🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Mưa Đỏ - Chu Lai Ebooks Nhóm Zalo Phần mở đầu Mưa Đỏ Hà Nội. Xanh. Một màu xanh yên ả nhưng trống trải trong những ngày hòa bình đầu tiên. ★ Hà Nội đã chớm bước vào hè, trời nín gió nhưng phố phường lại bồi hồi dịu mát như có ngọn gió hanh hao mơ hồ nào thổi dọc theo những hàng cây, mái ngói vào tận mỗi khoảnh sân, góc nhà khiến cho niềm vui bảng lảng, ngây ngất trong ánh mắt người cứ rờ rỡ nhen lên, vỡ ra, lan tỏa, lẫn cả lắng chìm, hụt hẫng. Dẫu biết rằng cái gì phải đến sẽ đến nhưng khi nó đến sao lòng dạ lại cứ thấy bất chợt ngổn ngang, xốn xang, ngỡ ngàng dường như không phải, không có thật, dường như đang mơ thế này! Phải chăng chưa có thời khắc linh diệu nào của dân tộc, của một vùng đất lại xen lẫn nhiều tâm trạng trái chiều nhau đến thế? Bởi có những người cha, người chồng, người con, từ trong rừng xanh đã xiêu vẹo trở về, nhưng cũng còn biết bao người cha, người chồng, người con cho đến giờ phút này vẫn chưa thấy hình bóng và có thể sẽ không bao giờ thấy hình bóng ở nơi đâu. Nụ cười xen nước mắt, nỗi đau trộn niềm vui, cái sống cái chết, cái thăng hoa điều mất mát cùng lúc òa ập, len lỏi, giằng xé, quẫy đạp trong đáy sâu lòng dạ những con người vừa kiệt sức vặn mình trong chiến cuộc, trong đợi chờ. Hà Nội hân hoan như sống lại, trẻ lại nhưng Hà Nội cũng lặng thầm xao xác. Mặt Hồ Gươm sáng nay xanh hơn nhưng cũng dường như man mác buồn hơn. ★ Giữa cái đan xen, ngào trộn ấy, vẫn có một nơi mà ở đó con người đang tìm về cõi tĩnh để được nghe, được thả hồn, được giãi bày, được lắng kết, được vơi nhẹ phần nào cái tâm trạng không mấy nhẹ nhàng của mình trong một không gian kiến trúc thâm nghiêm, cổ kính có từ đầu thế kỷ 20 do người Pháp để lại. Không gian Nhà hát Lớn. Trong ánh sáng mờ ảo thấp thoáng chút cô tịch thần thánh, một bản giao hưởng hợp xướng sâu thẳm đang vang lên vỗ ào ạt vào khắp bốn bức tường mang màu hồng nhạt. Bản nhạc như một âm hưởng thao thiết chạy suốt chiều dài cuộc chiến, làm thức dậy trong lòng người những cảm xúc bồi hồi khác lạ. Cả khán phòng im phắc với những đôi mắt nhìn lên đắm chìm như thấm từng nốt nhạc. Đó là những giai điệu về chiến tranh, về khát vọng yên hàn, về sự mất mát và lòng kiêu hãnh, về tình yêu và chia ly, về cái lãng mạn và điều trần trụi, về cái nhất thời và cái vĩnh cửu của cuộc đời... về tất cả. Nét nhạc bùng lên lúc cuồn cuộn lúc sâu lắng, lúc trải ra lúc nén lại, khi vỡ nổ khi trở trăn, chân thật, gợi mở, mãnh liệt đến khốn cùng, khi lại như tiếng gọi thì thầm đưa con người trở về với những khoảng tối của rừng, khiến cho không ít người đã không kìm được những giọt nước mắt cứ chực trào ra nơi bờ mi. Trong đó, ở hàng ghế giữa, nhòa chìm trong bóng tối huyền ảo là khuôn mặt thanh thoát, phúc hậu của một người đàn bà ngoài năm mươi tuổi. Bà không khóc nhưng đôi mắt mù mịt, trống rỗng của bà đang nhìn lên kia còn đau hơn là khóc. Cô gái mặc áo bà ba, quấn khăn rằn khá xinh đẹp, một vẻ đẹp mộc mạc mặn mòi đặc trưng cho nét đẹp nắng gió của con gái miền Trung ngồi bên cạnh thỉnh thoảng lại đưa tay sang nắm lấy tay bà, siết nhẹ. Bà để yên, khẽ mỉm cười, một cái cười trống trải, vô hồn, héo hắt... Trên kia, dưới ngón tay của những nhạc công tài hoa và của vị nhạc trưởng đứng tuổi, gầy gò, nét nhạc từ từ rơi vào khoảng lặng rồi bất thần vươn tới cao trào như một tiếng kêu kiêu hãnh và bi thiết của định mệnh. Bản nhạc dừng lại kết thúc chương Một trong tiếng Saxophone trầm khàn, ánh ỏi ngân lên lần cuối. Cả nhà hát lắng đi giây lát trước khi bật vang lên những tràng vỗ tay không ngớt, kéo dài. Để chuyển tiếp sang chương kế tiếp, từ trong cánh gà, một người đàn ông tóc bạc bước ra, giọng ông trầm ấm nhưng không giấu được chút nghẹn ngào cố nén phát ra từ lồng ngực: - Thưa tất cả các quý vị và các bạn! Bản giao hưởng hợp xướng mà các quý vị được nghe phần một vừa rồi là tác phẩm đầu tay nhưng cũng là tác phẩm cuối cùng của một nhạc sĩ tài hoa. Bởi vì trước, trong và sau bản nhạc này, anh đã chiến đấu và ngã xuống như một người lính dũng cảm trên chiến trường Thành cổ Quảng Trị năm 1972. Bản nhạc này anh viết tặng mẹ và lúc này đây, người mẹ ấy đang ở đâu, làm gì, rất tiếc là chúng tôi chưa bắt liên lạc được. Bàn tay cô gái lại nắm chặt lấy tay người đàn bà. Toàn thân bà rung lên nhưng khuôn mặt lại cúi xuống như để che đi, giấu đi sự hiện diện của mình. Bản nhạc lại tiếp tục, trầm hùng, bi tráng, da diết hơn với những giai điệu dồn dập, xoáy buốt, nóng rẫy như có lửa cháy phần phật bên trong. Đôi mắt người đàn bà nhìn lên, mở to, mở to nữa rồi từ trong đôi mắt ấy, như có một tiếng nổ khủng khiếp xé toạc không gian. Sân khấu biến mất, dàn nhạc biến mất, cả khán phòng cũng biến mất. Trước mắt bà chỉ còn là bom đạn mù mịt, lửa khói cuộn sôi, gạch đá và cả những thân xác cũng văng lên, hạ xuống... Rồi một bức tường thành hiện ra lở loét, trắng xác, nát vụn như một bộ xương hóa thạch méo xếch và từ trên cao, bầu trời bỗng nổi cơn sấm chớp thịnh nộ, soi nhấp nhóa xuống dòng sông chạy cạnh khu thành đang dâng nước réo gào như có trận đại hồng thủy kinh hoàng từ thế giới hồng hoang ngàn xưa tràn về. Nước dâng ngang trời, nước ngập kín đất, nước đỏ bầm màu máu. Mưa xối xả, những giọt mưa cũng mang màu máu... Đôi vai mảnh của người đàn bà co rút lại, mắt nhắm chặt, hai tay ôm cứng lấy đầu, toàn thân rung lên như đang vào cơn sốt rét ác tính. “Má ơi!”... Cô gái khẽ kêu lên một tiếng rứt ruột rồi ôm chặt lấy bà, ép sát tấm thân bà vào ngực mình như chở che, như an ủi. Người đàn bà dần hồi tỉnh, mồ hôi vã ra, khẽ nở một nụ cười mộng mị, lúc ấy mới để mặc cho những giọt nước mắt khe khẽ chảy ra... 1 Mưa Đỏ Hà Nội chiều cuối đông. Gió lạnh hun hút thổi dọc những phố vắng. Lá rụng cô đơn xuống vỉa hè. Chiến tranh mới đi qua, cuộc chiến tranh phá hoại khác có thể ghê gớm hơn lại đang rình rập tìm đến. Hà Nội gượng nhẹ trong những bước chân đi, trong từng hơi thở, trong mỗi mắt nhìn, lo âu và chờ đợi. Nhưng nhịp điệu Hà Nội, con người Hà Nội, cảnh sống Hà Nội vẫn diễn ra bình thản, tự tin như hàng ngàn năm qua vẫn tự tin, trầm mặc trước mọi can qua, thăng trầm giông bão như thế. Chiều nay võ đường mang tên Vovinam vẫn có khá đông các võ sinh cả nam lẫn nữ đến miệt mài tập luyện. Những tấm thân trẻ trung căng rướn, những động tác đầy tràn sức lực, những giọt mồ hôi lấm tấm trên mặt, trên lưng. Đặng Cường, một thanh niên có vóc người cao ráo, nét mặt khôi ngô, cương nghị, ở trần, quần dài, để lộ những cơ thịt rắn đanh, xoắn bện nhưng đôi mắt lại thoang thoảng mang cái buồn bâng quơ của một tâm hồn đa cảm đang một mình thi đấu với bốn chàng trai khác theo thế võ cổ truyền quen thuộc. Đòn chân đòn tay từ anh bay ra dứt khoát, biến ảo, mạnh mẽ nhưng có độ dừng đủ để bốn chàng trai phía trước không làm sao tiếp cận được. Rồi lựa lúc họ sơ hở, anh quét mạnh một đường chân sát đất khiến cả bốn đều mất thế trụ, đổ rạp xuống. Có một tiếng vỗ tay rất hồn nhiên của một nữ võ sinh đứng xem vang lên. Anh mỉm cười tiến đến đỡ từng người dậy. Riêng người thứ tư, một thanh niên vâm vam, thấp đậm, tóc húi cua, bắn cái nhìn hậm hực về phía cô gái vừa vỗ tay là tự đứng lên cùng với một câu nói vừa đủ nghe: - Cậu vẫn thích cái trò đánh lén ấy lắm nhỉ? Xoàng! Tôi muốn mời cậu một lần nào đó chơi trực điện bằng quyền Anh, thế nó chính nhân quân tử hơn. Cường cười thật hiền: - Nếu có dịp, nhưng mình e muộn mất rồi! - Muộn hay sợ? Vẫn cái cười không thể hiền hơn: - Có lẽ cả hai. Rồi anh quay qua phía ông thầy tóc để búi tó và các môn sinh đang đứng trước mặt, khoanh hai tay đặt lên ngang mắt nói một câu như đã được chuẩn bị sẵn: - Thưa thầy! Tuần sau con có việc phải đi xa, xa lắm, chưa biết khi nào về, nên hôm nay con xin được bái biệt thầy và các bạn đồng môn, xin hẹn ngày trở lại. Vẫn hồn nhiên, cô gái nhảy lên vỗ tay lúc nãy buột miệng như mếu: - Anh Cường... anh đi đâu? Cường: - Tôi đi đến cái nơi mà thằng con trai nào lúc này cũng nên đến! Ông thầy võ đi đến, ôm chặt anh vào lòng: - Thầy hiểu. Nếu thầy còn trẻ thì thầy cũng sẽ đi như con. Cái dân mình nó thế. Nào, thôi, đừng bịn rịn nữa, ta làm một đường quyền để tiễn một cánh chim sắp bay về vùng bão gió cái nào, các con! Cường, con cũng đứng vào hàng đi! Tất cả đứng thành ba hàng ngang rồi cùng với tiếng hô dõng dạc của ông thầy, thân thể họ bay lên, sà xuống, liên hoàn tung ra những đường quyền mãnh liệt, chỉ nghe có tiếng gió thổi ràn rạt trong phòng... Bài quyền mang sắc thái trượng phu ly biệt này sẽ còn đi hết phần cao trào nếu như con mắt sáng rực của Cường không vấp phải một con mắt khác vừa xuất hiện ngoài cửa. Con mắt của một cô gái đẹp, cái vẻ đẹp lãng mạn, thanh thoát điển hình của thiếu nữ Hà thành, vận bộ đồ đen sang trọng đang lặng hướng về phía anh. Anh dừng lại, cúi đầu xin phép tất cả rồi khoác áo đi ra. Đôi mắt to tròn của cô gái vỗ tay lúc nãy nhìn theo anh thoáng một chút tần ngần, ngơ ngác... ★ Chiều đông ở đâu cũng buồn, chiều đông Hà Nội với những con phố hun hút gió dường như càng buồn hơn. Họ đèo nhau trên chiếc xe đạp, đạp chầm chậm trên đường Hoàng Hoa Thám, đi qua khu Bách Thảo. Khẽ nhìn vào bên trong, nơi chỉ thấy um tùm cây lá và mặt nước màu chì, Cường mỉm cười: - Thanh biết không? Hồi học cấp ba anh sống già lắm nhé, mẹ anh bảo anh như ông cụ non! Mới tí tuổi mà chiều đông nào anh cũng tìm đến đây vào cái giờ mà các đội tự vệ vừa kịp về và các đôi tình nhân chưa kịp ra để được một mình độc quyền thiên nhiên và nghĩ về cái chân lý bất di bất dịch của kiếp người. - Già thật! Cũng giống như mẹ anh bảo cậu con của mình hay chọn lúc mưa to gió lớn một mình khoác áo mưa đi bộ qua cầu Long Biên để cũng được độc quyền vũ trụ? - Có khác một chút, ở đây anh thường chọn một gốc si già nhất, uống một chén rượu nhạt nhất để được nghe cái âm thanh hoang vắng đến tột cùng nó vỡ ra trong đầu mình. - Hoang vắng mà cũng có âm thanh hả anh? - Đó là một thứ âm thanh chìm, phải thật nhập tâm mới nghe thấy, nó còn xôn xao hơn mọi thứ âm thanh nổi khác. Cô gái im lặng. Cường khẽ nhìn sang... - Có chuyện gì phải không em?... Vốn không thích cánh đàn ông cơ bắp, đã có khi nào em đến tận lò võ tìm anh? Cô vẫn im lặng, mắt hướng về phía trước như chứa cả cái u hoài của một chiều giá lạnh. - Em có đói không? Anh hỏi và cô khẽ gật đầu. Họ rẽ vào một cửa hàng mậu dịch vắng tanh ở cạnh đường với những chiếc bàn nhôm lạnh lẽo, cáu bẩn gọi hai tô mì. Chị bán hàng nét mặt càu cạu đặt cộp hai tô lõng bõng nước trước mặt họ, nói trả tiền trước. Thanh sầm mặt định phản ứng nhưng Cường gạt đi: - Anh muốn buổi chiều cuối cùng không có va chạm để mai lên đường cho thanh thản. Nhìn hai tô mì trong leo lẻo như mắt ma, không hành không răm không cả thịt, mặn chát, Cường bật cười: - Đây gọi là tô mì không người lái hả em? Rồi họ ăn. Thanh khêu từng sợi nhai uể oải, thỉnh thoảng lại lơ đãng nhìn qua khung cửa sổ ra mặt đường đã có chiều thưa vắng người qua lại. Còn Cường lại hồn nhiên húp sùm sụp vèo cái là hết. Anh nhìn lên cười để lộ hàm răng trắng đều và đẹp: - Giờ mới thấm câu: đói tức là ngon, yêu tức là đẹp. Thanh này, có lẽ đây sẽ là hai tô mì ngon nhất trong cuộc đời ẩm thực của anh vì được ăn bên cạnh em, ăn trước lúc đi xa, ăn trong chiều chiến tranh. Cô nhìn anh, khẽ mỉm cười bâng quơ không trả lời. Đâu đó, chả biết có đỡ đói không, họ mỗi người làm một bụng nước chè loãng được vặn ra từ chiếc thùng nhôm to tướng rồi lại đi tiếp. Họ đi theo con đường hoa Nhật Tân ra phía bờ sông. Cánh đồng hoa Hà Nội mùa này chưa có hoa nhưng chắc chỉ hơn tháng nữa thôi là các nụ đào, nụ quất sẽ tưng bừng khoe sắc để chuẩn bị cho một cái Tết Nguyên Đán đang náo nức đến gần. Bờ sông Hồng những năm tháng này còn nguyên vẻ hoang sơ, quạnh quẽ như hàng ngàn năm qua nó vẫn cứ quạnh quẽ, hoang sơ một màu nguyên thủy như vậy. Những bãi mía, nương ngô, vườn dâu đang kỳ thay lá trải ra màu xanh dài tít tắp. Một cánh buồm trôi giữa đôi bờ như một chấm nâu bay về vô định. Xa lắm, sát mép nước là sự chuyển động nhỏ nhoi của một cái chấm khác, cái chấm mang dáng hình một người đàn bà tần tảo, âm thầm đi trên cát với gánh cỏ trên vai. Rồi chỉ một tích tắc sau, cả dòng sông, cánh buồm, gánh cỏ mờ dần, nhòa trong hoàng hôn ít nắng nhưng lại có rất nhiều gió. Ngồi đằng sau, Thanh chợt khẽ giật áo anh. Con gái Hà Nội hay thật, động tí là giật áo, nói cũng giật, hỏi cũng giật, không nói không hỏi cũng giật cứ như thể không giật như vậy thì cái