🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Một Nghiên Cứu Về Các Nguyên Tắc Nhận Thức Của Con Người
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
TỦ SÁCH TINH HOA TRI THỨC THẾ GIỚI
GEORGE BERKELEY
MỘT NGHIÊN CỨU VỀ CÁC NGUYÊN TẮC NHẬN THỨC CỦA
CON NGƯỜI
Đinh Hồng Phúc và Mai Sơn dịch
Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính
(Tái bản lần thứ ba)
NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC
ebook©tudonald78 | 17-01-2021
https://thuviensach.vn
Ebook này được thực hiện theo dự án “SỐ HÓA SÁCH CŨ” của diễn đàn TVE-4U.ORG
https://thuviensach.vn
TÁC GIẢ
George Berkeley (1685 – 1753), một trong những triết gia quan trọng nhất của nền triết học Tây phương hiện đại thời kỳ đầu. Tinh thần triết học của ông được gói gọn trong câu cách ngôn (esse est percipi) (tồn tại là được tri giác). Các công trình chính của ông: Thử hướng đến một lí thuyết mới về cái nhìn (1709), Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philomous (1713), Bàn về sự vận động (1721), Alciphone (1732), Nhà giải tích hay bài luận gửi cho một nhà toán học vô tín ngưỡng (1734), Bảo vệ tự do tư tưởng trong toán học (1735), v.v...
https://thuviensach.vn
Lời người dịch
George Berkeley (1685-1753) là triết gia duy nghiệm kiệt xuất người Ireland, một trong những gương mặt quan trọng nhất của nền triết học Tây phương hiện đại thời kì đầu. Lập trường triết học của Berkeley là duy tâm thường nghiệm (empirical idealism), được thể hiện trong câu cách ngôn nổi tiếng “esse est percipi” (tồn tại là được tri giác). Đối với ông, không có gì hiện hữu ngoại trừ các ý niệm và các tinh thần; các ý niệm là cái được tri giác, còn tinh thần (mind hay spirit)1 là cái tri giác những cái được tri giác. Các công trình của Berkeley trải rộng trên các lĩnh vực khoa học, triết học và thần học; riêng trong lĩnh vực triết học thì Một nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người (1710) và Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philonous (1713) là hai công trình được biết đến nhiều nhất.
Vài nét tiểu sử và sự nghiệp của Berkeley
Berkeley chào đời vào ngày 12 tháng Ba năm 1685 ở Hạt Kilkenny, Ireland. Năm 11 tuổi, ông vào học trường Kilkenny ở Dublin. Năm 15 tuổi, ông bước chân vào Học viện Ba ngôi (Trinity College), cũng ở Dubin. Berkeley lấy bằng cử nhân tại đây vào năm 1704, đến năm 1707 lấy bằng Thạc sĩ và được tuyển làm giảng viên (Junior Fellow) của học viện này.
Năm 1709, Berkeley được thụ phong chức chấp sự (deacon) trong giáo phái Anh và xuất bản công trình chính đầu tiên của mình Thử hướng đến một lí thuyết mới về cái nhìn. Trong công trình này, Berkeley bàn về những giới hạn của cái nhìn của con người và đưa ra quan niệm rằng đối tượng thực sự của thị giác không phải là các đối tượng vật chất mà là ánh sáng và màu sắc. Những luận điểm được nêu ra trong công trình này báo hiệu sự ra đời của các công trình triết học quan trọng nhất của ông.
https://thuviensach.vn
Vào năm 1710, khi chỉ mới 25 tuổi, Berkeley xuất bản công trình triết học Một nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người - Phần I, từ đây chúng tôi sẽ nói gọn là Các nguyên tắc. Công trình này là những nỗ lực của Berkeley gắng tìm cách bác bỏ những yêu sách của John Locke, một triết gia duy nghiệm thuộc thế hệ trước ông, về bản chất của tri giác con người. Nhưng vì công trình này thuộc dạng kén độc giả, chỉ dành riêng cho giới trí thức ở thủ đô London, nên ông bắt tay viết những bài dễ đọc hơn, trong hình thức đối thoại, và cho xuất bản ở London vào năm 1713 dưới nhan đề Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philonous.
Trong thời gian ở London, để xúc tiến việc xuất bản các công trình triết học của mình, ông kết giao bằng hữu với một số nhà trí thức nổi danh thời bấy giờ như nhà thơ Jonathan Swift (1667-1745), nhà thơ, nhà tiểu luận Joseph Addison (1672-1719), nhà soạn kịch Richard Steele (1709-1729), và nhà thơ Alexander Pope (1688-1744). Ông tham gia viết bài cho tờ Guardian của Steele để chống lại tư tưởng tự do của thuyết bất khả tri lúc bấy giờ, nhưng do ông không kí tên vào các bài báo này nên cho đến nay các ý kiến về việc ông có phải là tác giả của chúng hay không vẫn còn bất đồng.
Năm 1721, ông xuất bản cuốn Bàn về sự vận động, một luận văn ngắn bàn về những nền tảng triết học của cơ học. Ngoài ra, ông còn có một tập các bản ghi chép những nhận xét triết học trong suốt quá trình phát triển học thuyết duy tâm và thuyết phi vật chất của mình; và tập ghi chép này, thường được gọi là Những nhận xét triết học, ông chỉ viết cho riêng mình nên không có ý định công bố.
Năm 1724, Berkeley được bổ nhiệm làm Trưởng Tu viện Derry. Lúc này, ông bắt tay khai triển dự án xây dựng một trường học ở Bermuda với ý nghĩ châu Âu đã trở nên già cỗi sau cuộc khủng hoảng “Bong bóng Biển
https://thuviensach.vn
Nam’’ (South Sea Bubble) và Thế giới Mới sẽ là niềm hi vọng cho tương lai con người. Được Nghị viện Anh hứa tài trợ kinh phí, ông dong buồm sang châu Mỹ vào năm 1728. Sau ba năm hoài công ngồi chờ kinh phí được hứa hẹn, ông trở về Anh. Trong thời gian ở châu Mỹ, ông đã soạn thảo Alciphron, cũng là một công trình triết học và là một suối nguồn quan trọng cho các quan niệm của ông về ngôn ngữ. Sau khi về Anh, Berkeley tập trung viết và cho xuất bản một loạt các công trình: Bài giảng trước Hội Truyền giáo Phúc âm ở nước ngoài (1732), Lí thuyết về cái nhìn (chứng minh và giải thích) (1733), Nhà giải tích hay bài luận gửi cho một nhà toán học vô tín ngưỡng (1734), Bảo vệ tự do tư tưởng trong toán học (1735), Các lí do không đáp lại câu trả lời đầy đủ của ngài Walton (1735), cũng như xem xét lại để tái bản Các nguyên tắc và Ba cuộc đối thoại (1734).
Năm 1734, Berkeley được phong Giám mục xứ Cloyne, vì thế ông trở lại Ireland và sống tại đó, tập trung chăm lo cho giáo phận của mình. Năm 1752, ông rời xứ cloyne đi Oxford để giám sát việc học hành của con trai, và không lâu sau đó, ông tạ thế vào ngày 14 tháng Giêng, được chôn cất trong Thánh đường Giáo hội Kitô thuộc địa phận Oxford.
Bối cảnh triết học cho sự ra đời công trình Các nguyên tắc
Theo Howard Robinson2, cùng với Ba cuộc đối thoại giữa Hylas và Philoncus, công trình Các nguyên tắc được Berkeley viết trong nỗ lực chống lại “triết học mới” của thế kỉ 17. Phát ngôn viên của triết học mới này là các nhà khoa học và các triết gia tiêu biểu như René Descartes (1596-1650), Issac Newton (1642- 1727), John Locke (1632-1704), Malebranche (1638- 1715), Galileo (1564-1642), và Boyle (1627-91); trong số các phát ngôn viên triết học này, John Locke là nhân vật chiếm nhiều ưu tư của Berkeley nhất.
https://thuviensach.vn
Liên quan tới vấn đề về bản chất của thực tại, các nhà triết-khoa học gia này, tiêu biểu là John Locke, phân biệt hai loại tính chất: các tính chất hạng nhất (primary qualities) và các tính chất hạng hai (secondary qualities). Loại tính chất thứ nhất là những thuộc tính tự tồn nơi sự vật, như “quảng tính, hình dạng, sự vận động, đứng im, tính rắn hay tính không thể thâm nhập, và con số” (I, §9), còn loại tính chất thứ hai, như “màu sắc, âm thanh, mùi, vị” (1, §9)3, thì không thể tự tồn mà phụ thuộc vào các giác quan - màu sắc là do mắt ta nhìn thấy, âm thanh là do tai ta nghe được, v.v., tức là những thuộc tính chỉ nảy sinh ở trong ta, là những gì thuộc về chủ quan trong đầu óc ta chứ không phải khách quan nơi sự vật hay “vật chất”. Từ đó, họ đi đến chỗ cho rằng thực tại chỉ gồm các tính chất hạng nhất chứ không phải các tính chất hạng hai. Song có điều là, ngoài cái thế giới như nó đang là, đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học, thực tại ta đang sống còn bao gồm một thế giới khác: thế giới như ta kinh nghiệm về nó. Do đó, chắc chắn ta không thể kinh nghiệm về thế giới nếu không có các tính chất hạng hai.
Chúng ta thường quen nghĩ “ý niệm” (idea) là một sản phẩm tạo tác của trí năng, rất gần với nghĩa của chữ “khái niệm” (concept). Nhưng đối với Locke, khi đề xuất thuật ngữ này, ông định nghĩa nó là “bất cứ cái gì là đối tượng của giác tính khi ta suy tưởng” (1.1.8)4. Theo định nghĩa ấy thì “ý niệm” là thuật ngữ không những dùng để chỉ các khái niệm mà còn dùng để chỉ tất cả các hiện tượng khả giác của ý thức, nói cách khác là bất kì cái gì có thể là đối tượng của tư tưởng. Triết học truyền thống Aristoteles và kinh viện phân biệt hai loại đối tượng của tinh thần: loại này là các “mô thức” (forms) hay các “giống” (species), vốn là đối tượng của trí năng hay tư tưởng, loại kia là các “ảnh ảo” (phantasms), đối tượng của tri giác cảm tính; loại này là những cái phổ quát, loại kia là những hình ảnh cảm tính đặc
https://thuviensach.vn
thù. Locke tiếp thu cả hai loại này và thuật ngữ ý niệm của ông được áp dụng cho cả hai nhóm đối tượng ấy.
Nếu như trong hoạt động nhận thức, ta chỉ có thể ý thức trực tiếp về các ý niệm ở trong tinh thần ta, chứ không phải các sự vật khách quan bên ngoài thì hệ luận sẽ dẫn tới chỗ ta buộc phải phủ định sự hiện hữu của thế giới bên ngoài. Để làm điều này, Descartes nêu ra giả thuyết về một tinh quỷ (mauvais genie) “dùng hết tài trí của nó để lường gạt tôi”5. Nếu mọi việc quả đúng như thế, thì những gì tôi kinh nghiệm được rất có thể là kết quả của những trò chơi khăm của tinh quỷ rất mực xảo trá này. Nhưng rồi ông lại cố gắng bác bỏ giả thuyết hoài nghi luận này bằng cách chứng minh sự hiện hữu của một Thượng Đế chân thực (vrai Dieu) không đánh lừa ta và cũng không để ta bị đánh lừa. Nhưng cách Descartes chứng minh sự hiện hữu của Thượng Đế tỏ ra thiếu sức thuyết phục, khó lòng được mọi người chấp nhận, kể cả những người theo thuyết hữu thần. Cách phản ứng của Locke trước thuyết hoài nghi này cũng không mấy hữu dụng, vì cũng chẳng mấy khi ông đưa ra được các luận cứ chống lại nhà hoài nghi. Cho dù không một nhân vật chủ đạo nào của triết học thế kỉ 17 là người theo thuyết hoài nghi, nhưng nền triết học mới luôn bị đánh giá thấp vì không có một luận cứ phản bác thuyết hoài nghi nào cho thật thuyết phục.
Gắn liền với sự lo sợ thuyết hoài nghi là sự lo sợ thuyết duy vật và thuyết vồ thần. Quan niệm cơ giới luận về thế giới tự nhiên làm cho nền triết học thế kỉ 17 khó lòng hiểu được các thực thể tinh thần, như linh hồn hay Thượng Đế, quan hệ với thế giới tự nhiên như thế nào, cụ thể là nó khó lòng hiểu được mối tương tác nhân quả giữa bản thể vật chất và bản thể phi vật chất có thể diễn ra như thế nào. Descartes cố gắng mang lại chút thanh danh khoa học cho quan niệm cơ giới luận về mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác bằng cách cho rằng mối quan hệ ấy diễn ra ở một bộ phận
https://thuviensach.vn
của não bộ, cụ thể là ở tuyến tùng, nhưng cũng chẳng giải quyết được vấn đề. Và chính vì quan niệm cơ giới luận về thể xác có nguy cơ làm triệt tiêu tác dụng của cái tinh thần phi vật chất, nên các định luật tất định luận của Newton về vận động đẩy Thượng Đế ra bên ngoài vũ trụ. Các nhà hữu thần luận, trong đó có Berkeley, phản ứng chống lại quan niệm này bằng lí luận cho rằng chính Thượng Đế đã đặt thế giới vào trong sự vận động, rồi sau đó nó vận động mà không cần tới sự nâng đỡ hay can thiệp của Ngài.
Trước bối cảnh tư tưởng nói trên, Berkeley cảm thấy không thể đứng ngoài cuộc, mà buộc phải tham gia vào cuộc tranh luận tư tưởng của thời đại, do đó ông đã cho xuất bản công trình Các nguyên tắc (1710) với mục đích chính, như lời ông tuyên bố, là “nghiên cứu về những nguyên nhân chủ yếu gây ra sự sai lầm và khó khăn trong các môn khoa học, cùng với những cơ sở của thuyết Hoài nghi, thuyết Vô thần và phi-tôn giáo”, qua đó xây dựng và bảo vệ học thuyết phi vật chất của mình.
Nội dung chính của công trình Các nguyên tắc
Về đại thể, cấu trúc của công trình Các nguyên tắc gồm hai phần: Dẫn nhập (gồm 25 tiểu đoạn) và Phần I (gồm 156 tiểu đoạn)6.
Trong phần Dẫn nhập, Berkeley chủ yếu tập trung phê phán học thuyết của Locke về các ý niệm trừu tượng như là một nguyên tắc sai lầm cơ bản đã “đưa toàn bộ sự nghi ngờ, sự không chắc chắn, những sự phi lí và những mâu thuẫn ấy vào trong một vài trường phái triết học” (§1). Đối với Locke, và nhiều triết gia khác, trí óc hay tinh thần “có năng lực tạo ra những ý niệm trừu tượng” (§6) bằng cách thực hiện thao tác tách biệt trong tư tưởng các yếu tố hay các thuộc tính của những sự vật cá biệt thành những cái cấu thành đơn giản để rút ra yếu tố hay thuộc tính mà các sự vật cá biệt đều có, tức những cái phổ biến. Berkeley công kích học thuyết này
https://thuviensach.vn
bằng luận điểm cho rằng thao tác trừu tượng hóa các ý niệm như thế là điều ta không thể làm được, và nguồn gốc của sai lầm ấy chính là quan điểm ngộ nhận về công dụng của ngôn ngữ: mục đích của ngôn ngữ là truyền đạt các ý niệm của ta và mọi tên gọi (names) có nghĩa đều biểu thị một ý niệm trừu tượng. Đối với Berkeley, ngôn ngữ chỉ biểu thị các ý niệm phổ biến (general ideas) chứ không biểu thị bất cứ một ý niệm trừu tượng nào. Do đó, phương cách để ta có thể đi đến chân lí và tránh mọi sai lầm là hãy “loại bỏ trở ngại và sự lừa dối của những từ ngữ ra khỏi những đệ nhất nguyên nhân của nhận thức” (§25).
Toàn bộ nội dung của Phần I được Berkeley triển khai thành 156 tiểu đoạn liền mạch, về sau, để giúp độc giả nắm bắt nội dung trình bày của Berkeley được dễ dàng hơn, các nhà biên tập các tác phẩm của Berkeley đã phân chia Phần I thành các nhóm tiểu đoạn như sau: 1) Đối tượng và chủ thể của nhận thức (§§1-2); 2) Những luận cứ ủng hộ thuyết phi vật chất (§§3-33); 3) Những luận cứ phản bác và trả lời (§§34-84); và 4) Những hệ quả và áp dụng quan niệm của Berkeley (§§85-156).
Trước hết, trong nhóm tiểu đoạn đầu tiên, Berkeley xác định đối tượng và chủ thể của nhận thức con người. Các đối tượng của nhận thức là các ý niệm, và các ý niệm này gồm ba loại: “các ý niệm đã thực sự in hằn lên các giác quan”(§l), “các ý niệm được ghi nhận khi lưu ý đến những xúc cảm của tâm thức và những hoạt động của tinh thần” (§1), và “các ý niệm hình thành nhờ kí ức và trí tưởng tượng”(§1). chủ thể của nhận thức, theo Berkeley, không phải là những con người cá nhân (persons), mà là “tinh thần”, hay còn gọi bằng những cái tên khác là: “tâm trí”, “linh hồn” hay “bản ngã”. Đây là một thực thể tri giác năng động, hoàn toàn khác với ý niệm, là cái tri giác các ý niệm, là nơi để các ý niệm hiện hữu: “sự tồn tại của một ý niệm là ở chỗ nó được tri giác”.
https://thuviensach.vn
Từ chỗ xác định được đối tượng và chủ thể của nhận thức, Berkeley bắt đầu khai triển những luận cứ ủng hộ cho thuyết phi vật chất (immaterialisrri) của mình qua 30 tiểu đoạn tiếp theo.
Luận cứ xuất phát cho thuyết phi vật chất của Berkeley là “không có bất cứ bản thể nào khác ngoài tinh thần” (§7). Luận cứ này được nêu ra để phản bác lại học thuyết về ý niệm trừu tượng là học thuyết cho rằng mọi đối tượng khả giác là các tồn tại độc lập, hoàn toàn khác với các tồn tại được tri giác. Đối với Berkeley, lối phân biệt này tỏ ra không chính đáng ở chỗ sự trừu tượng hóa đã vượt ra khỏi phạm vi tác động của nó. Tôi chỉ có thể trừu tượng hóa một đối tượng nào đó trong chừng mực tôi nhận biết đối tượng ấy một cách biệt lập, chứ tôi không thể tách nó khỏi tri giác của tinh thần ở nơi tôi nghĩ về chúng như là một thực thể tự tồn: “Mọi vật thể tạo nên cái cấu trúc vĩ đại của thế giới, đều không có một sự tự tồn nào ở bên ngoài một tinh thần” (§6). Như vậy, thế giới chỉ có một bản thể duy nhất là tinh thần, còn cái gọi là “vật chất” (matter) hay “cơ chất” (substratum) của các ý niệm không thể nào được coi là bản thể.
