🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Mưu Trí Thời Tùy – Đường
Ebooks
Nhóm Zalo
Mưu trí thời Tùy - Đường
Đánh máy: bevang
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Mục lục
Phần I - Chương 1
Tất cả là kế, đánh vào quyền của vua chúa
Chương 2
Xem xét tình thế, biến đổi linh hoạt
Chương 3
Lấy mâu thuẫn nội bộ để tiêu diệt lực lượng
Chương 4
không sợ gì những thứ danh hão
Chương 5
Trường kỳ chuẩn bị, đã đánh là thắng
Chương 6
Đón ý cho vừa lòng người
Chương 7
Ngắm trúng khối hoài nghi, nói dối tài tình
Chương 8
Muốn thực hiện tốt chuyện tương lai tất cần có một nền tảng tốt Chương 9
Tìm ra lợi ích chung
Chương 10
Người sốt ruột, ta cứ bình chân như vại
Chương 11
Gióng trống dọa địch, tung tin giả giải vây
Phần II - Chương 12
Cười Cợt Mà Khói Lửa Mù Trời Nắm rõ tình hình chờ cơ hội khởi binh Chương 13
Ký sinh trên thân cây lớn
Chương 14
Tạm thời nhượng bộ để được giúp đỡ
Chương 15
Lấy lòng đối phương biến thù thành bạn
Chương 16
Tiến quân không lui bước, quyết đoán phân định hơn thua Chương 17
Tránh trận công kiên, dụ địch xuất chiến
Chương 18
Tổng hợp ý kiến đám đông, một công đôi ba việc
Chương 19
Tránh lúc địch hăng, đánh khi địch nản
Chương 20
Truy đuổi tàn quân đến cùng
Chương 21
Dốc toàn lực lượng, nắm bắt cơ hội
Chương 22
Quyết đoán thế cục, biết liệu rõ tương lai
Chương 23
Giấu chỗ yếu của mình, tạo thế vô địch
Chương 24
Dựa thế mạnh của mình, đánh điểm yếu của địch.
Chương 25
Không giống bình thường, giành thắng lợi bất ngờ
Chương 26
Ban ơn nhỏ được tạ to
Chương 27
Nắm bắt tâm lý phãn nghịch, chi phối sự tiến thoái của đối thủ Phần III - Chương 28
Trèo Lên Tận Đỉnh, Thấy Núi Cỏn Con Ra tay trước khống chế đối thủ Chương 29
Kịp thời chuyển hướng bỏ võ sửa văn.
Chương 30
Tính kế lâu dài, ao đầy bắt cá
Chương 31
Cầu hiền như khát, có tài thì cử
Chương 32
Lấy thành tâm mà đối xử với nhau
Chương 33
Biến trắng thành đen
Chương 34
Thu nạp lời can gián
Chương 35
Hai bàn tay trắng, tung ra của hiếm
Chương 36
Chương 37
Sẵn sàng trả giá giữ lại núi xanh
Chương 38
Mượn đề phát huy tiện tay gán ghép
Chương 39
Mượn sức nhỏ để phá ngàn cân
Chương 40
Để anh ta tự suy đoán
Chương 41
Lừa lấy mất thời gian của đối thủ
Chương 42
Lấy cái này thay cái kia
Chương 43
Đánh vào dư luận.
Chương 44
Dụ địch vào tròng
Chương 45
Mượn áo gữi thư
Chương 46
Gán ghép khiên cưỡng
Chương 47
Lấy cứng đối cứng, kết quả không ngờ Chương 48
Bề ngoài tôn trọng, bên trong đoạt quyền Chương 49
Dựa vào công lao để tranh giành thiên hạ. Chương 50
Bỏ con săn sắt, bắt con cá rô
Chương 51
Khẳng khái giúp đỡ người gặp nạn
Chương 52
Nhanh chóng nắm lấy kẽ hở
Chương 53
Lấy nhân tâm làm gốc sẽ nên việc lớn Phần IV -Chương 54
Giang Sơn Còn Đợi Người Tài
Chương 55
Giương đông kích tây, lợi dụng sơ hở để tấn công Chương 56
Tích cực cố gắng, chủ động tiến công Chương 57
Nghĩ đến tương lai, cố gắng tránh hậu họa Chương 58
Đăng môn hạm” từng bước tiếp cận
Chương 59
Hình nhân thay lính, lính giả hình nhân
Chương 60
Chặng đường rút lui, bao vây bắt sống địch
Chương 61
Khoét thêm kẽ hở
Chương 62
Lấy nhu thắng cương
Chương 63
Dùng khổ nhục kế để tạo lòng tin
Chương 64
Phân hóa để làm tan rả, phá từng thứ một
Chương 65
Linh hoạt cơ động, dùng vật này vào việc khác
Chương 66
Chìa này mở khóa kia
Chương 67
Ưu đãi tù binh, mượn địch đánh địch
Chương 68 ( Kết )
Bắt hổ phải chờ lúc hổ ngủ say
Phần I - Chương 1
Tất cả là kế, đánh vào quyền của vua chúa
Vương triều nhà Tùy tuy ngắn ngủi, nhưng cũng là một trong những vương triều oanh liệt, chói lọi trong lịch sử đế vương phong kiến Trung Quốc. Tùy Văn Đế Dương Kiên vốn là Thừa tướng của nhà Bắc Chu. Ông đa mưu túc trí, đoạt nhà Chu lập Tùy, đồng thời thôn tính Nam Trần trong cục diện bị động phía nam có Trường Giang ngăn cách, phía bắc có tộc Đột Quyết hùng mạnh, hoàn thành công cuộc thống nhất toàn quốc trong lịch sử Trung Quốc từ sau đời Tần Hán. ông còn xây dựng một đất nước giàu có hùng mạnh, tạo nên đế chế nhà Tùy.
Nhà Tùy chỉ truyền được hai đời, chưa đầy 40 năm. Nguyên nhân đoản mệnh là do hoàng đế đời thứ hai Tùy Dạng Đế cực kỳ xa hoa trụy lạc. Ông ta là con trai thứ nhưng mưu đoạt ngôi thái tử, sau đó giết cha Tùy Văn Dế chiếm ngai vàng.
Sau khi đăng cơ, Tùy Dạng Đế sống hoang dâm vô độ chỉ biết khoa môi múa mép, không quan tâm đến việc nước. Chỉ trong vòng 13 năm ngắn ngủi, ông ta đã xóa sổ một quốc gia giàu có hùng mạnh nhất thiên hạ. 1 Phân tán địch, tập trung ta, Thái Sơn áp đỉnh
“Binh pháp Tôn Tử” đã chỉ ra: "... Ta tập trung, địch phân tán. Ta tập trung một, địch phân tán mười, lấy mười đánh một, ắt rằng ta đông, địch ít...".
Phân tán, phân hóa địch, thế địch tự nhiên biến thành yếu ớt, tập trung lực lượng của ta đối phó với sự yếu nhỏ của quân địch, ưu thế lấy đá chọi trứng đã được hình thành. Đây chính là cơ mưu "Phân tán địch, tập trung ta, Thái Sơn áp đỉnh".
Nhìn lại lịch sử từ xưa tới nay, trong các đế vương phong kiến, có người theo kế đó mà thành nghiệp lớn, trong thương trường hiện đại cũng có người dựa vào kế đó mà làm lũng loạn đối phương.
Trong phần mở đầu cuốn "Tam quốc diễn nghĩa” một bộ sách đứng đầu trong "Tứ đại kỳ thư” có một câu khiến người đọc nhớ mãi: "Thiên hạ đại thế (thế lớn trong thiên hạ), phân lâu tất sẽ hợp, hợp rồi tất lại phân". Cứ theo sự phát triển của Trung Quốc thì dường như nó rất ứng nghiệm với câu danh ngôn từ ngàn xưa này.
Thời Xuân Thu chiến quốc, quần hùng cát cứ tranh giành lẫn nhau, đất nước năm bè bảy mảng. Sau đó bị nước Tần tiêu diệt dần dần, thiên hạ thống nhất. Những năm cuối triều Tần, thiên hạ lại một lần nữa đại loạn. Sở, Hán tương chiến, khói lửa liên miên, kết quả lại bị triều Hán thống nhất. Sau mấy trăm năm, triều đình nhà Hán suy tàn, quần hùng lại nổi lên, tranh giành thiên hạ, thế là cục diện chia ba chân vạc đối chọi nhau, ngũ hồ, thập lục quốc, nam bắc tranh giành, kéo dài tới 400 năm. Cho đến năm 581, Dương Kiên Tùy Văn Đế tài năng suất chúng, khống chế quần hùng, lại một lần nữa khiến nước Hoa Hạ trở về với cục diện hòa bình, thiên hạ hợp nhất.
Từ câu "Thiên hạ đại thế” trải qua thảm họa chiến tranh, hỗn loạn, chia rẽ hàng trăm năm, Tùy Văn Đế đã thống nhất đất nước âu cũng là thuận ý người, hợp ý trời. Nhưng chúng ta muốn nói rằng, trong tính tất nhiên có tính ngẫu nhiên, bất cứ hiện thực tất nhiên nào của lịch sử cũng đều là kết quả nỗ lực hết sức gian khổ của một vài nhân vật lịch sử ngẫu nhiên nào đó. Đại nghiệp thống nhất Trung Quốc, tại sao lại do một Thừa tướng Bắc Chu Dương Kiên mà không phải là hoàng đế Bắc Chu - Vũ Văn Vân hoặc là hoàng đế Nam triều Trần Thúc bảo...
Tùy Văn Đế Dương Kiên đã nỗ lực cực khổ muôn phần để hoàn thành đại nghiệp thống nhất đất nước; như vậy bước thứ nhất của ông ta là sử dụng kế sách: "phân tán địch, tập trung ta, Thái Sơn áp đỉnh". Từ vị trí là Thừa tướng triều Bắc Chu, ông đã nhảy sang vị trí ngôi báu của hoàng đế triều Tùy.
Năm 577, khi Chu Vũ Đế, hoàng đế cuối cùng của triều Bắc Chu - một triều đại cuối cùng ở phương bắc, hậu kỳ Nam bắc triều qua đời, Chu Tuyên Đế - Vũ Văn Vân lên kế vị. Như vậy sau khi trải qua thời gian dài chiến tranh chia cắt, toàn quốc thống nhất, hòa bình trở lại, hợp với xu hướng của tình thế và không có gì có thể hợp với lòng người hơn. Nếu có thể nhận biết đúng tình thế, hăng hái muốn giúp nước, chắc chắn vinh quang thống nhất thiên hạ sẽ thuộc về Vũ Văn Vân. Đáng tiếc rằng Vũ Văn Vân không có chí lớn lại hoang dâm vô độ. Đối với cái chết của Chu Vũ Đế, ông ta không những
không buồn rầu, đăm chiêu mà còn cầm cây gậy gỗ đến gõ vào quan tài và nói: "ông chết thật là quá muộn màng!". Quan tài còn chưa kịp chôn xuống đất, ông ta đã bức hiếp các phi tần của Vũ Đế. Lên ngôi không lâu, ông ta lập tức tuyển chọn các mỹ nữ từ khắp nơi trong thiên hạ. Thậm chí đối với cả vợ con của các đại thần cũng ép bắt giữ ở lại với ông ta. Ông ta còn tàn sát bừa bãi, dám giết những trung thần thân thích đã hết lòng khuyên ngăn ông ta. Thế là thiên hạ bất bình, lòng người chia rẽ.
Chu Tuyên Đế lên ngôi được một năm, nhưng vì phóng túng dâm lạc, không muốn thiết triều nghị chính, bèn đem ngôi báu giao cho con trai là Vũ Văn Xiển mới gần bảy tuổi. Không lâu sau, vì tửu sắc vô độ, bệnh tật khắp người, dùng thuốc kích thích rồi bệnh nặng, đột ngột qua đời.
Trong vương triều này, có một đại thần nhiều cơ mưu, ấp ủ chí lớn tên là Dương Kiên. Dương Kiên được phong là Tùy Quốc công, là Thừa tướng triều Bắc Chu. Nhận thấy hoàng đế đương triều mới chỉ 8 tuổi, liền giả tạo ra di chiếu của Vũ Văn Vân lúc lâm chung, lấy danh nghĩa giúp triều đình để nắm toàn bộ quốc gia đại sự.
Dương Kiên hiểu sâu biết rộng, thống nhất đất nước tuy là xu thế chung, nhưng họ hàng thân thích của nhà Chu không cam tâm để toàn quyền cho người khác, những trung thần hảo thủ không dễ hòa nhập vào khuôn mẫu của ông ta, vì vậy những người tài giỏi mưu lược tất sẽ phải gặp nhau trước khi chống chọi ác liệt. Giả sử như khiến địch phân hóa từ mạnh biến thành yếu có hiệu quả thì quân ta tất sẽ từ yếu biến thành mạnh, hình thành lên hình thế Thái Sơn áp đỉnh, và giành được ngôi vị hoàng đế một cách nhanh chóng, thuận lợi. Sau đó mấu chốt quan trọng là thống nhất đất nước.
Thế là Dương Kiên vừa mới bắt đầu phụ giúp triều chính, liền "cải cách lại chính sách tàn khốc của Tuyên Đế" và chính mình "tự thân thực hiện tiết kiệm" nên đã giành được sự quy tụ của thiên hạ, cuối cùng đã gần như đoàn kết được tất cả các lực lượng của địa phương, khiến ông nắm được triều chính của nhà Chu, quyền lực của ông nhanh chóng được tăng cường.
Đương nhiên, hoạt động giành quyền trong các việc chính sự của cung đình có biến đổi, nhưng điểm then chốt còn ở chỗ đối sách lực lượng của nội bộ trong triều đình. Chính vì vậy mà Dương Kiên một mặt trọng dụng những nghĩa sĩ ở Sơn Đông như Lý Đức Lâm, Cao Dĩ để hình thành một tập đoàn quân sự chính trị vững chắc mà lấy chính mình làm trung tâm. Đồng thời ông ta còn có thể phân hóa, làm tan rã thế lực của quân địch.
Chu Tuyên Đế Vũ Văn Vân có sáu người em. Người em lớn nhất là Vũ Văn Tán đã đủ tuổi làm quan, tính tình phóng túng lại ngu đần, nhưng Dương Kiên lại để anh ta làm hữu Thừa tướng, một vị trí trụ cột của đất nước. Tuy chẳng có quyền bính gì, nhưng ngược lại bổng lộc thì hậu hĩnh. Còn năm người em kia của Chu Tuyên Đế còn nhỏ tuổi, không thể đưa vào triều nhưng tất cả đều được đãi ngộ hết sức chu đáo.
Hữu Thừa tướng Vũ Văn Tán lúc thiết triều cứ có cơ hội lại thường bàn chuyện thiên hạ đại sự cùng với Chu Tĩnh Đế Vũ Văn Xiển. Vũ Văn Tán là chú của Chu Tĩnh Đế, Tĩnh Đế đương nhiên nghe nhiều mà nói ít. Dương Kiên rất sợ hai người có mưu cơ gì bí mật không có lợi cho mình bèn sai Lưu Phảng mang những ả đào xinh đẹp tặng cho Vũ Văn Tán. Vũ Văn Tán tuổi nhỏ nhưng hiếu sắc, được tặng mỹ nữ nên lòng vui mừng hớn hở coi Lưu Phảng như người tri âm tri kỷ. Lưu Phảng thấy vậy liền khuyên nhủ Vũ Văn Tán: "Thừa tướng là em lớn nhất của tiên đế, nay đã thu phục được lòng dân. Vũ Văn Xiển tuổi còn nhỏ không biết gì, đâu thể đảm nhận được trọng trách giang sơn. Nay vì tiên đế vừa qua đời, quần thần chưa ổn định, chính ra không nên gây trở ngại mà trước hết ngài nên yên tĩnh trong dinh phủ của mình, đợi khi mọi chuyện trở lại ổn định, lúc đó sẽ ngồi vào ngôi vị hoàng đế. Đó chính là thượng sách." Vũ Văn Tán nghe vậy tin tưởng và cho rằng đúng, liền cả ngày chỉ ở trong dinh thự của mình cùng với mỹ nữ uống rượu hưởng lạc không còn nghĩ tới việc thiên hạ đại sự nữa. Năm người chú của Chu Tĩnh Đế tuy ngu dốt, không biết gì nhưng nếu không bị phân tán thì quyền lực của họ sẽ rất mạnh có thể "hô vân hoán vũ”, khi đó Dương Kiên sẽ không thể đối đầu với họ được, cùng với việc Vũ Văn Tán khi lên thiết triều thường bàn bạc việc thời cuộc đại sự với Chu Tĩnh Đế. Tất cả những mối nguy hiểm đó nếu hợp lại sẽ thành đối thủ lớn đe dọa Dương Kiên. Thế nhưng, Dương Kiên lại không ngừng sử dụng kế sách mềm hóa khiến kẻ địch trở thành bạn hữu. Cuối cùng ông khống chế được năm kẻ địch trong tay của mình và kết giao "bạn hữu” với họ. Từ đó đã nhanh chóng hình thành kế sách Thái Sơn áp đỉnh.
Lực lượng đôi bên rõ ràng có lợi cho Dương Kiên, ông ta đã đưa ra kế sách chu đáo muôn phần, lại còn tiếp tục phân hóa lực lượng yếu ớt của địch. Khi mà những binh sĩ quan trọng đã nắm trong tay thì phân tán năm vua ra phụ thuộc của các địa phương: Triệu Vương, Trần Vương, Việt Vương, Đại Vương và Đằng Vương. Nếu như không ổn định chỗ của năm vương này thì tình hình chính sự trong cung đình có thay đổi. Cho dù là thành công thì chiến tranh quân sự trên một qui mô lớn cũng là khó có thể tránh khỏi. Vì vậy Dương Kiên lợi dụng con gái của Triệu Vương Vũ Văn Chiếu được gả cho thủ lĩnh Đột Quyết lệnh cho năm vương cùng ra kinh thành đưa tiễn. Năm vương không biết đó là kế sách liền cùng nhau vâng lệnh rời xa phong địa của mình. Dương Kiên lập tức giam lỏng năm vương ở kinh sư, càng không muốn thả hổ về rừng. Năm kẻ địch lớn mạnh này hóa ra là vô hình.
Ngoài ra Dương Kiên còn thông báo cho Đột Quyết, Nam và triều Trần, ổn định nơi ở sau đó đến lương thực, cho dù ở phương diện nào cũng phải phòng thủ nghiêm ngặt và ngăn chặn những cái chốt chân chính của kẻ địch để dành được khả năng trợ giúp bên ngoài.
Như vậy Dương Kiên đã ổn định được việc cướp đoạt nhà Chu, tạo điều kiện
chín muồi cho triều Tùy.
Ý đồ cướp đoạt ngôi nhà Chu của Dương Kiên ngày càng rõ rệt. Năm 580, đại thần thân thích của nhà Chu gặp tổng quản Uất Trì Quýnh, mọi người không cam để nhà Chu bị tiêu diệt, quyền hành bị thao túng nên đã xuất binh đánh Dương Kiên. Nhưng Uất Trì Quýnh sớm ở vào tình thế đơn độc nên nội trong 68 ngày ngắn ngủi binh sĩ bị bại trận rồi.
Tháng 2 năm 581, Dương Kiên ép Chu Tĩnh Đế nhường ngôi, thuận tiện cho việc lên ngôi lập quốc của hoàng đế triều Tùy. Đại đa số các đế vương phong kiến đều ăn không ngồi rồi, là những người không có tài năng, rất ít người có tài. Hãy xem, những vị vua dựng nước thường là mưu kế hơn người. Tùy Văn Đế cũng thế, chẳng hề có chiến tranh mà dễ dàng giành được ngôi vị hoàng đế. Sau khi giành được ngôi vị hoàng đế thì có thể dựng nước, thống nhất đất nước.
Tùy Văn Đế giành được thành công ở ngôi vị hoàng đế, vấn đề mấu chốt là ở chỗ ông ta có khả năng biết đoàn kết, biết cô lập kẻ địch, chẳng qua ông đã sử dụng kế sách "phân tán địch, tập trung ta, Thái Sơn áp đỉnh". Trong kinh doanh thương trường, mưu kế "phân tán địch, tập trung ta, Thái Sơn áp đỉnh" trên thực tế chính là một qui tắc cơ bản của chiến lược: "Tập trung được lực lượng chính là điểm để ta có thể dẫn đầu". (B.D. Charderlin), một mặt mong cho đối thủ cạnh tranh phân tán khắp nơi, mặt khác tập trung vốn nhân lực, nguyên liệu vốn có hạn của mình vào một chỗ, đã dẫn đầu lại càng dẫn đầu. Cụ thể là tìm điểm yếu nhất trong kẽ hở của đối thủ để đột phá, chọn địa điểm và thời cơ có lợi nhất, làm tan rã liên minh của đối thủ việc này đòi hỏi phải dùng kế sách Thái Sơn áp đỉnh, nhất loạt làm tan rã đối thủ, thuận lợi cho việc chiếm lĩnh thị trường một cách vững chắc. Vào thập niên 70, công ty Philip Moris thấy tình hình của công ty thuốc lá lập ra rất nhiều, biết rõ rằng để giành được ưu thế trong các mặt như phục vụ, hương vị thuốc, bao bì là hoàn toàn không hy vọng, nên đã sử dụng kế sách "phân tán địch, tập trung ta, Thái Sơn áp đỉnh", dứt khoát tập trung toàn bộ vào việc Tuyên truyền, quảng cáo nguyên liệu để đi tới một điểm: dốc hết tất cả sức lực để khai phá và Tuyên truyền loại xì gà có hàm lượng nicotin thấp. Sau đó tung loại thuốc lá này ra thị trường, còn những loại thuốc lá có hàm lượng nicotin cao có nguy cơ khiến người ta bị bệnh ung thư đang dùng trên thị trường, khi mà tất cả các loại thuốc lá thơm này bị giảm trên thị trường thì thị trường của công ty chiếm độc tôn và không ngừng phát triển. Vậy vì cớ gì? Các công ty khác đều phân tán các mặt như chế biến thuốc, các trình tự tiêu thụ thuốc, kết quả là mặt nào cũng đều yếu về lực lượng. Thế mà công ty Moris đã khắc phục được nhược điểm đó và đã giành được tiếng thơm, đương nhiên sẽ giành được thành công.
Trong ngành máy tính trên thế giới hiện nay, Nhật Bản cũng gia nhập vào ngành điện toán với thái độ thận trọng...
Nguyên nhân là như thế nào? Vào đầu những năm 50, chính phủ Nhật Bản đã nhận thấy rằng, Nhật Bản là một quốc gia có mật độ dân số đông, đất đai hạn hẹp, tài nguyên khoáng sản nghèo nàn, nên đã quyết định đưa ra chiến lược "xây dựng một đất nước khoa học, kỹ thuật". Dùng tài nguyên có hạn đó để tập trung phân bổ cho sự nghiệp máy tính. Như vậy, nước Mỹ tuy có thực lực hùng hậu, nguồn lực tăng mạnh, nhưng do lực lượng phân tán, lại luôn ở vị trí dẫn đầu, nhưng trong ngành khoa học kỹ thuật cao then chốt này dần dần như con ngựa mất móng, lại đối mặt với một binh lực ưu thế của Nhật Bản nên ngày càng rơi vào tình thế "lực bất tòng tâm", chạy ngược chạy xuôi. Hiển nhiên, người Nhật, trên một chiến lược vĩ mô đã chọn kế sách "Phân tán địch, tập trung ta, Thái Sơn áp đỉnh".
Chương 2
Xem xét tình thế, biến đổi linh hoạt
Tháng 9 năm 581, hai tướng Chu La Hầu và Tiêu Ma của Nam Trần xâm nhập vào biên giới nhà Tùy. Dương Kiên sớm đã có hoài bão diệt nhà Trần thống nhất thiên hạ, bởi vậy sau khi xây dựng đất nước xong liền phái con trai thứ là Dương Quảng làm tổng quản Tính Châu, Hạ Nhược Bật làm tổng quản Ngô Châu, Hàn Cầm Hổ làm tổng quản Lư Châu, lần lượt trấn giữ Sơn Tây Thái Nguyên, Giang Tô Dương Châu và Hợp Phì An Huy, làm tốt công tác chuẩn bị đề phòng quân Đột Quyết xâm phạm quấy nhiễu ở phía bắc và tiến về phía nam tiêu diệt nhà Trần. Lúc này, mọi việc bố trí đã xong, Dương Kiên phong cho Thượng trụ quốc trưởng Tôn Lãm và Nguyên Cảnh Sơn làm Hành quân nguyên soái, lệnh cho Thượng thư bộc xạ Cao Cảnh làm thống soái, lấy cớ Nam Trần xâm nhập lãnh thổ, bắt đầu tiến hành kế hoạch "tiên Nam hậu Bắc".
Nhà Trần là một nước lớn, quân nhiều tướng mạnh, thực lực trù bị tương đối mạnh, nhưng so với quân Đột Quyết lúc bấy giờ thì quân Trần yếu hơn. Bởi vậy kế hoạch "tiên Nam hậu Bắc" chính là sách lược đánh kẻ yếu trước kẻ mạnh sau.
Hơn nữa người Đột Quyết chỉ nghĩ đến cái lợi trước mắt, tầm nhìn thiển cận. Tuy mấy lần xâm nhập vào Trường Thành nhưng cũng chỉ để cướp bóc người ngựa và tiền bạc, nhà Tùy cũng đã đề phòng chuyện này rồi. Cho nên tiến về phía nam diệt nhà Trần cũng không lo chuyện xảy ra ở đằng sau. Vì vậy đánh vào Giang Nam trước tiên để tăng cường sức mạnh của nhà Tùy ngay, như vậy có lợi cho tốc độ chiến thắng.
Không ngờ, trong lúc quân Tùy đang ráo riết hành động thì có tin cấp báo: quân Đột Quyết liên kết với Thứ sử Doanh Châu là Cao Bản Ninh của Bắc Tề đồng loạt tiến công vào biên giới Lâm Du (nay là biên giới Sơn Hải) của nhà Tùy, chuẩn bị tiến nhanh vào phía nam với qui mô lớn. Tùy Văn Đế
Dương Kiên vô cùng kinh hãi.
Dân tộc Đột Quyết là một chi khác của dân tộc Hung Nô, họ là một dân tộc du mục sống ở nơi có nhiều cỏ và nước, hưng khởi vào cuối thời Bắc Ngụy, cường thịnh vào thời kỳ Bắc Tề, Bắc Chu thế kỷ thứ VI. Đất đai rộng bao la, phía bắc đến Trường Thành, phía nam đến Bối Gia Nhĩ, tây đến Hưng An Lĩnh còn phía đông đến biển Bắc Hải. Họ có mấy chục vạn kỵ binh, nhiều vũ khí ưu thế như cung, nỏ, giáo, mác, đao kiếm... Hồi ấy, tuy Đột Quyết chưa nằm trong chế độ Hung Nô nhưng thủ lĩnh có uy quyền tuyệt đối, các tướng sĩ chiến đấu rất hăng, dũng mãnh do vậy sức chiến đấu vô cùng mạnh. Thời kỳ Bắc Tề và Bắc Chu, hai nước hợp lại cống nộp vàng bạc gấm lụa cho Đột Quyết để xin hòa và cầu thân. Đột Quyết càng thêm ngạo mạn, phó thủ lĩnh nói:
- Hai nước nhỏ (chỉ Bắc Tề và Bắc Chu) cũng có hiếu như thế, việc gì phải lo nước nghèo.
Dương Kiên sau khi đổi Chu thành Tùy đã dần dần giảm cống nạp cho Đột Quyết. Đương nhiên là tộc Đột Quyết không bằng lòng, nhưng vì lúc đó Đà Bát Khả hãn qua đời, con cháu tranh giành quyền lợi, nên không thèm đếm xỉa gì đến nhà Tùy. Đến lúc đó, Sa Bát Lược Khả hãn đã ổn định cục diện, công chúa thiên kim Bắc Chu được gả cho Đà Bát Khả hãn theo tục lệ đã lại gả cho Sa Bát Lược Khả hãn, không cam chịu bị Dương Kiên cướp ngôi thay thế nhà Chu, bà ta ngày đêm cầu xin sai quân báo thù. Sa Bát Lược Khả hãn thế là có âm mưu lấy cớ nhà Tùy tiến công về phía nam để tổng lực tiến đánh Tùy.
Cũng lúc đó, Trần Tuyên Đế bị bệnh chết nên sai quân sang Tùy xin hòa. Không ít đại thần nhà Tùy cho đó là cơ hội tốt để tấn công nhà Trần ở phía nam. Tiên Nam hậu Bắc, diệt Trần thống nhất là một kế hoạch lớn được chuẩn bị rất kỹ càng, không thể do dự chần chừ được, họ sôi nổi khuyên Tùy Văn Đế tiếp tục đánh, đừng vì những cử động của Đột Quyết mà phá hỏng đại cục. Nhưng Tùy Văn Đế lại cho rằng "lễ bất phạt tang" (không nên đánh nhau trong lúc có tang) nên đồng ý giao hòa, rút quân mã ở phía nam về, đồng thời xác định lại kế hoạch "Nam hòa Bắc công (hòa hoãn ở phía nam, tấn công lên phía bắc), điều quân về phía bắc để chống lại và tấn công Đột Quyết.
Rất nhiều đại thần không bằng lòng với cách hành động của Tùy Văn Đế. Nhưng ông nói:
- Đột Quyết ỷ vào kỵ binh mạnh, hành động nhanh chóng thoắt ẩn thoắt hiện, ta rất khó đối phó. Nhưng nay Sa Bát Lược Khả hãn vì ôm mối thù mà đến đây, ý muốn cướp tài sản, tấn công thành trì đoạt đất đai, muốn thâm nhập vào trung tâm quan trọng của ta, dã tâm của họ khó lường. Còn nhà Trần hiện nay chẳng còn lòng dạ nào để đánh nhau, hơn nữa năng lực cũng không còn. Bởi vậy, thống nhất sự nghiệp lớn tuy lấy việc tiêu diệt Trần làm
tiêu chí, nhưng trở ngại lớn nhất lại là Đột Quyết. Nếu cứ khư khư giữ lấy kế hoạch cũ không tùy cơ ứng biến, thay đổi kế hoạch thì sẽ rơi vào tình trạng trước sau đều có địch. Hơn nữa, thành Trường An cách biên giới phía bắc không xa, phòng vệ mỏng và yếu, một khi bọn Đột Quyết thừa cơ xông vào thì khó mà chống nổi. Đấy là chưa kể đến thống nhất nghiệp lớn, e rằng ngay cả việc ổn định đất nước cũng chẳng yên!
Tùy Văn Đế xem xét thời thế, mượn danh nghĩa không đánh nhau lúc tang gia mà chuyển hướng dùng binh, áp dụng kế hoạch thiết thực nhất là hòa hoãn ở phía nam tấn công lên phía bắc. Với một nước Tùy thành lập không lâu, thực lực quân đội chưa đủ mạnh, tình hình trong nước vẫn còn rối ren, lỏng lẻo, ông tiến hành kế hoạch như vậy mới tránh cho nước Tùy phải tác chiến trên cả hai trận tuyến, để tập trung lực lượng chế ngự quân Đột Quyết giải tỏa nguy hiểm chủ yếu. Sau đó ổn định tiến quân xuống phía nam, thống nhất đất nước, đặt nền móng vững chắc cho sau này.
Trong cạnh tranh thương nghiệp, tình hình thị trường, đối thủ cạnh tranh, mục tiêu về lợi ích, thủ đoạn kỹ thuật... đều biến hóa khôn lường. Do vậy phải xem xét thời thế, căn cứ vào tình hình thay đổi mà quyết định một cách linh hoạt, kịp thời điều chỉnh và thay đổi hành vi, sách lược để biến cái nguy hiểm thành thắng lợi, độc chiếm ưu thế.
Mấy năm trước đây, một loại gạt tàn thuốc lá do tỉnh Triết Giang sản xuất chất lượng rất tốt, hình thức đa dạng tiêu thụ ra cả nước ngoài. Nhưng không lâu sau, khách hàng không mặn mà lắm. Qua điều tra mới biết loại gạt tàn đó đẹp thì đẹp thật, lại dễ rửa nhưng trong phòng ở của người nước ngoài thường dùng quạt điện treo tường nên hễ mở quạt là tàn thuốc bay mù mịt khắp phòng.
Nhận được tin đó, xưởng sản xuất lập tức thay đổi mẫu mã, nghiên cứu và đưa ra loại gạt tàn miệng nhỏ, đế sâu, bụng rộng. Nó lại nhanh chóng được mọi người chấp nhận.
Song lại chỉ được vài năm, rất nhiều gia đình ở nước ngoài dùng sang máy điều hòa. Thế là chiếc gạt tàn miệng nhỏ đế sâu vì rửa không sạch nên lại bị lạnh nhạt. Xưởng sản xuất cố tìm cách để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, kịp thời tung ra sản phẩm mới, từ đó chiếm lĩnh thị trường...
Tháng 7 năm 1983, công ty Nhậm Thiên Đường của Nhật Bản đã phát minh ra bộ trò chơi điện tử nối với vô tuyến, dẫn đến một cuộc cải cách trong lĩnh vực giải trí của con người, bán chạy như tôm tươi. Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng về số lượng máy trò chơi điện tử ở Nhật Bản thì các nhân sĩ nổi tiếng trong xã hội Nhật Bản bắt đầu lên tiếng về mặt trái của trò chơi điện tử đã ảnh hưởng không tốt đối với trẻ em, mà như thế nó không có giá trị gì. Điều này đối với công ty Nhậm Thiên Đường mà nói, là sự đả kích rất mạnh. Công ty lập tức nghiên cứu lại đối sách, thay đổi sản phẩm.
Trước hết, đưa ra phụ kiện mới là "hộp học tập của trẻ em", nó có thể nối với
máy trò chơi điện tử hoặc vô tuyến. Trong vô tuyến sẽ xuất hiện những hình ảnh sống động và tiếng thầy giáo giảng bài, trẻ em có thể vừa chơi vừa học, có chỗ nào không hiểu thì học lại. Học xong một giai đoạn thì nó có thể giúp bạn trắc nghiệm tính điểm. Bộ trò chơi "hộp học tập" này có sức hút rất lớn, thị trường càng được mở rộng.
Sau này công ty Nhậm Thiên Đường lại phát minh ra một phụ kiện mới dành cho người lớn, đó là máy "xử lý tin tức cổ phiếu”. Căn cứ vào đó người ta có thể kịp thời tiếp nhận và xử lý tin tức của thị trường cổ phiếu, đúng là "kiếm vào hàng vạn chỉ cần bật ngón tay."
Thế là bộ máy trò chơi điện tử truyền thống lại một lần nữa phát triển phổ biến, tiêu thụ mạnh ở khắp nơi.
Chương 3
Lấy mâu thuẫn nội bộ để tiêu diệt lực lượng
Dương Kiên đã dùng chiến lược "tiên Nam hậu Bắc" (Nam trước Bắc sau), hy vọng sau khi xuống phía nam tiêu diệt nhà Trần, thì sẽ chế phục hoàn toàn được Đột Quyết. Nhưng không ngờ đúng lúc Dương Kiên xuống phía nam đánh quân Trần thì các binh sĩ của Đột Quyết thay đổi quan niệm, họ chỉ cần tiền bạc, vật chất chứ chẳng đoái hoài gì tới đất đai, lời thề phải báo thù cho nhà Bắc Chu, nay lật ngược sang triều Tùy. Phải đối mặt với binh mã lớn mạnh của Đột Quyết, triều Tùy đã sử dụng hết lực lượng mà không có cách nào ngăn nổi quân Đột Quyết tràn xuống phía nam. Chính quyền triều Tùy đã vô cùng nguy cấp như trứng để đầu đẳng, thế là Dương Kiên quyết định thay đổi chiến lược "tiên Nam hậu Bắc", thành “tiên Bắc hậu Nam", bảo đảm cái gốc của đất nước mình.
Thế nhưng, chính quyền mới cần nuôi dưỡng cùng dân, dân tộc Đột Quyết lớn mạnh cũng cần phải được chế phục lại kịp thời. Chiến lược "tiên Bắc hậu Nam" cụ thể đã được thi hành như thế nào? Dương Kiên phải cực nhọc, lao tâm khổ tứ, khó khăn lắm mới có được chính sách tuyệt như thế.