vật thể đàn ông ngồi phía trước kia sẽ biến mất. Cường nghĩ vui và dừng xe lại: - Cái gì em? Thanh rụt rè: - Anh ở trên này trông xe, em xuống dưới kia em đi... ấy một cái! Tại... uống nhiều nước quá! Thì ra là vậy. Cường cười và bóp nhẹ phanh. Đi... ấy một cái! Biết đến bao giờ anh mới lại được nghe cái động từ nhõng nhẽo, đa chiều đa nghĩa ắp đầy nữ tính đó. Ấy... Anh biết rằng rồi đây, trong những cánh rừng xa ngái, anh sẽ đem theo cái từ này vào hành trang như một giọt ngọt ngào, tinh khiết. Trong khi cô gái xiêu xiêu bước xuống chân đê, lần tìm vào sau một bụi chuối rậm rạp, anh con trai đủ ý tứ để đứng quay mặt về phía sông, nhìn xa xăm sang phía bờ bên kia, nơi những tia hoàng hôn hình nan quạt đang hắt lên bầu trời lần cuối cùng rồi đi vào lịm tắt, chạng chân, khẽ phanh ngực áo như một hiệp sĩ thánh chiến sẵn sàng lấy máu của mình để bảo vệ cho cái đẹp đang... ấy ở dưới kia. Và anh sẽ cứ đứng như thế nếu lát sau cô gái không bật lên một tiếng cười khúc khích ngay phía sau lưng: - Anh làm cái gì mà như sắp sửa đánh nhau với Diêm Vương, Hà Bá thế? Xong rồi! Họ đi thêm một đoạn nữa, đến một chỗ thoáng nhất, có vạt cỏ mịn nhất, ngồi xuống. Gió thổi mạnh. Tóc cô gái bay dạt về phía sau để lộ một khuôn mặt nhìn nghiêng được cảnh bãi bờ sông nước phiêu linh ướp vào làm sáng bừng lên tất cả cái vẻ đẹp nữ tính dịu dàng, thoáng kiêu sa. Vẻ đẹp ấy đã khiến người con trai bất giác đặt tay lên bờ vai mảnh tròn của cô kéo khẽ vào lòng mình. Cô gái để im, khẽ nhắm mắt lại... - Tóc em thơm quá! Mẹ anh bảo, con gái mà biết gội đầu với lá chanh là sau này chăm chồng chăm con mát tay lắm. Cô gái không trả lời, chỉ khẽ rùng mình một cái rồi lặng thả tầm mắt sang tận bên kia sông như đang có sương khói vấn vương mà ảo. Người con trai nhìn sâu vào đôi mắt vời vợi đó, khẽ hỏi lại cái câu hỏi trên đường chưa được trả lời: - Thanh... Hôm nay em lạ lắm! Nói với anh đi, có chuyện gì phải không? Một tiếng thở dài thật nhẹ như tiếng gió thổi hắt lên từ mặt nước: - Thế là mai anh đi rồi! - Anh đi rồi anh sẽ về. Cô gái quay hẳn mặt lại nhìn thẳng vào mắt anh: - Nhưng có nhất thiết cứ phải như vậy không? Có nhất thiết cứ phải dứt bỏ hết thảy khi anh không cần phải dứt bỏ, không ai bắt đứa con duy nhất của một liệt sĩ phải đi cả, trong khi Nhạc viện Tchaikovsky, một học viện danh giá bao nhiêu người mơ ước mà không được đang chờ anh ở bên kia và cũng chỉ còn không đầy một năm nữa là anh sẽ tốt nghiệp Nhạc viện bên này? - Mẹ anh cũng nói như em và nhiều thầy cô, bạn bè cũng nói như em nhưng anh nghĩ cái sự học là cả đời, học lúc nào cũng được, còn có nhiều dịp để học, lúc này cả nước theo lệnh tổng động viên ra đi hết, mình ở lại không đành. Và kể cả em nữa, anh ở lại có thể em sẽ vui hơn, hạnh phúc hơn, nhưng rồi biết đâu ánh mắt em nhìn anh mỗi sáng ra sẽ lùn đi, sẽ thấp xuống như anh có điều gì không phải với cuộc đời, đúng không? Cô gái không trả lời, chỉ khẽ sầm mặt lại, cúi xuống nhặt nhặt những nhánh cỏ lông gà găm ở gấu quần mình rồi thả ra cho gió cuốn đi. - Thỉnh thoảng em đến chơi cho mẹ đỡ buồn. Anh... thương mẹ lắm! Bất ngờ cô bật trở lại: - Anh thương mẹ nhưng anh có thương thân anh, có thương em không? - Chính vì thương, rất thương nên anh mới phải đi. - Người ta bảo anh gàn, anh chơi trội, anh thích biểu diễn lòng yêu nước, biểu diễn chí nam nhi... em không tin nhưng bây giờ thì... - Em tin, đúng không? Thôi thì tùy em, mỗi người mỗi quan niệm, mỗi cách sống. Cách sống của anh không phải do anh chọn mà hình như lịch sử nước mình, con người nước mình nó thế, có muốn làm khác cũng không được. Hơn thế, bạn bè đi cả rồi, đi đến vắng lặng cả đường phố, mình ở lại mãi sao được. Cô không nói nữa, im lặng thả ánh mắt trống trải vào mênh mông... Gió vẫn thổi. Mặt sông vẫn xao xác. Bóng chiều đang chuyển sang màu sẫm. Cô gái khẽ rùng mình. Nhận thấy điều đó, anh nhẹ cởi tấm áo gió trên người khoác cho cô. Cô để yên, hơi thu nhỏ thân mình lại, bé bỏng, tội tình. Lát sau, như để phá cái không khí nặng nề không cần thiết đang phủ xuống tâm trạng của họ, anh mỉm cười: - Đêm qua anh đã viết xong cái ca khúc mà anh đã hứa dành tặng cho em, giờ anh hát cho em nghe, mình em thôi, nhé! Cô gái không trả lời. Anh siết cô chặt thêm vào người rồi nhẹ cất tiếng hát. Giọng hát người con trai không thật hay, thậm chí còn hơi khàn rè nhưng thật nồng nàn, nóng ấm mà mỗi từ, mỗi nốt thả xuống dường như đều được chiết ra từ gan ruột, từ nỗi niềm sâu xa, chân thật nhất như một lời tâm sự lúc chia xa. Giọng anh hòa vào bóng tối, vào gió lạnh, vào hương phù sa nồng ngái từ lòng sông phả lên. “Anh yêu em như anh yêu Hà Nội... Anh nhớ em như nhớ về một mái ngói xô nghiêng... Hà Nội xô nghiêng... Sông Hồng chảy nghiêng... Dáng mẹ nằm nghiêng... Đất nước nằm nghiêng nhìn những đứa con ra trận... Heo may lá rụng, hương cốm đầu mùa ướp vào mỗi bước chân đi, ướp vào môi người lính như nụ hôn của em, vội vàng, cuống quýt. Em, mênh mang biển trời, mênh mang Hồng Hà, mênh mang Trường Sơn, mênh mang em...” Có một giọt nước mắt rơi ra, lăn nhẹ trên má cô khiến anh chợt dừng lại. Anh dịu dàng ghé môi hôn khô giọt nước mắt ấy rồi khẽ chuyển nụ hôn vào đôi môi giá lạnh hơi hé mở kia. Một làn hơi thơm thoảng như ngọn lúa làm đòng tràn vào thân thể anh, nồng ấm. Lại một giọt nước mắt nữa lăn xuống, thấm vào môi anh, chảy sâu vào trong anh, ngọt ngào và mặn chát. - Cám ơn em! Chỉ thế thôi cũng là đủ để anh cất giữ vào hành trang như một điểm tựa tinh thần, một giá đỡ tâm linh trong những ngày xa cách. Đến đây thì cô gái bật khóc. Anh để nguyên cho cô khóc, nghĩ rằng sau khóc chắc chắn sẽ là một câu nói anh đang có ý chờ đợi, một câu nói sẽ sưởi ấm cho anh trong suốt cuộc hành trình phía trước chưa biết gian nguy, khốc liệt thế nào... Nhưng không, cô gái tự chùi mắt rồi ngước lên nhìn thẳng vào anh, tiếng nói cất lên xa lạ như tiếng nói của người nào khác, không kỷ niệm, không yêu thương, ráo hoảnh: - Tháng sau em sẽ đi Ba Lan du học. - Tốt quá! Chúc mừng em! Con đường em đi phải là như thế, anh vẫn hằng mong em được như thế, cuộc chiến này mình anh đi là đủ rồi. Thanh... trong cái lẽ cầm súng tới đây, anh có thêm một lý do riêng tư nữa là được giữ gìn cho sự yên tĩnh học hành của người con gái mình yêu ở trời Tây. - Nhưng em sẽ không chờ đợi được. Tiếng nói cô bắn ra như một viên đạn súng kíp xuyên thẳng vào óc khiến anh choáng váng không còn tin ở tai mình. - Em nói gì? - Em không thể chờ đợi. Lần này tiếng nói bay ra một cách trôi chảy hơn nhưng cũng khô khốc hơn. Đến đây thì anh đã nghe rõ và chợt vỡ ra về sự im lặng khó hiểu của cô từ đầu đến giờ. Cô nhọc nhằn, vấp váp nói tiếp như không nói bây giờ thì không bao giờ có thể nói ra được nữa. - Anh Cường... Chúng mình khác nhau quá! Có thể em tầm thường, em tủn mủn, em không xứng với tâm hồn khoáng đạt, mạnh mẽ của anh nhưng em là phận gái, em không muốn giẫm lại cái bước chân bi kịch của mẹ em suốt đời chờ đợi một con người, người ấy luôn mang trong mình những lý tưởng, hoài bão to lớn mà quên đi tình yêu gần kề để rồi cuối cùng cả hai đều lỡ dở, mang khổ suốt đời. - Tức là em muốn nói người ấy giống tôi? - Cơn choáng đã qua, giọng anh lạnh lại. - Tùy anh nghĩ. Cô trả lời rồi nhẹ cầm lấy bàn tay khẽ run lên của anh, nói tiếp: - Thực ra cho đến lúc này em vẫn yêu anh, cũng như em đã từng nói anh là người đàn ông sinh ra để chỉ dành cho em, nhưng chiến tranh chưa biết bao giờ kết thúc, em lại đi học xa chưa biết điều gì sẽ đến với em nên... Một tiếng nổ nhỏ vỡ ra trong tim anh. Những điều anh nghe vừa rồi thực chất gần đây anh cũng đã mang máng đoán ra và có ý chờ đợi nhưng khi nó đến, anh vẫn không thể không bị choáng nhẹ. Khốn khổ, thì ra sự im lặng và đôi mắt buông lơi của cô ấy từ đầu đến giờ kết cục là thế này đây. Tất cả những kỷ niệm, những lời nói, những thề thốt bỗng chốc tan thành mây khói. Chao ôi, em đã nói những lời thế nào ấy nhỉ? ...Anh là người đàn ông mà bất cứ cô gái nào cũng phải ghen với em... Đời này kiếp này em chỉ yêu một mình anh thôi... Anh biết không, anh thật là một người con trai hoàn hảo mà có đốt đuốc đi tìm giữa ban ngày cả đời cũng không có... Dường như tất cả ưu tú của một người đàn ông đều dồn tụ hết vào anh: thông minh, nghị lực, đẹp trai, hào phóng, ga lăng, anh như là một thỏi nam châm cực mạnh cứ hút cạn kiệt lấy từng ý nghĩ hơi thở của em... Em không cần gì hết, chỉ cần được ở bên anh suốt cả cuộc đời, được chăm sóc, được hầu hạ anh, được chia sẻ tất cả những vui buồn của anh... Và còn gì ấy nữa nhỉ? ...Chỉ có cái chết mới chia lìa được chúng ta... Thật hài hước và mỉa mai làm sao! - Thôi! - Cường đứng dậy. - Thế là đủ, em không cần nói thêm gì nữa. Đúng là chúng mình khác nhau thật, khác quá xa, chỉ lạ một điều là bấy lâu nay mù lòa thế nào mà cả hai hoặc ít nhất là ở anh không nhận ra điều ấy. Nhưng vẫn còn kịp, anh không hận em, không trách em, thậm chí còn cám ơn em đã can đảm, trung thực hơn nhiều cô gái khác là dám nói trước ra sự thật này thay vì sẽ lẳng lặng thay đổi khi người lính đã đi xa rồi đổ tại hoàn cảnh trong khi người lính đó vẫn âm thầm giữ gìn, nâng niu mọi kỷ niệm và cố gắng vượt qua tất cả để trở về gặp lại kỷ niệm đó. Trước vẻ chấp nhận dễ dàng và dứt khoát của anh, cô gái lại tỏ ra chới với: - Anh Cường... Cô bước đến gần anh, áp sát vào ngực anh, hơi ngửa mặt lên, mắt nhắm lại, bờ môi khao khát như muốn có một cái hôn cuối cùng cho mãi mãi. Nhưng cái hôn ấy không đến. Cô lại ghì siết lấy anh hơn, muốn kéo thân hình anh nằm xuống cỏ. - Anh... Trước khi xa... em muốn... lần cuối... Cường khẽ đẩy cô ra, cài lại khuy áo ngực cho cô, vuốt lại tóc cô, nhưng tiếng nói lại trở nên rất lạnh: - Sau tất cả mọi điều mà em vẫn còn muốn gần nhau tận cùng thì đó là cái gì? Tình yêu hay trả vốn? - Anh ác lắm! - Có ác bằng nói lời đoạn tuyệt trước khi người lính đi vào chỗ chết không? Xin lỗi em, tôi không phải là kẻ chết đói chết khát như thế. Cô gái bỗng bật khóc: - Hiểu cho em... Thực lòng em đâu muốn thế, nhưng... - Em ngồi dậy đi! Không còn gì nhưng chúng ta vẫn còn những kỷ niệm thật đẹp để lưu giữ. Mà có khi thế lại hay, cả hai đều thanh thản không vướng bận khi mỗi người mỗi ngả mà chưa biết chặng đường đi phía trước thế nào. Chúc em thu nạp được thật nhiều kiến thức trở về và tìm được một hạnh phúc trọn vẹn, như ý! Thôi, ta về, sương bắt đầu xuống rồi. Anh dắt xe đi trước, cô gái vẫn còn ngồi lại như một hình nhân vô tri bên bờ sông hoang lạnh... ★ Cường về nhà vào lúc trời đã khuya. Từ ngoài cổng, anh đã nhận ra mùi khói hương thoang thoảng từ phòng trong bay ra. Không hiểu sao anh rất sợ cái mùi tâm linh huyền bí mang hơi hướng mất mát, chết chóc ấy. Cái mùi bao giờ cũng gắn liền với dáng đứng cô đơn của mẹ trước ban thờ có hình cha và người anh trai. Hình cha tóc bạc, hình anh trai tóc còn đen nhức, cả hai đều có một cái nhìn giống nhau, rắn rỏi, yêu thương xuống nhân quần. Cha mất trên giường bệnh, còn người anh hy sinh không tìm thấy thi thể ở vùng đất phía nam ngay từ những ngày đầu đánh Mỹ. Nhất là vào những đêm mùa đông như đêm nay, nó cứ phảng phất nhen lên trong lòng anh nỗi buồn thăm thẳm không chịu nổi. Buồn đến nỗi nhiều khi anh muốn rời xa nó, tách ra khỏi nó và phải chăng, điều này anh không bao giờ dám thổ lộ với mẹ, một người mẹ không có gì là anh không thổ lộ, cũng một phần vì nó mà anh kiên quyết ra đi. “Ông ơi!... Khi nước nhà thống nhất, tôi với thằng Cường nhất định sẽ đi một chuyến vào trong đó tìm con cho ông... cho chúng ta...” Lời hứa của mẹ trước cha vào phút chót khi người ta quyết định rút máy thở ra khỏi cổ ông đã đằng đẵng đeo đuổi, ám ảnh khôn nguôi trong đầu óc anh cho mãi đến bây giờ. Thống nhất, bao giờ mới thống nhất? Mai anh đã lại đi rồi, đi vì cái tâm nguyện của mẹ và cũng là ước vọng của cha. Cánh cửa bong sơn cũ kĩ khép hờ như bao năm nay mẹ luôn khép hờ nếu anh về muộn. Nhìn vào anh lại thấy mẹ đang đứng trước cha, miệng lẩm nhẩm nghe câu được câu mất: “Ông ơi... thế là mai con nó đi rồi. Tôi không làm sao giữ được nó, chả ai giữ được nó mặc dầu có ông ở trên bàn thờ liệt sĩ kia rồi, lại là con một nó đâu phải đi. Thôi thì đất nước có giặc, giống tính ông nó không thể ngồi yên một chỗ, chỉ mong ông sống khôn chết thiêng ông phù hộ cho nó được bằng anh bằng em và trở về với tôi... Trở về với tôi, chỉ cần trở về với tôi, đó là điều quan trọng nhất...” Chả biết linh hồn cha có nghe thấy gì không nhưng nén hương đang âm ỉ cháy bỗng