Theo Berkeley, vì các sự vật mà ta ý thức trực tiếp đều có các tính chất hạng hai và vì các tính chất ấy chỉ hiện hữu trong trong tinh thần, cho nên cái ta ý thức chính là “các ý niệm trong tinh thần”, chứ không phải là các đối tượng thuộc thế giới bên ngoài. Hơn nữa, căn cứ theo nguyên tắc về tính tương tự, chỉ có ý niệm mới giống với ý niệm, chứ không giống với bất cứ cái gì không thể tri giác được, ông suy ra rằng không có cái tương tự với ý niệm nào ở trong cái gọi là vật chất, ông khẳng định: “Bất kì màu sắc hay quảng tính nào, hay bất kì tính chất khả giác nào đều tuyệt nhiên không thể tồn tại trong một chủ thể vô tư tưởng, bên ngoài tinh thần”, về điểm này, rõ ràng Berkeley đang “đặt vấn đề” đối với thuyết duy vật, cụ thể là mấy vấn đề như sau: Một là, chính ý niệm về vật chất (hay bản thể hữu hình) là một ý niệm đầy mâu thuẫn, ở chỗ nó cho rằng các tính chất chỉ ở
https://thuviensach.vn
trong bản thể tinh thần lại có thể ở trong bản thể không phải tinh thần. Hai là, thuyết duy vật đang dẫn ta tới thuyết duy thực gián tiếp về tri giác, và từ đó dẫn tới thuyết hoài nghi. Các ý niệm tuy không thể tự tồn, nhưng chúng được các nhà duy vật giả định là bản sao của các hiện hữu độc lập với tinh thần (§15). Nhưng những đối tượng của giác quan biến đổi liên tục, trong khi đó các bản gốc của chúng lại được cho là bất biến, cho nên chúng không thể nào là bản sao trung thực các bản gốc của chúng được7. Ba là, khái niệm về vật chất là vô nghĩa (§17), bởi lẽ các khái niệm về bản thể và cơ chất, về cái nâng đỡ cho quảng tính là cái gì rất mơ hồ và trừu tượng đến mức không thể hiểu được.
Tiếp theo việc nêu luận cứ chủ đạo8 rằng không thể có bất cứ đối tượng nào tồn tại ở bên ngoài tinh thần, vì những đối tượng như thế, về nguyên tắc, là không thể tri giác được, Berkeley tiến hành xem xét và đáp trả các luận cứ phản bác triết học học thuyết phi-vật chất (từ tiểu đoạn §34 đến tiểu đoạn §84). Sự đáp trả các luận cứ phản bác ấy cũng chính là những phát biểu của ông về học thuyết duy tâm của mình, về sau người ta gọi là thuyết duy tâm chủ quan (subjective idealism), về đại thể, các luận cứ phản bác này có thể gom lại thành mấy nhóm chính: 1) luận cứ từ phía những người bình thường; 2) luận cứ từ phía các nhà khoa học; và 3) luận cứ từ phía tôn giáo.
Trước hết, với các luận cứ phản bác từ phía những người bình thường, Berkeley trả lời rằng hệ thống triết học của ông không phủ nhận sự tồn tại của bất cứ cái gì có thể tri giác, không phủ nhận những gì mắt thấy tai nghe, - chúng có tồn tại hay không thì cũng chẳng có chuyện trời rung đất chuyển nào hết miễn là chúng hãy làm ơn “ở trong tinh thần” giúp ông; điều ông phủ nhận là các nhà duy vật cứ khăng khăng về sự tồn tại của một
https://thuviensach.vn
bản thể không thể tri giác nào đó được gọi là “vật chất” hay “bản thể hữu hình” nâng đỡ cho các tồn tại có hình dạng, quảng tính, vận động, v.v.
Đối với các luận cứ phản bác từ phía khoa học, Berkeley trả lời rằng hệ thống triết học của ông không có hại gì cho khoa học cả, nếu được hiểu một cách đúng đắn. Công việc của khoa học không phải là đưa ra sự giải thích siêu hình học mà là phát biểu các quy luật vận hành quan sát được trong giới tự nhiên sao cho rõ ràng nhất, vì thế thuyết duy tâm và thuyết phi vật chất của ông không những tương thích với sự thực hành khoa học đúng đắn, mà còn thực sự hữu ích để khoa học loại trừ các khái niệm hàm hồ gây cản trở bước đường nhận thức của con người.
Cuối cùng là các luận cứ phản bác từ phía tôn giáo. Berkeley cho rằng dù ngôn ngữ của Kinh thánh có nói đến “vật chất” (các thực tại núi sông, cây cỏ, con người, v.v.,) nhưng không cùng cách hiểu với nhà duy vật về khái niệm ấy, tức vật chất là một cơ chất trơ ì không thể tri giác. Và do chỗ vai trò đích thực của ngôn ngữ là “biểu thị các quan niệm của chúng ta, hay các sự vật chỉ trong chừng mực chúng được ta nhận biết (§83), nên nguyên tắc trình bày của ông không có gì mâu thuẫn với nguyên tắc của ngôn ngữ. Thêm nữa, các trường hợp về phép mầu trong Kinh thánh (cây quyền trượng của Moise biến thành con rắn, nước biến thành rượu), học thuyết ấy không làm cho chúng mất linh nghiệm, bởi lẽ nó thừa nhận việc “cây quyền trượng đã biến thành con rắn” và “nước đã biến thành rượu” là có thật. Do đó, tương tự như với hai nhóm luận cứ nói trên, với nhóm luận cứ này, thuyết phi vật chất của ông không nguy hiểm như người ta lầm tưởng.
Sau khi trả lời các luận cứ phản bác có thể có từ nhiều phía khác nhau, Berkeley dành 49 tiểu đoạn tiếp theo, từ §85 đến §134, để xem xét những lợi ích mà học thuyết của ông có thể mang lại cho các hoạt động nhận thức
https://thuviensach.vn
của con người, cụ thể là đối với triết học, các môn khoa học và cả tôn giáo nữa.
Về đại thể, lợi ích mà học thuyết phi vật chất có thể mang lại cho triết học là ở chỗ nó loại bỏ hết các “câu hỏi khó và tối nghĩa mà người ta đã hoài công phí sức để suy xét” (§85), và một khi làm được điều đó thì thuyết hoài nghi cũng như thuyết vô thần sẽ không còn cơ sở nào để tồn tại, người ta sẽ tiết kiệm được nhiều công sức và thời gian trong việc tìm chân lí.
Đối với khoa học, những lợi ích mà học thuyết này mang lại được Berkeley xem xét ở “hai lĩnh vực lớn” là khoa học tự nhiên và toán học. Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, mục đích của ông là chống lại luận điểm của các nhà hoài nghi rằng bản chất thực của sự vật là cái gì ta không thể biết về nguyên tắc. Cơ sở của luận điểm này là cách giải thích khoa học của cơ học Newton. Quan điểm của Berkeley là về nguyên tắc bao giờ ta cũng lĩnh hội được cái bản chất thực của sự vật. Các nhà khoa học không nên cố công đi tìm nguyên nhân tác động trong giới tự nhiên, bởi lẽ các nguyên lí của cơ học không thể giúp ta giải thích được những quy luật cơ bản của tự nhiên như lực hút và sự cố kết của sự vật. Cách giải thích theo nguyên tắc “sự tương tự giữa các sự biến” (§106) ở các nhà khoa học rất dễ sa đà vào xu hướng tuyệt đối hóa, “biến nó thành định lí tổng quát” (§106), do đó sẽ “gây thiệt hại nặng nề cho chân lí” (§106). Nguyên lí triết học của thuyết phi vật chất sẽ giúp cho các nhà khoa học nhận chân ra rằng sự tương tự lớn nhất của mọi sự biến là coi thế giới tự nhiên là công trình của một Tác nhân khôn ngoan và lòng lành, tức Thượng Đế, và cách giải thích duy nhất đúng đắn các sự biến ấy là bằng những nguyên nhân tối hậu, chứ không phải những nguyên nhân tác động.
https://thuviensach.vn
Trong những tiểu đoạn cuối cùng của Các nguyên tắc từ §135 đến §156, chủ đề Berkeley bàn đến là các tinh thần và Thượng Đế. Vì tinh thần là “bản thể hay cái nâng đỡ duy nhất trong đó các tồn tại không-tư duy hay các ý niệm có thể hiện hữu” (§135), đồng thời, theo nguyên tắc về tính tương tự, chỉ có ý niệm mới tương tự với ý niệm, nên ta không thể tạo ra một ý niệm về tinh thần. Chúng ta chỉ có thể tạo ra một khái niệm về tinh thần mà thôi. Khái niệm khác với ý niệm ở chỗ nó không đưa ra một bức tranh chứa nội dung xác thực về sự vật được biểu thị, trái lại nó là kết quả của sự phản ánh giữa ý niệm của ta với những ý niệm trong tâm trí của người khác theo nguyên tắc tương tự.
Cứ cho là ta không có ý niệm về các tinh thần ở người khác, ta vẫn có thể suy ra được sự hiện hữu của các tinh thần ấy qua việc quan sát những biến đổi trong các ý niệm ta tri giác. Ta có thể rút ra được khái niệm về tinh thần từ việc ta quan sát bản ngã hay linh hồn của mình, rồi từ đó “thông qua linh hồn của mình mà ta biết được linh hồn của người khác” (§140). Sở dĩ ta làm được như vậy là nhờ có tác lực (agency) của Thượng Đế, tác lực này hiện diện khắp nơi và cung cấp một hậu cảnh ổn định trên đó diễn ra mọi quan hệ nhân quả để ta có thế nắm bắt được tinh thần của những người khác. “Chỉ có mỗi mình Ngài là đấng, dùng lời quyền năng của mình mà nâng đỡ vạn vật, duy trì mối tương giao ấy giữa các tinh thần, qua đó các tinh thần có thể tri giác sự tồn tại của nhau” (§147).
Như vậy, toàn bộ dự án triết học của Berkeley được triển khai trong công trình Các nguyên tắc này là biện minh cho những chân lí trong Phúc âm về sự hiện hữu của Thượng Đế như là bản thể đích thực của mọi tồn tại, mọi trật tự tự nhiên và như là nguồn suối của mọi nhận thức của con người. Vì thế, thuyết phi vật chất của ông không có nhiệm vụ nào khác ngoài việc đánh đổ mọi quan niệm lầm lạc về Thượng Đế và khơi gợi nơi
https://thuviensach.vn
người đọc một “xúc cảm sùng kính về sự hiện diện của Thượng Đế” để họ “biết tôn kính và hoài bão những chân lí bổ ích của Phúc Âm” (§156).
Bản dịch tiếng Việt công trình Một nghiên cứu về các nguyên tắc nhận thức của con người của chúng tôi được dịch theo bản biên tập của Jonathan Dancy, thuộc loạt sách Các văn bản triết học Oxford, vốn là loạt sách hướng dẫn sinh viên lĩnh hội các công trình kinh điển trong triết học. Bản dịch tiếng Việt của chúng tôi có khoảng 100 chú thích về các từ ngữ và luận điểm của Berkeley, phần lớn trong số ấy là của Jonathan Dancy, còn những chú thích của chúng tôi thì được đánh dấu bằng kí hiệu: (ND), ở chỗ nào trong nguyên bản có những câu văn phức tạp, có quá nhiều mệnh đề khiến cho độc giả ngày nay khó lòng nắm bắt được ý chính của câu văn, thì chúng tôi mạo muội tách thành nhiều câu cho dễ đọc. Những chỗ tách câu ấy chúng tôi đặt kí hiệu bằng một dấu chấm và một nét sổ dọc .|. “Cuối cùng, đây là một văn bản triết học khó đọc, những lập luận trong sách được tổ chức rất tinh vi, sắc sảo bởi tài biện luận của một triết gia bậc thầy, trong khi đó năng lực của người dịch lại có hạn, nên khó lòng tránh khỏi sự sai sót. Chúng tôi mong bạn đọc góp ý để bản dịch được hoàn thiện hơn trong những lần in tiếp sau. Nhân đây, chúng tôi xin gửi lời tri ân đến nhà triết học Bùi Văn Nam Sơn, người đã dành nhiều thời gian hiệu đính bản thảo này. Chúng tôi cũng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thạc sĩ Vũ Ngọc Phương (Đại học Nguyễn Tất Thành) và Biên tập viên Vũ Thu Hằng (Nxb. Tri thức) đã góp cho bản dịch những ý kiến quý báu.”
Đinh Hồng Phúc
Đại học Thủ Dầu Một, ngày 19.10.2013
https://thuviensach.vn
Tóm tắt chủ đề các nội dung
DẪN NHẬP
§§1-2 Thay vì mang lại cảnh êm đềm, triết học đem lại sự bối rối và hoài nghi.
§§3-5 Đây hẳn phải là do các nguyên tắc sai lầm mà ta sẽ nghiên cứu.
§§6-9 Nguyên tắc sai lầm nền tảng là học thuyết về ý niệm trừu tượng.
§10 Ta không thể nào hình dung một cách riêng biệt các thuộc tính không thể tồn tại một cách biệt lập.
§11 Quan điểm của Locke: năng lực trừu tượng hóa là chỗ phân biệt con người với con vật.
§§11-12 Quan niệm của Berkeley về tính phổ biến. §§13-14 Quan niệm của Locke và sự khó khăn của việc trừu tượng hóa.
§§15-16 Berkeley khai triển quan niệm của mình về tính phổ biến.
§§17-21 Các sai lầm nảy sinh khi người ta dùng từ ngữ để gọi tên các ý niệm.
§§22-25 Tránh mọi sự tranh cãi chữ nghĩa thuần túy để không mắc phải những sai lầm trên.
PHẦN 1
§1 Đối tượng của nhận thức: các ý niệm.
https://thuviensach.vn
§2 Bản tính của chủ thể nhận thức: tinh thần.
§§3-33 Những luận cứ ủng hộ thuyết phi vật chất. §§3-7 Luận cứ thứ nhất: Chỉ có tinh thần (spirit hay mind) mới là bản thể.
§3 Đối với các sự vật khả giác, tồn tại là được tri giác. §4 Các sự vật khả giác là các ý niệm không thể hiện hữu ở bên ngoài tinh thần.
§5 Sự phân biệt giữa tồn tại và tri giác hàm chứa một sự trừu tượng hóa không chính đáng.
§6 Đối với các sự vật khả giác, tồn tại là được tri giác bởi một tinh thần nào đó, tinh thần thụ tạo hay Hữu thể vĩnh hằng.
§7 Các sự vật khả giác là các ý niệm, và chỉ có thể tồn tại trong tinh thần.
§§8-15 Nguyên tắc về tính tương tự và sự phân biệt tính chất hạng nhất-hạng hai.
§8 Một ý niệm chỉ có thể giống với một ý niệm mà thôi. §9 Phân biệt tính chất hạng nhất và tính chất hạng hai. Nhưng cả các tính chất hạng nhất lẫn các nguyên mẫu của chúng không thể hiện hữu trong một bản thể không tri giác.
§10 Không thể hình dung một thế giới trong đó các đối tượng chỉ có những tính chất hạng nhất.
§§11-13 Các khái niệm về không gian, vận động, con số, và tính đơn vị đều mang trong chúng những sự trừu tượng hóa không chính đáng.
https://thuviensach.vn
§14 Những luận cứ dùng để chứng minh rằng các tính chất hạng hai không tồn tại bên ngoài tinh thần cũng có thể áp dụng cho các tính chất hạng nhất.
§15 Nhưng những luận cứ này chỉ thực sự cho thấy rằng bằng giác quan ta không thể biết được đâu là những phương cách mà sự vật bộc lộ mình một cách thực sự.
§§ 16-17 Khái niệm về bản thể vật chất là không thể hiểu được. §16 Các khái niệm về bản thể và cơ chất, về cái nâng đỡ cho quảng tính là không thể hiểu được.
§17 Ý niệm trừu tượng về tồn tại nói chung là một khái niệm như vậy.
§18-20 Không có lí do gì để tin rằng bản thể vật chất đang hiện hữu.
§18 Các giác quan chỉ mang lại những kiến thức về các cảm giác; lí tính thì chẳng giúp gì cho ta, bởi lẽ ta có thể có tất cả mọi ý niệm đang hiện diện nơi ta cho dù có hay không có các vật thể vật chất.
§ 19 Sự hiện hữu của thế giới vật chất không thể giải thích diễn tiến của bất cứ ý niệm nào.
§20 Tóm tắt những luận điểm này.
§21 Thừa nhận bản thể vật chất gây ra vô số khó khăn. Các luận cứ hậu nghiệm.
§§22-24 Tóm tắt và kết luận phần này: Luận cứ chủ đạo của Berkeley.
§22 Ta có thể hình dung ra cái gì đó tồn tại mà không được tri giác không?
https://thuviensach.vn
§23 Đây là một mâu thuẫn hiển nhiên.
§24 Sự hiện hữu tuyệt đối của những vật không được suy tưởng là một mâu thuẫn.
§§25-33 Các ý niệm của giác quan và sự hiện hữu của Thượng Đế.
§25 Các ý niệm là thụ động và vì thế không thể là các nguyên nhân.
§26 Nguyên nhân khả hữu duy nhất là tinh thần, vì chỉ có tinh thần mới tích cực.
§27 Ta không thể có ý niệm về tinh thần, cho dù ta hiểu nghĩa của chữ này.
§28 Một số ý niệm mà tôi gợi ra cho tôi trong tinh thần của tôi (những ý niệm của trí tưởng tượng).
§29 Những số khác tôi không thể kiểm soát theo cách ấy (những ý niệm của giác quan).
§30 Sự phân biệt giữa các ý niệm của giác quan và các ý niệm của trí tưởng tượng. Các quy tắc mà Đấng Tinh thần khôn ngoan và lòng lành tuân thủ để tạo ra các ý niệm của giác quan là những quy luật của tự nhiên.