Lúc này, đại tướng Trường Tôn Thạnh phụng mệnh đi sứ đã lâu nay trở về Trường An. Trường Tôn Thạnh rất chú ý đến tình hình diễn biến nội bộ của Đột Quyết và tính con người, đất nước, địa lý của Sơn Xuyên, liền trình lên Tùy Văn Đế một mưu kế "lợi dụng mâu thuẫn giữa các dân tộc để tiêu diệt lực lượng". Tùy Văn Đế phân tích thấu triệt, hợp tình hợp lý nên cứ dựa vào đó mà làm.
Thế nhưng, từ sau khi Đà Bát Khả hãn qua đời, vì tranh giành ngôi vị, cho nên giữa những người em, con trai và mấy người cháu của Đà Bát đã xảy ra một cuộc đọ sức gấp rút. Trước tiên là người con của Đà Bát, tên Am La thừa kế ngôi hãn, cháu của Khả hãn là Đại La ngược lại không bằng lòng nên rêu rao tiếng xấu. Tiếp đó Am La lại bị ép phải nhường ngôi cho một
người cháu họ khác tên gọi Nhiếp Đồ nên trong lòng không cam. Nhiếp Đồ ngược lại chẳng thèm bàn bạc liền tự xưng là Sa Bát Lược Khả hãn, giáng Am La thành Khả hãn thứ hai. Sau khi Đại La không chịu nghe theo thì liền bàn bạc đưa ra A Ba Khả hãn. Nhiếp Đồ dứt khoát làm theo ân huệ, trao mũ của Đạt Đầu Khả hãn cho Điểm Quyết, người em của Đà Bát một thực lực hùng hậu. Thế nhưng ngôi Khả hãn này phân chia thành bốn mặt, Sa Bát Lược ở giữa vỗ tay tán thưởng, chế ngự điều khiển cũng đã tập trung được. Còn kế sách mà Trường Tôn Thạnh đưa ra "lấy mâu thuẫn nội bộ giữa các dân tộc để tiêu diệt lực lượng” chính là muốn phá vỡ cái cục diện ổn đinh trước mắt này, khiến cho sự bất đồng, rạn nứt vốn có giữa họ lộ hằn ra, thông qua sự tàn sát, giao chiến trong nội bộ dân tộc Đột Quyết để tự làm hao mòn thực lực của mình, từ đó không cần đánh cũng thắng.
Thế là Tùy Văn Đế sai Thái bộc Nguyên Huy mang lễ vật đi sứ sang Tân Cương, kết giao với Đạt Đầu Khả hãn. Đạt Đầu Khả hãn rất đỗi vui mừng, sau khi nhận được lễ vật liền sai sứ thần bái tạ. Đạt Đầu Khả hãn ở Tân Cương là chú của Sa Bát Lược, có lực lượng mạnh nhất. Triều Tùy kết giao với Đạt Đầu, chắc chắn thực lực tổng thể của dân tộc Đột Quyết sẽ yếu đi một nửa.
Tùy Văn Đế thu nhận Trưởng Tôn Thạnh là tướng quân, rồi nhờ Đột Lợi Thiết thống lĩnh các nước Hề, Lập, Khiết Đan (Thiết tức là nguyên soái). Đột Lợi Thiết là em của Sa Bát Lược, vì là họ hàng tình nghĩa, có hiềm ngầm xem xét ngôi vị hãn ấy mà có vẻ kiêng sợ Sa Bát Lược. Đột Lợi Thiết và Trường Tôn Thạnh vốn đã có giao tình từ trước, lúc này gặp mặt, được Trường Tôn Thạnh dẫn dắt, liền âm thầm phụ giúp triều Tùy. Triều Tùy sẽ lập tức tránh được đại họa Đông Bắc.
Năm 582, Sa Bát Lược cuối cùng cũng đã hiểu được đối với những thành quả và kế sách của triều Tùy, mệnh lệnh tập trung toàn bộ ở Khả hãn, có khoảng hơn 40 vạn binh mã xuống phía nam quấy nhiễu: Binh mã của Đột Quyết ngày ngàn dặm. Sa Bát Lược muốn cố gắng nhưng thấy được tình cảm của triều Tùy và Đạt Đầu Khả hãn nên tự mang binh mã mà đi. Trường Tôn Thạnh nhân cơ hội này Tuyên bố một câu. “Chính sự liên kết nối liền giữa Đạt Đầu và triều Tùy đã phá vỡ nha trướng của Sa Bát Lược." Sa Bát Lược cũng thấy người và ngựa đã giảm đi quá nửa lo sợ vội vàng điều binh không tấn công mà chỉ phản công. Từ đó, Sa Bát Lược tăng thêm vẻ kiêng kỵ đối với Đạt Đầu và mấy Khả hãn của ông ta, sự nghi kỵ dần dần cũng hóa thành chiến tranh.
Thực lực của Đột Quyết bị tiêu hao và suy yếu. Triều Tùy dần dần đã phản kích lại lực lượng quấy nhiễu của Đột Quyết. Trong một lần phản kích vào cuối năm 583, phía Đột Quyết chỉ có Sa Bát Lược và lực lượng nhỏ yếu của A Ba Khả hãn ứng chiến. Sa Bát Lược đại bại, A Ba cũng lần thắng lần thua. Trưởng Tôn Thạnh liền phái một nhà biện sĩ đuổi A Ba và nói rằng: "Sa Bát
Lược xuống phía nam, mỗi lần đánh là một lần thắng, vì thế dân chúng có lòng tôn kính. Binh mã và địa vị của anh cũng ngang với Sa Bát Lược, thế mà lần đầu tới đã bị bại trận, dân chúng Đột Quyết cho thế là điều thật xấu hổ, làm sao một tướng lĩnh có thể dễ bại trận như vậy? Tới lúc đó Sa Bát Lược sẽ nhân cơ hội mà thực hiện nguyện vọng ấp ủ từ lâu giành lấy nha trướng của anh. Mối liên hợp hiện nay giữa Đạt Đầu Khả hãn và triều Tùy, đến Sa Bát Lược cũng đành bó tay mà thôi. Tại sao anh không cùng triều Tùy liên kết với Đạt Đầu đó chẳng phải là kế sách tuyệt vời hay sao . " A Ba tin và cho rằng đúng nên lập tức đồng ý ngay.
Sa Bát Lược vốn đã mang hận trong lòng, biết A Ba là cận thần của triều Tùy, liền tức giận đem quân đánh phá giành lấy nha trướng của A Ba và đem cha, mẹ, vợ con của A Ba giết sạch. A Ba không gia đình vội đến Đạt Đầu mượn 100.000 binh lính, đi tìm Sa Bát Lược đòi mạng. Đội quân nào nặng căm hờn đội quân ấy tất sẽ thắng, Sa Bát Lược bị đánh lại tơi bời. A Ba giành được thắng lợi, hăng hái muốn giúp nước, không lâu sau đã mở mang dựng lên một Tây Đột Quyết rộng lớn, lực lượng vượt xa Sa Bát Lược và Đạt Đầu.
Trong cuộc chiến hỗn loạn có quy mô của nội bộ Đột Quyết, các bên đều sai sứ thần đến Trường An xin cứu viện cầu hòa, Tùy Văn Đế ngược lại nhất mực không đồng ý, để họ tự mình giết mình đưa tới một xã hội hỗn loạn. Cho tới lúc các bên tranh nhau tinh thần rệu rã, sức lực kiệt quệ, hơn nữa phe phái mới A Ba xuất hiện, áp đảo lực lượng Sa Bát Lược và Đạt Đầu lời cầu cứu khẩn thiết của Sa Bát Lược mới được Văn Đế đồng ý, phái binh giúp đỡ Sa Bát Lược tấn công lại A Ba Khả hãn. Từ đó mà duy trì trạng thái cân bằng liên kết tương hỗ của Sa Bát Lược, Đạt Đầu và A Ba, lại khiến cho Sa Bát Lược cam tâm tình nguyện quy hàng.
Từ đó, Đột Quyết nằm dưới sự áp chế của triều Tùy, các bộ tộc hàng năm phải cống hiến cho triều Tùy, liên tục không ngừng.
Hán Vũ Đế tiến công lên Bắc tiêu diệt tộc Hung Nô, dụng binh hơn 10 năm, phải trả cái giá quá cao. Tùy Văn Đế lại dùng kế sách "lấy mâu thuẫn nội bộ giữa các lực lượng để tiêu diệt lực lượng”, hầu như chẳng cần động binh mà trong hai, ba năm đã đánh bại Đột Quyết. Có thể thấy rằng kế sách đó về mặt quân sự quả là một kế sách tuyệt diệu.
Trong buôn bán thương trường tuy so với vấn đề quân sự thì không giống nhau, nhưng kế sách "dùng mâu thuẫn nội bộ để tiêu diệt lực lượng" ngược lại có sự cộng thông giữa hai ngành. Trong kinh doanh, sử dụng kế này chính là khiến đối thủ một phân thành nhiều, hoặc là cố ý tìm thêm mấy đối thủ, sau đó tạo ra không khí tranh giành, khiến cho sự ngờ vực hiềm khích giữa các đối thủ trong cuộc cạnh tranh không ngừng được lan ra, từ đó mà lực lượng đối thủ này tiêu hao lực lượng đối thủ kia, nên cứ ngồi chẳng cần đánh cũng giành được hiệu quả thắng lợi gấp mấy lần.
ABC, NBC, CBS là ba đài truyền hình lớn của Mỹ. Trước khi Olympic khai mạc ở Maxcơva, nhân viên hành chính cấp cao của ba đài truyền hình lớn này được mời tới Liên Xô. Trong cuộc gặp mặt, họ mới biết Liên Xô đưa giá cho quyền truyền hình thế vận hội lên tới 2,1 tỉ đô-la, hơn nữa lại tiền mặt. Theo logic bình thường thì không có cách nào tính toán được chi phí loại hình này.
Sau khi đưa ra tình hình như vậy. Liên Xô cổ vũ cho ba đài truyền hình đưa ra giá cả. Đại diện của ba đài truyền hình này đều được mời tới thủ đô của Liên Xô. Rất tự nhiên, họ như chiếc thuyền đấu sĩ La Mã, bị rơi vào cảnh phải thi thố trên thương trường. Người Mỹ tuyệt nhiên không phải kẻ ngốc, giám đốc tin tức thể thao ABC nói rằng: "Người Liên Xô đem chúng tôi làm thành ba con giống như con dế mèn đựng trong bình, sau khi chiến tranh kết thúc, hai con bại trận sẽ chết còn con thắng trận vì đói khát cũng chết luôn".
Tuy không phải ngu ngốc, nhưng trước tình thế như vậy thì bản thân mình cũng không khống chế được mình rồi. Mức giá tiêu chuẩn của ba đài truyền hình được đưa ra lần lượt: NBC là 70.000 đô la, CBS là 71.000 đô la và ABC là 73.000 đô la.
Mọi người đều cho rằng ABC giành được quyền truyền hình. Không ngờ Đài truyền hình CBS nhờ chuyên gia Paker tới Maxcơva nói rõ ý nguyện đưa giá cao để giành được quyền truyền hình.
Mọi người đều cho rằng CBS mới chính là người thắng cuộc. Liên Xô lại đột nhiên tuyên bố quyền truyền hình Thế vận hội đã thuộc về công ty mậu dịch của Mỹ có tên là Satra. Công ty Satra nằm ở thành phố New York, tuyệt nhiên không phải là nhà trung gian mà trực tiếp nhận được từ một tổ chức Liên Xô điều khiển.
Sau đó, Liên Xô mượn công ty Satra để làm cầu nối, lại khuyên để cho nhà trung gian Paker dắt mối, một lần nữa làm cho các đài truyền hình đấu vật với nhau như những dũng sĩ La Mã, cuộc truy đuổi khiến bọn họ bị tiêu hao lực lượng vô kể.
Sau cùng, Paker dâng cho cơ hội này tới NBC, dưới sự mê hoặc bằng những lời đường mật, NBC lại chóng mặt quay đầu tới Maxcơva, họ khốn khổ chạy đôn chạy đáo tới mức ngạt thở tàn hơi, chân tay mỏi nhừ thì mới được quyền tiếp nhận "phần thưởng chiến thắng. NBC phải tốn 870.000 đô la Mỹ để được đưa tin về Thế vận hội, ngoài ra còn tốn các chi phí khác cho công ty Satra và Paker... tổng cộng khoảng 100.000 đô la.
NBC rốt cuộc đã đánh bại các đài truyền hình khác, đứng trên ngai vàng của sự thắng lợi. Nhưng trong con mắt của những người hiểu biết thì kẻ thắng lợi chính là Liên Xô. Họ đã áp dụng kế "lợi dụng mâu thuẫn nội bộ để tiêu diệt lực lượng . Người Liên Xô đã thu lời từ bọn họ 2,1 triệu đô la. Vốn dĩ họ chỉ hy vọng đạt được 600.000 - 700.000 đô la. Từ việc không có thực, họ đã tạo ra đầu mối để gây nên cuộc hỗn chiến giữa các đối thủ, dần dà loại bỏ từng
người một. Kế sách của Liên Xô quả là tuyệt hảo.
Chương 4
không sợ gì những thứ danh hão
Năm 584, Khả hãn Đạt Đầu của tộc người Đột Quyết đầu hàng triều Tùy. Triều Tùy giải trừ được mối nguy hiểm phương bắc liền muốn xuống phía nam để tiêu diệt nhà Trần. Về thế lực triều Tùy mạnh hơn nhiều so với nhà Trần ở phía nam.
Nhưng cách ngăn giữa hai nước là con sông Trường Giang, một cái hào lớn của trời. Nếu nhà Trần không buông lỏng cảnh giác, cứ phòng thủ dọc theo sông Trường Giang, như vậy dẫu quân Tùy có mọc thêm cánh, cũng khó mà bay qua được, còn nói gì đến việc tấn công nhà Trần nữa. Chỉ e rằng, chân chưa kịp đặt tới đất Trần thì đã bị dòng nước cuốn đi rồi.
Tùy Văn Đế hỏi Cao Dĩnh về kế sách. Cao Dĩnh nói. "Khí hậu hai vùng không giống nhau, thu hoạch mùa màng ở phía nam sông Trường Giang sớm hơn so với phía bắc. Khi nước Trần đang thu hoạch mùa màng, ta có thể dùng một số binh mã tạo ra khí thế tấn công như đang vượt sông. Lúc đó quân Trần tất phải kéo dài thời vụ để chuẩn bị chiến đấu. Và khi quân Trần sắp xếp trận mạc ngay ngắn thì quân ta lại giải giáp nghi ngơi. Cứ thế lặp lại mấy lần, quân Trần sẽ cho rằng chúng ta chỉ là dọa hão nên chẳng phòng bị nữa. Nhân cơ hội này chúng ta có thể vượt sông, đồng loạt tấn công thành Kiến Khang (nay là Nam Kinh, trước là nơi đóng đô của nhà Trần)...".
Tùy Văn Đế cứ dựa vào đó mà làm. Sau khi nước Trần cho rằng quân Tùy dọa hão như vậy nên bắt đầu dần dần buông lỏng phòng thủ. Lâu sau nước Trần cũng chẳng phản ứng gì mau lẹ lắm đối với các hành động quân sự của nước Tùy.
Đại tướng quân Tùy là Hạ Nhược Bật trấn thủ ven sông, mỗi lần quân đội thay đổi cách phòng bị thì nhất loạt chiếm cờ, doanh trại tan rã, lại săn bắn ven sông, người và ngựa bừng bừng khí thế, âm thanh động trời. Quân Trần cho rằng tất cả quân Tùy tới nên vội vàng điều binh khiển tướng chuẩn bị phòng thủ. Sau đó, quân Trần mới biết đó chỉ là buổi diễn tập thay quân của nhà Tùy, thế là lại giải tán binh mã. Qua năm lần bảy lượt như vậy, quân Trần cho rằng diễn tập như vậy là thường nên chẳng cần phòng bị nữa. Hạ Nhược Bật còn mang ngựa già đi đổi thuyền mới của quân Trần và mang những chiếc thuyền mới đó giấu đi rồi mang 50-60 cái thuyền nát để dưới tầm mắt của quân Trần. Quân Trần cho rằng quân của Hạ Nhược Bật không có thuyền thì chẳng có cách nào vượt sông được, và lại càng tin rằng buổi diễn tập đổi quân của nhà Tùy chẳng qua chỉ là để phô trương thanh thế của mình mà thôi. Kết quả, khi Hạ Nhược Bật dẫn quân tập kích sang thì quân Trần hồn bay phách lạc.
Năm 585, Tùy Văn Đế phái Dương Tố bám sát một dải vùng thượng lưu sông Trường Giang, tấn công những chiến thuyền của quân Trần. Dự đoán cũng giống như Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm 300 năm trước, dựa vào ưu thế thuận dòng mà tiến, dùng đội lái thuyền giỏi xuôi dòng bám sát xuống hạ lưu để vượt sông, cùng đánh chiếm thành Kiến Khang hoặc giả dùng đội thủy quân này tiêu diệt phía tây Hán Khẩu, cản trở một đội quân chủ lực lớn của nước Trần ở vùng thượng lưu sông Trường Giang, yểm hộ quân Tùy ở vùng trung hạ lưu sông Trường Giang để thuận lợi tác chiến vượt sông.
Để bảo đảm tính bất ngờ tấn công, các quần thần khuyên Tùy Văn Đế bí mật hành sự. Tùy Văn Đế lại làm ngược lại với cách đó, lệnh cho đội ngũ làm thuyền đem một số lượng lớn thuyền gỗ trên sông, cố ý để cho quân Trần biết. Quân Tùy đã ở nước Thục chuẩn bị chiến đấu.
Quân Trần thấy đống thuyền gỗ ven sông chẳng động tĩnh gì. Họ cho rằng, địa đoạn Ba Hiệp của vùng thượng lưu - một bãi biển khó lường, hơn nữa lại chính là trọng điểm phòng thủ của quân Trần, Tùy Văn Đế thông minh cũng không thể đem trứng chọi đá được. Ông ta rất muốn tấn công nhưng Trường Giang ngàn dặm chính là yếu điểm quan trọng. Cứ dựa vào lập luận này thì những việc làm phô trương của quân Tùy tuy lớn mạnh nhưng chẳng qua cũng chỉ là phô trương thanh thế của chính mình.
Quân Trần càng ngày càng buông lỏng việc phòng bị ven sông, danh thì còn nhưng thực thì đã mất. Khi quân Tùy áp sát biên giới sắp sửa phát động tổng tấn công, lúc đó quân Trần đang long trọng đón mừng Tết nguyên đán. Tất nhiên toàn bộ thuyền sư đã men theo phía đông của vùng Vũ Xương để tiến vào Kiến Khang.
Trần Thúc Bảo lại cho rằng Tùy Văn Đế chỉ phô trương thanh thế, không đủ sức để vượt sông lại càng buông lỏng phòng bị. Tùy Văn Đế thấy rằng địch nhầm bèn khua chuông gióng trống dồn dập, sắp xếp binh lính. Đến cuối năm 588, thời cơ chinh phạt Trần đã chín muồi, Tùy Văn Đế sau cùng lại tiến hành kế sách "Giả sự danh hão": Viết một bài hịch văn phá Trần với 1000 câu chữ dồi dào trôi chảy chép thành 700.000 bản, truyền khắp các vùng Giang Nam. Trần Thúc Bảo chẳng thèm đếm xỉa gì đến bài hịch văn đó, ngược lại càng tăng thêm niềm tin vào phán đoán sai lầm của mình, vẫn vững tin vào cái danh hão của nhà Tùy.
Tháng 12 năm 588, Bình quân nguyên soái của nhà Tùy đầu tiên dẫn đội thủy quân tiến vào Tam Hiệp, phá dòng đầu bãi-(nay là phía tây thành phố Nghi Xuân tỉnh Hồ Bắc) sau đó cứ xuôi dòng hội họp với đội quân của Dương Tú ở Hán Khẩu, đem hàng loạt binh sĩ quan trọng ở vùng thượng lưu của nước Trần để cản trở vùng phía tây Hán Khẩu. Thành Hán Khang có một dải vùng trung hạ lưu sông Trường Giang đã vô cùng nguy hiểm như trứng để đầu đẳng. Các vùng trấn giữ ven sông nước Trần sợ hãi cho người phi ngựa về báo, có người cho rằng những vùng yếu địa như vùng Kim Khẩu
(nay là Trấn Giang thuộc tỉnh Giang Tô), vùng Thái Thạch (nay là vùng phụ cận Đương Đồ tỉnh An Huy), nên phái 5000 binh sĩ tinh nhuệ, ngoài ra còn tăng thêm 200 chiếc thuyền kim loại cứ dọc sông mà thị sát để phòng thủ bất trắc, Trần Thúc Bảo ngược lại vẫn cho rằng đó là một việc thừa, vẫn tin tưởng rằng quân Trần có nắm giữ đó là việc thường thôi, tướng sĩ ven thành sẽ kịp ứng phó. Đưa thêm người và thuyền cũng lại một lần nữa đưa kế sách danh hão vào mà thôi.
Quân Trần vẫn hoàn toàn không chuẩn bị chiến đấu, chưa đầy bốn tháng, dưới kế sách kiên trì bền bỉ của Tùy Văn Đế, một đất nước hùng vĩ đã bị tan rã.
Chiến tranh giữa Tùy và Trần, xét về thực lực quân sự thì rõ ràng nhà Tùy chiếm thế chủ động. Nhà Trần có một bình phong thiên nhiên che chở là sông Trường Giang, nếu có thể đề cao cảnh giác, sắp xếp chu đáo, quân Tùy dù muốn tiến đánh cũng không thể thắng nổi, càng không thể tốc chiến tốc thắng để giảm sự hao binh tổn tướng được. Biện pháp duy nhất của nhà Tùy là làm cho nhà Trần buông lỏng cảnh giác, tự động hủy bỏ việc mượn sông Trường Giang để phòng bị, nhưng muốn làm được việc này quả thật là rất khó. Cứ dựa vào việc bí mật chuẩn bị, bất ngờ tấn công thì không thể làm được, bởi vì hai nước rất lớn, tầm hiểu biết cao, vì vậy việc tiêu diệt nhau quả là khó có thể làm được. Mưu kế của Tùy Văn Đế rất tuyệt ở chỗ dám đánh bài ngửa với việc tiêu diệt tận gốc đối thủ, tự mình rầm rầm rộ rộ, trống gióng cờ mở xuống phía nam để tiêu diệt nhà Trần. Kết quả, quân Trần lại cho rằng sự dọa nạt này chẳng qua là một loại phô trương thế lực của mình, quân Trần chi bước một bước là rơi vào cạm bẫy của Tùy Văn Đế. Đây là kế sách lợi dụng tâm lý một cách hoàn hảo: “Chuẩn bị chu đáo ắt sẽ bền bỉ, những gì thường thấy ắt sẽ không hoài nghi . Trong hình thức công khai nhất lại chứa đựng kế sách, ý đồ cơ mật nhất. Trong cuộc chiến tình báo thương mại, do mỗi bên đều giữ nghiêm cửa ngõ của mình, không dễ để lộ một sơ hở bất kỳ nào, vì vậy dựa vào việc "trộm” bí mật e rằng sẽ không được như kế sách "giả vờ sợ hão".
Người thừa kế thuyền vương Hy Lạp, một thế giới giàu có dồi dào tên là Christina mới 20 tuổi, tài hoa phóng đãng tự nhiên cử hành hôn lễ với Masa Palêép thông chức viên của Liên Xô cũ sống âm thầm lặng lẽ đã ngoài 30 tuổi. Điều này là tin tức đã làm chấn động toàn cầu vào đầu tháng 8 năm 1978 và cho đến tháng 2 năm 1980 cả thế giới lại kinh ngạc vì sự chấm dứt của cuộc hôn nhân ly kỳ này. Cơ quan phản gián Hy Lạp đã tiến hành công việc một cách khẩn trương để giảm mức tối thiểu do tình báo nước ngoài gây ra: Trong cuộc hôn nhân ngắn ngủi, những tin tức tình báo của công ty dầu mỏ Phương Tây và công ty Onassiss (Hy Lạp) ngày nào cũng được chuyển về Maxcơva.
Công ty Onassiss chính là di sản khổng lồ của thuyền vương giành lại cho
con gái.
Nó gồm 52 đội thuyền 6 triệu tấn, số lượng này gấp 2,5 lần lượng thuyền của cả Liên Xô cũ có được. Tài sản này tính ra khoảng 2 tỉ đô-la và đương nhiên có quan hệ mật thiết với việc cung ứng và vận tải dầu lửa phương Tây. Năm 1977, nhân viên tại công ty vận tải nước ngoài của Liên Xô cũ tên là Masa Palêép tới Paris công tác, không lâu thì gặp mặt Christina. Chàng nhân viên này cử chỉ văn nhã, học thức sâu rộng, ăn nói rất hiểu đời. Christina vừa nhìn thấy anh ta đã có tình cảm như rơi vào lưới tình mà không có cách nào thoát ra được. Đang lúc đội thuyền phương Tây phổ biến giảm chủ thuê thì Masa chủ động nói với Christina rằng anh ta có thể đưa ra phương pháp để công ty vận tải nước ngoài của Liên Xô cũ trả thù lao đầy đủ để thuê thuyền viên của cô ấy. Christina hết sức cảm động, và với sự năng nổ thông minh buôn bán trên thương trường của Masa đã khiến cho Christina càng thêm kính phục.
Masa thấy thời cơ đã chín muồi, trong một đêm hội, dưới ánh đèn ấm áp, với nỗi đau trong lòng, anh đã kể tỉ mỉ về thân phận vất vả của mình. Anh ta là đặc vụ KGB (ủy ban an ninh quốc gia) của Liên Xô cũ. Christina đã vui mừng trả lời: “Anh là một đặc vụ thông minh, tài năng. Em muốn kết hôn với anh".
Có người đặc vụ nào lại nói với đối thủ của mình rằng chính mình là đặc vụ? Dĩ nhiên, tự mình gọi mình là đặc vụ, điều đó khẳng định chính anh ta không phải là đặc vụ. Christina rất tự nhiên sử dụng tư duy logic giống Chenho đương nhiên cũng chỉ có thể giống như tự động rơi vào cạm bẫy phòng bị.
Masa lại nói rằng: "Anh sẽ đem những tin tình báo của công ty em - những tin tình báo nào có liên quan đến dầu lửa để tới Maxcơva lĩnh thưởng”. Christina nói: "Tin tức tình báo của em và trái tim nóng hổi này của em trao cả cho anh!".
Masa thấy cá đã cắn câu, vội đem dây buộc lại. Masa đột nhiên trở về Maxcơva.
Trong lòng Christina nghĩ, anh ấy nói anh ấy chính là đặc vụ, muốn lấy trộm tin tình báo, hóa ra là muốn mượn cớ kết hôn với mình sao! Cô vội hỏi những người thân của cô, lại nhờ phái viên các nước thăm dò Maxcơva. Thật chẳng dễ gì Masa lại tin, anh nói rằng anh không thể rời Maxcơva được, và cô ấy phải tới Maxcơva để gặp mặt. Christina trong lòng như lửa đốt, một phút cũng chẳng để lỡ, đi máy bay tới ngay Maxcơva. Xa nhau đã lâu, những tình cảm tích tụ trong lòng bị cản trở. Nữ thuyền vương chấp nhận điều kiện vật chất tốn kém, vừa mới ly hôn lại kết hôn với đặc vụ phái chính thống.
Cơ quan tình báo Hy Lạp và gia tộc Onassiss đã lo lắng không yên, nhiều lần cảnh cáo Christina nhưng cô chỉ cho rằng không đúng và phản đối. "Ai đã thấy chồng tôi cầm máy ảnh chụp trộm văn kiện? Tôi không thấy! Các anh có thấy không?"
Thử nghĩ, có đặc vụ nào lại "tra tài liệu hay chụp trộm" trong công ty của chính vợ mình không? Họ đương nhiên không có cách nào lấy được một chút chứng cứ gì về hành động của chàng đặc vụ này.
Chương 5
Trường kỳ chuẩn bị, đã đánh là thắng
Tùy văn Đế Dương Kiên là vị hoàng đế ôm hoài bão lớn, vừa dựng lên triều Tùy, ông hạ quyết tâm tiêu diệt nhà Trần ở miền Nam để thống nhất Trung Quốc. Từ quốc lực quân lực mà luận: triều Tùy quả thật mạnh hơn triều Trần rất nhiều. Nhưng đối với kế hoạch vĩ đại này, Tùy Văn Đế còn nhiều lo lắng trong lòng.
Đất đai triều Tùy rộng lớn: phía nam giáp sông Trường Giang, phía đông giáp Tam Hiệp, phía đông nam sát biển. Từ những năm cuối đời Tây Tấn đến nay, có nhiều người miền Bắc dời đến miền Nam sinh sống, bọn họ cùng nhân dân miền Nam nỗ lực xây dựng nền kinh tế văn hóa, nền kinh tế của triều Trần có sự phát triển tương đối mạnh, quân đội Trần trong một vài khu vực có sức chiến đấu mãnh liệt, thậm chí bất cứ lúc nào cũng có khả năng xâm phạm biên cương nhà Tùy. Hoàng đế cuối cùng của triều Trần là Trần Thúc Bảo hoang dâm bất chính khiến quốc gia dần đi tới mục nát yếu kém, điều đó giúp triều Tùy đủ khả năng tiêu diệt triều Trần một cách dễ dàng. Nhưng con sâu có một trăm chân chết mà không bế tắc huống hồ vùng Giang Nam rộng lớn, xoay chuyển xung quanh tự do thoải mái. Một khi dụng binh không thể trong thời gian ngắn là thu phục được. Hơn nữa chính quyền Tùy vừa mới thành lập không thể hứng nhận nhiệm vụ trọng đại này.
Điều khó nhất là triều Trần có rãnh trời Trường Giang từ đầu nguồn phía tây Vũ Xương (nay thuộc phía tây thành phố Nghi Xương tĩnh Hồ Bắc) cho đến các thị trấn quân sự quan trọng ở Thái Thạch (nay thuộc phía bắc Đương Đồ tỉnh An Huy), Kinh Khẩu (nay thuộc Trấn Giang tỉnh Giang Tô), Kiến Khang (nay thuộc Nam Kinh tỉnh Giang Tô) đều chịu sự khống chế của quân Trần. Lúc đó triều Trần rải 20 vạn quân bố trí tỉ mỉ chặt chẽ , điều động linh hoạt, như vậy dù triều Tùy cố gắng xuất quân, sợ rằng phải vùi xác ở đáy sông.
Còn nữa, láng giềng phía bắc của triều Tùy là tộc Đột Quyết, là nỗi đau đầu cho người Hán. Lúc đó tộc Đột Quyết đang ở thời kỳ chế độ nô lệ nhưng họ có 10 vạn kỳ binh hành động dũng mãnh, chuyển động phi thường. Giả sử gặp thời cơ, liền phi ngựa cướp bóc, nếu đụng kẻ địch mạnh, trong chốc lát đã chạy trốn. Quân lực triều Tùy vốn dĩ không mạnh bằng tộc Đột Quyết, huống hồ còn muốn dồn lực lượng chính xuống Nam hạ tấn công chinh phạt triều Trần, vì vậy dễ có cảnh trộm gà không xong mà còn mất gạo, xuống miền Nam không giành thắng lợi mà còn bị tộc Đột Quyết quấy nhiễu cướp
bóc.
Đắn đo cân nhắc, vì chuyện này Tùy Văn Đế không thể khinh suất làm xằng, nhưng hoài bão lý tưởng luôn bùng cháy, chí hướng không thay đổi. Ông hành động nhẹ nhàng, từ tốn, chưa đánh mà đã gây hậu quả diệt nước Trần, mở ra công tác chuẩn bị trường kỳ.
Đầu tiên phải tiêu diệt mối lo lắng ngay sát bên cạnh bắt đầu từ tộc Đột Quyết. Xây dựng triều Tùy không lâu, Tùy Văn Đế phái Dương Quảng trấn thủ tại Thái Nguyên thuộc tỉnh Sơn Tây, Hạ Nhược Bật trấn giữ tại Dương Châu thuộc Giang Tô, và Hàn Cầm Hổ trấn giữ tại Hợp Phì tỉnh An Huy, tạo ra sự bố trí chinh phạt miền Nam trấn giữ miền Bắc. Năm 581, Tùy Văn Đế hạ lệnh cho Cao Cảnh thống lĩnh quân đội bắt đầu mở cuộc tấn công nhà Trần với qui mô lớn nhưng vẫn mang tính chất thăm dò. Không ngờ nhân lúc quân Tùy hành động, tộc Đột Quyết liên kết với một lại sứ (vốn dĩ anh ta làm quan ở triều Bắc Tề) để đánh vào cửa ải Sơn Hải của triều Tùy, chuẩn bị mở cuộc chiến lớn xâm lược miền Nam. Tùy Văn Đế nhận thấy rằng không dễ gì khống chế tộc Đột Quyết, triều Tùy có thể trở thành con bọ ngựa bắt con ve, xuống phía Nam tấn công triều Trần, bỏ lại kinh đô - như vậy khác gì một miếng mồi ngon cho tộc Đột Quyết. May thay Trần Tuyên Đế ốm chết. Tùy Văn Đế mượn cớ "kính lễ không phạt tang" và ra lệnh thu quân. Hạ quyết tâm thu phục tộc Đột Quyết để trói buộc việc chinh phạt triều Trần. Trải qua gần 4 năm cố gắng đấu trí và đấu lực, cuối cùng Tùy Văn Đế hàng phục các bộ tộc Đột Quyết, bọn họ phải xưng thần với triều Tùy.
Diệt triều Trần cần phải qua sông đánh trận, nếu không có thuyền chiến cùng thủy quân tinh nhuệ thì tất tốn thời gian và phí sức lực. Do đó, vừa hàng phục xong tộc Đột Quyết, năm 585, Tùy Văn Đế ra lệnh cho Dương Tố làm tổng quan Tín Châu (nay thuộc Phùng Tiết ở Tứ Xuyên) chuẩn bị thuyền chiến. Dương Tố phụng mệnh rồi sai người đóng một loạt thuyền chiến. Thuyền lớn gọi là "Ngũ Nha", thuyền có 5 tầng, cao 100 tấc bày đặt 6 lô cốt, cao 50 tấc, có thể chứa 800 người, thuyền nhỏ có các tên gọi như: "Hoàng Long", "Bình Thăng"... cũng có sức chứa 100 người. Ngoài việc vượt rãnh trời Trường Giang, còn tiến hành vượt qua các con sông khác, nên công tác chuẩn bị về quân sự, vật chất rất chu đáo chặt chẽ.
Tùy Văn Đế chú trọng vào việc dùng trí mưu hòng giành thắng lợi, ông đề ra nhiều sách lược khiến kẻ địch mê muội, rối rắm, buông lỏng phòng bị. Thời cơ vượt sông Trường Giang đã chín muồi. Nhưng Tùy Văn Đế vẫn không coi thường kế hoạch, ông ta trưng cầu ý kiến, phối hợp nghiêm túc với các bộ phận tác chiến. Cuối cùng trên cơ sở lắm mưu nhiều lực đồng thời dựa vào hình thế địa lý của sông Trường Giang, lúc này quân Trần đã phân tán lực lượng, Tùy Văn Đế đặt ra kế hoạch tấn công từ nhiều ngả, mà trọng điểm đột phá là khu vực hạ lưu sông Trường Giang. Quân Tùy chia chiến trường làm hai bộ phận lớn: Cửu Giang lấy phía đông làm chiến trường chủ
yếu, còn lấy phía tây làm chiến trường thứ yếu. Nhưng cách đánh cụ thể lại không đưa ra quy định cứng nhắc. Ông sắp xếp thủy quân ở Tứ Xuyên, Hồ Bắc, nhiệm vụ quan trọng đầu tiên phái chặn dòng nước chảy vào các trấn quan trọng ở Lưu Đầu, Kinh Môn... nơi thượng nguồn, dồn nước về Hán Khẩu, tiến hành một trận quyết chiến trên sông, cắt đứt những ngả đường lớn nơi thượng nguồn để quân tinh nhuệ nước Trần không thể chi viện cứu giúp kinh đô nhằm yểm hộ cho quân chủ lực tại trung lưu và hạ lưu vượt sông Trường Giang bao vây tấn công đô thành nước Trần. Nếu quân Trần lấy ưu thế binh lực để phòng thủ những trấn địa quan trọng ở một dải trung lưu và hạ lưu sông Trường Giang, vậy thì nhánh quân thủy chiến này sẽ lập tức men theo sông tiến thẳng xuống, dựa vào điều kiện có lợi, thuận dòng thuận thế giống như 300 năm trước Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm dùng thuyền chiến tiêu diệt quân Đông Ngô, nhờ sự trợ giúp của quân thủy lực tiến thẳng vào thành Kiến Khang (đô thành của nước Trần, nay là thành phố Nam Kinh), nhất cử hành động.