bùng lên soi tỏ một nụ cười thành kính biết ơn trên khuôn mặt thăm thẳm buồn của mẹ. Không chịu nổi cảnh ấy, anh đi tới ôm khẽ lấy mẹ từ phía sau: - Mẹ... Hương hóa thế kia là bố đồng ý rồi, nhất định con sẽ trở về mà. Bà mẹ nhìn quanh: - Thế con Thanh đâu? - Cô ấy... bận lên lớp, chúng con ngồi với nhau cả chiều nay rồi. Một chiều sông Hồng đẹp như cổ tích. Vậy là con có hai người phụ nữ chờ đợi ở phía sau, lại cả linh hồn của bố nữa, không có lý gì lại không trở về. Bà mẹ nhìn sâu vào mắt con trai: - Cường, có chuyện gì phải không?... Ngay cái này con cũng giống bố con, không giấu được điều gì trong lòng cả. Mỗi khi có chuyện gì xảy ra là cứ nói lấp liếm đi. Cường cười phá lên: - Có chuyện gì đâu mẹ, rất ổn, chiến tranh xong ngày nào là con sẽ có cháu cho mẹ bế ngày đó. Một thằng cháu trai kháu khỉnh đàng hoàng. - Biết bao giờ xong? Người mẹ cố nén đi một tiếng thở dài rồi bước vào bếp hâm lại mấy món ăn đã bị nguội mang ra cho con ăn. Nhìn món canh dưa chua nấu cá rô đồng ăn với rau ghém, món mà anh mê từ bé, mắt anh bỗng nhòa đi... Mẹ ơi, rồi những ngày tới đây không có con ở nhà, mẹ còn nấu món này nữa không, và tối tối ngồi bên mâm cơm một mình, mẹ sẽ ăn uống thế nào?... Em, thỉnh thoảng sang chơi với mẹ cho mẹ đỡ buồn... Nếu mẹ biết rằng cô gái mà từ lâu mẹ đã coi như là dâu con ấy sẽ không bao giờ còn sang với mẹ nữa... Trong lòng cuộn lên một cái gì đó đắng chát, anh nâng bát cơm và vội mấy miếng, nuốt nhanh. Lúc ngồi bên cô, nghe cô cất lên tiếng nói giã từ, anh chỉ thấy sốc chứ không thấy buồn, giờ đây ngồi trước mẹ, nhìn rõ mấy sợi tóc bạc ánh lên dưới ánh đèn của mẹ, mường tượng ra cảnh một mình cô đơn của mẹ những năm tháng dặc dài tới đây, mẹ lại hay bị đau đầu mất ngủ nữa, anh mới thật sự thấy đau. Như đọc được suy nghĩ của con, người mẹ gắp thêm vào bát con một lát cá bống kho tiêu, cũng là món ăn mà đứa con ưa thích, mỉm cười: - Đừng lo cho mẹ ở nhà. Con đi rồi, nửa tháng sau mẹ cũng lên đường sang bên kia. Mắt người con sáng lên: - Paris? Lại tiếp tục họp hả mẹ? Hay quá! Mẹ ở mặt trận ngoại giao, con ở mặt trận súng đạn, con sẽ làm supporter* đắc lực cho mẹ nhé! Mẹ hãy cười lên nào, khi người Mỹ đã buộc phải xuống nước chấp nhận ngồi lại bên bàn hòa đàm là kiểu này chiến tranh sắp kết thúc tới nơi rồi! Người mẹ không cười, bà khẽ hỏi cái câu không tiện hỏi, không muốn hỏi, nhưng là một người mẹ bà lại không thể không hỏi: - Con đã biết con được điều vào mặt trận nào trong đó chưa? - Biết mang máng. - Anh con trai vẫn tỏ ra vô tư. - Nghe đâu như Quảng Trị thì phải. Quảng Trị bên kia vĩ tuyến mười bảy, so với Hà Nội gần xịch mẹ nhỉ? Người mẹ thoáng rùng mình một cái rồi lặng lẽ bê mâm cơm xuống bếp. Thế là cái điều bà linh cảm đã trở thành sự thực. Hơn ai hết, bà hiểu hai tiếng Quảng Trị đó có ý nghĩa thế nào trong trận đấu trí đấu lực một mất một còn mang trọng trách lịch sử tới đây của cục diện hai bên. Nỗi lo lắng mơ hồ đó khiến cả đêm bà không chợp mắt. Về đêm trời chuyển oi nồng. Lại mất điện. Bà ra ngồi cạnh cầm chiếc quạt nan khẽ phe phẩy cho con. Sợ con tỉnh dậy, bà chỉ khẽ nắm vào tay, vào bả vai con như ngày nào con còn lên ba lên năm đêm ngủ cứ xoay ngang xoay dọc khắp giường. Hơi ấm và nhịp thở của đứa con truyền sang người mẹ như những giọt phù sa ngọt ngào, lắng đọng. Chao ôi! Xương thịt của bà đây, phần hồn phần xác của bà đây, tất cả mọi niềm vui nỗi buồn của bà đây, ngày mai nó đi xa rồi, xa lắm và ở nơi rốn bão kinh hoàng không có gì là không thể xảy ra đó, liệu nó, một thằng bé giàu tình cảm, yếu đuối, thích mộng mơ, thỉnh thoảng lại nói ngang khó ai bắt bẻ được có trụ được không?... Bà mẹ rùng mình không dám nghĩ tiếp nữa. Nghĩ tiếp chắc tiếng khóc dấm dứt đang cố nén trong cổ của bà sẽ bật lên. “Ai mua xôi vò, xôi gấc, xôi lạc, xôi đậu xanh ra mua đơ...ơ...ơ...i...” Một tiếng rao sáng buồn như tiếng gió thổi dọc phố vang lên ở đầu ngõ, bà thoáng giật mình, vội cúi xuống hôn nhẹ lên mái tóc rất mềm của con, khẽ buông một tiếng thở dài, tần ngần ngồi nán lại thêm chút nữa rồi đi vào bếp nắm cho con mấy nắm cơm nắm chấm với muối vừng bà tự giã lấy làm chút lương khô chuẩn bị cho con lên đường. Nằm lại, anh khẽ mở mắt. Thì ra anh cũng không ngủ. Ngày xưa có hơi mẹ ấp bên cạnh, đứa trẻ thơ là anh say ngủ ngon lành mà giờ đây, cũng cái hơi mẹ nồng ấm ấy phả xuống mà lại làm anh không sao ngủ được. Đất nước thương đau, đất nước tần tảo, biết đến bao giờ mới hết được cái cảnh những người mẹ rứt ruột tiễn đưa con vào trận như thế này? Câu tùy bút của một nhà văn nào đó được đọc trên đài lúc này bỗng chẹn ngang lấy ngực anh. Nhìn dáng mẹ nhỏ bé cặm cụi dưới ánh đèn lom dom, mắt anh bỗng dưng thấy cay sè... Mẹ ơi! 2 Mưa Đỏ Với một vùng đất, thường là thời tiết, phong thổ, tập quán, văn hóa nơi đó thế nào thì tính cách, tâm hồn con người cũng hao hao thế ấy. Hà Nội và Huế có nhiều nét giống nhau về phong thổ nên phải chăng con người sinh ra cũng có những điều trùng lặp, trong đó cái nét hào hoa, lãng mạn, đa tình trội lên không phải dễ nhận ra, tuy con người Huế có thêm sự cực đoan, hà khắc mà người Hà Nội do thế đất hình sông yên ả, mưa thuận gió hòa nên cái tính cách ấy cũng có nhưng ít khi được dịp bộc lộ. Có học giả nói một cách võ đoán rằng, con người khi sinh ra có ba điều không chọn được là mẹ, quê hương và chiến tuyến. Hai điều trên là rõ rồi, như một định mệnh, nhưng còn cái thứ ba, chiến tuyến, có rất nhiều cái cần phải bàn lại cho thấu đáo mà các nhân vật trong câu chuyện đau thương này sẽ góp phần cùng bàn lại với ta. Huế tháng này bắt đầu vào mưa, một mùa mưa dai dẳng. Mưa sầm sì trắng đất trắng trời. Mưa ướp vào tâm hồn, thói quen, tính cách con người nơi đây. Và phải chăng vì thế mà những điệu hát, những câu thơ cũng như có cả mưa tẩm vào. Dưới kia, con sông Hương xẻ đôi thành phố buồn như một tiếng thở dài thiếu phụ. Trong một căn nhà xây theo lối cổ u trầm, xinh xắn, có vườn cây, hòn non bộ bao quanh, một thiếu úy dù khá bảnh trai, mắt sáng, nước da ngăm đen, khuôn mặt lạnh hiện rõ vẻ phớt đời đang ngồi trước mẹ, một người đàn bà mà mọi cử chỉ, lời nói, ăn mặc, đi lại, đến cái nhướng mắt, cách cầm chén trà cũng đều toát lên vẻ quyền quý, sang giàu. Bà không nhìn vào mắt con mà thả cái nhìn ra ngoài cửa sổ đang có những giọt mưa cuối mùa tinh tang nhỏ xuống, giọng ấm và ngọt như bất kỳ một giọng Huế căn cốt nào: - Ngay bây giờ con vẫn có thể thay đổi quyết định chỉ bằng một cú phôn mẹ gọi cho ông tướng tư lệnh. Quang nắm lấy tay mẹ, khẽ rung: - Con biết, ông ấy ngày xưa cùng học một trường và chơi rất thân với ba con. - Hơn thế, ông đang là con nợ của mẹ. Quang cười: - Nợ tiền chớ không phải nợ... tình hả mẹ? Người ta bảo ngày trước mẹ là hoa khôi trường nữ sinh Đồng Khánh làm xiêu diêu tất cả cánh học trò nam. - Quang! - Nét mặt người mẹ lạnh lại. - Mẹ đang chờ câu trả lời của con. Ba con ở nước ngoài cũng đang chờ câu thông báo cuối cùng của mẹ. Quang chợt đứng dậy, cao lớn, bụi bặm, anh ta nhìn thẳng vào mắt mẹ: - Câu trả lời của con là không! Và con cũng không muốn mẹ nhắc đến cái đám tướng lĩnh xôi thịt ấy một lần nữa. - Quang! Con không thể nói về những người bạn của ba con như vậy. Dù sao họ cũng vẫn là rường cột của cái chế độ này. - Rường cột? - Quang bật lên một tiếng cười khinh khi. - Ngay từ hồi học ở quân trường con đã biết họ rường cột như thế nào rồi và sau này đánh đấm vài trận, con càng hiểu cái rường cột đó ra làm sao. Mục ruỗng hết rồi, mẹ. Con không thay đổi quyết định bởi con muốn một lần nữa thử sức với một đối phương mà bằng cách nào đó họ đã khiến cho người Mỹ, một loại người ngạo mạn nhất thế giới phải kiêng dè, hãi sợ. - Nhưng ba con nói đó là chiến trường khốc liệt nhất trên cả bốn vùng chiến thuật, thường chỉ dành cho lính cảm tử và những kẻ lao công đào binh bị đày ra đó để thí thân. Đã có bao nhiêu người bỏ cả núi tiền ra để con cái họ tránh xa được cái vùng tiền đồn 1 ấy, vậy mà con... - người mẹ nói vớt vát. - Chính vì thế mà con càng cần phải đi. Trong con có thể có cả chất cảm tử lẫn chất đào binh nhưng chắc chắn con không phải là một thằng có chất hèn. - Con sao khác ba con quá à? Cùng một thời quân ngũ với ông Thiệu, ông Minh và có thể trên cả ông Thiệu, ông Minh về đường binh nghiệp, nhưng ba con dám bỏ tất cả để trở thành một trong sáu tài phiệt lớn nhất nước, vì ba con bảo, tướng lĩnh, nội các chỉ có thời, ba hồi lên ba hồi xuống nhưng đồng tiền và kinh doanh thì thể chế nào, thời buổi nào cũng cần. - Đó là một triết lý sặc sụa mùi con buôn, không nô lệ cho quyền lực nhưng lại nô lệ cho đồng tiền, vậy cả. Con khác. Bà mẹ không nói nữa, những ngón tay trắng nhỏ bất giác chuyển động trên chuỗi tràng hạt đeo nơi cổ. Vẻ như nhận ra mình vừa rồi có những lời nói có thể làm mẹ buồn, Quang cười, bước đến cạnh mẹ, ngồi xuống tay ghế, quàng tay qua vai mẹ, giọng dịu hẳn: - Mẹ... Vả lại chuyến đi này con cũng còn có một lý do riêng tư nữa là muốn tìm lại, gặp lại cái cô sinh viên cứ ám ảnh con miết kể từ lần đụng độ ấy. - Hả?... Cái cô bé Quảng Trị thân Cộng mà vì cô ấy con đã tụt từ trung úy xuống thiếu úy? - Để gặp lại được em, con sẵn sàng tụt xuống binh nhất hay đi lao công đào binh cũng được. Đến đây thì bà mẹ không lần tràng hạt nữa mà khẽ buông một tiếng thở dài phiền muộn: - Đa tình, phóng đãng là tính khí của những người đàn ông trong cái nhà này, nhưng đa tình đến độ bất chấp tất cả đem lòng thương cả kẻ ở chiến tuyến bên kia thì rồi đời con sẽ ra sao hả Quang? Anh chưa kịp trả lời mẹ thì từ khung cửa đã xuất hiện một thiếu nữ đẹp chói chang như bước ra từ những tờ Program Cinema Hồng Kông. Áo pull xanh, quần loe trắng, kính râm to bản, phấn son điệu đàng, cô bước vào tỏa sáng như một tia nắng trong khung cảnh ảm đạm mưa rơi, khẽ cúi đầu lễ phép chào bà mẹ rồi đến bên Quang, tiếng nói thật dịu nhưng đanh: - Anh Quang! Như vậy anh vẫn quyết định tìm đến cái chết? Quang nhìn đi chỗ khác, thoáng một cái chau mày: - Để được sống một lần cho ra sống. Tôi ngán cái cuộc sống nhờ nhợ, tanh tanh mùi cá ươn này quá xá rồi. Bà mẹ đánh mắt về phía cô gái như ra ý con hãy cố khuyên nhủ nó cho bác rồi bước vào nhà trong. Cô gái nhìn thẳng vào mắt Quang: - Và có thể hiểu được rằng, anh đang ngán cả em? - Để cho em khỏi ngán tôi trước. - Anh tàn nhẫn lắm! Ít nhất cũng có những con người đang sống đàng hoàng, tử tế không đến nỗi để cho anh phải hắt nước đổ đi chớ? Như bác đây chẳng hạn. - Không được động đến mẹ tôi! - Quang bỗng trừng mắt lên. - Và tôi đi cũng là để cho bọn nhà quê vô đạo, chân đất mắt toét phía bên kia không thể động được đến bà. - Em xin lỗi! Đã từ lâu em coi bác đây như mẹ... - Cám ơn, nhưng tôi nghĩ có lẽ em đã gõ nhầm cửa. Giữa mẹ tôi và em chả có điểm gì có thể gọi là tạm giống nhau cả. Đến đây thì nét kiêu sa của cô gái biến mất, chỉ còn lại một ánh nhìn nanh nọc chiếu thẳng về phía anh ta: - May mà tôi gõ nhầm cửa. Nếu tôi gõ trúng thì với một thằng đàn ông vừa cuồng tín vừa kệch cỡm như anh thì không biết đời tôi sẽ như thế nào! - Tốt! Ngay bây giờ chúng ta coi như kết thúc và tất cả những thứ ngớ ngẩn gọi là tình yêu vừa qua chỉ là trò cám dỗ của xác thịt. - Tôi cũng muốn kết thúc từ lâu rồi. Hôm nay tôi đến đây để mong níu vớt được ở anh một chút gì còn lại của ngày hôm qua nhưng bây giờ thì hết, hết thật! - Lần đầu tiên được nghe một câu nói thật từ cái miệng chỉ quen nói giả. Em cứ coi như không còn tôi, không còn một con đực tương đối hay ho bên một loạt những con đực quá hay ho khác đang bấu xấu quanh em. Và nói thật nhé, em đến đây không phải để cứu vãn một mối tình mà thực chất muốn đập nát nó đi qua thái độ của tôi để dễ bề ăn nói với hai bên gia đình đã nặng lòng thề ước. Chúc em có được một thằng đàn ông trong nhà để tránh có một thằng rồ đeo khiên hiệp sĩ ngoài nghĩa trang, đó là tôi cũng nhái lại lời người khác. Từ biệt! Cô gái lặng đi một lát rồi ngoắt người đi ra. Bà mẹ vào, dõi theo bóng cô gái chui vào chiếc xe nằm khuất bên kia đường rồi quay lại khẽ lắc đầu nhìn con với vẻ mặt phiền muộn: - Đây là cô thứ mấy con ruồng bỏ? - Không, họ ruồng bỏ con chứ con đâu có dám ruồng bỏ họ. Con nói thật, từ ngày Mỹ nó đổ quân vào đây với tất cả thứ văn hóa thực dụng của nó, tâm hồn, tính nết các cô gái bỗng trở nên xộc xệch, bốc mùi hết. Mà vậy cũng tốt, càng đỡ nặng gánh thê nhi. - Còn cái cô gái Quảng Trị kia? Có phải vì chính cô ta mà con có lối hành xử quá nghiệt ngã như vậy? - Dạ, chưa đến nỗi đâu má. Con đã được trực