đúc chật chội đó cũng không thỏa mãn được vợ tôi; cô ta hoàn toàn có thể đưa ra quyết định chỉ có Chicago mới khiến cô ta hài lòng. “Khi đó,” tôi nói, “có thể con sẽ thấy mình phải tới trường trung học với bọn da đen.” Con trai tôi trở nên lạnh nhạt với mẹ nó; sau vài nỗ lực ít ỏi - tất cả đều thật vụng về, và tất cả đều bị từ chối - nhằm lấy lại cảm tình của con trai, vợ tôi cũng đáp lại thái độ lạnh nhạt đó. Tôi (hay đúng hơn là Kẻ Ma Quái) vui mừng khôn xiết trước chuyện này. Tới đầu tháng Sáu, tôi nói với vợ mình rằng, sau khi cân nhắc thấu đáo, tôi đã quyết định sẽ không bao giờ tôi cho phép cô ta bán đi 100 mẫu đất đó mà không tranh đấu gì; rằng tôi sẵn sàng khiến tất cả chúng tôi lâm vào cảnh bần hàn khánh kiệt nếu cần thiết. Vợ tôi tỏ ra rất bình tĩnh. Cô ta quyết định tự mình đi tìm tư vấn pháp luật (Vì Pháp Luật, như chúng ta biết, sẽ làm bạn với ai trả tiền cho nó). Chuyện này tôi đã lường trước. Và chỉ cười khi nghe cô ta nói về nó! Vì vợ tôi không thể đủ tiền trả cho việc tư vấn như thế. Khi đó, tôi đang giữ chặt số tiền mặt ít ỏi chúng tôi có. Henry thậm chí còn đưa chỗ tiền dành dụm của nó cho tôi khi tôi yêu cầu, vậy là vợ tôi không thể lấy trộm tiền từ nguồn đó được, cho dù nó cũng chẳng đáng là bao. Tất nhiên, cô ta tìm đến văn phòng Công ty Farrington ở Deland, cảm thấy khá chắc chắn (cũng như tôi) rằng bọn họ, những người sẽ được hưởng lợi lớn, chắc hẳn sẽ chấp nhận trang trải chi phí tư vấn pháp luật cho cô ta. “Họ sẽ làm thế, và mẹ con sẽ thắng kiện,” tôi nói với Henry trong vựa cỏ khô, giờ đây đã trở thành chốn tâm tình quen thuộc của hai bố con. Tôi không hoàn toàn tin chắc về chuyện này, nhưng tôi đã đi tới quyết định của mình, điều tôi sẽ không đi xa tới mức gọi là “một kế hoạch”. “Nhưng bố ơi, như thế thật không công bằng!” con trai tôi kêu lên. Khi ngồi đó, trên đống cỏ khô, trông thằng bé thật bé bỏng, giống một đứa trẻ lên mười hơn là một thiếu niên 14 tuổi. “Cuộc đời chẳng bao giờ công bằng hết,” tôi nói. “Đôi lúc điều duy nhất ta có thể làm là đoạt lấy thứ ta muốn có. Cho dù ai đó phải chịu đau đớn.” Tôi ngừng lời, dò xét khuôn mặt nó.” Cho dù ai đó phải chết.” Mặt thằng bé trắng bệch. “Bố!” “Nếu mẹ con biến mất,” tôi nói, “mọi thứ sẽ đi theo con đường đúng đắn. Mọi tranh cãi sẽ kết thúc. Chúng ta sẽ có thể bình yên sống ở đây. Bố đã trao cho mẹ con mọi thứ bố có thể để bà ấy đi khỏi đây, và bà ấy không chấp nhận. Chỉ còn một thứ duy nhất mà bố có thể làm. Mà chúng ta có thể làm.” “Nhưng con yêu mẹ!” “Bố cũng yêu bà ấy,” tôi nói. Điều đó, cho dù các vị có thấy khó tin đến đâu đi nữa, đúng là sự thật. Sự căm thù tôi cảm thấy với vợ mình vào năm 1922 đó thực sự dữ dội hơn rất nhiều những gì một người đàn ông có thể cảm thấy về bất cứ người phụ nữ nào, trừ khi tình yêu là một phần trong nó. Và cho dù vợ tôi có tỏ ra cay nghiệt và ương ngạch đi chăng nữa, Arlette vẫn là một phụ nữ có bản chất nồng nhiệt. Mối “quan hệ vợ chồng” giữa chúng tôi đã không bao giờ gián đoạn, cho dù kể từ khi những cuộc cãi vã về 100 mẫu đất bắt đầu, những lần gần gũi vào ban đêm của hai chúng tôi dần trở nên ngày càng giống những màn giao phối của động vật hơn. “Việc đó không nhất thiết phải đau đớn,” tôi nói. “Và khi nó đã kết thúc... thì...” Tôi đưa thằng bé ra khỏi đằng sau chuồng gia súc và chỉ cho con trai tôi thấy cái giếng, tại đó nó nức nở òa khóc. “Không, bố. Không thể như thế. Dù có thế nào đi nữa.” Nhưng khi vợ tôi từ Deland quay về (Harlan Cotterie, hàng xóm gần nhất của chúng tôi, đã chở cô ta đi phần lớn quãng đường trên chiếc Ford của ông ta, sau đó để vợ tôi đi bộ nốt hai dặm cuối) và Henry nài nỉ mẹ nó “đừng đi nữa, để chúng ta có thể lại trở lại là một gia đình,” vợ tôi liền nổi nóng, tát vào miệng thằng bé, và quát nó hãy thôi ư ử lên như một con chó đi. “Bố mày đã làm mày tiêm nhiễm cái tính nhát như cáy của ông ấy. Còn tệ hơn thế, ông ấy đã tiêm nhiễm vào mày thói tham lam của mình.” Cứ như thể cô ta hoàn toàn không vướng phải thứ tội lỗi này vậy! “Ông luật sư đã cam đoan với tôi khu đất là của tôi, và tôi có toàn quyền làm gì tùy thích với nó theo ý của tôi, và tôi sẽ bán khu đất đi. Còn về hai bố con ông, các người có thể ngồi ỳ lại đây cùng nhau ngửi mùi lợn nướng, tự nấu ăn dọn giường lấy cho mình. Con, con trai của mẹ, có thể cày bừa cả ngày và đọc những cuốn sách liên tu bất tận của ông ấy mọi buổi tối. Chúng đã chẳng đem lại gì mấy tốt đẹp cho ông ấy, nhưng có thể con sẽ khá hơn. Ai mà biết được?” “Mẹ, như thế thật không công bằng!” Vợ tôi nhìn con trai mình như thể một người đàn bà nhìn một người đàn ông hoàn toàn xa lạ vừa định tìm cách cầm lấy tay mình. Và tim tôi tràn ngập niềm vui khi tôi nhìn thấy thằng bé nhìn lại mẹ nó cũng lạnh lùng như thế. “Các người có thể cuốn xéo đi với quỷ, cả hai người. Còn về phần tôi, tôi sẽ tới Omaha, và mở một hiệu bán quần áo. Đó là ý tưởng của tôi về sự công bằng.” Cuộc đôi co này xảy ra trên khoảng sân đầy bụi nằm giữa ngôi nhà ở và căn nhà kho, và ý tưởng về sự công bằng đó của vợ tôi là những lời nói tối hậu. Cô ta đi qua sân, hất tung bụi lên với đôi giày thành phố đỏm dáng của mình, bước vào trong nhà, và đóng sầm cửa lại. Henry quay lại nhìn tôi. Có máu trên khóe miệng thằng bé, còn môi dưới của nó sưng phồng lên. Cơn căm hận trong đôi mắt nó là một thứ cảm xúc nguyên sơ, thuần khiết mà chỉ những đứa trẻ vị thành niên mới có thể cảm nhận được. Đó là sự căm hận bất chấp cái giá phải trả. Con trai tôi gật đầu. Tôi cũng gật đầu đáp lại, cũng nghiêm nghị như thế, nhưng bên trong tôi Kẻ Ma Quái đang nhe răng ra cười thỏa mãn. Cái tát đó chính là án tử hình của vợ tôi. Hai ngày sau, khi Henry tới tìm tôi ngoài ruộng ngô mới trồng, tôi nhận thấy thằng bé đã lại trở nên yếu đuối. Tôi không thấy thất vọng hay ngạc nhiên; những năm tháng nằm giữa thời thiếu niên và tuổi trưởng thành là những năm tháng đầy giông tố, và những người đang trải qua quãng thời gian này luôn bị quay cuồng như chiếc chong chóng gió một số nông dân miền Trung Tây vẫn hay cắm lên nóc những silo đựng ngũ cốc của họ. “Chúng ta không thể,” thằng bé nói. “Bố, bà ấy đang Sai Lầm. Và Shannon nói những người chết trong Sai Lầm sẽ rơi xuống Địa Ngục.” Quỷ tha ma bắt nhà thờ Hội Giám lý và Hội Huynh đệ trẻ Giám lý đi, tôi thầm nghĩ... nhưng Kẻ Ma Quái chỉ mỉm cười. Trong mười phút tiếp theo, chúng tôi nói chuyện về tôn giáo giữa đồng ngô xanh mướt trong khi những đám mây đầu hè - những đám mây tuyệt vời nhất, bồng bềnh như những chiếc thuyền buồm - chậm chạp trôi qua trên đầu chúng tôi, kéo theo sau những cái bóng của chúng như những chiếc đuôi. Tôi giải thích với thằng bé rằng, không những không đẩy Arlette xuống Địa Ngục, chúng tôi sẽ đưa vợ tôi lên Thiên Đường. “Vì,” tôi nói, “một người đàn ông hay đàn bà bị sát hại sẽ không chết vào kỳ hạn của Chúa mà của Con Người. Ông ta... hay bà ta... đã bị cướp đi mạng sống trước khi ông ta... hay bà ta...kịp chuộc tội, vì thế tất cả các tội lỗi của họ cần phải được tha thứ. Khi con suy nghĩ theo hướng đó, mỗi vụ sát nhân đều là Cánh cổng dẫn tới Thiên đường.” “Nhưng còn chúng ta thì sao, bố? Chúng ta sẽ không phải xuống Địa Ngục chứ?” Tôi chỉ về phía những cánh đồng xung quanh, đầy sức sống mới mạnh mẽ. “Làm sao con có thể nói vậy được, khi con tận mắt thấy Thiên Đường khắp xung quanh chúng ta? Thế mà mẹ con đã định kéo chúng ta rời xa nó cũng kiên quyết như thiên thần với thanh kiếm rực lửa trong tay đuổi Adam và Eve khỏi Vườn Địa đàng.” Thằng bé nhìn tôi trân trối, đầy bối rối. Tối tăm. Tôi ghét phải bôi đen con trai mình theo cách như thế, song lúc đó một phần trong tôi đã tin, và tới giờ vẫn tin rằng không phải tôi đã làm vậy với thằng bé, mà là vợ tôi. “Và thử nghĩ xem,” tôi nói. “Nếu bà ấy tới Omaha, mẹ con sẽ tự đào cho mình một cái huyệt còn sâu hơn dưới Địa Ngục. Nếu bà ấy mang con theo, con sẽ thành một thằng bé thành thị...” “Con sẽ không bao giờ chịu!” Thằng bé kêu lên to đến nỗi lũ quạ đang đậu trên hàng rào vỗ cánh vụt bay lên và lượn vòng ra xa lên trời cao như những mảnh giấy cháy thành than. “Con còn trẻ và con sẽ thay đổi,” tôi nói. “Con sẽ quên hết những thứ này... con sẽ học những kiểu cách thành thị... và bắt đầu đào huyệt chôn vùi chính mình.” Nếu con trai tôi đáp trả bằng cách nói những kẻ sát nhân không có bất cứ hy vọng nào được đi cùng các nạn nhân của chúng lên Thiên Đường, hẳn tôi đã lâm vào thế bí. Nhưng có thể vốn hiểu biết về tôn giáo của con trai tôi không rộng đến thế, mà cũng có thể thằng bé không muốn nghĩ tới điều đó. Và liệu có Địa Ngục thật không, hay chúng ta đã tự tạo ra nó cho mình trên trái đất này? Khi nhìn lại tám năm vừa qua của đời mình, tôi nghiêng về lựa chọn thứ hai. “Bằng cách nào?” con trai tôi hỏi. “Khi nào?” Tôi nói cho thằng bé biết. “Và chúng ta có thể tiếp tục sống ở đây sau đó chứ?” Tôi trả lời là có thể. “Và mẹ sẽ không bị đau đớn chứ?” “Không,” tôi nói. “Sẽ rất nhanh thôi.” Con trai tôi dường như có vẻ hài lòng. Dẫu vậy, chuyện đó rất có thể đã không xảy ra, nếu không vì chính Arlette. Chúng tôi chọn thời điểm vào một buổi tối thứ Bảy, vào khoảng giữa một tháng Sáu cũng đẹp trời như bất cứ tháng Sáu nào khác tôi còn nhớ được.Arlette thỉnh thoảng từng uống một ly rượu vang vào các buổi tối mùa hè, nhưng lúc đó hầu như thói quen này không còn được duy trì nữa. Có một lý do rất hợp lý cho việc này. Cô ta thuộc về loại người không thể uống hai ly mà không uống bốn, rồi sáu ly, rồi cả chai. Và thêm một chai nữa, nếu chai nữa đó sẵn có. “Tôi cần phải rất cẩn thận, Wilf. Tôi quá thích nó. Thật may cho tôi, sức mạnh ý chí của tôi đủ mạnh.” Tối hôm đó, chúng tôi ngồi trước cửa, ngắm nhìn những tia sáng cuối cùng còn nấn ná lại trên các cánh đồng, lắng nghe những tiếng dế gáy reeeee ủ ê thật buồn ngủ. Henry đang ở trong phòng riêng. Con trai tôi hầu như không động đến bữa tối, và trong khi Arlette cùng tôi ngồi trước cửa trên hai chiếc ghế xích đu giống hệt nhau có đệm ngồi , tôi nghĩ tôi đã nghe thấy một tiếng động khe khẽ như tiếng ọe khan. Tôi nhớ từng nghĩ rằng khi thời khắc hành động điểm, thằng bé hẳn sẽ không thể chịu đựng qua được chuyện này. Mẹ nó sẽ thức dậy với tâm trạng cáu bẳn vào sáng hôm sau với một “dư vị” khó chịu và không hề biết cô ta đã đến sát tới mức nào việc không bao giờ được nhìn thấy thêm một buổi bình minh Nebraska nữa. Dẫu vậy, tôi tiếp tục tiến tới theo kế hoạch. Bởi vì tôi giống như một trong những con búp bê Nga[4]đó? Có thể lắm. Có thể tất cả mọi người đều thế cả. Bên trong tôi là Kẻ Ma Quái, nhưng bên trong Kẻ Ma Quái là một Người Hy Vọng. Gã này đã chết đâu đó trong khoảng giữa năm 1922 và 1930. Kẻ Ma Quái, sau khi đã gây ra xong tổn thất, đã biến mất. Không có những mưu toan và tham vọng của hắn, cuộc sống trở nên trống rỗng. Tôi mang chai rượu theo ra ngoài cửa, nhưng khi tôi tìm cách rót đầy chiếc ly trống rỗng của vợ tôi, cô ta đưa tay lên che. “Anh không cần phải làm tôi say để có được thứ anh muốn. Tôi cũng muốn nó. Tôi đang thấy ngứa.” Cô ta dạng hai chân ra và đưa một bàn tay lên váy để chỉ ra cảm giác ngứa nằm ở đâu. Bên trong cô ta có một Người Đàn Bà Thô Tục - thậm chí là một Con Điếm - và rượu vang luôn làm cô ta trở nên buông thả. “Dẫu sao cũng hãy uống thêm một ly nữa,” tôi nói. “Chúng ta có một thứ để ăn mừng.” Vợ tôi nhìn tôi đầy cảnh giác. Thậm chí một ly rượu vang duy nhất cũng khiến đôi mắt cô ta ướt rượt (như thể một phần con người cô ta đang khóc than vì lượng rượu vang nó muốn và không thể có được), và trong ánh hoàng hôn trông chúng có màu cam, giống như những ô kính của một chiếc đèn bão có thắp nến ở trong. “Sẽ không có vụ kiện tụng nào hết,” tôi nói với cô ta, “và cũng sẽ không có ly dị. Nếu Công ty Farrington có thể mua 80 mẫu đất của anh cùng với 100 mẫu của bố em, cuộc cãi vã của chúng ta coi như chấm dứt.” Lần đầu tiên, và cũng là duy nhất trong cuộc hôn nhân sóng gió của chúng tôi, cô ta thực sự há hốc miệng ra. “Anh đang nói gì vậy? Có phải là điều tôi nghĩ anh đang nói không? Đừng đùa với tôi, Wilf!” “Anh không đùa,” Kẻ Ma Quái nói. Hắn ta nói với vẻ chân thành đến nao lòng. “Henry và anh đã nói chuyện với nhau rất nhiều về chuyện này...” “Đúng là hai bố con anh lúc nào cũng dính lấy nhau như hình với bóng vậy,” cô ta nói. Vợ tôi bỏ bàn tay đang che phía trên chiếc ly, và tôi tận dụng cơ hội rót đầy rượu vang vào đó. “Luôn ở trong nhà chứa cỏ khô hay ngồi trên đống gỗ, hay ngả đầu vào nhau ngoài cánh đồng sau nhà. Tôi đoán tất cả chuyện này có liên quan tới Shannon Cotterie.” Thêm một lần khịt mũi và một cái lắc đầu. Nhưng tôi nghĩ lúc đó trông vợ tôi cũng có vẻ đăm chiêu nữa. Cô ta nhâm nhi ly rượu vang thứ hai. Hai ngụm từ chiếc ly thứ hai, như thế vợ tôi vẫn có thể đặt ly xuống và quay về giường. Nếu là bốn ngụm, sẽ đồng nghĩa với việc tôi có thể đưa cho cô ta cả chai. Đó là chưa nhắc đến hai chai nữa tôi đã để sẵn cạnh. “Không,” tôi nói. “Hai bố con anh không hề nói về Shannon.” Mặc dù tôi từng thỉnh thoảng trông thấy Henry nắm tay cô bé khi hai đứa sánh bước trên quãng đường dài hai dặm tới trường Hemingford Home. “Hai bố con anh đã trò chuyện về Omaha. Thằng bé muốn tới đó sống, anh đoán vậy.” Sẽ không ổn nếu cố đi quá xa, không ổn khi chỉ mới sau có một ly rượu vang duy nhất kèm them hai ngụm từ ly thứ hai. Arlette của tôi, cô ta về bản chất là một người đa nghi, luôn xăm xoi tìm kiếm một nguyên nhân sâu xa hơn. “Ít nhất cũng là thử qua xem có phù hợp hay không. Và Omaha cũng không quá xa Hemingford...” “Không. Không thể như thế. Như tôi đã nói với cả hai bố con anh cả nghìn lần rồi.” Vợ tôi nhấp rượu vang, và thay vì đặt cái ly xuống như lúc trước, cô ta giữ lại nó trên tay. Ánh sáng màu cam trên đường chân trời phía tay đã sẫm lại thành một thứ màu lục pha đỏ tía như thể đang bùng cháy lên trong cái ly. “Nếu là St. Louis thì lại khác.” “Tôi đã từ bỏ ý tưởng đó,” vợ tôi nói. Tất nhiên, điều đó có nghĩa là cô ta đã nghĩ qua khả năng đó và thấy nó không ổn thỏa. Sau lưng tôi, hiển nhiên rồi. Tất cả đều diễn ra sau lưng tôi ngoại trừ chuyện tay luật sư của công ty. Và hẳn vợ tôi cũng đã làm chuyện đó sau lưng tôi nốt, nếu cô ta không muốn dùng nó làm cây gậy để gây áp lực với tôi. “Em nghĩ họ sẽ mua cả lô đất không?” tôi hỏi. “Toàn bộ 180 mẫu?” “Làm thế nào tôi biết được?” Thêm một ngụm nữa. Ly thứ hai đã cạn. Bây giờ, nếu tôi nói với vợ tôi rằng cô ta đã uống đủ và tìm cách lấy cái ly khỏi tay cô ta, chắc chắn vợ tôi sẽ từ chối giao lại nó. “Em biết, anh không nghi ngờ gì về chuyện đó,” tôi nói. “Vì 180 mẫu đất đó cũng giống như chuyện về St. Louis. Em đã dò hỏirồi.” Cô ta liếc mắt nhìn tôi... rồi bật cười gằn thật khó nghe. “Có thể là thế.” “Anh chắc chúng ta có thể lùng tìm một ngôi nhà ở ngoại ô thành phố,” tôi nói. “Nơi ít nhất cũng có một hai cánh đồng trong tầm mắt để ngắm nhìn.” “Và tại đó anh sẽ ngồi dán mông xuống một chiếc ghế xích đu treo trước cửa cả ngày, để mặc cho vợ anh làm việc kiếm sống chứ gì? Nào, hãy rót đầy vào. Nếu chúng ta đang uống mừng, vậy hãy uống mừng thôi.” Tôi rót đầy cả hai ly. Về phần ly của tôi, chỉ phải rót thêm tí chút, vì tôi cũng mới uống có một ngụm. “Anh nghĩ anh có thể tìm việc làm dành cho thợ cơ khí. Sửa chữa ô tô, xe tải, nhưng chủ yếu là máy nông nghiệp. Nếu anh có thể giữ cho chiếc Farmall cũ kỹ kia hoạt động” - tôi cầm ly chỉ về phía cái bóng tối đen của chiếc máy kéo đang đậu sau nhà kho - “thì anh đoán rằng anh có thể làm cho bất cứ thứ gì hoạt động được.” “Và Henry đã thuyết phục anh tới chỗ suy nghĩ như thế.” “Thằng bé thuyết phục anh rằng sẽ tốt hơn nhiều với anh nếu nắm lấy cơ hội được sống hạnh phúc trong thành phố thay vì ở lại đây một mình, một viễn cảnh chắc chắn rất ảm đạm.” “Cậu con trai bày tỏ lý lẽ và ông bố lắng nghe! Sau bấy nhiêu lâu! Tạ ơn Chúa!” Vợ tôi uống cạn ly và đưa ly ra yêu cầu thêm. Cô ta nắm lấy cánh tay tôi và cúi lại gần tới mức tôi có thể ngửi thấy mùi nho chua lòm phả ra từ hơi thở của cô ta. “Tối nay anh có thể sẽ có được thứ mà anh thích đó, Wilf.” Cô ta thè cái lưỡi đỏ sậm ra áp lên giữa môi trên. “Cái thứ xấu xa đó.” “Anh đang rất nóng lòng mong đợi nó đây,” tôi nói. Nếu tôi có thể toàn quyền làm theo ý mình, một chuyện thậm chí còn xấu xa hơn sắp sửa xảy ra trên chiếc giường chúng tôi đã cùng chia sẻ mười lăm năm qua. “Hãy gọi Henry xuống đây,” vợ tôi nói. Giọng