Từng khâu trong công việc chuẩn bị rất cẩn thận và chu đáo, từ đầu năm 581 cho đến tháng 12 năm 588, cả một khoảng thời gian dài 8 năm sắp xếp kế hoạch. Nhưng tuyệt nhiên không phải là sự thừa thải. nhờ có sự chuẩn bị lâu dài và chu đáo như vậy nên Tùy Vãn Đế đã lập nên kỳ tích lịch sử: Trong khoáng 4 tháng đã tiêu diệt chính quyền nhà Trần - một nước có đất đai rộng lớn và giàu có.
Trận chiến đã chuẩn bị kỹ càng, thực lực của Tùy Văn Đế mạnh hơn đối thủ huống hồ còn có "sự phòng bị chu đáo” , lấy phòng bị để đánh không phòng bị. Vậy thì trong cạnh tranh thương trường, thường thấy thực lực của mình chỉ ngang bằng hoặc kém đối thủ, cần tình nguyện tiến hành công tác chuẩn bị một cách nhẫn nại, trường kỳ và chu đáo. Cách làm này đương nhiên là một mưu kế sâu xa và sáng suốt nhất.
Sau khi điều tra nghiên cứu thị trường và dự tính kỹ thuật, năm 1949, chính phủ Nhật Bản định ra một chính sách mới nhằm chấn hưng ngành công nghiệp xe hơi, phát triển ngành công nghiệp xe hơi thành một trong những sản nghiệp then chết có tiềm lực xuất khẩu.
Lúc đó ngành công nghiệp xe hơi của nước Mỹ là một cây cổ thụ trong thương trường. Xe hơi của Mỹ không chỉ nhiều nhất, tốt nhất mà còn có sức tiêu thụ lớn nhất. Mục tiêu tấn công của người Nhật đương nhiên nhằm vào nước Mỹ. Nếu như có thể tiêu thụ xe hơi của mình ở thị trường nước Mỹ, vậy việc chiếm lĩnh thị trường của các quốc gia khác trên thế giới cũng không có vấn đề gì cần lo lắng.
Mục tiêu đã được đặt ra, nhưng tuyệt nhiên không thể đánh động. Suốt cả niên đại 50, Nhật Bản án binh bất động, không hề va đụng với nước Mỹ. Nhưng rất cẩn thận chu đáo trong công tác chuẩn bị, không hề lơ là buông lỏng trong kế hoạch, một giờ một phút cũng không nghỉ ngơi.
Nhật Bản tiến hành "diễn tập thực tế chiến đấu ở châu Mỹ La Tinh, các nước Đông Nam á. Xe hơi của Nhật Bản không theo kịp xe hơi của Mỹ, nhưng xe hơi của Nhật Bản cũng có thể mở rộng tiêu thụ ở một số quốc gia khác. Họ căn cứ vào đó để đề cao chất lượng sản phẩm, tích lũy kinh nghiệm kinh doanh, sau đó đột nhiên "thương khẩu” (bịt mồm) nước Mỹ. Từ đó họ không tiếc vốn liếng.
Nhật Bản hiểu tường tận, nắm vững thị trường xe hơi của nước Mỹ. Chính phủ Nhật Bản không ngừng thu thập tin tức, họ còn lợi dụng các công ty mậu dịch, người ngoại quốc và toàn thể cán bộ công nhân viên để thăm dò tìm tòi nắm vững thị trường, đi tìm hiểu xe hơi của nước Mỹ đặc biệt là biển quảng cáo - chỗ thiếu hụt chưa hoàn bị của chủng loại xe, những điều kiện về đường sá của nước Mỹ, đặc biệt là đặc điểm nhu cầu của người Mỹ đối với xe hơi...
Suốt cả niên đại 50, ngành công nghiệp xe hơi của Nhật Bản luôn luôn "luyện binh” và "nắm vững" không biết mệt mỏi. Đối với Nhật Bản, thương trường xe hơi của Mỹ lại giậm chân tại chỗ, án binh bất động, người Mỹ coi thường hàng hóa của Nhật. Họ tự hào về dáng dấp và chất lượng xe hơi của mình, xe hơi của Nhật Bản xấu xí đương nhiên sẽ không phải là đối thủ của Mỹ? Do đó người Mỹ không hề phòng bị, không hề cải tiến mẫu mã chất lượng...
Thời cơ đi đến giai đoạn chín muồi. Trải qua hơn mười năm nếm mật nằm gai, đến niên đại 60, công ty Toyota đã dựa vào nhu cầu sở thích của người Mỹ, loại bỏ những khiếm khuyết của xe hơi Mỹ là: To kềnh càng, tốn xăng, khó sửa chữa mà họ thay thế vào đó là kiểu xe taxi nhỏ gọn, giá rẻ, dễ sửa chữa, chạy nhanh, tốc độ lớn, chỗ ngồi phù hợp... những chiếc xe này của Nhật có thể chạy tốc độ cao trên những con đường cao tốc của nước Mỹ. Dần dà, những kiểu xe này được hoan nghênh chào đón ở thị trường Mỹ. Từ năm 1960 đến năm 1969, xe taxi của Nhật Bản có sức tiêu thụ lớn từ 130 vạn chiếc tăng lên 1.510 vạn chiếc. Đến năm 1975, xe hơi của Nhật Bản đã chiếm lĩnh thị trường Mỹ. Ít lâu sau, xe hơi Nhật Bản đã đẩy ngành công nghiệp xe hơi của Mỹ "từ địa vị anh cả" xuống hạng dưới và tự mình thay thế chỗ của họ.
Công việc chuẩn bị tất nhiên phải gian khổ và trường kỳ, nhưng lúc phát động tổng tiến công cần cẩn trọng và bình tĩnh tất giành thắng lợi huy hoàng. Chương 6
Đón ý cho vừa lòng người
Vị hoàng đế thứ hai của triều Tùy là Dương Quảng, ông ta theo chủ nghĩa hưởng lạc triệt để: coi trọng mỹ nữ, coi thường giang sơn, buông lỏng dục vọng, bất chấp nhân luân. Vì mỹ nữ và dục vọng mà dám nghĩ dám làm,
không hề băn khoăn.
Ông vịn vào lý do cha ốm, mẹ hoang dâm để mở màn cho việc lên ngôi hoàng đế, ông không tiếc công sức tiền của xây dựng "Tây Uyển” rộng 300 dặm, bên trong Tây Uyển có 5 hồ, 16 vườn, 3 hòn núi lớn. Khu vườn là nơi ở của mỹ nữ được tuyển chọn từ các địa phương, ông cả ngày đi dạo trong "mê lâu”, phòng phòng đều có Tây Thi, buồng nào cũng có Vương Tường, hàng ngày dùng "Ngư nữ xa” để chọn gái tân, ông từng đốc thúc đào cọn sông Vận Hà thông thẳng đến Dương Châu, sai 500 thiếu nữ cùng ông đi thuyền du lãm, cuối cùng ông đem sự nghiệp và của cải mà cha là Tùy Văn Đế tích lũy cả cuộc đời để ném vào sự xa hoa hoang tàn.
Nếu ai trong các đế vương phong kiến từ cổ đến kim cả Trung Quốc và nước ngoài, danh hiệu ai là người xa xỉ hoang tàn thích hưởng lạc nhất và đại nghịch bất hiếu nhất chỉ mình Dương Quảng là đạt được.
Tùy Dạng Đế Dương Quảng thèm khát dục vọng, không chú trọng đạo đức hiếu lễ, nhưng trong cuộc đời ông ta cũng có một khoảng thời gian cai mỹ nữ kiềm chế dục vọng.
Đó là thời kỳ ông ta làm Tấn Vương.
Tùy Văn Đế có năm người con, bọn họ đều do Độc Cô hoàng hậu sinh hạ. Con trường là Dương Dũng, con thứ là Dương Quảng. Sau khi Dương Kiên cướp đoạt ngôi vị nhà Chu và xưng đế, ông chiếu theo qui luật cổ xưa: lập trưởng và không lập thứ Sắc phong con trưởng Dương Dũng làm hoàng thái tử, còn Dương Quáng là con thứ nên được phong vương, Dương Quảng nhận tước vị Tấn Vương.
Từ tước vị mà xem xét: thái tử và Tấn Vương đều là con của hoàng đế, địa vị và quyền lợi gần ngang bằng nhau. Nhưng thái tử có khả năng tiếp nhận ngôi vị hoàng đế, đến lúc đó địa vị của Tấn Vương không có cách gì sánh được. Dương Quảng trí cao mưu sâu, ông biết rằng chỉ có làm hoàng đế mới tùy ý buông lỏng dục vọng hưởng lạc đến tột cùng. Dương Quảng không cam tâm ngồi ở ngôi vị Tấn Vương mà một lòng một dạ muốn thay chỗ ngồi của anh trai. Nhưng đổi người làm thái tử chỉ có hoàng đế mới định đoạt nổi quyết định trọng đại này. Dương Kiên là vị hoàng đế anh minh hiếm có, tài trí hơn người, việc này không chỉ dùng năm ba câu nói mà lừa được Dương Kiên. Vì vậy Dương Quảng nghĩ tới mẹ đẻ của mình.
Mẹ Dương Quảng là Độc CÔ hoàng hậu, gia thế quyền quý, tư chất thông minh, trong thời kỳ Dương Kiên diệt nhà Chu lập nên nhà Tùy, bà ta cũng có nhiều công lao hiển hách, Tùy Văn Đế vô cùng sủng ái bà ta. Mỗi lần Tùy Văn Đế thiết triều, bà ta ngồi xe cùng đi, được hộ tống đến tận cửa điện. Đứng bên cạnh Tùy Văn Đế bí mật làm tâm phúc tùy cơ giải quyết việc đại sự Nếu phát hiện trong triều có việc gì không thỏa đáng tổn thất quyền lợi, đợi Tùy Văn Đế bãi triều quay về cung, bà ta gối đầu kề má khuyên can, đương nhiên Tùy Văn Đế nhất nhất nghe lời. Mọi người đều biết vai trò quan
trọng của Độc Cô hoàng hậu đối với hoàng đế và công việc triều chính, vì thế bọn họ đối đãi Độc Cô hoàng hậu giống như hoàng đế. Bà ta và Tùy Văn Đế hợp chung tên gọi là "Nhị Thánh".
Muốn giành địa vị thái tử cần phải được vua cha cho phép. Nhưng nếu có tác động của mẹ, gây cảm tình của mẹ đó sẽ là cơn gió mạnh thổi cho ước vọng của Dương Quảng, hiệu quả của nó trong thực tế là giống nhau hoàn toàn. Một mặt Dương Quảng cúi mình giả dối đón nhận tính cách của Dương Kiên: tiết kiệm, giản dị. Mặt khác Dương Quảng mang điểm mấu chốt đặt lên vai Độc Cô hoàng hậu, quan tâm chú ý mật thiết đến tính khí của mẹ.
Độc Cô hoàng hậu rất dịu dàng thân mật với Tùy Văn Đế, nhưng ngược lại có một điểm bà ta không bao giờ sửa đổi: đó là tính đố kỵ, chua ngoa, lòng dạ ghen tuông. Bà không cho phép Tùy Văn Đế tán hoa ghẹo nguyệt, phải chung tình, thậm chí còn ép Tùy Văn Đế thề độc: không có con riêng. Tùy Văn Đế nhu nhược cam lòng làm ông chồng sợ vợ, hậu cung hoa lệ quần thần đông đúc, ông ta chỉ có thể ngắm nhìn mà không dám dấy máu ăn phần. Độc Cô hoàng hậu còn suy bụng ta ra bụng người, ai dám lạnh nhạt với người vợ kết tóc se tơ, bà ta trừng mắt giận dữ. Bình thường nghe nói đại thần nào đó lấy vợ bé hoặc giả vợ bé có thai, bà ta tức tối nghiến răng nghiến lợi, kiên quyết đòi Tùy Văn Đế trừng phạt, thậm chí còn bãi miễn chức quan. Tính cách của mẹ như vậy đúng là khắc tinh của Dương Quảng - một kẻ ưa nữ sắc. Nhưng muốn cảm hóa tình cảm của mẹ, Dương Quảng cố nhiên kìm nén khắc chế chuyện ái tình, ra vẻ đã thay đổi tính tình.
Trong phủ Tấn Vương vốn dĩ có gái đẹp như tiên, ngược lại bây giờ chỉ có vài cung nữ vừa già vừa xấu, Dương Quảng thích đàn ca múa hát ngày ngày mở tiệc vui chơi đàn đúm, bây giờ ông ta quay sang học hỏi, không biết mệt mỏi, trà xanh cơm nhạt, trước đây buổi sáng chọn giai nhân nữ sắc, đêm đêm làm chú rể, hiện nay chỉ có mình vương phi làm bầu bạn sớm tối gắn bó keo sơn, lúc trước có con riêng nhiều như bụi, hiện giờ trong Tấn Vương phủ không có một mống con, phục tùng tính cách Độc Cô hoàng hậu: "không đẻ thì không nuôi"... Tùy Văn Đế và hoàng hậu thăm dò quan sát phủ Tấn Vương, chỉ thấy cung nữ vừa già vừa xấu phục dịch. Tấn Vương và vương phi chỉ mặc quần áo bằng vải bố, bày biện tùy tiện biện lễ, nhạc cụ hào hoa bị bám đầy bụi bẩn. Thêm vào đó vợ chồng Tấn Vương ân ái tình cảm, đề cao đạo lý... Tùy Văn Đế tính tình tiết kiệm, ghét sự xa hoa, đương nhiên rất mãn nguyện về con trai. Còn Độc Cô hoàng hậu thấy Tấn Vương chung tình với vương phi, tự nhiên hoàng hậu cũng vui sướng trong lòng. Từ đó hai vợ chồng già rất thích Dương Quảng, thường sai người đến phủ đệ của Tấn Vương nghe ngóng dò la tình hình. Dương Quảng sớm có sự chuẩn bị, cho dù người đến là kẻ giàu sang phú quý hay nghèo hèn nhất nhất đều được vương phi tiếp đón niềm nở mở tiệc khoản đãi ân cần đối rượu và đưa tặng vàng bạc lụa là. Giả dối cúi mình đón ý mọi người, khiến trong triều ai cũng
khen Dương Quảng. Độc Cô hoàng hậu nghe mọi người ca ngợi: Tấn Vương hiền đức như vậy, chung tình như vậy..., Tùy Văn Đế nghe thấy Độc Cô hoàng hậu và quần thần khen Tấn Vương tiết kiệm thật thà, khoan dung có tài, hiền hòa trọng lễ...
Dần dần Tùy Văn Đế dao động tâm can, cuối cùng ông hỏi Thượng Nghĩa Đồng Tam Ty Vĩ Đỉnh: "Trong các chư vương ai có năng lực gánh vác giang sơn, đủ tài đức để chọn làm người kế vị?" Hầu như ông quên mất ngôi vị thái tử đã được định. Bước tiến đầu tiên mà Dương Quảng khó khăn cực nhọc để bước lên ngôi vị cuối cùng đã đạt được mục đích.
Mỗi cá nhân đều là cá thể độc lập, mỗi cá thể lại có tính cách, mục đích và hành vi phương thức của chính mình. Nếu giữa cá thể và cá thể mảy may không có liên quan với nhau, tuyệt đối không có quan hệ dây mơ rễ má, việc lớn như vậy không nhất thiết chiếu cố đến ác cảm của người khác mà mình làm mình chịu. Đương nhiên những cá thể trong xã hội hoặc nhiều hoặc ít đều liên quan tới người khác, đặc biệt bản thân mình phải hoàn thành mục tiêu nhiệm vụ trọng đại, nhất thiết gây tình cảm tốt đẹp và sự giúp đỡ của người khác. Giống như Dương Quảng tạm thời cúi mình sống giả tạo che giấu cá tính, chủ động đón ý và cách làm của người khác thì cần có một mưu trí cao siêu, một bước nhìn xa trông rộng. Trong cạnh tranh thương nghiệp, tính bài trừ giữa cá nhân với cá nhân, hoặc giữa xí nghiệp với xí nghiệp... là rất lớn. Vậy muốn mượn lực lượng của người khác hoặc của xí nghiệp khác, đương nhiên cần tạm thời che giấu bản thân mình để đón nhận mưu trí của đối phương. Đối với một nhà quản lý mà nói, anh ta trước sau dựa vào sự giúp đỡ để đạt mục đích phát triển xí nghiệp của mình, do đó vận dụng mưu kế này không nhất thời cần kíp mà trở thành một phương châm vĩnh hằng.
Cửa hàng liên hoàn Warsal là một đại lý bán lẻ lớn thứ tư ở nước Mỹ có hơn 2 vạn công nhân. Năm 1970, kim ngạch tiêu thụ từ 4500 vạn đô la Mỹ tăng lên 1,6 ti đô la Mỹ. Cửa hàng liên hoàn cũng từ 18 cửa hàng phát triển thành 330 cửa hàng. Người sáng lập công ty là Warton, ông mô phỏng theo quyết sách mưu trí "đón ý cho vừa lòng người khác" nên giành được thành công to lớn, ông đúc kết kinh nghiệm thành công của mình bằng một câu nói. "Chúng tôi quan tâm tới nhân viên, thà rằng lừa dối chính mình."
Từ năm 1962 trở đi, ông Warton mỗi năm lại đi thăm một cửa hàng liên hoàn, dưới sự lôi kéo cổ động của ông ta, các giám đốc hầu như tiêu phí thời gian vào các cửa hàng liên hoàn Warsal ở 11 châu, phòng giám đốc không có ai, phòng họp trông giống như một cái kho hoang phế.
Một lần, ông Warton bị mất ngủ liên tiếp trong vài tuần, nhưng ông ta dứt khoát thức dậy, buổi sáng sớm giành hai tiếng rưỡi đến trung tâm chọn lọc hàng hạ cấp, đứng ở băng chuyển hàng nói chuyện với công nhân, căn cứ vào điều kiện ở đó quyết định lắp đặt hai buồng tắm. Công nhân đều biết ông chủ rất quan tâm tới họ.
Một lần khác ông Warton đi máy bay đến thị trấn Mondepisat thuộc châu Deszaksat, sau khi máy bay dừng lại, ông báo phi công đợi ông ta trên con đường này cách chỗ đó 100 dặm, tiếp đó ông khua tay chặn một xe tải của cửa hàng liên hoàn, xin đi nhờ 100 dặm, trên đường đi ông nói chuyện với lái xe về mục đích của công ty. ông chủ của công ty Warsal thà rằng luồn cúi bản thân mình, nhất thiết quan tâm tới công nhân viên, tạo ra hoàn cảnh để người ta cởi bỏ lòng tự tôn tự ti, tích cực tham gia công việc, kết quả ông chủ đầu tư bao nhiêu thì công nhân viên phục vụ nhiệt tình bấy nhiêu. Hàng ngàn, hàng vạn công nhân ra vào công ty đều được bồi dưỡng tinh thần cao độ. Cuối cùng lợi ích lớn nhất lại thuộc về ông Warton - ông chủ công ty - người cam tâm lừa dối bản thân mình để lấy lòng công nhân viên.
Chương 7
Ngắm trúng khối hoài nghi, nói dối tài tình
Hoàng thái tử Dương Dũng có tên là Hiện Địa Phạt, ông là con trưởng của hoàng đế Tùy Văn Đế Dương Kiên. Dương Dũng tính tình thẳng thắn chưa bao giờ sống lắt léo giả dối. Ông thường tham mưu và quyết những việc đại sự, phần lớn các ý kiến của ông đưa ra đều được hoàng đế thu nạp và áp dụng vào thực tế. Nhưng Tùy Văn Đế thích tiết kiệm còn Dương Dũng lại đối nghịch với cha - sống xa hoa hoang phí. Dương Kiên lên mặt dạy dỗ con: "Từ cổ chí kim, đế vương nào thích ăn chơi xa xỉ tất sẽ bị diệt vong, con được chọn làm người kế vị thì điều đầu tiên con phải biết tiết kiệm, có vậy mới thờ phụng và duy trì được tông miếu của tổ tiên”. Dương Kiên còn tặng cho thái tử một chiếc áo cũ, một cán dao cũ và một chai đậu tương, hy vọng thái tử sẽ dùng những vật đó và lĩnh hội được tâm ý của mình. Ngoài mặt Dương Dũng tỏ vẻ tiếp thu lời dạy bảo của cha nhưng thật ra ông ta vẫn vứt bỏ ngoài tai sự giáo huấn của cha. Tùy Văn Đế bắt đầu hoài nghi năng lực kế vị ngôi hoàng đế của thái tử.
Dương Dũng bị bài xích trong việc quốc gia đại sự nên càng chìm sâu vào nữ sắc, sủng ái thê thiếp. Ông ta vô cùng si mê Vân Chiêu Huấn - một cô gái đẹp sắc nước nghiêng thành. Vân Chiêu Huấn không phụ tấm lòng của thái tử, sinh cho thái tử ba người con trai. Ngoài ra thái tử còn sủng ái Cao Lương, Vương Lương và Thành Cơ... Do đó Tùy Văn Đế liên tục có cháu nội dị bào. Duy nhất chỉ có vợ cả của thái tử là Nguyên Thị cô ta tính tình điềm đạm, thái tử không thích cô ta vì thế không sinh được đứa con nào. Tùy Văn Đế không có thời gian đi để ý những chuyện tình cảm ướt át đó, còn Độc Cô hoàng hậu tính tình đố kỵ, bà ta ghét nhất chuyện đàn ông có năm thê bảy thiếp, sủng ái vợ bé phụ tình vợ cả. Hoàng thái tử không hiểu rõ tính cách của mẹ nên ngang nhiên chạm vào tổ kịến lửa, điều đó khiến bà ta ghét cay ghét đắng Dương Dũng.
Lúc đó có một chuyện không hay xảy ra, vợ cả của Dương Dũng là Nguyên Thị chẳng may bị bệnh tim, ngự y tìm cách chữa trị nhưng đều bó tay, chưa được hai ngày thì từ giã cõi đời. Vốn dĩ thái tử không ưa gì vợ cả, đương nhiên cái chết đó không làm ông đau lòng, trái lại ông còn thấy như trút đi gánh nặng. Ông ta bạo gan cho phép Vân Chiêu Huấn quản lý ở Đông Cung và càng sủng ái cưng chiều thê thiếp. Độc Cô hoàng hậu hận con trai đến mức muốn lột da rút gân và hoài nghi rằng Nguyên Thị bị thái tử và Vân Chiêu Huấn hại độc chết. Chỉ vì không có chứng cớ nên chưa có cách gì lôi sự việc ra ánh sáng. Mỗi lần thái tử đến vấn an, bà cố kìm lòng để tiếp đón, mặc dù trong lòng muốn băm vằm xé xác cho hả giận. Thái tử vẫn chứng nào tật nấy, thờ ơ không đề phòng. Độc Cô hoàng hậu thường sai nội thị đến Đông Cung dò xét, tìm chứng cứ vạch tội thái tử.
Dương Quảng, em trai của Dương Dũng, một lòng một dạ muốn cướp đoạt ngôi vị của anh trai. Dương Quảng tìm trăm phương ngàn kế để diễn một trò kịch, giả vờ chi tiêu tiết kiệm sống đạm bạc, cho phép vài cung nữ vừa già vừa xấu phục vụ ở phủ Tấn Vương. Các cô gái đẹp bị Dương Quảng cho ẩn trốn ở chỗ khác, trong phủ chỉ còn vài cung nữ vừa già vừa xấu, hằng ngày ông ta cùng vợ cả đối ẩm chuyện trò tình cảm rất thân thiết nhờ vào vở kịch này nên Dương Quảng nhận được sự tín nhiệm và tình yêu thương của cha mẹ. Nhưng yêu quý thì yêu quý nếu phế trưởng lập thứ quả là chuyện trọng đại, con trưởng hay con thứ đều cùng chung cốt nhục và do bố mẹ sinh ra, bố mẹ nhiều khi có muốn hạ bệ con trưởng và dìu dắt con thứ thứ cũng không được, cho dù yêu quý cũng đành bó tay. Vì vậy sau khi Dương Quảng gây được niềm tin yêu của phụ hoàng, ông ta lại đi đến nước cờ thứ hai là bới móc tìm tòi khuyết điểm của Dương Dũng để ép Dương Dũng vào ngõ cụt. Đương nhiên Dương Quảng không tìm thấy lỗi lầm của thái tử. Bởi Dương Dũng lòng dạ ngay thẳng, làm việc rất cẩn thận có trách nhiệm, mọi hành vi và thái độ không có gì đi quá trách nhiệm của một vị thái tử. Đúng lúc Dương Quảng đang thất vọng bởi chưa có cách gì hãm hại anh trai, đột nhiên nghe nói chị dâu bị chết đột ngột và mẫu hậu nghi ngờ cái chết đó có uẩn khúc bên trong. Dương Quảng hạ quyết tâm viết một bản tấu trình về sự việc này.
Triều Tùy định tiến xuống miền Nam chinh phạt nước Trần, Dương Quảng được sai đi trấn thủ ở Dương Châu. ông nghe tin về cái chết đột tử của chị dâu nên muốn nhân cơ hội này để hãm hại anh trai, tuy nhận chức chưa được hai tháng nhưng ông ta nhất định đòi bái kiến phụ hoàng và mẫu hậu. Vốn dĩ vợ chồng Dương Kiên yêu quý con trai thứ nên đã cho phép Dương Quảng về kinh gặp mặt. Vừa về đến kinh thành, ông ta càng cẩn thận trong lời nói và hành vi. Ông ta đối đãi với các đại thần rất khiêm tốn hiền hòa, cung kính nhường nhịn. Tất cả các quan lại trong triều đều khen ngợi Dương Quảng ở trước mặt Tùy Văn Đế.
Đến hôm phải cáo biệt song thân để quay về trấn giữ ở Dương Châu, Dương Quảng cố ý ở lại phòng mẹ tới nửa ngày, nói lải nhải "cách xa con cháu", thì thầm bên mẫu hậu khiến mẹ ông ta chỉ muốn ôm con trai vào lòng. Hoàng hôn đã tàn đến lúc phải chia tay, Dương Quảng làm ra vẻ có gì đó muốn đi ông ta thay đổi nét mặt, Độc Cô hoàng hậu rất kinh ngạc hỏi rõ nguyên nhân. Thần sắc của Dương Quảng càng nhợt nhạt giống như có nỗi khổ khó nói ra. Hoàng hậu đuổi hết bọn cung nữ ra bên ngoài và vặn hỏi lý do. Lúc này, Dương Quảng phủ phục xuống đất khóc và nói: "Nhi thần tính tình hồ đồ, từ xưa đến nay không biết kiêng kỵ, phụng mệnh phụ hoàng ra trận, không hề oán trách. Do đó luôn mong nhớ song thân, chưa được hai tháng đã có biểu dâng lên triều đình. Muốn gặp mặt phụ hoàng và mẫu hậu để cha mẹ dạy dỗ, không biết có xúc phạm đến huynh trưởng không?"
Độc Cô hoàng hậu nghe nhắc đến tên thái tử Dương Dũng, liền vội hỏi: "Thái tử dám làm cái gì?"
Dương Quảng hết sức lo sợ nói: "Thái tử cho rằng: nhi thần không muốn đi trấn giữ ở Dương Châu và muốn tranh giành ngôi vị thái tử, do đó huynh trưởng luôn tìm cách hại nhi thần. Còn rêu rao nói..."
Độc Cô hoàng hậu đang muốn tìm chứng cứ để nắm thóp Dương Dũng, bà thúc ép Dương Quảng: "Con nói ra đi?"
“Thủ đoạn đối phó với chị dâu linh nghiệm lạ thường, huynh trưởng nói sẽ dùng thủ đoạn này đổ vào đầu nhi thần". Dương Quảng nói một thôi một hồi, kích động vào nỗi lòng của Độc Cô hoàng hậu: "Nhi thần không muốn rước họa vào thân. Nhi thần nguyện cư trú ở ngoại phiên, thái tử ở Đông Cung hàng ngày đối đãi với bọn thuộc hạ, nếu có gì gièm pha lẫn nhau phụ hoàng làm sao phân xử được? Nhi thần không muốn huynh trưởng dùng những thủ đoạn tương tự như vậy, chỉ sợ lại chết bất đắc kỳ tử. Lần từ biệt này, rất khó gặp mặt được mẫu hậu.”
Dương Quảng nói xong, nước mắt lưng tròng và nức nở một hồi. Hoàng hậu thương xót con trai, bà ta nghiến răng nói: “Thật hoang đường vô lý. Ta đã hỏi con gái nhà họ Nguyên cho thái tử, từ nhỏ đến lớn cô ta rất khỏe mạnh, vậy mà đột nhiên lăn ra chết. Thái tử không hề đau thương, hơn nữa còn vui chơi hưởng lạc với tì thiếp. Ta cũng nghi ngờ rằng NguyênThị bị hại chết, có điều chưa tra rõ chứng cứ, không thể khép tội. Thái tử càng ngày càng quá đáng, còn dám hãm hại con. Ta vẫn còn sống mà hoàng thái tử cũng không nể mặt thì sau này không biết còn tồi tệ đến đâu".
Hoàng hậu nói xong ngã quỵ xuống, Dương Quảng thấy mẹ xiêu lòng nhưng vẫn chưa hiểu hết mong muốn của mình. ông ta giả vờ khuyên can: "Tất nhiên tính cách của nhi thần không ra gì, nên không thể cảm hóa được thái tử, do đó mới gây ra sự đau đớn cho mẫu hậu, nhi thần đáng bị trừng phạt. Xin mẫu hậu đừng lo, chỉ mong mẹ khỏe mạnh, thì nhi thần vẫn được che chở. Ngày huynh trưởng đăng cơ, nhi thần nguyện làm tròn lòng trung hiếu.
Nếu mẹ chấp nhận Vân Chiêu Huấn làm con dâu, nhi thần sẽ tuân theo lễ nghĩa để tôn sùng cô ta làm hoàng hậu và gọi là chị dâu. Nhi thần tin rằng huynh trưởng sẽ hiểu được lòng tận trung và tha cho mạng sống. Còn huynh trưởng vẫn giữ chính kiến cũ, nhi thần có chết vẫn cam lòng để bảo vệ ngôi vị hoàng đế cho thái tử."
Độc Cô hoàng hậu nghe xong im lặng không nói gì. Bà ta không muốn trong tương lai sẽ lập Vân Chiêu Huấn làm hoàng hậu, bình thường bà ta đã bực tức không yên tâm, hơn nữa bà còn rất yêu quý Dương Quảng. Bà ta giậm chân, bực tức nói: “Con hãy yên tâm trấn thủ tại Dương Châu, ta đã có cách quyết không để con chịu thiệt thòi." Sau đó bà ta nhất định tìm biện pháp phế bỏ Dương Dũng và để Dương Quảng thay thế địa vị thái tử.
Dương Quảng tận mắt chứng kiến cảnh mẹ tức giận, ông vui sướng khôn cùng, nhưng vẫn làm ra vẻ buồn rầu cáo biệt mẹ để ra đi. Hoàng hậu bắt đầu giơ nanh vuốt giương cao pháp lực vô biên. Tùy Văn Đế vốn không ưa Dương Dũng mà lại yêu mến Dương Quảng, thêm vào đó là lời lẽ xúi bẩy của hoàng hậu.
Sở dĩ Dương Quảng có thể cướp đoạt địa vị thái tử của anh trai là nhờ vào Độc Cô hoàng hậu. Những lời nói dối đó đã nhắm đúng vào tính nghi kỵ của hoàng hậu, vì vậy làm tăng thêm chí khí cho hoàng hậu là phế trưởng lập thứ. Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta không thể đề xướng mưu kế nói dối, nhưng trong cạnh tranh thương nghiệp "đánh nhau không ngại dối trá", kỳ thật không khác gì đối mặt với đối thủ độc ác như cáo như hổ, để bảo toàn sinh mệnh cho mình, tất nhiên phải một lần "nói dối". Nếu anh lâm vào hoàn cảnh bất đắc dĩ mà đành phải tìm ra cách nói dối tốt nhất nên học theo thủ đoạn của Dương Quảng, nhất định tìm bắt sơ hở của đối thủ, để tạo điều kiện có lợi cho việc nói dối của anh có cơ sở. Trong việc tiêu thụ sản phẩm chỉ cần chất lượng khá quan, giá cả hợp lý, đương nhiên sẽ xua tan mối hoài nghi của khách hàng, đó là một lời nói dối ngọt ngào.
Một hôm, Saluxs tan làm đi về nhà, anh ta nhìn thấy trên bàn đặt một mảnh vải, biết ngay là vợ mua nên anh không vui bởi vì miếng vải đó ở cửa hàng của anh không bán nổi, tại sao vợ của anh lại đi mua của người khác? Cô vợ không nhận ra thái độ của chồng và nói: "Em rất vui! Chất liệu của nó tuy không tốt lắm, nhưng hình thức hoa văn lại là môđen mà em đang cần tìm". "Ôi! Bà chúa của tôi, loại vải này suốt từ năm ngoái đến giờ không bán nổi một mảnh, làm sao mà lưu hành môđen được chứ?". Cô vợ đành thật thà tuyên bố: Trong hội liên hoan ở công viên, trong giới thượng lưu có nhà Donihan cũng mặc môđen hoa văn này, cô ta đang bán tín bán nghi không biết có đúng trong xã hội đang lưu hành môđen này không thì một tiểu thương nhỏ đã mang chất liệu vải đó đặt vào tay cô và bảo. "Cô rất đẹp, rất có thẩm mỹ, do vậy tôi mới dám đưa chất liệu đó cho cô để tìm bạn đồng minh. Buổi liên hoan lần sau, chất liệu vải đó nhất định sẽ làm cô và vị phu
nhân nọ nổi tiếng". Cô vợ còn dặn chồng nhất định phải giữ bí mật, để tránh cho mọi người đều chạy theo chất liệu vải đó.
Saluxs rất buồn cười về cách nghĩ của cô vợ, lời nói dối của viên tiểu thương làm phụ nữ mê muội! Tuy nhiên Saluxs không khâm phục lời nói dối của người lái buôn đó. Trong buổi liên hoan không chỉ có mình vợ anh nhận được lời nói dối ngọt ngào đó, mà còn vài phụ nữ khác cũng nhận được lời nói dối tương tự. Sau khi kết thúc hội liên hoan, phần lớn phụ nữ đều nhận được thông tin "các phụ nữ đều mặc chất liệu vải mới và tất cả các cửa hàng đều bán loại vải đó.”
Hôm sau, Saluxs đến một cửa hàng vải, anh thấy các bà các cô tranh nhau mua chất liệu vải giống như hôm qua vợ anh mua về. Đợi các bà các cô đi hết, chủ cửa hàng sai căng ra hàng chữ: "Vải đã bán hết, ngày mai lại có hàng mới". Một số người mua sợ ngày mai lại không có vải nên kéo nhau đến đặt tiền. Nhân viên bán hàng lại buông lời nói ngọt ngào: "Loại vải này của Pháp, do đó rất khó mua, khó lòng đáp ứng nhu cầu của khách hàng".
Saluxs biết rõ, chất liệu vải này cung cấp không nhiều, nhưng nguyên liệu không đủ, do đó con đường tiêu thụ không thuận lợi, không dám nhập khẩu tiếp. Anh ta vội vã quay về cửa hàng của mình, tại đó cũng làm anh kinh ngạc: số hàng ở cửa hiệu của anh cũng được các lái buôn mua hết nhẵn.
Phương châm tìm phụ nữ để tiêu thụ sản phẩm quả là linh nghiệm. Viên lái buôn nọ chỉ dùng một lời nói dối ngọt ngào khiến số vải tồn ở các cửa hàng đã được bán hết.