§31 Nhận biết các quy luật này có ích rất nhiều trong đời sống thực tế.
§32 Tìm kiếm những nguyên nhân thứ yếu là việc làm vô nghĩa.
§33 Các sự vật hiện thực là các ý niệm của giác quan, nghĩa là các ý niệm được đấng Tạo hóa mang lại cho ta và ít lệ thuộc vào ta.
https://thuviensach.vn
§§34-84 Những luận cứ phản bác và trả lời.
§§34-40 1. Phải chăng điều này không có nghĩa là trong tự nhiên không hề có cái gì là hiện thực và mang bản chất cả? §41 2. Có sự khác nhau rất rõ giữa ngọn lửa hiện thực và ý niệm về ngọn lửa.
§§42-44 3. Ta nhìn các sự vật với một khoảng cách §§45-48 4. Các sự vật trong thế giới hẳn sẽ bị thủ tiêu và được tái tạo tùy theo việc ai đó có nhìn chúng hay không. §49 5. Nếu quảng tính và hình dạng hiện hữu trong tinh thần chứ không phải trong thế giới, thì suy ra tinh thần có quảng tính và hình dạng.
§50 6. Toàn bộ khoa học vật lí ắt sẽ bị hủy hoại.
§§51-53 7. Thật là vô lí khi loại bỏ những nguyên nhân tự nhiên và nói rằng nguyên nhân duy nhất là Tinh thần.
§§54-55 8. Phải chăng cả nhân loại đều lầm tưởng? §§56-57 9. Tại sao chúng ta lại rơi vào tình trạng sai lầm phổ biến đến vậy?
§§58-59 10. Thuyết phi vật chất mâu thuẫn với những chân lí đã được xác lập trong vật lí học và trong toán học.
§§60-66 11. Theo Berkeley, sự tổ chức cực kì chính xác của các sự vật vật chất như khoa học đã cho thấy là nhằm mục đích gì?
§§67-76 12. Ta có thể tạo ra một quan niệm về vật chất như là cơ hội không được nhận biết của các ý niệm mà Thượng Đế chọn ban cho ta?
§§77-78 Hẳn ta sẽ biết rõ hơn về vật chất nếu ta có thêm một
https://thuviensach.vn
giác quan mới? Không, một giác quan mới sẽ chỉ mang lại thêm cho ta những ý niệm mà thôi.
§§79-80 Một quan niệm phủ định thuần túy về vật chất cũng là một với quan niệm về hư vô.
§81 Hơn nữa, ta hãy khước từ ý niệm về sự hiện hữu nói chung, được trừu xuất khỏi cái tri giác và cái được tri giác một cách không chính đáng.
§§82-84 Những luận cứ phản bác từ tôn giáo.
§§82-83 13. Kinh Thánh nói rõ về các sự vật vật chất. §84 14. Thuyết phi vật chất làm cho những phép mầu trở nên bớt bí nhiệm.
§§85-156 Những hệ quả và áp dụng các quan niệm của Berkeley. §85 Về đại thể, những câu hỏi khó và tối nghĩa sẽ bị loại ra khỏi triết học.
§§86-134 Các ý niệm.
§§86-100 Những lợi ích chung.
§§86-91 Từ bỏ bản thể vật chất giúp ích rất nhiều trong việc phá đổ thuyết hoài nghi.
§§92-96 Từ bỏ bản thể vật chất giúp ích rất nhiều trong việc phá đổ thuyết vô thần.
§§97-98 Từ bỏ những sự trừu tượng hóa không chính đáng sẽ tránh được những khó khăn trong việc hiểu thời gian, không gian và vận động.
§§99 Từ bỏ những sự trừu tượng hóa không chính đáng sẽ tránh được những khó khăn nằm trong quảng tính và vận động trừu tượng.
https://thuviensach.vn
§100 Từ bỏ những sự trừu tượng hóa không chính đáng sẽ tránh được những khó khăn trong việc hiểu đức hạnh. §§101-132 Những lợi ích cụ thể.
§§101-117 Khoa học tự nhiên.
§§101-102 Không có các bản chất hiện thực nào mà ta không thể lĩnh hội được.
§102 Từ bỏ những nguyên nhân tác động sẽ rút ngắn rất nhiều việc nghiên cứu về tự nhiên.
§103 Lực hút và sự cố kết không thể được giải thích dựa trên các nguyên tắc cơ học.
§§104-105 Khoa học giải thích bằng cách nêu ra sự tương tự giữa các sự biến.
§106 Cách làm này có thể bị phóng đại thái quá.
§107 Sự tương tự lớn nhất của mọi sự biến là coi thế giới tự nhiên là công trình của một Tác nhân khôn ngoan và lòng lành, và giải thích các sự biến bãng những nguyên nhân tối hậu, chứ không phai la nhưng nguyên nhân tác động.
§§108-109 Các sự biến tự nhiên là những kí hiệu chứ không phải là những nguyên nhân.
§§110-111 Cơ học Newton: sự phân biệt giữa không gian, thời gian và vận động tuyệt đối với không gian, thời gian và vận động tương đối.
§§112-115 Mọi vận động là tương đối.
§116 Ta không có quan niệm, nào về không gian tuyệt đối hay thuần túy.
https://thuviensach.vn
§117 Điều này giúp ta thoát khỏi cảnh phải băn khoăn liệu không gian thực, hữu thể vô hạn, vĩnh hằng, v.v., có phải là Thượng Đế hay không.
§§118-122 Số học
§118 Các nhà toán học mắc phải sai lầm do trừu tượng hóa không chính đáng.
§119 Lòng tin cho rằng số là những đối tượng trừu tượng đã dẫn các nhà toán học đi đến những định lí phù phiếm. §120 Số học hoặc là quan tâm tới các con số, hoặc là tới các sự vật được đếm, hoặc là không quan tâm tới cái gì cả. §121 Các con số 1, 2, 3,…, vốn là những kí hiệu, đi cùng với những tên gọi “một”, “hai”, “ba”,… Chúng ta sử dụng các kí hiệu trong việc tính toán, để tìm ra số của bản thân các sự vật.
§122 Các nhà toán học không xem xét các sự vật mà chỉ quan tâm xem xét các kí hiệu.
§§123-132 Hình học.
§123 Lòng tin cho rằng không gian hữu hạn là khả phân vô hạn dẫn tới những khó khăn và mâu thuẫn.
§124 Tôi không thể tri giác các bộ phận vô hạn trong bất cứ quảng tính nào mà tôi xem xét.
§125 Lòng tin vào tính khả phân vô hạn là kết quả của một sự trừu tượng hóa không chính đáng hay của lòng tin cho rằng các đối tượng của giác quan tồn tại ở bên ngoài tinh thần - những sai lầm này dễ xảy ra ở các nhà toán học cũng như ở những người khác.
https://thuviensach.vn
§126 Berkeley phân tích sai lầm này: một đường thẳng dài 1 inch trong một chứng minh, đại diện cho mọi đường thẳng bất kì, không có vạn bộ phận; nhưng nhiều đường thẳng mà nó đại diện, là những đường thẳng rất dài, lại có chứa vạn bộ phận như vậy.
§127 Không có sự hạn chế nào về số lượng các bộ phận mà các đường thẳng biểu đạt bằng đường thẳng có thể có này. Điều này khiến cho ta đi đến chỗ giả định sai lầm rằng đường thẳng này có vô số các bộ phận, và vì thế nó là khả phân đến vô hạn. Nó cũng khiến cho ta giả định rằng những cái vô cùng nhỏ có thể bị bỏ qua trong toán học, vì phần nhỏ nhất của đường thẳng này coi như không tồn tại.
§128 Khi ta nói rằng một đường thẳng là khả phân vô hạn, ta chỉ có thể muốn nói rằng nó dài vô cùng. Yêu sách cho rằng quảng tính hữu hạn là khả phân vô hạn là sai lầm.
§129 Niềm tin vào tính khả phân vô hạn dẫn đến những điều phi lí và mâu thuẫn.
§130 Chẳng hạn, lòng tin cho rằng có những cái vô cùng nhỏ của những cái vô cùng nhỏ.
§131 Giải pháp để tránh tất cả những cái vô cùng nhỏ. Điều này có thể làm ta thất vọng về mặt lí thuyết, nhưng nó sẽ không làm giảm uy tín của môn hình học xét như là một khoa học thực hành.
§132 Không có một định đề chân thực nào phụ thuộc vào các đại lượng vô cùng nhỏ.
https://thuviensach.vn
§133-134 Tóm tắt những lợi ích được nói đến đây. §§135-156 Các tinh thần.
§135 Ta không có ý niệm nào về tinh thần - mà một ý niệm như vậy là không thể có được.
§136 Cho nên đây không phải là sự khiếm khuyết trong ta. §137 Cho nên ta chớ nên nghĩ mình không biết gì về bản tính của các tinh thần, chỉ vì ta không có ý niệm về chúng.
§138 Một ý niệm không thể tương tự với một tinh thần. §139 Đây không phải là một vấn đề chữ nghĩa đơn thuần. §140 Nhưng theo nghĩa rộng, ta có một ý niệm về tinh thần, vì ta hiểu nghĩa của từ này.
§141 Linh hồn là bất khả phân, không hình thù, không quảng tính, và vì thế đương nhiên là bất tử.
§142 Thuyết phi vật chất giúp ta tránh những sai lầm nguy hiểm về linh hồn và tác vụ của linh hồn.
§143 Những lầm này nảy sinh phần nào là do giả định rằng ta có thể tạo ra những ý niệm trừu tượng về linh hồn và những tác vụ của nó, khi mà trên thực tế ta không thể có bất cứ ý niệm nào về nó cả.
§144 Những sai lầm cũng nảy sinh từ việc mô tả tinh thần bằng những lời lẽ thích hợp với các sự vật khả giác hơn.
§145 Tôi biết về sự tồn tại của các tinh thần khác nhờ những ý niệm mà chúng gây ra trong tôi.
§146 Hầu hết những ý niệm mà tôi tri giác có thể gán cho
https://thuviensach.vn
một tinh thần vĩnh hằng, vô cùng hiền minh, tốt lành và hoàn hảo, tức Thượng Đế.
§147 Nhận biết Thượng Đế một cách chắc chắn như nhận biết bất cứ linh hồn nào không phải ta.
§148 Ta nhìn thấy Thượng Đế như nhìn thấy một con người. §149 Thượng Đế hiện diện thân tình trước tâm trí ta. §150 Thượng Đế là nguyên nhân của những sự biến tự nhiên, như Kinh Thánh đã dạy.
§151 Quả đúng là các sự biến tự nhiên diễn ra theo thời, có những sự vật không đáng mong muốn trong thế giới này, và có sự phung phí. Nhưng những điều này là do ý muốn của Thượng Đế để giới hạn mình vào những quy tắc tổng quát và đơn giản, vì chúng ta, những lợi ích của chúng lớn hơn nhiều so với những bất lợi.
§152 Một số đặc điểm tự nhiên có vẻ như là sai sót và phung phí đối với ta, bởi vì ta xét đoán tự nhiên như thể nó là tạo phẩm của con người chứ không phải là của Thượng Đế.
§153 Sự hiện hữu của hiện tượng đau khổ cần 252 được giải thích theo cách như vậy
§§154-155 Thuyết vô thần chỉ có thể có ở những ai nhắm chặt đôi mắt lại hay không suy tưởng tới nơi tới chốn.
§156 Thuyết phi vật chất dẫn tới một cảm thức sùng kính sự hiện diện của Thượng Đế.
https://thuviensach.vn
MỘT NGHIÊN CỨU VỀ
CÁC NGUYÊN TẮC NHẬN THỨC CỦA CON NGƯỜI
Trong đó nghiên cứu về những nguyên nhân chủ yếu gây ra sự sai lầm và khó khăn trong các môn khoa học, cùng với những cơ sở của thuyết Hoài nghi, thuyết Vô thần và phi-tôn giáo
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
Lời nói đầu
Tôi cho rằng, những điều tôi công bố ở đây, sau một thời gian dài nghiên cứu kĩ lưỡng, là hiển nhiên đúng và không vô ích để đáng được biết tới - đặc biệt đối với những ai bị lây nhiễm thuyết Hoài nghi, hoặc những ai cần chứng minh sự hiện hữu và tính phi vật chất của Thượng Đế hay sự bất tử tự nhiên của linh hồn. Liệu những điều tôi nói ra có đúng hay không, xin nhường lại cho sự phán xét vô tư của người đọc; bởi vì bản thân tôi không nghĩ nhiều đến thành công của điều tôi viết ra hơn là nó có phù hợp với chân lí hay không. Nhưng, để mục đích đó không bị tổn hại, tôi đề nghị độc giả tạm ngừng phán đoán của mình cho đến khi ít nhất một lần đọc hết toàn bộ cuốn sách với mức độ chú ý và suy tư mà chủ đề của cuốn sách này xứng đáng được nhận, vì, khi có một vài đoạn mà, tách rời nhau ra, rất có thể (và không thể tránh khỏi) bị giải thích sai hoàn toàn, và chứa đựng những hệ luận vô lí nhất, trong khi nếu được đọc kĩ lưỡng toàn bộ, ắt sẽ không ai rút ra những hệ luận như thế cho nên, cũng tương tự, tôi e rằng quan niệm của tôi sẽ bị hiểu sai nếu toàn bộ quyển sách, tuy được đọc, nhưng lại được đọc vội vàng và hời hợt. Song, đối với một độc giả có suy tư, tôi tự tin rằng nó sẽ hoàn toàn rõ ràng và sáng tỏ về những nét mới mẻ và độc đáo mà một số ý niệm sau đây có thể chứa đựng, tôi hi vọng không phải đưa ra bất kì lời biện minh nào vì nó. Chắc hẳn chỉ những kẻ hoặc là quá non yếu, hoặc hiểu biết rất ít về khoa học mới phản đối một chân lí vốn có đủ sức chứng minh một cách chặt chẽ, không vì lí do nào khác ngoài việc nó mới được khám phá và trái với những thành kiến của con người. Đó là những gì tôi muốn nói ngay từ đầu, nhằm ngăn ngừa, nếu có thể được, sự chỉ trích vội vàng của một loại người luôn sẵn sàng chà đạp một ý kiến trước khi hiểu đúng về nó.
Từ ấn bản năm 1734, “Lời nói đầu” này bị bỏ.
https://thuviensach.vn
Dẫn nhập
§1
Vì lẽ triết học không gì khác hơn là nỗ lực vươn tới sự khôn ngoan và chân lí, nên thật có lí khi chờ đợi rằng những ai đã dành nhiều thời gian và công sức cho nó sẽ được vui hưởng một sự êm đềm và thư thái tuyệt vời trong tinh thần, sự sáng tỏ và sự xác tín về tri thức, và không cảm thấy bối rối vì ngờ vực và nan giải như những người khác. Mặc dù thế, chúng ta thấy đám đông những người dốt đặc vẫn cứ đi theo đại lộ của cảm nghĩ thông thường đơn giản (plain common sense), và tuân theo những mệnh lệnh của Tự nhiên, vì đa phần là dễ dãi và không gây bối rối. Đối với họ, những gì quen thuộc đều có thể giải thích được và hiểu được. Họ không phàn nàn vì sự thiếu tin cậy trong giác quan của họ, và họ không có nguy cơ trở thành những nhà hoài nghi. Nhưng bao lâu chúng ta rời bỏ giác quan và bản năng để đi theo ánh sáng của một nguyên tắc cao hơn để suy luận, trầm tư và nghĩ ngợi về bản chất của mọi sự, thì bao nhiêu sự lưỡng lự lại nổi lên trong tinh thần chúng ta liên quan đến những điều mà trước đây dường như chúng ta đã lĩnh hội đầy đủ. Những thành kiến và sai lầm của giác quan từ khắp nơi xuất hiện trước cái nhìn của chúng ta; và khi ta nỗ lực sửa sai những điều này bằng lí trí, chúng ta vô tình bị cuốn vào những nghịch biện kì cục, những nan giải và mâu thuẫn, chúng sẽ gia tăng và tác động lên chúng ta khi chúng ta có tiến bộ trong suy xét, rồi sau một thời gian dài lang thang qua những mê cung phức tạp, chúng ta thấy mình đang quay trở lại điểm xuất phát, hay tệ hại hơn, bị nhấn chìm trong thuyết hoài nghi tuyệt vọng.
§2
https://thuviensach.vn
Nguyên nhân của tình trạng này được cho là do sự tối tăm của sự vật hay do sự yếu kém và bất toàn tự nhiên của giác tính chúng ta. Người ta nói rằng những quan năng chúng ta có là rất ít, và những quan năng đó được Tự nhiên thiết định để nâng đỡ và cải thiện cuộc sống, chứ không phải để khám phá bản chất nội tại và cấu trúc của sự vật.9 Ngoài ra trí tuệ của con người là hữu hạn, nên khi nó xử lí những sự vật có tính vô hạn, thì không có gì ngạc nhiên nếu nó rơi vào những chỗ phi lí và mâu thuẫn10; nó không thể tự thoát khỏi những chỗ đó được. | Điều gì thuộc về bản tính của cái vô hạn thì không thể được lĩnh hội bằng cái gì hữu hạn.