tiếp chuyện trò với cô ấy lần nào đâu mà hành xử, nhưng có lẽ chính hình ảnh, dáng hình, tác phong, nhất là đôi mắt kỳ lạ của cô ấy trước bạo lực, dù chỉ là khoảnh khắc thôi nhưng đã là một phép thử để xiêm y tất thảy các cô gái khác cứ mặc nhiên bị tuột ra. Bà mẹ mệt mỏi khẽ buông người xuống ghế, nói mà không nhìn thẳng vào con: - Thôi thì tùy con. Mẹ chỉ dặn một điều, vì một bóng hình vu vơ con có thể đi vào chỗ hiểm nghèo nhưng cũng đừng vì cái bóng hình đó mà con không nghĩ gì đến mạng sống của mình. Con nên nhớ phía sau con luôn có một người đàn bà đêm ngày nghĩ về con, mong con lành lặn trở về, đó là mẹ. - Con nhớ, vì chỉ có mẹ là người thương yêu con nhiều nhất và con cũng chỉ có một mình mẹ là đủ sức níu kéo con với cuộc đời chán ngắt này. Con đi nghe mẹ! Thiếu úy Quang đi đến bên mẹ, ôm khẽ lấy bờ vai mảnh dẻ của mẹ để yên một lát rồi vội chụp chiếc mũ dù nâu lên đầu, ra nhanh. Từ dưới cổng, một tiếng động cơ xe Jeep rú lên rồi xa dần. Từ cánh cửa sổ chưa khép, gió đem theo những hạt mưa li ti bay vào trong phòng, người mẹ khẽ rùng mình, run run đưa tay lên, bối rối lần vào chuỗi tràng hạt đeo nơi cổ, nước mắt từ từ rịn ra... 3 Mưa Đỏ Chiến tranh dù khốc liệt đến mấy thì nó vẫn có những khoảng lặng bất ngờ không tin được. Một trận đánh không phải lúc nào, ở đâu cũng quằn lên cái âm thanh gầm gào, rú thét như sẵn sàng bứng con người ra khỏi cuộc sống đem quẳng sâu vào địa ngục, mà cũng có những giây phút tĩnh lặng đến ngẩn ngơ như buổi sáng mai này trên đất rừng Quảng Trị đang trải ra trước mắt người lính kia. Một buổi sáng chỉ có nắng gió yên bình phơn phớt tô trên những dải rừng, đồng ruộng, dòng sông, khe suối như thể chiến tranh chết chóc đang xảy ra ở đâu đó, ở quốc gia bất hạnh nào đó chứ chưa hề xảy ra ở đây. Trong một cánh rừng xơ xác phía thượng nguồn bên dòng Thạch Hãn đang mùa khô, nước chảy lặng tờ, hơi đục. Dưới một gốc cây kín đáo, có sáu con người mặc quân phục Giải phóng, trong đó có Cường, chàng trai Hà Nội, đang ngồi quanh một nồi măng rừng sôi sủi. Một con thú rừng đang được làm lông treo ngược thân cây. Đám lông màu xám được cạo dần, con thú trở nên trắng nhễ nhại như một hình nhân bé nhỏ bị tùng xẻo. Đâu đó, họ hạ con thú xuống, đặt trên tấm ni lông, thận trọng xắt ra từng miếng nhỏ rồi thả vào nồi. Thịt thú rừng gặp măng rừng bỗng dào lên, quấn quyện lấy nhau, thoáng chốc đã làm cho nồi nước lèo chuyển sang màu vàng nhợ bởi những váng mỡ nổi dềnh trên mặt. Dường như chỉ hau háu chờ có thế, Tiểu đội trưởng Tạ, chừng hơn ba mươi tuổi, tóc rễ tre, trán vuông cằm vuông, cái chóp mũi hình như cũng vuông nốt, da đen mun, dáng nông dân chắc nịch vùng đồng bãi, múc nước trong nồi lên húp soạp một cái rồi nhe răng cười, hàm răng ám khói thuốc cũng chắc nịch như bàn cuốc, lưỡi thuổng: - Ngọt thịt lắm, các chú mày ăn đi, có thể đây là bữa ăn tươi cuối cùng. Đêm nay vào trong đó chưa biết khi nào được ăn lại cái món này đâu. Nói rồi, như một lão anh nuôi kỳ cựu và kĩ tính, phân rất đều lượng măng và thịt, anh thận trọng múc vào bát từng người. Vèo một cái, họ đã húp sạch bát thứ nhất. Bát thứ hai lại được múc tiếp. Lại hết. Tạ dừng lại, nhìn tiểu đội của mình một cách âu yếm như cách nhìn của ả gà mái nhìn đàn gà con đang bới thóc. Đến bát thứ ba thì mọi người dừng lại, nói đúng hơn là nồi canh đã cạn sát đáy buộc họ phải dừng lại, miệng người nào người ấy nháng mỡ, có người vẫn còn đá lưỡi vào chân răng chẹc chẹc vẻ thòm thèm. Tạ rít roóc roóc hơi thuốc lào rồi ngửa cổ phun một luồng khói như rắn cuộn vào không gian. Để cho cái say ngấm sâu vào lục phủ ngũ tạng, ngấm kĩ vào đôi mắt đang chuyển sang đờ đẫn một lát, chiêu một ngụm nước súc òng ọc trong cổ họng, Tạ mới thủng thẳng: - Hầy! Chưa vào trận, mới chỉ đi đường thôi quân số đã vợi đi quá nửa. Tiên sư cái thằng Mỹ, phải nói bom pháo nó mạnh thật! Nghe này, tao nhắc lại: Đây là Tiểu đội 1 thuộc Trung đội 3, Đại đội 8. Là một tiểu đội chủ công, một tiểu đội hỗn hợp mới thành lập, nào, bây giờ điểm danh cái cho chắc ăn, kẻo mai mốt đánh đấm mù mịt lại không biết thằng nào vào thằng nào mà báo chết báo tử! Bắt đầu từ cậu, nào! Anh chỉ một thanh niên dáng cao, đeo kính trắng, vẻ điềm tĩnh, từng trải ngồi trước mặt. người này lên tiếng, cũng với một giọng điềm tĩnh ấm áp: - Tôi là Sen, Trần Văn Sen, hai mươi tư tuổi, quê ở ven sông Sài Gòn, miệt Bến Cát, trước hoạt động ở Tổng hội Sinh viên, lộ, được ra Bắc học, học chưa xong thì vô đây, xin làm lính đặc công trinh sát, chưa vợ, ông già hy sinh thời đánh Pháp, nhà còn mẹ và đứa em gái. - Đặc công à? - Tạ đưa bàn tay chuối mắn vỗ bộp một cái khá nặng vào vai người này, cười hết cỡ. - Tốt rồi. Mọi trận đánh bộ binh đòi hỏi phải có đặc công dính vào mới ngon. Còn cậu? Tạ chỉ một chiến sĩ có thân hình tròn lẳn như cá trắm, nét mặt không đẹp nhưng đường nét rất đàn ông, hơi gồ ghề, bụi bặm, chiếc răng vẩu làm nụ cười của cậu ta trở nên rất duyên. Người này ngượng ngập trả lời bằng cái giọng thật đằm: - Dạ, em là Nguyễn Quang Bình, bọn bạn nó thường kêu là Bình Vổ, học sinh miền Nam. Quê em ở đây, ngay Đông Hà, theo cha mẹ ra tập kết từ nhỏ, đang học năm thứ ba Đại học Mỹ thuật Hà Nội thì có lệnh tổng động viên, mười chín tuổi, ăn nói vô duyên, mặt mũi xấu xí nên chưa vợ, chưa người yêu luôn. - Xấu à? Tốt! - Tạ lại định giơ tay vỗ vào vai cậu ta nhưng cậu này đã vội tránh được khiến bàn tay to tướng của anh rơi thõng xuống. - Theo kinh nghiệm chiến đấu của tao, thằng xấu bao giờ cũng uýnh ngon hơn thằng đẹp, nhưng mày... đâu có xấu, chỉ ăn nói quàng xiên. - Quay qua chỉ vào Cường. - Thằng này đẹp, quá đẹp nữa là khác, sao? Cường cười: - Em là Đặng Huy Cường, quê Hưng Yên, sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, hai mươi hai tuổi, năm thứ tư Nhạc viện. - Nhạc à? - Lần này thì cái bàn tay to tướng kia không giơ lên nữa. - Quá tốt! Cậu viết nhạc đi, viết cho bốc máu vào, tớ hát cho, giọng tớ tuy thuốc lào nhưng mấy cô gái làng cũng chết mê chết mệt đó. Chỉ biết đánh nhau thí mạng mà không biết hát hò, đánh không bền đâu. Còn người yêu người iếc sao, chắc có cả tá rồi hả? - Dạ, cũng gọi là có nhưng... thôi rồi. - Ai thôi? - Tạ trợn mắt. - Cậu thôi hay nó thôi?... Chắc là cô ả đúng không? Vậy thì vất thằng bố nó đi, nó không xứng đáng với một chiến sĩ Thành cổ, khỏi bận lòng. Đàn bà con gái thiếu cha gì, uýnh nhau xong, chưa chết, tha hồ chọn, đích thân tao chọn cho. Tạ quay sang tiếp một chiến sĩ có dáng người thấp đậm, cái lưng hơi gù và đôi mắt nhìn rất lạ, như rất gần lại như rất xa, lại có lúc không nhìn gì cả mà lại như nhìn ngược vào trong mình. - Còn cậu, chắc không phải bị tật từ nhỏ chứ? Người này giật mình định trả lời thì Tạ xua tay: - Khoan đã! Cậu làm sao mà như mất hồn mất vía thế? Này, tớ nói thật nhé, sắp vào trận mà mặt mũi đăm chiêu như cái đứa bị vợ bỏ thế kia là không ổn đâu. Tên gì? Trước câu nói xối xả của Tạ, người này không thay đổi nét mặt, lặng lẽ trả lời: - Tôi tên Hải, Phạm Huy Hải, biệt danh Hải gù, gù có gen, hai mươi mốt tuổi, quê Hà Tây. Hồi ở nhà theo nghề bố, suốt ngày đi mắc, sửa điện, đào cống đào rãnh cho thiên hạ nên nó mới bị gù. Còn cái chuyện mặt mũi đồng chí vừa nói, nó không liên quan gì đến vào trận hay không vào trận cả. Hết! - Tốt! Lính bộ binh mà gù là quá tốt, càng thu nhỏ mục tiêu, đỡ mất công khom lưng khi tiếp cận. Này, coi chừng vào Thành cổ, cái nghề điện của cậu lại được việc đó. Còn thằng cu này? Mi sướng cái gì mà cứ ngoác mồm cười hoài vậy, mày? Anh hất cái cằm râu ria lởm chởm về phía một người trẻ nhất, bẽn lẽn như con gái, nước da mai mái, có chiếc răng khểnh rất duyên bên trái khóe miệng. - Tại em thấy Tiểu đội trưởng giống... bố em ở nhà quá! - Giống bố em?... Hả, láo, tao già thế rồi kia à? Sao? - Em là Tú, Trương Đình Tú, mười... sáu tuổi. - Mười sáu? Thằng này càng láo! Bộ đội chứ đâu phải trường thiếu sinh quân. Ngày mai tao đề nghị trả mi về phía sau, ra ngoài kia đi học tiếp! - Ối, chết em thủ trưởng ơi! Em phải khai thế người ta mới cho đi. - Thôi được rồi. Ở đời có nhiều cái khai gian nhưng khai gian để đi vào chỗ ác liệt thì cái gian ấy có thể chấp nhận được, nhưng để tao nghĩ thêm cái đã, miễn là ngay trận đầu mi phải đánh đấm ra trò, chứ đây không phải là trò đánh trận giả của đám trẻ trâu. Nói rồi anh chợt cúi xuống chiếc ba lô cóc cáy của Hải gù, rút ra một cuốn sách nhăn đang thò lên khỏi miệng túi, chau mày nhăn trán đọc một cách khó nhọc: - Hả, cái gì đây? Thép... thép đã tôi... tôi thế đấy? Cậu làm nghề luyện thép? - Dạ, không! Tiểu thuyết Nga đấy ạ. - Cậu là nhà văn? - Không, em chỉ là học sinh giỏi văn toàn miền Bắc thôi. - Văn à? Tốt thôi. Viết đi, viết lại tất cả những gì sắp trải qua, viết rõ thật vào, đừng uốn éo như mấy thằng cha thông tin xã để nếu có chết, con cháu mấy đứa còn có cái để đọc, để hiểu cha anh chúng đã đánh nhau như thế nào. Sen, người lính đeo kính trắng chợt trầm giọng: - Đồng chí Tiểu đội trưởng! Sao chưa vào trận mà đồng chí toàn nói chết với chóc thế, ảnh hưởng đến tâm lý anh em. - Ờ nhỉ? - Tạ cười dễ dãi, vần vò mớ tóc cứng queo làm tóe lên cả đám gầu trắng như bụi. - Tính tớ bỗ bã, nghĩ gì nói đó, thỉnh thoảng cậu làm ơn phanh lại cái nhé! Tóm lại tớ là Tạ, Nông Văn Tạ, nghe nặng chưa, ba mươi tư tuổi, quê Cao Bằng, tiểu đội trưởng i nốc, tám năm không lên nổi một cấp, nông dân trăm phần dầu, văn hóa lèng phèng nhưng cũng đủ để viết thư cho bà xã đôi dòng nguệch ngoạc, một vợ một con, khi đi vợ con theo tiễn, khóc ướt... ướt sũng cả một... một triền đê. - Ướt sũng cả triền đê... Câu này em nghe quen quen, hình như các cụ tả mưa chứ không phải tả khóc. Tú hồn nhiên buột miệng nhưng không làm Tạ chựng lại, thậm chí cái miệng của anh còn dẩu ra hơn: - Đê là đê chứ cậu muốn tôi nói ướt sũng cả... cái đũng quần thì nó mới không quen quen à? Bố khỉ, thằng, chỉ được cái hay vặn vẹo, mất bố nó cả hứng của người ta. Tú lí nhí: - Em... em xin lỗi, chỉ tại em mê cả văn lẫn toán nên hay đòi hỏi mọi thứ phải chính xác. Tạ cười khồ khồ: - Tao nói vui chứ làm gì mà mặt mày bí xị như sắp chảy nước đái ra thế kia? Thôi, tất cả nghe tiếp đây. - Nét mặt vị Tiểu đội trưởng thoắt trở nên trang trọng như nét mặt của một vị tướng đứng trước ba quân, lại còn cả khịt mũi nữa. - Tiểu đội ta vậy là gồm cả ba miền Bắc, Trung, Nam, coi như cả nước vào trận. Sáu thằng thì ba thằng là sinh viên, hơi nhiều, một thằng là học sinh, một công nhân, một cày cuốc, nói như kiểu nói của ông chính trị viên đại đội thì tiểu tư sản chiếm đa phần, tốt, không sao, trí thức và thợ thuyền cùng sát cánh, bổ sung nhau mà đánh đấm cho tợn vào. Giờ phân công cậu Sen, do đã qua hoạt động đoàn thể lại kinh qua cả chiến đấu, thêm tính tình chín chắn sẽ làm tiểu đội phó. Hết! Có ai thắc mắc gì không? Cả tâm sự nữa. Giờ coi như anh em cốt nhục một nhà, tao lớn tuổi là anh cả, thằng Tú là em út, đứa nào có gì trong bụng nói hết ra, đừng giữ lại mà thành táo bón, để từ ngày mai chỉ một lòng uýnh giặc chết bỏ, không vân vi nhằng nhịt gì nữa. Có gì không? Tao thấy mắt thằng Sen nhấp nháy, hình như có điều muốn nói? Sen cười, để lộ ra hàm răng ken nhau đều sin sít: - Có. Đó là tiểu đội có được một tiểu đội trưởng bộc trực, tình cảm, xuề xòa lại dạn dày trận mạc như đồng chí Tạ thì chắc chắn tiểu đội sẽ là một tiểu đội mạnh. Tạ có vẻ ngượng ngập: - Dạn dày mẹ gì đâu! Tớ cũng còn nhiều cái xấu lắm, nếu tốt cả thì lúc này tớ lên tút lút tận đâu rồi chứ làm gì được ngồi đây chỉ huy các cậu. - Rồi làm ra vẻ bí mật, anh lôi trong túi quần ra một chai rượu nhỏ, nút lá chuối, mắt sáng lên. - Coi như Kết nghĩa vườn đào... Ấy, đây làm đếch gì có đào mà kết, vậy gọi là kết nghĩa bên sông, được không? - Mọi người gật đầu. - Đây là chai rượu cuối cùng. Sáu đứa mình uống mỗi đứa một tợp để thề sống chết có nhau, không thằng nào được ngã vục mặt giữa dòng. Tao lớn tuổi, uống trước! Không có ly, anh đưa cút rượu lên miệng tu nhẹ một tợp rồi đưa cho Sen... Sen cũng làm một tợp rồi đưa cho Cường... Cường đưa cho Hải... Hải đưa cho Bình và khi đến Tú, cậu em út tiểu đội thì vừa xoẻn. Tạ xoa xoa hai bàn tay nháng mỡ vào nhau cười khà khà, một thứ cười lộ hết ruột gan ra ngoài. - Xong. giờ nghỉ ngơi, kiểm tra trang bị, chờ tối bất cứ lúc nào có lệnh là sang sông! Cả tiểu đội lặng lẽ tản ra trở về với công việc của mình. Trong đầu Cường xuất hiện một khoảng lặng không rõ ràng. Sang sông! Một cái từ thật gợi trong các áng văn chương kim cổ nhưng hai tiếng “sang sông” chiều nay sao nghe có cái gì rờn rợn như mang hơi hướng sắc thái một đi không trở lại thế nào! 4 Mưa Đỏ Huế. Vẫn mưa. Tại căn cứ quân sự Mang Cá, một chiếc chuyên cơ đen sì như con nhặng chửa từ hướng nam bay đến, nặng nề đáp xuống rồi từ từ dừng bánh. Bước xuống là cái dáng nhanh nhẹn, tầm thước, vận đồ trắng lịch lãm quen thuộc của Tổng thống Thiệu, kế tiếp là cái dáng cao dong dỏng của Đại tướng tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên, rồi Trung tướng Ngô Quang Trưởng với nước da đen cháy, khuôn mặt hốc hõm và một cố vấn Mỹ cao cấp vận thường phục. Họ rảo bước đi thẳng vào phòng họp, nơi đã có Tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh Vùng 1 và chuẩn tướng tư lệnh sư đoàn 3 Vũ Văn Giai cùng một số sĩ quan cao cấp khác đã đứng nghiêm chờ sẵn với vẻ mặt căng thẳng, rám nắng. Vừa an tọa, bỏ qua tất cả những lễ nghi, thủ tục rườm rà, với khuôn mặt sáng láng, khá đẹp và giọng nói mềm mại của một chính khách hơn một nhà quân sự, Tổng thống Thiệu vào đề luôn như đã nén sẵn những câu nói này từ trước: - Thưa các ông! Để mất Quảng Trị, một địa bàn chiến lược là một sự nhục nhã. Nhục nhã cho cả người Mỹ lẫn cho cả chúng ta. Cho nên hôm nay đến đây, tôi rất tiếc phải thông báo rằng, ông Lãm không còn đủ tư cách để giữ trọng trách tư lệnh Vùng 1 và Quân đoàn 1 nữa. Đúng là một trái mìn nổ toác giữa phòng họp. Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía vị tướng vừa được nêu tên. Nhưng như có vẻ đã sẵn sàng đón nhận từ trước, Tướng Lãm không hề thay đổi nét mặt, ông ta bước lên một bước, dập mạnh gột giày: - Rõ, thưa Tổng thống! - Và từ giờ phút này... - Viên Tổng thống dường như không để ý đến thái độ ấy, đanh giọng nói luôn. - Người thay thế sẽ là Tướng Ngô Quang Trưởng đây. Tôi hy vọng hai ông sẽ có những trao đổi cần thiết với nhau để đừng làm hổ danh uy thế của một quân lực có không dưới một triệu quân được trang bị không kém bất cứ một đội quân mạnh nào. Nét mặt khắc khổ, đen sạm, mắt trũng tối, Trưởng bước lên, ưỡn căng lồng ngực vốn không lấy gì làm nở nang lắm: - Rõ! Tôi sẽ hết lòng, thưa Tổng thống! - Chưa hết! - Thiệu vẫn đanh giọng. - Việc Sư đoàn 3, một sư đoàn con cưng của quân lực đã tự động rút lui trong trận chiến vừa rồi lại còn nhục nhã hơn. Sư trưởng Vũ Văn Giai sẽ phải ra tòa án binh điều trần về vụ này! Lại một tiếng mìn nổ nữa nhưng lần này có cả chớp lửa bùng lên. Không hiểu có phải vị sư trưởng nổi tiếng là gan dạ, liều mạng và nóng tính này đã bị ảnh hưởng phong độ người chỉ huy của mình hay do vốn dĩ tính cách ông ta là như thế, Tướng Giai đứng lên với nét mặt lộ rõ vẻ lì lợm, bất cần: - Tôi đã xác định trước và xin hoàn toàn chịu trách nhiệm, thưa Tổng thống! Thiệu bất ngờ đập mạnh những ngón tay trắng hồng xuống mặt bàn: - Chịu trách nhiệm! Cứ thua bại, cứ bỏ chạy rồi lại cứ xin chịu trách nhiệm thì dễ quá, thằng hèn nào cũng làm được thưa các ngài sĩ quan vô cùng thân mến và rất đáng tin cậy của tôi. Viên cố vấn Mỹ tóc bạch kim, dáng cao, nói tiếng Việt khá chuẩn, khẽ nở một nụ cười vừa đủ cho một ứng xử ngoại giao: - Tôi thành thực chia buồn với ông Lãm và ông Giai, nhưng ta cũng nên ý thức đó là quy luật của chiến cuộc. Trước đây, để mất vùng tiền đồn 1, không chỉ các ngài mà ngay cả Tướng Westmoreland của chúng tôi cũng phải ra đi để thay vào đó là Tướng Abrams. Thiệu nhún vai, khẽ nhếch mép để lộ ra chiếc răng khểnh khá duyên cho một người phụ nữ nhưng lại hơi thừa cho một người đàn ông: Có thể mất một vài nơi khác nhưng không thể để mất Quảng Trị. Nó là điểm nhạy cảm nhất và cũng là điểm quyết tử nhất để Hà Nội họ không có trớn phát triển xuống phía nam và có cớ nói mạnh, ra giá, chơi khó ta trên cái gọi là hòa đàm Paris chết tiệt sắp họp trở lại. Ngừng một lát, Thiệu nhìn khắp lượt tướng lĩnh, cao giọng: - Đây là danh dự, là lịch sử. Tôi, tổng thống Việt Nam Cộng hòa, ra lệnh cho các ngài bằng mọi giá trong thời gian ngắn nhất phải tái chiếm được Quảng Trị, trong đó khu thị xã và Thành cổ là yếu điểm cốt tử. Để đạt được điều này, tôi sẽ quyết định vét toàn bộ lực lượng tổng trù bị thiện chiến nhất của quân lực là sư đoàn dù, sư đoàn thủy quân lục chiến, ba liên đoàn biệt động, tăng cường thêm một lữ đoàn thiết giáp, hai lữ đoàn pháo, một sư không quân... lên đây trực tiếp tham chiến cùng các ông. Ba quân nhân đeo lon đại tá đại diện cho ba sắc lính con cưng như chỉ chờ có thế, vội đồng loạt bước lên, dập gót giày, mặt đằng đằng sát khí. Thiệu nhìn ba khuôn mặt đó với vẻ không mấy hài lòng như cách nhìn những chú ngựa non háu đá, nói tiếp, giọng mềm hơn: - Nếu cuộc tái chiếm này không thành, không phải chỉ các ông mà ngay cả chính tôi cũng không còn đường rút. Ông Đại tướng tổng tham mưu trưởng đây sẽ giúp các ông hoàn tất kế hoạch mang tính sống còn này. Tướng bốn sao Cao Văn Viên có cái dáng trí thức nho nhã của một nhà chính trị hơn là một võ tướng từ tốn đứng dậy, thẳng người nhưng rõ ràng trong cái nhìn của ông vẫn có điều gì như là sự nghi ngại. Viên cố vấn Mỹ nói thêm: - Trung thành với công thức vũ khí Mỹ, bộ binh Việt, xin hứa chúng tôi sẽ dùng tối đa hỏa lực không quân và pháo binh để nghiền nát Thành cổ Quảng Trị trong thời gian ngắn nhất! Đó là ý định của Tổng thống Nixon. Danh dự của các ngài cũng là danh dự của chúng tôi. - Cái đó còn phải suy xét lại, thưa ông cố vấn! Thiệu lạnh mặt buông thõng một câu rồi đi trở ra chiếc chuyên cơ nằm loang lổ dưới nắng, vẫn dáng đi nhanh nhẹn nhưng đôi vai đã có chiều hơi gù xuống như đang bị gánh nặng cuộc chiến trĩu đè. Cả đoàn tùy tùng ra theo. Thoáng một ánh nhìn giễu cợt, khinh khi của viên cố vấn Mỹ dõi theo dán vào cái gáy lấm tấm mồ hôi đang căng ra của viên Tổng thống bản địa. 5 Mưa Đỏ Từ trên một điểm cao kín đáo có nhiều khóm lá bao quanh, chiếc ống nhòm của Tư lệnh mặt trận Lê Trọng lia chầm chậm một vòng xuống các cảnh vật phía dưới. Trước mắt ông là thị xã Quảng Trị đang nằm im lìm, thoi thóp bên dòng Thạch Hãn. Dòng sông mùa này chưa có nhiều nước nên nó giống như một vành khăn xanh vắt qua nhà cửa, đất đai, đường sá, làng mạc rồi uể oải nối ra cửa biển Ái Tử. Một cửa biển có cái tên Mẹ Con thao thiết thế này mà giờ đây đen đặc những ụ pháo nòng dài, đen đặc những con tàu gầm ghì súng ống như sẵn sàng lao lên làm cuộc cày nát đất liền. Ánh mắt mất ngủ của ông hơi dừng lại ở cây cầu Thạch Hãn khẳng khiu chưa có người xe qua lại... Dừng lại ở thôn Nhan Biều không còn ngan ngát màu xanh cây lá như hồi mới đến... Dừng lại ở ngã ba Đông Hưng phập phồng một dải đất ba-zan bầm đỏ... Dừng lại ở nhà thờ Trí Bưu mà từ đó dường như đang vọng lên những tiếng chuông nguyện hồn ngột ngạt, u trầm... Dừng lại ở Bến Sải lặng tờ như một bến chết và xa nữa là khu vực Đông Hà. Cuối cùng, ánh mắt ấy dừng lại thật lâu vào một khu đất vuông vức có tường thành bao quanh, bên trong gần như không có sự sống. - Thành cổ Quảng Trị... Tiếng ông thì thầm. Người sĩ quan tham mưu đứng cạnh nhìn lên. - Dạ, thủ trưởng nói gì kia ạ? - Thành cổ, Trí Bưu, Nhan Biều, Tri Tôn... Rồi đây tất cả sẽ trở thành những địa danh lịch sử. - Giọng ông vẫn thì thầm, rồi ông bỏ ống nhòm quay qua người trợ lý. - Cậu có nhìn kĩ khu Thành cổ không? Mặt hậu nó chỉ có dòng Thạch Hãn làm đường tiến lui, còn mặt tiền ba bề đều trống trải, vị thế hết sức mỏng manh, theo cái nhìn quân sự thì không bao giờ nên cố thủ ở đó nhưng ở vị trí chính trị chiến lược thì lại phải giữ cho bằng được, giữ càng lâu càng tốt. Cậu thấy sao? Không chờ trả lời, ông nói tiếp, gọng hơi căng lên: - Đây là một cái quyết chiến điểm cho toàn cuộc, có thể thành có thể bại nhưng chắc chắn ta phải trả giá rất đắt. Tôi đã có lần nói điều này với đồng chí Bí thư quân ủy nhưng không được chấp nhận. Phải thông cảm nơi chôn rau cắt rốn của đồng chí ấy chính ngay ở đây. Vì vậy, tôi muốn Ban tham mưu của cậu ngay ngày mai hãy trình lên Bộ tư lệnh Mặt trận những phương án phòng thủ sao cho bộ đội cầm cự được lâu nhất và thương vong ít nhất. Đã đến lúc trong căn cốt tư tưởng của chúng ta, phải xác định không thể đạt hiệu quả bằng bất kỳ giá nào. Đây là một mục tiêu có ý nghĩa lịch sử và vì thế về sau này nó sẽ được lịch sử nhìn nhận lại. Ông không nói gì nữa, hạ người ngồi xuống một gốc cây, móc thuốc ra hút, trầm ngâm. Người sĩ quan tham mưu cũng im lặng. Anh hiểu lúc này, người tư lệnh nổi tiếng là tài ba và thương lính trong toàn quân của mình đang có điều khó nghĩ. ★ Lúc đó, từ trên các chiến hạm Mỹ đậu ngoài khơi, từ những cao điểm nơi cửa Ái Tử, bất thần những nòng pháo đen sì ngóc đầu khạc lửa. Những tiếng nổ, những cột khói úp chụp xuống thị xã và các vùng lân cận. Úp chụp xuống một dòng người đông vô kể đang lũ lượt, hoảng loạn, bế bồng, gồng gánh nhau chạy ra khỏi vùng lửa đạn, ra khỏi thị xã. Pháo vẫn nổ cấp tập. Tiếng đạn rít trong thinh không sằng sặc như tiếng cười của quỷ. Trong dòng di tản hỗn loạn đã có thân người, nhóm người tung lên, quật xuống. Tiếng kêu khóc, tiếng rên rỉ, giãy giụa, quằn quại, máu chảy thành vũng thành vệt, láng nhầy mặt đường. Lại một chiếc xe đò bốc lửa, nổ tung. Chiếc xe đò nữa, mảnh vỡ bay lên như xác pháo hồng. Một người đàn ông cháy đen như khúc củi bên đường, nước dịch rỉ ra làm dính nhớp cả những bầy ruồi đang sà xuống. Một đứa trẻ bung hết quần áo chạy như hóa dại gào thét gọi mẹ. Một người mẹ trẻ nằm chết vùi trong vệ cỏ để lộ những mảng trắng xanh xao trên da thịt. Đứa bé sơ sinh nằm cạnh không hay, cứ mãi rúc đôi môi nhỏ xíu vào khuôn ngực bết máu của người mẹ mà bú... ★ Từ trên sườn đồi, Thiếu úy Quang và tốp lính dù của mình qua chiếc ống nhòm có độ phân giải cao đã nhìn thấy hết thảy. Hắn gọi vào máy bộ đàm, rít lên: “Tiên sư bọn Mẽo! Chúng mày lòi tròng hả? Đạn rơi hết vào đầu dân rồi! Chuyển làn sang phải đi!” Nhưng những cột lửa vô tri vẫn dựng lên ở ngay giữa đoàn người. Những thân xác và xe cộ lại nát vụn, bay lên. Quang quay qua người lính ngồi bên cạnh, nói vung cả nước miếng: - Hoài! Mày lấy xe phóng ngay về chỉ huy sở nói bắn con mẹ gì mà toàn rơi vô đầu dân. Không dừng lại, chính tao sẽ xách đại đội dù về hỏi tội chúng. Phóng lẹ đi! Người lính vâng lời, cuộn giò lao nhanh đến chiếc Jeep lùn đậu dưới dốc, nhảy lên rồ ga phóng ngược về phía sau. Quang lại đưa ống nhòm lên mắt... Bỗng bàn tay hắn thoáng giật sựng như vấp phải một cái gì. Hắn thả nhanh ống nhòm, dụi mắt... Dụi nữa rồi vòng tròn dừng hẳn, run run... Trước mắt hắn, qua làn khói bụi dày đặc đang nhấp nhóa hiện lên dáng hình một cô gái áo quần cũng rách tơi tả, nhuốm máu chạy nhanh đến chỗ đứa bé đang tìm ngậm vú người mẹ đã chết. Cô cúi xuống gỡ đứa bé ra, bồng lên tay, lấy tấm mền xanh vương gần đó đắp hờ lên thân hình người mẹ rồi cùng đứa bé nhập nhanh vào dòng người... Quang vội vặn hết nấc ống nhòm. Khuôn mặt cô gái dần dần hiện ra khá nét rồi bất thần biến mất trong đám đông. Từ miệng hắn bật ra một tiếng kêu thảng thốt: “Hồng... Trời! Có đúng là Hồng không?... Sao cô ấy lại ở đây?...” Tiếng nói ấy lọt vào tai viên Chuẩn úy đội phó có khuôn mặt thư sinh, mái tóc bồng bềnh nhưng con mắt lại rất tối ngồi cạnh. Gã Chuẩn úy đưa đôi mắt ấy chém nhanh vào nét mặt của Quang như chém vào một vỉa quặng bí ẩn như thăm dò một chút rồi cũng đưa ống nhòm lên phóng chiếu về hướng dòng thác di tản nhưng không nhận ra điều gì. Không nhận ra cả những điều đang hiện lên bảng lảng, nhức nhối trong đầu Quang... ... Đó là vào một buổi sáng có nhiều nắng giống như buổi sáng này, nhưng khung cảnh lại là trong khuôn viên tĩnh lặng, thơ mộng của một sân trường đại học nằm ngay giữa kinh thành Huế. Có rất nhiều sinh viên vận đồng phục đang đứng hướng nhìn lên một bục cao. Nơi đó hiện diện một nữ sinh vận áo dài trắng, tóc vén cao, khuôn mặt thanh thoát, sáng trắng, đôi mắt hơi xếch, đen huyền đẹp đến nao lòng chiếu thẳng vào đám đông, chiếu thẳng vào cả toán lính dù của Quang mặc thường phục đứng lẩn quất phía dưới, cách hơi xa một đoạn. Tiếng nói của cô cũng thanh thoát nhưng rắn rỏi pha chút xa xót, nghẹn ngào: “... Tuổi trẻ học đường của chúng ta đã đến lúc phải ra khỏi cơn mê để thấy rằng hành động của quân đội Mỹ đang tâm rót pháo vào dân lành là trái với đạo lý, với lương tri, là không thể tha thứ được. Hành động này càng cần lên án khi có sự tiếp tay của chính quyền và quân lực...” Thực ra Quang không nghe rõ cô gái nói gì mà chỉ thấy choáng ngợp trước hình ảnh mỏng manh và kiêu hãnh được kết hợp đến kỳ lạ như hiện thân của thiên sứ trong một con người cô. Giọng nói của cô