cô ta đã bắt đầu líu lại. “Tôi muốn chúc mừng nó vì cuối cùng cũng đã nhìn ra lẽ phải.” (Tôi đã đề cập tới chuyện động từ “cảm ơn” không hề tồn tại trong vốn từ vựng của vợ tôi chưa nhỉ? Có thể là chưa. Có thể cho tới tận lúc này tôi vẫn chưa cần phải làm điều đó). Đôi mắt vợ tôi chợt sáng lên khi một ý nghĩ lóe lên trong đầu cô ta. “Chúng ta sẽ rót cho nó một ly rượu vang! Nó đã đủ lớn rồi!” Cô ta thúc khuỷu tay vào tôi như một trong những ông già các vị vẫn thấy ngồi trên các băng ghế kê hai bên bậc cấp tòa án, huyên thuyên kể cho nhau nghe những câu chuyện đùa tục tĩu. “Nếu chúng ta có thể làm mềm lưỡi nó ra một chút, có khi tôi và anh còn biết liệu nó đã làm gì với Shannon Cotterie... cái con ranh con đó, nhưng quả là con bé có mái tóc thật đẹp, điều này thì tôi thừa nhận.” “Trước hết hãy uống một ly nữa đã,” Kẻ Ma Quái nói. Vợ tôi uống thêm hai ly nữa, và thế là vừa vặn cạn chai. (Chai thứ nhất.) Tới lúc ấy, cô ta đang hát bài “Avalon” bằng giọng hát rong khá nhất của mình, và đảo mắt lúng liếng cũng với bộ dạng khá nhất của một ả hát rong mà cô ta có thể thể hiện ra được. Một trải nghiệm thật kinh khủng khi phải chứng kiến, và còn kinh khủng hơn khi phải lắng nghe. Tôi vào bếp lấy thêm một chai rượu vang nữa, và thầm tính rằng đã đến thời điểm thích hợp để gọi Henry. Mặc dù, như tôi đã nói ở trên, tôi không đặt nhiều hy vọng lắm vào thằng bé. Tôi chỉ có thể thực hiện được ý định của mình nếu con trai tôi đồng ý làm tòng phạm, và trong trái tim mình tôi tin thằng bé sẽ do dự trước việc phải làm khi thời gian cho việc nói suông đã hết và khoảnh khắc dành cho hành động thực sự tới. Nếu đúng thế, chúng tôi sẽ chỉ đơn thuần đưa vợ tôi về giường. Và đến sáng, tôi sẽ nói với cô ta rằng tôi đã đổi ý về chuyện bán trang trại bố tôi để lại. Henry tới, và không có dấu hiệu nào trên khuôn mặt trắng bệch, thiểu não của nó cho thấy chút hy vọng thành công nào. “Bố, con không nghĩ con có thể,” con trai tôi thì thầm. “Đó là mẹ.” “Nếu con không thể, thì có nghĩa là con không thể,” tôi nói, và trong những lời nói này không hề có chút gì của Kẻ Ma Quái. Tôi đành cam chịu; chuyện gì xảy ra thì cũng đã xảy ra. “Dù sao đi nữa, lần đầu tiên sau nhiều tháng mẹ con cũng được vui vẻ. Say mềm, nhưng vui vẻ.” “Không chỉ hơi chếnh choáng thôi sao? Bà ấy say mềm ư?” “Đừng ngạc nhiên; được tự do thoải mái theo ý thích của mình là điều duy nhất từng làm bà ấy vui vẻ. Tất nhiên 14 năm sống cùng mẹ con hẳn đã phải đủ dài để dạy cho con biết điều đó.” Cau mày, con trai tôi áp một tai vào cửa trong lúc người phụ nữ đã sinh ra nó thể hiện bằng giọng hát chói tai nhưng đúng từng chữ bài “McGee Bẩn Thỉu”. Henry cau mày khi nghe thấy bài hát thô tục của tửu quán đó, có lẽ vì phần điệp khúc (“Nàng sẵn sàng giúp hắn nhét nó vào/Vì đó lại là McGee Bẩn Thỉu”), mà nhiều khả năng hơn thế là do cách vợ tôi lè nhè nhả từng từ ra. Henry đã tuyên thệ trong một kỳ cắm trại của Hội Huynh đệ trẻ Giáo lý diễn ra vào kỳ cuối tuần của Ngày Lễ Lao Động năm trước. Tôi khoan khoái chứng kiến cú sốc của thằng bé. Khi những đứa trẻ tuổi vị thành niên không quay cuồng như chong chóng gió giữa cơn gió lốc, chúng sẽ cứng nhắc chẳng kém gì các vị Thanh giáo. “Mẹ con muốn con cùng tới với bố mẹ và uống một ly rượu vang.” “Bố, bố biết con đã hứa với Chúa là con sẽ không bao giờ uống rượu.” “Với mẹ con, con sẽ phải chấp nhận làm như thế. Bà ấy muốn uống mừng. Chúng ta sẽ bán mọi thứ và chuyển tới sống ở Omaha.” “Không!” “À... chúng ta sẽ biết thôi. Chuyện này thực sự phụ thuộc vào con đấy, con trai. Đi ra ngoài cửa đi.” Bà mẹ chếnh choáng đứng dậy khi cô ta nhìn thấy con trai, đưa hai cánh tay quàng lấy quanh hông thằng bé, áp sát người cô ta tới mức hơi quá chặt vào người nó, và phủ kín khuôn mặt nó với những cái hôn thái quá. Những cái hôn có mùi chẳng mấy dễ chịu, khiến con trai tôi nhăn mặt. Kẻ Ma Quái, trong lúc ấy, lại rót đầy rượu vang vào ly của cô ta, vốn lúc ấy đã lại cạn sạch. “Cuối cùng tất cả chúng ta lại ở cùng nhau! Những người đàn ông của tôi đã nhìn ra lẽ phải!” Vợ tôi giơ cao ly lên ra dấu chúc mừng, rồi dốc một phần kha khá rượu trong đó lên ngực mình. Cô ta cười phá lên rồi nháy mắt với tôi. “Nếu anh tử tế, Wilf, lát nữa anh có thể mút chúng ra khỏi vải được.” Henry nhìn mẹ nó với vẻ bối rối ghê sợ trong lúc cô ta lảo đảo lùi trở lại ghế xích đu, vén váy lên, rồi ngồi lên ghế, thả hai chân sang hai bên. Vợ tôi nhìn thấy vẻ mặt của con trai và bật cười. “Không cần phải ra vẻ khó tính thế. Tao đã thấy mày với Shannon Cotterie. Con nhóc ranh con, nhưng đúng là nó có mái tóc rất đẹp và khuôn mặt nhỏ nhắn dễ nhìn.” Cô ta uống nốt chỗ rượu vang còn lại rồi ợ lên. “Nếu mày vẫn chưa chạm tay được vào nó, mày quả là một thằng ngốc. Chỉ có điều tốt hơn mày nên cẩn thận. Mười bốn tuổi cũng không phải là quá trẻ để kết hôn đâu. Ngoài kia, ở vùng Trung Tâm, mười bốn tuổi không còn là quá trẻ để kết hôn với em họ của mày.” Cô ta tiếp tục cười phá lên một hồi, rồi lại chìa ly ra. Tôi rót đầy ly từ chai vang thứ hai. “Bố, mẹ uống đủ rồi đấy.” Henry lên tiếng, đầy vẻ phê phán không kém gì một ông mục sư. Trên đầu chúng tôi, những ngôi sao đầu tiên đã bắt đầu nhấp nháy trong tầm mắt trên khoảng không gian bao la trống rỗng mà tôi đã yêu quý suốt cả cuộc đời mình. “Ồ, bố không biết nữa,” tôi nói. “In vino veritas[5], đó là những gì Pliny Già[6] từng nói... ở một trong những cuốn sách mà mẹ con luôn dè bỉu.” “Tay cuốc ruộng cả ngày, mũi chúi vào sách cả đêm,” Arlette nói. “Ngoại trừ khi ông ấy có được thứ gì khác từ tao.” “Mẹ!” “Mẹ!” vợ tôi nhại lại giễu cợt, rồi giơ ly của cô ta lên hướng về phía trang trại của Harlan Cotterie, cho dù nó nằm ở quá xa để chúng tôi có thể trông thấy ánh đèn tại đó. Chúng tôi thậm chí cùng không thể nhìn thấy ánh đèn nhà họ cho dù nó có nằm lại gần hơn một dặm nữa, vì bây giờ ngô đã mọc lên khá cao. Khi mùa hè về với Nebraska, mỗi ngôi nhà ở vùng quê trông giống như một con tàu đang rẽ sóng giữa một đại dương mênh mông màu xanh lục. “Xin nâng ly vì Shannon Cotterie và anh chàng nhóc con của cô ta, và nếu cậu con trai của tôi vẫn chẳng biết đầu ti của cô nàng màu gì, thì đó là vì nó là một thằng bé chậm rề rề.” Con trai tôi không đáp lại, nhưng những gì tôi có thể nhìn thấy trên khuôn mặt tối sầm của nó khiến Kẻ Ma Quái hân hoan. Vợ tôi quay sang Henry, tóm lấy cánh tay thằng bé, rồi đổ rượu vang lên cổ tay nó. Tảng lờ những tiếng càu nhàu bất bình khe khẽ của con trai mình, nhìn thẳng vào mặt nó với vẻ kiên quyết đột ngột, cô ta nói. “Có điều hãy đảm bảo chắc chắn rằng khi mày nằm xuống cùng với nó ngoài đồng ngô đằng sau chuồng gia súc, mày sẽ không phải là đứa lề mề.” Cô ta gập các ngón tay của bàn tay còn rảnh lại, rồi chĩa ngón tay giữa ra, rồi dùng nó vẽ một vòng trên váy của mình: từ đùi trái qua đùi phải, lên bên phải bụng, qua rốn, sang bụng trái, rồi quay trở lại đùi trái. “Khám phá tất cả những gì mày thích, rồi dùng cái của mày cọ xát quanh chỗ đó cho đến khi nó thấy thật khoái và xì ra, nhưng hãy cố tránh xa chỗ đó nếu không mày sẽ phát hiện ra bị khóa chặt bên trong nó cả đời đấy, giống như bố mẹ mày vậy.” Con trai tôi đứng bật dậy và bỏ đi, vẫn không nói lấy một lời, và tôi cũng không trách thằng bé. Thậm chí cả với Arlette, đó quả là một màn trình diễn thô bỉ đến cùng cực. Chắc hẳn, con trai tôi đã thấy cô ta biến đổi trước mặt nó từ một người mẹ - một người đàn bà khó chịu nhưng thỉnh thoảng vẫn có những lúc đáng mến - trở thành một ả gái nhà thổ già đời đang dạy cách vào đời cho một khách hàng trẻ tuổi còn thiếu kinh nghiệm. Từng ấy đã đủ tệ hại, song thằng bé thực sự rất có tình cảm với cô bé nhà Cotterie, và chuyện này làm cho tình thế còn tệ hại hơn nữa. Những chàng trai còn quá trẻ không thể không đặt mối tình đầu của họ lên những cái bệ cao vời vợi, và nếu có kẻ nào đó dám cả gan diễu qua và nhổ vào tuyệt phẩm hoàn mỹ đó... cho dù người đó có là mẹ đẻ của anh ta đi chăng nữa... Tôi thoáng nghe thấy tiếng cửa phòng con trai tôi đóng sầm lại. Cùng tiếng nức nở, rất khẽ thôi nhưng cũng đủ để nghe rõ. “Em đã làm tổn thương cảm xúc của nó,” tôi nói. Vợ tôi bày tỏ quan điểm rằng các cảm xúc, cũng như sự công bằng, cũng là chỗ bấu víu cuối cùng của những kẻ yếu đuối. Sau đó cô ta lại chìa ly của mình ra. Tôi rót đầy rượu vang vào ly, biết rõ đến sáng mai cô ta sẽ chẳng còn nhớ gì về những điều đã nói ra (luôn với giả thiết cô ta vẫn còn sống vào lúc đó để đón chào buổi sáng), và sẽ phủ nhận - một cách dữ dội - nếu tôi kể lại cho cô ta biết. Tôi đã từng thấy vợ tôi ở trạng thái say mèm như thế này, nhưng chưa từng chứng kiến lại suốt nhiều năm qua. Chúng tôi kết thúc chai thứ hai (đúng ra là vợ tôi kết thúc nó) cùng nửa chai thứ ba trước khi cằm cô ta gục xuống bộ ngực loang lổ rượu vang, và cô ta bắt đầu ngáy. Phát ra sau khi đi qua phần cổ họng đang co thắt lại của vợ tôi, những tiếng ngáy đó nghe tựa như tiếng gầm gừ của một con chó xấu tính đang cáu bẳn. Tôi đưa một cách tay vòng qua sau hai vai cô ta, luồn bàn tay vào nách vợ tôi, và đỡ cô ta đứng dậy. Vợ tôi lầm bầm phản đối, vung một bàn tay sặc sụa mùi khó ngửi lên yếu ớt tát vào tôi. “Để tôi yên. Tôi muốn ngủ.” “Em sẽ được ngủ,” tôi nói. “Nhưng trên giường của em, chứ không phải ngoài cửa thế này.” Tôi dìu vợ tôi - loạng choạng và tiếp tục ngáy, một mắt nhắm nghiền, mắt kia mở ra với cái nhìn đờ đẫn - qua phòng khách. Cánh cửa phòng Henry bật mở. Con trai tôi đứng trên ngưỡng cửa, khuôn mặt vô cảm, trông già hơn nhiều so với tuổi của nó. Thằng bé gật đầu với tôi. Chỉ một cử chỉ cúi xuống duy nhất của cái đầu, nhưng nó đã nói cho tôi biết tất cả những gì tôi cần biết. Tôi đưa vợ về giường, cởi giày cho cô ta, và để mặc cô ta nằm đó ngáy với hai chân giang rộng và một tay vắt ra ngoài đệm. Tôi quay trở ra phòng khách và bắt gặp Henry đang đứng bên chiếc radio mà Arlette đã ép tôi phải mua năm trước. “Bà ấy không thể nói như thế về Shannon,” thằng bé lẩm bẩm. “Nhưng mẹ con sẽ nói,” tôi lên tiếng. “Bà ấy là như thế, Chúa đã tạo ra bà ấy như thế.” “Và bà ấy không thể bắt con phải rời xa Shannon.” “Cả điều đó nữa, mẹ con cũng sẽ làm,” tôi nói. “Nếu chúng ta để bà ấy tiếp tục.” “Chẳng lẽ bố không thể... Bố, chẳng lẽ bố không thể thuê luật sư cho mình sao?” “Theo con liệu bất cứ luật sư nào bố có thể thuê được với số tiền còm cõi bố có trong ngân hàng lại có thể chống lại được những luật sư Farrington sẽ tung ra để chống lại chúng ta không? Bọn họ có sức nặng ghê gớm tại hạt Hemingford; còn bố chẳng có gì để vung lên ngoài chiếc liềm mỗi khi cắt cỏ. Bọn họ muốn có 100 mẫu đất đó, và bà ấy muốn bọn họ có được chúng. Đây là cách duy nhất, nhưng con cần giúp bố. Con có giúp bố không?” Suốt một hồi lâu con trai tôi không nói gì. Nó cúi gằm đầu xuống, và tôi có thể thấy nước mắt chảy nhỏ giọt từ mắt nó xuống tấm thảm trải sàn. Sau đó, thằng bé khẽ nói, “Có. Nhưng nếu con phải tận mắt chứng kiến nó... con không dám chắc con có thể...” “Có một cách cho phép con vẫn giúp được bố mà không phải chứng kiến gì. Hãy đi ra nhà kho và lấy một cái bao tải.” Thằng bé làm đúng như tôi yêu cầu. Tôi đi vào bếp và chọn lấy con dao chặt thịt sắc nhất của vợ tôi. Khi con trai tôi quay về với cái bao tải và nhìn thấy con dao, mặt nó tái nhợt đi. “Liệu nhất thiết có cần đến nó không? Chẳng lẽ bố không thể... với một cái gối...” “Như thế sẽ quá lâu và đau đớn,” tôi nói. “Bà ấy sẽ chống cự.” Con trai tôi chấp nhận lời giải thích, như thể trước vợ mình tôi đã từng giết cả tá phụ nữ và biết rõ những gì cần phải làm. Nhưng tôi chẳng biết gì hết. Tất cả những gì tôi biết là trong tất cả những kế hoạch nửa vời của mình - hay nói cách khác là những giấc mơ ban ngày nhằm giũ bỏ cô ta - tôi luôn nhìn thấy con dao lúc này tôi đang cầm trong tay. Vậy nên sẽ là con dao đó. Hoặc con dao đó, hoặc không gì hết. Hai bố con tôi đứng đó trước ánh sáng của những ngọn đèn dầu - ở khu Hemingford Home vẫn chưa có điện lưới, ngoại trừ dùng máy phát, cho tới tận năm 1928 - nhìn nhau, khối im lặng lớn lao của đêm tối tồn tại ngoài kia, giữa vạn vật, chỉ bị phá vỡ bởi tiếng ngáy của vợ tôi. Thế nhưng vẫn còn một sự hiện diện thứ ba nữa trong căn phòng đó: ý chí không thể tránh khỏi của cô ta, thứ tồn tại biệt lập bên ngoài bản thân con người người đàn bà này (tôi nghĩ vào lúc ấy tôi đã cảm nhận được nó; và sau tám năm vừa trải qua, tôi hoàn toàn tin chắc). Đây là một câu chuyện ma, nhưng bóng ma đã ở sẵn đó thậm chí trước khi người đàn bà nó thuộc về chết đi. “Được thôi, bố. Chúng ta sẽ... chúng ta sẽ gửi bà ấy lên Thiên Đường.” Khuôn mặt Henry bừng sáng trước ý nghĩ này. Vào lúc này, với tôi dường như nó thật gớm ghiếc, nhất là khi tôi nghĩ tới cách mà thằng bé đã kết thúc cuộc đời nó. “Sẽ nhanh thôi,” tôi nói. Từ khi còn là một cậu nhóc, tôi đã chọc tiết một trăm tám mươi con lợn thịt, và tôi nghĩ sẽ đúng là như thế. Nhưng tôi đã nhầm. Cho phép tôi thuật lại thật nhanh. Vào những đêm tôi không thể nào ngủ được - và có rất nhiều đêm như thế - cảnh tượng đó lại hiện lên trở đi trở lại, từng nhát đâm, từng tiếng ho sặc, từng giọt máu, một cách chậm rãi đến tột độ, vậy nên hãy cho phép tôi kể lại thật nhanh. Hai bố con tôi đi vào phòng ngủ, tôi đi trước, cầm trong tay con dao chặt thịt, con trai tôi theo sau với cái bao tải. Chúng tôi bước đi rón rén, nhưng thực ra chúng tôi hoàn toàn có thể vừa đi vừa đánh trống thổi kèn mà cũng không khiến vợ tôi tỉnh giấc. Tôi ra hiệu cho Henry tới đứng bên phải tôi, gần đầu cô ta. Lúc này, chúng tôi có thể nghe thấy tiếng chiếc đồng hồ báo thức hiệu Big Ben đang tích tắc đều đặn trên chiếc bàn đêm hòa vào tiếng ngáy của vợ tôi, và một ý nghĩ thật kỳ cục chợt xuất hiện trong đầu tôi: hai bố con tôi giống như các bác sĩ đang chầu chực bên giường bệnh của một bệnh nhân quan trọng sắp qua đời. Nhưng tôi nghĩ về mặt nguyên tắc, các bác sĩ túc trực bên giường bệnh của người sắp chết không có cảm giác tội lỗi và sợ hãi như thế. Làm ơn hãy không để có quá nhiều máu, tôi thầm nghĩ. Làm ơn hãy để cái bao hứng được chúng. Thậm chí tốt hơn nữa, làm ơn hãy để thằng bé bỏ cuộc ngay bây giờ, vào phút cuối cùng. Nhưng con trai tôi không làm thế. Có thể thằng bé nghĩ tôi sẽ ghét nó nếu nó làm điều đó; có thể nó đã phó thác mẹ nó cho Thiên Đường; mà cũng có thể con trai tôi lúc đó đang nhớ tới ngón tay giữa thô bỉ đó cùng vòng tròn nó vẽ ra trên váy của vợ tôi. Tôi không biết nữa. Tôi chỉ biết thằng bé đã thì thầm, “Tạm biệt mẹ,” rồi chụp cái bao tải xuống đầu mẹ nó. Cô ta khịt mũi và cố vùng ra. Tôi đã định luồn tay xuống dưới cái bao tải để hoàn tất phần việc của mình, song con trai tôi cần ghì cái bao thật chặt xuống để giữ vợ tôi lại, và tôi không thể làm gì được. Tôi thấy mũi cô ta nhô lên thành một hình trông giống như vây lưng cá mập phía dưới bao tải. Tôi cũng thấy vẻ hốt hoảng bắt đầu xuất hiện trên mặt con trai tôi, và biết thằng bé sẽ không thể giữ được bao lâu nữa. Tôi tỳ một đầu gối xuống giường và ấn một bàn tay lên vai vợ tôi. Sau đó tôi rạch qua bao tải cắt xuống cái họng nằm bên dưới. Vợ tôi kêu thét lên và bắt đầu vùng vẫy dữ dội. Máu trào ra qua vết rạch trên cái bao tải. Hai bàn tay cô ta giơ lên quờ quạng trong không khí. Henry bật lùi ra xa giường trong tiếng kêu thất thanh. Tôi cố giữ lấy vợ tôi. Cô ta dùng hai bàn tay giằng lấy cái bao tải đang ngập dần trong máu, và tôi vung dao chém vào chúng, chặt đứt ba ngón tay của cô ta tới tận xương. Cô ta lại thét lên - một tiếng kêu lanh lảnh chói tai sắc nhọn như một mảnh băng - và bàn tay vùng đi nắm chặt lấy tấm ga trải giường. Tôi đâm thêm một đường đẫm máu nữa qua cái bao tải, rồi thêm một nhát nữa, rồi một nhát nữa. Năm nhát cả thảy trước khi vợ tôi hất tôi ra bằng bàn tay còn nguyên vẹn của cô ta, sau đó giật cái bao tải ra khỏi mặt mình. Cô ta không thể lột được hẳn nó ra khỏi đầu - cái bao bị mắc kẹt trong mớ tóc của cô ta - vậy là vợ tôi mang nó trên đầu như một mớ bùng nhùng. Tôi đã cắt đứt họng cô ta bằng hai nhát dao đầu tiên, nhát thứ nhất đủ sâu để làm lòi ra cả sụn khí quản của cô ta ra. Hai nhát đâm cuối cùng của tôi đã chọc lên má và miệng vợ tôi, nhát cuối sâu đến nỗi miệng cô ta bị rạch ra thành bộ dạng giống như một gã hề đang nhệch mồm cười. Nhát dao chạy dài tới tận tai cô ta, làm phô hết những chiếc răng ra. Vợ tôi bật ra một âm thanh giống như