Chương 8
Muốn thực hiện tốt chuyện tương lai tất cần có một nền tảng tốt
Cảnh sắc đầu xuân có sức hút làm say đắm lòng người, làm gió xuân thổi tới khiến thảm cỏ thơm xanh rờn trông đẹp hơn, liễu rủ xanh biếc mềm mại lộ dấu hiệu mùa xuân đã đến. Vùng đất lớn tràn đầy sức sống và sinh khí, tất cả đều biểu thị hình sắc vui vẻ. Tùy Văn Đế tản bộ chậm rãi trong cung Nhân Thọ, khi tận mắt chứng kiến cảnh xuân làm say đầm lòng người, ông chợt ngây ra một thoáng. Trong lúc thẫn thờ, đột nhiên ông nhìn thấy trong khóm hoa mai trước mặt có một thiếu nữ đứng quay lưng, cô ta thân hình uyển chuyển mái tóc đen nhánh, đôi cánh tay trắng muốt. Ông ngây ra ngắm nhìn, cô gái thoắt quay người lại, một tuyệt sắc giai nhân, hoa đẹp còn phải thua mỹ nhân. Làn tóc phất phơ như liễu rũ, mắt sáng như hồ nước mùa thu, miệng nhỏ, răng đều đặn như những hạt anh đào. Tả không hết vẻ đẹp chim sa cá lặn của cô ta. Ông bị hớp hồn bởi nét đẹp dịu dàng.
Tùy Văn Đế vốn không phải là người đam mê nữ sắc, vả lại Độc Cô hoàng hậu là người hay ghen, không dung tha bất cứ hành vi phóng đãng nào, một mực không cho phép chồng ôm ấp nghĩ tới một người phụ nữ khác. Tùy Văn
Đế đành ngậm ngùi chấp nhận sự quản lý của bà ta, suốt ngày suốt đêm bà ta kề cận bắt thề độc không được sủng ái người phụ nữ thứ hai. Trong cuộc đời ông kể từ khi thành thân với bà ta, ngày qua ngày ông chỉ dám ngắm nhìn những phụ nữ đẹp mà không dám lại gần vuốt ve tán gẫu. Về phía Độc Cô hoàng hậu luôn sai gia nhân thân cận, giám sát hành vi của đức phu quân.
Không ngờ, đúng lúc mùa xuân vừa đến, bà ta bị cảm nhẹ nên đành nghỉ ngơi trong cung để dưỡng bệnh. Dương Kiên buồn chán muốn đi tản bộ ở vườn thượng uyển, ngắm nhìn cảnh xuân làm rung động tâm hồn, hơn nữa trước mắt lại xuất hiện một cô gái đẹp tuyệt trần, thử hỏi làm sao ông ta còn nhớ tới lời thề thốt bên gối và sự ghen tuông ngoa ngoắt của vợ đây? Thiếu nữ tên gọi Uất Trì Trinh - 28 tuổi, cháu gái út của Uất Trì Quýnh. Khi ông ngoại bị tiêu diệt, cô theo cùng đám phụ nữ trong gia đình, tất cả đều không nhập cung, cũng chẳng biết tại sao bây giờ cô lại đứng đây. Đột nhiên nhìn thấy Văn Đế cho rằng mình có phúc lớn mệnh tốt, rốt cuộc đã được thánh thượng chú ý. Nên giả bộ chối từ, càng ra vẻ trông càng yêu kiều, không cần đợi đến chiều tà thì hai người đã quấn quýt đằm thắm.
Tùy Văn Đế vui vẻ trong lòng, không cần nói nhiều ai cũng biết rằng lòng tham của con người quả là vô đáy, từ đó ông ngang nhiên ở với Uất Trì Trinh, tình ý vấn vương, lần khần mãi mới thiết triều. Cái kim giấu mãi trong bọc cũng lòi ra, bà vợ chua ngoa của ông sớm đã được bọn nội thị báo cáo rõ ràng đầu đuôi câu chuyện, bà ta ba máu sáu cơn, giận dữ đùng đùng và đợi Tùy Văn Đế thiết triều, dẫn đám cung nữ đi tới chỗ Uất Trì Trinh để xử lý cô ta. Đợi khi Tùy Văn Đế hoàn tất việc lâm triều, ông định đi đến chỗ Uất Trì Trinh thì phát hiện ra cô ta đã biến thành một thi thể nhầy nhụa máu thịt. Đồng thời còn nghe thấy giọng hoàng hậu gào rít mắng chửi. Đứng ở trong nhìn trộm chỉ thấy vị mẫu nghi thiên hạ lông mày dựng đứng, mắt mở trừng trừng, thanh minh rằng sớm đã nhìn thấy xa giá của thánh thượng tới, ngược lại vẫn ngồi nguyên xi bất động luôn mồm nói liều.
Vốn dĩ Tùy Văn Đế bị mang tiếng là sợ vợ, nhất thời không dám can ngăn. Do đó vừa đau khổ vừa phẫn nộ, nhu nhược lên ngựa quay về, không nghe giọng hoàng hậu nói với theo "Bệ hạ hồi cung”, ông thả cương ngựa đi về phía cửa Đông Hoa, đi nhưng tâm hồn lưu lạc tận đâu đâu.
Độc Cô hoàng hậu chỉ muốn trút hết nỗi hờn ghen trong lòng, nào ngờ Tùy Văn Đế biến sắc mặt bỏ đi, cưỡi ngựa một mình rong ruổi, như vậy thì quyết làm thế nào không cần gấp rút choáng váng bởi quá khứ. Bà ta vội sai người cấp tốc truyền gọi Việt Quốc Công Dương Tố và Tả Bộc Xạ Cao Cảnh cưỡi ngựa đuổi theo Tùy Văn Đế.
Bọn Cao, Dương khó khăn lắm mới tìm thấy hoàng thượng, khuyên giải Tùy Văn Đế quay về cung, tốt nhất nên nhún nhường với hoàng hậu. Đúng lúc Cao Cảnh nói: "Thánh thượng nên lấy nỗi khó khăn của quốc gia làm trọng để mà tiến thân, việc giữ thành trị quốc là chuyện không đơn giản hà tất gì
chi vì một phụ nữ mà buông lỏng coi nhẹ thiên hạ, giang sơn? Cúi xin thánh thượng an giấc, sớm mai hồi cung, để tránh lòng người náo loạn". Việc sóng to gió lớn của đôi vợ chồng già tuy đã bình yên trở lại, nhưng trong lòng Độc Cô hoàng hậu vẫn còn nỗi u buồn không cách gì gỡ bỏ. Bà ta hận Tùy Văn Đế đã quay lưng với lời thề hẹn tìm kiếm hoan lạc mới, dù sao ông ta cũng là thiên tử nên bà ta không dám trút cơn giận dữ. Vì thế lão già Cao Cảnh trở thành cái túi trút giận, Cao Cảnh nói một câu: “Vì một phụ nữ...", bà ta nghĩ mình đường đường là quốc mẫu vây làm sao có thể coi là một phụ nữ bình thường đây? Tùy Văn Đế quay lưng với lời hẹn quả là chuyện không đúng, còn lão già Cao Cảnh sao dám coi nhẹ bà ta được. Không trừng trị lão già đó thì nỗi ấm ức của bà ta còn chưa dứt. Bà ta vốn thiên vị con thứ là Tấn Vương Dương Quảng, còn con cả là Dương Dũng đang ở ngôi vị thái tử có những hành vi không thuận mắt bà ta, vì thế nhiều lần bà ta khuyên Tùy Văn Đế phế trưởng lập thứ. Có lần Tùy Văn Đế hỏi Cao Cảnh: "Có nên lập Tấn Vương Dương Quảng làm thái tử không?" Vậy mà Cao Cảnh lại nghiễm nhiên trả lời: "Lập trưởng là quy luật đã được định sẵn từ lâu, làm sao có thể dễ dàng sửa đổi?". Sau khi Độc Cô hoàng hậu biết chuyện, bà ta hiểu: Một khi Cao Cảnh còn ở nguyên vị trí của mình thì Dương Quảng khó lòng ngồi vào ngôi vị thái tử. Vì thế cả hận cũ và hận mới dồn nén vào, bà ta quyết chí nghĩ mưu phế bỏ Cao Cảnh.
Một hôm, chẳng may vợ Cao Cảnh bị ốm chết, Độc Cô hoàng hậu được dịp liền xúi bẩy Tùy Văn Đế: "Cao Cảnh tuổi cao, đột nhiên lại mất đi người vợ hiền, tuổi già sức yếu và thêm vào đó là nỗi đau mất vợ, bệ hạ ân đức bao trùm khắp thiên hạ, tại sao không làm bà mối để kiếm cho Cao Cảnh một người chăm sóc lúc tuổi già!”.
Tùy Văn Đế thấy vợ nói có tình có lý, lại rất chân thành, do đó ông sai triệu kiến Cao Cảnh, trịnh trọng đề cập chuyện làm bà mối để giúp Cao Cảnh. Không ngờ, Cao Cảnh nước mắt lưng tròng đáp rằng: "Hạ thần tuổi đã cao, sau khi tan triều chỉ muốn nghỉ ngơi tĩnh dưỡng và không muốn tái hôn". Tùy Văn Đế vô cùng thương cảm cho hoàn cảnh của ông ta nên cũng không đề cập lại chuyện đó.
Vài tháng sau, vợ bé của Cao Cảnh sinh được một con trai. Tùy Văn Đế rất mừng cho Cao Cảnh. Ngược lại, Độc CÔ hoàng hậu lại ra vẻ buồn rầu. Tùy Văn Đế ngạc nhiên hỏi nguyên do, hoàng hậu đáp: "Lão thần Cao Cảnh công lao to lớn địa vị oai phong, hiện nay cũng lừa dối thánh thượng rồi!".
Tùy Văn Đế nhẹ nhàng ôn hòa hỏi lại: "Ái khanh nói như vậy là có ý gì? Hoàng hậu từ tốn nói: "Lẽ nào thánh thượng quên mất, cách đây vài tháng vợ Cao Cảnh ốm chết. Lúc đó thần thiếp có đề cập với ngài: Cao Cảnh đã già, vợ lại mới mất, không có ai làm bầu bạn, vì thế đã khuyên thánh thượng đứng ra làm mối tìm giúp ông ta một người nâng khăn sửa túi. Lúc thánh thượng triệu ông ta đến để đề cập chuyện đó nhưng ông ta đã chối từ và nói
chỉ muốn nghi ngơi tĩnh dưỡng, đọc sách, không muốn lấy vợ lần thứ hai. Nghe lời nói đó của ông ta, thánh thượng và thiếp vô cùng cảm động, khen ông ta là hiền minh. ông ta ở nhà đọc sách tại sao vợ bé lại sinh con trai! Mồm thì nói không muốn tái hôn, kỳ thật lại sủng ái vợ bé, như thế há chẳng phải lừa dối thánh thượng sao? Bây giờ chân tướng sự việc đã rõ, thánh thượng nên lưu ý chuyện này! Một đại thần mưu thâm như ông ta, chưa chắc đã thực lòng phù trợ bệ hạ, những lời nói của ông ta xin bệ hạ xem xét kỹ càng!".
Nghe vợ nói vậy, Tùy Văn Đế chợt tỉnh ra: “Nếu không nhờ ái khanh nhắc nhỡ, thì trẫm quên mất. Xem xét lại, trẫm chợt nghĩ ra nhiều điểm hoài nghi. Nghị Dương Công Vương Thế Tích chơi rất thân với Cao Cảnh, sau này Vương Thế Tích mưu phản, nhiều người nói Vương Thế Tích và Cao Cảnh đều bàn bạc với nhau chuyện làm phản. Trẫm nghĩ ông ta là người trung hiếu, chắc không dính dáng tới chuyện đó, vì thế chỉ xử Vương Thế Tích tội chết, mà không hề truy cứu sự việc của Cao Cảnh, ví như hôm nay thì rất đáng chú ý. Con trai ông ta là Biểu Nhân vốn là con rể của thái tử. Trẫm nhiều lần hỏi ông ta việc phế thái tử, ông ta trước sau vẫn muốn duy trì ngôi vị cho thái tử. Nói đi nói lại cũng vẫn luôn bảo vệ ý kiến của mình. Tâm tư của ông ta như vậy, chắc cũng vì chuyện xã tắc mà thôi. Giữa ông ta và thái tử cũng không thể không hiềm nghi việc thông đồng với nhau."
Độc Cô hoàng hậu nghe xong, lại bồi thêm một đòn: "Thánh thượng anh minh hiểu rõ mọi chuyện, thái tử đam mê nữ sắc, làm ảnh hưởng tới thể thống chư thần. Cũng chính vì chuyện này mà thần thiếp ngày đêm lo nghĩ, sợ rằng có thể xảy ra việc lớn trong tương lai. Cộng thêm vào đó là lão thần Cao Cảnh mưu sâu trí trọng, càng tạo ra họa lớn. Thánh thượng nhất thiết nên quả đoán thôi."
Tùy Văn Đế gật đầu đáp: "Trẫm sẽ lưu ý chuyện này."
Sáng hôm sau, Tùy Văn Đế cho lật lại vụ án của Vương Thế Tích. Người chấp hành nhiệm vụ đó rất hiểu dụng ý của hoàng thượng. Vì thế vài ngày sau Cao Cảnh bị cắt chức, phế làm thường dân.
Qua đó, chúng ta có thể hiểu rằng Độc Cô hoàng hậu giả vờ nhân từ quan tâm tới chuyện tái hôn cho Cao Cảnh, chẳng qua là muốn trải đệm lót để lấy cớ loại bỏ Cao Cảnh. Hiển nhiên, bà ta muốn đạt được tâm nguyện thì phải tĩnh tâm trải đệm, sắp đặt tấm đệm lót đó tất đạt được vấn đề then chốt. Trong thương nghiệp việc mở rộng thị trường tiêu thụ, những mặt hàng tốt và thực dụng cũng chưa phải là thứ mà người ta tranh giành nhau, kỳ thật những hàng mới ra, thường khó bán được ở các cửa hàng lớn. Nhưng nếu như trải được nền tảng tốt, tấm đệm êm thì tình hình sẽ đơn giản rất nhiều.
Con trai của Zutanlas là một thiếu nhi tàn tật, mỗi lần giúp con trai đi tiểu tiện, đại tiện, ông ta thường toát hết mồ hôi. vì thế ông vò đầu bứt tai nghĩ ra một công cụ giúp đỡ cho người tàn tật sử dụng thuận tiện. Sau hai năm suy
nghĩ thì phát minh của ông cũng thành công. Ước lượng trên thị trường có người cần, vì thế ông ta đưa ra sự chuyên lợi và bắt tay vào sản xuất. Sản phẩm vừa mới tung ra, không có một công ty hoặc một cửa hàng nào muốn tiếp nhận sản phẩm của ông cả, họ cho rằng đồ đi đại tiểu tiện đó trông rất khó coi và nếu đặt ở trong tủ kính thì không đẹp mắt chút nào. Qua một hồi lo lắng, Zutanlas nhận thấy rằng nếu ông ta cứ tự nhiên mang đi tiêu thụ như vậy thì quả là thiếu khuyết nền tảng cơ sở. Sau khi suy nghĩ, ông bắt đầu dụng kế.
Trong vòng hơn nửa tháng, ông ta suốt ngày chỉ đi gọi điện thoại cho từng nhà, kiên nhẫn đến các cửa hàng và hỏi: quý khách có mua đồ dùng đại tiểu tiện cho người tàn tật không?... Ông ta còn huy động bạn bè và họ hàng đi gọi điện hỏi giúp ông ta.
Sau nửa tháng, tất cả các cửa hàng ở Tôkyô đều đón nhận sản phẩm của ông ta. Do đó, sản phẩm được quần chúng hoan nghênh nhiệt liệt.
Chương 9
Tìm ra lợi ích chung
Tấn Vương Dương Quảng trong tâm tư vẫn muốn giành ngôi thái tử của anh trai mình là Dương Dũng. Nhờ những cố gắng từ nhiều mặt, Dương Quảng cuối cùng cũng giành được ân tình của vợ chồng Tùy Văn Đế, thanh trừ đại thần Cao Cảnh, người phản đối Tấn Vương làm thái tử. Khắp kinh thành loan truyền tin Tùy Văn Đế sẽ phế Dương Dũng, lập Dương Quảng lên thay. Nhưng phế lập thái tử là một việc lớn, nếu không tìm được một vị đại thần đức cao vọng trọng luôn luôn lúi giục Tùy Văn Đế hạ quyết tâm thì việc này có thể sẽ kéo dài mãi, thậm chí trở thành nỗi mừng hụt trong im lặng.
Dương Quảng mời Vũ Văn Thuật, một người túc trí đa mưu đến, nhiệt tình khoản đãi, tha thiết cầu mưu. Quan điểm của Vũ Văn Thuật hoàn toàn giống với Dương Quảng: "Hoàng thái tử Dương Dũng từ lâu không còn được Thánh thượng yêu mến, tin đồn phế thái tử cũ lập thái tử mới đã truyền đi khắp nơi. Điện hạ vốn có tiếng là người tài đức, thần dân đều khen ngợi. Nhưng chuyện phế lập quả thực không dễ nói. Nếu không thể sớm thành đại sự, để lâu khó tránh sinh biến. Muốn thực hiện kế này cần có một đại thần thân tín ra sức giúp đỡ mới có thể thành công" và nói tiếp: "Trong số các đại thần trong triều hiện nay, Dương Tố là người được Thánh thượng tin yêu nhất. Điện hạ có thể kết giao với Dương Tố không?"
Dương Quảng đương nhiên hiểu rõ tài năng và địa vị của việt Quốc Công Dương Tố. Nếu được Dương Tố trợ giúp, việc lớn không thể không thành. Nhưng trước đây, Tấn Vương và Dương Tố ít có sự đi lại, việc cơ mật, nguy hiểm như vậy, với sự tinh nhanh của mình, Dương Tố lẽ nào dễ dàng tham dự, dốc toàn lực vì chuyện này? Do đó, sau khi nghe Vũ Văn Thuật nói, Tấn Vương biết rằng ông ta nói rất có lý song nét mặt càng lo lắng đăm chiêu hỏi: "Dương Tố đương nhiên là người lý tưởng nhất nhưng ta và ông ấy không đi lại, hơn nữa sự việc cơ mật nguy hiểm, dù thế nào cũng không lợi dụng được."
Vũ Văn Thuật suy nghĩ rất lâu, cuối cùng nói: "Thần và em trai Dương Tố là Dương Ước thân nhau, thần bằng lòng đến kinh sư một chuyến, dùng kế khiến huynh đệ họ phải bán sức vì điện hạ." Dương Quảng vui mừng khôn xiết, lập tức đưa rất nhiều kim ngân vật báu cho Vũ Văn Thuật mang đến kinh đô.
Vũ Văn Thuật hiểu rõ Dương Ước tính tình hám lợi, ông ta và Dương Ước lại là bằng hữu nhiều năm, vì thế chỉ cần mang kim ngân trong người thì không sợ Dương Ước từ chối. Nhưng Vũ Văn Thuật lợi dụng Dương Ước không phải là mục đích mà là muốn mượn mồm của ông ta đi bảo Dương Tố, con người lắm mưu nhiều kế. Giữa hai anh em họ và Tấn Vương Dương
Quảng có cùng lợi ích lâu dài duy nhất, mà lợi ích lâu dài này chỉ có Dương Tố tích cực tham dự vào đại sự cơ mật giúp Tấn Vương đoạt ngôi thái tử mới tuyệt đối không thể sai sót.
Vũ Văn Thuật theo kế hoạch đã định, đi một mạch đến Trường An, tìm cách tặng cho Dương Ước toàn bộ số kim ngân cổ vật của Tấn Vương. Sau đó, nhân lúc rượu say men ngấm, thì thầm bên tai Dương Ước. Mấy ngày sau, Vũ Văn Thuật trở về hồi báo với Tấn Vương, việc lớn sắp thành, điện hạ sẽ được lên ngôi thái tử.
Hóa ra, sau khi nghe những lời thủ thỉ của Vũ Văn Thuật, sáng sớm hôm sau Dương Ước liền đi gặp Dương Tố. Dương Ước cố ý tỏ vẻ đăm chiêu lo lắng trước mặt anh, Dương Tố thấy vậy vội hỏi nguyên nhân.
Dương Ước trả lời một cách tư lự: "Đệ và huynh trưởng cùng nắm triều chính đã nhiều năm. Trong triều, không ít văn thần tướng bị chúng ta áp bức lăng nhục. Chỉ vì hoàng thượng vẫn sống khỏe mạnh, lại đặc biệt ân sủng chúng ta nên mới không bị mọi người nhất tề chống lại, tạm thời cũng không an lo nghĩ nhiều. Nhưng nay Đông cung thái tử Dương Dũng không phải người thân, chẳng phải bạn cũ của chúng ta, đối với những đòi hỏi của thái tử, huynh trưởng cũng vẫn làm theo lẽ công bằng. Đông cung dục vọng vô độ, từng bị huynh trưởng quở trách, vì thế khó bảo đảm rằng thái tử không thù hận huynh trưởng. Một khi Dương Dũng thừa kế ngai vàng, chắc sẽ tìm đến bạn cũ, thân có Vân Định Hình (cha của Vân Chiêu Huấn, ái cơ của Dương Dũng), quan liêu có Đường Lệnh Tắc. Huynh trưởng vừa có hiềm khích với thái tử, chính kiến lại chưa hẳn thống nhất với họ. Vì vậy huynh đệ chúng ta đã ở vào hoàn cảnh nguy hiểm giữ được buổi sớm không chắc giữ được buổi tối, làm sao không khiến đệ bồn chồn lo lắng?"
Dương Tố nghe xong bất giác kinh sợ thất sắc buột mồm hỏi: "Phải làm thế nào?". Dương Ước vờ trầm ngâm một lúc rồi nói rằng: "Hành động sớm e rằng còn kịp". Dương Tố vội hỏi hành sự như thế nào?
Dương Ước nói:”Nay hoàng thái tử Dương Dũng vừa bị hoàng hậu Độc Cô căm ghét vừa mất đi sự tin yêu của Thánh thượng. Trong lòng Tùy Văn Đế sớm đã có ý phế truất. Để thực hiện kế này, chi bằng huynh đệ ta đợi dịp xin lập Tấn Vương. Tấn Vương rất được lòng của thánh thượng và hoàng hậu, trở thành thái tử chỉ là chuyện sớm muộn mà thôi. Nếu được huynh trưởng nói tốt vài lời trước mặt hoàng đế thì tin đồn có liên quan đến chuyện phế lập thái tử sẽ lập tức trở thành sự thực. Đối với Tấn Vương mà nói đương nhiên là một niềm vui lớn. Còn với huynh đệ chúng ta vì lập công đúng lúc, Tấn Vương sẽ cảm kích không quên. Đây há chẳng phải lối thoát duy nhất tránh nguy tìm an, con đường mưu cầu phú quý lâu dài hay sao?"
Dương Tố nghe xong vô cùng hân hoan: "Những lời hiền đệ nói rất đúng. Ngu huynh nhất thời hoảng hốt, không nghĩ ra nước cờ này. Nay đệ đã có diệu kế như thế, ngu huynh cứ theo thế mà làm vậy."
Dương Ước lại nói. "Nay hoàng hậu nói gì, thánh thượng đều nghe theo. Huynh trưởng phải nắm cơ hội sớm câu kết với hoàng hậu. Hai người cùng cầm quyền nhất định có thể duy trì phú quý lâu dài. Nếu do dự lưỡng lự, một khi có biến, thái tử Dương Dũng chấp chính e rằng đại họa sắp giáng xuống đầu!" Dương Tố vuốt râu, trong đầu suy tính kỹ càng: "Tự nhiên".
Dương Tố lập tức tích cực hành động, trổ hết tài năng. Với sự giúp đỡ của hoàng hậu Độc Cô, không lâu sau đã thúc đẩy được Tùy Văn Đế hạ lệnh phế truất Dương Dũng, phong Tấn Vương Dương Quảng làm thái tử. Vũ Văn Thuật dùng kế quả thực rất tài tình. Trong nháy mắt, ông ta khiến huynh đệ Dương Tố đang ung dung đứng ngoài sự việc phải tham gia vào mưu kế của Tấn Vương, hơn nữa còn tình nguyện mạo hiểm tích cực hành động và chỉ một lần hành động đã làm cho sự việc có khả năng thất bại trở nên "liễu rũ nở hoa", mã đáo thành công. Tổng kết mấu chốt dùng kế của Vũ Văn Thuật, trên thực tế là khéo léo tìm ra lợi lâu dài chung giữa huynh đệ Dương Tố và Tấn Vương và để Dương Tố tự nhiên nhận thức được điều đó. Trong hoạt động kinh doanh trên thương trường từ xưa đến nay đều lấy doanh lợi làm mục đích, nhưng doanh lợi cần phải dựa vào sức mạnh của tập thể. Vậy thì làm thế nào để toàn bộ nhân viên của công ty tích cực nỗ lực lâu dài vì doanh nghiệp? Đương nhiên là có thể song cũng cần khéo léo tìm ra và khiến nhân viên tự xác nhận, sự phồn vinh của công ty chính là chỗ dựa duy nhất để nhân viên giành được những lợi ích lâu dài trong tương lai. Trong cuộc điều tra về uy tín doanh nghiệp của tạp chí “Happy”, UPS vinh dự đứng đầu trong bốn năm liền. UPS là công ty đóng gói liên hiệp. Mỗi ngày công ty có khoảng 47.000 chiếc xe chạy suốt ngày đêm đến các thành phố, thị trấn, vùng quê trên toàn nước Mỹ, chuyển đi hơn 900 vạn gói quà. UPS phục vụ cho khoảng 85 vạn công ty và nhà máy, hoạt động ở khắp 50 thành phố của Mỹ. Nghiệp vụ của công ty thậm chí mở rộng đến cả các nước như Canada, Séc, Phần Lan... Mức doanh thu hàng năm của UPS đạt 10 tỉ đô la, lãi ròng là 700 triệu đô la, là công ty vận chuyển có mức doanh thu cao nhất ở Mỹ.
Thành công của UPS là vì công ty có thể thu hút bồi dưỡng và giữ gìn nhân tài. Mỗi một nhân viên của UPS đều coi vận mệnh của công ty là vận mệnh của mình, luôn luôn cố gắng làm việc với tinh thần tích cực nỗ lực, cẩn thận chu đáo.
Tại sao trước thập kỷ 80, một công ty nhỏ khởi nghiệp bằng vận chuyển thư tín ở Seatle có thể làm được như vậy? Ở mức độ rất rộng, công ty dựa vào một tín điều giản dị, không màu mè do ông Somu kate người đặt nền móng cho công ty đề ra: "Người quản lý có công ty, người có quản lý công ty". Khoảng 1500 giám đốc và các nhân viên cao cấp khác đều có gần như toàn bộ cổ phiếu của công ty. Rất nhiều người lúc đầu chỉ là nhân viên bình thường, thậm chí là lái xe mà lúc nghỉ hưu cũng trở thành triệu phú. Thành
viên hội đồng quản trị của UPS đến mỗi quý hoặc khi nghỉ hưu phải bán hết cổ phiếu trong tay họ cho nhân viên của công ty. Tự mình phong bế tự nhiên như vậy khiến cho nhân viên quyết sách cao cấp của công ty có thể định ra chiến lược lâu dài của bản thân mà không cần lo lắng phải chịu ảnh hưởng của thị trường cổ phiếu phố Wall. Ngoài ra, các nhân viên cấp dưới chỉ cần tích cực, nỗ lực làm việc, sớm muộn cũng sẽ có nhiều cổ phiếu như ban giám đốc và được hưởng giàu sang mãi mãi nhờ mức doanh thu khổng lồ của công ty. Vì vậy, chỉ khi ông chủ cưỡng chế ra lệnh nghỉ hưu, họ mới có thể bị ép không cố gắng làm việc cho công ty.
Chương 10
Người sốt ruột, ta cứ bình chân như vại
Con trai thứ hai của Tùy Văn Đế là Dương Quảng cuối cùng cũng ngồi được vào ngôi vị thái tử nhờ sự trợ giúp tận tình của Dương Tố. Thế là anh ta bắt đầu mưu đồ sớm lên làm hoàng đế đồng thời ngày đêm tưởng nhớ hai tuyệt sắc giai nhân bên cạnh Tùy Văn Đế là Dung Hoa phu nhân và Tuyên Hoa phu nhân. Nhưng Dương Tố lại có dự định của riêng mình. Ông ta giúp Dương Quảng giành ngôi vị thái tử mục đích là đợi sau khi Dương Quảng kế thừa ngai vàng, mình sẽ được hưởng càng nhiều vinh hoa phú quý. Song hiện tại Dương Quảng đã làm thái tử, ngoài việc mưu cầu kế sách, quả thực thái tử chưa từng nghĩ phải báo đáp ông ta như thế nào. Tuy mọi người đều công nhận Dương Tố là đại công thần của Dương Quảng, nhưng nếu đến khi Dương Quảng làm hoàng đế trở mặt không nhận người thì Dương Tố cũng không biết phải làm thế nào. Dương Tố không thể trực tiếp nói với Dương Quảng sự hoài nghi lo lắng này, song cho dù thế nào ông ta vẫn muốn Dương Quảng thề thốt hứa hẹn trước khi lên làm hoàng đế, trong lúc còn phải dựa vào sự trợ giúp của ông ta, như thế mới yên tâm phần nào. Có thể thấy Dương Quảng càng tiến gần đến ngai vàng thì trong lòng Dương Tố trái lại càng lo lắng, nghĩ trăm phương ngàn kế, tìm cơ hội và sách lược để Dương Quảng chủ động cam kết.
Đối với bất kỳ một người nào, cơ hội nói chung luôn luôn có, chủ yếu là xem người nào có năng lực nắm cơ hội chính xác, quyết đoán hay không. Dương Tố bằng sự tinh nhanh của mình đã tìm ra cơ hội rất nhanh. Hóa ra, hoàng hậu Độc Cô, một người tràn đầy sự ghen tuông, quản thúc chồng như một khách làng chơi vừa qua đời. Tùy Văn Đế vừa thoát ra khỏi nhà tù "vợ quản lý", bắt đầu phóng túng, tận hưởng nét dịu dàng hiền thục của các giai nhân ở hậu cung. Tùy Văn Đế đặc biết sủng ái em gái của Trần Thúc Bảo là Tuyên Hoa phu nhân, một quốc sắc thiên tư và Dung Hoa phu nhân với sắc đẹp như tiên giáng trần, đứng đầu lục cung. Với hai mỹ nhân này, ông ta một bước cũng không rời. Thử nghĩ xem, Tùy Văn Đế ban ngày
phải giải quyết muôn ngàn việc hệ trọng, ban đêm đi lại giữa hai người đẹp một người già 60 tuổi làm sao có thể ăn quá no mà không bội thực? Càng ráng sức càng đổ bệnh nhanh chóng. Không lâu sau, Tùy Văn Đế chỉ còn da bọc xương, trong người mắc hàng trăm thứ bệnh, cuối cùng vì bị cảm phong hàn mà bức bách trong ngoài, nằm ốm liệt giường, có lẽ ông ta sắp gần đất xa trời.
Tùy Văn Đế tự biết mình lành ít dữ nhiều, nên hạ lệnh cho Dương Quảng vào điện Đại Bảo ở gần giường bệnh để thường xuyên phụng dưỡng và nghe lời dặn dò. Như vậy, Dương Quảng thấy Tùy Văn Đế ngày ngày hơi thở thoi thóp, càng vội vàng muốn làm hoàng đế, ngày ngày thấy Tuyên Hoa, Dung Hoa phu nhân như hoa như ngọc nũng nịu ỏn ẻn trước mặt Tùy Văn Đế càng ước ao có được ngay hai mỹ nhân.
Dương Tố gian tà xảo quyệt, cơ hội mà ông ta tìm thấy chính là tâm trạng hấp tấp, hành động cấp bách nóng vội của Dương Quảng. Để không lọt lưới Dương Quảng, ông ta bắt đầu mượn cơ hội dùng kế.
Dương Quảng nôn nóng lên ngôi cũng chính là nôn nóng các công việc chuẩn bị đăng cơ cần bàn bạc với Dương Tố. Dương Tố cố ý ít nói chuyện trực tiếp với Dương Quảng. Thái tử chỉ còn cách viết thư liên tục cho ông ta. Dương Tố cũng phúc đáp kịp thời. Có một hôm kế sách của Dương Tố đã thành công bước đầu. Thái tử có việc nên tạm thời dời điện Đại Bảo, nội thị đưa thư liền chuyển mật hàm cho Dương Tố viết cho thái tử đến tay Tùy Văn Đế. Tùy Văn Đế đương nhiên giận đến gai cả đầu óc, hổn hển thổ ra máu, suýt nữa hôn mê. Dương Tố biết rằng Dương Quảng lúc này nhất định nôn nóng đến nỗi muốn gọi mình là cha là mẹ nên ở phủ đợi thái tử đến.
Sự việc quả nhiên đúng như Dương Tố dự liệu nhưng bên trong còn có một chuyện xen vào khiến kế sách "làm địch nóng nảy" của ông ta tự nhiên mà thành.
Lúc đó, thái tử về đến điện, nghe tin Dương Tố từng gửi thư đến nhưng bị nội thị chuyển đến tay Tùy Văn Đế, bất giác cuống quýt vô cùng, vội vàng chạy đến buồng bệnh thăm dò tin tức, không ngờ gặp ngay Tuyên Hoa phu nhân đi ra thay quần áo. Tuyên Hoa phu nhân nói với thái tử, Tùy Văn Đế sau khi đọc thư vô cùng tức giận, bây giờ đã ngủ rồi. Dương Quảng nghe thấy Tùy Văn Đế đã ngủ, trong lòng lập tức thoải mái trở lại. Song thái tử từ lâu đã tưởng nhớ đến Tuyên Hoa, Dung Hoa, thấy Tuyên Hoa phu nhân đứng trước mặt, yểu điệu thướt tha, ánh mắt long lanh như nước hồ thu, giọng nói nũng nịu, dáng đi mềm mại, trong lòng lại nổi lên sự ham muốn. Đầu tiên là những lời lẽ trêu chọc, sau đó tự nhiên chọc ghẹo, muốn làm chuyện cường bạo. Tuyên Hoa phu nhân vội vàng vùng ra, chạy vút về buồng bệnh.
Dương Quảng vẫn đứng ngơ ngơ ngác ngác ở đó, sững sờ như mất thứ gì, bỗng nghe thấy Tuyên Hoa phu nhân nói nghẹn ngào "Thái tử vô lễ", sau đó
Tùy Văn Đế vỗ giường hét lên: "Súc sinh làm sao có thể gánh vác đại sự? Độc Cô (tức hoàng hậu quá cố), Độc Cô làm hỏng việc lớn của ta rồi!... Nếu không nhân lúc trẫm còn chút hơi thở phế bỏ tên súc sinh này, lập lại con trưởng Dương Dũng làm thái tử, hậu sự há có thể lường được chăng?"... Tiếp theo hạ lệnh cho nội thị đi triệu Lại bộ thượng thư kiêm Binh bộ thượng thư Liễu Thuật với Hoàng môn thị lang Nguyên Nham lập tức vào cung. Dương Quảng lúc này mới cảm thấy trời cao sắp sập, mình như trứng để đầu đẳng, sợ hãi lo lắng như ruồi không đầu, vội vàng tìm Dương Tố bàn bạc.
Thái tử nói: "Sự việc có biến, sắp sinh họa bất trắc rồi!"
Dương Tố bình tĩnh như thường: "Mọi việc đều đã ổn thỏa rồi, sao lại có biến? Chỉ đợi Thánh thượng quy tiên là điện hạ lên ngôi..." Thái tử thấy Dương Tố không có sự chuẩn bị gì, càng khẩn trương: "Bức mật thư ngài gửi cho tôi bị nội thị giao nhầm cho phụ hoàng rồi!" Dương Tố ngoài mặt tỏ vẻ khẩn trương nhưng trong lòng không hề nôn nóng: "Như thế thì hỏng rồi! Hỏng rồi! Làm sao cứu đây!” Thái tử thấy Dương Tố dường như đã bấn loạn, càng lo lắng hỏi: "Chuyện này vẫn chưa phải là nghiêm trọng, còn có một việc xấu nữa đã làm ầm ĩ cả lên rồi..."
Dương Tố sợ đùa với lửa sẽ mang họa, dùng kế không thành trái lại bị nó làm hại vội vã thúc giục: "Còn chuyện gì nữa?”
Thái tử đỏ mặt trả lời: "Cũng vì ta nhất thời không kiềm chế, không nên dùng lời lẽ trêu ghẹo Tuyên Hoa phu nhân, nay phụ hoàng đã biết. Hiện tại phụ hoàng đang trực tiếp căn dặn Liễu Thuật, Nguyên Nham phải phế ta lập Dương Dũng!" “Đại sự hỏng rồi!". Dương Tố cũng không ngờ sự việc sẽ tiến triển như vậy, lập tức tìm cách giải quyết. "Vậy thì cần nhanh chóng..."