gái vẫn vang lên bằng thứ giọng Huế thật ngọt như là nhõng nhẽo: “Thưa các bạn! Là con Lạc cháu Hồng, chúng ta không thể làm ngơ trước hiện trạng này. Chúng ta phải biết nói lên tiếng nói của mình cũng như tổ tiên ta đã biết cách nói qua hàng ngàn năm Bắc thuộc...” Đến đây thì bản năng phận sự làm chất lính trong người hắn chợt tỉnh, hắn tiến đến sát trước mặt cô, nói vừa đủ nghe: “Cô gái... Nói đủ rồi đó! Xuống đi, nên xuống ngay đi, không bọn cảnh sát dã chiến nó đến lại rầy rà.” Không hiểu cô có nghe được những lời ấy trước hàng trăm tiếng hưởng ứng cồn lên như sóng trào của đám đông không, nhưng trong một thoáng hắn cảm thấy rõ đôi mắt long lanh kia đã đậu nhanh vào khuôn mặt hầm hố của mình trước khi nhìn nhanh sang chỗ khác để tiếp tục bài diễn thuyết bằng chất giọng ngân nga như hát: “Thưa các bạn! Tuổi trẻ của chúng ta sẽ mắc tội với tổ tiên khi chỉ biết nằm trong chăn ấm với những vui buồn vị kỷ của mình. Chúng ta đã đến lúc phải...” Từ phía sau, Phan Thái, gã Chuẩn úy đội phó có mái tóc bồng bềnh và cái nhìn u tối chen lên đứng ngay trước mặt diễn giả, khẩu rulô hườm hườm trên tay. Tiếng nói của gã đầy uy lực đượm chút lưu manh giang hồ: “Có câm đi không con nặc nô đội lốt tiên cô kia! Mi còn gào lên như vậy nữa, thân thể của mi sẽ nhòe máu ngay bây giờ. Câm!” Một thoáng rùng mình chựng lại nhưng tiếng nói ấy vẫn không hề giảm âm lượng, thậm chí còn ánh ỏi hơn: “Lịch sử Việt Nam chưa bao giờ chịu khuất phục trước bạo tàn xâm lăng và những điều ác nhân thất đức...” Cây rulô trên tay hắn lạnh lẽo đưa lên nhằm đúng khuôn ngực thanh nữ no tròn đang rướn căng ở trên cao. Ngón tay đặt vòng cò của gã từ từ siết lại... Quang vội lách người lao đến chặn lại: “Dẹp đi Chuẩn úy! Bắn một đứa con gái là hèn, bắn một đứa con gái trên tay không tấc sắt còn hèn hơn. Còn có nhiều dịp để Chuẩn úy thi thố ngoài tiền đồn, vội gì!” Gã Chuẩn úy sầm mặt. “Tôi làm phận sự của một người lính!” Nòng súng ấy lại đưa lên... Lần này thì Quang không kìm được nữa, hắn chuyển mũi súng trên tay mình vào giữa ngực Phan Thái, gằn giọng: “Phận sự người lính không ai dạy cậu phải là kẻ sát nhân, rõ chưa?” Nhìn trong mắt viên đội trưởng, gã đội phó biết con người này không nói giỡn và đã cùng sống chết với nhau không ít ngày, gã hiểu rằng đội trưởng của mình chưa nói giỡn bao giờ nên thở phì ra một cái như rắn mang bành vuột mất con mồi, đành tra súng vào bao rồi lùi lại. Trên bục, lại thoáng một cái nhìn là lạ của cô gái chiếu vào người vừa cứu mình nhưng không ẩn chứa một điều gì rõ ràng, chỉ thấy trên khuôn mặt xinh xắn ấy có những giọt mồ hôi lấm tấm rịn ra... Quang như sực tỉnh, vội đưa ống nhòm lên quan sát một lần nữa... Lát sau vẻ không thấy gì, hắn hạ xuống, nói với gã Chuẩn úy: - Cậu ở lại chỉ huy đơn vị. Tôi có chút việc phải đi. - Đi đâu? - Giọng hỏi cố tỏ ra cấp dưới nhưng vẫn không thể giấu được một chút xấc láo và tò mò vẩn lên. - Nhà binh! Có những việc chỉ cần nghe chứ không cần hỏi. Bài học đầu tiên trong quân trường chắc cậu chưa quên? Nói rồi, để mặc tia nhìn hằn học phóng theo của gã đội phó, Quang lách qua, chìm người vào các lùm cây cháy sém lao thẳng về phía đám đông đang di tản. Đến một đoạn, hắn tháo giây lưng, tháo chiếc áo rằn ri, tháo luôn cả chiếc mũ nồi nâu bỏ vào một bụi cây kín đáo gần đó, trên người chỉ còn độc cây súng ngắn giắt trong áo, lao đi tiếp... Chạm dòng người, phát hiện ra một chiếc Honda vô chủ vẫn nổ máy nằm đổ nghiêng phịt khói ở vệ đường, hắn vội dựng lên, vặn ga phóng chầm chậm về phía trước, đưa mắt sục sạo khắp mọi ngóc ngách, mọi khuôn mặt nhưng vẫn không thấy cái hình bóng kia đâu. Hắn phóng tiếp và ánh mắt đỏ kè lại sục sạo nhưng vẫn không thấy gì. Đúng vào lúc hắn thất vọng định quay đầu xe trở lại thì chợt dừng, toàn thân nóng bừng... Trời ơi! Người đó đấy, chính cô ấy đấy, khuôn mặt kia, đôi mắt kia, cái miệng đang mím chặt kia không thể sai được. Cô ấy đang bồng đứa bé trên tay, lưng áo ướt đẫm, chân trần, bắp chân con gái mịn trắng có mấy vệt máu chảy dài, thỉnh thoảng lại vấp chao lạng người đi. Pháo vẫn nổ ở hai bên, ở đằng trước đằng sau quẩn vào bụi đỏ. Dáng hình của cô phiêu dạt như một bức tranh tội tình về người con gái chìm trong khói lửa chiến tranh. Hắn cho xe cắt đến sát cạnh, dừng khựng, không nói không rằng xốc cả hai lên phía sau xe rồi bươn nhanh qua dòng người, qua các đụn khói, qua những thân người nằm rải rác đó đây... Đến một chân dốc, hắn cho xe dừng lại, nói nhanh: - Đã qua tọa độ pháo. Nghỉ một chút đi rồi cô dùng chiếc xe này đưa đứa nhỏ về hướng bắc, ở đó sẽ an toàn hơn. Cô chăm chú nhìn vào khuôn mặt râu ria, hầm hố của hắn, ngờ ngợ... - Còn ông? - Tôi sẽ đi trở lại. - Xin hỏi ông... à... anh là ai mà đối xử tốt với chúng tôi như vậy? - Không cần biết. Việc cần làm bây giờ là phải thoát khỏi tọa độ này ngay! Và nói chung, một người như cô nên tránh xa mọi trò chính trị, đấu tranh tầm thường, nó uổng phí đi! Chính câu nói này cộng với chiếc quần lính bỏ trong đôi giày bốt đờ-xô đã khiến cô gái chợt nhận ra mình đang đứng trước ai. Cô vén tóc, khẽ cười, nụ cười có lẫn cả bụi cát trên bờ môi khô xác: - Thì ra là anh! Hôm đó tôi chưa kịp cám ơn anh thì bây giờ lại mang thêm cái ơn nữa. - Cách trả ơn tốt nhất là cô ráng đưa đứa bé cùng với cô ra khỏi vùng chết chóc vớ vẩn này trở về Huế. Đây là địa chỉ có thể tin cậy... Hắn rút cây bút ra khỏi túi định viết vào mảnh giấy cái gì đó, thì cô buộc phải chặn lại: - Cám ơn ông sĩ quan nhưng ở đây tôi còn gia đình, bè bạn và bổn phận không thể bỏ đi được. - Bổn phận chống Mỹ chống chính quyền phải không? Hắn nhìn thẳng vào mắt cô, cô cũng nhìn thẳng trở lại và gật đầu. Cái nhìn bướng bỉnh và thoáng phiền muộn ấy đã khiến hắn bỗng nheo mắt lại như bị chói nắng. Quang cười nhạt: - Tùy! Hắn quăng mạnh cây bút vào bụi cây gần đó rồi quay lại, để lộ một chút thảng thốt và đau đớn vụt qua trên khuôn mặt: - Tôi chưa thấy ai có cái nhìn lạ lùng như cô. Và vì chính cái nhìn này, tôi hy vọng sẽ có dịp gặp lại, và càng hy vọng chúng ta không rơi vào cảnh đối đầu ngớ ngẩn, tất nhiên là nếu tôi chưa bị con quái vật chiến tranh nó nhai mất đầu. Bảo trọng! Chào! Nói xong, quẳng chiếc xe ở lại, hắn băng mình qua đường, phóc vào rừng cây khét cháy, lao nhanh về hướng vị trí đóng chốt của đơn vị, mềm dẻo như một con dã thú. Cô gái chau mày nhìn theo giây lát cái hình hài đàn ông hiện ra và biến đi bất chợt như một ảo ảnh đó, khẽ lắc lắc đầu vẻ không hiểu... 6 Mưa Đỏ Pháo cũng đang thè những cái lưỡi tanh tưởi đỏ lòm của mình liếm xuống những cánh rừng chồi xơ xác ven dòng Thạch Hãn. Pháo giội thẳng vào lòng sông. Cây bùng cháy, nước dựng lên, bầu trời bầm đỏ, cảnh vật chao nghiêng. Tất cả rung giật, vỡ vụn như báo hiệu cái thời khắc trọng đại và khốc liệt nhất của lịch sử vùng đất này, của lịch sử cuộc chiến tranh dằng dặc này sắp xảy ra. Song điều đó vẫn đang nằm ở phía trước, nằm trong khoảng thời gian địa ngục trải ra suốt tám mươi mốt ngày đêm mà lúc này tiểu đội sáu người của Tạ chưa thể mường tượng ra, làm sao có thể mường tượng ra? Họ vô tư, hồn nhiên xen một chút lãng mạn, hồi hộp như những chú chim non sắp sải cánh bay vào một vùng giông bão phiêu bồng và kỳ vĩ. Pháo bắn họ chui xuống hầm. Pháo ngừng, họ lại trồi lên làm những công việc theo thói quen nghề nghiệp trước khi bước vào đời lính xông pha của mình. Người thích vẽ thì vẽ, người thích cơ khí thì cứ loay hoay tháo ra lắp vào mấy khẩu súng trên tay, người mê nhạc lại lim dim mắt lắng nghe đến tận cùng những âm thanh tĩnh lặng kỳ lạ sau mọi rú rít, gầm gào. Người không thích gì thì ngồi đốt thuốc tán gẫu hoặc tranh thủ nhảy xuống sông tắm táp, bơi lội một chút cho vơi nhẹ đầu óc. Đặng Cường và chú bé Tú đang chìm người trong dòng nước lúc này vẫn còn trong xanh, răng cười lóa nắng. - Chiến tranh mà cũng thơ mộng nhỉ, anh nhỉ? - Tú đưa mắt nhìn sang hai bờ lau lách. - Sông này giống sông Nhuệ quê em quá, chỉ trong hơn thôi và không có bọn con gái chiều chiều đi làm ruộng về xuống tắm. Cường mỉm cười, đưa tay khẽ bẹo má cậu bé: - Ở nhà em đã có người yêu chưa? - Chưa. Cũng mấy bận định yêu nhưng bọn con gái nó cứ bảo em chỉ bằng quả ớt thì yêu iếc gì ạ, không bõ! - Ớt à? - Cường bật cười. - Con gái quê em bạo miệng nhỉ? Mà sao họ biết? - Chúng nó cứ đè em ra rồi lột truồng, tức lắm nhưng không làm gì được. - Không sao. Ớt rồi sẽ biến thành dưa, sau này còn sống trở về, em sẽ tự lột truồng cho họ nổ con ngươi. - Ối giời! Anh nói nghe kinh quá, em không dám đâu. - Thôi tắm cho thỏa đi rồi lên. Nghe nói khu thành bên kia sông, nơi chúng ta sắp sang rồi sẽ ác liệt lắm, có khi không còn kịp tắm nữa kia. - Em chả sợ. Khi đi, mẹ em bảo, cố bằng anh bằng em mà trả thù cho bố rồi còn về. Bố em là lính pháo thủ 14 ly 5, hy sinh ngay trên mặt cầu Hàm Rồng. Tiểu đội phó Sen đi xuống sát mí nước, giọng thật dịu: - Thôi lên đi, lại sắp đến cữ pháo của chúng rồi đấy. Cường và Tú bước lên, vẻ tiếc rẻ. Sen đưa cho Cường chiếc áo lót còn mới, nói nhỏ: - Cái của cậu rách quá, mình còn thừa một cái, mặc vào đi! Cường cảm động cầm lấy chiếc áo màu lá cây mặc vào người. Sen khẽ lắc đầu: - Cậu có một thân hình đẹp thật, như lực sĩ, cố đừng để khuyết đi một bộ phận nào nhé! Chắc hồi ở nhà có chơi thể thao? - Vâng, cũng võ vẽ qua loa. - Sắp đánh lớn, các cậu là sinh viên mà cũng phải bỏ dở để lao vào trận theo lệnh tổng động viên thế này, mình cảm phục lắm! Kể ra cũng hơi uổng nhưng biết làm sao, chiến tranh là vậy, nó chẳng chừa ai. Rồi tới đây có gì trong đánh đấm, anh em mình sẽ bảo ban, nương tựa vào nhau, cũng quen nhanh thôi. - Dạ, tất cả trông vào anh và anh Tạ, những người đã qua chiến đấu. Vừa lúc Tạ đi đến cùng với bốn, năm chiến sĩ trẻ măng khác. Đang đi, anh chợt dừng, tò mò nhìn chăm chú vào những nét ký họa trên tay Bình như cái nhìn háo hức của trẻ trâu gặp cảnh cầu vồng bảy sắc sau mưa: - Vẽ đẹp hè! Như thật í nhưng xếp lại đi đã, mi còn có nhiều dịp để vẽ. Bây giờ tất cả nghe đây! - Anh nhìn khắp lượt, giọng thoắt trở nên nghiêm trang. - Đã có lệnh qua sông tối nay. Tiểu đội ta được bổ sung nóng năm cậu nữa, vậy coi như một tiểu đội đủ. Các cậu chuẩn bị đi, không được quên một thứ gì hết, nhất là bông băng. Cậu Cường đâu ấy nhỉ? - Báo cáo Tiểu đội trưởng, có tôi! - Cường bước ra, đứng nghiêm. - Báo cáo mẹ gì, nghe thuốn cái lỗ tai lắm! Cậu chạy nhanh lên Ban chỉ huy trung đoàn, hình như có ai muốn gặp cậu. - Ai ạ?... Ai mà lại gặp lúc này ạ? - Hỏi ông giời. Đi nhảu chân lên không là tớ bỏ lại đấy. - Rõ! Nói rồi Cường xách theo cây AK phóng nhanh ra phía cửa rừng. ★ Ai nhỉ? Câu hỏi đó cứ trở đi trở lại trong đầu Cường suốt đoạn đường năm cây số chạy gằn lên Ban chỉ huy trung đoàn. Từ lúc nhập ngũ cho đến khi hành quân vào đây, đến cấp đại đội anh cũng chưa một lần giáp mặt ai huống chi là cấp trung đoàn cao vời vợi kia. Hay là ở nhà có chuyện gì rồi?... Mẹ anh làm sao ư?... Một hơi thở lạnh buốt chạy dọc suốt sống lưng khiến anh không muốn nghĩ sâu thêm nữa. Mẹ thời gian gần đây thỉnh thoảng hay ho về đêm, lại đôi khi đau nửa đầu nữa, rất có thể, biết đâu... Mà chắc cũng không phải. Thời gian này anh biết chắc mẹ đã sang bên Paris rồi, đâu còn ở lại Hà Nội mà đau này đau kia! Bước chân anh sải nhanh hơn, mặc kệ cho những vết gai cào rớm máu khắp bắp chân, bàn chân. Cái sợ nhất lúc này của anh là không về kịp để sang sông với tiểu đội chứ chuyện ai gặp, gặp ai không còn quan trọng nữa. Đến nơi, người sĩ quan trực ban bảo anh ngồi chờ vì các thủ trưởng còn đang có cuộc họp quan trọng. Cuộc họp ấy có quan trọng thật không anh không biết, nhưng trong một căn hầm thùng đào kiểu nửa nổi nửa chìm gần đó, mấy người ngồi bên trong đều mang một bộ mặt trang nghiêm khác lạ. Người thứ nhất chừng ba mươi lăm tuổi, cao gầy, tóc húi cua, vẻ mặt khắc khổ nhưng rõ là lành hiền. Sau này anh mới biết đó là Trung đoàn trưởng Vũ Thành. Người thứ hai lớn hơn một chút, đeo kính trắng đang cúi xuống ghi chép điều gì vào trang sổ tay vẻ miệt mài, thận trọng lắm, đó là Chính ủy Phạm Lân. Và người thứ ba không ai khác chính là Tư lệnh mặt trận Lê Trọng, trán rộng, mắt sâu, mỗi lời nói mỗi cái phẩy tay, nhướng mắt đều lộ rõ vẻ quyền uy khác lạ, mặc dù tiếng nói đang vang ra của ông rõ ràng là có cái gì khào khào, đứt quãng của một người đang ủ bệnh. Ông nói rành rẽ từng chữ: - Trước mắt, toàn bộ khu vực thị xã và Thành cổ do trung đoàn các đồng chí kết hợp với tỉnh đội đảm nhiệm. Sau này tùy chiến sự diễn biến sẽ có điều chỉnh thích hợp. - Ông ngừng lại nhìn sâu vào mắt hai người ngồi đối diện. - Đây là một địa danh nhạy cảm, vì thế sẽ hết sức ác liệt. Có thể là điểm ác liệt nhất trong toàn bộ cuộc chiến tranh này. Với một lực lượng hỗn hợp rất đông và mạnh, chúng sẽ cố tái chiếm bằng được và ta cũng cố phòng thủ bằng được. Cả nước, cả Nhà Trắng, cả công luận thế giới và tương lai chính trị của chúng ta sẽ nhìn vào mặt trận này. - Giọng ông bỗng trở nên xuề xòa hơn. - Nào, sắp sang sông, các cậu đều đã sống với tôi từ hồi Điện Biên, hiểu nhau quá rồi, cứ cho nghe một tiếng nói thật lòng. Chính ủy Phạm Lân lên tiếng như các câu chữ đã được sắp đặt trước: - Điểm chốt giữ này đã được Quân ủy và Bộ tư lệnh mặt trận hạ đạt quyết tâm thì có nghĩa nó là một yếu điểm mang tầm chiến lược, chúng tôi xin chấp hành giữ bằng mọi giá. - Bằng mọi giá à? - Tư lệnh cười nhẹ. - Mình không thích cái khẩu lệnh này lắm, có cái gì như là quen mồm, là câu cửa miệng mà khi nói ra người ta chưa thật hiểu hết cái nội dung bên trong. Tôi luôn tâm đắc lời của anh Văn, chiến thắng nhưng không có nghĩa thỏa sức phung phí xương máu của đồng đội. Còn cậu? - Ông quay sang Trung đoàn trưởng đang ngồi gật gù. - Có gì khoái chí lắm sao mà cái đầu của cậu cứ gục gặc không ra gật không ra lắc vậy? Vẫn cái tật giống như khi nhận lệnh ôm bộc phá lên đồi A1. Vũ Thành không gục gặc nữa, giọng tỉnh bơ: - Hơi ngạc nhiên. - Cậu ngạc nhiên cái gì? - Một cái đầu thông tuệ luôn biết nhìn xuyên thấu mọi việc như anh mà lại đồng ý cho chọn cái Thành cổ trơ trụi, bé bằng cái tẩy này làm điểm chốt giữ? - Thì sao? - Cá nằm trên thớt. Nói gì thì nói đây cũng chỉ là cái thế cá nằm trên thớt, điều tối kỵ trong binh pháp, dù tác chiến hiện đại hay cổ điển, không khác gì cái thế của lòng chảo Điện Biên mà tụi Pháp đã chọn làm quyết chiến điểm. Bí lắm! - Tức là cậu thấy không giữ được? - Giữ chứ! - Vũ Thành đứng bật dậy. - Nhưng chỉ có vấn đề thời gian giữ được bao lâu. Trung đoàn Sông Hương anh hùng xin hứa với Tư lệnh và Quân ủy sẽ giữ được thời gian lâu nhất có thể. Tư lệnh thở phào, vỗ mạnh vào vai thuộc cấp: - Mình cũng chỉ cần các cậu nói được một câu như thế, còn mọi việc sau đó là phần của mình, phần việc của ba sư đoàn mạnh sẽ hỗ trợ cho các cậu ở vòng ngoài. Suy nghĩ của cậu Thành thực ra cũng là suy nghĩ của tôi. Chiến tranh dài quá rồi, anh em mình hy sinh cũng nhiều quá rồi, là thằng chỉ huy, chúng ta không được phép để bộ đội hy sinh thêm nữa mà không đạt được mục đích cuối cùng. Chiến dịch bảo vệ Thành cổ này nó có khác với các chiến dịch trước, đó là từng giờ từng phút nó sẽ tác động rất mạnh đến tư thế của chúng ta trên bàn Hiệp định Paris sắp tái họp và tư thế ấy, nếu giữ được, nó sẽ tạo một nút nhấn bản lề để đưa đến thắng lợi toàn cuộc. - Còn không? - Sẽ có tội với lịch sử. Và cả tôi, cả các cậu chúng ta sẽ dắt tay nhau ra tòa án binh. Trả lời thế được chưa? - Ông bật ho khan vài tiếng, mồ hôi trên trán toát ra. - Báo cáo, được rồi. Nhưng còn điều cuối cùng... - Gì nữa?.., Cái đầu bướng bỉnh thích phản biện của cậu lại mới nảy ra điều gì à? - Không! Em chỉ lưu ý là sức khỏe bác dạo này chán lắm rồi đấy, bác mà bị làm sao là bọn em trống lưng. - Cái thằng... chỉ được cái nói gở. Tao còn khỏe chán, còn dư sức đi hết được cuộc chiến tranh này và nếu cần, tao cũng sẽ rời chỉ huy sở mặt trận sang sông sống với chúng mày ít ngày. - Thôi, em xin bác! - Vũ Thành chắp hai tay vái lạy. - Bác mà sang là chỉ thêm vướng, mất công lo bảo vệ. Lê Trọng trừng mắt nhưng đôi môi nhợt nhạt lại cười: - Vướng? Cậu ăn nói với tư lệnh như thế đấy à? Láo! Càng ngày càng láo! Vừa lúc đó, người cán bộ trực ban vào báo có chiến sĩ tên Cường đã có mặt theo lệnh gọi. Nét mặt của vị Tư lệnh hơi sáng lên: - Tới rồi à? Cho cậu ấy vào! Cường bước vào, đứng nghiêm trước mặt Vũ Thành: - Báo cáo, tôi, Trung sĩ Đặng Huy Cường, Tiểu đoàn 8, Đại đội 3, Trung đội... Vũ Thành nhìn người lính trẻ từ đầu đến chân rồi đưa tay ra bắt thật chặt: - Cường đấy hả? Sinh viên hả? Đẹp trai lắm! Mà thú vị thật, chưa bao giờ trung đoàn lại có nhiều sinh viên cùng vào trận như đợt này. Những dũng sĩ học đường! Cái tên nghe cũng hay đấy chứ, anh Lân? Chính ủy Lân gật đầu rồi vỗ vai người mới đến, chỉ về phía ông Lê Trọng: - Đồng chí ở lại nói chuyện với Tư lệnh, bọn mình có chút việc phải đi. Cố gắng lên nhé, chàng trai! Họ chào Tư lệnh rồi đi ra. Còn lại hai người, Tư lệnh đưa tay khẽ vỗ vào vai anh, ấn anh ngồi xuống chiếc ghế được ken buộc bằng ba đoạn cây: - Thôi, ngồi xuống, ngồi xuống đi! Uống trà nhé! - Vừa rót trà, ông vừa nhìn người lính chăm chú. - Giống lắm, giống lắm... Cường ngơ ngác: - Dạ, thủ trưởng... Giống gì cơ ạ? - Cháu giống bố cháu lắm, chỉ riêng đôi mắt là giống mẹ. Hồi tiền khởi nghĩa chú là bạn... không, là cấp dưới của bố cháu. Bố cháu khi đó là bí thư đảng bộ của cả ba nước Đông Dương, một chiến sĩ cách mạng tuyệt vời. Bố cháu mất, rất tiếc chú lại đang ở xa. Còn mẹ cháu, phải tới mấy chục năm nay chú cũng không có dịp gặp lại. Chú nhớ ngày ấy cháu mới lẫm chẫm biết đi. Uống nước, uống nước đi... con! - Dạ... Cháu cũng thường được nghe mẹ cháu kể về chú nhưng... nhưng có chuyện gì không ạ? - Cường hỏi vẻ nghi ngại. - Cũng không có chuyện gì. - ông cười hiền hậu như cái cười của một người cha. - Trước khi chú vào đây, mẹ cháu có điện cho chú nói cháu cũng vừa vào... Mẹ cháu rất lo cho cháu. Nhà có hai anh em thì cậu anh cháu đã hy sinh ngay từ hồi đầu đánh Mỹ rồi. - Mẹ cháu có nói gì nữa không ạ? - Tóm lại là vầy, theo ý chú, ý chú thôi chứ không phải ý mẹ cháu, biết, bà ấy mắng chết, tức là bên tuyên huấn mặt trận đang thiếu một họa sĩ cho nội dung tuyên truyền, cổ động tinh thần bộ đội, công việc nào cũng là phục vụ cách mạng hết, chú muốn cháu làm công việc đó, ngay từ bây giờ. Cường đứng thẳng người: - Báo cáo thủ trưởng, tôi bỏ tất cả vào đây để mong được làm một người lính thực thụ ngoài chiến hào! Và bây giờ tôi vẫn không thay đổi ý định ạ! Nếu không còn gì, xin phép thủ trưởng cho được trở về để kịp sang sông với tiểu đội! Vị Trung tướng tư lệnh đột ngột ôm siết chàng trai vào người, nghẹn giọng: - Khi nói ra điều này, chú biết câu trả lời của cháu sẽ là như thế. Đúng là tính cách của bố cháu. Dũng cảm nhưng hết sức cẩn trọng nhé, con trai! Cho chú hỏi thăm tất cả anh em trong tiểu đội. Ông thả tay. Chàng trai vùng ra, lao nhanh lên mặt đất và biến mất nơi cửa rừng như một cánh chim khát khao được bay lên vẫy vùng giữa bầu trời cao rộng. Còn lại một mình, người Tư lệnh nhìn theo, đôi mắt hơi mờ đi. Giọng ông lẩm bẩm: - Chiến tranh ác nghiệt... Một chàng trai như thế này mà phải làm mồi cho cái dạ dày không bao giờ biết no của nó thì... Ác nghiệt thật! 7 Mưa Đỏ Đêm vượt sông bắt đầu. Trời lắc rắc mưa. Cả dòng Thạch Hãn sáng rực như một đêm hoa đăng nếu như chốc chốc không có một cột nước dựng lên sau tiếng pháo nổ. Pháo nổ dày, san sát như có hàng ngàn con thủy quái vừa gầm gào vừa quẫy lộng làm cả dòng sông chao nghiêng, đổ rạp, chuyển màu. Chỉ vào khoảnh khắc pháo ngừng, dưới ánh đèn dù, mới nhận ra những đoàn quân xuôi sông, ngang sông bằng đủ các loại phương tiện: xuồng cao su, thuyền dân, phao ni lông, dây chằng vắt ngang... Cũng như trẩy hội, ken đặc, ngậm tăm. ★ Tại một khúc sông cạn, một tốp bộ đội đang cởi truồng như nhộng ôm đồ lội qua. Trên vai họ lỉnh kỉnh những súng đạn, ba lô, gạo, thuốc... Ra giữa dòng, đụng một con thuyền đang chèo xuôi do một cô gái cầm lái, không kịp hụp xuống họ đã để hở ra toàn bộ thân thể khiến cô gái vội quay đi, chiếc thuyền chở đầy lính bỗng lạng sang bên, chao đảo. Đến khi các chàng trai hụp thấp được người xuống, nhe răng trắng nhởn ra cười thì cô mới lấy được thăng bằng chèo tiếp. Trên thuyền, tiểu đội của Tạ đang ngồi ôm súng thu lu. Và người chèo không ai khác chính là cô gái có tên là Hồng đã dứt đứa bé ra khỏi vú mẹ trong buổi chạy loạn hôm rồi và cũng là cô sinh viên áo trắng diễn thuyết trên sân trường đã làm cho viên Thiếu úy biệt động dù chao đảo trước đó. Dáng cô mềm mại, nghiêng nghiêng như đi ra từ huyền thoại. Thỉnh thoảng, ánh lửa pháo trát lên người tạo cho cô một nét đẹp kiêu hãnh, mỏng manh. Có những con thuyền vượt qua, có những con thuyền tụt lại, lại có những con thuyền bị sóng đánh tròng trành muốn đổ ụp. Cầm cây súng lăm lăm trong tay nhưng con mắt Bình, chàng họa sĩ tương lai, lại cứ nhìn lên cô đăm đắm rồi chặc lưỡi: - Không thể có hình ảnh nào đẹp và bi tráng hơn anh Cường ơi! Giá lúc này có cái máy ảnh trong tay... Cường cũng đang nhìn lên cô, khẽ gật đầu: - Mình cũng đang ước giá như có một chiếc máy thu âm. Rồi anh ngước nhìn lên cao hơn, về hướng bầu trời đang nhì nhằng sáng tối như lắng nghe mọi thứ âm thanh kỳ lạ chưa bao giờ được nghe của một khoảnh khắc vào trận. Còn Tú, với khuôn mặt trẻ thơ cứ nháo nhác nhìn đó đây, thỉnh thoảng lại: - Đẹp, đẹp quá! Giống hội mừng lúa mới quê em quá! Sen mỉm cười suỵt nhẹ, giơ tay chỉ lên trời ra ý nhắc cậu phải cẩn thận rồi quay qua phía Cường, nói sát vào tai: - Người ta bảo chiến tranh không nên có khuôn mặt đàn bà nhưng thử hỏi đêm như đêm nay, nếu không có khuôn mặt kia, dáng hình kia thì chuyện sang sông rồi chuyện chiến tranh sẽ khô khan kém phần lãng mạn đi biết chừng nào! Cường nắm chặt tay Sen biểu lộ sự đồng cảm sâu sắc. Bởi chính trong đầu anh cũng đang vẩn lên điều suy nghĩ ấy nhưng chưa kịp thoát thành lời. Chỉ có Tạ là cứ mở căng đôi mắt chằng chằng nhìn chếch theo mặt nước về phía bờ bên kia. Bất ngờ từ trên cao, hàng chùm pháo sáng lại rực lên, rơi xuống, nhấp nhóa tựa những con mắt thóc mách, thô bạo. Trong chốc lát, tất cả thuyền xuồng và những cái gì gọi là vật thể đang di động trên mặt nước vội tấp hết vào bờ hay đứng im phăng phắc. Mặt sông lại vắng hoe, lặng tờ như một khúc sông chết, như một đoạn sông hàng trăm năm bị bỏ quên trong lau lách, hoang dại. Như một thói quen của quy luật giết người, và cũng là cách chơi lập trình của tư duy quân sự Mỹ, lại giống như trận chiến trên bờ, sau B52 rải thảm là bộ binh đổ quân, ở đây sau pháo sáng là pháo nổ. Nổ dữ dội hơn. Nổ như vãi đỗ. Nổ kiểu con nhà giàu tiêu tiền không đếm. Đã có xuồng dính miểng chúi mũi xuống, đã có xuồng hứng cả một cột nước ụp vào như muốn nhấn chìm xuống đáy. Người trên xuồng văng ra tựa những tảng đất có hình hài, lại có xuồng trúng pháo vỡ tan, biến mất trong lòng nước. Những mảnh gỗ và đầu người cùng bồng bềnh, lóp ngóp, vật vờ, trồi sụt... Pháo ngừng. Mặt sông chợt tối sầm. Thuyền của cô gái tên Hồng lại nhanh chóng lao ra giữa dòng. Tất cả các xuồng thuyền lại trở về quỹ đạo sang sông. Thoáng nhận ra dáng chèo của cô đã có chiều đuối dần, bai chèo khoét trong lòng nước không còn ngọt sâu như cũ, Cường đứng lên: - Xin lỗi, o để tôi chèo phụ cho một lúc! Hồng nhìn nhanh sang anh, khẽ nhíu mày: - Người như anh không chèo được mô. - Sao? - Anh trợn mắt. - Phải quen và khỏe kia, mà dòm anh yếu ớt, thư sinh lắm! - Đừng đùa, hồi ở nhà, tôi đã từng chèo Peritsoir trên Hồ Tây giật giải nhất đấy! - Em nỏ biết Peritsoir là cái chi mô nhưng anh cứ ngồi yên đó, mỗi người mỗi việc. Một trái pháo “đĩ” như cách thường gọi của lính, chỉ những trái pháo đi một mình, đỏng đảnh, bất ngờ chợt nổ gần khiến chiếc thuyền bị bốc đít muốn nhủi đầu xuống cái hút nước vừa mở ra sâu hoẳm ấy. Cô suýt chút nữa rời tay khỏi bai chèo ngã dụi ra khỏi mạn thuyền nếu không được cánh tay rắn chắc của Cường kịp giữ lại. Anh đứng bật dậy, giằng lấy bai chèo, trừng mắt ấn cô ngồi xuống. Ánh mắt đầy uy lực ấy khiến cô bất giác trở nên ngoan ngoãn, đành phải ngồi im. Nhưng đúng là chưa quen thật. Mũi thuyền bắt đầu còn đi thẳng, sau đó lạng qua lạng lại như gã say thuốc lào rồi quay tròn. Đến lượt cô gái đứng dậy, trừng mắt lại: - Đã bảo rồi, bướng! Anh trả tôi bai chèo đây, soa với chả soa, sốt ruột! Có vẻ tự ái, anh lại ấn cô ngồi xuống, quả quyết hơn rồi cởi phăng áo ra, mắm môi, căng gáy, vận sức vào tay chèo. Pháo sáng trôi xa soi rõ khuôn ngực nở nang vuông vức, săn rắn nhếnh nháng nước của người lính. Và rồi chỉ lát sau, có lẽ anh đã nhớ lại được những động tác chèo cơ bản, mũi thuyền đã giữ được cân bằng, chỉnh hướng, xé một đường thẳng sang phía bên kia bờ. Lại một trái pháo “đĩ” nữa nổ ngay sát mạn thuyền. Đáy thuyền dâng bềnh lên khỏi mặt nước rồi hạ xuống cái doành, muốn lật sấp. Thân hình anh cũng tròng trành như đi trên dây thép nhưng liền sau đó, bằng đôi chân choãi rộng, anh đã lấy lại được thăng bằng. Con