§3
Nhưng có lẽ, chúng ta quá thiên vị với chính mình khi cho rằng tội lỗi vốn nằm trong các quan năng của chúng ta, mà không ở chỗ chúng ta sử dụng chúng một cách sai lầm. Quả là khó tin khi cho rằng những diễn dịch đúng đắn từ những nguyên tắc chân thực lại sẽ kết thúc bằng những hệ luận không thể chấp nhận được hay không giữ được sự nhất quán. Chúng ta chớ nên nghĩ rằng Thượng Đế đã quá hẹp lượng với con cái của loài người khi ban cho họ một sự khao khát mạnh mẽ đối với tri thức mà lại đặt tri thức hoàn toàn nằm ngoài tầm tay họ. Điều này không phù hợp với những phương pháp bao dung thường thấy nơi Đấng Quan phòng, đấng đáp ứng cho các tạo vật những phương tiện để họ thỏa mãn bất cứ khao khát thèm muốn nào của mình, miễn là họ sử dụng các phương tiện ấy đúng cách. Nói chung, tôi có xu hướng nghĩ rằng phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, những khó khăn mà cho tới nay vẫn còn làm các triết gia mất biết bao thì giờ và phong tỏa con đường đến tri thức, hoàn toàn xuất phát từ chính chúng ta - rằng đầu tiên chúng ta gây ra một đám bụi mù, rồi sau đó phàn nàn rằng mình không thể nhìn thấy gì hết.
https://thuviensach.vn
§4
Do đó, mục đích của tôi là cố gắng, nếu có thể, phát hiện xem đâu là những nguyên tắc đã đưa toàn bộ sự nghi ngờ, sự không chắc chắn, những sự phi lí và những mâu thuẫn ấy vào trong một vài trường phái triết học; đến mức những người thông thái nhất cũng đã tưởng rằng sự ngu dốt của chúng ta là vô phương cứu chữa, và cho rằng tình trạng ấy xuất phát từ sự trì độn tự nhiên và những giới hạn của các quan năng của chúng ta. Và tất nhiên, tiến hành một cuộc khảo cứu chặt chẽ các nguyên tắc đầu tiên của nhận thức của con người, khảo sát tất cả các mặt của chúng, - nhất là khi có những căn cứ nào đó để nghi ngờ rằng những rào cản và những khó khăn làm trì hoãn và gây trở ngại cho trí tuệ trong việc đi tìm chân lí không bắt nguồn từ sự tối tăm hay bản tính phức tạp (intricacy) nơi các đối tượng, hay từ những nhược điểm tự nhiên nơi giác tính, mà chỉ bắt nguồn từ những nguyên tắc sai lầm mà người ta đang bám víu, những nguyên tắc mà lẽ ra họ có thể tránh được -, là một công việc rất đáng làm.
§5
Dù nỗ lực này có gặp khó khăn gì và có dễ nản lòng đến mấy chăng nữa, nhưng khi xét thấy biết bao nhiêu người vĩ đại và phi thường đã đi trước tôi trong chính những ý định ấy, tôi thấy mình còn hi vọng. | Tôi tự nhủ rằng những cái nhìn xa rộng nhất không phải lúc nào cũng rõ ràng nhất, và rằng những ai bị cận thị thì buộc phải kéo đối tượng về gần hơn, và biết đâu, bằng cách xem xét gần hơn và chặt chẽ hơn, [họ] có thể nhìn rõ những gì mà những đôi mắt tốt hơn11 không nhận thấy.
§6
https://thuviensach.vn
Để giúp cho trí tuệ của độc giả nắm được vấn đề tiếp theo dễ dàng hơn, tôi cần phải bàn đôi lời, coi như là lời dẫn nhập, về bản chất của ngôn ngữ và những sự lạm dụng nó. Nhưng để làm cho ra ngô ra khoai vấn đề này, tôi xin nói trước ở chừng mực nhất định về ý định của tôi đó là tôi quan tâm đến những gì mà dường như đã góp phần lớn vào việc làm cho sự tư biện (speculation) trở nên phức tạp, rối rắm và gây ra vô số sai lầm và khó khăn trong hầu hết các bộ phận của nhận thức, và đấy là ý kiến cho rằng trí óc có năng lực tạo ra những ý niệm trừu tượng hay những khái niệm về sự vật. Ai là người không hoàn toàn xa lạ với những trứ tác và những cuộc tranh cãí của các triết gia đều phải thừa nhận rằng ở đó vấn đề về các ý niệm trừu tượng chiếm một vị trí quan trọng12. Theo cách đặc biệt hơn, chúng được coi là đối tượng của những môn khoa học được mệnh danh là Logic học và Siêu hình học, và của bất kì môn khoa học nào được cho là trừu tượng và cao siêu nhất. | Chính trong các môn khoa học ấy, rất hiếm khi người ta bắt gặp một vấn đề được xử lí theo cách như vậy, vì không giả định rằng các loại ý niệm ấy tồn tại trong tinh thần và rất quen thuộc với tinh thần.13
§7
Mọi người đều nhất trí rằng các tính chất hay các thể cách của sự vật không bao giờ thực sự tồn tại riêng rẽ và tách rời với những cái khác, mà hầu như hòa lẫn và pha trộn vào nhau trong cùng một sự vật. Nhưng, chúng ta được nghe nói rằng tinh thần có thể xem xét từng tính chất, hay rút tính chất nay ra từ những tính chất khác mà nó có kết hợp, [và] bằng cách ấy, tinh thần tự hình thành nên các ý niệm trừu tượng. Ví dụ, có một vật thể có quảng tính, màu sắc và vận động được tri giác bằng mắt: ý niệm hỗn tạp hay đa hợp này, trong khi tinh thần tháo rời nó ra thành những bộ phận cấu thành đơn giản và xem xét từng bộ phận, loại hết những bộ phận còn lại, thì
https://thuviensach.vn
nó hình thành nên những ý niệm trừu tượng về quảng tính, màu sắc và vận động, vấn đề không phải ở chỗ màu sắc hay vận động có thể tồn tại mà không cần quảng tính; mà vấn đề là ở chỗ tinh thần có thể, bằng cách trừu tượng hóa, tạo cho mình ý niệm về màu sắc không quảng tính, hay về vận động không màu sắc lẫn không quảng tính.
§8
Hơn nữa, vì tinh thần đã quan sát thấy rằng trong các quảng tính cá biệt được tri giác bởi các giác quan có cái gì đó chung và giống với hết thảy [những cái khác], và có những cái gì đó khác có tính chất cá biệt, như hình dạng này khác với hình dạng kia, hay đại lượng này khác với đại lượng kia, nó xem xét một cách riêng rẽ hay chọn ra trong nó cái gì là chung, từ đó tạo ra một ý niệm trừu tượng nhất về quảng tính, đó không phải là đường thẳng, không phải mặt phẳng, cũng không phải vật rắn, không có bất cứ hình dạng nào, cũng không có bất cứ độ lớn nào, mà là một ý niệm hoàn toàn tách biệt với những thứ ấy. Cho nên tương tự, sau khi gạt ra khỏi các màu sắc cá biệt được tri giác bởi giác quan cái phân biệt màu này với màu kia và chỉ giữ lại cái chung cho tất cả [các màu sắc], tinh thần tạo ra một ý niệm về màu sắc trong sự trừu tượng, đó không phải là màu đỏ, không phải màu xanh, không phải màu trắng, cũng không phải bất cứ màu sắc xác định nào khác, và, cũng như vậy, bằng cách xem xét sự vận động không chỉ trong trạng thái tách rời khỏi vật thể mà còn tách rời khỏi dạng vận động, và khỏi mọi chiều hướng hay vận tốc cá biệt, người ta hình thành ý niệm trừu tượng về vận động; và ý niệm ấy cũng tương ứng với mọi vận động cá biệt bất kì nào giác quan có thể tri giác.
§9
https://thuviensach.vn
Và cũng như tinh thần tạo ra cho nó những ý niệm trừu tượng về các tính chất hay thể cách, cũng vậy, và cũng cùng một phương pháp phân tích hay tách biệt về tư tưởng, nó đạt được những ý niệm trừu tượng về các thực thể có kết cấu phức tạp hơn, bao gồm nhiều tính chất khác nhau cùng tồn tại. V1 dụ, khi quan sát thấy Peter, James và John đều có những điểm tương đồng (common agreements) nào đó về hình dáng và những tính chất khác, tinh thần loại ra khỏi ý niệm đa tạp hay phức hợp mà nó có về Peter, James, và bất cứ người nào khác, cái đặc điểm riêng của từng người, chỉ giữ lại cái gì chung cho họ; và vì thế, nó kiến tạo một ý niệm trừu tượng bao quát mọi con người cá biệt, bằng cách gạt bỏ và thoát li hoàn toàn mọi hoàn cảnh và những điểm dị biệt có thể quy định ý niệm ấy cho bất cứ sự hiện hữu cá biệt nào. Và người ta nói bằng cách này chúng ta có thể đạt tới ý niệm trừu tượng về con người, hay, nếu như bạn thích, về nhân loại hay bản tính người. | Đúng là, màu sắc là bộ phận của ý niệm ấy, bởi vì không có một người nào mà lại không có màu sắc, cho dù có thể anh ta không có màu trắng, không có màu đen, cũng như không có bất cứ một màu cụ thể nào khác, vì lẽ không có một màu cụ thể nào chung cho hết thảy mọi người. Cũng giống như vậy, vóc người cũng là bộ phận của ý niệm ấy, nhưng không phải vóc cao, vóc thấp hay vóc trung bình, mà là cái rút ra từ tất cả các vóc người này. Và tất cả những thứ khác cũng giống như vậy. Hơn nữa, vì có biết bao nhiêu vật thụ tạo khác chỉ tham dự vào những bộ phận nào đó của ý niệm phức hợp về con người, chứ không phải toàn bộ, tinh thần gạt bỏ tất cả những bộ phận nào là đặc điểm riêng có ở con người và chỉ giữ lại những gì là chung cho toàn bộ các sinh vật thụ tạo, từ đó hình thành nên ý niệm về động vật, ý niệm này không chỉ được rút ra từ hết thảy những con người cá biệt, mà còn từ tất cả các loài chim, loài thú, loài cá và loài côn trùng. Các bộ phận cấu thành của ý niệm trừu tượng về động vật là: thân thể, sự sống, giác quan và vận động ngẫu phát. Chữ thân thể ở đây
https://thuviensach.vn
có nghĩa là thân thể không hình thù hay hình dáng, vì không có một hình thù hay hình dáng nào chung cho mọi con vật; thân thể không có lông mao hay lông vũ, vảy, v.v., để che; nhưng cũng không có nghĩa là thân thể trần trụi, vì lông mao, lông vũ, vảy, trần trụi là những thuộc tính phân biệt của các con vật cá biệt, và vì lí do ấy, bị loại ra khỏi ý niệm trừu tượng. Theo cách xem xét như vậy, vận động ngẫu phát không phải là đi, không phải bay cũng không phải bò, nhưng đó lại là sự vận động, song vận động ấy là gì thì không dễ gì hình dung được.
§10
Những người khác có năng lực trừu tượng hóa các ý niệm của họ tuyệt vời như vậy hay không, thì chuyện đó chỉ có họ mới biết rõ mà thôi; còn đối với tôi, quả thực tôi nhận thấy mình có một năng lực tưởng tượng hay hình dung cho mình những ý niệm về các sự vật cá biệt mà tôi đã tri giác và kết hợp hay tách rời chúng theo nhiều cách khác nhau. Tôi có thể tưởng tượng ra một người có hai đầu, hay các bộ phận trên của con người gắn với thân của con ngựa. Tôi có thể xem xét tay, mắt, mũi từng bộ phận một, biệt lập với phần còn lại của thân thể. Nhưng rồi cánh tay hay con mắt mà tôi tưởng tượng ấy phải có một hình dạng hay màu sắc cá biệt nào đó. Tương tự, ý niệm về một con người mà tôi tạo ra cho mình hoặc phải là người da trắng, hoặc phải là người da đen, hoặc phải là người da ngăm đen, hoặc là người thẳng lưng hoặc là người còng lưng, hoặc là người vóc cao, hoặc là người vóc thấp hoặc là người vóc trung bình. Tôi không đủ sức hình dung ra, dù có cố gắng đến mấy, ý niệm trừu tượng được mô tả ở trên. Và tôi cũng không thể hình thành nên ý niệm về sự vận động không có cơ thể vận động, tức không thể hình dung sự vận động không nhanh cũng không chậm, không theo đường cong cũng không theo đường thẳng. | Và tôi cũng có thể nói như thế về tất cả những ý niệm phổ biến trừu tượng khác, dù đó là ý
https://thuviensach.vn
niệm gì. Để cho rõ, tôi thừa nhận rằng tôi có thể trừu tượng hóa theo một nghĩa nào đó, như khi tôi xem xét những bộ phận hay những tính chất cá biệt nào đó trong trạng thái biệt lập với những bộ phận hay những tính chất khác, cho dù chúng có thống nhất với những bộ phận hay các tính chất khác ấy trong một đối tượng nào đó, thế nhưng chúng vẫn có thể tồn tại một cách thực sự nếu không có những thứ ấy. Nhưng tôi không thừa nhận rằng tôi có thể tách biệt, hay hình dung một cách biệt lập, những tính chất không thể tồn tại biệt lập nhau như vậy; hay tôi có thể tạo ra một khái niệm phổ biến bằng cách thoát khỏi những cái cá biệt theo cái cách đã được nói trên.14 Và đấy chính là hai nét nghĩa chuẩn xác của chữ trừu tượng hóa. Và có những căn cứ để nghĩ rằng hầu hết mọi người sẽ thừa nhận trường hợp của tôi cũng chính là trường hợp của họ. Phần đông những người bình thường và thất học không bao giờ dám cho rằng mình có những khái niệm trừu tượng (abstract notions). Người ta nói rằng có được những khái niệm ấy là rất khó khăn và để đạt được chúng thì không thể không dày công nghiên cứu học hỏi; và chúng ta có thể kết luận một cách hợp lí rằng nếu quả có những khái niệm như thế thì chúng chỉ là cái dành riêng cho giới học giả mà thôi.
§11
Giờ tôi tiến hành khảo sát những nguyên cớ người ta đưa ra để bảo vệ học thuyết về sự trừu tượng hóa, và thử cố tìm ra điều gì đã khiến cho những người chuyên biện thuyết có xu hướng ôm giữ một ý kiến quá khác xa với cảm nghĩ thông thường (common sens) đến vậy15, có một triết gia quả rất đáng kính, vừa quá cố16; không nghi ngờ gì nữa, đã cật lực ủng hộ cho ý kiến ấy, dường như bằng cách tin rằng đối với giác tính thì sự dị biệt lớn nhất giữa con vật và con người là ở chỗ con người có những ý niệm
https://thuviensach.vn
phổ biến. “Việc sở hữu những ý niệm phổ biến (ông ta nói) là cái tạo ra sự phân biệt hoàn hảo giữa con người và thú vật, và cho thấy tính ưu việt của con người mà các quan năng của thú vật không bao giờ có được, vì rõ rang ta không thấy ở chúng dấu vết của việc dùng những kí hiệu tổng quát để biểu thị những ý niệm phổ quát; do đó, ta có cơ sở để hình dung rằng chúng không có năng lực trừu tượng hóa hay tạo ra những ý niệm phổ biến, vì chúng không sử dụng từ ngữ hay bất cứ kí hiệu tổng quát nào khác.” Và sau đó một chút. “Do đó, tôi nghĩ chúng ta có thể giả định rằng chính ở chỗ này mà các loài thú vật được phân biệt với con người, và đó là điểm dị biệt tách con người khỏi thú vật, và cuối cùng, đó là điểm nới rộng khoảng cách giữa con người và thú vật xa đến vậy. Vì nếu như thú vật có những ý niệm đi nữa, và không phải là những cỗ máy trần trụi (như ai đó đã đòi hỏi) thì chúng ta không thể phủ nhận là chúng có một lí tính [ở mức độ] nào đó. Đối với tôi, trong những trường hợp nào đó, việc một số thú vật có lí tính cũng hiển nhiên không kém gì việc chúng có giác quan vậy, nhưng lí tính ấy chỉ tồn tại trong những ý niệm cá biệt, tùy theo việc chúng thu nhận những ý niệm ấy từ các giác quan của chúng như thế nào. Ngay cả những con vật cao cấp nhất cũng bị cột chặt trong những ranh giới hạn hẹp đó, và theo tôi, chúng không có quan năng để mở rộng những ranh giới ấy bằng bất cứ thứ trừu tượng hóa nào.” (Luận văn về giác tính con người, 0. 2, ch. 11, §§10-11). Tôi sẵn sàng đồng ý với tác giả thông thái này rằng các quan năng của thú vật không thể nào đạt được sự trừu tượng hóa. Nhưng nếu xem đó là tiêu chuẩn để phân biệt với con người, thì tôi e rằng không ít điều thuộc về con người từ nay ắt sẽ được quy cho thú vật. Lí do mà người ta gán ở đây để chứng minh rằng không có căn cứ nào để nghĩ rằng thú vật sở hữu những ý niệm phổ biến trừu tượng, đó là chúng ta thấy chúng không sử dụng từ ngữ nào hay bất cứ kí hiệu tổng quát nào khác; nghĩa là, lí do này dựa trên tiền giả định rằng việc sử dụng từ ngữ bao hàm việc sở
https://thuviensach.vn
hữu những ý niệm phổ biến. Từ đó suy ra rằng con người, kẻ sử dụng ngôn ngữ, có khả năng trừu tượng hóa hay khái quát hóa các ý niệm của mình. Việc tác giả thực sự sử dụng luận cứ ấy càng rõ ràng hơn qua cách ông trả lời câu hỏi do chính ông nêu ra ở một chỗ khác. “Vì tất cả những vật đang tồn tại đều chỉ là những sự vật riêng lẻ, thì làm sao ta có được những tên gọi khái quát?” Câu trả lời của ông là: “Những từ ngữ trở nên khái quát khi chúng được coi là những kí hiệu của những ý niệm phổ biến.” (Luận văn về giác tính con người, 0. 3, ch. 3, §6). Nhưng có vẻ như một từ ngữ nào đó trở nên khái quát khi được coi là kí hiệu, không phải của một ý niệm phổ biến trừu tượng mà là, của nhiều ý niệm cá biệt, được từ ngữ gợi ra trong tinh thần một cách không phân biệt. Ví dụ, khi người ta nói: sự thay đổi của chuyển động tỉ lệ thuận với lực đẩy, hay bất cứ cái gì có quảng tính đều có thể phân chia, những mệnh đề này được hiểu như nói điều gì đó về chuyển động và quảng tính nói chung; và mặc dù vậy không thể suy ra rằng những mệnh đề ấy gợi lên trong tư duy của chúng ta một ý niệm về sự chuyển động mà không có vật chuyển động, hay không có bất kì chiều hướng hay vận tốc nhất định nào, cũng không thể nói rằng tôi phải hình thành một ý niệm phổ biến trừu tượng về quảng tính mà lại không phải đường thẳng lẫn mặt phẳng, cũng không phải vật thể rắn, không lớn không nhỏ, không đen, trắng, hay đỏ, cũng không có bất kì màu sắc nhất định nào khác. Nó chỉ hàm ý rằng bất kì chuyển động cụ thể nào mà tôi xem xét, dù nhanh hay chậm, thẳng đứng, nằm ngang, hay xiên, hay dù ở trong bất kì vật thể nào, thì định đề liên quan đến nó cũng đúng. Mọi quảng tính cụ thể mới nói trên kia cũng vậy, không quan trọng nó là đường thẳng, mặt phẳng, hay vật thể rắn, hay độ lớn hay hình thể này nọ.