một tiếng rống tắc nghẹn, sặc sụa, tựa như âm thanh một con sư tử phát ra trong lúc giằng xé thức ăn. Máu từ cổ họng cô ta trào ra, phun tới tận mé ga trải ở phía cuối chân giường. Tôi vẫn còn nhớ lúc đó đã nghĩ trông nó giống như màu của rượu vang khi cô ta giơ ly lên trong những tia sáng cuối cùng của buổi chiều tà. Vợ tôi cố vùng dậy khỏi giường. Thoạt tiên tôi ngớ người ra đờ đẫn, sau đó bực bội nổi giận. Cô ta luôn là một mối phiền toái rắc rối cho tôi trong suốt cuộc hôn nhân của chúng tôi, và thậm chí ngay cả tới lúc này vẫn là nỗi phiền toái, vào khoảnh khắc của cuộc ly hôn đẫm máu này. Nhưng tôi còn có thể trông đợi được gì khác đây? “Ôi bố, hãy làm cho bà ấy dừng lại đi!” Henry thét lên. “Hãy làm bà ấy dừng lại, ôi bố, vì lòng kính Chúa, hãy làm bà ấy dừng lại!” Tôi đè ập lên người cô ta như một người tình nồng nhiệt và vật cô ta nằm trở lại xuống cái gối ướt sũng máu của chính cô ta. Lại có thêm những tiếng gầm gừ dữ dội nữa vang lên từ sâu trong cổ họng bị cắt đứt của vợ tôi. Đôi mắt cô ta đảo tròn trong hốc mắt, nước mắt ứa ra. Tôi dùng một tay túm lấy tóc cô ta, ấn đầu cô ta ngửa ra sau, và lại cắt cổ vợ tôi lần nữa. Sau đó, tôi lột tấm ga trải ở phía mình ra khỏi đệm, rồi hất nó lên trùm lên đầu cô ta, hứng lấy toàn bộ máu phun ra từ tĩnh mạch cảnh, trừ tia đầu tiên. Mặt tôi đã hứng trọn tia máu đó, và lúc này những giọt máu nóng hổi đang nhỏ xuống từ cằm, mũi và hai bên lông mày của tôi. Đằng sau tôi, những tiếng la hét của Henry đã ngừng lại. Tôi ngoảnh ra sau nhìn và nhận ra rốt cuộc Chúa cũng đã rủ lòng thương thằng bé (tôi đoán Người đã không ngoảnh mặt đi khi Người chứng kiến điều chúng tôi đang làm): nó đã ngất xỉu. Những phản xạ vùng vẫy của vợ tôi bắt đầu yếu dần. Cuối cùng, cô ta nằm im... nhưng tôi vẫn đè lên người cô ta, ấn tấm ga trải giường, lúc này ướt sũng máu của vợ tôi, xuống thật chặt. Tôi nhắc mình rằng vợ tôi chưa bao giờ chịu làm cho chuyện gì trở nên dễ dàng. Và tôi đã đúng. Sau ba mươi giây (chiếc đồng hồ nhỏ xíu đặt hàng qua bưu điện đã đếm rõ từng giây một), cô ta lại vùng lên lần nữa, lần này cong lưng lên mạnh đến nỗi thiếu chút nữa hất tôi văng ra. Cưỡi chúng đi, chàng cao bồi, tôi nghĩ. Mà cũng có thể tôi đã nói to lên thành tiếng. Về chuyện này thì tôi không còn nhớ nữa, xin Chúa hãy giúp con. Mọi thứ khác, nhưng trừ chuyện đó ra. Cô ta lắng xuống. Tôi đếm thêm ba mươi tiếng tích khe khẽ nữa, rồi thêm ba mươi tiếng nữa, để ước lượng chính xác thời gian. Dưới sàn nhà, Henry bắt đầu cựa quậy và rên rỉ. Thằng bé loay hoay định ngồi dậy, nhưng rồi lại đổi ý. Con trai tôi bò ra góc phòng xa nhất, cuộn tròn người lại như một quả bóng. “Henry?” tôi gọi. Không có âm thanh nào vang lên từ bóng người co ro trong góc phòng. “Henry, bà ấy chết rồi. Bà ấy đã chết và bố cần con giúp.” Vẫn không có gì. “Henry, giờ đã quá muộn để quay lại rồi. Việc cần làm đã được làm xong. Nếu con không muốn vào tù - và phải thấy bố con lên ghế điện - thì hãy đứng lên và lại đây giúp bố.” Thằng bé loạng choạng lê bước tới gần chiếc giường. Tóc nó xõa xuống tới tận đôi mắt; hai con mắt lấp lánh phía sau những lọn tóc đẫm mồ hôi bết lại, trông giống như mắt của một con thú hoang nấp sau những bụi cây. Con trai tôi không ngớt liếm môi. “Đừng giẫm lên máu. Ở đây chúng ta đã có quá nhiều thứ phải lau dọn hơn so với bố muốn, nhưng chúng ta có thể lo được. Nếu chúng ta không làm máu giây ra khắp nhà, ý bố là vậy.” “Con có phải nhìn bà ấy không? Bố, con có phải nhìn không?” “Không. Không ai trong chúng ta phải nhìn cả.” Hai bố con tôi lật vợ tôi lại, biến tấm ga trải giường thành vải liệm cho cô ta. Sau khi đã làm xong việc này, tôi nhận ra hai bố con tôi không thể đưa cô ta ra khỏi nhà theo cách đó được; trong những kế hoạch nửa vời và những giấc mơ ban ngày của mình, tôi chưa từng thấy gì hơn ngoài một vệt máu nhỏ xíu giây bẩn trên ga trải giường ở dưới nơi cổ họng vợ tôi bị cắt (nơi cổ họng vợ tôi bị cắt thật ngọt). Tôi đã không hề lường trước hay thậm chí cân nhắc tới thực tế: cả tấm ga trải giường trắng muốt đã chuyển thành màu đỏ sẫm bầm đen trong căn phòng tranh tối tranh sáng, không ngừng nhỏ ra từng giọt máu như một miếng bọt biển ướt sũng sẽ nhỏ nước ra vậy. Trong tủ quần áo có một chiếc mền bông. Tôi không thể đừng được một thoáng tự hỏi về những gì mẹ tôi sẽ nghĩ nếu bà chứng kiến tôi sử dụng món quà cưới được khâu rất đẹp đó vào một việc như thế này. Tôi trải nó xuống sàn. Hai bố con tôi ném Arlette lên nó. Sau đó, chúng tôi cuộn tròn cô ta lại. “Nhanh lên,” tôi nói. “Trước khi cả thứ này cũng rỉ máu ra. Không... đợi đã... đi tìm một cái đèn.” Con trai tôi chạy đi lâu đến mức tôi bắt đầu sợ không khéo thằng bé đã bỏ trốn. Thế rồi tôi nhìn thấy ánh sáng chập chờn hiện lên trên lối đi ngắn chạy ngang qua phòng ngủ của nó sang căn phòng nơi Arlette và tôi ngủ chung. Từng ngủ chung. Tôi có thể thấy nước mắt chảy ròng ròng trên khuôn mặt tái nhợt như nặn bằng sáp của thằng bé. “Đặt nó lên bàn.” Con trai tôi đặt cái đèn lên trên cuốn sách tôi từng đọc dở dang: Đường phố chính của Sinclair Lewis. Tôi chưa bao giờ đọc xong cuốn sách đó; tôi không bao giờ có đủ sức chịu đựng để đọc xong nó. Dưới ánh sáng của cây đèn, tôi chỉ ra những vệt máu trên sàn nhà, và vũng máu ở ngay bên cạnh giường. “Vẫn còn nhiều nữa đang chảy ra khỏi mền,” con trai tôi nói. “Giá mà con biết bà ấy có bao nhiêu máu trong người...” Tôi lột lấy chiếc vỏ gối của mình, và lồng nó ra ngoài phần cuối tấm mền như xỏ tất vào một cẳng đang chân chảy máu vậy. “Hãy cầm lấy chân bà ấy,” tôi nói. “Chúng ta cần làm việc này ngay bây giờ. Và đừng có ngất xỉu lần nữa đấy, Henry, vì bố không thể một mình làm tất cả đâu.” “Con ước gì đây là một giấc mơ,” con trai tôi nói, nhưng thằng bé cũng cúi người xuống và luồn cánh tay ôm vòng quanh phần cuối tấm mền. “Giờ thì khẩn trương lên. Trước khi cái vỏ gối hoặc phần còn lại của tấm mền bắt đầu rỉ máu ra.” Hai bố con tôi khiêng vợ tôi xuống nhà dưới, đi qua phòng khách, rồi mang qua cửa trước như hai người đang khiêng một món đồ bọc trong vải bạt. Khi chúng tôi đã bắt đầu bước xuống bậc thềm, tôi hít thở dễ dàng hơn một chút; vết máu ngoài sân có thể dễ dàng che dấu đi được. Henry vẫn ổn cả cho tới khi hai chúng tôi đi tới góc nhà kho chứa ngô và cái giếng cũ hiện lên trước mắt. Xung quanh giếng có những cọc rào gỗ để không ai vô tình lỡ chân bước lên cái nắp gỗ đậy giếng. Những chiếc cọc trông thật u ám và khủng khiếp dưới ánh sao, và khi nhìn thấy chúng, Henry bật kêu thất thanh. “Đó không phải là một nấm mộ cho một người mẹ... mà...” Thằng bé cố gắng nói được đến đó, rồi ngất xỉu đổ vật xuống bụi cây dại mọc um tùm sau nhà kho. Đột nhiên, tôi phải một mình đỡ lấy tất cả sức nặng của người vợ vừa bị sát hại của mình. Tôi nghĩ tới chuyện đặt gánh nặng gớm ghiếc này xuống - lớp vải quấn bên ngoài đều đã bị xô lệch, và bàn tay bị chém thò ra ngoài - một lúc, đủ lâu để lay cho thằng bé hồi tỉnh lại. Rồi tôi quyết định sẽ nhân đạo hơn nếu tôi để cho nó được nằm yên đó. Tôi kéo vợ mình tới bên thành giếng, đặt cô ta xuống, và nhấc cái nắp gỗ lên. Trong lúc tôi đặt cái nắp tựa vào hai cọc rào, mùi của cái giếng bốc lên phả thẳng vào mặt tôi: mùi hôi nồng nặc của nước tù đọng và thực vật mục ruỗng. Tôi cố vật lộn với cảm giác buồn nôn và thua cuộc. Nắm lấy hai cọc rào để giữ thăng bằng, tôi cúi gập người xuống để nôn thốc nôn tháo ra toàn bộ bữa tối cũng như chút ít rượu vang tôi đã uống. Có tiếng lõm bõm âm vang vọng lên khi chúng rơi xuống mặt nước đen ngòm phía dưới. Tiếng lõm bõm đó, cũng như câu thầm nghĩ Cưỡi chúng đi, chàng cao bồi, đã luôn hằn sâu trong hồi ức của tôi để sẵn sàng sống lại bất cứ lúc nào trong suốt tám năm vừa qua. Tôi sẽ bật dậy giữa đêm khuya với tiếng vọng đó âm vang trong đầu, và cảm thấy những dằm gỗ trên các cọc rào đâm vào lòng bàn tay tôi khi tôi nắm chặt lấy chúng, như thể bám chặt lấy cuộc sống quý giá. Tôi lùi ra xa cái giếng, và vấp phải cái bọc đang gói lấy Arlette. Tôi ngã nhào. Bàn tay bị chém của cô ta chỉ nằm cách đôi mắt tôi có vài inch[7]. Tôi nhét nó trở lại vào trong tấm mền, rồi sau đó vỗ lên, như thể muốn an ủi cô ta. Henry vẫn nằm giữa bụi cây, đầu gối lên một cánh tay. Trông thằng bé giống như một đứa trẻ đang ngủ sau một ngày vất vả vào vụ gặt. Trên trời, các vì sao cùng tỏa ánh sáng xuống, hàng nghìn, thậm chí là hàng chục nghìn. Tôi có thể nhìn thấy các chòm sao - Thợ Săn, Thiên Hậu và Bắc Đẩu - mà bố tôi từng dạy cho tôi. Ở phía đằng xa, con chó Rex của gia đình Cotterie bỗng sủa lên một chặp rồi im bặt. Tôi vẫn nhớ lúc đó đã nghĩ, Đêm nay sẽ không bao giờ kết thúc. Và đúng là như thế. Theo mọi cách nhìn nhận quan trọng, nó chưa bao giờ kết thúc. Tôi vác gánh nặng lên hai cánh tay, và chiếc bọc cựa quậy. Tôi lạnh toát người, hơi thở nín lại bất chấp tim đang đập như đánh trống. Chắc chắn mình không cảm thấy nó, tôi thầm nghĩ. Tôi đợi nó xuất hiện lần nữa. Hoặc có thể là đợi bàn tay cô ta thò ra khỏi cái mền lần nữa, tìm cách tóm lấy cổ tay tôi bằng những ngón tay bị chém gần gãy lìa. Chẳng có gì cả. Tôi đã tưởng tượng ra mọi chuyện. Chắc chắn là thế rồi. Và vậy là tôi ném vợ tôi xuống giếng. Tôi thấy tấm mền xổ tung ra ở phía đầu không được cái vỏ gối giữ lại, sau đó là âm thanh của cú rơi. Một tiếng bõm lớn hơn nhiều so với âm thanh tôi gây ra khi nôn mửa, nhưng bên cạnh đó cũng có cả một tiếng thịch nặng nề. Tôi biết lớp nước dưới đó không sâu lắm, nhưng đã hy vọng để che kín vợ tôi. Tiếng thịch đó cho tôi biết nước không đủ sâu. Một tràng cười lanh lảnh bắt đầu vang lên sau lưng tôi, một âm thanh gần với sự điên rồ tới mức khiến khắp lưng tôi nổi da gà tới tận sát cổ. Henry đã tỉnh lại và đứng lên. Không, còn hơn thế nữa. Thằng bé đang nhảy cẫng lên phía sau nhà kho, giơ hai cánh tay vung vẩy hướng lên bầu trời chi chít đầy sao, và bật cười. “Mẹ ở dưới giếng và tôi mặc kệ!” thằng bé hát lên thành tiếng. “Mẹ ở dưới giếng và tôi mặc kệ, vì chủ nhân của tôi đã bỏ đi...i..i!” Bằng ba sải bước, tôi đến bên nó và tát thằng bé mạnh hết sức có thể, để lại những vết ngón tay đỏ bầm trên gò má đầy lông tơ vẫn chưa từng biết mùi dao cạo. “Im miệng lại! Tiếng của con sẽ vang rất xa! Đồ... Thấy chưa, cậu bé ngốc nghếch, con đã đánh thức con chó chết tiệt đó lần nữa rồi.” Rex sủa một tràng, rồi hai, rồi ba lần. Rồi im bặt. Chúng tôi cùng đứng đó, tôi đang bấu chặt lấy hai vai Henry, đầu ngẩng lên lắng nghe. Mồ hôi ròng ròng chảy xuống sau gáy tôi. Rex sủa thêm lần nữa, rồi im hẳn. Nếu có ai đó trong gia đình Cotterie thức giấc, hẳn họ sẽ nghĩ rằng con chó vừa sủa theo một con gấu trúc Mỹ. Hoặc ít nhất đó là những gì tôi hy vọng. “Đi vào nhà thôi,” tôi nói. “Điều tồi tệ nhất đã qua rồi.” “Thật thế sao, bố?” thằng bé nghiêm nghị nhìn tôi. “Thật thế sao?” “Phải. Con không sao chứ? Con sẽ không bị ngất nữa chứ?” “Con ư?” “Phải.” “Con ổn cả. Con chỉ... con không biết tại sao con lại cười phá lên như thế. Con rất bối rối. Bởi vì con cảm thấy nhẹ nhõm, con đoán là vậy. Tất cả đã kết thúc!” Thằng bé bật cười khùng khục, rồi đưa hai bàn tay lên che miệng giống như một cậu nhóc vừa vô ý nói ra một từ không hay trước mặt bà nó. “Phải,” tôi nói. “Tất cả đã xong rồi. Chúng ta sẽ ở lại đây. Mẹ con đã bỏ chạy tới St. Louis... mà cũng có thể là Chicago... nhưng chúng ta sẽ ở lại đây.” “Bà ấy...?” Đôi mắt thằng bé liếc nhìn về phía cái giếng, và cái nắp giếng đang tựa vào ba trong số các cọc rào, hiện lên với vẻ gì đó thật dữ tợn dưới ánh sao. “Phải, Hank, mẹ con đi rồi.” Mẹ thằng bé rất ghét mỗi khi nghe tôi gọi con trai là Hank, cô ta luôn nói gọi như thế thật quê mùa, nhưng giờ thì cô ta chẳng thể can thiệp gì vào chuyện này được nữa. “Lên cao trên kia và lạnh lùng bỏ chúng ta lại. Và tất nhiên chúng ta rất buồn, nhưng cùng lúc đó, những công việc đồng áng sẽ không thể đợi được. Và trường học cũng không.” “Và con vẫn có thể...làm bạn với Shannon.” “Tất nhiên rồi,” tôi nói, và trong tâm trí mình tôi lại thấy ngón tay giữa của Arlette vẽ nên cái vòng dâm dật đó trên váy của cô ta. “Tất nhiên con có thể. Nhưng nếu có lúc nào đó con cảm thấy bị thúc bách phải thú nhận với Shannon...” Vẻ kinh hoàng hiện lên trên khuôn mặt thằng bé. “Không bao giờ!” “Đó là những gì con nghĩ lúc này, và bố rất vui về điều đó. Nhưng nếu đến lúc nào đó sự thúc bách tới với con, hãy nhớ kỹ điều này: mẹ con đã bỏ chúng ta đi.” “Chắc chắn là thế rồi,” con trai tôi lẩm bẩm. “Giờ hãy vào trong nhà và lấy cả hai cái xô dùng để lau nhà ra. Tốt nhất hãy lấy thêm hai cái xô đựng sữa ở nhà kho nữa. Dùng bơm ở nhà bếp bơm đầy nước vào các xô và đổ vào trong đó thứ mà bà ấy cất dưới chậu rửa.” “Con có cần đun nóng nước lên không?” Tôi chợt nghe thấy tiếng mẹ tôi vang lên, Nước lạnh cho máu, Wilf. Hãy nhớ điều đó. “Không cần,” tôi nói. “Bố sẽ vào nhà ngay sau khi đậy nắp giếng trở lại chỗ cũ.” Con trai tôi bắt đầu quay đi, nhưng rồi lại nắm lấy tay tôi. Hai bàn tay nó lạnh đến phát sợ. “Không bao giờ có ai được biết!” Thằng bé thì thầm với tôi bằng giọng khản đặc. “Không bao giờ có ai được biết việc chúng ta đã làm!” “Sẽ không bao giờ có ai biết cả,” tôi nói, với giọng can đảm hơn nhiều so với những gì tôi thực sự cảm thấy. Mọi thứ đã bắt đầu trở nên bất ổn, và tôi cũng đã bắt đầu nhận ra một tội ác chẳng bao giờ giống như giấc mơ về một tội ác. “Bà ấy sẽ không quay lại nữa chứ, phải không bố?” “Gì cơ?” “Bà ấy sẽ không ám ảnh[8]chúng ta, đúng không bố?” Chỉ có điều nó lại nói thành haint, kiểu phát âm nông thôn luôn khiến Arlette lắc đầu đảo mắt thất vọng. Chỉ tới lúc này, tám năm sau, tôi mới nhận ra haint đọc lên nghe giống hate[9] đến thế nào. “Không,” tôi trả lời. Nhưng tôi đã lầm. Tôi nhìn xuống giếng, mặc dù cái giếng chỉ sâu có sáu mét, nhưng tối hôm đó trời không có trăng và tất cả những gì tôi nhìn thấy chỉ là đường nét lờ mờ của cái mền. Hoặc có thể đó là cái vỏ gối. Tôi ngả nắp giếng về chỗ cũ, chỉnh lại nó cho ngay ngắn, rồi đi trở vào trong nhà. Tôi cố đi theo đúng con đường hai bố con tôi đã mang cái bọc ghê rợn đó ra khỏi nhà, cố tình di chân thật mạnh để hy vọng xóa sạch mọi vết máu. Đến sáng, tôi sẽ thu dọn cẩn thận hơn. Tối hôm đó, tôi khám phá ra một điều mà phần lớn những người khác không bao giờ phải trải nghiệm qua: giết người là tội ác, giết người là sự nguyền rủa (tất nhiên là với tâm trí và tinh thần của con người ta, thậm chí dù những kẻ vô thần đúng và chẳng có thế giới bên kia nào hết), nhưng giết người cũng là vô số việc phải làm. Chúng tôi lau chùi cọ rửa trong phòng ngủ cho tới khi lưng đau ê ẩm, rồi chuyển sang lối đi bên ngoài, xuống phòng khách, và cuối cùng là ngoài cửa. Cứ mỗi lần chúng tôi nghĩ đã xong việc, một trong hai người lại phát hiện ra một vết máu nữa. Khi bình minh bắt đầu hé rạng ở phía đông, Henry đang quỳ gối xuống lau những kẽ hở giữa các tấm ván lát sàn phòng ngủ, và tôi cũng ở tư thế tương tự dưới phòng khách, kiểm tra lại tấm thảm trải sàn của Arlette từng ly từng tý một, tìm kiếm xem còn vết máu nào có thể làm chúng tôi bại lộ hay không. Ở trên tấm thảm không có vết máu nào - về chuyện này chúng tôi đã gặp may - nhưng ngay cạnh thảm có một vệt máu bằng cỡ đồng xu. Tôi lau sạch nó, rồi quay lại phòng ngủ của tôi để xem Henry xoay xở ra sao. Con trai tôi lúc này dường như đã có vẻ khá hơn, và cả tôi cũng cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Tôi nghĩ cảm giác đó có được nhờ ánh sáng ban ngày, vốn có vẻ luôn xua đi những cơn kinh hoàng khủng khiếp nhất của chúng ta. Nhưng khi George, con gà trống của chúng tôi, cất tiếng gáy đầu tiên của ngày hôm đó, Henry nhảy cẫng lên. Sau đó nó bật cười. Đó là một tiếng cười khẽ, và vẫn có gì đó không ổn trong tiếng cười đó, nhưng dù sao nó vẫn không khiến tôi rởn gai ốc như lúc thằng bé bật cười sau khi tỉnh lại sau nhà kho gần chỗ cái giếng. “Bố, hôm nay con không thể đến trường được. Con mệt quá. Và... con nghĩ rất có thể người ta sẽ nhìn thấy gì đó trên mặt con. Nhất là Shannon.” Thậm chí tôi đã chẳng hề nghĩ tới chuyện thằng bé phải đến trường học, thêm một dấu hiệu nữa của việc lên kế hoạch nửa vời. Nửa vời một cách chết tiệt. Đáng ra tôi phải hoãn thời điểm ra tay lại cho tới khi trường học của hạt nghỉ hè. Như thế cũng chỉ đồng nghĩa với hoãn lại có một tuần mà thôi. “Con có thể ở nhà tới thứ Hai, sau đó nói với thầy giáo con bị cúm