thuyền tiếp tục xé sóng lướt đi. Pháo vẫn tiếp tục trò chơi cấp tập. Cấp tập đến cấp tập đi như đùa giỡn với sự sợ hãi đến tột cùng của thần kinh con người. Anh vẫn chèo, chèo bình thản, chèo rạp người như một dân ngư phủ thực sự. Bên trái anh, một con thuyền khác cách đó không xa trúng nguyên trái pháo tan vụn, tan biến luôn cả những thân thể ngồi trên rồi chìm nghỉm, biến mất từ từ trong dòng nước bầm đỏ. Tú ôm chặt lấy mặt, kêu rú lên. Bình cũng thoáng ngơ ngẩn. Tạ văng một câu chửi tục vu vơ bắn cả nước bọt không biết về hướng nào: - Mẹ thằng Mẽo! Mày xổ thì xổ mẹ nó ra một thể, cứ như thằng sa đì đái dắt thế này thì bố mày điên lắm rồi! Cường càng khoét mạnh bai chèo. Thoáng ánh mắt của cô gái nhìn lên anh. Ánh mắt chứa cả lửa và nước... Rồi con thuyền cũng khốn khổ bỏ lại đằng sau được những thước nước tử thần nhanh chóng cặp bờ, tơi tả, xộc xệch. Chờ mọi người lên hết, Cường mới lên sau, hơi loạng choạng. Tạ chợt kêu: - Cường, mày bị thương rồi! Tất cả nhìn lại: từ bả vai trần của anh, máu đang thấm tràn xuống ngực. Ánh mắt cô gái sững lại một giây rồi kéo anh ngồi xuống, gắt nhưng giọng lại nghẹn: - Người gì mà gàn thế, không biết đường kêu lên một tiếng, máu chảy hết thì sao? Anh cười, một cái cười trẻ trung và rất tươi. - Lại còn cười nữa, ghét! Cô xé nhanh vạt áo của mình băng vội cho anh. Anh lại cười nữa nhưng lần này cái cười có phần chìm lắng hơn. - Cô gái! Cho tôi được mang theo vạt áo này bên mình đến... hết chiến dịch nhé! Coi như lá bùa bảo mạng. Cô gái làm như không nghe thấy, đi nhanh đến bên Tạ: - Các đồng chí đi nhé! Cứ theo đường mòn này là đến. Hai trăm mét nữa thôi. Em quay lại đón tốp khác! Tạ oang oang: - Ừ, chào o, cám ơn o, o đi nhé!... Mà o tên là gì? Hỏi để lần sau còn biết đường mà gọi? - Em tên Hồng. - Cám ơn o Hồng nhé! Giọng người Tiểu đội trưởng vẫn oang oang rồi quay lại đội hình, hô khẽ: - Thế là chưa mất thằng nào. Quá tốt! Tiểu đội một hàng dọc, cách nhau mười thước, tiến vào Thành cổ, tiến! Cô gái nhìn nhanh sang Cường rồi bước đến cạnh Tú đứng ở sau cùng, làm như vô tình: - Này em, cái anh chèo đò vừa rồi tên chi? - Chị muốn hỏi ai cơ? Tú giả vờ ngây ngô. - Thì cái anh bị thương vô vai đó. - À, anh Cường sinh viên. - Sinh viên... Cô khẽ mấp máy môi nhìn theo bóng Cường đang dần dần khuất chìm vào bóng tối Thành cổ như một khu thành không có thật... 8 Mưa Đỏ Thành cổ. Trời còn tinh mơ nhưng qua màn sương đục lờ, cả khu Thành cổ đã nhờn nhợt hiện lên trước con mắt mang tính nghề nghiệp của chàng sinh viên Bình vổ. Anh dừng tay, tò mò sục mắt về một bức tường thành dày dặn, vuông vức bao quanh với mỗi chiều chỉ chừng năm trăm thước, chiều cao khoảng bốn thước, mặt thành rộng hơn nửa thước nhưng chân thành lại xoải ra tới mười hai thước và bốn cửa thành nằm ở bốn hướng đông, tây, nam, bắc đều được đóng kín bằng cửa gỗ dày, gài then ngang. Trong khuôn viên thành lúc này cây cối vẫn xanh, nhà cửa, hầm hào còn tương đối nguyên vẹn nhưng vẫn gợi cái cảm giác âm u, nặng nề, bức bối trước cơn bão mà con người nằm trong đó giống như cá nằm trong rọ khó mà thoát vùng ra được. Mới sáng ra trời đã nắng nóng hầm hập. Phía sau anh, cả tiểu đội đang quần quật đào hầm cả bên trong lẫn bên ngoài dãy tường thành. Kiểu hầm chữ A thấp xịt, chắc nịch được nối với nhau bằng những đường hào chằng chịt. Bụi đất tung lên. Những lưỡi cuốc lưỡi xẻng ngoạm vào đất đá ừng ực, chốc chốc lại một tiếng va chát chúa tóe lửa vang lên. Hầu hết họ đều ở trần, mồ hôi nhễ nhại, tóc trắng như rắc vôi. Tú ôm súng ngồi ở một mô đất cao có cành lá che khuất kế bên, chăm chú quan sát mọi sự qua chiếc ống nhòm cũng bị phủ toàn bụi trắng. Cậu thốt kêu lên: - Cảnh đẹp quá, anh Cường ơi! Em nhìn thấy ba con sông đều xanh cả. Như vẽ ấy. - Tập trung vào, nhóc, coi có thấy cái nón sắt nào lô nhô ở xa không? - Tạ gắt. - Bức thành cũng đẹp nữa, dày ơi là dày, y như trong phim Tam quốc. - Tú vẫn xuýt xoa. - Sao nó lại có tên là thành Đinh Công Tráng anh Cường? - Đinh Công Tráng là tên một tướng tài được chúa Nguyễn điều ra đây trấn giữ khu thành có một vị trí quân sự đặc biệt từ thế kỷ 16. - Cường ngẩng lên lau mồ hôi chảy tràn xuống mặt. - Chính vì thế mà tụi mình phải vào đây để giữ tiếp, nối tiếp lịch sử ông cha, cũng oách đấy chứ? Tiểu đội phó Sen đến gần anh, chăm chú nhìn vào lòng hầm, khẽ lắc đầu: - Chưa được, Cường! Đào sâu xuống nữa, đắp thêm đất vào! Càng dày càng tốt, sơ sài một chút, chỉ loạt pháo là bung hết. - Rõ! Có gì anh Sen cứ chỉ bảo, đối với chúng tôi, đây là trận đánh đầu đời, tất cả đều từ số không đi lên. Chợt nhìn thấy bóng Hải gù đang lúi húi bới cỏ ở một góc phía trong tường thành, Tạ gắt: - Thằng kia! Mi đi bắt rắn đấy à? - Em thử xem trong thành có một đường cống ngầm nào không? - Hải nói mà không nhìn lên. - Chắc là phải có theo nguyên tắc xây dựng. - Cống rãnh gì vào lúc này, vớ vẩn! Về chỗ! - Tạ lại gắt. - Cứ để cho cậu ấy tìm. - Sen nhẹ nhàng. - Thì chính anh chả nói cái nghề cơ điện của cậu ấy sẽ có dịp được dùng đến là gì? ★ Cách công sự tiểu đội chừng ba trăm thước hơi lui về phía sau là khu hầm chỉ huy. Hầm nằm dưới một tòa nhà hai tầng khá rộng. Tất cả có bốn ngăn, mỗi ngăn chừng mười lăm thước vuông. Lúc này, khu hầm tạm thời là kho chứa đồ và nơi đóng quân của trạm xá luôn. Trong ngăn rộng nhất, Bộ chỉ huy Thành cổ và các đơn vị trưởng đang ngồi cao thấp trên các bao gạo, thùng đạn khác nhau. Trung đoàn trưởng Vũ Thành vẫn cái thói quen gục gặc đầu một lúc mới nói: - Tóm lại, trên cho biết lực lượng tương quan ta địch như sau: Địch có mười tiểu đoàn quân tinh nhuệ cộng với hỏa lực cực mạnh cả tầm xa lẫn tầm gần của Mỹ, ta có ba sư đoàn trấn giữ trên địa bàn toàn tỉnh, khu vực thị xã do trung đoàn ta và lực lượng tỉnh đội đảm trách. Riêng trong nội vi Thành cổ này, ta sẽ có ba tiểu đoàn làm nhiệm vụ cố thủ. Ba mặt đều là địch, ta chỉ có mặt sông là hướng duy nhất để dựa lưng và tiếp tế, chuyển quân, tải thương. Do địa hình chật, hầm phẫu sẽ được đặt luôn tại đây, ông bác sĩ trạm trưởng Lê thấy sao? Bằng kiểu nói khề khà nhưng sắc lẻm, thẳng băng, giật cục khiến người không quen rất khó nghe, bác sĩ Lê tưng tửng: - Quá nhỏ! Ba mươi ca thì được nhưng nếu ba trăm ca hay hơn nữa, mà điều đó rất có thể xảy ra thì phải xếp chồng lên nhau như xếp cá mà lại không được làm đông lạnh. Chính ủy Phạm Lân gõ gõ ngón tay xuống mặt bàn, vẻ nhắc nhở: - Này, nói đây thì được nhưng đừng nói rộng ra, bộ đội dễ hoang mang. Đây vốn là dinh tỉnh trưởng cũ của ngụy được xây từ thời Pháp, và cũng chỉ còn nơi này là có kiến trúc kiên cố nhất. - Tôi xin bảo lưu ý kiến này. - Tiếng bác sĩ Lê vẫn lục cục, thẳng căng. - Trận địa ven vẻn chỉ có bốn cây số vuông, có mỗi mặt hậu lại vướng sông, với kinh nghiệm của một thằng đã có trên hai chục năm cầm dao mổ, tôi thấy các thủ trưởng nên tiên liệu trước kẻo rồi mất bò mới lo làm chuồng thì kẹt lắm, chỉ khổ cái thằng cầm dao mổ là tôi! - Ông Lê này! - Vũ Thành cả cười. - Tôi đã là cái thằng ăn nói nổi tiếng là dùi đục chấm mắm cáy mà so với ông, ông còn mắm cáy hơn. - Báo cáo, tôi đẻ ra ở vùng đất gan gà lại suốt ngày đập mặt vào máu me, xương cốt, ruột gan phổi phèo, kêu la than khóc, tôi nói vậy quen rồi, khó sửa lắm. Mà nhìn đúng bản chất sự vật bao giờ cũng khó nghe. - Từ từ. - Vũ Thành giơ tay ra ngăn lại. - Tôi có phản bác ý kiến của ông đâu, nhưng tạm thời lúc này cứ vậy đi rồi liệu cơm ta cùng gắp mắm, bây giờ tập trung vào các phương án đánh địch đã, vấn đề thương binh để sau. Ông quay sang các đơn vị trưởng, tiếng nói trở nên lạnh lùng: - Các đơn vị về cho bộ đội chuẩn bị thật tốt, nhất là công sự và các cơ số đạn. Theo tin từ bên trong, chỉ nội đêm nay hoặc rạng sáng ngày mai, chúng sẽ chính thức phát hỏa mở đầu cuộc tái chiếm. 9 Mưa Đỏ Cách Thành cổ về phía tây nam chừng chục cây số, trong một tòa nhà được đắp bao cát xung quanh, cũng có khoảng mươi sĩ quan cấp tướng cấp tá, cả cấp úy, người thì vận đồ dù, người thì đội mũ nồi nâu đang ngồi nghiêm ngắn trước một tấm bản đồ căng rộng trên tường. Trong đó để ý thấy có cả vóc dáng to lớn, đen rầm của Thiếu úy Quang đứng sau cùng cũng đang càu cạu nhìn lên. Viên Đại tá tư lệnh sư dù vạm vỡ, để ria mép, dáng yêng hùng, bụi bặm, có vết thẹo ở đuôi mắt chém mạnh bàn tay chuối mắn phừn phựt vào không gian như đang pheng cổ đối phương ở trước mặt: - Hả? Phong độ lính dù là gì? Là tốc chiến tốc thắng, là can tràng, quyết liệt chứ không đánh ê a kiểu bà giá thèm chồng như các sắc lính khác. Và, hả? (Lại “hả”) Cũng không phải là hùng hục, liều mạng như bọn lái giống, đâm thuê chém mướn đầu đường xó chợ được tập trung về đây như tụi thối mồm thường nói. Vì vậy, hả? Tôi ra lệnh cho các người nội trong hai mươi ngày, hạn cuối là mùng Mười tháng Bảy phải chiếm lại được cái Thành cổ mắc dịch đó. Tai mắt của các người chính là Đại đội Hắc Báo do Thiếu úy Quang chỉ huy kia. - Quang tiến lên một bước, nét mặt vẫn không biểu cảm điều gì. - Đúng năm giờ sáng mai, chiến dịch “Lam Sơn 72” bắt đầu. Khu Thành cổ phải thành chảo lửa thiêu rụi hết bọn Cộng quân không chừa một mống! Tất cả cánh sĩ quan khét lẹt mùi quân phục và mùi nắng gió bật người đứng dậy, gót giày đinh quất vào nhau nghe rốp rốp, mặt mày bừng bừng sát khí như sẵn sàng thiêu rụi cả hành tinh. Riêng người đội trưởng Hắc Báo là khẽ nhếch một cái cười khó hiểu... Hắn không lạ gì con người của viên Đại tá thượng cấp này. Không như cánh nhà nòi con ông cháu cha hoặc dùng tiền bạc, đầu gối mà leo lên như một số sĩ quan khác mà hắn biết rất rõ, đúng là ông ta leo lên từ lính trơn thật, leo từng nấc, leo do đánh đá thực sự nhưng phổi bò lắm, võ biền lắm, chỉ lấy hùng hục và khát máu làm chính. Lại dốt nát, tham lam nữa, ăn không từ một cái gì của lính, không bao giờ cầm một cuốn sách, không lúc nào tỏ ra trầm ngâm suy nghĩ về một điều gì sâu xa cả, sểnh ra là nhậu, là buôn bán gỗ lậu, chơi gái như chảo chớp, chơi cả vợ đám sĩ quan dưới quyền. Thì cái thẹo như miếng thịt trâu thiu trên mặt kia đâu có phải do chiến trận, mà do một đại úy nổi điên đã để một viên đạn vào mặt nhưng trượt và tất nhiên sau đó, người chồng tội nghiệp kia không hiểu vì lý do gì một lần xuất kích rồi không thấy về. Nhưng được cái trung thành, chỉ đâu đánh đấy, đánh thục mạng, đánh đến nơi đến chốn, không tranh luận, không phản biện, dù phải mất tiêu cả nửa đơn vị. Phải chăng vì thế mà lão rất được lòng cấp trên, được lòng đến nỗi chính Tổng thống đã quyết định điều về nắm quyền tư lệnh một trong ba đơn vị thiện chiến nhất lực lượng Tổng trù bị của toàn quân và mới đây đã trịnh trọng hứa trước hội đồng tướng lĩnh rằng, nếu lần này tái chiếm được Quảng Trị, được Cổ thành thì gì chứ cái lon cấp tướng sẽ đậu lên ve áo là không cần phải bàn cãi. “Đơn vị Hắc Báo của Thiếu úy Quang sẽ là tai mắt của các ngài...” Hắn thực sự không khoái câu nói đầy chất mị dân này, cũng như cả đời hắn không thích làm tai mắt của ai, của thế lực nào hết nhưng phận số làm lính nó đã phân nhiệm vậy rồi, đành phải chấp nhận thôi. Một cái vỗ rất mạnh vào vai và liền đó là cái cười rất rộng của viên sư trưởng, ông ta nói vẻ thân tình tuy hơi suồng sã: - Nghĩ gì mà đăm chiêu vậy Thiếu úy? Quân hàm, gạch bậc à? Bình tâm đi, sau trận này moa không để toa lẹt đẹt hoài như vậy đâu, nó uổng đi một người tài. Hơn nữa, hả, qua tướng phó tổng tham mưu trưởng, moa cũng có biết sơ sơ gia đình toa, một gia đình danh giá, ai lại để cà trớn vậy. - Dạ thưa không phải chuyện đó đâu, Đại tá. Chỉ vì tôi đang lo không hoàn thành được cái vụ tai mắt Đại tá trao. - Quang lạnh giọng. - Kệ má nó, hả! - Lại suồng sã. - Hơi đâu mà lo cho nó già người đi, chuyện đến đâu lo đến đó, đời lính sống chết một mai tính toán trước làm gì. Tối nay Thiếu úy lên chỗ moa nghen, có thùng rượu nguyên dạng bà xã vừa gửi ở Sài Gòn lên. Không hiểu sao tôi lại rất khoái uống rượu với cậu, có thể hả, cái đầu thông minh và rắc rối của cậu đã khiến cho tôi sáng ra nhiều điều. - Dạ cám ơn Đại tá, tối nay tôi có chút việc bận, xin phép để khi khác. - Bận gì? Lại có một con bé nào đó chờ đợi hả? Tốt! Tôi thực sự ghen với cậu đó, đời lính tráng mà có một con bé nào đó chờ đợi là phúc rồi. Gặp đi, gặp tận cùng, gặp cho tan nát, cho hết mình đi vì biết đâu hả, ngày mai không còn gì để gặp nữa. Lại một cái vỗ vai khá mạnh nữa, kèm theo một tiếng hả cũng khá to, viên Đại tá bước ra xe. Từ sau cánh cửa sắt sơn màu ghi, một ánh mắt nhìn ra lặng lẽ và hằn học. Ánh mắt của viên Chuẩn úy toán phó.