Dương Tố đang định nói ra mưu kế, nhưng sau lại không buột miệng nói ra nữa. Ông ta tự nhủ, thái tử nôn nóng nhưng ông ta thì không được phép nôn nóng. Lúc này mà nóng vội thì âm mưu của ông ta khác nào xôi hỏng bỏng không.
Thái tử sốt ruột đến nỗi cứ đi đi lại lại trong phòng, Dương Tố chỉ thở dài, im lặng hồi lâu, không lắc đầu mà chỉ dậm dậm chân. Dương Quảng thấy Dương Tố như vậy thì tâm thần bất an, vô cùng lo lắng.
Dương Tố thấy Dương Quảng chưa hiểu dụng ý của mình, lại lo sợ tình hình đang thật sự nguy cấp, liền nhanh chóng hành động. Ông ta cố ý như bật ra một câu: "Cách thì có một cách đấy". Dương Quảng vui mừng quá đỗi, nóng ruột đến không thể chờ thêm được nữa. Bỗng Dương Tố lại lắc đầu nói: “Không dùng được, không dùng được. Phải nghĩ cách khác thôi , Dương Quảng thấy Dương Tố ấp a ấp úng, sốt ruột không chịu được nữa: "Rốt cuộc thì là cách gì, bất luận dùng được hay không dùng được, cứ thử nói ta nghe trước đã, còn tiện bàn bạc". Dương Tố cố ý nhíu lông mày, thong thả nói một cách nhát gừng: "Sự việc đã đến nước này, càng phải thận trọng nghĩ ra
biện pháp tốt hơn, chỉ e không làm được mà thôi! Ngoài cách này ra, thần không có cách thứ hai nữa rồi... Chỉ có điều, thần làm sao có thể nói ra đây?" Dương Quảng thấy Dương Tố nói vòng vo, vẫn chưa nói ra nguyên cớ. Đang vô cùng rối trí, nào có suy nghĩ được nhiều, vội vàng sụp xuống rồi quỳ trước mặt Dương Tố: "Ông mà nghĩ ra kế giúp ta ngay bây giờ thì dù cho có thế nào, sau này quyết không phụ công, dám thề với trời sẽ không bao giờ quên!"
Dương Tố thấy mưu kế đã thành, đỡ Dương Quảng dậy, lập tức thực hiện diệu kế "không dùng được kia: một mặt sai kẻ hầu Trương Hoành Tốc tới bên giường bệnh để chăm sóc cho cái mạng già của Tùy Văn Đế về tới Tây Thiên; mặt khác sai hộ vệ Vũ Văn Thuật dẫn đội thị vệ Đông Cung mang thánh chỉ giả: "Liễu Thuật, Nguyên Nham có ý đồ làm phản, mưu hại Đông cung, lệnh cho hộ vệ Vũ Văn Thuật tới bắt giải vào nhà lao..." Rồi bắt được Liễu Thuật và Nguyên Nham khi đó đang soạn chiếu thư phế lập, đồng thời ra lệnh chuẩn bị tốt cho mọi mặt về quân sự.
Không lâu sau, tất cả mọi sự đều nằm trong sự thâu tóm của Dương Tố và thái tử đã được thực hiện một cách nhanh chóng gọn lẹ. Dương Quảng đăng cơ một cách thuận lợi, lại ve vãn được thê thiếp của cha. Dương Tố nắm được quyền hạn lớn trong triều, cuối cùng đã thỏa ý nguyện.
Việc giao dịch buôn bán đôi khi cũng có điểm tương đồng so với sự đấu đá chốn quan trường, nếu có thể làm cho đối phương rơi vào tình thế cấp bách, lo lắng tột độ, ta chỉ cần lặng im chờ đợi tất sẽ giành thắng lợi. Một người nọ muốn bán nhà, đăng quảng cáo với giá đưa ra là 5000 đồng. Không ít người đã đến hỏi han, nhưng chỉ có một người mua đồng ý với giá trên và còn trả trước 50 đồng tiền đặt cọc. Bên bán vô cùng hài lòng, còn dán cả thông báo rằng nhà đã bán để từ chối những người khác, chỉ chờ nhận nốt 4950 đồng còn lại để đi mua cá giống. Ai ngờ mùa mua cá giống đã sắp bị lỡ mất mà người mua đã trả trước 50 đồng kia vẫn ì ra chưa chịu giải quyết nốt cho xong, người bán sốt ruột đứng ngồi không yên. Phái khó khăn lắm người mua kia mới chịu đến, lại một mực nói xin lỗi, lúc đó anh ta chưa nắm rõ tình hình đã vội trả tiền cọc, nay có người bạn mách mối, anh ta chỉ cần trả 4500 đồng là có thể mua được một căn nhà tốt hơn, 50 đồng tiền cọc bên này cũng không còn mặt mũi nào đến xin lại nữa. Bên bán vừa nghe thấy thế thì kêu lớn rằng bị mắc lừa. Nhưng việc đã tới nước đó, phải gấp rút tìm cách tập trung tiền mua cá giếng, đành ngậm đắng nuốt cay mời khách mua cho với giá 4200 đồng. Bên mua tỏ vẻ vô cùng thông cảm, vui vẻ hứa hôm sau đến trả tiền đúng hẹn. Hôm sau bên mua đã y hẹn mà đến, nhưng vừa bước tới cửa đã lại lớn tiếng xin lỗi: anh ta là một kẻ sợ vợ, vợ anh ta nhất định không chịu để anh ta dùng số tiền đó để mua căn nhà này, anh ta đã phải dùng hết mọi cách mới lấy được 3500 đồng từ túi của vợ. Nếu chủ nhà bằng lòng, anh ta sẽ cắn răng góp thêm cả số tiền riêng chỉ có 98 đồng để thanh
toán vụ mua bán này với giá 3598 đồng. Chủ nhà không còn cách nào khác, chép miệng, nhà đã bán xong. Kẻ mua lại thoải mái tiết kiệm được gần 1500 đồng một cách dễ dàng.
Dương Tố trong đầu có kế nhưng miệng không nói ra, năm lần bảy lượt làm cho Dương Quảng nôn nóng. Người mua nhà lại dùng biện pháp vờ trả giá tiền được đưa ra lúc đầu, cắt cầu đối với những người muốn mua nhà khác, sau đó lại cố ý kéo dài thời gian, khiến bên bán đã sốt ruột càng thêm sốt ruột.
Hai cách làm cho người khác nôn nóng của hai người này là khác nhau, nhưng trong ưu điểm của kế "Người vội ta không vội” thì lại như cùng một khuôn đúc mà ra, không hề có sự khác biệt.
Chương 11
Gióng trống dọa địch, tung tin giả giải vây
Mùa thu năm Đại Nghiệp thứ 11 đời Tùy Dạng Đế (năm 615 sau Công nguyên), Tùy Dạng Đế Dương Quảng từ Phần Dương đi thưởng ngoạn về phía bắc Trường Thành, tiện đường đi tuần về phương Bắc. Vừa ra khỏi Trường Thành, bỗng có một sứ giả bí mật người tộc Đột Quyết tới đưa thư, người này do công chúa Nghĩa Thành là cháu gái đã được gả cho một người Đột Quyết cử đến. Tùy Dạng Đế mở thư ra xem, liếc mắt qua từng dòng rồi giật mình sợ hãi: "Nguy rồi! Nguy rồi! Thủy Tất Khả hãn sắp tấn công ta rồi!" Đoạn, giữ sứ giả ở lại rồi lệnh cho tùy tùng lập tức quay ngựa chạy vào Nhạn Môn Quan.
Vốn sau khi Khả hãn Khả Dân chết đi, triều đình nhà Tùy căn cứ vào biểu chương của người Đột Quyết đã đồng ý cho con trưởng của Khả hãn Khả Dân là Đốt Cát Thế thừa kế hãn vị, lại ban cho hiệu là Thủy Tất Khả hãn, theo phong tục mà đưa công chúa Nghĩa Thành (vốn được triều Tùy gả cho Khả hãn Khởi Dân làm vợ) lên làm Khả đôn (hoàng hậu). Quan hệ giữa Tùy và Đột Quyết càng trở nên mật thiết. Nhưng vì Khả hãn Thủy Tất ham muốn xâm lược, lại có trọng thần Sử Thục Hồ túc trí đa mưu giúp Thủy Tất sắp xếp mọi chuyện, chiêu binh mãi mã, bộ lạc ngày càng trở nên cường thịnh. Tùy Hoàng môn thị lang Bùi Cử lo ngại bộ lạc Đột Quyết quá mạnh sẽ trở thành hậu họa nên được sự đồng ý của Dạng Đế đã phong em trai của Khá hãn Thủy Tất là Đốt Cát Thiết lên làm Khả hãn ở phía nam, nhằm chia giảm thế lực của Đột Quyết. Đốt Cát Thiết bản tính nhu nhược, không dám thụ phong, âm mưu của nhà Tùy bị thất bại, nhưng Khả hãn Thủy Tất đã biết được nhà Tùy giở trò thị phi nên trong bụng lấy làm bất mãn. Không ngờ rằng Bùi Cử sau khi thấy mưu kế đầu tiên bị thất bại lại có thể hèn hạ giết luôn mưu thần yêu quý Sử Thục Hồ của Khá hãn Thủy Tất, khiến Khả hãn Thủy Tất quyết tâm báo thù.
Trong khi nhà Tùy không hề mảy may nghi ngờ thì Thủy Tất tìm kiếm cơ hội để ra tay tàn ác. ông ta không ngừng phái do thám bí mật xâm nhập biên giới và quan sát động tĩnh. Tùy Dạng Đế khinh suất quyết định đi tuần Bắc, tức thì do thám báo tin cho Khả hãn Thủy Tất, thế là người Đột Quyết dốc tâm hành động, thề sẽ vây giết Dạng Đế cùng mấy người tùy tùng ở phía Bắc Trường Thành.
May thay Nghĩa Thành công chúa lại là cháu gái của vua Tùy, khi đó đã sai sứ giả ngày đêm gấp rút tới báo tin cho Tùy Dạng Đế. Nhưng vì đã chậm mất một bước, Tùy Dạng Đế vội vàng quay ngựa, hướng về Trường Thành, bế thủ Nhạn Môn Quan, chỉ nghe tiếng phát hiệu, tiếng người và ngựa lẫn trong tiếng còi hú, đại quân Đột Quyết đang rầm rập kéo tới.
Dạng Đế dẫn đầu một tốp người trèo lên Trường Thành quan sát phía bắc, thấy từ xa một dải màu đen kịt, đầy khắp núi đồi toàn quân Hồ, khí thế vô cùng. Đi trên cùng là đội cung thủ với những bộ cung tên lớn, lúc gần tới cổng thành, với bản năng ngang ngược vốn có, kẻ nào kẻ nấy đều giương cung nạp tên bắn như mưa lên phía trên cổng thành. Bỗng một mũi tên lao thẳng về phía Dạng Đế, chỉ lệch cao hơn một chút và đâm xuyên qua vương miện. Dạng Đế sợ mất hồn mất vía không dám đứng trên cổng thành lâu hơn.
Lúc này có vị tướng sĩ tới chờ chỉ, báo rằng binh mã của Thủy Tất có khoảng 10 vạn tốp, nếu mở cổng thành quyết chiến thì một là ít sẽ không địch nổi nhiều, hai là nhuệ khí quân Hồ đang hăng, nhất định sẽ thất bại, không bằng cứ trấn giữ quan ải thì hơn, bình tĩnh chờ đợi kẻ cần vương tới giải cứu. Dạng Đế buộc phải nhắm mắt nghe theo. Quân Thủy Tất thế mạnh người đông như thế, lại sẵn sàng liều chết xông lên, Nhạn Môn Quan quả là vô cùng nguy khốn. Dạng Đế truyền dụ rằng: "Thủy Tất là kẻ phụ ơn, vô cớ tấn công, người nào có thể giải nguy được, trẫm nhất định trọng thưởng. Nếu người đó đang làm quan thì nhân cơ hội này sẽ được thăng chức, người chưa được làm quan thì sau khi tai qua nạn khỏi sẽ phong cho chức quan lục phẩm!". Ai nấy nghe xong đều rất vui vẻ sĩ khí đột nhiên được khuấy động, tinh thần hưng phấn hẳn lên, sẵn sàng dốc sức chiến đấu giữ cổng thành.
Nhưng Dạng Đế thừa biết trận đấu này thắng bại thế nào cần dựa vào thực lực, mà hiện giờ lực lượng quân trong thành với ngoài thành quá ư chênh lệnh, tình hình vô cùng bất lợi cho mình. Vì thế ông ta lập tức xuống chiếu chiêu binh toàn quốc gấp rút ra phò vua.
Lúc này, Lý Thế Dân - chính là Đường Thái Tông sau này - đang ở chỗ Đồn Vệ tướng quân Vân Định Hưng đã ra ứng mộ tòng quân, người này tuổi mới 16 nhưng trí dũng hơn người. Cậu ta hiến kế cho Vân Định Hưng rằng: "Thủy Tất bỗng nhiên cử đại quân bao vây Thiên tử là vì ông ta suy đoán rằng quân chi viện nhà Tùy không thể nào lập tức tham trận ứng chiến được trong tình hình gấp rút này. Mà hiện tại thì binh sĩ trong thành quân số ít, lại
chưa qua huấn luyện nên đều không có cách nào ra chiến đấu được. Căn cứ tình hình như vậy chúng ta chỉ có thể sử dụng biện pháp khuếch trương thanh thế để đối phó. Thứ nhất, lúc ban ngày thì sai người phất cờ ở khắp mọi nơi sao cho từ khoảng một chục dặm trở lại đây đều nhìn thấy cờ bay phấp phới. Ban đêm đánh trống trận thật lớn, phải cố gắng hết sức sao cho tiếng trống từ bốn phương truyền về đây rồi lại từ đây truyền ra xung quanh. Nếu làm như vậy Thủy Tất ắt sẽ nghi ngờ rằng cứu binh của chúng ta đang cuồn cuộn kéo tới, khi đó cho dù chúng không cắm đầu bỏ chạy thì cũng sẽ quyết không dám hung hăng tiến công như bây giờ nữa, ít nhất thì chúng ta cũng tranh thủ được khoảng thời gian dài để chờ quân chi viện. Thứ hai, lập tức cho sứ giả bí mật đi gặp Nghĩa Thành công chúa, mượn danh nghĩa công chúa để vờ báo tin cho Thủy Tất rằng ở nha trướng gặp nguy cấp. Cứ như vậy thì thế nào Thủy Tất cũng sẽ phải lui binh".
Tùy Dạng Đế chấp nhận lời thỉnh tấu của Vân Định Hưng và lệnh cứ y kế sách của Lý Thế Dân mà làm. Khả hãn Thủy Tất ban ngày thấy cờ Dạng giương lên khắp chốn, nhìn xa hàng chục dặm chưa hết, ban đêm thì nghe tiếng trống trận dồn dập từ bốn phía, quả nhiên rất đỗi nghi ngờ không dám đánh Nhạn Môn Quan nữa mà trái lại còn nghĩ cách làm thế nào để lui binh. Chẳng lâu sau, Thủy Tất lại nhận được thư khẩn của công chúa Nghĩa thành báo tin phía bắc có chuyện, e rằng sẽ mất nha trướng liền tức tốc cho quân quay về. Thủy Tất không có cách nào để tiến quân, hậu phương lại gặp nguy cấp, đành chán nản quay về. Dạng Đế bèn cho quân truy đuổi, bắt được hàng ngàn lính Đột Quyết.
Như vậy, Lý Thế Dân bằng cách gióng tiếng trống trận khiến kẻ địch đang mạnh phải lui quân, biết lợi dụng tin giả, trong nháy mắt đã giải cứu được Nhạn Môn Quan. ờ đây Lý Thế Dân đã dùng kế "lừa dọa hổ", thông qua việc khuếch trương lực lượng để làm mạnh quân mình và làm giảm ý chí chiến đấu của địch, từ đó có thể biến nguy thành an. Thực lực vô cùng yếu nhưng bên ngoài lại tỏ ra rất mạnh để làm cho quân thù sợ hãi, đây chính là biện pháp lấy yếu chống mạnh - một cách tốt nhất để giải cứu trong tình huống nguy cấp được ứng dụng rất nhiều trong chiến đấu quân sự. Trong cạnh tranh thương mại, đặc biệt là trong đàm phán, lấy yếu chống mạnh cũng là tình thế thường gặp. Vì thế, biện pháp khuếch trương thanh thế “gióng trống dọa địch, tung tin giả giải vây" cũng thường được những người hiểu biết áp dụng trên thương trường.
Tại một tỉnh nọ của nước Trung Quốc, một doanh nghiệp nhỏ đã tiến hành đàm phán mua bán với một đối tác của mình về việc nhập khẩu nguyên liệu sản xuất. Bên đối tác đã sử dụng thế mạnh rằng doanh nghiệp này sẽ không thể hoạt động sản xuất nếu không có nguyên liệu của họ để định ăn chặn một khoản tiền lớn, may mà họ vẫn chưa biết rằng số nguyên liệu dự trữ của doanh nghiệp này chỉ đủ để duy trì hoạt động sản xuất trong vòng nửa tháng,
thực tế là sắp phải ngừng sản xuất đến nơi. Ở vào hoàn cảnh như vậy, người đại diện tham gia đàm phán của doanh nghiệp này đã luôn giữ thái độ chân thành hợp tác và đồng ý ký kết với mức giá cao hơn. Nhưng hai bên vừa mới gặp mặt thì bên đối phương đã tỏ thái độ rất ngạo mạn, lời nói và hành động đều tỏ ra họ đang là kẻ ngồi trên cao nhìn xuống, họ đã gây nhiều khó dễ, thậm chí đôi khi còn gây mất tình cảm đối với doanh nghiệp này.
Đứng trước tình thế khó khăn với thái độ đàm phán vô cùng thiếu thiện chí ấy, vị đại diện của doanh nghiệp đã phải rất nhẫn nhịn vì lo cho tình trạng khó khăn của doanh nghiệp mình. Trái lại, đối phương thấy vậy lại cho rằng chắc chắn họ sẽ thắng nên càng đắc ý, được đằng chân lân đằng đầu. Người đại diện này không thể chịu đựng được hơn đã đành phải dùng kế "Gióng trống dọa địch" để chuyển không thành có.
Trong lần đàm phán tiếp theo, người đại diện đó đột nhiên thay đổi thái độ mà chỉ trích đối phương một cách gay gắt: “Các ông nếu như đã không có thành ý thì chúng ta giải tán ở đây luôn! Về cơ bản thì mặt hàng của các ông cũng không có nhiều mối để tiêu thụ trên thị trường quốc tế. Lượng dự trữ của nhà máy chúng tôi còn đủ để duy trì sản xuất bình thường trong hơn một năm nữa, mà chúng tôi cũng đã quyết định năm sau sẽ chuyển hướng sản xuất, không bao giờ quan hệ với phía các ông nữa! Các ông hãy nghĩ kỹ đi!". Thái độ cực kỳ gay gắt của người đại diện này là vô cùng ít thấy trong giao lưu kinh tế đối phương đã bị bất ngờ đến bủn rủn cả chân tay, mặt mày tái mét.
Vì lợi ích đại cục, đối phương sau khi bị rơi vào tình huống bị đe dọa thất bại đã phải trở lại với thái độ hòa nhã. Cuộc đàm phán cuối cùng đã tiến triển theo quỹ đạo thông thường với tinh thần hợp tác hữu nghị. Hai bên cùng thẳng thắn trao đổi ý kiến khiến cuộc đàm phán đã kết thúc thành công. Doanh nghiệp nọ đã vượt qua được tình huống gay go nhất mà vẫn chỉ phải ký kết với mức giá như thường lệ.
Phần II - Chương 12
Cười Cợt Mà Khói Lửa Mù Trời
Nắm rõ tình hình chờ cơ hội khởi binh
Những năm cuối của sự nghiệp nhà Tùy, các cuộc khởi nghĩa của nông dân và cuộc đảo chính của quan lại nổi lên như vũ bão, trên toàn quốc có hơn một trăm đạo quân vũ trang muốn tiêu diệt nhà Tùy. Năm 617, tháng 7, cha con Lý Uyên và Lý Thế Dân chớp thời cơ khởi binh ở Thái Nguyên. Tháng 8, đánh bại Tùy tướng là Tống Lão Sinh ở Hoắc Ấp, tháng 9, vượt sông Hoàng Hà và giành được Đồng Quan; tháng 10, tấn công vào kinh đô nhà Tùy. Lúc đó, để che mắt thiên hạ, cha con họ Lý lập người nhà Tùy là Đại
vương Dương Hưu lên làm vua. Tháng 3 năm 618, Tùy Dạng Đế đi tuần ở Giang Đô không về kịp kinh đô và bị giết trong cuộc binh biến, đến tháng 5, thì Lý Uyên ép Dương Hưu nhường ngôi vị và chính thức giương cờ hiệu của Đại Đường.
Tháng 11 năm 618, dẹp yên Tiết Nhân Cảo, bình định Long Hữu; năm 620, đánh bại Tống Kim Cương, Lưu Vũ Chu, bình định Sơn Tây và đánh bại Thiểm Tiên, bình định Giang Nam, năm 621, đánh bại Vương Thế Sung, Đậu Kiến Đức, bình định Hà Nam Hồ Bắc; năm 624, đánh bại Từ Viên Lang... rồi thống nhất toàn đất nước, xã hội bắt đầu đi vào một trật tự ổn định.
Bị kẹp giữa vô số khối tập đoàn vũ trang nhưng cha con Lý Uyên dễ dàng như người đầu bếp giỏi thái thịt đã kiến lập nhà Đường trong khoảng thời gian tính theo tháng, chỉ trong vài năm đã dẹp yên toàn quốc thật đáng gọi là cha con Lý Uyên dùng kế quả rất diệu kỳ
* * *
Vào giai đoạn cuối của thời kỳ nắm quyền, Tùy Dạng Đế Dương Quảng luôn luôn nghi ngờ có người muốn mưu phản để đoạt mất ngôi vị của mình. Chỉ vì tin vào những điều thấy trong giấc mơ và lời sấm mà ông ta luôn nghi ngờ đề phòng đối với những người họ Lý, đặc biệt là những người họ Lý mà tên khi viết ra lại có ba dấu chấm thủy, thậm chí còn "giết nhầm hơn bỏ sót", đã giết sạch cả nhà quan đại thần Lý Hồn vì một lý do không rõ ràng. Khi đó, Lý Uyên - một vị quan trong triều biết mình đã phạm vào điều kiêng kỵ của Dương Quảng nên một mặt dùng tiền mua chuộc người khác nói tốt về mình trước mặt vua, mặt khác giả bộ khờ khạo, tỏ vẻ mình là một kẻ ngu trung.
Năm Đại Nghiệp thứ 12 (năm 616), Dạng Đế ban chiếu lệnh cho Lý Uyên đi trấn giữ vùng Thái Nguyên, đồng thời sai võ sĩ Vương Uy và Cao Quân Nhã đi cùng để giúp việc nhưng thực chất là để theo dõi đề phòng Lý Uyên làm phản.
Thái Nguyên bấy giờ là cả một trọng trách quân sự của toàn bộ quốc gia vì nơi đây cất giữ một số lượng lớn vải vóc và lương thực có thể đủ dùng trong 10 năm. Lý Uyên sớm có dã tâm cướp ngôi nên rất đỗi vui mừng khi được giao trọng trách đối với Thái Nguyên. Lúc này, con trai thứ của Lý Uyên là Lý Thế Dân cùng với các mưu thần của ông ta đều khuyên rằng phải nhanh chóng hành động để khỏi lỡ mất cơ hội tốt. Lý Uyên vẫn trấn tĩnh không hề manh động, thậm chí còn lớn tiếng dọa sẽ bắt Lý Thế Dân đi báo quan vì tội nói năng "phản động”.
Lý Uyên là một chính trị gia lão luyện, mặc dù ông ta vẫn tỏ ra bình tĩnh như không nhưng thực chất trong lòng đã suy đi tính lại từ lâu. Ông ta hiểu rằng nếu khởi binh khi thời cơ chưa chín muồi thì chỉ có thể tìm tới con đường
chết. Cách đây không lâu, cuộc khởi binh phản Tùy với qui mô lớn của các nhà quý tộc do Dương Huyền Cảm đứng đầu mặc dù gây tiếng vang lớn và có mười mấy vạn người tham gia nhưng cũng chẳng được mấy ngày đã bị đàn áp một cách thảm khốc. Các cuộc khởi nghĩa của quan lại, cường hào ở địa phương diễn ra không ít, nhưng do lực lượng không tập trung thống nhất nên cũng không đem lại kết quả gì. Quân khởi nghĩa là nông dân cũng nhiều nhưng hầu như chỉ mang tính "vào nhà cướp của", chiếm núi xưng vương chứ chưa đoàn kết lại với nhau.
Lý Uyên nhận thấy rằng lực lượng phản đối vương triều nhà Tùy vẫn chưa đủ lớn mạnh. Vậy còn sức trấn áp của triều đình thì thế nào? Nhà Tùy vừa mới trải qua hai cuộc đông chinh lớn, tổn thất vô cùng nặng nề, lực lượng bị suy giảm, lòng dân phẫn nộ. Tuy nhiên cơ chế thống trị của triều đình vẫn chưa hoàn toàn bị suy yếu, nhất là lực lượng vũ trang lớn mạnh về cơ bản vẫn được bảo toàn nguyên vẹn. Lực lượng quân đội của Tùy Dạng Đế thật sự vô cùng lớn, trong cuộc đông chinh lần thứ nhất có thể điều động hơn 113 vạn quân thì lần này ông ta muốn huy động đội quân khoảng 70-80 vạn người đâu có khó gì. Vậy thì tại sao nhà vua vẫn có thể ung dung trong khi có vô số quân phán loạn như thế? Lý Uyên trong lòng đã từng nghi hoặc như vậy, nhưng rồi ông ta cũng tìm ra ngay lý do: Xung quanh Tùy Dạng Đế là một đám nịnh hần lúc nào cũng báo chuyện tốt đẹp mà không bẩm tấu chuyện không hay. Mà bản thân Dương Quảng cũng là một hôn quân ưa nịnh không thích nghe tin xấu.
Nếu vậy thì liệu bây giờ khởi binh thì lẽ nào nhà vua cũng sẽ không hề hay biết? Không thể có chuyện đó. Lý Uyên thừa biết, các cuộc khởi nghĩa của quý tộc, cường hào địa phương lúc bấy giờ hầu hết là do những người có địa vị không cao lãnh đạo nên ảnh hưởng không lớn. Chuyện Lý Uyên khởi quân thì lại khác, gia thế nhà ông ta lớn, tiếng tăm lẫy lừng, trong tay nắm giữ đại quân, lại giữ trọng trách đối với Thái Nguyên thì làm gì có tên nịnh thần nào dám giấu giếm cuộc binh biến động trời này? Tùy Dạng Đế làm sao có thể để quân đội nhàn rỗi mà không truy dẹp đến cùng? Lý Uyên không dám đi lại vết xe đổ của Dương Huyền Cảm.
Mọi tình hình đều cho thấy nếu khởi binh quá sớm thì khả năng thành công cực kỳ nhỏ , đồng thời khả năng lặp lại thất bại của Dương Huyền Cảm cực kỳ lớn. Lý Uyên đời nào dám mạo hiểm như vậy! Vì vậy, mặc dù bên trong đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ lâu nhưng vẻ ngoài Lý Uyên vẫn giả bộ như một kẻ trung thần.
Thế nhưng đến tháng 5 năm Đại Nghiệp thứ 13 (năm 617), bỗng nhiên Lý Uyên đã đồng ý theo yêu cầu của Lý Thế Dân mà ngấm ngầm sát hại mật thám của Tùy Dạng Đế là Vương Uy và Cao Quân Nhã, ngay lập tức quảng chiêu binh mã, dốc sức chinh chiến đánh dẹp và đã liên tiếp hạ được Tây Hà, Hoắc ấp, Lâm Phần, Giáng Quận, Long Môn..., khi đó mới là đầu tháng 11.
Rồi Trường An chẳng mấy chốc cũng bị hạ, chỉ trong vài năm toàn đất nước đã được dẹp yên, cơ nghiệp trăm năm của nhà Đường đã được đặt định. Lý do gì khiến Lý Uyên lựa chọn thời điểm này để hành động? Trước đây ông ta đã suy nghĩ rằng nếu khởi binh sớm sẽ không được, nhưng đồng thời ông ta cũng hiểu rằng: khởi binh muộn cũng sẽ không thành công. Tháng 7 năm 616, Tùy Dạng Đế tự cảm thấy thiên hạ đang thái bình nên lại muốn đi tuần ở Giang Đô, toàn bộ đoàn tùy tùng gồm văn võ bá quan và quân lính có đến 20-30 vạn người. Như vậy số lượng quân Tùy ở những nơi chủ chốt như Quan Trung, Trung Nguyên, Hồ Bắc... đã bị giảm đi rất nhiều. Đây là một cơ hội vô cùng thuận lợi cho quân khởi nghĩa ở khắp mọi nơi. Mấy trăm người tham gia khởi nghĩa dần dần hội tụ lại và phân thành ba cánh quân hùng mạnh: Quân Ngõa Cương do Địch Nhượng và Lý Mật lãnh đạo, nghĩa quân Hà Bắc do Đậu Kiến Đức đứng đầu và nghĩa quân Giang Hoài của Phụ Công Hựu. Thế là quân Tùy bị cô lập thành ba nơi riêng biệt, không thể liên lạc với bên ngoài và cũng không thể tự bảo vệ được. Do lực lượng quân khởi nghĩa quá mạnh nên Tùy Dạng Đế không muốn và cũng không thể quay trở về Trường An. Thế có nghĩa là bộ máy thống trị của vương triều nhà Tùy trên thực tế đã hoàn toàn sụp đổ. Trước sức mạnh của ba cánh quân khởi nghĩa với hàng chục vạn nghĩa binh, lại thêm một số các nghĩa quân vừa và nhỏ khác, quân của triều đình đành bó tay bất lực, vương triều Tùy bị diệt vong chỉ còn là vấn đề thời gian.
Nếu như chưa khởi binh thì rõ ràng bị muộn, Lý Uyên thầm nghĩ, mấy cánh quân tất sẽ mạnh dần lên theo thời gian, nếu không tranh thủ thời cơ tốt này mà phát triển lực lượng quân mình thì tương lai sẽ không đủ tư cách thống trị thiên hạ, hoặc dù cho có thể xưng bá một phương thì cục diện thay đổi không nhiều. Chưa kể ngoài thành Phổ Dương đâu đâu cũng là chiến trường, các nghĩa quân ở khắp nơi đều nhằm mục tiêu vào các quan lại của triều đình trước, nếu đến giờ mà vẫn chưa khởi binh thì đường đường một viên quan trấn giữ tinh Thái Nguyên rồi cũng sẽ chỉ là vật hi sinh vô nghĩa của triều đình nhà Tùy mà thôi.
Phải thật bình tĩnh chờ cơ hội chín muồi, đã hành động thì phải thật nhanh chóng. Nếu không nhanh sẽ vuột mất thời cơ. Lý Uyên biết im lặng khi cần phải im lặng, khi ra tay cần dốc toàn lực, thật là một người biết tranh thủ thời cơ, biết nắm bắt cơ hội. Nắm rõ tình hình chờ cơ hội khởi binh là một biện pháp linh hoạt nhất trong quân sự. Kinh doanh thương mại trên thực tế cũng vậy, hành động sớm hay muộn thì đều có thể dẫn đến nguy cơ thua lỗ sập tiệm, vì thế cũng cần phải nắm rõ tình hình chờ thời cơ đến mới được hành động.
Khi chiến tranh Nam Bắc ở nước Mỹ sắp kết thúc thì giá thịt lợn cũng lên cao đến cực điểm. Ông Philip Amore người sáng lập của công ty Amore biết rằng có một cơ hội kiếm lời lớn sắp đến, một khi chiến tranh đã kết thúc thì
giá thịt lợn sẽ lập tức trượt dốc từ đỉnh điểm cao nhất xuống thấp nhất mà giá cả có biến động lớn thì đương nhiên sẽ là cơ hội tốt cho các thương nhân kiếm tiền. Nhưng khi nào sẽ ra tay? Quá sớm hay quá muộn thì chẳng những mất công toi mà có thể mất mạng sống như không.
Ông ta không động tĩnh gì, chỉ chăm chú theo dõi diễn biến cuộc chiến sự, chờ đợi thời cơ đến.
“Cục diện Nam quân thất bại đã định", Amore đã phán đoán chắc chắn như vậy sau khi đọc các bản tin mới nhất trên báo chí. Nhưng ông ta không biết cụ thể cánh quân phía Nam sẽ cầm cự được bao lâu nữa. Amore càng chú ý đọc báo hơn. Một hôm ông ta bị thu hút bởi mẩu tin vắn: Một cha cố gặp mấy đứa trẻ tại doanh trại Nam quân, chúng mang rất nhiều tiền và hỏi thăm chỗ nào bán bánh mì và sôcôla. Chúng kể rằng cha của chúng đều là lính dưới quyền tướng quân Luke, và rằng đã mấy ngày nay không được ăn bánh mì, phải ăn thịt ngựa chán lắm rồi. Amore quăng vội tờ báo, trong bụng vui như mở cờ và lập tức ký một hợp đồng mua bán với chợ miền Đông: ông ta sẽ bán ra một lô thịt lợn với giá thấp hơn hẳn so với thị trường với điều kiện sẽ giao hàng chậm vài hôm.
Ông ta tính rằng: Việc Nam quân thiếu hàng viện trợ thì ai ai cũng biết, nhưng đại bản doanh của tướng Luke đã đến mức phải giết ngựa để ăn thì chứng tỏ chiến tranh sẽ kết thúc chỉ trong nay mai.
Amore đã đoán đúng thời gian, và nắm bắt được cơ hội tốt nhất. Trong khi bên mua vẫn còn đang vui mừng khôn xiết vì mua được lô hàng với giá hời thì cục diện chiến tranh và thị trường đều có những thay đổi căn bản. Mấy hôm sau giá thịt lợn đã hạ xuống tới mức bình thường nhất, Amore mua vào rồi bán ra ngay luôn như lúc còn chiến tranh theo đúng hợp đồng đã ký và đã hốt bạc triệu một cách dễ dàng.
Điều này không có gì là khó hiểu hết, Amore mà hành động chậm một tí là không được mà sớm một chút cũng không xong.
Chương 13
Ký sinh trên thân cây lớn
Tháng 5 năm 617, Lý Uyên - quan trấn thủ tỉnh Thái Nguyên của triều Tùy, vẫn đang giấu tài chợt thấy thời cơ đã chín liền khởi binh phản Tùy không chút do dự.
Khi đó ở Đông, Tây bộ lạc Đột Quyết đều đang rất mạnh, Thái Nguyên lại là nơi quân Đột Quyết thường xuyên qua lại. Để giải quyết mối lo này, Lý Uyên đã đích thân viết một lá thư cho bộ lạc Đột Quyết để cầu hòa với một giọng điệu vô cùng khúm núm, đồng thời mang tặng lễ vật hậu hĩnh với hy vọng sẽ nhận được sự giúp đỡ. Khả hãn của bộ lạc Đột Quyết là Thủy Tất trả lời rằng: Lý Uyên phải tự mình lập ngôi Thiên tử thì người Đột Quyết mới
cho binh mã tới viện trợ.
Biết một bộ lạc hùng mạnh như Đột Quyết cũng mong muốn Lý Uyên trở thành Thiên tử, tất cả các thuộc hạ tướng sĩ kể các văn thần mưu sĩ đều hoan hô nhiệt liệt, ai nấy đều khuyên Lý Uyên cần nhanh chóng lên ngôi hoàng đế. Lý Uyên lúc đó cũng đang mơ đến ngôi vị hoàng đế nhưng ông ta lại im lặng một cách khó hiểu và suy nghĩ một cách đăm chiêu.