và không muốn lây sang các bạn còn lại trong lớp.” “Đó không phải là bệnh cúm, nhưng đúng là con rất mệt.” Cả tôi cũng thế. Chúng tôi trải một tấm ga sạch lấy ra từ tủ đựng chăn ga của vợ tôi (có quá nhiều thứ trong ngôi nhà này từng là của cô ta... nhưng không còn là thế nữa) và vứt toàn bộ chỗ chăn đệm thấm máu lên đó. Cái đệm, tất nhiên, cũng thấm đầy máu, và cũng phải biến mất. Còn một tấm đệm khác, không được tốt lắm, trong kho chứa đồ sau nhà. Tôi cuộn toàn bộ chăn ga lại, còn Henry mang cái đệm. Hai chúng tôi lại quay lại chỗ cái giếng ngay trước khi mặt trời ló rạng phía chân trời. Bầu trời phía trên hoàn toàn quang đãng. Sẽ là một ngày tốt cho ngô. “Con không thể nhìn xuống dưới đó, bố ơi.” “Con không cần phải nhìn,” tôi nói, và một lần nữa lại nhấc cái nắp giếng lên. Tôi đang nghĩ đáng ra ngay từ đầu tôi phải để nguyên cái nắp dựng lên - nghĩ trước, đỡ công, bố tôi vẫn thường hay nói vậy - và biết rằng tôi chẳng bao giờ có thể thực hiện được như thế. Sau khi đã cảm nhận (hay nghĩ rằng tôi cảm thấy) thấy cú co giật cuối cùng đó. Giờ tôi có thể nhìn thấy tận đáy giếng, và những gì tôi nhìn thấy thật khủng khiếp. Vợ tôi đã rơi xuống ở tư thế ngồi, với hai chân gập lại dưới thân mình. Tấm vỏ gối đã rách tung ra và nằm trên lòng cô ta. Tấm mền và ga trải giường đều bị xổ tung và trải ra quanh hai vai cô ta như tấm khăn choàng của một quý bà cầu kỳ. Cái bao tải, bị mắc kẹt quanh đầu vợ tôi và giữ mái tóc cô ta ngả ra sau như một cái lưới buộc tóc, hoàn tất nốt bức tranh: trông vợ tôi gần như thế cô ta đang thắng bộ vào cho một buổi tối vào thành phố đi chơi. Phải! Một buổi tối trong thành phố! Đó là lý do tại sao tôi hạnh phúc đến thế! Đó là lý do tại sao tôi cười hết cỡ tới tận hai bên tai như thế! Và anh có nhận ra thứ son tôi dùng đỏ đến thế nào không, Wilf? Tôi chưa bao giờ mang màu son này tới nhà thờ, đúng không nào? Không, đây là thứ son môi một người phụ nữ dùng khi cô ta muốn làm chuyện xấu xa đó với người đàn ông của cô ta. Xuống dưới này đi nào, Wilf, sao anh không xuống? Đừng bận tâm tới thang làm gì, chỉ cần nhảy xuống thôi! Hãy cho tôi biết anh thèm muốn tôi dữ dội tới mức nào! Anh đã làm một chuyện xấu xa với tôi, giờ hãy để tôi làm một chuyện xấu xa với anh! “Bố ơi?” Henry đang đứng quay mặt về phía nhà kho, hai vai rũ xuống, như một đứa trẻ đang chờ đợi bị đánh đòn. “Mọi thứ ổn cả chứ ạ?” “Phải.” Tôi ném bọc chăn ga xuống, hy vọng nó sẽ rơi trùm lên trên vợ tôi và che đi khuôn mặt đang ngửa lên cười nhăn nhở một cách ghê rợn đó, nhưng trớ trêu thay nó lại rơi xuống lòng cô ta. Giờ đây, trông cô ta như thể đang ngồi giữa một đám mây kỳ quái nhuốm đầy máu. “Bà ấy đã được che kín chưa? Bà ấy đã được che kín chưa, bố ơi?” Tôi cầm lấy cái đệm và ném nó xuống giếng. Nó rơi thẳng đứng xuống mặt nước đục ngầu rồi đập vào thành giếng lát đá cuội, làm thành một tấm che nằm nghiêng bên trên vợ tôi, và cuối cùng cũng che khuất đi cái đầu đang ngửa ra sau và cái miệng cười đẫm máu của cô ta. “Giờ thì bà ấy đã bị che đi rồi.” Tôi đậy cái nắp bằng gỗ về chỗ cũ của nó, biết rằng vẫn còn nhiều công việc chờ đợi phía trước: cái giếng sẽ phải bị lấp đầy. À, dẫu sao thì đó là việc đằng nào cũng phải làm từ lâu rồi. Đó là một chỗ nguy hiểm, chính vì thế tôi đã cắm các cọc rào thành vòng xung quanh cái giếng. “Bố con mình hãy vào nhà ăn sáng đi.” “Con không thể ăn được gì đâu!” Nhưng rồi nó cũng ăn. Cả hai bố con tôi đều ăn. Tôi rán trứng, thịt muối và khoai tây, rồi hai chúng tôi ăn hết sạch. Làm việc vất vả làm cho con người ta đói ngấu. Ai cũng biết thế cả. Henry ngủ cho tới tận cuối buổi chiều hôm đó. Tôi thức cả ngày. Một phần trong những giờ đó, tôi ngồi bên bàn ăn trong bếp, uống hết cốc này đến cốc khác cà phê đen. Trong thời gian còn lại, tôi đi lang thang ngoài cánh đồng ngô, từ luống này sang luống khác, lắng nghe tiếng những tàu lá ngô nhọn như những thanh kiếm va vào nhau lào xào trong một cơn gió nhẹ. Vào tháng Sáu, khi những cây ngô trổ cờ, dường như chúng có thể nói được. Điều đó khiến một số người băn khoăn (và có những kẻ ngu ngốc nói rằng đó là âm thanh của những cây ngô đang vươn lên), nhưng tôi luôn thấy âm thanh lặng lẽ đó thật dễ chịu. Nó giúp đầu óc tôi tỉnh táo. Lúc này đây, trong lúc ngồi giữa căn phòng khách sạn ở thành phố này, tôi thấy nhớ âm thanh đó biết chừng nào. Với một con người của đồng quê, cuộc sống thành thị không còn là cuộc sống nữa; với một con người như thế, cuộc sống này bản thân nó đã là một sự nguyền rủa. Tôi chợt nhận ra thú tội cũng là một việc thật nặng nề. Tôi bước đi, lắng nghe tiếng lá ngô xào xạc, tôi cố sắp xếp một kế hoạch, và cuối cùng đúng là tôi đã vạch ra một kế hoạchthật. Tôi buộc phải làm thế, và không chỉ cho bản thân tôi. Từng có một thời chỉ chưa đến 20 năm trước, khi một người ở vị thế của tôi chẳng cần gì phải lo lắng; vào những ngày đó, công việc làm ăn của một người là chuyện riêng của bản thân anh ta, nhất là khi anh ta tình cờ lại là một nông dân đáng tôn trọng: một người đóng thuế đàng hoàng, tới nhà thờ mỗi ngày Chủ nhật, cổ vũ cho đội bóng chày Hemingford Stars, và thẳng thừng bỏ phiếu cho Đảng Cộng hòa. Tôi nghĩ vào những ngày đó, từng có đủ loại biến cố xảy ra tại các trang trại ở nơi chúng tôi gọi là “ở giữa”. Những việc diễn ra mà không ai bận tâm đến, chứ đừng nói gì tới báo cáo lại. Vào thời đó, một người vợ được coi là chuyện riêng tư của người đàn ông, và nếu cô ta biến mất, thì mọi việc cũng kết thúc ở đó. Nhưng những ngày đó đã trôi qua, và cho dù chúng chưa trôi qua... thì vẫn còn đó khu đất. Một trăm mẫu đất. Công ty Farrington muốn có được khu đất đó cho cái lò mổ lợn chết tiệt của bọn họ, và Arlette đã làm bọn họ tin rằng họ sắp có được khu đất. Điều này cũng đồng nghĩa với nguy hiểm, và nguy hiểm có nghĩa là những giấc mơ ngày và các kế hoạch nửa chừng nửa vời không còn là đủ nữa. Khi tôi quay trở lại nhà vào giữa buổi chiều, tôi mệt nhoài, nhưng đầu óc cuối cùng cũng trở nên sáng suốt và bình tĩnh lại. Mấy con bò sữa của chúng tôi đang rống lên, giờ vắt sữa buổi sáng của chúng qua đã quá lâu. Tôi bắt tay vào vắt sữa, rồi thả chúng ra bãi cỏ, để chúng lại đó tới tận lúc hoàng hôn thay vì lùa chúng về để vắt sữa lần thứ hai sau bữa chiều. Đám bò sữa chẳng mấy bận tâm đến chuyện đó; chúng chấp nhận những gì xảy đến. Nếu Arlette giống như một con bò sữa của chúng tôi, tôi thầm nghĩ, hẳn lúc này cô ta vẫn còn sống và đang làm tình làm tội tôi để có được chiếc máy giặt mới trong ca ta lô của Monkey Ward[10]. Và hẳn tôi đã phải mua cái máy giặt ấy cho cô ta. Vợ tôi luôn khuất phục được tôi bằng lời nói. Ngoại trừ khi liên quan tới đất đai. Về chuyện này đáng ra cô ta phải biết điều hơn. Đất đai là việc của đàn ông. Henry vẫn còn đang ngủ. Trong những tuần sau đó, thằng bé ngủ rất nhiều, và tôi để mặc cho nó ngủ, mặc dù bình thường vào mùa hè tôi thường giao việc cho nó làm kín ngày sau khi trường học đã nghỉ hè. Và con trai tôi cũng bận rộn hết mọi buổi tối của nó, hoặc tới chơi nhà Cotterie, hoặc lang thang theo con đường đất đầy bụi của chúng tôi với Shannon, hai đứa cầm tay nhau cùng ngắm trăng lên. Nghĩa là khi chúng không hôn nhau. Tôi hy vọng việc hai bố con tôi làm đã không làm hỏng mất những khoảng thời gian riêng tư ngọt ngào đó của thằng bé, song buộc phải tin là thế. Rằng tôi đã gây ra hậu quả đó. Và tất nhiên tôi hoàn toàn đúng. Tôi gạt bỏ những ý nghĩ như thế ra khỏi đầu, tự nhủ rằng lúc này thằng bé đang ngủ, và thế là đủ. Tôi cần tới xem lại tình hình ở chỗ cái giếng lần nữa, và tốt nhất nên làm việc này một mình. Cái giường đã lột hết chăn ga của vợ chồng tôi dường như đang âm thầm tố cáo hành động sát nhân. Tôi tới bên tủ quần áo và xem xét trang phục của vợ tôi. Phụ nữ luôn có quá nhiều quần áo, phải không nào? Nào váy liền, váy rời, áo cánh, áo lên và các loại đồ lót - một số món đồ loại này trông phức tạp và lạ lùng tới mức một người đàn ông thậm chí không thể luận ra được đâu là đằng trước. Lấy hết đi sẽ là một sai lầm, vì chiếc xe tải vẫn đậu bên nhà kho và chiếc Model T[11]dưới gốc cây du. Vợ tôi đã đi bộ rời khỏi nhà và chỉ lấy đi những gì cô ta có thể mang theo. Tại sao cô ta không lấy chiếc Model T? Vì nếu thế hẳn tôi đã nghe thấy tiếng động cơ nổ và ngăn không cho vợ mình bỏ đi. Nói như vậy cũng đủ đáng tin. Vậy thì... chỉ một chiếc va li duy nhất. Tôi cho vào trong đó những gì tôi nghĩ một người phụ nữ sẽ cần cũng như những gì vợ tôi không thể cam chịu bỏ lại. Tôi cho vào va li mấy món nữ trang có giá trị của cô ta, cùng bức ảnh chụp bố mẹ cô ta có khung mạ vàng. Tôi băn khoăn trước các vật dụng vệ sinh cá nhân trong phòng tắm, rồi quyết định để lại tất cả, ngoài trừ lọ xịt nước hoa Florient cùng cái lược sừng của cô ta. Có một cuốn Kinh thánh trên bàn đêm của vợ tôi, do mục sư Hawkins tặng cho cô ta, song tôi chưa bao giờ thấy cô ta đọc nó, vậy là tôi để nguyên nó lại chỗ cũ. Nhưng tôi lấy đi lọ viên sắt mà vợ tôi vẫn dùng vào kỳ kinh nguyệt hàng tháng. Henry vẫn đang ngủ, nhưng lúc này vật vã lăn qua lăn lại như thể bị những cơn ác mộng giày vò. Tôi hối hả thực hiện việc cần làm nhanh nhất có thể, hy vọng có thể kịp quay trở lại nhà khi thằng bé thức giấc. Tôi đi vòng qua nhà kho tới chỗ cái giếng, đặt chiếc va li xuống, rồi lật cái nắp giếng lên lần thứ ba. Tạ ơn Chúa Henry không đi cùng tôi. Tạ ơn Chúa vì thằng bé không trông thấy những gì tôi đã thấy. Tôi nghĩ cảnh tượng đó chắc sẽ khiến con trai tôi mất trí. Vì nó hầu như đã khiến tôi mất trí. Cái đệm đã bị ngả sang bên. Ý nghĩ đầu tiên đến với tôi là cô ta đã đẩy nó ra trước khi cố leo lên khỏi giếng. Vì vợ tôi vẫn còn sống. Cô ta đang thở. Hay ít nhất ban đầu tôi có cảm giác dường như là vậy. Sau đó, đúng lúc những khả năng hợp lý bắt đầu lóe lên qua cú sốc ban đầu - đúng lúc tôi bắt đầu tự hỏi mình liệu có kiểu hô hấp nào lại có thể làm cho chiếc váy của một phụ nữ phồng lên xẹp xuống không chỉ trên ngực mà khắp từ cổ cho tới tận gấu váy - hàm cô ta bắt đầu cử động, như thể vợ tôi đang cố gắng nói gì đó. Tuy vậy, thứ chui ra khỏi cái miệng đã bị mở rộng quá cỡ của cô ta không phải là những lời nói, mà là con chuột vừa bận rộn nhâm nhi cái lưỡi mềm mại của cô ta. Cái đuôi của nó xuất hiện đầu tiên. Sau đó, hàm dưới của vợ tôi há ra rộng hơn khi con chuột lùi ra, các móng vuốt ở hai chân sau của nó cắm sâu vào cằm cô ta để làm chỗ bám. Con chuột rơi bịch xuống lòng vợ tôi, và khi nó làm vậy, một đàn đông nhung nhúc các anh chị em của nó ùa ra từ dưới váy cô ta. Một con có thứ gì đó màu trắng mắc vào giữa những cái ria của nó - một mảnh quần lót của vợ tôi, hay có lẽ là cái quần bó của cô ta. Tôi ném cái va li xuống chúng. Tôi không hề nghĩ ngợi gì về hành động đó - lúc ấy tâm trí tôi đang quay cuồng vì ghê tởm và kinh hoàng - mà chỉ vô thức làm như thế. Cái va li rơi xuống chân vợ tôi. Phần lớn đám gặm nhấm - có lẽ là tất cả - đều đủ nhanh nhẹn để né tránh được nó. Sau đó, chúng xô nhau chui vào trong một cái lỗ tròn đen ngòm mà cái đệm (hẳn đã bị chúng xô lệch sang bên do sức nặng của số lượng đông đảo) đã che khuất lúc trước, rồi biến mất chỉ trong khoảnh khắc. Tôi biết rõ cái lỗ đó là gì; nó là miệng của đường ống cung cấp nước tới các máng uống trong chuồng gia súc cho tới khi mực nước hạ xuống quá thấp và biến cái giếng trở thành vô dụng. Cái váy của vợ tôi xẹp xuống quanh người cô ta. Những cử động khiến tôi tưởng nhầm với các nhịp thở dừng lại. Nhưng cô ta đang nhìn trừng trừng vào tôi, và vẻ mặt trước đó dường như giống với nụ cười của một anh hề giờ đây giống như cái nhìn của một con quỷ cái. Tôi có thể nhìn thấy những vết chuột cắn trên hai má cô ta, và một bên vành tai vợ tôi đã biến mất. “Lạy Chúa lòng lành,” tôi thì thầm. “Arlette, tôi rất xin lỗi.” Lời xin lỗi của anh không được chấp nhận, vẻ mặt cô ta dường như đang nói. Và khi người ta tìm thấy tôi như thế này, với những vết chuột cắn trên mặt và quần lót dưới váy bị nhai nát, chắc chắn anh sẽ bị điện giật cho nhảy cẫng lên ở Lincoln. Và khuôn mặt của tôi sẽ là khuôn mặt cuối cùng anh trông thấy. Anh sẽ nhìn thấy tôi khi luồng điện rán chín gan anh, làm tim anh cháy rụi, và lúc đó tôi sẽ cười. Tôi hạ nắp giếng xuống và loạng choạng đi vào chuồng gia súc. Tới đó, đôi chân bắt đầu phản bội tôi, và giá như tôi vẫn còn ở dưới ánh mặt trời, chắc chắn tôi đã ngất xỉu đi giống như Henry tối hôm trước. Nhưng tôi đang ở trong bóng râm, và sau khi ngồi xuống chừng năm phút, đầu cúi gập xuống gần như tới chạm đầu gối, tôi bắt đầu hồi lại. Đám chuột đã mò tới chỗ cô ta - vậy thì sao nào? Chẳng phải cuối cùng rồi chúng sẽ tìm tới tất cả chúng ta hay sao? Đám chuột và những con bọ thì sao? Sớm hay muộn, thậm chí cả những cỗ quan tài chắc nhất cũng mục nát và để cho cuộc sống kiếm ăn trên cái chết. Đó là quy luật của thế giới, và điều đó đâu có gì ghê gớm? Khi trái tim ngừng đập và bộ não ngừng hoạt động, linh hồn chúng ta hoặc đã bỏ đi đâu đó, hoặc chỉ đơn giản đã tắt lịm. Dù thế nào đi nữa, chúng ta cũng chẳng còn ở đó để phải cảm thấy da thịt mình đang bị gặm nhấm khỏi xương. Tôi đứng dậy quay về ngôi nhà và tới bậc thềm trước cửa khi một ý nghĩ làm tôi đứng sững lại: thế còn cảm giác cựa quậy đó? Nếu vợ tôi vẫn còn sống khi tôi ném cô ta xuống giếng thì sao? Nếu cô ta vẫn còn sống, tê liệt, không thể động đậy dù chỉ một ngón tay đã bị chém của mình khi lũ chuột từ trong đường ống chui ra và bắt đầu cuộc cắn xé của chúng thì sao? Nếu vợ tôi đã cảm thấy con chuột đã chui vào cái miệng đã bị phanh rộng ra một cách thật tiện lợi của cô ta và bắt đầu...! “Không,” tôi thì thầm. “Cô ta không cảm thấy gì hết vì cô ta không cựa quậy. Chưa bao giờ. Cô ta đã chết khi mình ném cô ta xuống giếng.” “Bố?” Henry gọi với giọng ngái ngủ. “Bố, có phải bố đấy không?” “Phải.” “Bố đang nói chuyện với ai vậy?” “Không ai cả. Với chính bố thôi.” Tôi bước vào trong nhà. Con trai tôi đang ngồi bên bàn ăn trong bếp, mặc áo may ô và quần đùi, trông đờ đẫn ủ dột. Mái tóc thằng bé, dựng đứng lên thành từng túm, làm tôi nhớ tới lúc nó còn bé, vừa cười khanh khách vừa chạy đuổi theo lũ gà quanh sân với con chó săn Boo của nó (đã chết từ lâu vào mùa hè năm ấy) bám sát gót. “Con ước gì chúng ta đã không làm như thế,” thằng bé nói khi tôi ngồi xuống trước mặt nó. “Những gì xảy ra thì đã xảy ra rồi, và không thể đảo ngược lại được,” tôi nói. “Đã bao nhiêu lần bố nói với con điều đó rồi, con trai?” “Chừng một triệu lần.” Thằng bé cúi đầu xuống một hồi, rồi ngước lên nhìn tôi. Đôi mắt nó thâm quầng, vằn lên những tia máu. “Có phải chúng ta sẽ bị bắt không? Có phải chúng ta sẽ phải vào tù không? Hay...” “Không. Bố đã có một kế hoạch.” “Bố từng có một kế hoạch sẽ không làm bà ấy đau! Bố hãy thử nhìn xem cuối cùng nó đã biến thành thế nào!” Bàn tay tôi chỉ muốn tát cho thằng bé một cái vì những lời nói đó, vậy là tôi dùng bàn tay bên kia đè nó xuống. Đây không phải là lúc buộc tội lẫn nhau. Hơn nữa, con trai tôi nói đúng. Tất cả những việc bất ổn đã xảy ra đều là lỗi của tôi. Ngoại trừ lũ chuột, tôi thầm nghĩ. Chúng không phải lỗi của tôi. Nhưng có đấy. Tất nhiên là có rồi. Nếu không phải vì tôi, lúc này đáng lẽ vợ tôi đang ở bên bếp, bận rộn làm bữa chiều. Nhiều khả năng cũng đang nói đi nói lại về 100 mẫu đất, nhưng vẫn còn sống và khỏe mạnh thay vìở dưới giếng. Có lẽ lũ chuột đã quay trở lại rồi, một giọng nói ở sâu thẳm trong nội tâm tôi thì thầm. Ăn cô ta. Chúng sẽ hoàn tất trước tiên những phần ngon lành, những phần thơm tho, những phần mềm mại, và sau đó... Henry vươn người qua bàn, chạm tay vào hai bàn tay đang nắm lấy nhau của tôi. Tôi giật mình. “Con xin lỗi,” con trai tôi nói. “Chúng ta đã cùng nhau làm việc đó.” Tôi yêu nó biết bao vì câu nói ấy. “Chúng ta sẽ ổn cả thôi, Hank; nếu bố con mình giữ được bình tĩnh, chúng ta sẽ ổn cả. Giờ hãy nghe bố này.” Con trai tôi lắng nghe. Sau một hồi, nó bắt đầu gật đầu. Khi tôi nói xong, thằng bé hỏi tôi một câu: khi nào chúng tôi sẽ lấp cái giếng đi? “Chưa đâu,” tôi nói. “Như thế chẳng phải rất nguy hiểm sao?” “Phải,” tôi nói. Hai ngày sau, trong lúc tôi đang sửa một đoạn hàng rào cách trang trại chừng một phần tư dặm, tôi thấy một đám bụi lớn bốc lên phía cuối con đường chạy lại từ xa lộ Omaha - Lincoln. Chúng tôi sắp sửa đón nhận một cuộc thăm hỏi từ thế giới Arlette đã khao khát muốn được trở thành một phần của nó đến thế. Tôi quay trở về nhà, búa gài vào một vòng đeo ở thắt lưng, chiếc tạp dề thợ mộc vẫn buộc quanh hông, trong cái túi dài của nó đựng đầy đinh đang va vào nhau lạch xạch. Tôi không thấy Henry đâu. Có lẽ thằng bé đã xuống dưới suối tắm; mà cũng có thể nó đang ngủ trên buồng của mình. Khi tôi về tới sân nhà và ngồi xuống cái thớt bổ củi, tôi nhận ra chiếc xe đang làm tung phía sau quầng bụi đất trông chẳng khác gì một cái đuôi gà trống: chiếc xe tải giao hàng Red Baby của Lars Olsen. Lars là thợ rèn kiêm người giao sữa trong làng tại Hemingford Home. Với một mức giá nhất định, anh ta cũng sẵn sàng làm lái xe, và đây là chức năng anh ta đang thi hành vào buổi chiều tháng Sáu này. Chiếc xe tải chạy vào trong sân, làm George, con gà trống xấu tính của chúng tôi, cùng đàn gà mái hợp thành hậu cung nho nhỏ của nó bay tán loạn, một người đàn ông phương phi mặc áo khoác màu xám bước xuống từ bên cửa dành cho khách. Ông ta tháo cặp kính chống cát ra, để lộ hai vòng tròn lớn (và trông thật hài hước) màu trắng quanh hai mắt. “Ông là Wilfred James?” “Chính là tôi,” tôi nói, rồi đứng dậy. Tôi cảm thấy khá bình thản. Có lẽ tôi sẽ cảm thấy ít bình tĩnh hơn nếu ông ta tới trên chiếc xe Ford của cảnh sát hạt với ngôi sao bên sườn. “Ông là...?” “Andrew Lester,” ông ta nói. “Luật sư.” Ông ta chìa bàn tay ra. Tôi đưa mắt nhìn nó. “Trước khi tôi bắt bàn tay này, tốt hơn ông nên cho tôi biết ông là luật sư của ai, ông Lester.” “Hiện tại tôi đang làm việc cho Công ty Súc sản Farrington tại Chicago, Omaha và Des Moines.” Phải rồi, tôi thầm nghĩ, không nghi ngờ gì nữa. Nhưng tôi dám cược rằng tên của ông bạn còn chẳng được ghi trên cửa văn phòng. Những ông chủ lớn ở Omaha đâu cần phải hít bụi đồng quê để kiếm bánh mì, phải không nào? Các ông chủ lớn lúc nào chẳng gác chân lên bàn, uống cà phê và ngắm nghía đôi chân xinh đẹp của các cô thư ký. Tôi nói, “Trong trường hợp đó, thưa ông, tại sao ông không vào việc luôn và cất bàn tay đó đi? Tôi không hề có ý xúc phạm.” Ông ta làm theo, với một nụ cười của luật sư. Mồ hôi vạch thành từng nét trên trôi má nung núc của ông ta, còn mái tóc ông ta rối bù xơ xác sau chuyến đi. Tôi đi qua trước mặt tay luật sư tới chỗ Lars, người đang mở nắp máy lên và đang bận rộn mày mò gì đó bên trong. Anh ta đang huýt sáo, và có vẻ vui như tết. Tôi thầm ghen tỵ với anh ta về điều đó. Tôi nghĩ Henry và tôi có thể sẽ có một ngày hạnh phúc nữa - trong một thế giới đầy biến động như thế giới chúng ta đang sống, chuyện gì cũng có thể xảy ra - nhưng chắc chắn ngày đó sẽ không đến vào mùa hè năm 1922. Hoặc mùa thu. Tôi bắt tay Lars và hỏi thăm sức khỏe anh ta. “Cũng tạm ổn,” anh ta nói, “nhưng khát quá. Tôi sẵn sàng uống thứ gì đó.” Tôi hất hàm về phía đông ngôi nhà. “Anh biết nó ở đâu mà.” “Tôi biết,” anh ta nói, đóng sầm tấm nắp máy xuống với tiếng kim loại va chạm vào nhau khiến cho lũ gà mái, lúc này đang lò dò quay lại sân, nháo nhác bay vụt lên lần nữa. “Vẫn ngọt và mát lạnh như xưa, tôi đoán vậy đúng không?” “Tôi cũng nghĩ thế,” tôi đồng ý, và nghĩ thầm: Nhưng cho dù nếu anh bạn vẫn có thể bơm nước lên được từ cái giếng đó, Lars, tôi không nghĩ anh bạn bận tâm đến mùi vị đâu. “Cứ thử đi rồi biết.” Anh ta bắt đầu lượn vòng quanh phía ngôi nhà đang đổ bóng xuống đất, nơi chiếc bơm tay bên ngoài nhà nằm dưới cái mái che nhỏ của nó. Ông Lester nhìn anh ta bước đi, rồi quay lại phía tôi. Ông ta đã cởi cúc chiếc áo khoác ra. Bộ đồ mặc bên dưới hẳn sẽ cần phải ghé qua hiệu giặt khô khi ông ta quay lại Lincoln, Omaha, Deland, hay bất cứ nơi nào ông ta sống khi không làm chân chạy việc cho Cole Farrington. “Tôi cũng muốn uống chút gì đó, ông James.” “Tôi cũng vậy. Đóng hàng rào là công việc khiến người ta nóng bức.” Tôi nhìn ông ta từ đầu đến chân. “Cho dù tôi dám cược rằng cũng không nóng bằng ngồi hai mươi dặm trên cái xe tải của Lars.” Ông ta gãi mông và lại chưng nụ cười luật sư của mình ra. Lần này trong đó có một chút ân hận. Tôi có thể thấy đôi mắt ông ta đã bắt đầu xăm xoi chỗ này rồi chỗ kia, khắp nơi. Không nên đánh giá thấp con người này chỉ vì ông ta đã được lệnh phải lang thang hai mươi dặm tới một xó quê mùa vào một ngày mùa hè nóng nực. “Cái bàn tọa của tôi có lẽ sẽ chẳng bao giờ như cũ được nữa.” Có một cái gầu được xích vào bên cạnh mái che. Lars bơm đầy nước vào nó, rồi uống ừng ực, trong khi cục yết hầu của anh ta không ngừng nâng lên rồi hạ xuống trên cần cổ gầy gò rám nắng, sau đó anh ta lại bơm đầy gầu và đưa cho Lester, ông ta nhìn gầu nước với vẻ ngờ vực giống như khi tôi nhìn bàn tay đang chìa ra của ông ta. “Có lẽ chúng ta nên vào nhà uống, ông James. Như thế sẽ mát hơn một chút.” “Chắc vậy rồi,” tôi tán thành, “song không có chuyện tôi mời ông vào nhà đâu, cũng như bắt tay vậy.” Lars Olsen nhận ra gió đang thổi theo chiều nào và lập tức quay trở lại chiếc xe tải của anh ta, không để mất thêm một phút nào. Nhưng trước hết, anh ta vẫn đưa lại cái gầu cho Lester. Ông khách của tôi không uống ừng ực một hơi như Lars lúc trước mà nhấp từng hớp một cách cảnh vẻ. Nói cách khác là đúng kiểu một tay luật sư - nhưng ông ta cũng không dừng lại cho tới khi cái gầu đã cạn sạch, và chuyện này cũng lại đúng kiểu một tay luật sư. Cánh cửa trước nhà bật mở, Henry bước ra khỏi nhà trong bộ áo liền quần, đi chân đất. Thằng bé đưa mắt nhìn hai chúng tôi với vẻ dửng dưng - một cậu bé thật ngoan! - rồi tới nơi mà bất cứ cậu nhóc nông thôn nào cũng tìm đến: xem Lars chăm sóc cho chiếc xe tải của anh ta, và nếu cậu nhóc may mắn, cậu ta sẽ học được chút gì đó. Tôi ngồi xuống đống gỗ chúng tôi tích trữ dưới một tấm vải bạt. “Tôi đoán ông tìm tới đây có công chuyện làm ăn. Với vợ tôi.” “Đúng thế.” “Được rồi, ông đã uống xong, vậy tốt hơn chúng ta nên bàn vào việc. Tôi vẫn còn cả một ngày đầy công việc chờ đợi, và bây giờ đã là ba giờ chiều rồi.” “Từ sáng sớm đến tối mịt. Làm nông quả là một cuộc sống cực nhọc.” Ông ta thở dài như thế hiểu biết lắm. “Đúng thế, và một cô vợ khó tính còn có thể làm cho nó cực nhọc hơn nữa. Vợ tôi cho mời ông đến đây, tôi đoán là vậy, dù tôi không biết lý do vì sao - nếu chỉ là chuyện về một vài giấy tờ pháp lý, tôi cho rằng một ông phó cảnh sát trưởng hoàn toàn có thể tới thực hiện mọi việc cần thiết với tôi.” Tay luật sư nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên. “Vợ ông không hề mời tôi đến đây, ông James. Nói thực ra, tôi tới đây để tìm gặp bà nhà.” Cuộc trò chuyện này giống như một màn kịch, và vai của tôi có nhiệm vụ tỏ ra bối rối. Rồi bật cười, vì bật cười là hành động tiếp theo được chỉ dẫn trong kịch bản. “Điều này chỉ càng chứng minh cho việc đó.” “Chứng minh cho cái gì vậy?” “Khi tôi còn là một cậu nhóc ở Fordyce, chúng tôi có một ông hàng xóm - một lão già phóng túng xấu xa có họ Bradlee. Tất cả mọi người đều gọi lão là Pop Bradlee.” “Ông James...” “Bố tôi thỉnh thoảng phải giải quyết chuyện làm ăn với lão, và đôi lần ông đưa tôi đi cùng. Cũng lâu rồi, từ thời cả thiên hạ còn đi xe ngựa kia. Ngô hạt hầu như luôn là chủ đề làm ăn của họ, ít nhất là vào mùa xuân, nhưng có khi hai người cũng trao đổi nông cụ. Thời ấy chưa có việc đặt hàng qua thư, và một món nông cụ tốt có khi sẽ chạy vòng khắp cả hạt trước khi về được nhà của nó.” “Ông James, tôi không hề thấy có mối quan...” “Và mỗi lần bố con tôi tới gặp lão, mẹ tôi lại bảo tôi bịt tai lại, vì mọi lời nói tuôn ra từ miệng Pop Bradlee đều là những câu chửi bậy hay thứ gì đó bẩn thỉu.” Một cách chua ngoa, tôi bắt đầu thấy thích trò này. “Vậy là đương nhiên tôi lại càng cố dỏng tai lên nghe cho rõ hơn. Tôi còn nhớ một trong những câu nói ưa thích của Pope là “Đừng bao giờ cưỡi lên một con cái mà không thắng dây cương, vì ta chẳng bao giờ có thể nói chắc được một con đĩ sẽ chạy theo đường nào.” “Tôi phải hiểu như thế nào đây?” “Theo ý ông thì con đĩ của tôi đã chạy theo đường nào, ông Lester?” “Không phải ông đang nói với tôi rằng vợ ông đã...?” “Bỏ trốn rồi, ông Lester. Cuốn xéo. Từ biệt theo kiểu Pháp. Chuồn khỏi nhà giữa lúc nửa đêm. Là một người mê đọc sách và nghiên cứu về tiếng lóng của ngôn ngữ Mỹ, những cách diễn đạt đó hiện ra hoàn toàn tự nhiên với tôi. Tuy nhiên, Lars - và phần lớn đám cư dân thành phố - sẽ chỉ nói đơn giản là “Cô ta bỏ chạy, từ bỏ anh ta” khi tin tức lan ra. Hay anh ta và thằng bé, trong trường hợp này. Tất nhiên tôi nghĩ hẳn cô ta đã tìm tới với đám bạn mê thịt lợn của mình ở Công ty Farrington, và lần tiếp theo tôi nhận được tin tức từ cô ta sẽ là dưới dạng một thông báo cho biết cô ta đã bán khu đất của bố mình.” “Như bà nhà vẫn muốn làm.” “Chẳng lẽ cô ta đã ký giấy bán rồi sao? Vì tôi đoán rằng nếu cô ta đã làm thế, chắc tôi sẽ kiện ra tòa.” “Thực tế ra thì chưa. Nhưng khi bà nhà làm điều đó, tôi khuyên ông nên tránh cho mình những phí tổn của một cuộc tranh chấp pháp lý mà chắc chắn ông sẽ thua cuộc.” Tôi đứng bật dậy. Một trong hai dây đeo chiếc quần yếm tôi đang mặc đã tuột khỏi vai, và tôi dùng một ngón tay cái kéo nó về chỗ. “Được rồi, vì cô ta không có mặt ở đây, đó sẽ là thứ mà một người làm luật gọi là “một câu hỏi giả định”, có đúng không nhỉ? Nếu là ông, tôi sẽ tới Omaha tìm kiếm.” Tôi mỉm cười. “Hoặc tới St. Louis. Cô ta luôn nhắc tới St. Louis. Tôi có cảm tưởng dường như vợ tôi đã phát chán lên vì các vị không kém gì cô ta chán tôi và đứa con trai cô ta đã đẻ ra. Thật là nhẹ nợ. Quỷ tha ma bắt cả hai người đi. Mà nhân thể nói để ông biết, đó toàn là lời của Shakespeare đấy. Romeo và Juliette. Một vở kịch về tình yêu.” “Mong ông thứ lỗi cho tôi phải nói ra điều này, song tất cả những gì ông vừa nói như tôi thấy dường như rất kỳ lạ, ông James.” Tay luật sư lấy từ trong túi áo vét ra một chiếc khăn tay lụa - tôi đoán những tay luật sư hay đi đây đi đó như ông ta chắc có vô khối những túi áo như thế - rồi bắt đầu dùng cái khăn để lau mặt. Hai má ông ta lúc này không chỉ hây hây mà đỏ phừng lên. Không phải cái nóng của ngày hôm đó đã làm khuôn mặt ông ta trở nên như thế. “Quả là rất lạ, nếu tính đến khoản tiền mà thân chủ của tôi sẵn sàng trả cho khu đất đó, vốn nằm cạnh suối Hemingford và gần tuyến đường sắt lớn Miền Tây.” “Về phần mình, tôi cũng đã phải mất không ít thời gian để quen với chuyện này, song ít nhất tôi cũng có lợi thế hơn so với các vị.” “Là gì vậy?” “Tôi hiểu rõ cô ta. Tôi tin chắc ông và các thân chủ của ông nghĩ các vị đã nắm trong tay một thỏa thuận đã được thu xếp đâu vào đấy, nhưng Arlette James... hãy nói đơn giản rằng muốn đóng đinh cô ta xuống thứ gì đó cũng chẳng khác gì cố đóng đinh một miếng thạch xuống sàn. Chúng ta cần nhớ tới câu Pop Bradlee từng nói, ông Lester. Sao chứ, lão ta quả là một thiên tài đầy chất thôn dã.” “Tôi có thể nhìn qua một chút trong nhà không?” Tôi lại bật cười, lần này không hề gượng gạo. Tay luật sư quả là bạo gan, tôi phải thừa nhận chuyện này, và việc ông ta không muốn tay trắng quay về là hoàn toàn có thể hiểu được. Ông ta đã lang thang hai mươi dặm trên một chiếc xe tải chẳng có cửa giả gì, và sẽ phải chịu đựng thêm hai mươi dặm nữa trước khi trở lại được thành phố Hemingford (và sau đó phải đáp thêm một chuyến tàu, không nghi ngờ gì nữa), ông ta có đôi bàn tọa đang ê ẩm, và những kẻ đã phái ông ta đến đây hiển nhiên sẽ không mấy vui vẻ với bản báo cáo về những gì ông ta thu được sau khi đã trải qua toàn bộ cuộc hành trình cực nhọc đó. Tay luật sư khốn khổ! “Tôi sẽ hỏi lại ông một câu: ông có thể tụt quần xuống để tôi có thể chiêm ngưỡng của quý của ông không?” “Tôi thấy đòi hỏi đó thật xúc phạm.” “Tôi không trách ông. Hãy nghĩ về nó như một... không phải một sự so sánh, nói thế không đúng, mà như một cách ẩn dụ.” “Tôi không hiểu ông muốn nói gì.” “Được thôi, ông có cả một tiếng đồng hồ trên đường quay về thành phố để nghĩ về nó - cũng có thể là hai, nếu Red Baby của Lars xịt mất một lốp. Và tôi có thể cam đoan với ông, ông Lester, rằng nếu thực sự tôi cho phép ông lượn lờ quanh nhà tôi - chốn riêng tư của tôi, lâu đài của tôi, của quý của tôi - ông sẽ không tìm thấy xác vợ tôi trong tủ quần áo hay...” Lúc đó có một khoảnh khắc khủng khiếp khi thiếu chút nữa tôi đã nói hay dưới giếng. Tôi cảm thấy mồ hôi đang túa ra trên trán mình. “Hay dưới gầm giường.” “Tôi chưa bao giờ nói...” “Henry!” tôi gọi. “Lại đây một phút nào!” Henry bước tới, đầu cúi gằm, hai bàn chân kéo lê đi trong bụi đất. Trông thằng bé có vẻ lo lắng, thậm chí còn có chút tội lỗi, nhưng thế cũng ổn. “Vâng, bố gọi con ạ?” “Nói cho ông đây biết mẹ mày đang ở đâu.” “Con không biết. Khi bố gọi con dậy ăn sáng hôm thứ Sáu, mẹ đã đi rồi. Sắp xếp đồ đạc và bỏ đi.” Lester nhìn chằm chằm vào con trai tôi. “Cậu bé, có thật thế không?” “Vâng, thưa ông.” “Toàn bộ sự thật và không gì ngoài sự thật, như đứng trước Chúa chứ?” “Bố, con vào nhà được không? Con còn bài tập phải làm bù cho thời gian bị ốm.” “Thế thì đi đi,” tôi nói, “nhưng đừng rề rà quá đấy. Hãy nhớ hôm nay đến lượt mày vắt sữa bò.” “Vâng, con nhớ rồi.” Thằng bé leo lên bậc thềm và đi vào trong nhà. Lester theo dõi con trai tôi quay đi, rồi trở lại với tôi. “Ở đây còn có nhiều thứ hơn những gì đập vào mắt.” “Tôi thấy là ông không đeo nhẫn cưới, ông Lester. Nếu có lúc nào đó ông đã đeo nó lâu như tôi phải đeo, ông sẽ biết trong gia đình luôn có những chuyện như thế xảy ra. Và ông cũng sẽ biết cả một việc khác: ông sẽ chẳng bao giờ có thể nói chắc chắn một con điếm sẽ chạy theo hướng nào.” Tay luật sư đứng dậy. “Chuyện này vẫn chưa xong đâu.” “Xong rồi,” tôi nói. Và biết rõ không phải như vậy. Nhưng nếu mọi thứ xuôi chèo mát mái, chúng tôi sẽ tới gần đoạn kết hơn so với lúc trước. Nếu. Ông ta bắt đầu đi qua sân, rồi lại quay trở lại. Ông ta lại lấy cái khăn tay lụa ra lau mặt, rồi nói, “Nếu ông nghĩ 100 mẫu đất kia giờ là của ông chỉ vì ông đã dọa vợ mình phát hãi đến mức phải bỏ đi...gửi đồ của bà ấy tới chỗ cô bà ấy ở Des Moines hay tới chỗ một người chị ở Minnesota...” “Hãy tìm ở Omaha,” tôi mỉm cười nói. “Hay St Louis. Cô ta chẳng bao giờ viện đến các mối quan hệ gia đình, nhưng vợ tôi luôn phát cuồng lên với ý tưởng được sống ở St Louis. Chỉ có Chúa mới biết tại sao.” “Nếu ông nghĩ rằng ông sẽ gieo trồng và thu hoạch trên khu đất đó, tốt hơn ông nên nghĩ lại. Khu đất đó không phải là của ông. Nếu ông gieo dù chỉ một hạt giống xuống chỗ đó, ông sẽ phải gặp tôi ở tòa.” Tôi nói, “Tôi chắc ông sẽ nhận được tin từ cô ta ngay khi cô ta hết nhẵn tiền.” Những lời tôi muốn nói là, Không, nó không phải là của tôi... nhưng cũng không phải là của các người. Nó chỉ đơn giản là ở đó thôi. Và thế là ổn cả, vì nó sẽ là của tôi sau bảy năm nữa, khi tôi ra tòa yêu cầu chính thức tuyên bố cô ta đã chết trước pháp luật. Tôi có thể đợi. Bảy năm không phải ngửi mùi phân lợn khi gió thổi từ phía tây tới. Bảy năm không phải nghe tiếng kêu của những con lợn sắp chết (thật giống với tiếng kêu của một người đàn bà sắp chết) và thấy bộ lòng của chúng nổi bồng bềnh trôi xuống một cái rãnh đỏ ngầu máu. Với tôi, xem chừng đó sẽ là bảy năm tuyệt vời. “Chúc ông một ngày tốt lành, ông Lester, và cẩn thận với mặt trời khi quay về. Nó thường trở nên rất khắc nghiệt vào cuối buổi chiều, và sẽ chiếu thẳng vào mặt ông đấy.” Tay luật sư không trả lời, im lặng đi ra xe tải. Lars vẫy tay chào tôi, và Lester bực bội vặc anh ta. Lars ném trả lại tay luật sư một cái nhìn như muốn nói Cứ việc quạu cọ thế nào tùy thích, vẫn sẽ là hai mươi dặm để quay trở lại thành phố Hemingford. Khi bọn họ đã khuất hẳn khỏi tầm nhìn, ngoại trừ quầng bụi trông giống như cái đuôi gà trống, Henry lại quay ra cửa. “Con làm có đúng không, bố?” Tôi cầm lấy cổ tay thằng bé, bóp nhẹ, và giả bộ như không cảm thấy bàn tay nó căng cứng lên trong khoảnh khắc dưới bàn tay tôi, như thể con trai tôi đang phải cố gồng mình vượt qua cảm giác muốn giật bàn tay của nó ra. “Đúng như cần phải làm. Hoàn hảo.” “Mai chúng ta sẽ lấp giếng chứ ạ?” Tôi đã suy nghĩ cẩn thận về việc này, vì rất có thể tính mạng của hai bố con tôi sẽ phụ thuộc vào quyết định tôi đưa ra. Cảnh sát trưởng Jones đang dần già đi và phát tướng ra. Ông ta không lười biếng, nhưng khó lòng buộc ông ta cựa quậy nếu không có một lý do xác đáng. Lester cuối cùng thế nào cũng sẽ thuyết phục được Jones tìm tới đây, nhưng rất có thể chỉ sau khi Lester đã thuyết phục được một trong hai đứa con trai sẵn sàng nhảy xuống địa ngục vì da của Cole