§12
https://thuviensach.vn
Bằng cách làm rõ những ý niệm trở nên phổ biến như thế nào, chúng ta có thể đánh giá tốt hơn cách thức những từ ngữ được tạo ra như vậy. Và ở đây cần lưu ý rằng tôi không phủ nhận tuyệt đối có những ý niệm phổ biến, mà chỉ phủ nhận việc có những ý niệm phổ biến trừu tượng. | Vì, trong những đoạn văn chúng ta đã trích dẫn, mỗi khi đề cập đến những ý niệm phổ biến, đều tiền giả định rằng chúng được hình thành bằng sự trừu tượng hóa đúng như cách thức đã được nêu ra trong hai tiểu đoạn §8 và §9 ở trên. Giờ đây, nếu chúng ta muốn nói một cách có ý nghĩa, và chỉ nói về những gì chúng ta có thể quan niệm được, thì, theo ý tôi, ta phải thừa nhận rằng một ý niệm, xét trong bản thân nó, là cái gì cá biệt (particular) nhưng sở dĩ trở nên khái quát hay phổ biến (general) là do nó được sử dụng như là cái đại diện hay thay thế cho tất cả những ý niệm cá biệt khác cùng loại. Để cho dễ hiểu, tôi xin đưa ra một ví dụ: giả sử một nhà hình học đang chứng minh phương pháp cắt một đường thẳng thành hai đoạn bằng nhau. Chẳng hạn, ông ta vẽ một đường thẳng màu đen dài một inch: đường thẳng này, tuy tự thân nó là một đường thẳng cá biệt, nhưng nếu xét về ý nghĩa biểu thị của nó lại có tính khái quát, bởi vì, khi nó được sử dụng ở đây, nó đại diện cho mọi đường thẳng cá biệt bất kì; khiến cho điều gì được chứng minh cho một đường thẳng thì được chứng minh cho mọi đường thẳng, hay, nói cách khác, cho một đường thẳng nói chung. Và, giống như đường thẳng cá biệt trở nên khái quát hay phổ biến vì được biến thành một kí hiệu ấy, cái tên “đường thẳng”, vốn tự mình là cái gì cá biệt, cũng trở nên khái quát do vai trò của nó như là kí hiệu.17 Và giống như đường thẳng có được tính khái quát hay tính phổ biến (generality) của nó không phải ở chỗ nó là kí hiệu của một đường thẳng trừu tượng hay khái quát, mà là kí hiệu biểu thị cho mọi đường thẳng cá biệt có thể tồn tại nói chung, do đó, ta phải suy tưởng rằng chữ “đường thẳng” cũng phải được xem là nhận được tính khái
https://thuviensach.vn
quát của nó từ cùng một nguyên nhân, tức là, chữ ấy biểu thị những đường thẳng cá biệt khác nhau một cách không phân biệt.
§13
Để mang đến cho độc giả một cái nhìn rõ ràng hơn nữa về bản chất của những ý niệm trừu tượng và việc cần thiết phải sử dụng chúng, tôi sẽ trích sau đây một đoạn khác trong Luận văn về giác tính con người-. “Đối với trẻ con hay những trí óc thiếu rèn luyện thì những ý niệm trừu tượng không hiển nhiên hay dễ hiểu như những ý niệm đặc thù. Nếu chúng có vẻ hiển nhiên và dễ hiểu đối với người lớn thì chỉ vì chúng được sử dụng thường xuyên và trở nên quen thuộc. Vì, khi nghĩ kĩ về chúng, ta sẽ thấy rằng những ý niệm trừu tượng là những cái giả tưởng và là những thủ thuật của trí óc, khiến cho việc tạo nên những ý niệm đó có nhiều khó khăn và không dễ dàng như ta thường tưởng tượng, ví dụ, cần không ít công sức và kĩ năng để hình thành ý niệm khái quát về một hình tam giác (dù ý niệm này chưa phải là ý niệm trừu tượng, toàn diện, và khó hiểu nhất); vì hình tam giác không được phép là tam giác lệch lẫn tam giác vuông, không được phép là tam giác đều, tam giác cân, hay tam giác lệch, mà phải đồng thời là tất cả và không phải là hình nào cả trong số các hình này. Trong thực tế, nó là một cái bất toàn không thể hiện hữu, là một ý niệm trong đó một số bộ phận của những ý niệm khác biệt và không tương thích [về những hình tam giác] được nối kết với nhau18. Đúng là trí óc trong tình trạng bất toàn này cần đến những ý niệm như thế, và vội vàng tìm cách có được chúng để tiện lợi trong việc giao thiệp và mở mang kiến thức, vì một cách tự nhiên trí óc có khuynh hướng mạnh mẽ thiên về hai hoạt động này. Nhưng tuy vậy, người ta có lí do để nghi ngờ những ý niệm như thế là những dấu chỉ về sự bất toàn của chúng ta. Chí ít nó cũng đủ cho thấy rằng những ý niệm trừu tượng nhất và khái quát nhất không phải là những ý niệm mà trí óc có thể
https://thuviensach.vn
quen thuộc trước nhất và một cách dễ dàng nhất, cũng không phải là những kiến thức sớm sủa nhất của trí óc con người” (0.4, Ch. 7, §9). Nếu ai đó có khả năng tạo ra trong trí óc mình một ý niệm về một hình tam giác như đã mô tả ở trên, thì thật là vô vọng nếu muốn bác bỏ khả năng ấy của anh ta, và tôi cũng không hề có ý định làm như vậy. Tất cả những gì tôi mong muốn là người đọc hãy tự đoán chắc xem mình có một ý niệm như thế hay không. Và, theo tôi, đây không phải là một việc khó khăn cho bất kì ai muốn thực hiện, có gì dễ dàng hơn cho mỗi người khi chỉ cần tự nhìn ngay vào tư duy của mình để xét xem ta có hay có thể có một ý niệm tương ứng với ý niệm phổ biến về một hình tam giác như đã được trình bày ở đây, tức một tam giác “không phải xiên cũng không phải có góc vuông, không phải tam giác đều, tam giác cân, cũng không phải tam giác lệch, mà là tất cả và không phải là hình nào trong số các hình này cùng một lúc?”.
§14
Từ đầu đến giờ ta đã nói nhiều về những khó khăn gắn liền với các ý niệm trừu tượng, về công sức lẫn kĩ năng cần thiết để hình thành chúng, và mọi người đều nhất trì rằng cần phải nỗ lực lao động trí óc hết mức để giải phóng những suy nghĩ của chúng ta khỏi những đối tượng cá biệt, và nâng chúng lên đến những tư biện cao xa liên quan đến những ý niệm trừu tượng. Từ tất cả những chuyện đó, hệ quả tự nhiên có thể là, một việc khó khăn như việc hình thành những ý niệm trừu tượng tuyệt nhiên không phải là tiền đề cần thiết cho việc truyền thông [bằng ngôn ngữ] (communication), vốn là chuyện dễ dàng và quen thuộc đối với mọi người. Nhưng, chúng ta được [Locke] dạy rằng, sở dĩ những ý niệm trừu tượng có vẻ hiển nhiên và dễ hiểu đối với người trưởng thành chỉ vì chúng được sử dụng thường xuyên và trở nên quen thuộc. Thế thì, tôi lại rất muốn biết từ lúc nào con người bắt đầu tính chuyện vượt qua khó khăn đó, và tự tìm cho
https://thuviensach.vn
mình những sự giúp đỡ cần thiết ấy để trao đổi tư tưởng (discourse). Chắc chắn không phải là khi họ đã trưởng thành, vì lúc bấy giờ dường như họ không hề có ý thức về một nỗ lực như thế; vậy, đó phải là thành tựu của thời trẻ thơ của họ. Thế nhưng, một công việc lớn lao và phức tạp để tạo dựng những ý niệm trừu tượng ắt hẳn là một công việc quá sức đối với tuổi thơ ngây đó. Liệu ta có thực sự tin rằng hai đứa trẻ con không thể nói bi bô về những miếng mứt mận, đồ chơi linh tinh và các thứ trang sức rẻ tiền của chúng, cho đến khi lần đầu tiên chúng liên kết vô số những điều không tương hợp, và nhờ đó tạo ra trong trí óc của chúng những ý niệm phổ biến, trừu tượng, rồi mới đem gắn những ý niệm này vào cho mọi tên gọi chung19 đang được chúng sử dụng?
§15
Tôi lại không hề cho rằng những ý niệm ấy là cần thiết hơn cho việc mở rộng kiến thức cho bằng để truyền thông [hay để trao đổi tư tưởng]. Tôi biết người ta thường nhấn mạnh rằng mọi kiến thức và sự chứng minh đều liên quan tới những khái niệm phổ quát, và tôi hoàn toàn nhất trí với điều đó. | Nhưng tôi không cho rằng những khái niệm đó được hình thành bằng sự trừu tượng hóa theo cách thức như đã trình bày - Tính phổ quát theo như tôi hiểu, không ở trong bản tính tuyệt đối, tích cực hay trong quan niệm hay quy định tư duy của một cái gì đấy, trái lại nằm trong mối quan hệ mà nó có với những cái cá biệt được nó biểu thị hay đại diện; chính nhờ đó mà các sự vật, các tên gọi, hay các ý niệm, vốn là cá biệt theo bản tính, được làm cho trở thành phổ quát. Do đó, khi tôi chứng minh bất kì mệnh đề nào về các hình tam giác thì đều tiền-giả định rằng tôi dự kiến ý niệm phổ quát về một hình tam giác; điều đó không có nghĩa là tôi có thể tạo ra một ý niệm về một hình tam giác không phải tam giác đều, không phải tam giác lệch, cũng không phải tam giác cân; nhưng chỉ có nghĩa là cái hình tam
https://thuviensach.vn
giác cá biệt mà tôi đang xem xét đó, bất kể thuộc về loại nào, cũng thay thế và đại diện cho các hình tam giác thẳng bất kì, và nó có tính phổ quát là trong ý nghĩa đó. Mọi chuyện có vẻ như rất đơn giản và không có chút khó khăn nào.
§16
Nhưng giờ đây người ta sẽ hỏi, làm sao ta biết một mệnh đề là đúng cho mọi hình tam giác cá biệt, nếu trước đó ta không thấy nó đã được chứng minh cho ý niệm trừu tượng về một hình tam giác phù hợp với mọi hình tam giác cá biệt? Vì, tuy một đặc tính có thể được chứng minh là phù hợp với một hình tam giác cá biệt nào đó, sẽ không vì vậy mà suy ra rằng nó cũng thuộc về bất kì hình tam giác nào khác, vốn không giống với nó về mọi phương diện, ví dụ, sau khi đã chứng minh rằng ba góc của một hình tam giác vuông cân là bằng hai góc vuông, tôi không thể từ đó mà kết luận rằng tính chất này áp dụng cho mọi hình tam giác khác không có một góc vuông và không có hai cạnh bằng nhau. Do vậy, dường như để cho mệnh đề này chắc chắn đúng một cách phổ quát, chúng ta hoặc phải đưa ra một chứng minh cá biệt cho mọi hình tam giác cá biệt, [nhưng] điều đó là không thể làm được, hoặc là, một lần cho tất cả, chứng minh được nó là ý niệm trừu tượng của một hình tam giác, trong đó mọi hình tam giác đều tham gia một cách không phân biệt và qua đó chúng đều cùng được đại diện. Tôi xin đáp lại rằng, mặc dù ý niệm mà tôi nhắm tới trong khi chứng minh, chẳng hạn là ý niệm về một hình tam giác vuông cân mà các cạnh của nó có độ dài nhất định, tôi vẫn có thể chắc chắn ý niệm đó có giá trị cho tất cả hình tam giác thẳng khác, bất kể chúng thuộc loại nào hay lớn tới đâu. Và sở dĩ như vậy là vì tính vuông góc, tính bằng cạnh lẫn độ dài nhất định của các cạnh đều không có vai trò quan trọng nào ở trong luận cứ chứng minh. Đúng là biểu đồ trước mắt tôi bao gồm tất cả những chi tiết cá biệt này,
https://thuviensach.vn
nhưng trong chứng minh về mệnh đề, chúng không hề được tham chiếu. Không ai nói sở dĩ ba góc bằng hai góc vuông, bởi vì một trong ba góc là góc vuông, hay bởi vì các cạnh chứa góc vuông đó có cùng độ dài. Điều đó đủ cho thấy rằng góc vuông đó có thể là góc xiên, và các cạnh có thể không đều nhau, nhưng luận cứ chứng minh vẫn có giá trị. và chính vì lí do này mà tôi kết luận rằng điều tôi đã chứng minh cho một hình tam giác vuông cân cá biệt thì cũng đúng với bất kì tam giác có góc xiên hay góc lệch nào khác, chứ không phải vì tôi chứng minh mệnh đề về ý niệm trừu tượng của một hình tam giác.20 Và ở đây cần phải thừa nhận rằng một hình vẽ có thể được xem xét đơn thuần chỉ như là hình tam giác mà không cần chú ý đến những tính chất cá biệt của các góc, hay tương quan của các cạnh. Trong chừng mực đó, người ta có thể trừu tượng hóa. Nhưng việc làm này không hề chứng tỏ rằng ta có thể tạo ra một ý niệm trừu tượng, khái quát và không nhất quán [trong các chi tiết] về một hình tam giác, cùng một cách thức như thế, tức không xét đến tất cả những gì đã được tri giác, ta có thể xem xét Peter đơn thuần như là “con người” hay đơn thuần như là “sinh vật” mà không [cần] tạo ra ý niệm trừu tượng được đề ra từ trước đó về một con người hay về một sinh vật.
§17
Thật là một việc làm vô tận và vô bổ khi cứ lần theo các nhà triết học kinh viện (Schoolmen)21, những bậc thầy về trừu tượng hóa, qua khắp các mê cung đa dạng không có đường ra của những lầm lẫn và tranh cãi mà học thuyết về các bản tính và các ý niệm trừu tượng của họ đã dẫn dụ họ vào. Việc cãi cọ và tranh luận, đám bụi thông thái bao phủ lên những vấn đề đó, và lợi ích to lớn từ đó đem lại cho con người, là những chuyện mà ngày nay đã được nhận biết quá rõ ràng không cần nhắc lại nữa. Và thật may, khi những tác dụng xấu của học thuyết đó chỉ được giới hạn nơi những người
https://thuviensach.vn
hết lòng tán thành nó. Nếu ta nghĩ tới biết bao công sức to lớn, sự siêng năng, và tài trí trong nhiều năm tháng được dành cho việc nuôi dưỡng và phát triển của các khoa học, thế mà một phần rất lớn các khoa học vẫn còn đầy tối tăm và bất xác với những cuộc tranh luận tưởng chừng không bao giờ kết thúc, rồi ngay cả những ngành khoa học được tiếng là xây dựng trên những chứng minh rõ ràng và thuyết phục nhất cũng chứa đựng những nghịch lí hoàn toàn không thể hòa giải đối với những hiểu biết của con người, và rằng, rốt cuộc, chỉ một phần rất nhỏ các khoa học đem lại lợi ích thực sự cho con người, tức những gì nhiều hơn những trò giải trí và tiêu khiển vô hại, thì tôi cho rằng, việc suy ngẫm tất cả những điều ấy dễ đưa người ta đến chỗ chán ngán và hoàn toàn coi thường mọi chuyện nghiên cứu. Phương tiện hiệu quả để chống lại điều ấy là cần có một cái nhìn về các nguyên tắc sai lầm đã chiếm lĩnh thế giới, và trong số các nguyên tắc sai lầm ấy, theo tôi, không có nguyên tắc nào đã gây ảnh hưởng sâu đậm lên tư duy khoa học bằng học thuyết về những ý niệm phổ biến, trừu tượng.
§18
Bây giờ tôi sẽ xem xét nguồn gốc của quan niệm thống trị này mà theo tôi nghĩ đó là do ngôn ngữ. Và chắc chắn không có gì ít rộng lớn hơn chính bản thân lí trí [tức: ngôn ngữ] mà có thể là nguồn gốc gây nên một quan niệm được chấp nhận một cách rộng rãi đến như thế. Cũng như từ những lí do khác, sự thực ấy cũng thể hiện từ sự thú nhận rõ ràng của những người biện hộ tài giỏi nhất cho những ý niệm trừu tượng, khi thừa nhận rằng những ý niệm đó được tạo ra là để gọi tên; từ đó có một hệ luận rõ ràng là nếu giả sử không có những cái như ngôn ngữ hay những kí hiệu phổ quát thì đã không bao giờ có bất kì tư duy trừu tượng nào. Xin xem Quyển 3, chương 6, §39, và những chỗ khác trong “Luận văn về giác tính con
https://thuviensach.vn
người” [của J. Locke]. Vì thế, chúng ta hãy xem xét cách thức trong đó từ ngữ đã góp phần tạo ra cội rễ của sai lầm đó. Trước hết, người ta cho rằng mỗi tên gọi có, hoặc phải có, một ý nghĩa chính xác và ổn định duy nhất; điều này thường dẫn con người đến chỗ tưởng nhầm rằng có những ý niệm trừu tượng, nhất định tạo nên ý nghĩa trực tiếp đúng thật và duy nhất của mọi tên gọi khái quát; và rằng chính nhờ sự trung giới của những ý niệm trừu tượng này mà một tên gọi khái quát đi đến chỗ biểu thị bất kì sự vật cá biệt nào. Nhưng thực ra không có một cái gì như một ý nghĩa chính xác và xác định gắn liền với bất kì tên gọi khái quát nào, để cho chúng biểu thị không phân biệt một lượng lớn các ý niệm cá biệt. Tất cả các điều ấy là kết luận hiển nhiên từ những gì đã được nói trên đây, và rõ ràng với bất kì ai có một chút suy nghĩ. Luận điểm này sẽ bị phản đối khi cho rằng mỗi tên gọi - qua định nghĩa của nó - bị hạn chế vào một đối tượng nhất định như là ý nghĩa biểu thị của nó. Ví dụ, hình tam giác được định nghĩa là một mặt phẳng được giới hạn bởi ba đường thẳng, qua đó mà tên gọi được giới hạn để biểu thị một ý niệm nhất định và không biểu thị ý niệm nào khác, về điều này tôi xin trả lời rằng, trong định nghĩa đó, người ta không nói mặt phẳng ấy lớn hay nhỏ, đen hay trắng, cũng không nói các cạnh dài hay ngắn, bằng nhau hay không bằng nhau, cũng không nói rõ các cạnh đó hợp với nhau tạo thành những góc gì; nói chung có thể có rất nhiều kiểu hình tam giác, và do đó không có một ý niệm ổn định nào giới hạn sự biểu thị của từ “hình tam giác”. Để giữ cho một tên gọi luôn ở trong cùng một định nghĩa là một chuyện, và làm cho nó đại diện cho cùng một ý niệm ở khắp mọi nơi là một chuyện khác; việc làm trước thì cần thiết, việc làm sau thì vô ích và bất khả thi.