Phong trào khởi nghĩa nông dân lan tràn khắp cả nước hầu hết bọn họ đều nêu cao ngọn cờ chính trị nhằm lật đổ triều Tùy khiến cho bách tính nghèo khổ của hôn quân Tùy Dạng Đế nô nức tình nguyện tham gia, thanh thế của quân khởi nghĩa ngày càng mạnh. Lý Uyên đương nhiên cũng muốn lật đổ ngay nhà Tùy, nhưng ông ta nghĩ, ông ta vẫn chưa phải là người của quân khởi nghĩa nông dân, bởi vì thế lực mà ông ta đang dựa dẫm là tầng lớp quý tộc, quan lại hào cường mới nổi danh. Hai thế lực này hoàn toàn khác nhau. Tầng lớp quý tộc có một ý thức "trung quân" sâu sắc, họ chỉ phản đối một ông vua và chỉ mong muốn thay "bạo quân hôn quân" bằng một "minh chủ hiền quân” chứ tuyệt đối không hề muốn lật đổ cả một chế độ chính trị. Hiện giờ triều đình nhà Tùy vẫn chưa sụp hẳn, quyền lực trung ương hữu danh vô thực, mà các quý tộc quan lại ở địa phương vốn có tinh thần nhà binh, thực lực của họ rất mạnh. Quân vũ trang mà họ nắm giữ để bảo vệ địa vị cát cứ của mình không hề thua kém đội quân chính quy của triều đình, bất luận là so sánh về binh khí được trang bị hay sức chiến đấu. Trong khi đó, quân khởi nghĩa nông dân trong tay chỉ có cuốc, thuổng, lực lượng lại phân tán nên không thể hòa nhập với lực lượng quý tộc kia được.
Hơn nữa, từ sau cuộc trấn áp phong trào Dương Huyền Cảm diễn ra một cách nhanh chóng, quyết đoán và tàn nhẫn, Dương Quảng còn căm hận sự phản loạn của tầng lớp quý tộc. Nhà Tùy tuy rằng sắp sụp đổ nhưng suy cho cùng đây vẫn là sự tồn vong của một chế đổ chính quyền quốc gia cho nên nếu Tùy Dạng Đế tập trung lực lượng tiêu diệt Lý Uyên thì e rằng tới lúc đó có thêm mười Lý Uyên cũng khó tìm được con đường sống.
Sau nhiều lần suy đi tính lại, Lý Uyên đã bác bỏ lời đề nghị của những kẻ thuộc hạ mà không những không tự mình xưng đế trái lại còn giương cao lá cờ "Tuân Tùy", tôn Tùy Dạng Đế làm Thái Thượng hoàng, lập Đại vương Dương Hưu - cháu của Dương Quảng và cũng là một quan trấn giữ - lên làm tân hoàng đế, đồng thời thay đổi chính sách cai trị, thay đổi cờ hiệu. Như vậy, đối với quân Đột Quyết mà nói, thanh thế của Lý Uyên càng lớn, dám tự lập theo ý mình, quân Đột Quyết sẽ chấp nhận lời cầu hòa của Lý Uyên mà không tùy tiện đem quân sang quấy nhiễu nữa, đồng thời còn ủng hộ một cách có điều kiện. Mặt khác đối với chính quyền nhà Tùy mà nói, mặc dù cũng nghi ngờ Lý Uyên có ý mưu phản, song lại thấy giương cờ hiệu tuân Tùy, vả lại hiện giờ quân khởi nghĩa nông dân phản tùy đang ngày càng đông tới mức không thể đối phó được thì nhà Tùy còn hơi sức đâu mà lo cản
đánh Lý Uyên? Chính vì thế Lý Uyên đã bố trí được một lớp phòng ngự mỏng, đồng thời còn tranh thủ cơ hội phát triển từng bước và có kế hoạch một đội quân vây quét mà tương lai ông ta có thể chủ động chỉ huy bất kỳ lúc nào.
Điều quan trọng hơn đó là lá cờ hiệu tuân Tùy của Lý Uyên đã thu hút được số đông đám quan lại và quý tộc vốn mang đậm tư tưởng "trung quân". Hơn nữa đối với đám người này mà nói, việc Lý Uyên lập Đại vương Dương Hưu lên làm vua sẽ dẫn tới sự thay đổi lớn về trật tự quan lại trong triều, đây chính là một cơ hội thăng quan phát tài hiếm có của họ, kẻ nào đứng về phe Lý Uyên thì kẻ đó càng có nhiều cơ hội tiến thân. Thế là bao nhiêu kẻ thi nhau ủng hộ cho Lý Uyên khiến cho vây cánh và thực lực của ông ta mạnh lên rất nhiều.
Tất nhiên, Lý Uyên tuân Tùy chỉ là kế quyền lực thích nghi, ông ta coi nhà Tùy như một cây đại thụ đang trong quá trình mục nát nhanh chóng, bỗng dưng lại có một cái mầm đang trồi lên khỏi mặt đất rồi khéo léo đâm rễ cầm vào thân cây ấy mà hút no nước và chất dinh dưỡng trong thân cây (được ví với bọn quan lại, quý tộc trong triều). Cái mầm non ấy lại nương nhờ cây lớn che chắn gió mưa, thậm chí còn làm cho cái cây to tưởng rằng nó là một bộ phận của thân thể mình và cứ ra sức bảo vệ (ví với việc trong khi quân của họ Lý đang giao chiến với quân khởi nghĩa khác thì triều đình chỉ lo đánh dẹp quân khởi nghĩa mà tin lầm vào đội quân của Lý Uyên). Từ đó mà Lý Uyên càng có thêm điều kiện thuận lợi để phát triển lực lượng của mình. Đợi đến khi vật đổi sao dời, Lý Uyên chỉ việc dùng chân đá khúc gỗ mục là triều Tùy kia đi mà dựng nên vương triều nhà Đường và lại càng được lòng dân ủng hộ.
Mượn thân cây lớn để sống ký gửi, quân Đường nhờ cách đó mà phát triển mạnh lên, Lý Uyên dùng kế mới tuyệt làm sao! Trong kinh doanh thương mại, đối với những doanh nghiệp nhỏ bé, những loại mặt hàng còn chưa có tiếng trên thị trường tất cả còn đang bị yếu thế, nếu muốn phát triển một cách nhanh chóng há chẳng phải cũng nên dùng kế "sống ký gửi trên thân cây lớn" hay sao?
Cuối những năm 50, thị trường mỹ phẩm dành cho người da đen của Hoa Kỳ bị công ty mỹ phẩm Fohley chiếm lĩnh toàn bộ, một nhân viên tiêu thụ sản phẩm của công ty này tên là George Johnson đã tách ra khỏi công ty để kinh doanh một mình và sáng lập ra công ty mỹ phẩm dành cho người da đen, Johnson với số vốn chỉ vỏn vẹn có 500 đô la và ba nhân công.
Johnson thừa biết công ty mỹ phẩm Fohley kia quá lớn, sản phẩm của họ rất có danh tiếng và sẽ không thể đủ sức cạnh tranh được. Sau khi suy tính kỹ càng, Johnson quyết định áp dụng biện pháp "sống ký sinh" để phát triển công ty của mình, và loại mỹ phẩm của công ty Fohley chính là cái thân cây mà ông ta muốn mượn.
Johnson tập trung lực lượng để sản xuất ra một loại kem trang điểm rồi làm quảng cáo tuyên truyền rằng: "Sau khi bạn dùng sản phẩm của công ty Fohley hãy bôi thêm một lớp kem trang điểm Johnson bạn sẽ thấy hiệu quả thật bất ngờ".
Công ty Fohley thấy bên kia làm "nghĩa vụ tuyên truyền" thì lấy làm mừng thầm, không hề phản đối hay can thiệp gì cả. Một số đồng nghiệp của Johnson thì tỏ ra rất bất bình và chỉ trích ông ta đã thổi phồng cho công ty Fohley. Ông ta chỉ cười mà nói: "Vì họ có danh tiếng lớn, tôi chỉ có cách là phải làm như vậy. Cũng như bây giờ có rất ít người biết tên tôi là Johnson nhưng nếu tôi được đứng bên cạnh tổng thống Mỹ thì tự nhiên mọi nhà, mọi người điều biết đến tôi. Tôi tuyên truyền như vậy thứ nhất là để cho sản phẩm của chúng ta có thể xuất hiện cùng với loại mỹ phẩm đã có uy tín từ lâu, rõ ràng là tâng bốc cho công ty Fohley nhưng thực chất là lại mượn danh của họ để tồn tại, uy tín sản phẩm của công ty chúng ta sắp có thể sánh với sản phẩm của Fohley rồi. Thứ hai, và cũng quan trọng hơn nữa, đó là chúng ta có thể lấy thị phần của họ làm thị phần của mình. Trong quảng cáo rõ ràng có mách bảo ngầm rằng các khách hàng sử dụng mỹ phẩm của Fohley đều phải đồng thời dùng sản phẩm của Johnson thì mới thể có được hiệu quả thần kỳ. Vì thế quảng cáo như vậy thực chất là đem cơ thể yếu ớt của chúng ta đến sống ký sinh trên cây to vững chắc và giàu chất dinh dưỡng của Fohley. Đây chính là một kế sách tốt để chúng ta có được cơ hội phát triển nhanh chóng".
Quả nhiên người tiêu dùng đã tiếp nhận sản phẩm của Johnson một cách rất tự nhiên, thị phần của công ty ngày một lớn. Thậm chí chỉ sau mấy năm đã loại bỏ được phần lớn sản phẩm của công ty Fohley ra khỏi thị trường mỹ phẩm. Về sau Johnson đã có thể đường hoàng độc chiếm thị trường mỹ phẩm dành cho người da đen của Mỹ.
Thủ thuật của Johnson dường như chính là bản sao thủ thuật của Lý Uyên vậy, không khác một chút nào!
Chương 14
Tạm thời nhượng bộ để được giúp đỡ
Năm Đại Nghiệp thứ 11 đời Tùy Dạng Đế, Lý Uyên nhậm chức quan đại sử yên dân ở vùng Sơn Tây, Hà Đông và phụng mệnh dẹp yên đạo tặc. Đối với bọn đạo khấu tầm thường như Vô Đoan Nhi hay Kính Bàn Đà... thì chỉ cần một cái phẩy tay mà không hề tổn hao công sức, nhưng đối với quân Đột Quyết ở phía bắc, vì chúng có kỵ binh tinh nhuệ giỏi cưỡi ngựa bắn cung thì lại khiến Lý Uyên rất đau đầu, đã nhiều lần giao chiến mà thắng thì ít, thua thì nhiều. Quân Đột Quyết rất ngang ngược, không biết sợ là gì nên Lý Uyên luôn coi chúng là kẻ thù không đội trời chung.
Năm 616, Lý Uyên được sắc phong làm quan trấn thủ ở Thái Nguyên, quân Đột Quyết lại đang dùng hàng vạn binh mã tấn công vào thành trì Thái Nguyên, Lý Uyên đã phải sai bộ tướng Vương Khang Đạt dẫn hơn ngàn quân ra nghênh chiến mà vẫn thất bại thảm hại. Về sau phải khéo léo dùng kế nghi binh mới đuổi lui được quân Đột Quyết. Đáng ghét hơn là bọn đạo khấu Lưu Vũ Chu bất thình lình tiến đánh cung Phần Dương do Lý Uyên quản (là một trong những cung Tùy Dạng Đế hay di giá tới), bọn chúng còn bắt phụ nữ trong cung để dâng tiến cho Đột Quyết. Người Đột Quyết liền phong cho Lưu Vũ Chu làm Định Dương Khả hãn. Ngoài ra còn có bọn Quách Tử Hòa, Tiết Cử được sự ủng hộ và bao che của Đột Quyết nên thi nhau khởi binh gây chuyện, Lý Uyên phòng ngự một cách yếu ớt và lúc nào cũng có thể bị Tùy Dạng Đế mượn cớ không hoàn thành nhiệm vụ để lấy đầu.
Ai cũng nghĩ Lý Uyên ôm mối thù khắc cốt ghi xương sẽ quyết một trận sống còn với Đột Quyết. Không thể ngờ rằng Lý Uyên lại cho mưu sĩ là Lưu Văn Tịnh làm sứ giả sang bên Đột Quyết để xin làm bề tôi, còn hứa đem gái đẹp và ngọc ngà châu báu sang để tặng cho Khả hãn Thủy Tất.
Đến con trai của Lý Uyên cũng cảm thấy bị sỉ nhục trước hành vi nhượng bộ khúm núm của ông ta. Lý Thế Dân sau khi đã được kế vị ngôi vua vẫn chưa thể nào quên nỗi nhục đó: “Quân Đột Quyết ngang ngược, Thái Thượng hoàng (chính là Lý Uyên)... xưng thần với chúng, trẫm chưa có lúc nào thôi đau lòng!".
Lý Uyên thì "mọi người đều say, riêng một mình ta tỉnh", ông ta có kế hoạch riêng của mình, khúm núm nhượng bộ tuy bộ dạng hơi khó coi một chút nhưng có thể nhẫn nhịn, có thể tồn tại mới trở thành đại trượng phu. Thì ra Lý Uyên đã căn cứ tình hình chung mà dứt khoát quyết định khởi binh phản Tùy. Thái Nguyên là một trọng điểm quân sự nhưng vẫn chưa phải là nơi lý tưởng để xây dựng cơ đồ vì thế muốn khởi binh thành một phong trào lớn bắt buộc phải tiến về phía tây vào Quan Trung. Đã vào đến Quan Trung thì Thái Nguyên lại là căn cứ địa không thể mất của đạo quân Lý Đường. Vậy phải làm thế nào mới có thể vừa giữ được Thái Nguyên vừa tiến công về phía tây một cách thuận lợi?
Lúc bấy giờ binh tướng trong tay Lý Uyên không quá 3-4 vạn người, cho dù có dốc toàn bộ lực lượng để giữ Thái Nguyên, ứng phó sự gây chiến bất kỳ lúc nào của Đột Quyết, đồng thời lại phải truy dẹp bọn đạo khấu vốn được sự nâng đỡ của Đột Quyết thì cũng đã sức tàn lực kiệt. Chưa kể nếu tiến đánh Quan Trung thì hiển nhiên không thể giữ quân ở lại để trấn thủ Thái Nguyên. Vì vậy biện pháp duy nhất là phải áp dụng chính sách cầu hòa, để cho Đột Quyết "ngồi mát ăn bát vàng” . Cho nên Lý Uyên đã không đắn đo nhượng bộ tự xưng làm ngoại thần, đích thân viết bức thư tay rằng: "Muốn đại cử nghĩa binh nghênh tiếp chúa thượng, lại muốn xin hòa với quý quốc như thời
Văn Đế vậy. Đại hãn mà chịu đem quân tới tiếp ứng giúp ta hành sự ở phía nam thì thật may cho bách tính thoát khỏi nạn binh đao. Nếu chấp nhận hòa thì có thể ngồi không mà hưởng châu báu, đó chính là số mệnh của đại hãn”. Lý Uyên thỏa thuận với Đột Quyết cùng định kinh sư, đất đai thuộc về Đường công còn gái đẹp và lụa là châu báu thì dâng cho Khả hãn.
Lùi một bước thấy biển rộng trời cao. Khả hãn Thủy Tất hám lợi quả nhiên đã hòa hảo với Lý Uyên. Trong khoảng thời gian khó khăn nhất của Lý Uyên là lúc từ Thái Nguyên tiến vào Trường An, ông ta chỉ để Lý Nguyên Cát - con trai thứ ba của mình với một số ít binh mã ở lại chốt giữ Thái Nguyên, lại từ chỗ đang bị Đột Quyết xâm chiếm nay bọn Lưu Vũ Chu (trước vốn ỷ thế Đột Quyết làm càn) cũng đã bớt gây chuyện đi nhiễu. Lý Nguyên Cát vì thế mà đã có thể liên tục chuyển người và lương thảo từ Thái Nguyên ra tiền tuyến. Cho đến năm 619, khi Lưu Vũ Chu đánh Phổ Dương thì Lý Uyên đã kịp thiết lập nên vương triều nhà Đường tại Quan Trung. Lúc này vua Đường không những đã có thể đứng vững ở Quan Trung với một căn cứ địa là một vùng lãnh thổ rộng lớn, mà lúc này Lưu Vũ Chu không còn là đối thủ của Lý Uyên nữa, con trai Lý Uyên là Lý Thế Dân vừa xuất mã, chẳng tốn nhiều công sức đã thu phục được Quan Trung.
Ngoài ra, vì Lý Uyên cam lòng nhượng bộ nên đã nhận được sự giúp đỡ không nhỏ của Đột Quyết. Thủy Tất Khả hãn tặng cho Lý Uyên không ít ngựa và quân lính, Lý Uyên cũng nhân cơ hội này mà mua được rất nhiều ngựa chiến. Điều này không chỉ đặt nền móng cho việc củng cố sức chiến đấu của các kỵ binh mà còn tự nhiên làm tăng thêm thế lực cho Lý Uyên rất nhiều do hàng ngũ quân lính của Lý Uyên có thêm nhiều kỵ binh Đột Quyết vốn rất dũng cảm và thiện chiến.
Hành vi khúm núm nhượng bộ của Lý Uyên đã khiến mọi người không ai buồn đếm xỉa đến. Nhưng đối với tình hình bấy giờ thì đó lại là một kế sách hữu hiệu giúp cho đội quân nhỏ bé của họ Lý có thể bảo vệ bình an cho căn cứ địa hậu phương đồng thời lại có thể tiến về phía tây đánh chiếm Quan Trung một cách thuận lợi. Nếu nhìn xa hơn một chút, Đột Quyết sau này lại chả phải cầu hòa xưng bề tôi với vua Đường, Thủy Tất Khả hãn có khi còn phải nhảy múa phục tùng theo sự sai bảo của Lý Uyên!
Từ đó cho thấy, tạm thời nhượng bộ để có thể nhận được sự trợ giúp của đối thủ rồi không ngừng phát triển sau đó lật ngược tình thế khiến đối thủ phải khúm núm nhượng bộ với mình, là một mưu kế rất hữu dụng. Trong cạnh tranh buôn bán, hiện tượng này không phải là hiếm.
Năm 1983, giám đốc điều hành kiêm giám đốc công ty ôtô General của Mỹ là Smith đã đưa ra một quyết sách quan trọng sau khi đã suy nghĩ kỹ càng: Tách một xưởng sản xuất ôtô của công ty tại thành phố Fimebu thuộc bang California ra để sát nhập với công ty Toyota của Nhật để sản xuất Ô tô con hiệu Toyota. Khi đó xe Toyota của Nhật với chất lượng cao giá rẻ đã có mặt
tại châu Mỹ. Được sản xuất ôtô ngay trên nước Mỹ là điều mà công ty Toyota hằng mong muốn, vì thế phía Mỹ vừa đề nghị thì phía Nhật đã đưa vội công nhân và thiết bị sang Mỹ để thiết lập nhà máy rồi. Người Mỹ từ lâu đã rất ghét hãng xe của Nhật sang xâm chiếm thị trường và tước mất vị trí độc quyền trong cả nước về ôtô của họ, thế mà Smith lại công nhiên mời công ty của Nhật sang để sản xuất ôtô, đây chẳng phải sự hạ mình khiến "nước nhục vì mất quyền" thì cũng là bước nhượng bộ "cõng rắn cắn gà nhà". Vì thế khắp nước Mỹ, nhất là giới ôtô ai ai cũng tỏ ý phản đối và khiển trách Smith.
Rốt cuộc thì đây là cõng rắn cắn gà nhà, sự nhượng bộ đơn thuần hay là sự nhẫn nhục có dụng ý? Smith có dự định và cách nghĩ riêng của ông ta. ông ta hiểu rõ rằng sở dĩ giới ôtô Mỹ bó tay bất lực trước sự tấn công của ôtô Nhật, một lý do rất quan trọng đó là Mỹ trước đây quá khinh địch. Khi ôtô Nhật mới bắt đầu xuất hiện tại châu Mỹ thì dường như tất cả các hãng ôtô Mỹ đều cho rằng ôtô Nhật chẳng qua chỉ là thứ đồ chơi của những kẻ mới vào nghề, là thứ hàng hóa rẻ tiền mà thôi. Họ chưa có nhận thức và thái độ đúng đắn đối với những đặc điểm như giá rẻ, tính năng tốt và ít hao nhiên liệu của xe Nhật. Đến khi xe Nhật ngày càng bán chạy ở thị trường Mỹ thì nước Mỹ cũng chỉ biết ngồi nhìn mà không tìm ra được biện pháp nào. Đến nay, xe Nhật về mọi phương diện đều chiếm ưu thế, không thừa nhận điều đó thì quá ư tự cao tự đại. Tranh thủ sự giúp đỡ về kỹ thuật của Nhật để tăng cường thực lực cạnh tranh của hãng xe mình mới là con đường đúng đắn duy nhất để lấy lại thể diện và lấy lại lợi nhuận.
Vì vậy việc Smith cho sát nhập với công ty Toyota của Nhật, bề ngoài như có vẻ cõng rắn cắn gà nhà nhưng thực tế lại là một bước tiến "mời thầy giáo đến nhà", có vẻ như là hạ mình khúm núm trước hãng xe Nhật nhưng thực chất là tìm hiểu kỹ thầy, học tập thầy để rồi sau đó trò sẽ giỏi hơn thầy mà qua mặt thầy một cách dễ dàng.
Đến nay thì bất kỳ nhà sản xuất nào cũng đều biết, muốn cạnh tranh với xe Nhật thì buộc phải hạ giá thành và nâng cao chất lượng xe như ôtô của Nhật vậy, chỉ có cách đồng thời thực hiện hai nguyên tắc đó mới có thể giành được sức cạnh tranh trên thị trường. Và đến đầu những năm 80, công ty xe ôtô General của Mỹ đã khéo léo đi theo con đường này và có thể cạnh tranh được với xe Nhật, cuối cùng đã đứng vững được trên thị trường ôtô nước Mỹ và dần dần loại bỏ được xe ôtô Nhật.
Chương 15
Lấy lòng đối phương biến thù thành bạn
Sau khi Lý Uyên khởi binh ở Thái Nguyên thì chọn Quan Trung làm nơi phát triển lâu dài. Vì thế Lý Uyên dẫn đội quân lấy tên "Tiến thẳng Trường
An lập đại vương" tiến về phía tây.
Lý Uyên tiến về Quan Trung ở phía tây sẽ phải đối mặt với ba điều khó khăn nguy hiểm. Thứ nhất là đại vương Trường An là Dương Hựu vẫn không tin Lý Uyên thật lòng “tuân Tùy" nên đã phái các tinh binh chặn đánh. Thứ hai, đội quân mạnh nhất Ngõa Cương sẽ truy sát giữa đường bất kỳ lúc nào. Thứ ba, quân Ngõa Cương vẫn có một bộ phận chủ lực dồn về Phổ Dương và luôn đe dọa tới căn cứ địa hậu phương của Lý Uyên.
Trong ba mối nguy hiểm trên, việc chặn đánh của quân Tùy đã trở thành hiện thực nhưng số lượng quân đội có hạn, căn cứ vào mọi dấu vết mà phán đoán thì nhà Tùy vẫn chưa có dấu hiệu tăng cường lực lượng để nghênh chiến. Nhưng hai mối nguy hiểm sau lại vô cùng đáng ngại, số binh lính Ngõa Cương gấp hơn mười lần của Lý Uyên, chỉ cần một trong hai mối đe dọa sau xảy ra sẽ khiến cuộc tiến quân vào Quan Trung của Lý Uyên bị thất bại nửa chừng, thậm chí có thể thất bại thảm hại đến không gượng dậy được nữa.
Lý Uyên vội vàng viết thư cho thủ lĩnh đội quân Ngõa Cương là Lý Mật để thông báo một cách tỉ mỉ về tình hình khởi binh đồng thời bày tỏ nguyện vọng tha thiết được tồn tại hữu hảo với quân Ngõa Cương. Không lâu sau sứ giả mang thư trả lời về tới doanh trại nhà Đường. Lý Uyên sau khi xem thư thì lẩm bẩm rằng "thật ngông cuồng", trong lòng thì lại cảm thấy rất yên ổn.
Trong thư Lý Mật viết rằng: "Mặc dù không cùng một phe phái với huynh nhưng động cơ mục đích của chúng ta là giống nhau. Bắt đầu tay trắng cùng lập nên minh chủ cho các anh hùng tứ hải. Mong rằng hai bên cùng hợp lực đồng tâm, bắt Tử Anh ở Hàm Dương, giết Thương Hạnh ở Mục Dã, thế chẳng phải tốt hay sao? Nếu huynh không chê xin hãy đích thân dẫn vài ngàn quân tiến tới gần bờ sông gặp mặt để cùng giao kết hiệp ước, cùng nhau bàn chuyện, thật vinh hạnh biết bao!". Thì ra Lý Mật tự phụ có quân mạnh nên đã có dã tâm lớn làm minh chủ của mọi nghĩa quân phản Tùy. Thật ra trong thư ông ta đang thuyết phục Lý Uyên nhận lời đồng ý và mong Lý Uyên sớm trả lời.
Lý Mật đang có trong tay một quan ải hiểm yếu, gần đó lại có một kho giấu đầy vải vóc và lương thực nên có thể khống chế toàn bộ vùng Hà Nam. Phía đông thì có thể chặn đánh hoặc tiến công chớp nhoáng Tùy Dạng Đế ở Giang Tô, phía tây thì có thể đánh chiếm một cách dễ dàng nơi mà Lý Uyên vẫn coi là điểm xây dựng cơ đồ - đó là Quan Trung. Vì vậy Lý Uyên thừa biết Lý Mật đang quá ngông cuồng nhưng ông ta cũng có lý do để ngông cuồng.
Để hóa giải hai mối nguy hiểm sau cùng trên con đường tiến về phía tây, đồng thời biến kẻ thù thành bạn và mượn đại quân của Lý Mật để thanh toán ngay tại Hà Nam đội tinh binh chủ lực của Tùy Dạng Đế phái đi hòng cướp
lại Trường An. Lý Uyên cười mỉm và nói với con trai thứ Lý Thế Dân: "Lý Mật tự cho là mình đã quá mạnh, hắn quyết không thể chỉ bằng một lá thư mà thuyết phục được ta. Hiện ta đang cần hòa với hắn, nhún nhường ca ngợi hắn tài giỏi, ngoài miệng giục hắn sớm xưng vương và tỏ ra là người đồng hành với hắn, như vậy hắn tất sẽ trở thành lính gác cho ta mạnh dạn tiến về phía tây. Đợi đến khi chúng ta vào được Quan Trung và củng cố lực lượng rồi, trong lúc hắn và Tùy Dạng Đế - hai hổ giao đấu một con chết một con bị thương, chúng ta chỉ việc đi thu chiến lợi phẩm mà thôi". Thế là Lý Uyên viết thư trả lời rằng: “Trời sinh ra thiên hạ tất phải có người cai trị, người cai trị hôm nay không phải là người anh em thì có thể là ai đây? Lão phu nay tuổi đã cao không gánh vác nổi việc đó. Xin nhận người anh em làm đại đệ, nguyện phò tá cho đệ đạt được tâm nguyện làm chủ thiên hạ"... Đại ý rằng hiện nay người có thể xưng đế chỉ có thể là Lý Mật huynh, Lý Uyên này đã ngoài 50 tuổi nên không có tâm nguyện đó, chỉ mong sao đến lúc lại được phong làm Đường công là mãn nguyện lắm rồi, hy vọng huynh có thể sớm đăng vị. Bởi vì những vùng xung quanh vẫn chưa bình định nên tạm thời chưa thể đến đó để cùng liên kết.
Lý Thế Dân xem thư rồi nói: "Thư này gửi đi xong thì Lý Mật tất sẽ dồn hết tâm trí phản Tùy, ta không còn phải lo lắng gì ở phía đông nữa rồi". Quả nhiên Lý Mật sau khi nhận được thư đã rất đỗi vui mừng nói với thuộc hạ rằng: "Đường công này mà chịu lui bước thì thiên hạ loạn mất".
Lý Uyên lấy lòng Lý Mật, nhún nhường khen ngợi hắn, không những tránh được nguy cơ bị Lý Mật tranh giành Quan Trung mà còn ngăn chặn được khả năng tăng viện cho Trường An của quân Tùy từ thành Lạc Dương, giúp Lý Uyên thuận lợi tiến về phía tây, từ đó đã đạt được mục đích "tay không chiếm Quan Trung”. Lý Mật trúng kế của Lý Uyên, hàng ngày trao đổi tin tức cho Lý Uyên mà không hề có ý định tiến công, chỉ chuyên tâm quyết đấu với triều đình nhà Tùy. Trong vài năm sau đó, Lý Mật đã tiêu diệt hết đội quân chủ lực tinh nhuệ nhất của triều đình Tùy, đồng thời bản thân cũng bị đánh chỉ còn lại 2 vạn binh mã. Còn Lý Uyên tranh thủ thời cơ thuận lợi đã phát triển thành người có thực lực nhất.
Mọi người ai cũng có sở thích riêng, cũng có nhu cầu được tôn trọng và được khen ngợi. Lý Uyên nhún mình khen Lý Mật rồi hết sức lấy lòng ông ta nên đã đạt được lợi ích lớn trong ngoại giao quân sự chính trị, đó là biến thù thành bạn và tiến quân thuận lợi vào Quan Trung. Ngài Fiderbec nhân viên của công ty điện lực cũng đã dùng biện pháp lấy lòng người khiến cho một bà lão ở một nơi cách xa ông hàng ngàn dặm rất vui vẻ ký kết với ông một vụ làm ăn lớn, giúp ông hoàn thành nhiệm vụ tiêu thụ điện sinh hoạt một cách thuận lợi.
Hôm đó, Fiderbec đến gõ cửa một nông trang trông có vẻ rất giàu có và gọn gàng. Lúc đó, bà chủ hộ Brown chỉ mở he hé một khe cửa. Khi biết được đó
là nhân viên của công ty điện lực đến tiếp thị, bà ta liền đóng sập cửa lại. Fiderbec lại gõ cửa lần nữa, phải gõ rất lâu cánh cửa mới miễn cưỡng hé ra một khe hở, nhưng chưa kịp mở miệng thì bà lão đã mắng ầm lên một trận. Sau một lượt điều tra, Fiderbec lại đến gõ cửa, cánh cửa vừa hé ra, ông ta đã vội vàng thanh minh: "Thưa bà Brown rất xin lỗi đã làm phiền bà, sự có mặt của tôi hôm nay không phải vì công ty điện lực mà chỉ là vì tôi muốn mua của bà một số trứng gà". Thái độ của bà lão đã khá hơn nhiều, cánh cửa cũng mở rộng hơn. Fiderbec nói tiếp: "Gà nhà bà trông thật đẹp, bộ lông của chúng mới đẹp làm sao. Chắc đó là giống gà X phải không? Bà có thể bán một số trứng không?". Cánh cửa càng mở to hơn, có tiếng hỏi lại rằng: "Làm sao ông biết được đó là giống gà X?". Fiderbec biết kế lấy lòng người đã thành công bước đầu bèn thành khẩn và cung kính trả lời: "Nhà tôi cũng nuôi giống gà này nhưng chưa bao giờ trông thấy chúng đẹp như những con gà do bà nuôi. Mà gà nhà tôi chỉ biết đẻ trứng. Những người xung quanh đây đều nói chỉ có trứng gà nhà bà là ngon nhất. Phu nhân, bà biết đấy, làm bánh gatô thì cần phải dùng trứng thật ngon. Hôm nay bà xã tôi làm bánh gatô, tôi chỉ biết chạy đến hỏi bà...". Bà lão bỗng mặt mày rạng rỡ vui vẻ hẳn lên và chạy từ trong phòng ra bên ngoài hành lang.
Fiderbec tranh thủ thời gian quan sát chung quanh, phát hiện nơi đây có cả một bộ nông cụ, đoán rằng của một người đàn ông nuôi bò sữa nên liền nói tiếp: "Phu nhân, tôi dám đánh cược rằng tiền kiếm được do bà nuôi gà chắc chắn sẽ nhiều hơn số tiền kiếm được do ông nhà nuôi bò sữa". Bà lão sung sướng quên hết nỗi bực dọc, vui tới mức suýt muốn nhảy cả lên, bởi vì chồng bà xưa nay cứ không chịu thừa nhận điều đó mà bà suốt ngày phải mang "chân tướng" sự việc đi kể cho mọi người nhưng lại chẳng có ai hứng thú.
Bà Brown lập tức coi Fiderbec là tri kỷ, không ngần ngại dẫn ông ta đi thăm quan trại gà. Fiderbec biết kế lấy lòng người đã hoàn toàn thuận lợi. Nhưng trong khi thăm quan trại gà, ông ta cũng không quên tìm ra những lời khen ngợi có giá trị.
Trong lúc tán tụng, ông ta được bà lão không hề giấu giếm mà truyền cho hết kinh nghiệm nuôi gà, ông ta tỏ ra là một học sinh ham học hỏi. Hai người họ trở nên rất thân thiện dường như có thể nói với nhau mọi chuyện trên trời dưới biển. Trong những lời ca ngợi, bà lão cũng hỏi Fiderbec nhiều về lợi ích của việc sử dụng điện. Fiderbec cũng nói tập trung vào việc nuôi gà, bà lão cũng nghe một cách chăm chú.
Hai tuần sau, tại công ty ông đã nhận được đơn đăng ký sử dụng điện của bà lão. Chẳng bao lâu, đơn đăng ký sử dụng điện của những hộ gia đình nơi bà lão sống đã liên tiếp được gửi tới Bà lão đã trở thành một người trợ giúp đắc lực cho Fiderbec.
Chương 16
Tiến quân không lui bước, quyết đoán phân định hơn thua
Từ thời Tần Thủy Hoàng, Quan Trung đã bắt đầu trở thành một trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa của cả nước. Sau này Hán Cao Tổ Lưu Bang cũng vì chọn Quan Trung làm nơi thống lĩnh thiên hạ rồi đánh dẹp phía đông nên đã thống nhất được toàn quốc. Nhà Tùy dựng kinh đô ở Trường An rõ ràng cũng coi Quan Trung là nơi căn bản để lập quốc.
Năm 617, Tùy Dạng Đế lại đi tuần phương Nam, Quan Trung bị bỏ ngỏ, lực lượng quân sự ở kinh đô và các vùng lân cận đều rất yếu mỏng, nhà vua và đa số quan lại triều đình đều đi đến Dương Châu - đây đúng là một thời cơ đánh chiếm Quan Trung ngàn năm có một. Phe cánh của Lý Uyên từ lâu đã muốn sáng lập vương triều mới dễ gì chịu ngồi yên để lỡ mất một cơ hội tốt. Họ đã bất chấp rằng mình vừa khởi binh xong thì lực lượng đã bị yếu đi nhiều, bắt đầu khởi hành từ Thái Nguyên tiến quân về Quan Trung với tốc độ nhanh nhất.
Những khó khăn gian khổ và những nguy cơ bị phục binh ở khắp mọi nơi không lời nào kể xiết. Phía trước thì có quân phục kích được phái đi từ Trường An, lại thêm cái rãnh trời Hoàng Hà, xung quanh là quân khởi nghĩa và thế lực của các chư hầu đều mạnh hơn lực lượng của ông rất nhiều - họ cũng đều có ý đồ giành chiếm Quan Trung để thống lĩnh thiên hạ, căn cứ địa hậu phương là thành Thái Nguyên thì lực lượng nhỏ nhoi cô độc, phía bắc lại đối mặt với thế lực của Đột Quyết và Lưu Vũ Chu... mỗi một nguy cơ bùng nổ đều có thể khiến cho kế hoạch lâu dài tiến quân vào Quan Trung của Lý Uyên bị thất bại nửa chừng, Lý Uyên trong lòng rối như tơ vò bởi trăm mối lo.
Điều thần kỳ mà Lý Uyên hy vọng đó là thời gian, ông ta hy vọng bằng cách hành động thật nhanh chóng thì có thể bù đắp cho sự thiếu thốn vế lực lượng và về mọi phương diện khác nữa. Không ngờ trời chẳng chiều ý người, khi bọn họ tới Giả Hồ Bảo định tiến công thị trấn quân sự Hoắc ấp (cách Giả Hồ Bảo chỉ hơn 50 dặm) thì trời mưa triền miên. Đường sá lụt lội rất khó hành quân và bắt đầu có dấu hiệu thiếu lương thực. Lại thêm một tin dữ: Lưu Vũ Chu câu kết với Đột Quyết sẽ lợi dụng sơ hở mà tiến đánh vào sào huyệt của Lý Uyên.