Farrington gọi điện tới nhắc ông cảnh sát trưởng nhớ rằng công ty nào chính là kẻ đóng thuế lớn nhất tại hạt Hemingford (chưa nói tới các hạt lân cận Clay, Fillmore, York vả Seward). Tóm lại, tôi nghĩ chúng tôi có tối thiểu hai ngày. “Không phải ngày mai,” tôi nói. “Mà là ngày kia.” “Bố, nhưng tại sao?” “Vì ông cảnh sát trưởng sẽ có mặt tại đây, và cảnh sát trưởng Jones tuy già nhưng không ngốc. Một cái giếng bị lấp rất có thể sẽ khiến ông ta nghi ngờ về chuyện tại sao nó bị lấp, và lại mới gần đây đến thế. Nhưng một cái giếng đang lấp dở... và vì một lý do xác đáng...” “Lý do nào vậy bố? Nói cho con biết đi!” “Sớm thôi,” tôi nói. “Sớm thôi.” Cả ngày hôm sau chúng tôi đợi bụi tung lên trên con đường dẫn tới chỗ chúng tôi, không phải bị hất lên do chiếc xe tải của Lars, mà bởi cái xe của cảnh sát trưởng hạt. Nhưng nó không hề xuất hiện. Người xuất hiện là Shannon Cotterie, trông thật xinh xắn trong chiếc áo vải bông và váy kẻ sọc, cô bé tới hỏi thăm xem Henry có khỏe không, và nếu đã khỏe, liệu con trai tôi có vui lòng tới ăn tối cùng cô bé và bố mẹ cô hay không? Henry nói nó đã hoàn toàn khỏe mạnh, và tôi nhìn theo hai đứa bước đi trên con đường, tay trong tay, mà lòng nặng trĩu lo âu. Thằng bé đang nắm giữ một bí mật khủng khiếp, và những bí mật khủng khiếp luôn đè nặng lên con người ta. Muốn tìm ai đó để chia sẻ gánh nặng ấy là điều tự nhiên nhất trên đời. Và con trai tôi yêu cô bé đó (hoặc nó nghĩ là thế, một điều hoàn toàn tương tự khi bạn mới bước sang tuổi mười lăm). Còn tồi tệ hơn nữa, thằng bé buộc phải nói dối, và cô bé có thể sẽ biết đó là một lời nói dối. Người ta vẫn hay nói đôi mắt đang yêu chẳng nhìn thấy gì cả, nhưng đó chỉ là câu châm ngôn dành cho những kẻ ngốc mà thôi. Đôi khi chúng nhìn thấy quá nhiều. Tôi rẫy cỏ ngoài vườn (và làm bật lên nhiều cây đậu hơn là cỏ dại), sau đó ngồi xuống trước cửa, hút một tẩu thuốc và đợi con trai tôi quay về. Thằng bé quay về ngay trước lúc trăng mọc. Đầu nó cúi gằm xuống, hai vai buông thõng, và con trai tôi trông như đang lê lết hơn là bước đi. Tôi ghét cay ghét đắng phải nhìn thấy nó trong bộ dạng đó, nhưng dẫu sao tôi vẫn thấy nhẹ nhõm. Nếu thằng bé đã chia sẻ bí mật của nó - hay một phần bí mật đó - sẽ không bao giờ có chuyện nó bước đi như thế. Nếu con trai tôi đã chia sẻ bí mật nó đang phải mang, rất có thể nó đã không quay về nhà. “Con nói đúng như cách hai bố con mình đã quyết định chứ?” tôi hỏi thằng bé khi nó ngồi xuống. “Đúng như cách bố đã quyết định. Vâng.” “Và cô bé hứa không nói cho gia đình nó biết?” “Vâng.” “Nhưng nó sẽ nói chứ?” Con trai tôi thở dài. “Nhiều khả năng là thế. Bạn ấy yêu quý họ, và họ cũng yêu quý bạn ấy. Con cho là rồi họ sẽ thấy điều gì đó trên khuôn mặt bạn ấy, và sẽ dò hỏi. Ngay cả nếu họ không làm thế, nhiều khả năng bạn ấy sẽ nói cho ông cảnh sát trưởng biết. Tất nhiên là nếu ông ấy cất công tìm tới nhà Cotterie.” “Lester sẽ đảm bảo để ông ta làm thế. Tay luật sư sẽ sủa ầm ĩ lên với cảnh sát trưởng Jones vì các ông chủ của hắn ở Omaha đang sủa ầm ĩ lên với hắn. Chuyện đó sẽ cứ thế chạy vòng quanh, và nó kết thúc ở đâu thì chẳng ai biết được.” “Đáng ra chúng ta không bao giờ nên làm việc đó.” Con trai tôi trầm ngâm suy nghĩ, rồi thì thầm thật gay gắt. Tôi không nói gì. Và trong một hồi lâu, con trai tôi cũng không nói gì. Hai bố con tôi cùng ngắm nhìn mặt trăng nhô lên khỏi cánh đồng ngô, đỏ quạch, nặng nề. “Bố này? Con có thể uống một cốc bia chứ?” Tôi đưa mắt nhìn thằng bé, vừa ngạc nhiên lại vừa không; Sau đó, tôi đi vào trong nhà, rót cho hai bố con mỗi người một cốc bia. Tôi đưa một cốc cho nó và nói, “Không cốc nào trong ngày mai và ngày kia, nhớ đấy.” “Không cốc nào.” Thằng bé nhấp một ngụm, nhăn mặt, rồi lại uống một ngụm nửa. “Con ghét phải nói dối Shan, bố biết đấy. Mọi thứ liên quan tới chuyện này thật bẩn thỉu.” “Mọi thứ bụi bẩn đều có thể rửa trôi đi được.” “Thứ này thì không,” con trai tôi nói, rồi uống thêm một ngụm. Lần này nó không nhăn mặt nữa. Một lúc sau, sau khi mặt trăng đã chuyển sang màu trắng bạc, tôi đứng dậy đi vòng ra sau nhà đi vệ sinh, và lắng nghe cánh đồng ngô cùng những làn gió đêm kể cho nhau nghe những bí mật xưa cũ của đất. Khi tôi quay trở lại trước cửa, Henry đã đi đâu mất. Cốc bia uống dở một nửa của nó đặt trên lan can bên các bậc thềm. Rồi tôi nghe thấy thằng bé đang ở trong chuồng gia súc, nói “Nào, ngoan. Nào.” Tôi tới đó xem có chuyện gì xảy ra. Con trai tôi đang đưa hai cánh tay ôm lấy cổ Elphin và vuốt ve con vật. Tôi tin thằng bé đang khóc. Tôi đứng nhìn hồi lâu, nhưng cuối cùng vẫn không nói gì. Tôi quay trở vào nhà, cởi quần áo ngoài ra, nằm xuống chiếc giường nơi tôi đã cắt cổ vợ mình. Phải một lúc lâu trôi qua trước khi tôi ngủ thiếp đi. Và nếu các vị không hiểu tại sao - tất cả các lý do tại sao - thì đọc những dòng này sẽ chẳng ích gì cho các vị. Tôi đã đặt tên tất cả những con bò sữa của chúng tôi theo các nữ thần Hy Lạp, nhưng Elphis hóa ra lại là một lựa chọn tồi tệ hay một trò đùa thật mỉa mai. Trong trường hợp các vị không còn nhớ câu chuyện cái ác đã đến với thế giới đáng buồn của chúng ta như thế nào, cho phép tôi nhắc lại để các vị nhớ: mọi thứ xấu xa thoát ra khi Pandora chiều theo sự tò mò của cô ta và mở chiếc vò đã được giao cho cô ta trông giữ ra. Thứ duy nhất còn lại khi cô ta lấy lại được đủ khôn ngoan để đậy nắp vò như cũ là Elphis, nữ thần của hy vọng. Nhưng vào mùa hè năm 1922 đó, không còn chút hy vọng nào cho Elphis của chúng tôi. Nó đã già và ốm yếu, không còn cho nhiều sữa, và chúng tôi đã gần như phải từ bỏ cố gắng vắt lấy những gì ít ỏi nó còn lại nữa; ngay khi có ai ngồi xuống cạnh cái xô hứng, con bò lập tức tìm cách đá người đó. Đáng ra chúng tôi nên chuyển nó thành bò thịt từ một năm trước, song tôi đã chần chừ trước cái giá phải trả cho Harlan Cotterie để giết thịt nó, trong khi tôi chẳng mấy khéo léo trong việc giết mổ khi quy mô vượt quá những con lợn... một đánh giá về bản thân mà các vị giờ đây hẳn cũng đồng ý. “Và nó sẽ dai lắm,” Arlette (vốn tỏ ra thầm có cảm tình với Elphis, có thể vì cô ta chẳng bao giờ phải vắt sữa từ con bò này) nói. “Tốt hơn cứ để nó yên.” Nhưng giờ đây chúng tôi đã có cách để sử dụng Elphis - chính xác là dưới giếng - và cái chết của con bò già có thể trở nên hữu ích hơn nhiều so với việc cung cấp vài tảng thịt dai ngoách. Hai ngày sau khi Lester ghé thăm, con trai tôi và tôi chằng rọ mõm vào nó và dắt nó đi vòng ra sau chuồng. Khi đi được nửa quãng đường tới giếng, Henry dừng phắt lại. Đôi mắt thằng bé lóe sáng như thể đang sợ hết hồn. “Bố! Con ngửi thấy bà ấy!” “Vậy hãy vào trong nhà, và lấy ít bông vo viên lại bịt mũi. Bông ở trong ngăn kéo của bà ấy.” Mặc dù thằng bé cúi mặt xuống, tôi vẫn thấy nó liếc mắt về phía tôi trong lúc lầm lũi quay đi. Đây là lỗi của ông, cái nhìn đó nói. Tất cả là lỗi của ông vì ông không chịu buông đám đất. Thế nhưng tôi vẫn không nghi ngờ việc con trai tôi sẽ giúp tôi thực hiện công việc đang chờ đợi phía trước. Cho dù lúc này nó có nghĩ gì về tôi đi nữa, trong bức tranh toàn cảnh vẫn còn bóng dáng của một cô bé, và nó không muốn con bé biết những gì nó đã làm. Tôi đã ép buộc thằng bé phải tham gia vào việc đó, nhưng bạn gái nó sẽ không bao giờ hiểu. Chúng tôi dẫn Elphis tới chỗ nắp giếng, đến đó con bò tỏ ra ngần ngại một cách hoàn toàn có lý. Chúng tôi đi vòng ra phía đối diện, giữ lấy dây dắt buộc vào rọ mõm như thể đang chơi trò nhảy quanh cây nêu[12], và ra sức kéo con bò đi lên trên mặt gỗ đã mục. Cái nắp kêu răng rắc dưới sức nặng của con bò... lún xuống... nhưng vẫn đứng vững. Con bò cái già đứng lên trên cái nắp, đầu cúi gằm xuống, trông vẫn ngu ngốc và bướng bỉnh như mọi khi, nhe những cái răng mòn trơ gốc màu vàng xỉn ngả xanh lục của nó. “Giờ phải làm gì?” Henry hỏi. Tôi đang định nói tôi cũng không biết nữa, thế rồi đúng lúc ấy cái nắp giếng vỡ làm đôi với một tiếng gãy răng rắc và tiếng rơi thật lớn. Hai bố con tôi giữ chặt lấy đầu dây, cho dù trong một khoảnh khắc tôi từng cảm thấy mình sắp bị lôi tuột xuống cái giếng đáng nguyền rủa đó với hai cánh tay trật khớp. Sau đó, cái rọ mõm cũng đứt tung ra và bị kéo văng trở lên. Nó bị đứt toạc ra cả hai bên. Phía dưới, Elphis bắt đầu rống lên đau đớn và đạp móng guốc của nó lên thành giếng lát đá. “Bố!” Henry kêu thét lên. Hai bàn tay thằng bé siết chặt lại áp chặt vào miệng, và các khớp đốt ngón tay ép sâu vào môi trên.“Hãy làm cho nó ngừng lại đi!” Elphis rống lên một tràng rên rỉ thật dài, vang vọng. Các móng guốc của nó tiếp tục gõ lên đá. Tôi cầm lấy cánh tay Henry và lôi thằng bé đang run rẩy quay trở vào nhà. Tôi đẩy nó ngồi xuống chiếc trường kỷ được Arlette đặt mua qua bưu điện và ra lệnh cho con trai tôi ngồi lại đó cho tới khi tôi quay trở lại. “Và hãy nhớ, sắp kết thúc rồi.” “Chuyện này sẽ chẳng bao giờ kết thúc,” thằng bé nói, và quay người nằm úp mặt xuống trường kỷ. Nó đưa hai bàn tay lên bịt tai, mặc dù ở trong nhà không thể nghe thấy tiếng Elphis nữa. Ngoại trừ việc Henry vẫn nghe thấy tiếng rên rỉ của con bò, và cả tôi cũng vậy. Tôi lấy khẩu súng săn vẫn cất trên chiếc giá cao trong kho chứa đồ xuống. Nó chỉ là một khẩu súng cỡ nòng .22[13], nhưng hoàn toàn đủ cho mục đích sắp được sử dụng. Và nếu Harlan nghe thấy tiếng súng vang lên từ bên kia các cánh đồng ngăn cách giữa nhà anh ta và nhà tôi thì sao? Điều đó cũng sẽ khớp với câu chuyện của chúng tôi. Nghĩa là nếu Henry có thể giữ được sự tỉnh táo của nó đủ lâu để kể nó ra. Dưới đây là một điều tôi đã nghiệm ra vào năm 1922: luôn có những thứ tồi tệ hơn chờ đợi phía trước. Bạn nghĩ bạn đã nhìn thấy điều kinh khủng nhất, điều đã hợp nhất mọi cơn ác mộng của bạn thành một nỗi kinh hoàng quái đản thực sự tồn tại, và chỉ có điều an ủi duy nhất là sẽ không thể có gì tồi tệ hơn được nữa. Thậm chí cho dù có đi nữa, tâm trí bạn sẽ tắt phụt khi nhìn thấy nó, và bạn sẽ không biết gì thêm nữa. Nhưng còn có thể tồi tệ hơn thế, khi tâm trí bạn không tắt phụt đi, và bằng cách nào đó bạn tiếp tục tỉnh táo. Bạn có thể sẽ hiểu mọi niềm vui đã biến mất khỏi thế giới của bạn, rằng những gì bạn đã làm đã đẩy tất cả hy vọng bạn muốn đạt tới ra ngoài tầm tay với, bạn có thể sẽ ước gì chính mình là kẻ đã chết - nhưng bạn vẫn tiếp tục sống. Bạn nhận ra bạn đang ở trong một địa ngục do chính tay mình tạo nên, nhưng dẫu vậy bạn vẫn tiếp tục sống. Bởi vì chẳng thể làm gì khác được. Elphis đã rơi xuống phía trên người vợ tôi, song khuôn mặt đang cười nhăn nhở của Arlette vẫn có thể nhìn thấy rõ, vẫn tiếp tục ngước lên thế giới tràn ngập ánh mặt trời ở phía trên, vẫn dường như nhìn chằm chằm vào tôi. Và lũ chuột cũng đã quay trở lại. Con bò cái đột nhiên rơi xuống thế giới của chúng hiển nhiên đã làm chúng rút lui vào đường ống mà rốt cuộc tôi sẽ đi tới chỗ nghĩ về nó như Đại Lộ Chuột; nhưng rồi sau đó chúng đánh hơi thấy mùi thịt tươi, và hối hả bò ra để điều tra. Lũ chuột đã bắt đầu cắn xé con bò già Elphis tội nghiệp trong lúc nó rống lên và quẫy đạp (lúc này đã yếu hơn nhiều), và có một con ngồi chễm chệ lên đầu cô vợ đã chết của tôi như một chiếc vương miện ma quái xấu xí. Nó đã khoét một lỗ qua cái bao tải và lôi một mớ tóc của cô ta ra bằng các móng vuốt khôn ngoan của mình. Hai gò má của Arlette, đã từng có lúc thật tròn trịa xinh đẹp, giờ đây rách nát là thành từng dải. Không thứ gì có thể tồi tệ hơn chuyện này, tôi thầm nghĩ. Hiển nhiên mình đã tới tận cùng của sự ghê rợn. Nhưng có đấy, luôn có những điều tồi tệ hơn chờ đợi phía trước. Trong lúc tôi cúi xuống, cứng người như hóa đá vì choáng váng và kinh tởm, Elphis lại vung chân đạp lần nữa, và một móng guốc của con bò chạm vào những gì còn lại của khuôn mặt Arlette. Một tiếng răng rắc vang lên khi hàm vợ tôi vỡ ra, và mọi thứ nằm bên dưới mũi cô ta giờ đây bị xô lệch sang bên trái, như thể nằm trên một thứ bản lề. Nhưng nụ cười ngoạc ra từ tai bên này sang tai bên kia vẫn còn nguyên đó. Việc giờ đây nó không còn nằm thẳng hàng với đôi mắt của cô ta càng làm cho nó thêm ghê rợn. Như thể lúc này vợ tôi đang sở hữu hai khuôn mặt để ám ảnh tôi thay vì chỉ một. Cơ thể cô ta dịch chuyển chạm vào tấm đệm, làm nó trượt sang bên. Con chuột đang ngồi trên đầu cô ta chui xuống bên dưới cái đệm. Elphis lại rống lên lần nữa. Tôi thầm nghĩ, nếu lúc này Henry quay lại đây và nhìn xuống dưới giếng, rất có thể thằng bé sẽ giết tôi vì đã biến nó thành một phần của chuyện này. Có lẽ tôi cũng đáng bị giết. Nhưng như thế con trai tôi sẽ chỉ còn lại một mình, và khi một mình nó sẽ không thể tự vệ được. Một phần cái nắp đã rơi xuống giếng; một phần vẫn đang nằm ở trên. Tôi nạp đạn vào khẩu súng săn, tỳ súng vào miệng giếng, và nhắm xuống Elphis, đang nằm với cái cổ gãy và đầu bị đập vào thành giếng lát đá. Tôi chờ đến khi hai bàn tay đã chắc chắn, rồi siết cò. Một phát đạn là đủ. Quay vào trong nhà, tôi thấy Henry đã ngủ tiếp đi trên trường kỷ. Bản thân tôi đang ở trong trạng thái quá sốc để có thể thấy việc này kỳ lạ. Vào lúc ấy, với tôi thằng bé dường như là nguồn hy vọng duy nhất trên thế gian này: đã nhuốm chàm, nhưng không bị hoen ố tới mức không thể bao giờ trở lại sạch sẽ được nữa. Tôi cúi xuống hôn lên má con trai mình. Thằng bé rên rỉ và quay đầu tránh đi. Tôi để nó nằm đấy và quay vào chuồng gia súc tìm các dụng cụ của mình. Khi nó đến tìm tôi ba giờ sau đó, tôi đã lôi hết những mảnh nắp giếng vỡ còn nằm lại trên miệng giếng ra ngoài và xúc đất lấp lòng giếng lại. “Con sẽ giúp bố một tay,” con trai tôi nói với giọng ủ ê rầu rĩ. “Tốt. Hãy lấy chiếc xe tải và lái tới chỗ đống đá phế thải ở West Fence...” “Mình con sao?” Vẻ không tin nổi trong giọng nói của thằng bé chỉ thoáng qua, nhưng tôi thấy phấn chấn hẳn khi nghe thấy bất cứ cảm xúc nào trong đó. “Con biết hết về các số tiến rồi, và con có thể tự tìm ra số lùi, phải không nào?” “Vâng...” “Vậy thì con sẽ ổn thôi. Bố sẽ có đủ thứ việc phải làm trong thời gian đó, và khi con quay trở về, việc kinh khủng nhất cũng sẽ xong rồi.” Tôi chờ đợi thằng bé nói với tôi lần nữa rằng việc tồi tệ nhất sẽ chẳng bao giờ kết thúc, nhưng nó không nói gì. Tôi lại tiếp tục xúc đất. Tôi vẫn có thể nhìn thấy đỉnh đầu Arlette và cái bao tải với lọn tóc kinh khủng bị lôi ra bên trên nó. Có khi lúc này trong tổ ấm nằm giữa hai đùi cô vợ đã chết của tôi đã lúc nhúc cả một bầy chuột sơ sinh mới đẻ. Tôi nghe thấy máy chiếc xe tải nổ lọc xọc một lần, rồi hai. Tôi hy vọng cái tay quay không văng lại và đánh gãy tay Henry. Lần thứ ba con trai tôi quay tay quay, và chiếc xe tải cũ kỹ của chúng tôi rùng rùng sống dậy. Nó vào số hơi chậm một chút, làm động cơ gằn lên một hay hai lần, rồi lái xe đi. Con trai tôi đi mất gần một giờ đồng hồ, nhưng khi nó quay về, thùng xe đã chở đầy đá vụn và đất. Thằng bé lái xe tới sát bờ giếng và tắt máy. Nó đã cởi áo sơ mi ra, và thân hình bóng nhẫy mồ hôi của con trai tôi trông có phần quá gầy; tôi có thể đếm được từng cái xương sườn của nó. Tôi cố nhớ lại xem lần cuối cùng tôi nhìn thấy nó ăn một bữa ra hồn là khi nào, và lúc đầu không thể nhớ nổi. Sau đó tôi nghĩ hẳn đó là bữa sáng hôm sau khi chúng tôi đã ra tay với vợ tôi. Mình sẽ chú ý để thằng bé có một bữa ăn ra hồn vào tối nay, tôi thầm nghĩ. Mình sẽ chú ý để cả hai đều ăn uống tử tế. Không có thịt bò, nhưng vẫn còn thịt lợn trong hộp đá... “Bố, nhìn đằng kia xem,” con trai tôi lên tiếng bằng giọng nói ủ ê mới xuất hiện của nó, rồi chỉ tay ra phía xa. Tôi nhìn thấy một quầng bụi hướng về phía chúng tôi. Tôi nhìn xuống giếng. Vẫn chưa ổn, chưa hề. Một nửa thân hình của Elphis vẫn còn đang giãy. Chuyện đó tất nhiên cũng chẳng hề hấn gì, song một góc của cái đệm thấm máu vẫn còn nhô ra ngoài đống đất được hất xuống. “Giúp bố một tay,” tôi nói. “Liệu bố con mình có đủ thời gian không hả bố?” Giọng con trai tôi chỉ thoáng chút bận tâm. “Bố không biết nữa. Có thể. Nhưng đừng đứng đực ra đó nữa, lại đây giúp bố nào.” Cái xẻng thứ hai đang được để dựa vào tường chuồng gia súc, bên cạnh những mảnh vỡ của cái nắp giếng. Henry cầm lấy xẻng, và chúng tôi bắt đầu xúc đất và đá vụn từ thùng xe tải hất xuống giếng nhanh hết sức có thể. Khi chiếc xe của cảnh sát trưởng hạt với ngôi sao vàng sơn trên cửa và đèn nháy gắn trên nóc dừng lại bên cái thớt bổ củi (thêm một lần nữa làm George và đám gà mái nháo nhào bay loạn lên), Henry và tôi đang ngồi trên bậc cửa, cả