§19
https://thuviensach.vn
Tuy nhiên, để trình bày rõ thêm bằng cách nào từ ngữ lại có thể tạo ra học thuyết về các ý niệm trừu tượng, ta phải lưu ý đến một ý kiến được nhiều người nhất trí theo đó ngôn ngữ không có cứu cánh nào khác ngoài việc truyền đạt các ý niệm của chúng ta, và rằng mọi tên gọi có nghĩa đều đại diện cho một ý niệm. Dựa trên ý kiến này, và do chỗ chắc chắn rằng các tên gọi - mà không ai nghĩ tới việc loại bỏ hết ý nghĩa của chúng - không phải lúc nào cũng biểu thị các ý niệm cá biệt, cụ thể, nên người ta tưởng có thể kết luận ngay rằng chúng đại diện cho những ý niệm trừu tượng. Việc có nhiều tên gọi được giới khoa học sử dụng không phải lúc nào cũng gợi lên những ý niệm đặc thù, xác định, hay trong thực tế chẳng gợi lên cái gì cả, là điều không ai có thể phủ nhận, và chỉ cần một chút lưu ý là có thể thấy rằng không nhất thiết (ngay cả trong những suy luận nghiêm ngặt nhất) mỗi lần được sử dụng, các tên gọi có nghĩa đại diện cho các ý niệm đều gợi lên trong đầu óc các ý niệm mà chúng phải đại diện. Trong việc đọc và nói phần lớn các tên gọi được sử dụng như những mẫu tự trong đại số học, ở đó, mặc dù mỗi đại lượng đặc thù được biểu thị bằng một mẫu tự, nhưng để tiếp tục tính toán đúng, không nhất thiết trong mỗi bước tính toán, mỗi mẫu tự lại gợi lên trong tư duy của bạn đại lượng đặc thù mà nó được giao nhiệm vụ đại diện.
§20
Ngoài ra, việc truyền đạt ý niệm bằng từ ngữ không phải là mục đích chủ yếu và duy nhất của ngôn ngữ như nhiều người nghĩ, có những mục đích khác, như làm dậy lên niềm đam mê, kích thích hay ngăn cản hành động, gây nên một trạng thái tâm lí nào đó - đối với những mục đích này thì trong nhiều trường hợp, mục đích truyền đạt ý niệm chỉ là thứ yếu, và đôi khi hoàn toàn không có vai trò gì, khi những mục đích này có thể đạt được mà không cần nó, tôi nghĩ việc này không hiếm khi xảy ra trong cách
https://thuviensach.vn
dùng ngôn ngữ quen thuộc. Tôi đề nghị bạn đọc tự ngẫm nghĩ xem phải chăng trong lúc nghe hay đọc một bài văn lại không thường xảy ra hiện tượng là: những tình cảm mãnh liệt như sợ hãi, yêu thương, thù hận, ngưỡng mộ, khinh bỉ, v.v., lập tức trỗi dậy trong lòng mình nhờ nhìn thấy một vài từ nào đó mà không có bất kì ý niệm nào xen vào giữa. Thật vậy, trước hết từ ngữ có thể đã gây ra những ý niệm thích hợp cho việc sản sinh những tình cảm nói trên; nhưng, nếu tôi không lầm, người ta sẽ nhận thấy rằng, một khi ngôn ngữ đã trở nên quen thuộc, thì việc nghe âm thanh hay nhìn thấy các kí tự thường lập tức xuất hiện với những tình cảm vốn đã quen được sản sinh nhờ sự có mặt của những ý niệm mà bây giờ hoàn toàn không cần đến. Ví dụ, lời hứa về một điều tốt đẹp há không gây nên nơi ta một cảm xúc dễ chịu cho dù ta không biết điều tốt đó là gì? Hoặc một lời đe dọa liệu không đủ khiến ta sợ hãi, cho dù ta không nghĩ tới bất kì điều ác cụ thể nào chắc chắn sẽ xảy đến với ta, và trong trí ta cũng chưa hình thành một ý niệm nguy hiểm trừu tượng nào? Nếu có người nào chịu suy nghĩ một chút về điều vừa nói, thì tôi tin một điều hiển nhiên sẽ xuất hiện trong trí anh ta: những tên gọi khái quát thường được sử dụng một cách thích hợp trong khuôn khổ của ngôn ngữ nhưng người nói không có ý định dùng chúng để chỉ những ý niệm của riêng mình, nhằm qua đó lại làm dây lên những điều tương tự trong tâm trí người nghe. Ngay bản thân những tên riêng cũng dường như không phải lúc nào cũng được nói ra với ý định đem vào trí óc chúng ta những ý niệm về những cá nhân được tên riêng đó đại diện. Ví dụ, khi một nhà kinh viện nói với tôi Aristoteles đã dạy như thế thì theo tôi, ông ta chỉ muốn chấp nhận ý kiến của ông ta với sự kính trọng và khuất phục mà truyền thống đã gắn cho tên gọi đó. Và tác động này xảy ra trong trí óc những người đã quen rút lại những phán xét của mình trước thế giá của triết gia đó một cách tức thì mà trước đó đã không thể có bất kì một ý niệm [trừu tượng] nào về con người, tác phẩm hay tiếng tăm của
https://thuviensach.vn
Aristoteles cả. Có thể dẫn ra vô số ví dụ kiểu này, thế thì tại sao tôi lại phải cứ nhấn mạnh vào những điều mà kinh nghiệm của từng người, không nghi ngờ gì, vốn đã quá quen thuộc?
§21
Tôi nghĩ rằng chúng tôi đã cho thấy sự bất khả của những ý niệm trừu tượng, chúng tôi đã thẩm tra những gì mà các nhà biện hộ tài tình nhất đã nói để bênh vực những ý niệm trừu tượng; chúng tôi đã nỗ lực chứng minh rằng chúng là vô dụng khi tường rằng có thể là phương tiện cho những mục đích của họ. Và sau cùng, chúng tôi lần đến ngọn nguồn của những ý niệm trừu tượng, và rõ ràng ngọn nguồn dường như chính là ngôn ngữ. Không thể phủ nhận rằng từ ngữ có công dụng tuyệt vời, ở chỗ nhờ nó mà kho tàng kiến thức do sự chung sức của những người ham hiểu biết qua các thời đại và các dân tộc có thể được phô bày và trở thành sở hữu của một cá nhân riêng lẻ. Nhưng đồng thời cũng phải thừa nhận rằng phần lớn kiến thức đã trở nên rắc rối và tối tăm vì sự lạm dụng từ ngữ, và vì những hình thức diễn đạt khái quát được lưu truyền cho chúng ta. Vì rằng từ ngữ có khuynh hướng áp đặt lên sự hiểu biết như vậy, nên tôi sẽ phải nỗ lực đưa toàn bộ những ý niệm được tôi xem xét vào trong tầm nhìn của tôi một cách trần trụi và không thêm bớt gì, và trong khả năng cho phép, giữ những tên gọi - vốn được sử dụng lâu dài và thường hoàn toàn gắn kết với từ ngữ - nằm bên ngoài tư duy của tôi càng xa càng tốt; từ đó tôi mới có thể hi vọng rút ra được những lợi điểm sau đây:
§22
Thứ nhất, chắc chắn tôi sẽ tránh mọi sự tranh cãi chữ nghĩa thuần túy - nó là cỏ dại trong hầu hết mọi khoa học làm cản trở sự tiến bộ của nhận thức xác thực và vững chắc. Thứ hai, dường như đây là phương cách chắc
https://thuviensach.vn
chắn để tôi thoát ra khỏi cái cạm bẫy đẹp đẽ và tinh vi của những ý niệm trừu tượng vốn đã làm phức tạp và rắc rối đến cùng cực đầu óc con người; cái cạm bẫy có đặc điểm khác thường là đầu óc càng nhạy bén và ham hiểu biết bao nhiêu lại càng dễ bị lôi cuốn và mắc bẫy bấy nhiêu. Thứ ba, nếu tôi tự hạn chế những suy tư của tôi trong những ý niệm đã bị tước bỏ từ ngữ của riêng tôi, tôi sẽ không dễ dàng mắc sai lầm. Những đối tượng mà tôi suy xét, tôi biết một cách rõ ràng và đầy đủ. Tôi không thể bị đánh lừa với ý nghĩ rằng tôi có một ý niệm mà tôi không hề có. Tôi không thể tưởng tượng rằng bất kì ý niệm nào của riêng tôi là giống nhau hay khác nhau nếu chúng không thực sự như vậy. Để đoán sự nhất trí hay không nhất trí giữa những ý niệm của tôi, để thấy những ý niệm nào được chứa đựng hay không được chứa đựng trong một ý niệm phức hợp nào đó, không có gì cần thiết hơn là một sự tri giác chăm chú vào những gì đang diễn ra trong giác tính của mình.
§23
Nhưng việc thu được tất cả những lợi ích này cũng tiền giả định một sự giải thoát hoàn toàn khỏi sự lừa dối của từ ngữ, điều mà tôi không hề dám chắc; vì thật là một việc khó khăn khi muốn đánh tan một sự cố kết đã có từ rất sớm và được củng cố bằng một thói quen lâu đời như sự cố kết giữa từ ngữ và ý niệm. Sự nan giải này dường như còn tăng lên rất nhiều do học thuyết về sự trừu tượng [hóa]. Bởi lẽ, chừng nào con người còn cho rằng những ý niệm trừu tượng được gắn kết với từ ngữ của chúng, thì chẳng có gì lạ khi họ sử dụng từ ngữ thay cho ý niệm - họ cho rằng không thể nào gạt từ ngữ sang một bên và chỉ giữ lại ý niệm trừu tượng - vốn là cái tự thân hoàn toàn không thể quan niệm được - ở trong trí óc. Theo tôi, lí do chính là vì những người mạnh dạn đề nghị người khác bỏ qua một bên mọi việc sử dụng từ ngữ trong khi suy tưởng và chỉ suy ngẫm những ý niệm trần trụi
https://thuviensach.vn
của chúng thôi đã không tự mình làm được điều đó. Gần đây nhiều người đã hiểu rất rõ những ý kiến ngớ ngẩn và những cuộc tranh cãi vô nghĩa xuất phát từ sự lạm dụng từ ngữ. Và để tránh những điều tệ hại này, họ khuyên chúng ta chỉ quan tâm đến những ý niệm được biểu đạt, và đừng chú ý gì đến những từ ngữ biểu đạt chúng. Nhưng, dù lời khuyên mà họ dành cho người khác này có tốt mấy đi nữa, thì rõ ràng bản thân họ cũng không thể làm được một cách đúng đắn, chừng nào họ còn nghĩ rằng từ ngữ chỉ trực tiếp phục vụ cho việc biểu đạt những ý niệm, và rằng ý nghĩa trực tiếp của mọi tên gọi chung là một ý niệm trừu tượng nhất định [được xác định một cách chính xác].
§24
Tuy nhiên, bao lâu các quan điểm này được nhận ra là sai lầm, thì ta dễ dàng hơn trong việc đề phòng sự lừa mị của từ ngữ. Người nào biết rằng mình không có ý niệm nào khác ngoài những ý niệm cá biệt sẽ không bối rối vô vọng trong việc tìm kiếm và thấu hiểu ý niệm trừu tượng gắn với một tên gọi nào đó. Và người nào biết rằng các tên gọi không phải lúc nào cũng đại diện cho các ý niệm sẽ không nhọc công tìm kiếm các ý niệm ở nơi không hề có chúng. Do đó, mong sao mọi người sẽ nỗ lực tối đa để có được một cái nhìn rõ ràng về những ý niệm mà mình nghĩ tới, bằng cách loại bỏ khỏi chúng mọi thứ y phục và gánh nặng của từ ngữ từng làm mù lòa sự phán đoán và phân tán sự chú ý. Chúng ta đã vô vọng mở rộng cái nhìn của chúng ta đến tận các bầu trời và đào sâu vào tận lòng đất, chúng ta đã vô vọng cầu cứu đến những trước tác của các học giả và lần theo những dấu chân mờ mịt của người xưa - bây giờ chúng ta chỉ cần vén tấm màn từ ngữ lên, để ôm lấy cái cây tri thức tuyệt vời nhất với hoa thơm trái ngọt và vừa tầm với của chúng ta.
https://thuviensach.vn
§25
Nếu chúng ta không quan tâm loại bỏ trở ngại và sự lừa dối của những từ ngữ ra khỏi những đệ nhất nguyên nhân của nhận thức, ta sẽ suy luận bất tận về chúng mà chẳng được kết quả gì; ta có thể rút ra những kết luận này từ những kết luận khác mà chẳng khôn ngoan hơn được chút nào. Càng đi xa bao nhiêu, ta càng lạc hướng bấy nhiêu và càng vướng sâu hơn vào các khó khăn và sai lầm. Vì thế, đối với những ai đọc những trang sách sau đây, tôi mong họ xem những lời của tôi như cơ hội để tự mình suy nghĩ và, trong khi đọc, cố đạt được cùng một dòng ý nghĩa giống như tôi khi viết ra chúng. Như thế, người đọc ắt sẽ dễ dàng nhận ra chỗ đúng hay chỗ sai của những lời tôi nói. Họ sẽ thoát khỏi nguy cơ bị những từ ngữ của tôi lừa dối, và tôi không biết họ làm sao có thể phạm sai lầm được nếu họ hãy cứ xem xét những ý niệm trần trụi, không bị ngụy trang của chính mình.
https://thuviensach.vn
Phần 1
§1
Bất cứ người nào có cái nhìn tổng quan về các đối tượng của nhận thức con người đều hiển nhiên thấy rằng, hoặc đó là những ý niệm đã thực sự in hằn trên các giác quan, hoặc đó là những ý niệm được ghi nhận khi lưu ý đến những xúc cảm của tâm thức và những hoạt động của tinh thần, và sau cùng, những ý niệm hình thành nhờ kí ức và trí tưởng tượng qua việc kết hợp, tách rời hay chỉ đơn thuần lặp lại những gì đã được tri giác thoạt đầu bằng một trong hai phương cách nói trên. Bằng thị giác, tôi có những ý niệm về ánh sáng và màu sắc, với những cấp độ và biến thái đa dạng của chúng. Bằng xúc giác tôi cảm nhận được cứng và mềm, nóng và lạnh, chuyển động và đề kháng, tất cả đều ít nhiều liên quan đến lượng hay độ. Khứu giác đem đến cho tôi các mùi; vị giác cho tôi các vị; và thính giác mang mọi sắc độ và kết cấu của các âm thanh vào tâm trí tôi. Và khi người ta quan sát thấy rằng một số các ý niệm ấy thường đi kèm với nhau, chúng nhận được một tên gọi, và nhờ đó mà được nhận thức như một sự vật. Do vậy, ví dụ một màu, một mùi, một vị, một hình dạng và độ cứng nào đó sau khi được quan sát thấy rằng chúng thường xuyên xuất hiện cùng nhau, chúng được tính là một vật riêng biệt, được biểu đạt bằng tên gọi “trái táo’’22. Những tập hợp các ý niệm khác tạo nên hòn đá, cái cây, cuốn sách, và những vật khả giác tương tự - chúng gây khó chịu hay làm dễ chịu và kích hoạt những cảm xúc yêu, ghét, vui vẻ, khổ đau, v.v.
§2
Nhưng, bên cạnh tính đa tạp vô tận của những ý niệm hay đối tượng của nhận thức đó, còn có một cái gì đó nhận biết hay tri giác chúng, và vận
https://thuviensach.vn
dụng những tác động khác nhau, như ý muốn, tưởng tượng, nhớ lại, vẽ chúng, cái thực thể tri giác, năng động này tôi gọi là tâm trí, tinh thần, linh hồn, hay bản ngã. Qua những từ này tôi không biểu thị bất kì một ý niệm nào của tôi cả, trái lại đây là một sự vật hoàn toàn khác với ý niệm, [vì đó] là nơi các ý niệm hiện hữu, hay nói cách khác, nhờ đó chúng được tri giác – vì sự tồn tại của một ý niệm là ở chỗ nó được tri giác.
§3
Mọi người sẽ đồng ý rằng, những tư tưởng, những xúc cảm, những ý niệm hình thành từ trí tưởng tượng không thể nằm ngoài tinh thần, và dường như không kém hiển nhiên là những cảm giác hay những ý niệm khác nhau in hằn trên giác quan, dù pha trộn hay kết hợp với nhau thế nào (nghĩa là, dù chúng tạo nên những đối tượng gì), không thể tồn tại ở đâu khác ngoài ở trong tinh thần tri giác chúng. Tôi nghĩ rằng bất kì ai lưu ý đến ý nghĩa của từ tồn tại (exist), khi áp dụng cho các vật khả giác, đều có thể nhận biết trực quan (intuitive knowledge) điều này. Tôi nói cái bàn tôi ngồi viết tồn tại, tức là, tôi thấy và sờ mó được nó; còn nếu tôi ở bên ngoài phòng làm việc của tôi, thì khẳng định rằng nó tồn tại có nghĩa là nếu tôi ở trong phòng, ắt tôi có thể tri giác nó [cái bàn], hoặc có một tinh thần nào khác đang thực sự tri giác nó. có một mùi thơm, tức là, nó được ai đó ngửi; có một âm thanh, tức là nó được ai đó nghe; có một màu sắc hay một hình dạng, tức là nó được cảm nhận bằng thị giác hay xúc giác. Đây là tất cả những gì tôi có thể hiểu về ý nghĩa của thuật ngữ này và các thuật ngữ tương tự. Còn như nói đến sự tồn tại tuyệt đối của những sự vật vô tư tưởng mà không có liên quan gì tới việc chúng được tri giác, thì hoàn toàn không thể hiểu được, cái esse [tồn tại] của chúng là cái percipi [được tri giác], và tuyệt nhiên không thể nào gán cho chúng bất kì một sự tồn tại nào
https://thuviensach.vn
khác ở bên ngoài những tinh thần (minds) hay những vật thể biết tư duy đang tri giác chúng.