Lý Uyên ngước cổ nhìn lên trời mà than rằng: "Xem ra thời cơ vẫn chưa chín, đành phải lui quân về phía bắc!". Bùi Tịnh và những người khác đều tán đồng với ý kiến lui quân của Lý Uyên, họ cho rằng quân Tùy phái đại tướng vừa giữ Hà Đông, lại vừa khống chế được Hoắc ấp sau đó sẽ liên binh cùng dựa vào nơi hiểm yếu để cố thủ chờ đối phương đuối sức, nên quân ta không thể tiến quân nhanh chóng dễ dàng được, chỉ có thể lui quân về Hà Nam. Mà người bạn đồng minh của chúng ta Lý Mật ở phía đông tâm địa khó lường. Con người Đột Quyết tham lam khó mà tin tưởng, cho dù trước
khi khởi binh chúng ta đã nhún mình nhượng bộ làm hòa với hắn nhưng ai dám bảo đảm rằng hắn sẽ giữ tín nghĩa mà ngày hôm sau không trở mặt? Lưu Vũ Chu vốn là kẻ lòng dạ đi theo Đột Quyết, nhân lúc người ta gặp nạn mà ném đá lấp cửa hang là thói mà hắn quen làm. Thái Nguyên là căn cứ địa duy nhất của chúng ta, hơn nữa gia quyến các tướng sĩ đều ở cả nơi đó. Vì thế chi bằng hãy lui quân bảo vệ căn cứ địa, chuyện lớn đợi sau này bàn tiếp vậy. Cuối cùng Lý Uyên đã quyết định ngày hôm sau sẽ thực hiện kế hoạch thoái binh.
Lý Thế Dân hay tin rút quân thì vô cùng sợ hãi, vội vàng tìm đến cha hỏi cho rõ với giọng rất phấn khích. Lý Uyên trong lòng hoài nghi lo lắng nên mập mờ thoái thác rằng: “Lương thực sắp hết, khó mà cầm cự tiếp được". Lý Thế Dân khuyên rằng "Bây giờ lúa ngô đầy đồng, làm sao có thể thiếu lương thực? Tùy tướng Tống Lão Sinh đang trấn giữ Hoắc ấp thì quá yếu, hễ đánh là thắng liền. Lý Mật đang có được kho lương thảo lớn là Lạc Khẩu chắc sẽ không đến tranh giành với ta. Lưu Vũ Chu và Đột Quyết vẻ ngoài nói hòa hảo nhưng thực tế trong lòng hoài nghi lẫn nhau. Lưu Vũ Chu tuy rằng muốn tranh giành Thái Nguyên với ta nhưng lại sợ căn cứ địa Mã ấp của mình sẽ bị Đột Quyết thừa cơ chiếm mất nên sẽ không dám khinh suất mà hành động bừa. Đột Quyết thì vừa làm hòa với ta cũng không đến nỗi phá bỏ hiệp ước ngay lập tức. Càng quan trọng hơn nữa là ý chí lớn trong đầu chúng ta muốn xây dựng một đại nghiệp mới. Đã có chí cầu dân lập quốc thì nên vào Hàm Dương trước để thống lĩnh thiên hạ. Nếu bây giờ vừa gặp trở ngại nhỏ đã vội thu quân thì chỉ e rằng các tướng sĩ vừa lấy được khí thế nay vì thế mà nhụt ý chí, đại sự hóa ra cũng chỉ là một giấc mơ đẹp mà thôi!".
Ý kiến của Lý Thế Dân không thắng nổi sự phản đối của đám mưu thần Bùi Tịnh, Lý Uyên vẫn quyết định rút quân. Lý Thế Dân chán nản buồn phiền ăn không ngon ngủ không yên, đến trước cửa trướng của Lý Uyên mà khóc ầm lên. Lý Uyên khoác áo bước ra khỏi giường, cho gọi con trai vào hỏi vì sao lại khóc lóc thảm thương như vậy. Lý Thế Dân vừa khóc vừa thưa: "Quân hành động vì nghĩa, chỉ có tiến mà không lui, tiến thì sống mà lui sẽ chết, làm sao có thể không khóc cho được!". Lý Uyên lo sợ hỏi làm sao có thể chết, Lý Thế Dân thưa rằng. "Tất cả mọi người đã quyết tâm, hành quân đang sục sôi nhuệ khí, một khi đã lui quân thì ai nấy đều chán nản mà mất đi nhuệ khí, khi đó quân Tùy sẽ thừa cơ truy đánh tới đây, quân ta tan tác há chẳng phải chỉ còn cách bó tay chờ chết ư? Các mưu thần chỉ ham sống bàn luận, làm sao có thể dễ dàng tin theo?".
Lý Uyên bỗng nghĩ tới tính quan trọng của ý chí tiến quân nên vội vàng nói: "Quân ta đã bắt đầu rút, làm sao bây giờ?". Lý Thế Dân đáp rằng: "Con xin lập tức đuổi theo họ!".
Lý Thế Dân rút roi giục ngựa phi qua đêm thì đuổi kịp. Hai ngày sau, rất nhiều lương thảo được chuyển vào doanh trại Thái Nguyên. Dường như ông
trời muốn thưởng công cho tướng lĩnh dám nghĩ dám làm nên dần dần đã mây quang mưa tạnh và bắt đầu đã có thể nhìn thấy rõ ánh mặt trời. Lý Uyên lệnh cho quân sĩ hong khô và chuẩn bị binh khí, tránh những vũng lầy mà đi, qua ải chém tướng, bất ngờ đánh Quan Trung.
Lý Thế Dân chẳng ngại khó khăn gian khổ, không để tai những lời trách cứ của các mưu thần, dũng cảm quyết đoán, can đảm và hiểu biết hơn người, cuối cùng cũng giúp được quân Đường đang hăng hái nhanh chóng chiếm lĩnh được điểm trọng yếu Quan Trung. Thật khó tưởng tượng nổi nếu không có mưu lược tự tin quả cảm của Lý Thế Dân thì quãng lịch sử kiến lập vương triều Đường cũng như cả bộ sử Tùy Đường sẽ như thế nào.
Chỉ lo suy tính giữa được và mất mà không hành động quyết đoán tất sẽ bỏ lỡ mất cơ hội tốt, khiến bản thân lại rơi vào thế bị động.
Công ty nước khoáng Blue của Pháp hiểu rõ điểm này nên cho dù đang ở trong tình thế tuyệt vọng vẫn có thể sống lại từ cõi chết, biến nguy thành an nhờ sự can đảm, hiểu biết và chính sách quyết đoán.
Đầu tháng 2 năm 1990, cục quản lý lương thực và dược liệu Hoa Kỳ tuyên bố sau khi điều tra đã phát hiện trong "chai Blue" có tới hai ba phần là chất hóa học Benzene, nếu sử dụng một thời gian dài sẽ dẫn đến ung thư! Sản lượng nước khoáng của Pháp luôn đứng đầu thế giới, Blue lại là hãng nổi tiếng của Pháp và vẫn được khen là loại nước khoáng ngon nhất. Hàng năm hãng này sản xuất 1 tỉ chai trong đó 60% được xuất khẩu ra nước ngoài. Tại Mỹ, Nhật và Tây âu, Blue đã trở thành một biểu tượng của nước Pháp. Đối với một sản phẩm có tiếng như vậy thì lời tuyên bố đanh thép về việc "có thể gây ung thư” của Mỹ khác nào như sự hủy diệt của trái bom nguyên tử! Cổ phiếu của công ty này trong một ngày đã giảm xuống 20%, những khách hàng trước đây vốn coi việc uống Blue là sự thưởng thức cao nhã lãng mạn nay loáng một cái đã coi Blue như một tai họa khủng khiếp, chỉ hận rằng không nhổ hết được lượng nước đã uống trả về cho nước Pháp. Phải làm sao đây. Tập thể các nhân viên tài giỏi của công ty đang vắt óc tìm giải pháp, cả thế giới thì đang ngẩng đầu chờ đợi. Rất nhanh, Blue tuyên bố một quyết định động trời: “Thu hồi và tiêu hủy toàn bộ sản phẩm!". Đây rõ ràng là một hành động điên rồ.
Nếu nói sự phát hiện trong sản phẩm có hàm lượng Benzene quá cao là một trái bom nguyên tử hủy diệt đánh vào công ty thì quyết định "tiêu hủy toàn bộ sản phẩm" lại là hành động cứu sinh tuyệt địa, là một trận cuồng phong, một trái bom nguyên tử "lòng tin" đánh vào người tiêu dùng của Blue.
Quyết định dứt khoát lập tức có hiệu quả: giá cổ phiếu của công ty ngay ngày hôm sau đã tăng lên 2,5%.
Sau đó công ty lại tuyên bố nguyên nhân của sự cố: Trong quá trình xử lý làm sạch nước, do thiết bị lọc nước đến hạn mà chưa kịp thay - thuần túy là do lỗi kỹ thuật chứ quyết không phải do nguồn nước bị ô nhiễm.
Nước Pháp lại giành được thị phần cho Blue, 84% người tiêu thụ Mỹ quay lại sử dụng Blue. Sản phẩm của hãng lại chiếm lĩnh thị trường, nhưng so với trước đây, chỉ có thêm ba chữ "sản phẩm mới" còn tất cả mọi thứ vẫn y nguyên như mọi người từng biết đến.
Ít lâu sau Blue bắt đầu làm quảng cáo trên truyền hình. Một chai nhỏ màu xanh, một giọt nước trên miệng chai từ từ bám vào thành chai và lăn xuống như giọt nước mắt. Bên ngoài lồng tiếng rằng: Blue giống như một bé gái chịu tủi thân đang khóc, lại- có tiếng như giọng một người cha âu yếm an ủi rằng: "Chúng ta vẫn yêu con".
Một quyết sách quả đoán cuối cùng đã khiến người tiêu dùng lại yêu thích Blue như trước.
Chương 17
Tránh trận công kiên, dụ địch xuất chiến
Lý Uyên khởi hành từ Thái Nguyên, dẫn 3 vạn binh mã gấp rút tiến quân về phía tây nam, áp dụng mọi biện pháp linh hoạt nhằm đến nơi trước các đạo quân khác và chiếm điểm trọng yếu Quan Trung rồi phát triển lực lượng để đạt bằng được mục đích thống lĩnh toàn thiên hạ. Tuy nhiên vừa mới đến được trước cổng thành Hoắc ấp cách Thái Nguyên không xa thì Lý Uyên đã phải đối mặt với thử thách lớn, đó là những trận đánh công kiên dai dẳng rất lãng phí thời gian.
Thì ra Dương Hựu, cháu Tùy Dạng Đế đã biết tỏng Lý Uyên chỉ giả bộ tuân Tùy và có dụng tâm làm phản. Vừa biết tin Lý Uyên tiến quân về hướng Tây liền lập tức phái tướng quân Tống Lão Sinh dẫn 3 vạn tinh binh chốt tại thành Hoắc ấp. Hoắc ấp vừa là lá chắn đầu tiên chống đỡ mũi tấn công từ Thái Nguyên đồng thời cũng là căn cứ địa đầu tiên để tiến đánh Thái Nguyên. Đối với Lý Uyên đây rõ ràng là một cái đinh nhọn, chi có thể nhổ bỏ nó đi mà không thể đi vòng tránh nó.
Về lực lượng tuy rằng quân số của Lý Uyên và Tống Lão Sinh là tương đương nhau nhưng do quân lính của Lý Uyên vừa mới được tập hợp nên chắc chắn sức chiến đấu của họ không thể so bì với quân lính của Tống Lão Sinh được. Tống Lão Sinh lại đang chiếm giữ thành trì nên có địa thế rất thuận lợi, có thể chỉ cần cầm cự chờ đối phương đuối sức, đây rõ ràng là ưu thế tuyệt đối mà ông ta có được.
Phải làm thế nào ư? Phải lấy yếu thắng mạnh, thậm chí còn phải giành thắng lợi trong thời gian ngắn nhất! Lý Uyên và các mưu thần cùng họp bàn rất kỹ lưỡng. Cuối cùng Lý Uyên quyết định tránh không để xảy ra những trận đánh công kiên dai dẳng phí thời gian mà cần phải tìm ra biện pháp dụ Tống Lão Sinh ra ngoài thành rồi thừa cơ tìm điểm yếu và sơ hở của ông ta để tiêu diệt gọn.
Tống Lão Sinh cố thủ trong thành, nhất định không chịu ra ngoài giao chiến. Nhưng Lý Uyên biết rõ bản tính Tống Lão Sinh kiêu ngạo hay vội vàng khinh địch. Thế là Lý Uyên lệnh cho hai con Lý Kiến Thành và Lý Thế Dân đem vài chục kỵ binh tiến cận thành vung roi dọa nạt, làm như thể sắp bao vây thành đến nơi, mặt khác lệnh cho tất cả các binh sĩ cùng đồng thanh lớn tiếng chửi mắng Tống Lão Sinh là đồ đần độn nhát gan vô tích sự.
Quả nhiên Tống Lão Sinh đã không chịu được, lập tức dẫn đại quân xông ra từ cửa Đông và cửa Nam thành để quyết đấu với Lý Uyên một trận sống còn. Lý Uyên đang ở phía đông thành chờ hậu quân tới thì thấy Tống Lão Sinh mở cổng thành xuất chiến bèn lập tức lệnh cho hậu quân dốc sức đuổi tới, còn bản thân chỉ mang theo vài trăm binh lính phi tới giao chiến với Tống Lão Sinh. Hậu quân nhận được lệnh đã kéo tới, Lý Uyên và Lý Thế Dân cùng ra lệnh “Quân địch đã ra khỏi thành, hãy lập tức đánh úp và phải tiêu diệt chúng trước giờ ăn cơm?". Đoạn, lập tức bày binh bố trận. Lý Uyên và Lý Kiến Thành cùng dàn trận ở phía đông thành còn Lý Thế Dân cầm quân chờ sẵn ở phía nam.
Tống Lão Sinh dẫn quân và ra lệnh tấn công kịch liệt vào phía đông thành nơi mà Lý Uyên cùng Lý Kiến Thành đang chờ ở đó. Quân Lý Uyên không chặn được đối phương đang hừng hực khí thế nên rút chạy về phía sau. Tống Lão Sinh thừa thắng xông lên, dẫn đội quân chủ lực rời thành dốc sức đuổi đánh về phía đông.
Lý Thế Dân ở phía nam thành đang đứng trên cao lặng im quan sát diễn biến tình hình bỗng phát hiện Tống Lão Sinh rời bỏ thành đuổi đánh, thật ra lúc đó cánh bên và hậu quân đã lộ ra trước mắt ông ta, tức thì chớp thời cơ dẫn một bộ phận quân lính xông thẳng lên vây kẹp Tống Lão Sinh. Tống Lão Sinh đành phải quay ngựa lại giao đấu với Lý Thế Dân.
Lý Thế Dân dụ được Tống Lão Sinh ra đến trận địa rồi lại lệnh cho binh sĩ tùy tùng bất ngờ đồng thanh hô lớn: "Tống Lão Sinh đã bị bắt rồi! Quân Tùy cớ sao còn chưa đầu hàng? ".
Khi đó ở phía đông thành, quân Tùy đang giao chiến với Lý Uyên và Lý Kiến Thành bất phân thắng bại, bỗng nghe rằng chủ tướng đã bị bắt liền vội vàng quay đầu tháo chạy về thành. Cha con Lý Uyên thừa thắng đuổi theo như vũ bão, quân Tùy trong nháy mắt đã tháo chạy thẳng vào trong thành rồi đóng cửa lại.
Lúc này Tống Lão Sinh trở thành một cánh quân cô độc không có đường mà tiến lui, thấy cửa thành phía đông đã đóng nên định chạy quay về phía nam thì bị Lý Thế Dân liều chết chặn đánh, định quay về phía đông thì lại gặp đại binh của Lý Uyên và Lý Kiến Thành tiến đến càn quét. Chẳng mấy chốc, Tống Lão Sinh bị giết, số còn lại hoặc chết hoặc bị thương, thây xác phơi hàng dặm.
Lý Uyên lệnh cho quân sĩ ăn uống qua quýt rồi tiếp tục công thành. Vừa
giành được thắng lợi nên ai nấy đều hừng hực khí thế, chẳng tốn mấy công sức đã đánh vào tận trong thành và giành thắng lợi hoàn toàn. Lý Uyên lệnh cho yết bảng an dân, chỉnh đốn lại quân ngũ rồi lại vội vàng tiến về phía tây.
Trong quân sự, muốn tiêu diệt đối phương, chung quy đều phải dựa vào thực lực. Muốn lấy yếu thắng mạnh thì chỉ có thể dựa vào việc dùng trí dùng mưu. Bè phái Lý Uyên muốn tránh hao phí sức lực vào những trận công kiên nên dùng mưu trí để dụ địch và làm cho đối phương để lộ nhược điểm rồi giáng cho một đòn chí mạng, nhờ thế mà chẳng tốn nhiều công sức cũng giành được thắng lợi lại còn tranh thủ được khoảng thời gian vô cùng quý giá để tiến quân đến Quan Trung. Trong việc kinh doanh làm ăn, nếu coi thị trường như chiến trường thì chất lượng hàng hóa là yếu tố thực lực chủ yếu của nhà kinh doanh. Muốn chất lượng hàng hóa gây được ấn tượng tốt và chiếm được lòng tin của người tiêu dùng thì nhà kinh doanh đều phải đối mặt với những trận đánh công kiên, ở đâu cũng vậy cả. Đấy là chưa kể những nhà kinh doanh những mặt hàng cùng chủng loại đang tìm mọi cách để chiếm lĩnh địa bàn, củng cố trận địa, thì cần phải chiến đấu dài lâu. Đơn giản nếu đứng về phía người tiêu dùng mà nói thì đâu phải dễ gì mà phá vỡ ngay được phòng tuyến tâm lý như nghi ngờ, cổ hủ, không tín nhiệm hoặc chỉ dùng những mặt hàng đã có tiếng từ lâu.... Nhà kinh doanh phái sau khi dùng "chất lượng" đột phá những phòng tuyến trên mới có thể khiến sản phẩm của mình được người tiêu dùng ưa chuộng và luôn được tin dùng, qua đó càng chiếm lĩnh được thị phần lớn hơn.
Vừa bán vừa tâng bốc hàng của mình là chất lượng số một. Đây là một kiểu phản công chính diện nhằm phá vỡ phòng tuyến tâm lý của người tiêu dùng. Do phải thay đổi tâm lý khách hàng nên biện pháp tấn công chính diện xem ra rất hao công tổn sức mà hiệu quả lại không cao. Vì thế nhà kinh doanh biết làm ăn thì nên giống như Lý Uyên tránh những trận công kiên chính diện và dùng biện pháp "dụ địch xuất chiến", phải làm sao khiến khách hàng chủ động tìm đến và kiểm nghiệm chất lượng sản phẩm, sau đó thì "tóm sống" khách hàng.
Trên đường quốc lộ một tiểu bang của nước Mỹ có một chiếc xe chở bánh mì đang phóng rất nhanh. Vì ở tiểu bang này vừa xảy ra lũ lụt nên vấn đề lương thực rất cấp bách, bánh mì bán rất chạy mà nơi nào cũng thiếu hàng. Thế là chiếc xe bánh mì đó chẳng mấy chốc bị những người đói khát phát hiện ra và vây lại từng đoàn. Mọi người cướp bánh mì trên xe mà đáng lẽ phải mua, nhân viên áp tải hàng thì nói thế nào cũng không chịu bán. Đám đông phẫn nộ dường như muốn xé nát anh ta.
Nhà báo tới. Người nhân viên áp tải hàng kể rõ nguồn cơn sự việc. Thì ra đây là bánh mì của nhà máy Caterin. Nhà máy này sản xuất bánh mì đi bán, nhưng đặc biệt trên mỗi chiếc bánh mì đều ghi rõ thời hạn bánh bị khô và qui
định rằng quá ba ngày thì tất cả lượng bánh chưa bán được sẽ không được phép bán ra nữa. Số bánh mì trong xe chính là số bánh bị quá ba ngày mà người áp tải hàng đã thu hồi từ các cửa hàng bán bánh của hãng. “Không phải tôi không muốn bán”, nhân viên áp tải hàng nói. "Quả thực là bà chủ của chúng tôi qui định rất nghiêm khắc. Bà ấy qui định rằng bất luận vào lúc nào, trong hoàn cảnh nào, đều không cho phép bất kỳ ai đem bán bánh mì quá hạn sử dụng. Nếu như ai đó cố tình vi phạm, đem bán bánh mì quá hạn cho khách hàng thì nhất định sẽ bị đuổi việc. Nếu tôi bán bánh mì quá hạn cho mọi người thì há chẳng phải tôi tự đập bát cơm của mình sao?".
Sự "ngay thẳng thật thà" của anh nhân viên áp tải hàng khiến cho mọi người vô cùng kinh ngạc và kính phục, ai nấy đều rất cảm thông cho hoàn cảnh của anh ta. Nhưng cái mà những người đói khổ kia càng quan tâm hơn chính là những chiếc bánh mì ngon lành đã "quá hạn mà chưa "mất mùi" kia, họ chỉ muốn dùng miệng của mình để chứng minh những chiếc bánh mì kia là những thứ tuyệt vời nhất ở chính thời điểm này chứ tuyệt đối không phải là thứ hàng hóa "quá hạn" gì hết.
Nhà báo đại diện cho nguyện vọng của mọi người nói với anh nhân viên áp tải hàng. "Anh à, bây giờ đang là thời điểm nóng bỏng, anh hãy bán bánh mì cho mọi người, đừng để họ thất vọng!".
Anh nhân viên áp tải hàng với vẻ mặt thần bí ghé sát tai nhà báo nói: "Bán thì tôi tuyệt đối không dám, nhưng nếu là mọi người tự cướp bánh trên xe thì tôi mới không phải chịu trách nhiệm". “Thế chẳng phải là cướp giật hay sao?" nhà báo nói, "Bọn họ cướp bánh mì, song, vì lương tâm nên để lại một ít tiền tương đương, thế chẳng hóa thành mua như ăn cướp rồi sao?".
Mọi người ngỡ ngàng hiểu ra. Chớp mắt đã mua hết số hàng trên xe. Nhà báo cũng không quên chớp cơ hội chụp lấy một tấm ảnh tuyệt diệu để đăng báo, cảnh người dân tranh nhau cướp mua còn nhân viên áp tải hàng thì ra sức ngăn lại.
Bản tin trên báo phát biểu rõ rằng chất lượng bánh mì của hãng được khách hàng vô cùng tín nhiệm, chưa đầy nửa năm sau, lượng tiêu thụ bánh này tăng vọt hơn năm lần.
Nếu phân tích kỹ một chút, sự thành công huyền bí trong việc bán hàng của người áp tải bánh mì chẳng phải chính là tránh không thổi phồng trực tiếp về chất lượng ra sao mà là dụ mọi người chủ động đến và tự kiểm nghiệm chất lượng đó ư?
Chương 18
Tổng hợp ý kiến đám đông, một công đôi ba việc
Lý Uyên tiến quân đến Trường An, dọc đường đã đi nhanh như chớp tiêu diệt gọn thị trấn quân sự trọng yếu Hoắc ấp với 3 vạn tinh binh phòng thủ của triều đình. Một trận thắng lẫy lừng gây tiếng vang lớn tạo nên thế mạnh như chẻ tre, cứ thế liên tục đánh thắng những nơi hành quân qua như Lâm Phần, Giáng Quận, Long Môn - thành nào cũng đánh, người nào cũng phải hàng. Thế là hào kiệt Quan Trung nô nức xin theo, mỗi ngày những người thuận theo tâm ý Lý Uyên ra tòng quân không dưới hàng ngàn.
Lúc này có một người quê ở Phần Dương (nay là phía tây nam Vạn Vinh, Sơn Tây) tên là Tiết Đại Đỉnh hiến kế cho Lý Uyên rằng, không nên tiến công thành Hà Đông mà nên từ Long Môn qua thẳng sông Hoàng Hà chiếm lấy đại kho lương thực Vĩnh Phong (nay là cửa sông Vị Hà ở phía đông bắc Hoa âm, Thiểm Tây), sau đó "truyền hịch gần xa" là có thể ngồi chơi cũng có thể chiếm được Quan Trung. Hộ Tào Nhiệm Hoàn huyền Hà Đông cũng đưa ra ý kiến qua sông trước để chiếm Hán thành rồi áp sát Hợp Dương (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây), sau đó tiến thẳng chiếm Vĩnh Phong, như vậy mặc dù chưa có được Trường An nhưng Quan Trung đã là vật nằm trong tay.
Lý Uyên định sẽ dùng mưu hành sự nhưng đa số các võ tướng đều tỏ ra rất không bằng lòng, họ nhất quyết muốn thừa thắng xông lên đánh một trận để thu phục Hà Đông. Lý Uyên đành phải dẫn quân chủ lực tiến sát Hồ Khẩu (nay ở bờ sông Hoàng Hà thuộc huyện Tây Nam, Sơn Tây), lệnh cho 6.000 binh vượt Hoàng Hà chuẩn bị đánh Hà Đông.
Trấn giữ thành Hà Đông là đại tướng quân triều Tùy Khuất Đột Thông. Khuất Đột Thông là người rất thiện chiến, thấy quân của họ Lý đã bao vây Hà Đông bèn lập tức ngay trong đêm dẫn vài ngàn tinh binh đánh tập kích vào doanh trại Lý quân, Lý Uyên phải liều chết phản kích mới đuổi lui được quân Tùy vào trong thành. Không lâu sau Lý Uyên phát lệnh tấn công kịch liệt thành Hà Đông nhưng vẫn bất lực vì thành trì kiên cố, tướng giữ thành quá ư dũng mãnh, quân Lý cứ đánh mãi mà không thắng nên đã lãng phí vô khối thời gian vàng bạc tiến quân Quan Trung.
Lúc này lại có thêm không ít người ở Quan Trung theo Lý Uyên đề nghị Lý Uyên phải nhanh chóng vượt sông, tiến về phía tây chiếm lấy Trường An. Thế là Lý Uyên phái triệu tập cuộc họp để bàn hướng đi.
Người phía Bùi Kỵ cho rằng Khuất Đột Thông khiển binh kiên quyết thủ thành, nếu bỏ qua hắn tiến quân đến Trường An, nhỡ Trường An khó chiếm đánh thì muốn thoái binh về phía đông tất sẽ bị Hà Đông chặn đánh, sẽ ngã xuống một vực sâu mà trước mặt sau lưng đều có địch. Vì vậy bắt buộc phải hạ thành Hà Đông trước mới có thể Tây tiến. Trường An vốn là đang muốn
dựa vào Khuất Đột Thông làm quân tăng viện, một khi Hà Đông đã mất, Trường An tất sẽ nghe thấy mà kinh hồn bạt vía, khi đó hễ đánh là sẽ thắng. Lý Thế Dân lại có cách nhìn nhận riêng: Dùng binh quý ở thời gian, thừa thắng tiếp tục tấn công là thuận theo ý nhiều người, hành quân về phía tây là thượng sách mà mọi người đều nghĩ đến. Người của Trường An sẽ trông thấy gió mạnh mà kinh sợ, có trí không bằng dùng mưu, dũng cảm không bằng quyết đoán, "làm được như vậy thì khác nào gây ra một chấn động bên tai". Ngược lại, nếu sai lầm mà lãng phí tháng ngày tại tòa thành kiên cố Hà Đông làm tiêu hao ý chí chiến đấu chắc chắn mọi người sẽ ly tán. Khi đó Trường An sẽ chớp cơ hội hoàn thành công tác phòng thủ, lại cố thủ chờ quân ta mệt mỏi. Chiến pháp như vậy chắc chắn sẽ thất bại. Còn nữa, các hào kiệt ở Quan Trung có ý theo quân ta nhưng vẫn chưa quy thuận, ta mà không kịp thời đến kết nạp thì sau một thời gian bọn họ sẽ trở thành kẻ thù hết. Đến lúc đó, bốn phía đều là quân địch, tiến đánh thì không thắng được
mà thoái lui thì không có đường, có hối hận cũng không kịp nữa rồi. Trong cuộc bàn cãi ai cũng cho rằng mình có lý nên rất sôi nổi ồn ào mà không đạt kết quả gì. Lý Uyên bỗng tuyên bố giải tán cuộc họp, thoáng cười nói rằng: "Ta đã có kế rồi".
Ngày hôm sau Lý Uyên lệnh cho một cánh quân nhỏ tiếp tục bao vây thành Hà Đông, chỉ vây mà không đánh với mục đích kiềm chế sức phòng thủ của Hà Đông, bản thân thì dẫn cánh quân chính nhanh chóng vượt Hoàng Hà, tiến thẳng Trường An.
Tại Triều ấp (Hà Tây), nay thuộc phía tây Đại Lệ, Thiểm Tây, Lý Uyên cho con trưởng Lý Kiến Thành và Lưu Văn Tịnh cùng Vương Trường Hài và vạn binh mã đóng chốt tại kho lương thực Vĩnh Phong để kiên thủ Đồng Quan, phòng có quân Tùy từ phía đông đến trước tăng viện cho Trường An; cho con thứ Lý Thế Dân cùng Lưu Huyền Cơ và Ân Khai Sơn lo phần việc ở vị Bắc rồi từ phía bắc áp sát Trường An, bản thân thì dẫn binh mã cuồn cuộn tiến về phía tây bằng con đường chính kéo thẳng tới Trường An.
Khuất Đột Thông thấy Lý Uyên đã đem quân chủ lực tiến đến hướng Tây bèn lệnh cho Ưng Dương lang tướng Khắc Quân Tố đảm nhiệm chức phòng thủ Hà Đông đồng thời phòng thủ Bạc Bản (nay là châu Tây Bạc, huyện Vĩnh Tế, Sơn Tây), bản thân ông ta dẫn vạn quân chủ lực đến trợ giúp cho Trường An. Tuy nhiên Lý Uyên đã phòng bị từ trước, Khuất Đột Thông vừa ra khỏi Hà Đông đã bị quân Lý Kiến Thành đón tại Đồng Quan chặn đứng lại ngay ở phía đông Đồng Quan. Còn Lã Thiệu Tông là tướng quân do Lý Uyên cử ở lại bao vây thành Hà Đông lập tức chớp thời cơ phát lệnh tấn công thành. Khuất Đột Thông rơi vào thế tiến lui không có chỗ nên đã phải đầu hàng sau khi Lý Uyên chiếm được Trường An.
Lại nói về Lý Thế Dân được cha cử lo toan mọi việc ở Vị Bắc, dọc đường đã thu nạp số đông quân Tùy và các nghĩa quân nông dân, sau thời gian ngắn đã
được mệnh danh là “Thắng binh cửu vạn". Thiết lập doanh trại tại Kinh Dương rồi bình định Phù Phong (nay là Phụng Tường, Thiểm Tây), ít lâu sau lại qua Vị Thủy và đóng quân tại Cố Thành Trường An (nay thuộc đông bắc Tây An, Thiểm Tây).
Lúc này, những người trong họ tộc nhà Lý Uyên như con gái Lý Thị, con rể Đoạn Luân, em họ Lý Thần Thông cũng khởi binh hưởng ứng và còn thu nạp được một số nghĩa quân ở một số vùng lân cận, số người lên tới 10 vạn, chiếm được một số nơi như Lan Điền, Châu Chí, Võ Công, tạo nên vòng vây ba phía đông - nam - tây đối với Trường An.
Ngày 4 tháng 10 năm 617, Lý Uyên đã tiến đến cận thành Trường An và đóng quân tại phía tây bắc Xuân Minh (một trong ba cửa thành phía đông Trường An). Trước đó hai ngày, Lý Kiến Thành cũng dẫn quân từ Đồng Quan đuổi kịp đến Trường An và đóng tại Trường Lạc cung.
Đến lúc này Lý Uyên đã có trong tay đại quân hơn 20 vạn người và đang vây chặt Trường An. Ngày 27 tháng 10, Lý Uyên hạ lệnh tấn công thành. Cháu Tùy Dạng Đế, Đại vương Dương Hiệu mang tiếng là quan trấn giữ Tây Kinh, thật ra mới 3 tuổi không hề có chủ kiến gì. Thủ hạ của Đại vương là quan đại thần Sử Vệ Thăng sợ hãi vỡ mật mà chết. Chỉ còn tướng quân Âm Thế Sử dốc sức chống đỡ nhưng đã như rắn mất đầu nên chẳng thể làm gì được. Lý Uyên chiếm được Trường An dễ như bỡn.
Lý Uyên có thể thuận lợi đánh thắng Trường An là nhờ tính đúng đắn của quyết sách ở Hà Đông. Phía Bùi Kỵ chủ trương đánh Hà Đông trước, Lý Thế Dân lại muốn Quan Trung trước. Lý Uyên đã quyết định giữ lại một bộ phận lính để giám sát và chặn đánh quân Tùy ở Hà Đông, còn quân chủ lực thì tiến thẳng phía tây. Bề ngoài tưởng chừng Lý Uyên đứng ra làm người hòa giải áp dụng biện pháp dung hòa, thực ra đó là diệu kế tổng hợp ý kiến của đám đông, tiến hành một công đôi ba việc. Qua mấy lần giao đấu, Lý Uyên hiểu rằng Khuất Đột Thông vẫn là một tướng Tùy tinh nhuệ lại đang trấn giữ thành trì vững chắc bên sông Hoàng Hà, nếu cứ tiếp tục vây đánh thì không biết chừng nào mới giành được thắng lợi. Bỏ qua Hà Đông mà hướng về phía tây, chỉ cần thấy Trường An có chuyện là Khuất Đột Thông chắc chắn sẽ đến chi viện, lời cảnh báo "trước mặt sau lưng đều có địch" tất sẽ biến thành hiện thực. Quyết sách của Lý Uyên chu đáo từ đầu đến đuôi, vừa tranh thủ được thời gian quý báu lại vừa thu nạp kịp thời đại quân khởi nghĩa ở Quan Trung, đồng thời sau khi hạ được Trường An, Lý Uyên lại nhân cơ hội ép Khuất Đột Thông đầu hàng, có được tướng giỏi lại vừa có được căn cứ địa cực kỳ quan trọng để có thể tiến lên phía trước. Thật đúng là một bước tiến làm xoay chuyển mọi tình thế.
Cách làm "tổng hợp ý kiến đám đông, một công đôi ba việc" cũng chính là cách ứng xử thông minh trong việc làm ăn buôn bán.
Tại bang Michigan của Mỹ có một nhà máy ôtô tên là Asimobi, tình hình
kinh doanh của nhà máy đang xấu đi và lâm vào tình trạng phải đóng cửa. Giám đốc nhà máy quyết định cải thiện khâu tiêu thụ nhằm làm thay đổi cục diện. Áp dụng biện pháp tiêu thụ như thế nào là tốt nhất? Giám đốc suy nghĩ rất nhiều về tình trạng của nhà máy, chú trọng vào sự sống còn của nhà máy, phân tích đánh giá nghiêm túc và so sánh các thủ thuật tiếp thị của các đối thủ cạnh tranh cũng như của các loại hàng hóa khác. Cuối cùng tổng hợp mọi biện pháp, giám đốc đã mạnh dạn đưa ra phương án tiếp thị “mua một tặng một". Hiện nhà máy đang tồn một lô xe con vẫn chưa kịp bán đi, tiền thuê không thể quay vòng mà giá thuê kho trữ hàng ngày một tăng. Vì vậy trong quảng cáo nói rõ: ai mua một chiếc ôtô con hiệu "Tozasi" sẽ được thêm một xe hiệu "South" miễn phí.
Cách tiếp thị mua một tặng một đã có từ lâu và cũng nhiều nơi sử dụng. Nhưng thông thường chỉ tặng miễn phí một số mặt hàng giá trị không lớn. Ví dụ như mua vô tuyến tặng một đồ chơi nhỏ, mua máy ảnh tặng một hộp đựng máy ảnh... Phương thức tiếp thị tặng thêm cho khách hàng một chút lợi nhỏ có tác dụng tiêu thụ sản phẩm rất nhanh. Nhưng lâu dần có nhiều người sử dụng cách này nên khách hàng cũng không còn nhiều hứng thú nữa.
Tặng quà và tiền hoa hồng cho khách hàng cũng là một cách tiếp thị đã cũ nhưng giá trị món quà và khoản tiền hoa hồng vẫn tương đối thấp nên không đạt hiệu quả lớn đối với người tiêu dùng.