hai bố con đều đã cởi áo sơ mi ra, và đang cùng nhau chia sẻ thứ cuối cùng Arlette James đã làm trên đời: một bình nước chanh. Cảnh sát trưởng James bước ra khỏi xe, xốc lại thắt lưng, bỏ cái mũ cao bồi hiệu Stetson đang đội trên đầu ra, vuốt mái tóc hoa râm của ông ta ra sau gáy, rồi lại đội mũ xuống, chỉnh trang lại nó dọc theo đường ranh giới nơi nước da trắng trên trán kết thúc và thay vào đó là nước da màu đồng hun. Ông ta chỉ có một mình. Tôi coi đây là một tín hiệu tốt. “Chúc hai bố con một ngày tốt lành.” Ông cảnh sát trưởng quan sát khuôn ngực trần, những bàn tay nhem nhuốc và khuôn mặt đẫm mồ hôi của hai bố con tôi. “Công việc chiều nay có vẻ vất vả quá nhỉ?” Tôi nhổ bọt. “Đó là do lỗi lầm đáng nguyền rủa của tôi.” “Thật vậy sao?” “Một con bò cái của nhà cháu ngã xuống cái giếng cũ dùng cấp nước cho gia súc,” Henry nói. Jones lại hỏi, “Thật vậy sao?” “Đúng thế,” tôi nói. “Ông có muốn uống một cốc nước chanh không, ông cảnh sát trưởng? Của Arlette đấy.” “Của Arlette sao? Vậy bà nhà đã quay về rồi phải không?” “Không,” tôi nói. “Cô ta mang theo những món váy áo ưa thích của mình, song bỏ lại nước chanh. Ông uống một chút đi.” “Tôi sẽ uống. Nhưng trước hết tôi cần dùng nhà vệ sinh của các vị một chút. Vì tôi đã năm mươi lăm tuổi rồi, nên dường như hễ gặp bụi cây nào là tôi phải dừng lại tưới vậy. Quả là một chuyện bất tiện đáng nguyền rủa.” “Nó ở đằng sau nhà. Cứ men theo lối đi và tìm hình trăng lưỡi liềm trên cửa.” Ông ta phá lên cười như thể đây là câu pha trò hài hước nhất ông ta được nghe cả năm vừa qua, rồi đi vòng ra sau nhà. Liệu trên đường ông ta có dừng lại để ngó vào qua các cửa sổ không? Ông ta sẽ làm thế nếu có chút năng lực với công việc của mình, và tôi cũng nghe nói ông ta từng làm thế thật. Ít nhất khi ông ta còn trẻ. “Bố,” Henry nói. Giọng nó thật khẽ. Tôi quay sang nhìn nó. “Nếu ông ấy tìm ra, chúng ta không thể làm gì khác nữa. Con có thể nói dối, nhưng sẽ không có chuyện giết thêm ai nữa.” “Được thôi,” tôi nói. Đó là một cuộc nói chuyện ngắn, nhưng tôi vẫn thường xuyên nghĩ về nó trong suốt tám năm vừa qua. Cảnh sát trưởng Jones quay trở lại, vẫn đang cài dở khuy quần. “Đi vào rót cho ông cảnh sát trưởng một cốc,” tôi bảo Henry. Henry đi vào trong nhà. Jones hoàn tất việc cài khuy quần, bỏ mũ ra, lại đưa tay lên vuốt tóc ra sau vài lần nữa, rồi đội mũ trở lại. Tấm phù hiệu của ông ta lấp lánh trong ánh nắng đầu giờ chiều. Khẩu súng ông ta mang bên hông trông rất to, và cho dù Jones quá già để có thể từng tham gia cuộc Đại Chiến[14], cái bao đeo súng trông giống như loại của AEF[15]. Có thể là của con trai ông ta. Con trai ông cảnh sát trưởng đã chết trong cuộc chiến đó. “Nhà vệ sinh có mùi thật dễ chịu,” ông ta nói. “Luôn thật dễ chịu trong một ngày nóng nực.” “Arlette vẫn thường xuyên cho vôi sống xuống đó,” tôi nói. “Tôi sẽ cố duy trì thói quen này nếu cô ta tiếp tục vắng nhà. Ông hãy lên thềm này ngồi cho mát.” “Bóng mát nghe có vẻ hay đấy, nhưng tôi tin rằng tôi sẽ đứng. Tôi cần kéo dãn cột sống của mình ra.” Tôi ngồi xuống chiếc ghế xích đu có phủ đệm của mình. Ông cảnh sát trưởng đứng bên cạnh tôi, cúi mặt nhìn xuống. Tôi không thích phải ở trong vị trí này chút nào, song cũng cố kiên nhẫn chịu đựng. Henry quay ra mang theo một cái cốc. Cảnh sát trưởng Jones tự rót nước chanh cho mình, nếm thử, rồi ực một hơi gần cạn cốc và liếm môi. “Ngon thật đấy, đúng không nào? Không chua quá, không ngọt quá, vừa đúng độ.” Ông ta bật cười. “Tôi giống như Goldilocks[16]vậy, phải không nào?” Rồi uống nốt chỗ nước chanh còn lại, nhưng lắc đầu khi Henry định rót thêm vào cốc cho ông ta. “Cậu muốn tôi đái vào tất cả các cọc rào trên đường quay lại Hemingford Home chắc? Rồi trên suốt quãng đường sau đó về thành phố Hemingford nữa?” “Vậy là ông đã di chuyển văn phòng rồi sao?” tôi hỏi. “Tôi cứ nghĩ ông ở ngay Home kia.” “Chẳng lẽ không phải thế sao? Cái ngày họ bắt tôi chuyển Văn phòng Cảnh sát trưởng về thủ phủ của hạt cũng sẽ là ngày tôi từ chức và chuyển lại nó cho Hap Birdwell đúng như anh ta muốn. Không, không, chỉ là một phiên tòa tôi phải tham dự trong thành phố thôi. Chỉ đơn thuần là việc giấy tờ, nhưng vậy đấy. Và anh biết ông thẩm phán Cripps là người thế nào rồi...mà cũng có thể là không, tôi đoán là anh không biết, vì anh vốn là kiểu người cố tránh xa phải dính dáng đến luật pháp. Ông ta là người nóng tính, và nếu có anh chàng nào có mặt không đúng giờ, tính tình ông ta còn trở nên tệ hại hơn nhiều. Vì thế cho dù chỉ là chuyện nói câu tuyên thệ trước Chúa rồi ký tên tôi lên một mớ giấy tờ pháp lý vớ vẩn, tôi cũng phải thu xếp thật khẩn trương công việc của tôi ở đây, phải không nào? Và hy vọng rằng cái xe mắc dịch của tôi không giở quẻ trên đường quay về.” Tôi không nói gì sau khi lắng nghe tất cả. Ông ta nói năng không giống như một người đang vội vã, song có lẽ đó chỉ đơn giản là thói quen của ông ta. Ông cảnh sát trưởng lại nhấc mũ lên, vuốt tóc vài cái nữa, nhưng lần này ông ta không đội mũ xuống. Ông ta chăm chú nhìn tôi, rồi chuyển sang Henry, rồi lại quay lại tôi. “Tôi đoán hai người cũng biết tôi tự ý mò đến đây. Tôi tin rằng những gì xảy ra giữa một người đàn ông và vợ anh ta là chuyện riêng của họ. Nên như thế, phải không nào? Kinh Thánh nói người đàn ông là cái đầu của một người phụ nữ, và nếu một người phụ nữ cần học điều gì, điều đó nên do chồng cô ta dạy tại nhà. Sách Corinthian. Nếu Kinh Thánh là ông chủ duy nhất của tôi, tôi sẽ làm đúng như Kinh Thánh và cuộc đời hẳn sẽ đơn giản hơn nhiều.” “Tôi lấy làm ngạc nhiên khi ông Lester không tới đây cùng ông,” tôi nói. “Ồ, ông ta muốn đến lắm, nhưng tôi gạt phắt đi. Ông ta cũng muốn tôi xin một trát khám nhà, nhưng tôi nói với ông ta rằng tôi không cần tới thứ đó. Tôi nói rằng hoặc anh sẽ cho phép tôi nhìn quanh một chút, hoặc có thể không.” Ông ta nhún vai. Khuôn mặt ông cảnh sát trưởng có vẻ bình thản, song đôi mắt ông ta thật sắc sảo, luôn luôn chuyển động: tìm kiếm và dò xét, dò xét và tìm kiếm. Khi Henry hỏi tôi về cái giếng, tôi đã nói, Chúng ta sẽ quan sát ông ta và quyết định xem ông ta sắc sảo đến mức nào. Nếu ông ta sắc sảo, chúng ta sẽ tự dẫn ông ta tới xem. Chúng ta không thể để mình trông có vẻ như đang có gì đó cần giấu diếm. Nếu con thấy bố giơ ngón tay cái lên, có nghĩa là bố nghĩ chúng ta buộc phải thử vận may. Nhưng chúng ta cần nhất trí với nhau, Hank. Nếu bố không thấy con giơ ngón cái lên đáp lại, bố sẽ im lặng không nói gì. Tôi giơ cốc của mình lên và uống nốt chỗ nước chanh còn lại. Khi tôi thấy Henry đang nhìn mình, tôi giơ ngón cái lên. Chỉ hơi nhích lên một chút. Hoàn toàn có thể coi như một cú co cơ. “Cái ông Lester đó nghĩ gì vậy?” Henry hỏi, giọng có vẻ phẫn nộ. “Rằng bố con cháu trói mẹ cháu dưới hầm chắc?” Hai bàn tay thằng bé vẫn nằm im hai bên sườn nó, không hề động đậy. Cảnh sát trưởng Jones bật cười thực sự, cái bụng tròn trịa của ông ta rung lên sau chiếc thắt lưng. “Tôi đâu thể biết ông ta nghĩ gì, phải không nào? Mà thực lòng tôi cũng không mấy bận tâm về điều đó. Đám luật sư chính là những con bọ chét bám trên làn da của bản chất con người. Tôi có thể nói như vậy, vì tôi từng làm việc cho bọn họ - và chống lại bọn họ nữa - trong suốt quãng đời trưởng thành của tôi. Nhưng...” Đôi mắt sắc sảo dán chặt vào mắt tôi. “Tôi không quan tâm tới chuyện kiểm tra, chính vì ông đã không cho ông ta vào nhìn ngó. Ông ta rất bực bội về chuyện đó.” Henry gãi lên cánh tay nó. Ngón cái của thằng bé giơ lên hai lần trong lúc nó làm như thế. “Tôi không cho phép ông ta vào nhà vì tôi không thích ông ta,” tôi nói. “Mặc dù nói một cách công bằng, tôi đoán chắc tôi cũng sẽ chống lại cả thánh Tông đồ John nếu ông ấy tìm đến đây vì quyền lợi của nhà Cole Farrington.” Nghe đến đây, cảnh sát trưởng Jones bật cười to: Ha, ha, ha! Nhưng đôi mắt ông ta lại chẳng hề cười. Tôi đứng dậy. Thật nhẹ nhõm khi đứng trên hai chân của mình. Khi đứng lên, tôi cao hơn Jones ba hay bốn inch. “Ông có thể nhìn vào trái tim mình.” “Tôi đánh giá cao chuyện đó. Như thế cuộc sống của tôi sẽ dễ dàng hơn nhiều, phải không nào? Tôi đã có thẩm phán Cripps để đối phó khi quay về rồi, như thế cũng là quá đủ. Không cần phải nghe thêm một trong những gã chó săn luật sư của Farrington ngoạc mồm ra sủa vào mặt tôi, nếu tôi có thể tránh được chuyện đó.” Chúng tôi cùng đi vào trong nhà, tôi dẫn đầu, và Henry đi sau cùng. Sau vài lời khen ngợi vị khách dành cho sự sạch sẽ của phòng khách và ngăn nắp của nhà bếp, chúng tôi đi xuống cuối lối đi. Cảnh sát trưởng Jones liếc mắt nhìn chiếu lệ vào phòng Henry, sau đó chúng tôi tới nơi quan trọng nhất. Tôi đẩy mở cánh cửa dẫn vào phòng ngủ của mình với một cảm giác chắc chắn thật lạ lùng: tất cả máu sẽ quay trở lại. Sẽ lênh láng dưới sàn, bắn lên tường, ướt sũng tấm đệm mới. Cảnh sát trưởng Jones sẽ nhìn thấy. Sau đó ông ta sẽ quay sang tôi, lấy cái còng tay đang treo lủng lẳng bên phía đối diện với khẩu súng ổ quay trên vòng hông mập mạp của mình, và nói: Tôi sẽ bắt giữ ông vì tội sát hại Arlette James, được chứ? Không còn vết máu hay chút mùi máu nào trong đó, vì căn phòng đã được thông khí suốt nhiều ngày qua. Giường đã được sắp lại, cho dù không phải theo cách Arlette vẫn làm; cách sắp giường của tôi giống theo kiểu quân đội hơn, cho dù hai bàn chân của tôi đã giữ tôi đứng ngoài cuộc chiến đã cướp đi con trai của ông cảnh sát trưởng. Không thể đi giết bọn Kraut[17]khi anh có hai bàn chân bẹt. Những gã đàn ông có bàn chân bẹt chỉ có thể giết vợ. “Phòng đẹp lắm,” Cảnh sát trưởng Jones nhận xét. “Cho phép đón ánh sáng buổi sớm, phải không?” “Phải,” tôi nói. “Và mát mẻ gần hết buổi chiều, thậm chí cả vào mùa hè, vì mặt trời đã ngả về phía bên kia.” Tôi đi lại tủ quần áo và mở nó ra. Cảm giác chắc chắn lúc trước lại quay trở lại, mạnh hơn bao giờ hết. Tấm mền đâu rồi? ông ta sẽ hỏi. Cái mền vốn để ở giữa tầng giá trên cùng ấy? Tất nhiên, ông ta không hề hỏi vậy, song ông cảnh sát trưởng bước tới khá hăng hái khi tôi mời ông ta. Đôi mắt sắc sảo của ông - màu xanh lục rất sáng, gần như mắt mèo - quan sát chỗ này, chỗ kia, mọi chỗ. “Nhiều đồ quá,” ông ta nói. “Phải,” tôi thừa nhận. “Arlette thích váy áo và cô ta cũng thích những cuốn ca ta lô đặt hàng qua bưu điện. Nhưng vì cô ta chỉ mang theo có một cái va li - chúng tôi có hai cái, và chiếc còn lại vẫn ở kia, ông có thấy nó trong góc đằng sau không? - tôi buộc phải nói rằng cô ta đã chỉ mang theo những món cô ta thích nhất. Và những món thực sự hữu dụng, tôi đoán vậy. Cô ta có hai cái quần ống rộng và một cái quần bò màu xanh, và tất cả đều biến mất rồi, cho dù cô ta không quan tâm đến mấy cái quần vải.” “Tuy thế, quần vải rất tiện lợi khi đi đường, phải không nào? Cho dù là đàn ông hay đàn bà, quần vải cũng rất tiện lợi khi đi đường. Và một phụ nữ hoàn toàn có thể lựa chọn chúng. Ý tôi là khi cô ta vội.” “Tôi đoán là thế.” “Mẹ cháu đã mang theo những món trang sức đắt giá của mẹ cùng bức ảnh mẹ chụp chung với ông bà ngoại,” Henry lên tiếng sau lưng chúng tôi. Tôi hơi giật mình; tôi hầu như đã quên khuấy mất thằng bé cũng đang có mặt. “Thật thế sao? Được lắm, ta đoán là bà ấy sẽ có thể làm vậy.” Ông cảnh sát trưởng liếc qua lần nữa đống quần áo, rồi đóng cửa tủ lại. “Căn phòng đẹp lắm,” ông ta nói, quay trở ra lối đi, chiếc mũ cao bồi hiệu Stetson vẫn cầm trên tay. “Ngôi nhà đẹp lắm. Một người phụ nữ hẳn phải điên mới rời khỏi một căn phòng và một ngôi nhà đẹp thế này.” “Mẹ cháu nói rất nhiều về thành phố,” Henry nói, rồi thở dài. “Mẹ cháu từng có ý định mở một cửa hiệu gì đó.” “Thật vậy sao?” Cảnh sát trưởng Jones chăm chú nhìn thằng bé với đôi mắt mèo xanh lục của ông ta. “Được lắm! Nhưng một việc như thế sẽ cần đến tiền, phải không nào?” “Cô ta có khu đất được thừa kế từ bố mình,” tôi nói. “Phải rồi, phải rồi.” Ông ta mỉm cười rụt rè, như thể đã quên mất khu đất đó. “Và có thể như thế lại tốt hơn. “Thà rằng sống ở một vùng đất hoang còn hơn sống với một người đàn bà cay nghiệt luôn cáu bẳn”. Sách Cách ngôn. Cháu có thấy vui vì mẹ cháu đã bỏ đi không, chàng trai?” “Không,” Henry nói, và nước mắt trào ra từ đôi mắt thằng bé. Tôi thầm tạ ơn từng giọt. Cảnh sát trưởng Jones nói, “Thôi nào, thôi nào”. Sau khi đã an ủi qua loa như thế, ông ta cúi xuống, chống hai bàn tay lên hai bên đầu gối mập mạp, và nhìn vào dưới gầm giường. “Xem ra dưới này có một đôi giày nữ. Giày đế bằng. Loại phù hợp cho đi bộ. Ông không nghĩ rằng bà nhà đi chân đất bỏ đi đấy chứ?” “Cô ta đi đôi giày vải,” tôi nói. “Đôi đó đã biến mất.” Đúng thế. Đôi giày màu xanh lá cây đã bạc màu mà vợ tôi hay gọi là đôi giày làm vườn của cô ta. Tôi nhớ rõ đã thấy chúng trước khi bắt đầu lấp đất xuống giếng. “À!” ông ta thốt lên. “Thêm một bí ẩn nữa được sáng tỏ.” Ông cảnh sát trưởng lấy từ trong túi áo vét ra một cái đồng hồ vỏ bạc và xem giờ. “Được rồi, tốt hơn tôi nên quay về. Thời gian trôi đi nhanh quá.” Chúng tôi lại quay trở ra qua trong nhà, Henry đi sau cùng, có lẽ để nó có thể lau khô mắt một cách riêng tư. Chúng tôi đi cùng ông cảnh sát trưởng tới chỗ chiếc sedan Maxwell có ngôi sao trên cánh cửa của ông ta. Tôi đang định hỏi ông ta có muốn xem qua cái giếng hay không - thậm chí tôi còn biết chắc mình sẽ gọi nó bằng cái tên nào - thì ông ta dừng lại và dành cho con trai tôi một cái nhìn tử tế khủng khiếp. “Ta đã ghé qua chỗ nhà Cotterie,” ông ta nói. “Vậy ư?” Henry hỏi. “Ông đã ghé qua đó thực sao?” “Ta đã nói với hai người là dạo này qua bụi cây nào ta cũng phải dừng lại để xả nước rồi còn gì, nhưng ta sẽ dùng nhà vệ sinh bất cứ khi nào có trong tầm tay, luôn với điều kiện là chủ nhân của chúng giữ chúng sạch sẽ và ta không phải lo ngại ong bắp cày trong lúc chờ cái vòi của ta thả nốt những giọt cuối cùng xuống. Và gia đình Cotterie là những con người sạch sẽ. Cô con gái cũng rất xinh nữa. Cô bé cũng trạc tuổi cháu, đúng không?” “Vâng, thưa ông,” Henry nói, hơi lên giọng một chút khi nói đến thưa ông. “Ta đoán là cháu cũng có cảm tình với cô bé, phải không? Và cô bé cũng có cảm tình với cháu, theo như những gì mẹ cô bé nói.” “Cô ấy nói vậy thật sao ạ?” Henry hỏi. Giọng nói của thằng bé có vẻ ngạc nhiên, nhưng cũng rất vui sướng. “Đúng vậy. Bà Cotterie nói cháu rất buồn phiền về mẹ cháu, và Shannon đã kể cho bà ấy nghe chuyện gì đó cháu đã nói về việc này. Ta đã hỏi bà ấy chuyện đó là gì, và bà ấy nói đó là chuyện bà ấy không tiện nói ra, nhưng ta có thể hỏi Shannon. Và ta đã làm thế.” Henry nhìn chằm chằm xuống dưới chân nó. “Cháu đã bảo bạn ấy không kể lại với ai khác.” “Cháu sẽ không phiền lòng với cô bé chứ, phải không nào?” Cảnh sát trưởng Jones hỏi. “Ý ta là, khi một người to con như ta với một ngôi sao trên ngực ông ta hỏi một cô bé những gì cô ta biết, cô bé thật khó lòng mà giữ mồm giữ miệng được, phải không nào? Cô bé đành phải kể ra thôi, phải không?” “Cháu không biết,” Henry nói, vẫn cúi gằm mặt xuống. “Có thể lắm.” Thằng bé không chỉ đơn thuần tỏ vẻ bất hạnh; nó đangthực sự bất hạnh. Cho dù đó đúng là bộ dạng chúng tôi đã hy vọng thể hiện ra được. “Shannon nói mẹ cháu và bố cháu đã cãi cọ nhau dữ dội về việc bán khu đất trăm mẫu đó, và khi cháu đứng về phía bố cháu, mẹ đã tát cháu rất mạnh.” “Vâng,” Henry nói một cách vô cảm. “Mẹ cháu đã uống quá nhiều.” Cảnh sát trưởng Jones quay sang tôi. “Bà nhà uống say khướt hay chỉ chếnh choáng thôi?” “Ở đâu đó giữa hai mức độ đó,” tôi nói. “Nếu cô ta đã say mềm hẳn, thì chắc cô ta sẽ ngủ yên cả đêm thay vì bò dậy, xếp đồ vào vali và lén lút bỏ đi như kẻ trộm vậy.” “Ông có nghĩ bà nhà sẽ quay về khi tỉnh rượu không?” “Tôi đã nghĩ thế. Chỗ này cách đường nhựa chừng hơn bốn dặm. Tôi đã nghĩ chắc chắn cô ta sẽ quay về. Chắc hẳn phải có ai đó đi ngang qua và cho cô ta đi nhờ xe trước khi đầu óc cô ta tỉnh hẳn. Theo tôi đoán thì đó là một tay tài xế xe tải chạy tuyến Lincoln - Omaha.” “Hẳn rồi, hẳn rồi, tôi cũng đoán thế. Tôi tin chắc thế nào ông cũng được biết tin của bà nhà khi bà ấy liên lạc với ông Lester. Nếu bà nhà muốn tách ra sống riêng, nếu vợ ông đã có ý tưởng đó trong đầu, bà nhà sẽ cần đến tiền để thực hiện việc này.” Vậy là ông ta cũng biết cả việc đó nữa. Đôi mắt ông cảnh sát trưởng bỗng trở nên sắc lạnh. “Ông có biết liệu bà nhà có tiền không, ông James?” “À...” “Đừng xấu hổ. Xưng tội là điều tốt cho linh hồn. Những người Công giáo cần bám lấy thứ gì đó