§4
Quả thật có một ý kiến thịnh hành rất kì lạ cho rằng nhà cửa, núi non, sông suối, và tóm lại là mọi đối tượng khả giác, đều có một tồn tại tự nhiên hay thực tồn khác với trạng thái được tri giác của chúng nhờ giác tính. Nhưng, mặc dù ý kiến này được mọi người quả quyết và nhất trí mạnh mẽ ra sao trong thế giới này, thì nếu tôi không lầm, bất cứ ai có dũng cảm nghi ngờ nó, vẫn có thể nhận thấy điều đó bao hàm một sự mâu thuẫn rõ ràng. Vì, những đối tượng kể trên là gì nếu không phải là những sự vật mà ta tri giac bằng giác quan? | Và ta tri giác được những gì ngoài những ý niệm hay cảm giác của riêng ta? | Và chẳng phải là nói ngang ngược lấy được khi cho rằng bất kì một sự vật nào trong số đó, hay bất kì sự kết hợp nào của các sự vật đó, sẽ tồn tại mà không cần được tri giác?
§5
Nếu đi sâu tìm hiểu thật kĩ tín điều đó có lẽ ta sẽ phát hiện thấy nó kì cùng xuất phát từ học thuyết về những ý niệm trừu tượng. Vì còn có chiều hướng trừu tượng hóa nào tinh tế hơn là phân biệt sự tồn tại của những đối tượng khả giác với sự việc được tri giác của chúng, đến nỗi ta có thể cho rằng chúng tồn tại mà không cần được tri giác? Ánh sáng và các màu sắc, nóng và lạnh, quảng tính và các hình dạng, nói tóm lại, những gì ta nhìn thấy và cảm nhận, là cái gì nếu không phải bao nhiêu là cảm giác, quan niệm, ý niệm hay các ấn tượng có trên giác quan? Và ta có thể tách biệt, thậm chí trong tư tưởng, bất cứ cái gì trong số chúng khỏi tri giác được không? Về phần mình, tôi có thể dễ dàng tách một vật khỏi chính nó. Quả thực, tôi có thể tách bạch trong tư tưởng của tôi hay cảm nhận những sự vật
https://thuviensach.vn
một cách tách rời nhau mà có lẽ tôi chưa bao giờ tri giác bằng giác quan bị tách rời như vậy. Vì thế, tôi có thể tưởng tượng một thân người không có tay chân, hay cảm nhận mùi của một đóa hồng mà không nghĩ về bản thân đóa hồng. Trong chừng mực đó, tôi không phủ nhận mình có thể trừu tượng hóa, với điều kiện là ta chỉ có thể nói về sự trừu tượng hóa chỉ trong chừng mực nhận thức những đối tượng như là tách rời nhau ra, tức những đối tượng có thể tồn tại hiện thực một cách tách rời hay mỗi cái có thể được tri giác riêng biệt. Nhưng năng lực cảm nhận hay tưởng tượng của tôi không mở rộng ra khỏi khả thể của tồn tại hay tri giác thực. Như vậy, cũng giống như tôi không thể nhìn thấy hay cảm nhận bất kì cái gì mà không có cảm giác thực sự về cái đó, tôi cũng không thể nào cảm nhận được trong tư tưởng tôi bất kì sự vật khả giác hay đối tượng nào độc lập với cảm giác hay tri giác về nó.
§6
Có một số chân lí gần gũi và hiển nhiên đối với trí tuệ đến mức người ta chỉ cần mở mắt ra là thấy. Trong số đó, một chân lí mà tôi cho là quan trọng, đó là, tất cả những dàn đồng ca trên trời lẫn toàn thể sự vật đa tạp dưới trần gian, nói ngắn, mọi vật thể tạo nên cái cấu trúc vĩ đại của thế giới, đều không có một sự tự tôn nào ở bên ngoài một tinh thần (mind), rằng sự tồn tại của chúng là cái được tri giác hay nhận thức; rằng do vậy, bao lâu chúng không thực sự được tôi tri giác hay không hiện hữu trong đầu óc tôi hay trong đầu óc của một tinh thần (spirit) thụ tạo nào khác, thì chúng phải hoặc không tồn tại ở đâu cả, hoặc tự tồn trong tinh thần của một Hữu thể vĩnh hằng (eternal spirit) nào đó. Nghĩa là, thật hoàn toàn không thể nào hiểu nổi và chứa đựng tất cả sự phi lí của sự trừu tượng hóa nếu gán cho bất kì bộ phận riêng lẻ nào trong chúng một sự hiện hữu độc lập với một tinh thần (spirit). Để xác tín vào điều đó, bạn đọc chỉ cần tự
https://thuviensach.vn
suy nghĩ và hãy thử tách, trong tư tưởng của mình, sự tồn tại của một vật khả giác khỏi trạng thái nó được tri giác.
§7
Từ những gì đã nói ở trên có thể suy ra rằng không có bất cứ bản thể nào khác ngoài tinh thần (spirit), hay ngoài cái [đang] tri giác. Nhưng, để có chứng cứ đầy đủ hơn về điểm này, hãy thấy rằng những tính chất khả giác như màu sắc, hình dạng, vận động, mùi, vị, v.v., không gì khác hơn là những ý niệm được tri giác bằng giác quan, sở dĩ nói rằng một ý niệm hiện hữu trong một vật không tri giác là một mâu thuẫn rõ ràng, vì việc có một ý niệm là đồng nghĩa với việc tri giác; do vậy cái gì mà trong nó màu sắc, hình dạng và các tính chất tương tự hiện hữu thì cái đó phải tri giác chúng; từ đó rõ ràng không thể có một bản thể không-suy tưởng hay một cơ chất của những ý niệm đó.
§8
Nhưng, bạn có thể nói, mặc dù bản thân các ý niệm không hiện hữu ở bên ngoài tinh thần (mind), vẫn có thể có những sự vật giống như những ý niệm đó, mà những cái trước là những bản sao hay những sự vật tương tự và những sự vật này hiện hữu ở bên ngoài tinh thần, tức ở trong một bản thể vô tư tưởng. Tôi xin trả lời, một ý niệm chỉ có thể giống với một ý niệm mà thôi; một màu sắc hay một hình dạng không thể giống với cái gì ngoài một màu sắc hay một hình dạng khác. Chỉ cần nhìn thoáng qua tư tưởng của mình, ta sẽ thấy rằng ta không thể nhận thức được một tính tương tự mà không phải là một tính tương tự giữa các ý niệm của chúng ta. Ngoài ra tôi xin hỏi, những nguyên bản hay những vật ngoại tại được giả định, mà các ý niệm của ta buộc phải là những hình ảnh [bản sao] hay những biểu tượng của chúng, tự chúng có thể được tri giác hay không?
https://thuviensach.vn
Nấu chúng được tri giác, thì chúng là những ý niệm và ta đã đạt được mục đích; nhưng nếu bạn nói chúng không được tri giác, tôi rất muốn được biết có ý nghĩa gì không khi khẳng định rằng một màu sắc thì giống với một cái gì vô hình; cứng hay mềm, giống với một cái gì không thể sờ thấy được; và cứ thế với những cái còn lại.
§9
Có một vài người đưa ra sự phân biệt giữa các tính chất hạng nhất (primary) và các tính chất hạng hai (secondary)23. Theo họ, các tính chất hạng nhất là quảng tính, hình dạng, sự vận động, đứng im, tính rắn hay tính không thể thâm nhập, và con số; còn các tính chất hạng hai là tất cả những tính chất khả giác khác như: màu sắc, âm thanh, mùi vị, và những thứ tương tự. Họ thừa nhận rằng những ý niệm ta có về các tính chất hạng hai này không phải là những bản sao của cái gì hiện hữu ở bên ngoài tinh thần, hay không được tri giác; còn những ý niệm của ta về các tính chất hạng nhất phải là những mô phỏng hay những hình ảnh của những sự vật hiện hữu ở bên ngoài tinh thần, tức trong một bản thể vô tư tưởng mà họ gọi là vật chất. Theo đó, ta hiểu vật chất là một bản thể trơ ì, vô tri, trong đó quảng tính, hình dạng và vận động tự tồn một cách hiện thực. Nhưng từ những gì chúng tôi đã trình bày, thì hiển nhiên là quảng tính, hình dạng và vận động chỉ là những ý niệm hiện hữu ở trong tinh thần, và rằng một ý niệm chỉ có thể giống với một ý niệm, và từ đó không phải bản thân chúng, cũng không phải những nguyên mẫu của chúng có thể hiện hữu ở trong một bản thể không tri giác, vì lí do đó, rõ ràng rằng chính khái niệm về cái gọi là vật chất hay bản thể hữu hình chứa đựng trong nó một sự mâu thuẫn.
§10
https://thuviensach.vn
Những người khẳng định rằng hình dạng, vận động và tất cả những tính chất hạng nhất hay nguyên thủy hiện hữu ở bên ngoài tinh thần, trong những bản thể vô tư tưởng, cũng đồng thời thừa nhận rằng màu sắc, âm thanh, nóng, lạnh và những tính chất hạng hai không hiện hữu giống như vậy. Họ nói với chúng ta rằng chúng là những cảm giác chỉ hiện hữu ở trong tinh thần thôi, chúng tùy thuộc vào và là kết quả tác động của kích thước, kết cấu và vận động khác nhau của những phần tử vật chất nhỏ [ở bên ngoài]. Họ coi điều này như một chân lí không được nghi ngờ, một chân lí mà họ có thể chứng minh vượt qua mọi ngoại lệ. Bây giờ, nếu chắc chắn rằng những tính chất nguyên thủy nối kết không thể tách rời với những tính chất khả giác khác, và ngay cả trong tư duy cũng không thể bị trừu tượng hóa khỏi chúng, thì có thể dễ dàng suy ra rằng chúng chỉ hiện hữu ở trong tinh thần. Nhưng tôi mong muốn ai đó ngẫm nghĩ và thử xem có thể, bằng sự trừu tượng hóa của tư duy, tri giác quảng tính và vận động của một cơ thể mà không có tất cả những tính chất khả giác khác được không, về phần mình, tôi thấy hiển nhiên rằng tôi không có khả năng tạo ra ý niệm về một cơ thể có quảng tính và vận động, mà không đồng thời gán cho cơ thể đó một màu sắc nào đó hay một tính chất khả giác khác vốn được thừa nhận là chỉ hiện hữu ở trong tinh thần. Tóm lại, quảng tính, hình dạng và vận động, bị trừu tượng khỏi mọi tính chất khác, là không thể quan niệm được. Do đó, những tính chất khả giác khác tồn tại ở đâu thì những tính chất hạng nhất cũng phải tồn tại, nghĩa là tồn tại ở trong tinh thần chứ không ở đâu khác.
§11
Ngoài ra, lớn và bé, nhanh và chậm, không được phép tồn tại ở đâu ngoài tinh thần, vì chúng hoàn toàn có tính tương đối và biến đổi khi cấu trúc hay vị trí của các giác quan thay đổi. Do vậy, cái quảng tính hiện hữu
https://thuviensach.vn
bên ngoài tinh thần thì không lớn cũng không bé, sự vận động diễn ra bên ngoài tinh thần thì không nhanh cũng không chậm, tức là, chúng không là cái gì hết. Nhưng, bạn có thể nói, chúng là quảng tính nói chung và vận động nói chung: từ đây chúng ta nhận ra niềm tin cho rằng những bản thể vận động, có quảng tính tồn tại ngoài tinh thần tùy thuộc đến mức nào vào học thuyết lạ lùng về những ý niệm trừu tượng. Và ở đây, tôi không thể không nhận xét rằng sự mô tả mơ hồ và bất định về vật chất hay bản thể hữu hình được các triết gia hiện đại du nhập bằng những nguyên tắc của riêng mình, rất giống với khái niệm cũ kĩ và rất lố bịch về materia prima [vật chất nguyên thủy] mà ta đã gặp ở Aristotles và các đồ đệ. Không có quảng tính thì không thể quan niệm được về tính vững chắc và vì lẽ quảng tính, như chúng tôi đã chứng minh, không tồn tại trong một bản thể vô tư tưởng, nên cũng đúng như thế với tính vững chắc.
§12
Con số hoàn toàn là tạo phẩm của tinh thần, cho dù ta có cho phép những tính chất khác tồn tại ở bên ngoài tinh thần đi nữa, là rất hiển nhiên đối với bất kì ai biết rằng cùng một sự vật có những biểu thị bằng con số khác nhau khi tinh thần xem xét nó từ những giác độ khác nhau. Do vậy, cùng một quảng tính có thể là một, hoặc ba, hoặc ba mươi sáu, tùy theo tinh thần xem xét nó trong tương quan với một yard, một foot, hay một inch24. Con số là tương đối một cách hiển nhiên, và tùy thuộc vào giác tính con người, đến mức sẽ là kì lạ khi nghĩ rằng có ai đó tìm cách ban cho nó một tồn tại tuyệt đối bên ngoài tinh thần. Ta nói về một quyển sách, một trang sách, một dòng chữ, v.v.; tất cả đều là những đơn vị, mặc cho một đơn vị này bao gồm nhiều đơn vị khác, và trong mỗi trường hợp, rõ ràng một đơn vị quan hệ với một sự kết hợp các ý niệm đặc thù (particular combination of ideas) nào đó được tinh thần tạo ra một cách tùy tiện.25
https://thuviensach.vn
§13
Tôi biết rằng một số người26 xem tính đơn vị là một ý niệm đơn giản hoặc không phức hợp, luôn đi kèm theo mọi ý niệm khác ở trong tinh thần chúng ta. Tôi không thấy tôi có bất kì một ý niệm nào như vậy, tương ứng với chữ đơn vị đó; và nếu có, tôi cũng không thể bỏ lỡ không nhận thấy nó; trái lại, ắt nó phải rất quen thuộc với giác tính của tôi, bởi vì ai cũng nói nó đi kèm theo tất cả những ý niệm khác, và được tri giác bởi mọi phương cách cảm giác và suy tư. Không nói dông dài nữa, nó là một ý niệm trừu tượng.
§14
Tôi cần phải nói thêm rằng, với cùng một phương cách mà các triết gia hiện đại chứng minh rằng một số tính chất khả giác nào đó không tồn tại trong vật chất hay bên ngoài tinh thần, họ cũng có thể chứng minh như thế cho bất kì tính chất khả giác nào khác. Do đó, chẳng hạn, người ta cho rằng nóng và lạnh chỉ là những trạng thái [được tác động] của tinh thần, và tuyệt nhiên không phải là những sự phản ánh của những gì hiện hữu hiện thực trong những bản thể vật chất tạo nên chúng, vì rằng cùng một cơ thể nhưng tay này cảm thấy lạnh còn tay kia thì thấy ấm. Vậy, tại sao chúng ta lại không thể lập luận với cùng lí lẽ đó rằng hình dạng và quảng tính cũng không phải là những sự phản ánh hay những sự mô phỏng của các tính chất tồn tại trong vật chất, bởi vì đối với cùng một con mắt ở những điểm nhìn khác nhau, hoặc những con mắt của một kết cấu khác nhau ở cùng một điểm nhìn, chúng hiện ra khác nhau, và do đó không thể là những hình ảnh của bất kì cái gì được xác lập và nhất định ở ngoài tinh thần? Lại nữa, có thể chứng thực rằng vị ngọt thực sự không ở trong cái gì thơm ngon, bởi vì cái vật thơm ngon này vẫn còn nguyên vẹn trong khi ngọt đã biến thành
https://thuviensach.vn
đắng với người bị sốt hay khẩu vị mất tác dụng, chẳng lẽ không hợp lí như vậy sao khi nói rằng vận động không ở ngoài tinh thần, bởi vì nếu sự nối tiếp các ý niệm trong tinh thần ngày càng nhanh hơn, thì phải thừa nhận rằng, vận động đó sẽ xuất hiện chậm hơn mà không có sự thay đổi nào trong bất kì sự vật ngoại tại nào?
§15
Tóm lại, cứ để cho người ta cân nhắc những luận cứ được cho là hiển nhiên ấy để chứng minh rằng màu sắc và mùi vị chỉ tồn tại trong tinh thần, rồi người ta sẽ thấy những luận cứ ấy cũng đầy sức mạnh khi dùng để chứng minh điều tương tự về quảng tính, hình dạng và vận động. Mặc dù phải thừa nhận rằng cách lập luận này thực sự không chứng minh được rằng không có quảng tính hay màu sắc trong một đối tượng ngoại tại, mà chỉ chứng minh được rằng bằng giác quan ta không thể biết được đâu là quảng tính hay màu sắc thực sự của đối tượng. Thế nhưng, trong các luận cứ nói ở trên27, ta đã dứt khoát chứng mình rằng bất kì màu sắc hay quảng tính nào, hay bất kì tính chất khả giác nào đều tuyệt nhiên không thể tồn tại trong một chủ thể vô tư tưởng, bên ngoài tinh thần, hay thậm chí, không thể có bất kì cái gì như là một đối tượng ngoại tại.
§16
Nhưng chúng ta hãy xét kĩ một chút ý kiến được thừa nhận rộng rãi này. Quảng tính được coi là một thể cách (mode) hay tùy thể của vật chất, còn vật chất là cơ chất (substratum) nâng đỡ nó. Bây giờ tôi rất muốn bạn giải thích cho tôi vật chất là cái nâng đỡ cho quảng tính có nghĩa là gì? Nếu bạn nói, bạn không có ý niệm nào về vật chất nên không thể giải thích nó. Tôi đáp, mặc dù bạn không có ý niệm tích cực về nó, thì chí ít bạn phải có
https://thuviensach.vn
một khái niệm tương đối về vật chất để chữ ấy không phải hoàn toàn vô nghĩa với bạn. | Và cho dù bạn thật sự không biết vật chất là gì, thì người ta vẫn có quyền giả định rằng bạn phải biết nó quan hệ thế nào đối với các tùy thể, và biết ý nghĩa việc nó nâng đỡ các tùy thể nghĩa là gì. Hiển nhiên “nâng đỡ” ở đây không thể được hiểu theo nghĩa thông thường hay nghĩa đen - như khi ta nói các cây cột nâng đỡ một tòa nhà; vậy thì nó phải được hiểu theo nghĩa nào đây?