Nhà máy ôtô Asimobi, tìm hiểu kỹ càng các biện pháp tiếp thị, tìm ra ưu nhược điểm và cố gắng hết sức khắc phục những khuyết điểm khiến khách hàng nhàm chán, mạnh dạn đề ra biện pháp xuất chúng: Mua một chiếc ôtô tặng một chiếc ôtô , quả nhiên gây kinh động lòng người, khiến nhiều người vốn đã nhàm chán với kiểu quảng cáo này phải mở to mắt, đâu đâu cũng bàn luận xôn xao. Rất nhiều người sau khi biết tin đã chẳng quản đường xa mà đến tận nơi xem sự thể ra sao. Cửa hàng tiêu thụ sản phẩm của hãng chả mấy chốc đã đông kịt người. Những chiếc xe tồn đọng trước đây không ai thèm hỏi tới nay lại được bán đi với giá 2 .500 đô la, trong quảng cáo một mực nói rằng mua một chiếc ôtô được tặng miễn phí một chiếc "South" mới.
Hãng này tiếp thị như vậy tương đương với việc mỗi chiếc xe được bán rẻ đi 5.000 đô la, liệu có phải là lỗ vốn?
Không những không lỗ vốn mà hãng này còn có thêm nhiều điểm thuận lợi. Bởi vì lô xe đó mà sau một năm không bán được thì lợi tức hao phí, lệ phí thuê kho cùng với phí bảo dưỡng đối với mỗi chiếc xe cũng xấp xỉ với số tiền nói trên. Mà bây giờ xe đã bán hết, tiền vốn nhanh chóng quay vòng, đã có thể tiếp tục sản xuất qui mô lớn, số người dùng xe hiệu "Tozasi" tăng lên rất nhiều, danh tiếng của hãng lớn thêm lên, tỉ lệ chiếm lĩnh trên thị trương cũng cao hơn; lại xuất hiện thêm một hiệu xe mới - xe "South". Hãng xe này nhờ việc "tặng quà , mà nổi tiếng, cuối cùng đã có thể độc lập trụ vững. Nhà máy mô Asimobi từ đó đã cải tử hoàn sinh, kinh doanh càng phát đạt.
Chương 19
Tránh lúc địch hăng, đánh khi địch nản
Tháng 8 năm 618, Lý Thế Dân dẫn quân đến Long Tây giao chiến với Tiết Nhân Cảo.
Tiết Cử, cha Tiết Nhân Cảo vốn là một hào sĩ ở Long Tây, giữ chức quan hiệu úy của Kim Thành phủ. Sau nhờ biết nắm bắt thời cơ hành sự nên có trong tay vài chục vạn quân và làm chủ hoàn toàn Long Tây, thanh thế vang dội. Lúc mới đầu tự xưng là Tây Tần Bá Vương, sau lại xưng là Tần Đế. Tiết Cử chết thì Tiết Nhân Cảo kế thừa ngôi vị. Tiết Nhân Cảo giỏi cưỡi ngựa bắn cung, võ dũng hơn người, được mệnh danh "chấp vạn quân địch", đã từng tham chiến trăm trận, mỗi trận đều báo tin đại thắng. Tháng 6 năm 618 đánh bại đại quân Đường do Bát tổng quản dẫn đầu, giết luôn Đường đại tướng quân Lý An Viễn, bắt sống Hoằng Cơ, giết và bắt tù binh hơn một nửa số sĩ tốt quân Tùy.
Tiết Nhân Cảo cũng định tiến công Trường An, tất nhiên không coi Lý Thế Dân ra gì. Lý Thế Dân vừa mới chiếm đóng ở Cao Giá (nay ở phía bắc Trường Vũ, Thiểm Tây), Tiết Nhân Cảo vội phái tướng quân dũng mãnh Tông La Hầu đem quân xông tới đại bản doanh Triết Giá (nay thuộc phía đông bắc Kinh Xuyên, Cam Túc), đứng ở phía trước trướng của Lý Thế Dân dương oai diễu võ, gọi tên khiêu chiến.
Lý Thế Dân không chút phản ứng, nghiêm lệnh cho tướng sĩ phòng thủ cho chắc, không được manh động, trái lệnh sẽ bị chém đầu.
Nhưng Tông La Hầu không hề nản, ngày nối ngày đều ra khiêu chiến, thậm chí còn chửi mắng, quân Đường tức tối không chịu được, ai nấy nắm chặt nắm đấm, hận rằng không được lập tức xuất mã quyết một trận sống còn. Chỉ vì quân lệnh như sơn nên đành phải tìm Lý Thế Dân thỉnh chiến.
Lý Thế Dân tuyên dụ cho các tướng sĩ "Quân ta vừa bị thất bại, sĩ khí hao tổn mà đối phương đang thừa thắng xông lên chắc chắn là đang ở thời điểm mạnh nhất. Quân ta bắt buộc phải cố thủ chặt chiến lũy để nuôi dưỡng nhuệ khí, tránh lúc địch đang hăng. Đợi đến lúc nhuệ khí địch giảm xuống mới có thể đánh một trận thắng.
Các tướng sĩ nghe lệnh cứ bán tín bán nghi, nhưng không tiện tranh luận với Lý Thế Dân đành cố gắng chịu đựng, người nào về chỗ người nấy. Ai ngờ hôm nay không đánh, ngày mai không đánh, thế là đã năm, mười ngày trôi qua, Lý Thế Dân vẫn không thay đổi thái độ, từ tướng quân cho tới sĩ tốt đều nóng máu sôi gan như một ngọn núi lửa chực phun trào, ai nấy đều sẵn khí khái muốn nhanh chóng được quyết chiến một trận với Tiết quân, có chết cũng cam tâm.
Bỗng nhiên có một tướng lĩnh dẫn vài trăm kỵ binh từ phía địch kẻo đến xin hàng Lý Thế Dân. Vị tướng này nói ông ta tên là Lương Hồ Lang, vì trong
doanh trại đã cạn lương thực, biết chắc sắp bị quân Đường tiêu diệt nên đến trước để xin hàng. Lý Thế Dân căn cứ mọi tình hình để phán đoán, thấy lời Lương Hồ Lang nói là thật, bèn lệnh cho hành quân tổng quản là Lương Thực dời từ trên cao xuống Thiển Thủy Nguyên dựng trại và khiêu chiến Tiết quân, dụ địch ra đánh.
Tông La Hầu vui mừng quá đỗi, lập tức dẫn quân chủ lực tới đánh Lương Thực. Lương Thực thì lợi dụng địa thế hiểm trở mà kiên thủ. Tông La Hầu đánh mấy ngày không thắng nên sốt ruột vô cùng cứ vòng qua vòng lại và càng bất chấp tất cả mà phát lệnh tấn công.
Lúc này Lý Thế Dân lại lệnh cho hữu võ hầu đại tướng quân Bàng Ngọc xuất trận tại phía nam Thiển Thủy Nguyên. Trước khi đi còn quan tâm dặn dò: nếu Tông La Hầu dẫn quân tới đánh thì phải quyết tâm đánh với hắn đến cùng, không được bỏ chạy.
Bàng Ngọc phụng mệnh đưa quân đến Thiển Thủy Nguyên dàn trận. Chiến trận vừa dàn xong thì Tông La Hầu đã bỏ qua Lương Thực mà kéo đến đem theo rất nhiều binh mã vây chặt Bàng Ngọc để đánh từ bốn phía. Bàng Ngọc hô lớn "Nguyên soái liệu địch như thần, nhất định sẽ có quân chi viện, các huynh đệ chớ có sợ hãi, phải quyết tâm tiêu diệt địch! Ta cũng quyết không sống một mình!". Nói xong thì thúc ngựa dẫn đầu quân xông vào giữa quân Tông La Hầu chém giết. Các thuộc hạ của Bàng Ngọc đã phải chờ đợi hơn hai tháng, mong mỏi có cơ hội để quyết chiến, nay đã ở vào tình thế như vậy mà không quyết chiến thì chỉ còn đường chết, thế nên tất cả đều hăng hái noi gương Bàng Ngọc dũng cảm xông lên, lấy một chọi mười.
Máu chảy đầu rơi không kể xiết, ông trời nhìn thấy phải buồn lòng. Quân Đường anh dũng, quân Tiết người đông, nhất thời khó mà phân biệt cao thấp. Nhưng Bàng Ngọc thừa biết nếu dựa vào thực lực thì có anh dũng đến đâu cũng không chọi nổi nhiều người, vì thế chẳng mấy chốc đã trông thấy rõ thế yếu của quân Đường. Bàng Ngọc đang lo lắng trong lòng, bỗng thấy các sĩ tốt trong đám quân của Tông La Hầu cứ thi nhau tháo chạy, có một đại soái quân Đường tay cầm trường mâu bỗng đột ngột xuất hiện, đằng sau lại có thêm vài mãnh tướng đang hăng hái ứng viện Bàng Ngọc. Bàng Ngọc thấy người đang tiến đến không phải ai khác mà chính là đại soái chinh phạt phía tây Lý Thế Dân lần này đến bình định Long Hữu.
Bàng Ngọc và các tướng sĩ hứng khởi lạ thường cùng nhau kết hợp với chủ soái đánh địch, bên ngoài lại cổ quân Đường tiếp ứng, trong ngoài dồn đánh. Quân Tiết đang lớn mạnh như sơn bỗng nhiên tan tác chi còn lại những sinh mạng cuối cùng đang bị bắt, bị giết.
Trong chiến dịch này, thế lực Lý Thế Dân so sánh với thế lực của quân địch thì rõ ràng là không bằng nên phải dùng cách "tránh lúc quân mạnh, đánh khi quân rệu rã". Trước tiên dưỡng binh, dụ quân địch cầm cự được hai tháng, đợi khi quân địch lương thực thiếu thốn, ý chí giảm sút, chỉ muốn quay về
nhà thì sẽ dụ địch giao chiến. Sau đó bất ngờ xuất kỳ binh, đánh nhanh thắng lớn, triệt để bẻ gãy ý chí quân địch. Dưỡng quân hai tháng thì có thể đạt được hiệu quá trong khoảnh khắc diệu kỳ. Đối diện với hoàn cảnh này, cần phải đạt được hiệu quả tốt đẹp, với cách chống giặc này của Lý Thế Dân thì có thể xem là thượng sách.
Một số công ty của Nhật và một số công ty Mỹ tiến hành một cuộc đàm phán lớn về kỹ thuật. Khi đàm phán bắt đầu, một đại biểu cấp cao phía Mỹ đưa ra một đống lớn tài liệu đủ loại về thông số kỹ thuật, vấn đề cần thương lượng, phí tổn... rồi thao thao bất tuyệt nói những ý kiến phía công ty mình mà chẳng hề để ý đến phản ứng các đại biểu của các công ty bên Nhật. Nhưng thực tế thì đại biểu của phía công ty bên Nhật Bản cũng chẳng hề phát biểu gì mà chỉ ngồi chăm chú lắng nghe, ghi chép.
Sau khi phía Mỹ thuyết trình mấy tiếng đồng hồ liễn hỏi ý kiến trưng cầu của đại biểu Nhật Bản. Dường như những đại biểu bên phía Nhật Bản đã bị khí thế ào ạt của Mỹ làm cho trở nên hoang mang, khiếp sợ. Họ chỉ biết lặp đi lặp lại không ngừng: "Chúng tôi chẳng rõ ", “chúng tôi còn chưa chuẩn bị kỹ càng ", “chúng tôi còn chưa có thông số kỹ thuật", "xin hãy cho chúng tôi thời gian để còn chuẩn bị". Thế là lần đàm phán đầu tiên kết thúc một cách không đầu không cuối như vậy.
Vài tháng sau, lần đàm phán thứ hai lại được mở ra. Phía các công ty Nhật Bản có lẽ cho rằng đoàn đại biểu đi đàm phán lần trước không cân sức nên đã đổi toàn bộ thành viên. Đoàn đàm phán mới đến nước Mỹ làm phía Mỹ lại phải lần nữa trình bày lại nội dung mà lần trước họ đã trình bày. Chẳng ngờ kết quả cũng như lần đàm phán trước với lý do “chuẩn bị không đầy đử" "còn cần phải nghiên cứu lại" để kết thúc cuộc đàm phán.
Về sau, lần đàm phán thứ ba cũng kết thúc với những lý do tương tự từ phía các công ty Nhật Bản. Khi vòng đàm phán thứ ba lại kết thúc một cách không rõ ràng như vậy, ông chủ của công ty phía Mỹ không kìm nén được giận dữ, cho rằng trong lần làm ăn này phía Nhật không có thành ý coi nhẹ kỹ thuật và cơ sở của công ty mình nên đã đưa ra thông điệp cuối cùng: Nếu sau nửa năm nữa mà phía Nhật vẫn còn tình trạng như thế thì sẽ xé bỏ hợp đồng hợp tác giữa hai bên. Vì thế, đoàn đàm phán cũng bị công ty phía Mỹ giải tán, phong tỏa toàn bộ tài liệu đợi nửa năm sau đàm phán.
Không ngờ, chi vài ngày sau phía Nhật Bản đã đưa toàn bộ những thành viên đã từng tham gia các cuộc đàm phán trước đó rầm rộ bay đến Mỹ. Công ty phía Mỹ vô cùng kinh ngạc trước sự việc vừa xảy ra vội vàng triệu tập những thành viên của đoàn đàm phán mà nay đã tản mỗi người một nơi quay về để một lần nữa ngồi vào bàn thảo luận.
Lần đàm phán này, thái độ của phía Nhật Bản hoàn toàn khác trước, họ mang đến một số lớn các tài liệu, thông số có sức thuyết phục cao, bản kê chi tiết tất cả các hạng mục có liên quan đến kỹ thuật, sắp xếp hợp tác, nhân sự,
nguyên liệu... thậm chí còn hết sức tỉ mỉ và rất vững chắc cho phía Mỹ xem rồi đưa cho họ bản hợp đồng hợp tác để phía Mỹ ký vào.
Người Mỹ trong một phút hồ đồ đã chẳng tìm ra một điều gì sai sót trong bản hợp đồng nên đành phải ký. Chẳng cần nói bản hợp đồng này có lợi như thế nào thì ai cũng biết rồi.
Chương 20
Truy đuổi tàn quân đến cùng
Mùa đông năm 618, Lý Thế Dân âm thầm chịu đựng sự khiêu chiến và nhục mạ, chỉ sau khi thành Cao Giá chỉ giữ được không đầy hai tháng Lý mới lãnh đạo kỵ binh bất ngờ đánh vào đội quân Tông La Hầu diễu võ dương oai. Đội quân Tông La Hầu được lãnh đạo bởi "Tần Đế" Tiết Nhân Cảo gồm toàn những quân tinh nhuệ. Bản thân Tông La Hầu cũng là một vị tướng lĩnh dũng mãnh nhưng thấy mình đang rơi vào thế cục thua mười mươi nên đành phải theo đám bại binh tiến vào vùng rừng hoang.
Lý Thế Dân không rời khỏi yên cương ra sức thúc quân truy kích, đội quân hùng hậu cuối cùng cũng cắt bỏ bớt đi bộ binh mà chọn lấy 2.000 kỵ binh tinh nhuệ, đích thân dẫn đầu truy đuổi với tốc độ cao nhất. Tông La Hầu vì tính mạng của mình nên sợ hãi vô cùng chẳng còn biết đông tây gì nữa, Lý Thế Dân cứ thế ào ạt truy đuổi về đến Triết Giá (nay là đông bắc Kinh Xuyên, Cam Túc).
Thành Triết Giá là trấn thủ của "Tần Đế” Tiết Nhân Cảo. Tiết Nhân Cảo có biệt danh là "Vạn nhân đích", có hàng vạn tướng lĩnh tài giỏi, dùng toàn bộ vùng đất rộng lớn Bảng Thạch để làm căn cứ, thực lực vô cùng hùng hậu đã từng trong 6 tháng đánh quân nhà Đường thua tan tác do Bát tổng quản lãnh đạo. Một vị tướng sĩ là chú của Lý Thế Dân thấy Lý Thế Dân chỉ đem theo 2.000 kỵ binh tiến đánh Triết Giá không thể không lo sợ bèn vội vàng khấu đầu khuyên can: "Quân của ta tuy có thể đánh bại được Tông La Hầu nhưng Tiết Nhân Cáo anh dũng, lại được lợi thế thành trì kiên cố, không thể vọng động. Xin hãy hạ lệnh thu quân tạm thời nghỉ ngơi, đợi thương lượng xong rồi hãy quyết định hành động” .
Lý Thế Dân bèn đáp: "Tôi đã suy nghĩ kỹ rồi, thế cục ngày hôm nay đã rất rõ ràng, không thể bỏ qua. Xin chú đừng nhiều lời! , Nói đoạn thúc binh khiển mã lập tức tiến đánh Triết Giá.
Quân Tiết Nhân Cảo bày binh bố trận bên ngoài thành Triết Giá chờ đợi với mục đích chặn quân của Lý Thế Dân ở bên kia sông Kình. Hai bên lâm trận, chưa giao đấu ở tuyến đầu thì không ít tướng lĩnh của Tiết Nhân Cảo đã vượt sông Kình sang đầu hàng Lý Thế Dân. Tiết Nhân Cảo thấy tướng sĩ không còn ý chí chiến đấu nữa vội vàng rút binh vào thành cố thủ.
Chẳng lâu sau, trời đã xế tà, đại quân của Lý Đường đã truy kích đến bèn hợp lực vây quanh hào dưới chân thành liên tục ào ạt công kích. Quân tinh nhuệ của Tông La Hầu càng ngày càng suy giảm, đến nửa đêm, những tướng lĩnh giữ thành lần lượt ra đầu hàng. Quân Tiết Nhân Cảo trí cùng lực kiệt không còn cách nào khác phải mở cổng thành cho Lý Thế Dân, quân Đường đánh bại Tây Tần, thu được vùng đất Bảng Thạch to lớn.
Sau khi Lý Thế Dân chiến thắng, không ít tướng lĩnh thuộc hạ hỏi ông: "Sau khi chiến thẳng Tông La Hầu, lại bỏ bớt bộ binh, không dùng công cụ gì để đánh thành, chỉ dùng kỵ binh truy kích, rồi chẳng phải phí sức lực bao nhiêu mà chiếm được thành Triết Giá là bởi làm sao?”. Lý Thế Dân đáp: "Quân của Tông La Hầu lãnh đạo đều là bọn thô lỗ vùng tây bắc, vũ dũng vô mưu. Chúng ta chỉ dựa vào may mắn mới đánh bại được chúng, nhưng chỉ là làm chúng tan tác mà số quân bị bắn chết thì không nhiều. Nếu lúc đó chúng ta không truy đuổi đám tàn quân thì chúng tất sẽ chạy được về tới đại bản doanh Triết Giá, chẳng khó khăn gì Tiết Nhân Cảo cũng phục hồi lại được đám tàn quân trở nên dũng mãnh, sau đó cố thủ trong thành, chúng ta có muốn tấn công cũng khó. Chi bằng mượn cơ hội này truy kích đám tàn binh đến cùng làm cho chúng hết lối quay về thành, chỉ có thể từ xa đánh lại, như thế thành Triết Giá đương nhiên sẽ suy yếu. Tiết Nhân Cảo cũng bị dũng khí của quân ta làm cho khiếp sợ chẳng kịp nghĩ ra mưu kế gì được chỉ còn nước đầu hàng. Chúng ta truy đuổi đám tàn quân đến cùng nên chiến thắng mới đến dễ dàng như vậy".
Quân sĩ nghe xong không thể không phục, đồng thanh nói: “Đại vương mưu trí hơn người, thành khó mấy cũng hạ được".
Rõ ràng, mọi người vẫn nghĩ, đã là tàn binh rồi thì chẳng còn nguy hiểm gì hà tất phải đuổi đến cùn? Nhưng những người thực sự có trí tuệ lại không cho là như vậy bởi vì truy đuổi đến cùng đám tàn binh lại là một cách cực kỳ hiệu quả.
Hai mươi năm trước đã có người làm một thống kê vui: Đem toàn bộ số chai Coca Cola đã bán xếp theo chiều thẳng đứng thì chiều dài của nó bằng 5 lần đến và về từ trái đất đến mặt trăng, hoặc nếu xếp thành một con đường rộng 7,5 mét thì có thể quấn 5 vòng xích đạo.
Coca Cola là sản phẩm với hương vị và bao bì độc quyền, nhãn mác tinh đẹp, quảng cáo ấn tượng, qua mấy đời vất vả kinh doanh nay đã trở nên thịnh hành toàn cầu, chiếm thị phần cực lớn trên thị trường. Già trẻ đều thích uống Coca Cola, hơn nữa mạng lưới tiêu thụ mạnh mẽ khiến cho nó có mặt khắp nơi trên thị trường. Đây gọi là công kích không ngừng.
Đối với một công ty số một trên thế giới mà nói, tất cả các tập đoàn nước giải khát đều là bại tướng của họ, đều là tàn quân không đường thoát. Đối với những kẻ bại trận không có khả năng chống trả thì Coca Cola có thái độ coi thường cho rằng mình chỉ cần giữ vững ngôi vị của mình, không cần phải
“cạn tàu ráo máng” .
Không ngờ Coca Cola vừa có biểu hiện lơi lỏng thì vô số “tàn quân" lại gượng dậy được, thậm chí một số trong đó còn trở thành "đạo quân" mạnh bắt đầu khiêu chiến đến cùng ngôi vị độc tôn của Coca Cola, bắt đầu xâu xé lãnh địa độc tôn của vương quốc Coca Cola trong đó công ty Pepsi ra đời sau Coca Cola 2 năm lại trở thành một "đạo quân" hùng mạnh.
Trong cuộc chiến thứ hai, lượng tiêu thụ của Pepsi chưa bằng một phần tư của Coca Cola. Pepsi đã đánh trúng vào tâm lý tự cho mình là "anh cả" của Coca Cola, dựa vào đặc trưng văn hóa của hiện tượng thay thế càng ngày càng nổi bật từ sau cuộc chiến lần thứ hai, nhất là từ những năm 60 trở lại đây, Pepsi đã đoán đúng ý nguyện của thanh niên muốn phản kháng kịch liệt, phân biệt ranh giới rõ ràng với thế hệ những người lớn tuổi, đề ra hàng loạt các khẩu hiệu quảng cáo như: "Ngày nay đối với những người tiêu dùng tự nhận mình là thanh niên, Pepsi chính là sự lựa chọn tốt nhất của các bạn", "Pepsi - sự lựa chọn của thế hệ mới” nên đã đoán được tâm lý của thanh niên muốn chạy theo mốt thời trang, muốn thoát khỏi cách sống của thế hệ trước, đồng thời cũng thu hút được những người già và trung niên muốn thể hiện mình vẫn còn tràn đầy sức trẻ. Trong các phương thức quảng cáo của mình Pepsi luôn thể hiện chủ đề nổi bật là thanh niên hăm hở, thả sức uống Pepsi, từ đó thúc đẩy sự lựa chọn dùng Pepsi của thanh niên, kích thích ham muốn được dùng của họ, xây dựng vững chắc hình tượng trẻ trung của sản phẩm.
Đối mặt với sự tiến công hùng hổ đầy vẻ hăm dọa của Pepsi, Coca Cola đang trên "ngai vàng" cũng bủn rủn cả chân tay, tỏ rõ sự bất lực. Sự phòng ngự tiêu cực liên tiếp dẫn đến sự hao binh tổn tướng, mất dần thị trường của Coca Cola. Đến năm 1985 thị phần của Pepsi đã vượt trên cả Coca Cola, gấp 1,5 lần Coca Cola.
Tình hình đã có những biến đổi đầy kịch tính, lúc đó Coca Cola trở thành kẻ bại trận. Nhưng Pepsi vẫn không hề có ý buông lỏng, một mực truy đánh đến cùng ngay trước hôm Coca Cola tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm ngày thành lập. Pepsi đã “đuổi”, đến tận cửa nhà Coca Cola, khơi dậy một cuộc quyết chiến với khí thế rầm rộ.
Pepsi đã tiến hành một cuộc trắc nghiệm ngầm về mùi vị sản phẩm, kết quả là đa số người tiêu dùng đều rất thích Pepsi chứ không phải là Coca Cola! Đây có thể coi là một cuộc tử chiến về chất lượng "ngắm đúng sào huyệt"! Song trong buổi lễ mừng 100 năm ngày thành lập đó Coca Cola đã thất bại thảm hại!
Pepsi vẫn không chịu buông lơi như cũ, thừa thắng xông lên, tiến hành một cuộc tô vẽ trên quy mô lớn trong cuộc cạnh tranh này. Coca Cola muốn tránh cũng không được, quyết định bắt đầu nghiên cứu chế tạo ra một phương pháp phối chế mới - nhất thiết phải thắng được Pepsi về chất lượng khẩu vị, sau đó vào tháng 4 năm 1985 đột nhiên tuyên bố sẽ thay đổi phương pháp
phối chế đã dùng suốt 99 năm qua, áp dụng phương pháp vừa nghiên cứu thành công, đồng thời tuyên bế sẽ lập một kỷ lục mới trong ngành thức uống của Coca Cola dựa vào phương pháp mới. Chuyện này đã trở thành một bản tin gây chấn động toàn cầu.
Không ngờ đây lại là một nước cờ sai lầm dẫn đến việc chữa lợn lành thành lợn què: Coca Cola vốn là cùng sinh trưởng với nước Mỹ và từ lâu đã trở thành biểu tượng của tinh thần văn hóa dân tộc của nước Mỹ, thay đổi cách pha chế thì rõ ràng đã làm tổn hại đến tình cảm của rất nhiều người tiêu dùng. Mỗi ngày công ty Coca Cola nhận được vô số những bức thư và 500 cú điện thoại phản đối, thậm chí còn mở ra một cuộc biểu tình phản đối. Công ty Coca Cola đã thật sự trở thành một "kẻ bại trận" cùng đường từ "ngôi vua".
Pepsi lại vẫn "thừa thắng truy đuổi tàn quân", họ đã ngay lập tức làm quảng cáo phát liên tục 3 tháng liền trên truyền hình và đã giành được những khách hàng thường xuyên yêu thích Coca Cola, thay đổi địa vị vốn rất uất ức từ bao lâu nay.
Công ty Coca Cola đang ở trong bước đường cùng lại phải đối mặt với đòn truy kích "tàn nhẫn" như vậy cũng đã nhanh chóng tỉnh ngộ ra. Vì thế mà trong lúc tìm đường tháo chạy luôn luôn tìm cách mượn cớ phản kích để khôi phục địa vị huy hoàng. Một cuộc chiến lại bắt đầu. Mà trước khi tiến hành cuộc truy kích triệt để, cuộc đại chiến cạnh tranh đó luôn luôn như là lúc "vở kịch mới bắt đầu", chưa biết ai thắng ai thua mà chỉ có thể thấy ai là người thực sự truy kích được tàn quân, giết chết những tế bào có khả năng làm cho đối thủ đã lụi bại lại sống dậy.
Coca Cola lại bắt đầu phấn chấn, hăng hái trở lại, dốc toàn lực vào cuộc "huyết chiến gian khổ” hơn.
Chương 21
Dốc toàn lực lượng, nắm bắt cơ hội
Sau khi Lý Uyên kiến lập triều Đường và củng cố Quan Trung, lực lượng có thể chống chọi với Lý Đường chỉ có hai thế lực lớn là của Vương Thế Sung và Đậu Kiến Đức, vì vậy Lý Uyên thừa thắng rời Quan Trung hướng thẳng phía đông bình định Trung Nguyên, thống nhất toàn quốc.
Không ngờ vào tháng 4 năm Vũ Đức thứ 2 đời Đường Cao Tổ (năm 619), Đột Quyết xúi giục Lưu Vũ Chu phát lệnh đánh Đường, tiến công Tiên Thứ (nay là Tiên Thứ thuộc tĩnh Sơn Tây), tập trung đánh Thái Nguyên. Quân Đường phải tăng viện mấy lần mà vẫn bị đại bại. Trấn giữ Thái Nguyên là Lý Nguyên Cát trong đêm dẫn bầu đoàn thê tử tháo chạy đến Trường An. Lưu Vũ Chu men theo phía nam Phần Thủy, Phổ Châu (Châu Trị nay thuộc Lâm Phần, Sơn Tây) tiến quân, hầu như không thành nào không phá. Tháng
10 lại qua Phổ Châu, Cối Châu (nay là Dực thành ở Sơn Tây). Cùng thời gian đó, một nông dân người Hạ Huyện tên là Lữ Sùng Mậu vì phản đối quân Tùy thực hiện vườn không nhà trống nên đã tập hợp quân khởi nghĩa cùng hưởng ứng với Lưu Vũ Chu. Vương Hành Bản trước cũng là Tùy tướng đang ở Bạc Bản cũng nhân cơ hội câu kết với Lưu Vũ Chu. Vì thế thành Hà Đông của nhà Đường trong phút chốc đã bị thất thủ.
Được tin Thái Nguyên thất thủ, Lý Uyên vô cùng kinh hãi: “Cường binh Phổ Dương có tới hàng vạn, lương thảo có thể dừng cả 10 năm, một nơi hưng thịnh như vậy mà phải mất vào tay bọn chúng” . Lại một Hà Đông, Quan Trung bị đe dọa, lòng người hoang mang nhụt mất chí phòng thủ. Lý Uyên thấy “quân đạo tặc mạnh như vậy thì ta khó lòng mà chống cự” , đành phải "hy sinh phía đông Hoàng Hà, thận trọng gìn giữ Quan Trung vậy", có vẻ như hy vọng thống nhất Trung Nguyên đã bị dập tắt.
Lý Thế Dân thì lại không chịu buông xuôi mà cho rằng chỉ cần nỗ lực giành giật lại Hà Đông để tranh thủ tình hình có lợi ban đầu là có thể giữ được. Đoạn, không ngại nguy hiểm, hăng hái xung phong: "Không lấy lại Hà Đông thì Quan Trung sau này cũng sẽ cùng chung số phận, càng không thể nói đến việc thống nhất đất nước. Nguyện xin dẫn 3 vạn tinh binh đi bắt Lưu Vũ Chu, dẹp tan quân đạo tặc, chiếm lại thành đã mất".
Đây là một trọng trách vô cùng nguy hiểm, gian khó mà hy vọng lại cực nhỏ, nhưng Lý Thế Dân vẫn quyết lợi dụng khoảng thời gian tháng 11 năm nay sông Hoàng Hà đóng băng, dẫn quân vượt qua sông đến đóng quân tại Bách Bích (nay là phía tây nam Tân Triết, tỉnh Sơn Tây) - nơi có thể trông thấy thuộc hạ của Lưu Vũ Chu là Tống Kim Cương mà phẫn nộ.
Tống Kim Cương vốn là thủ lĩnh một đội nghĩa quân hơn vạn người ở Dị Châu (nay là Dị Huyện, Hà Bắc) vừa bị Đậu Kiến Đức đánh bại nay quy hàng theo Lưu Vũ Chu. Hắn trở thành em rể của Lưu Vũ Chu, lần này xuống phía nam đánh quân Đường hắn luôn đi tiên phong, qua ải chém tướng dễ như trở bàn tay.
Lý Thế Dân thừa hiểu rằng đối với một kẻ thù hung mãnh như vậy, chỉ có thể bằng cách tranh thủ lúc có thời cơ thuận lợi mới có thể tiêu diệt; khinh suất manh động thì chỉ có thể là đi lại vết xe đổ. Vì vậy, sau khi định quân ở Bách Bích, chăm ngựa mài binh, sẵn sàng chiến đấu, chỉ cho bộ phận nhỏ binh mã ra quấy nhiễu, còn quân chủ lực kiên quyết không ra đánh, nằm im chờ cơ hội. Tống Kim Cương ra sức công thành nhưng Lý Thế Dân vẫn nằm im bất động, chỉ dùng cung bắn tên để đuổi lui quân địch.
Tháng 12, Lý Thế Dân cho một đội quân dùng chiến thuật “địch tiến ta lùi, địch lùi ta tiến" liên tục gặp thuận lợi và giành thắng lợi liên tiếp. Tướng lĩnh nhà Đường sốt ruột phát ngứa chân tay, thi nhau thỉnh chiến. Lý Thế Dân lại nhận thấy thời cơ chưa đến nên bỏ ngoài tai tất cả và ra nghiêm lệnh nằm im tịnh thủ Bách Bích.
Mãi tới tháng 4 năm sau, Tống Kim Cương mặc dù có tinh binh mãnh tướng nhưng rồi nhuệ khí cũng giảm. Lương thực dự trữ trong kho đã hết, hiện hoàn toàn duy trì bằng cách đi cướp bóc, lại thấy Lý Thế Dân cố thủ không chịu đánh, không có cách nào giành thắng lợi sớm nên đành cho bọn Tầm Tương đi sau yểm trợ để tản về phía bắc. Khi đó Lý Thế Dân mới chụp lấy cơ hội phá cổng thành, quyết đánh không tha.
Lý Thế Dân đuổi kịp và đại phá quân Tầm Tương tại Lữ Châu (nay là Hoắc Huyện, tỉnh Sơn Tây). Sau đó không một phút chậm trễ, tiếp tục đuổi theo, một ngày đêm hành quân hơn 200 dặm, đánh hơn 10 trận lớn nhỏ. Đuổi đến Cao Bích Lĩnh (nay thuộc phía nam Linh Thạch, tỉnh Sơn Tây) thì quân Lý Thế Dân cũng hết lương thảo, sĩ tốt cũng mệt mỏi nhiều. Lưu Hoằng Cơ vội kéo dây cương ngựa của Lý Thế Dân nói rằng: "Đại vương đánh giặc, suốt từ phía bắc tới đây là đủ rồi còn định đuổi tiếp, không thiết sống nữa hay sao?! Hơn nữa quân sĩ đói mệt, cho dù thế nào cũng phải chờ lương thảo tới. Đợi quân sĩ no bụng có đủ dũng khí rồi đuổi tiếp cũng chưa muộn mà!". Nhưng Lý Thế Dân bảo: "Tống Kim Cương cùng đường tháo chạy, quân lính đang phân tâm. Phải biết rằng lúc này đang là cơ hội hiếm có để giành thắng lợi nhưng cũng dễ dàng bị tuột mất. Cơ hội đang ở trước mắt, đâu có thời giờ nghĩ đến chuyện mệt mỏi đói khát? Nếu chờ lương thảo tới, một khi cơ hội đã mất đi thì khi đó có hối cũng muộn rồi!”. Nói rồi lại giục ngựa đuổi theo, đuổi đến Tước Thử Cốc (nay là Hiệp Cốc ở phía tây nam Giới Tức, tỉnh Sơn Tây), trong một ngày giao đấu với Tống quân 8 hiệp, bắt giết hơn vạn người, Tống Kim Cương hồn bay phách lạc lại tiếp tục tháo chạy.
Lý Thế Dân hai ngày chưa được nghỉ ngơi, ăn uống. Lúc đó chỉ còn một chú dê nhỏ nên hạ lệnh đem giết thịt. Tướng sĩ cũng đang rất đói lại phải nhanh chóng tiến quân về phía bắc. Tống Kim Cương trong tay chỉ còn hơn vạn binh sĩ, vừa mới đến thành Giới Hưu, không thể ngờ rằng Lý Thế Dân đã đuổi đến nơi nên vừa lâm trận đã bị đánh bại bỏ lại binh mã tháo chạy về phía bắc.
Lý Thế Dân đang tìm cách chiêu hàng thuộc hạ của Tống Kim Cương là Uất Trì Cung và Tầm Tương thì có người vào báo: Lưu Vũ Chu ở Tịnh Châu (tức Thái Nguyên, thấy Tống Kim Cương bị thất bại hoàn toàn sợ Lý Thế Dân đuổi đến nên đã tháo chạy về phía bắc. Nghe tin, Lý Thế Dân vội vã dẫn kỵ binh ngày đêm bắc tiến. Lưu Vũ Chu, Tống Kim Cương quả thật bị sợ hãi vô cùng chi biết đem hơn 100 kỵ binh nhằm hướng Đột Quyết mà đi, về sau bị bỏ mạng ở Đột Quyết.
Vùng Hà Đông lại quay về với Lý Đường, một lần nữa thế tranh hùng hướng Đông của nhà Đường lại xuất hiện.
Lý Thế Dân không hổ danh là một trong những vị tướng kiệt xuất trong lịch sử. Ông vận dụng mưu lược, chờ đợi, nắm chắc thế cục không sợ hiểm nguy, khó khăn, không màng mệt, mỏi, không tiếc sinh mệnh của mình. Ông đã trở