ngoài kia, phải không nào?” “Tôi có cất một cái hộp trong ngăn kéo. Trong đó có 200 đô la, dùng để trả tiền cho những người thu hoạch thuê khi họ bắt đầu làm việc vào tháng tới.” “Và trả cho ông Cotterie nữa,” Henry nhắc cho tôi nhớ. Quay sang cảnh sát trưởng Jones, thằng bé nói: “Ông Cotterie có một máy thu hoạch ngô. Một cái máy hiệu Harris Giant. Gần như còn mới tinh. Một cái máy rất tuyệt.” “Phải rồi, phải rồi, ta đã thấy nó ở ngoài sân nhà ông ấy. Quả là một cái máy bự con, phải không nào? Thứ lỗi cho giọng Ba Lan của tôi. Tiền đã biến mất hết khỏi cái hộp rồi, phải không?” Tôi mỉm cười chua chát - chỉ có điều không thực sự là tôi chường ra nụ cười đó; Kẻ Ma Quái đã ra tay đảm nhiệm mọi sự kể từ lúc cảnh sát trưởng Jones dừng xe bên cái thớt bổ củi. “Cô ta để lại hai mươi đô la. Quả là rộng rãi. Nhưng hai mươi là số tiền tối đa Harlan Cotterie sẽ lấy để cho thuê cái máy thu hoạch ngô của ông ấy, vậy nên cũng ổn thôi. Và khi cần tiền thuê người thu hoạch, tôi đoán Stoppenhauser tại nhà băng sẽ ứng cho tôi một khoản vay. Trừ khi ông ta có nợ nần gì đó với Công ty Farrington, tất nhiên rồi. Dù thế nào đi nữa, tôi cũng có tay nhà nông giỏi nhất của mình ở đây rồi.” Tôi cố làm bộ xoa đầu Henry. Thằng bé bối rối lảng ra. “Được rồi, tôi đã có đủ tin tức để báo lại cho ông Lester rồi, phải không nào? Ông ta sẽ chẳng thích thú gì với bất cứ tin nào trong số này, nhưng nếu ông ta khôn ngoan đúng như ông ta tự nghĩ về mình, tôi đoán ông ta sẽ biết phải chờ đợi bà nhà tại văn phòng của mình, và sớm thôi chứ không lâu nữa. Con người ta thường có xu hướng chường mặt ra sớm khi thiếu những tờ xanh gấp trong ví, phải không nào?” “Đó là kinh nghiệm của chính tôi,” tôi nói. “Nếu chúng ta đã xong rồi, thưa cảnh sát trưởng, tốt hơn con trai tôi và tôi nên quay lại làm việc. Đáng ra cái giếng vô dụng đó phải được lấp đi từ ba năm trước rồi. Một con bò cái già của tôi...” “Elphis,” Henry nói như một cậu nhóc đang nằm mơ. “Tên nó là Elphis.” “Elphis,” tôi đồng ý. “Nó mò ra khỏi chuồng và quyết định thử leo lên nắp giếng, và cái nắp sụp xuống. Mà con bò già đó còn chẳng chịu tự chết đi nữa. Tôi đã phải bắn nó. Mời ông đi ra đằng sau chuồng gia súc, tôi sẽ chỉ cho ông thấy con vật lười nhác đó với những cái chân chết tiệt của nó chĩa cả lên trời. Chúng tôi sẽ chôn nó luôn ở đúng chỗ nó đang nằm, và từ giờ trở đi tôi sẽ gọi cái giếng cũ đó là Cơn Điên của Wilfred.” “À, liệu tôi có nên đi xem không nhỉ? Cũng là một thứ đáng ngó qua đấy. Nhưng tôi còn phải làm hài lòng ông thẩm phán già khó tính kia nữa. Để lúc khác vậy.” Ông ta ì ạch chui vào trong xe, vừa chui vào vừa lầm bầm. “Cảm ơn ông vì nước chanh, và vì cuộc đón tiếp chu đáo. Ông hoàn toàn có thể tỏ ra ít mến khách hơn thế nhiều, nếu tính đến người đã đưa tôi tới đây.” “Không sao đâu,” tôi nói. “Chúng ta ai cũng có công việc của mình mà.” “Và gánh nặng phải mang nữa.” Đôi mắt sắc sảo của ông cảnh sát trưởng lại dừng lại ở Henry. “Con trai, ông Lester nói với ta rằng cháu đang giấu diếm điều gì đó. Ông ta tin chắc về chuyện đó. Và có đúng vậy không?” “Đúng thế, thưa ông,” Henry nói với giọng nói vô cảm và có phần khó chịu. Như thể mọi cảm xúc của thằng bé đã bay biến hết cả, như những thứ ở trong chiếc vò của Pandora khi cô ta mở nó ra. Nhưng không còn Elphis nào cho Henry và tôi; Elphis của chúng tôi đã chết ở dưới giếng. “Nếu ông ấy hỏi ta, ta sẽ nói với ông ấy rằng ông ấy đã nhầm,” cảnh sát trưởng Jones nói. “Một luật sư của công ty không cần phải biết mẹ của một cậu bé đã đánh nó khi bà ta đang say.” Ông ta lục lọi dưới gầm ghế ngồi của mình, rồi lôi ra một món đồ hình chữ S dài mà tôi biết quá rõ, rồi đưa nó cho Henry. “Cháu có thể giúp một chút cho cái lưng và đôi vai của một lão già không, con trai?” “Có chứ, thưa ông, rất sẵn lòng.” Henry cầm lấy cần khởi động và đi ra phía trước chiếc Maxwell. “Cẩn thận cổ tay cháu đấy!” Jones lớn tiếng. “Nó quật lại như một con bò tót ấy!” Rồi ông ta quay sang tôi. Tia dò hỏi đã biến mất khỏi đôi mắt ông ta. Cả màu xanh lục cũng thế. Đôi mắt giờ đây trở nên đờ đẫn, ngả màu xám và thật cứng rắn, giống như mặt nước hồ vào một ngày đầy mây. Đó là khuôn mặt của một người đàn ông có thể lao vụt qua đường ray chỉ cách đoàn tàu một inch và chẳng bao giờ mất ngủ dù chỉ một phút vì chuyện đó. “Ông James,” ông ta nói. “Tôi cần hỏi ông một điều. Như hai người đàn ông với nhau.” “Được thôi,” tôi nói. Tôi cố trấn tĩnh lại để đón nhận câu hỏi mà tôi cảm thấy chắc chắn sẽ tới tiếp theo: Có phải còn một con bò cái nữa dưới giếng không? Một con bò cái có tên Arlette? Nhưng tôi đã lầm. “Tôi có thể chuyển họ tên và bản mô tả đặc điểm cá nhân của bà nhà đi theo đường điện tín, nếu ông muốn. Chắc chắn bà nhà sẽ không đi xa hơn Omaha, phải không nào? Không thể, với chỉ một trăm tám mươi đô trong túi. Và một người phụ nữ đã trải qua phần lớn cuộc đời làm việc nội trợ trong nhà hiển nhiên không thể biết cách lẩn trốn. Có lẽ bà nhà đang ở trong một nhà trọ tại khu đông, nơi giá phòng rẻ. Tôi có thể đưa cô ta về nhà. Túm tóc lôi về, nếu ông muốn.” “Đúng là một lời đề nghị hào phóng, nhưng...” Đôi mắt xám đờ đẫn chăm chú nhìn tôi. “Hãy nghĩ cho kỹ trước khi ông trả lời có hay không. Đôi khi cần nói chuyện với một người đàn bà bằng tay chân, nếu ông hiểu ý tôi muốn nói gì? và sau đó họ sẽ ổn cả. Một trận đòn ra trò đôi khi lại làm một số người đàn bà trở nên dịu dàng hơn. Hãy thử cân nhắc đi.” “Tôi sẽ làm thế.” Động cơ chiếc Maxwell nổ giòn. Tôi chìa bàn tay ra - chính bàn tay đã cắt cổ vợ tôi - nhưng cảnh sát trưởng Jones không để ý đến. Ông ta đang bận rộn với việc vào số và chỉnh chân ga của chiếc Maxwell. Hai phút sau, ông ta chỉ còn là một đám bụi bốc lên trên con đường chạy từ trang trại ra. “Ông ấy thậm chí còn chẳng hề muốn nhìn qua,” Henry ngỡ ngàng. “Không.” Và hóa ra đó lại là chuyện tốt. Chúng tôi đã xúc đất rất lấp giếng rất nhanh khi thấy ông cảnh sát trưởng tới, và giờ đây không còn gì thò lên ngoài một bên chân sau của Elphis. Móng guốc của cái chân đó nằm cách miệng giếng chừng một mét hai. Ruồi bu đầy xung quanh nó như một đám mây. Vậy đấy, ông cảnh sát trưởng đã hoàn toàn có thể bận tâm xem qua, và thậm chí còn bận tâm hơn nữa khi đám đất phía trước cái móng guốc còn nhô lên đó bắt đầu phập phồng nhô lên hạ xuống. Henry đánh rơi cái xẻng của nó và bám chặt lấy tay tôi. Chiều hôm đó rất nóng, nhưng bàn tay thằng bé lại lạnh toát. “Là bà ấy!” nó thì thầm. Dường như trên khuôn mặt nó chỉ còn lại đôi mắt đang mở to hết cỡ. “Bà ấy đang cố thoát ra!” “Thôi ngay trò ngu ngốc đáng nguyền rủa đó đi,” tôi nói? nhưng tôi cũng không thể rời mắt khỏi khoảng đất hình tròn đang phập phồng đó. Như thể cái giếng đang sống dậy; và chúng tôi đang trông thấy trái tim bị vùi kín của nó đập. Sau đó, đất và đá vụn bắn tung ra xung quanh và một con chuột nhô lên. Đôi mắt của nó, đen nhán như hai giọt dầu, lấp lánh dưới ánh mặt trời. Con chuột phải to gần bằng một con mèo trưởng thành. Mắc vào bộ ria của nó là một mảnh bao tải màu nâu dính máu. “Ôi, chết tiệt!” Henry gào lên. Có thứ gì đó rít lên lao qua sát bên tai tôi, rồi lưỡi chiếc xẻng của Henry chém vỡ đôi đầu con chuột trong lúc nó ngước mắt nhìn lên bầu trời nắng chói chang. “Bà ấy gửi nó tới,” Henry nói. Thằng bé đang cười hết cỡ. “Giờ những con chuột đã trở thành của bà ấy.” “Không thể có chuyện như thế. Chỉ là con quá kích động thôi.” Con trai tôi buông rơi cái xẻng xuống và bước tới chỗ đống đá chúng tôi định dùng để hoàn tất công việc khi cái giếng đã được lấp gần đầy. Thằng bé ngồi xuống đó và bắt đầu nhìn tôi chăm chú. “Bố có chắc vậy không? Bố có chắc chắn không phải bà ấy đang ám ảnh chúng ta không? Người ta nói một người bị sát hại sẽ quay trở lại để ám ảnh bất cứ ai...” “Người ta nói nhiều thứ lắm. Sét không bao giờ đánh hai lần xuống cùng một chỗ, một cái gương vỡ mang tới bảy năm đen đủi, một con chim đớp muỗi hót lúc nửa đêm có nghĩa là ai đó trong gia đình sắp qua đời.” Tôi nói với vẻ đầy lý trí, song tôi vẫn không rời mắt được khỏi con chuột đã chết. Và vết máu trên mảnh bao tải đó. Từ cái bao tải chụp trên đầu vợ tôi. Cô ta vẫn còn đeo nó trên đầu khi bị ném xuống giếng, chỉ có điều giờ đây trên chiếc bao tải đã có một lỗ thủng với tóc của cô ta dựng lên thò qua đó. Vẻ mặt đó thật hay gặp ở những người đàn bà đã chết vào mùa hè này, tôi thầm nghĩ. “Khi con còn bé, con đã thực sự tin rằng nếu con giẫm lên một đốt sống lưng, con sẽ làm gãy lưng mẹ,” Henry trầm ngâm nói. “Đằng kia - bố thấy không?” Thằng bé phủi bụi đá khỏi đũng quần, và đứng dậy bên cạnh tôi. “Con nghĩ con đã giết được nó - con đã giết được con chuột khốn kiếp đó rồi, đúng không?” “Đúng rồi!” Và vì tôi không hề thích cách thằng bé nói - không, không hề - tôi vỗ lên lưng nó. Henry vẫn đang cười. “Nếu ông cảnh sát trưởng quay lại đây để nhìn qua như bố đã mời ông ấy và thấy con chuột đó đào đất chui lên, có khi ông ấy đã lại có thêm vài câu hỏi nữa, bố có nghĩ thế không?” Có điều gì đó trong ý tưởng này làm Henry phá lên cười sằng sặc đầy kích động. Phải mất bốn hay năm phút để thằng bé cười xong, và nó khiến lũ quạ trên hàng rào sợ chết khiếp đến mức không dám bén mảng lại gần đồng ngô, nhưng cuối cùng con trai tôi cũng bình tâm lại. Khi hai bố con tôi hoàn tất việc lấp giếng, mặt trời đã lặn từ lâu, và chúng tôi có thể nghe thấy tiếng những con cú so giọng với nhau trong khi bắt đầu những chuyến săn đêm trước lúc trăng mọc từ nóc chuồng gia súc. Những tảng đá đổ lên trên cái giếng đã biến mất được đầm chặt vào nhau, và tôi không nghĩ còn có con chuột nào sẽ có thể thò được lên bề mặt. Hai bố con tôi cũng chẳng buồn thay cái nắp giếng cũ đã vỡ; chẳng cần thiết phải làm thế. Henry dường như đã trở lại bình thường, và tôi nghĩ có lẽ cả hai chúng tôi sẽ được hưởng một giấc ngủ ngon ban đêm. “Con nói sao về xúc xích, đậu hạt và bánh ngô?” tôi hỏi thằng bé. “Con có thể bật máy phát điện và mở bài Hayride Party trên radio không ạ?” “Tất nhiên, thưa quý ông, ông có thể.” Nghe thấy câu trả lời, thằng bé mỉm cười, nụ cười đáng yêu thuở trước. “Cảm ơn bố.” Tôi nấu đủ đồ ăn cho bốn người, và hai bố con tôi ăn hết nhẵn. Hai giờ sau, trong lúc tôi đang ngồi trên chiếc ghế tựa trong phòng khách gật gù đọc Silas Marner[18], Henry từ phòng nó đi vào, chỉ mặc độc có đồ lót mùa hè. Nó nhìn tôi hoàn toàn tỉnh táo. “Mẹ luôn khăng khăng buộc con phải cầu nguyện, bố có biết chuyện đó không?” Tôi ngạc nhiên nháy mắt với thằng bé. “Vẫn chưa ngủ sao? Không. Bố không biết.” “Đúng thế đấy. Ngay cả sau khi mẹ chỉ nhìn con khi con đã mặc quần tử tế, bởi vì bà ấy nói con đã quá lớn và sẽ không phải nếu không làm thế. Nhưng bây giờ con không thể cầu nguyện, hay sau này cũng thế. Nếu con quỳ xuống, con nghĩ Chúa sẽ đánh chết con.” “Nếu như có Chúa thật,” tôi nói. “Con hy vọng là không có. Nghe thật cô độc, nhưng con hy vọng là không có. Con nghĩ tất cả những kẻ sát nhân đều hy vọng như thế. Bởi vì nếu không có Thiên Đường, cũng sẽ chẳng có Địa Ngục.” “Con trai, bố mới là người giết bà ấy.” “Khộng - chúng ta đã cùng nhau làm việc đó.” Không đúng thế - con trai tôi mới chỉ là một đứa trẻ, và tôi đã ép buộc nó - nhưng với nó đúng là như thế, và tôi nghĩ sẽ luôn là như thế. “Nhưng bố sẽ không phải lo về con đâu. Con biết bố nghĩ con sẽ làm lộ chuyện - nhiều khả năng là với Shannon. Hoặc có thể con sẽ cảm thấy tội lỗi đến mức đi tới Hemingford và thú tội với ông cảnh sát trưởng.” Tất nhiên những ý nghĩ đó đã thoáng qua đầu tôi. Henry chậm rãi lắc đầu đầy thông cảm. “Ông cảnh sát trưởng đó - bố có thấy ông ta nhìn mọi thứ như thế nào không? Bố có thấy đôi mắt của ông ta không?” “Có.” “Ông ta cố đẩy cả hai chúng ta lên ghế điện, con nghĩ thế, và không hề bận tâm tới chuyện con chưa đủ mười lăm tuổi cho tới tận tháng Tám. Ông ta rồi cũng sẽ có mặt ở đó, nhìn chằm chằm vào chúng ta với đôi mắt khắc nghiệt của mình khi người ta chằng dây điện vào chúng ta và...” “Thôi đi, Hank. Đủ rồi đấy.” Song như thế với thằng bé vẫn là chưa đủ. “... và sập cầu giao. Con sẽ không bao giờ để chuyện đó xảy ra, nếu con có thể làm gì đó. Những con mắt ấy sẽ không bao giờ là thứ cuối cùng con nhìn thấy.” Thằng bé nghĩ lại những gì nó vừa nói. “Không bao giờ, ý con là vậy đấy. Không bao giờ.” “Lên giường đi ngủ đi, Henry.” “Hank.” “Hank. Đi ngủ đi con. Bố yêu con.” Thằng bé mỉm cười. “Con biết, nhưng con không mấy xứng đáng với nó.” Rồi bỏ đi trước khi tôi kịp trả lời. Vậy là đi ngủ, như ông Pepys[19]nói. Chúng tôi ngủ thiếp đi trong lúc những con cú săn mồi và Arlette ngồi dưới bóng tối sâu thẳm của cô ta với nửa dưới khuôn mặt bị móng guốc của con bò cái đá lệch sang một bên. Ngày hôm sau mặt trời xuất hiện, một ngày tốt cho những cây ngô, và chúng tôi cùng bắt tay vào làm việc. Khi tôi quay vào nhà, nóng bức, mệt nhoài, để chuẩn bị cho hai bố con một bữa trưa, có một cái xoong đậy nắp đặt trên ngưỡng cửa. Một tờ giấy ghi lời nhắn bay phấp phới được kê vào dưới một bên cái xoong. Trên đó viết: Wilf - Chúng tôi rất lấy làm tiếc vì những rắc rối anh gặp phải và sẵn sàng giúp đỡ anh theo mọi cách có thể. Harlan nói anh đừng lo về việc trả tiền thuê máy thu hoạch ngô vụ hè năm nay. Nếu anh biết được tin tức gì từ vợ anh, làm ơn hãy cho chúng tôi biết. Chào anh, Sallie Cotterie. Tái bút: Nếu Henry tới thăm Shan, tôi sẽ gửi cho hai bố con một cái bánh quả việt quất. Tôi nhét tờ giấy vào trong túi trên chiếc quần yếm tôi đang mặc và mỉm cười. Cuộc sống của chúng tôi không còn Arlette đã bắt đầu. Nếu Chúa tưởng thưởng cho chúng ta trên thế gian này vì những việc tốt - Kinh Cựu Ước cho là như thế, và chắc chắn những người Thanh Giáo cũng tin vào điều này - thì rất có thể Satan tưởng thưởng cho chúng tôi vì những việc xấu. Tôi không thể nói chắc chắn, nhưng tôi có thể nói rằng mùa hè năm đó thật tuyệt, với rất nhiều nắng ấm và mặt trời cho cánh đồng ngô và vừa đủ mưa để giữ cho những mẫu ruộng rau của chúng tôi xanh tốt. Cũng có sấm chớp xảy ra vào một vài buổi chiều, song không hề xuất hiện lần nào những cơn gió lốc làm xóa sổ hết mùa màng mà nông dân vùng Trung Tây vẫn e sợ. Harlan Cotterie đến cùng chiếc máy Harris Giant, và cái máy đã không bị trục trặc lần nào. Tôi có được khoản vay từ ngân hàng mà không gặp bất cứ rắc rối nào, và trả lại đầy đủ vào tháng Mười, vì năm đó giá ngô đột nhiên cao vọt lên tới khó tin và phí vận chuyển của công ty đường sắt Miền Tây lại hạ thấp kỷ lục. Nếu các vị nhớ rõ môn lịch sử, các vị hẳn còn nhớ rằng hai thứ đó - giá của sản phẩm và chi phí vận chuyển - đã đảo chỗ cho nhau từ năm 1923 và vẫn giữ nguyên như thế kể từ đó. Với những người nông dân của vùng Trung Tây, cuộc Đại Suy Thoái bắt đầu khi Thị trường Hàng hóa Nông nghiệp Chicago sụp đổ vào mùa hè tiếp theo. Nhưng mùa hè năm 1922 quả là hoàn hảo như mơ ước của bất cứ người nông dân nào. Chỉ một biến cố duy nhất phủ bóng đen lên nó, và lại liên quan tới một con bò cái khác của chúng tôi, và tôi sẽ kể ngay cho quý vị biết về biến cố này. Ông Lester có tìm đến hai lần nữa. Ông ta cố quấy rầy chúng tôi, nhưng ông ta chẳng có gì đưa ra làm cớ để quấy rầy, và hẳn là tay luật sư cũng biết thế, vì trong ông ta rất vội vã vào tháng Bảy năm ấy. Tôi hình dung ra các ông chủ của tay luật sư cũng đang quấy quả ông ta quyết liệt, và ông ta chỉ đơn giản là chuyển tải lại chúng tới chúng tôi. Hay cố gắng làm như thế. Lần thứ nhất, ông ta hỏi rất nhiều những câu hỏi mà kỳ thực cũng chẳng phải là câu hỏi, mà là những câu ám chỉ bóng gió. Tôi có cho rằng vợ tôi đã gặp phải một tai nạn hay không? Chắc chắn phải là như thế, tôi có đồng ý vậy không, vì nếu không vợ tôi hoặc đã phải liên lạc ông ta nhằm thu xếp việc thanh toán bằng tiền mặt cho lô đất 100 mẫu kia hoặc chỉ đơn giản là cúp đuôi, theo nghĩa bóng, quay trở về trang trại. Hoặc tôi có nghĩ vợ tôi đã mắc bẫy một kẻ lừa đảo nào đó trên đường không? Những chuyện như thế thỉnh thoảng vẫn hay xảy ra, phải không nào? Và như thế chắc chắn sẽ rất tiện lợi cho tôi, chẳng đúng vậy sao? Lần thứ hai tay luật sư chường mặt đến, ông ta trông cũng tuyệt vọng ngang với mức độ hối hả của mình, và thẳng thừng hỏi tuột ra luôn: có phải vợ tôi đã bị tai nạn ngay tại trang trại hay không? Có phải đó là những gì đã xảy ra không? Có phải đó là lý do tại sao không ai phát hiện ra cô ta dù còn sống hay đã chết hay không?