§17
Nếu ta tìm hiểu xem các triết gia tinh tường nhất hiểu như thế nào khi đề cập đến bản thể vật chất (material substance), ta sẽ thấy họ thừa nhận họ chẳng đem được ý nghĩa nào khác thêm vào cho các âm thanh ấy ngoại trừ ý niệm tồn tại nói chung, hợp cùng khái niệm tương đối về việc “nâng đỡ” các tùy thể28. Ý niệm chung về tồn tại đối với tôi có lẽ là ý niệm trừu tượng nhất và khó hiểu nhất trong mọi ý niệm; còn nói về việc nâng đỡ những tùy thể thì, như ta vừa mới thấy, điều này không thể hiểu theo nghĩa thông thường của từ ngữ mà phải được hiểu theo một nghĩa nào khác, nhưng các triết gia lại không giải thích cho ta nghĩa đó là gì! Cho nên, khi tôi xem xét hai bộ phận hay hai vế làm nên ý nghĩa của từ “bản thể vật chất”, tôi tin chắc rằng không có ý nghĩa rõ ràng nào được thêm vào cho nó cả. Nhưng tại sao ta cứ gây thêm rắc rối cho mình khi bàn cãi về cơ chất hay sự nâng đỡ vật chất của hình dạng và vận động này, và những tính chất khả giác khác? Việc bàn cãi đó không tiền giả định chúng có một tồn tại bên ngoài tinh thần sao? Và đó không phải là sự mâu thuẫn trực diện và hoàn toàn không thể hiểu được sao?
§18
https://thuviensach.vn
Nhưng ngay cả khi các bản thể rắn đặc, có hình thù, và đang vận động có thể tồn tại ngoài tinh thần, và tương ứng với những ý niệm ta có về các cơ thể đi nữa, vậy làm thế nào ta có thể nhận thức được điều này? Ta phải nhận biết chúng hoặc bằng giác quan hoặc bằng lí tính, về các giác quan của ta, thì nhờ chúng, ta chỉ có những kiến thức về các cảm giác, về các ý niệm của ta, hay về những sự vật được tri giác một cách trực tiếp bằng giác quan mà thôi (gọi chúng là gì thì tùy ý bạn). Nhưng các giác quan lại không cho ta biết các sự vật tồn tại ngoài tinh thần hay không được tri giác có giống với các sự vật được tri giác hay không. Điều này thì chính các nhà duy vật cũng phải thừa nhận. Do vậy, chỉ còn lại khả năng thứ hai: nếu ta có nhận thức gì về các sự vật bên ngoài, thì chỉ là bằng lí tính, nghĩa là suy ra sự tồn tại của chúng từ những gì được giác quan tri giác trực tiếp. Nhưng lí tính nào có thể khiến ta tin sự tồn tại của các vật thể bên ngoài tinh thần, từ những gì ta tri giác, khi mà chính bản thân những người chủ trương vật chất cũng không ai dám nói có bất kì sự nối kết tất yếu nào giữa chúng và các ý niệm của chúng ta? Tôi nghĩ nhiều người đồng ý (những gì xảy ra trong các giấc mơ, những cơn mê loạn, vân vân, đều chứng thực không thể chối cãi) rằng chúng ta có thể có tất cả những ý niệm mà giờ đây ta đang có, mặc dù không có vật thể nào tương tự với chúng tồn tại ở bên ngoài ta cả29. Vì thế, rõ ràng sự giả định về các vật thể bên ngoài là không cần thiết cho việc tạo ra các ý niệm của ta; bởi mọi người nhất trí rằng thỉnh thoảng các ý niệm được tạo ra, và có thể luôn được tạo ra trong một trật tự như ta thấy chúng trong hiện tại, mà không cần đến sự có mặt của những vật thể ở bên ngoài.
§19
Nhưng, dù ta có thể có mọi cảm giác của ta mà không cần đến chúng [những sự vật bên ngoài] thì có vẻ bao giờ cũng đơn giản hơn cả để hiểu và
https://thuviensach.vn
giải thích cách thức tạo ra chúng, bằng cách giả định sự tồn tại của những cơ thể ở bên ngoài tương đồng với chúng; và vì vậy chí ít vẫn có thể có những sự vật như là những cơ thể tạo ra những ý niệm về chúng trong tinh thần ta. Chỉ có điều, ngay cả giả định này cũng không thể chấp nhận được. Vì cho dù ta đồng ý dành cho các nhà duy vật những cơ thể ở bên ngoài, họ cũng vẫn thú nhận rằng trong việc giải thích các ý niệm của ta được tạo ra như thế nào, họ cũng không tiến hơn lên được bước nào, bởi bản thân họ không thể nhận thức thấu đáo bằng cách nào một cơ thể [vật thể] ở bên ngoài lại có thể tác động lên tinh thần, hoặc làm thế nào một cơ thể có thể ghi khắc một ý niệm nào đó vào trong tinh thần. Từ đó, rõ ràng việc tạo ra các ý niệm hay các cảm giác trong tinh thần của ta không thể là lí do để ta giả định vật chất hay các bản thể hữu hình, vì rằng có hay không có sự giả định này thì cũng phải thừa nhận rằng điều đó là vẫn không thể nào giải thích được. Do vậy, nếu các cơ thể có thể tồn tại bên ngoài tinh thần, nhưng để chấp nhận điều đó, hẳn phải cần tới một giả thiết liều lĩnh. Không khác gì giả định một cách không có căn cứ rằng Thượng Đế đã sáng tạo ra vô số sinh vật hoàn toàn vô dụng, và không phục vụ cho mục đích nào cả.
§20
Tóm lại, nếu giả sử có những vật thể ở bên ngoài, ắt ta cũng không thể biết được điều ấy; còn nếu giả sử không có, ắt ta cũng sẽ có cùng những lí do tương tự để giả định về sự hiện hữu của chúng như chúng ta đang có. Giả định trường hợp - không ai phủ nhận là không thể có - một hữu thể có trí tuệ cảm nhận được cùng một chuỗi những cảm giác hay những ý niệm giống như bạn đang cảm nhận mà không có sự tác động của vật thể bên ngoài, và giả định rằng chúng cũng gây dấu ấn lên tinh thần của hữu thể ấy với cùng một trình tự và cùng một tính sinh động [giống như nơi bạn], thì
https://thuviensach.vn
tôi thử hỏi phải chăng hữu thể biết tư duy ấy lại không có mọi lí do để tin vào sự hiện hữu của những bản thể vật chất - tức những bản thể được những ý niệm của hữu thể ấy đại diện và gợi lên những ý niệm trong tinh thần của hữu thể ấy - giống như những lí do mà có thể bạn đang có khi tin vào một điều giống như thế? Giả định ấy là không thể nghi ngờ, và chỉ cần một sự suy nghĩ như thế là đã đủ để làm bất kì người nào có lí tính cũng trở nên nghi ngờ sự chặt chẽ của những lập luận (đủ kiểu) mà mình tưởng rằng đang có để chứng minh sự hiện hữu của những vật thể ở bên ngoài tinh thần.
§21
Nếu cần phải thêm những luận chứng mới chống lại sự hiện hữu của vật chất sau những gì đã được bàn luận, tôi có thể kể ra nhiều sai lầm và những khó khăn nan giải (không kể tới những sự bất kính đối với Thượng Đe) xuất phát từ niềm tin đó. Nó đã gây ra vô số tranh luận và bàn cãi trong triết học, và không ít những cuộc tranh luận và bàn cãi còn quan trọng hơn nữa trong tôn giáo. Nhưng ở đây tôi sẽ không đi vào chi tiết của chúng, một mặt vì tôi nghĩ các luận cứ hậu nghiệm (a posteriori) là không cần thiết để khẳng định những gì đã được chứng minh đầy đủ một cách tiên nghiệm (a priori), mặt khác vì sau đây tôi sẽ còn có dịp nói thêm ít nhiều về chúng.
§22
Tôi e rằng tôi có lí do để nghĩ mình đã rườm rà không cần thiết khi xử lí chủ đề này. Vì, có ích gì nếu bàn luận dông dài về một vấn đề vốn có thể chứng minh hoàn toàn hiển nhiên chỉ trong một hai dòng cho một người ít có khả năng phản tư nhất? Đó là chỉ cần nhìn vào tư tưởng của chính mình và bạn hãy thử thẩm tra xem liệu có thể hình dung được một âm thanh, một
https://thuviensach.vn
hình dạng, một sự vận động, hay màu sắc có thể hiện hữu bên ngoài tinh thần hay không được tri giác hay không. Cách thử đơn giản này ắt khiến bạn thấy rằng điều mà bạn chủ trương là một mâu thuẫn rõ ràng. Vì vậy tôi sẵn lòng đặt cuộc vào vấn đề này: Nếu bạn chỉ cần cho rằng có thể có được một bản thể có quảng tính đang vận động, hay, nói chung, có thể cho rằng một ý niệm, hay bất kì cái gì tương tự một ý niệm, lại hiện hữu ở bên ngoài một tinh thần tri giác nó, thì tôi sẽ sẵn sàng chịu thua. Còn toàn bộ hệ thống những cơ thể ở bên ngoài mà bạn chủ trương, tôi sẽ xin tặng cho bạn, dù bạn không thể đưa ra bất kì lí do nào khiến bạn tin nó hiện hữu, lẫn không thể nói được nó có ích dụng gì khi tiền giả định nó hiện hữu. Tôi nói: khả năng đơn thuần [suông] rằng những ý kiến của bạn là đúng nên được chuyển thành một luận cứ chứng minh rằng chúng quả là đúng!
§23
Nhưng bạn có thể nói, chắc không có gì dễ dàng hơn là hình dung, chẳng hạn, những cái cây trong công viên, hay những cuốn sách trong phòng mà không có ai đứng đó để tri giác chúng. Tôi xin trả lời: bạn có thể nói thế, rằng không có khó khăn gì trong việc hình dung như vậy. | Nhưng tôi rất muốn bạn làm ơn cho biết, tất cả chuyện đó là gì ngoài việc tạo nên trong tinh thần bạn các ý niệm nhất định mà bạn gọi là “những cuốn sách” và “những cái cây”, và đồng thời không chịu tạo nên ý niệm về một người nào đó có thể tri giác những sự vật đó? Nhưng liệu không phải chính bản thân bạn là người đang tri giác hay suy tưởng về chúng suốt nãy giờ hay sao? Vì thế, điều này không giúp bạn đạt được mục đích. | Nó chỉ cho thấy rằng bạn có năng lực tưởng tượng hay hình thành những ý niệm trong tâm trí bạn: nhưng nó không cho thấy bạn có thể quan niệm rằng những đối tượng của tư tưởng bạn có thể hiện hữu bên ngoài tinh thần. Để đạt được mục đích chứng minh, bạn cần phải hình dung chúng hiện hữu mà không
https://thuviensach.vn
cần được tri giác hay không cần được suy tưởng, mà điều này rõ ràng là mâu thuẫn. Khi ta nỗ lực hết mình để suy tưởng về sự hiện hữu của những vật thể ở bên ngoài, thì thật ra bao giờ ta cũng chỉ nhìn ngắm những ý niệm riêng của ta thôi. Nhưng vì lẽ tinh thần vốn không lưu ý đến điều đó nên bị đánh lừa rằng mình có năng lực suy tưởng về những vật thể và suy tưởng rằng chúng hiện hữu thật sự ở bên ngoài tinh thần và không cần tinh thần suy tưởng về chúng, trong khi thật ra chúng được tinh thần suy tưởng hay, nói khác đi, là hiện hữu ở trong tinh thần. Chỉ cần một chút chú ý ai cũng có thể khám phá sự thực và sự hiển nhiên của những gì được nói ở đây, và sẽ thấy không cần thiết đòi thêm các bằng chứng khác chống lại sự hiện hữu của bản thể vật chất.
§24
Chỉ cần tìm hiểu một chút về những tư tưởng của chính mình, thì ta sẽ hiểu rõ thuật ngữ: “Sự hiện hữu tuyệt đối của những đối tượng khả giác trong tự thân chúng, hay ở ngoài tinh thần” nói lên điều gì. Đối với tôi, hiển nhiên là những từ đó nói lên một mâu thuẫn trực tiếp hoặc không có nghĩa gì cả. Và để thuyết phục mọi người tin vào điều này, tôi biết không có phương cách nào dễ dàng và khả dĩ hơn là khẩn khoản yêu cầu họ điềm tĩnh xem xét những tư tưởng của chính mình; và nếu như bằng cách tập trung chú ý như vậy mà sự trống rỗng [sự vô nghĩa] hay sự mâu thuẫn của những từ đó hiện ra, thì chắc không cần gì nói gì thêm để thuyết phục cả. Chính vì vậy mà tôi nhấn mạnh rằng: “Sự hiện hữu tuyệt đối của những vật không được suy tưởng là những từ vô nghĩa, hay chứa đựng một sự mâu thuẫn”. Đó là những gì tôi muốn lặp đi lặp lại, và tha thiết khuyến cáo điều ấy cho sự suy nghĩ thận trọng của độc giả.
§25
https://thuviensach.vn
Tất cả các ý niệm, cảm giác của chúng ta, hay những sự vật ta tri giác, dù gọi bằng bất kì tên gì để có thể phân biệt chúng, rõ ràng là hoàn toàn thụ động, không có lực hay sự tác động (agency) gì ở chúng. Như vậy, một ý niệm hay đối tượng của tư tưởng này không thể gây ra hay dẫn tới bất kì - sự thay đổi nào trong một ý niệm khác. Để hoàn toàn tin chắc vào chân lí này, chẳng cần làm gì hơn là một sự quan sát đơn giản những tư tưởng của chúng ta. Vì, nếu chúng và mọi thành phần của chúng chỉ hiện hữu trong tinh thần, thì suy ra không có gì trong chúng ngoại trừ những gì được tri giác. Nhưng bất kì ai xem xét những ý niệm của giác quan hay của tư duy của mình cũng sẽ không nhận thấy ở chúng chút lực hay hoạt động gì; do đó, không có một cái gì như thế được chứa đựng ở trong chúng. Chỉ cần tập trung suy nghĩ một chút thôi chúng ta sẽ phát hiện thấy răng chính sự thụ động và sự trơ ì là thuộc về bản chât của một ý niệm khiến cho một ý niệm không thể làm được điêu gì, hay, nói đúng ra, nó không thể là nguyên nhân của bất kì cái gì; nó vừa không thể là bản sao hay sự phản ánh của bất kì một thực thể hoạt động nào, như đã đề cập rõ ràng ở tiểu mục §8. Từ đó dễ dàng suy ra rằng quảng tính, hình dạng và vận động không thể là nguyên nhân của những cảm giác của chúng ta. Do vậy, nói rằng những cảm giác đó là kết quả của những lực bắt nguồn từ cấu trúc, số lượng, vận động và kích thước của những hạt nhỏ hay những vi thể (corpuscles), chắc chắn là nói sai.
§26
Khi ta tri giác một chuỗi liên tục các ý niệm, một số mới được gợi lên, một số khác được biến đổi hay hoàn toàn biến mất. Do đó, hẳn có một nguyên nhân nào đó của các ý niệm này, cái nguyên nhân mà chúng phụ thuộc, nó tạo ra và thay đổi các ý niệm. Nguyên nhân này không thể là bất kì một tính chất hay ý niệm hay sự kết hợp các ý niệm nào: điều này đã
https://thuviensach.vn
được nói rõ từ tiểu đoạn trước. Do đó, tôi nghĩ phải là một bản thể; nhưng như đã nói, không có một bản thể hữu hình hay vật chất; cho nên chỉ còn cách thừa nhận rằng nguyên nhân của các ý niệm là một bản thể không có tính vật thể, hoạt động chủ động hay là tinh thần (spirit).
§27
Một tinh thần là một thực thể hoạt động tích cực, đơn giản, không bị phân chia: khi nó tri giác các ý niệm, ta gọi nó là giác tính (understanding), còn khi nó tạo ra các ý niệm hay quan hệ bằng cách nào khác với các ý niệm, ta gọi nó là ý chí (will). Vì vậy, không thể tạo ra một ý niệm về một linh hồn hay tinh thần. | Bởi lẽ mọi ý niệm đều thụ động và trơ ì (xem tiểu đoạn §25), nên chúng không thể trình hiện cho ta một cái gì mang tính hoạt động tích cực, bằng hình ảnh [bản saol hay bằng cái gì tương tự. Chỉ cần tập trung suy nghĩ một chút ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy rằng, tuyệt nhiên không thể có một ý niệm tương tự với một nguyên tắc chủ động của sự vận động và thay đổi các ý niệm, về mặt bản tính, tinh thần hay cái gì hoạt động chủ động thì không thể được tri giác nơi tự thân nó, mà chỉ bằng cách thông qua những tác động mà nó tạo ra. Nếu có ai đó còn nghi ngờ sự thực của những khẳng định này, hãy để người ấy suy nghĩ và thử kiểm tra xem anh ta có thể tạo ra ý niệm về một lực hay về một thực thể hoạt động chủ động nào không, và anh ta có hay không các ý niệm về hai lực chính yếu, được gọi là ý chí và giác tính không những khác nhau mà còn khác với một cái thứ ba, đó là khác với ý niệm về bản thể hay tồn tại nói chung, mà ở đây được gọi là linh hồn hay tinh thần và được xác định như là cái nâng đỡ hay chủ thể của các lực ấy. Một số người đã nghĩ như vậy đấy; nhưng, theo tôi, những từ ý chí, linh hồn, tinh thần30 không biểu thị các ý niệm khác nhau, hay, thực ra, không biểu thị bất kì ý niệm nào, mà chỉ biểu thị cho một cái gì khác xa với các ý niệm, và, với tư cách là thực thể hoạt
https://thuviensach.vn
động chủ động, không giống với bất kì một ý niệm nào và cũng không thể được đại diện bởi một ý niệm như thế. Tuy thế, phải thừa nhận rằng đồng thời ta có một khái niệm nào đó31 về linh hồn, tinh thần (spirit), và những hoạt động tinh thần khác như: muốn, yêu, ghét - bởi vì ta biết hay hiểu ý nghĩa của những từ này.32
§28
Tôi thấy tôi có thể tùy ý gợi ra trong tinh thần tôi những ý niệm, có thể biến đổi và di chuyển nền cảnh cho tới khi nào tôi thấy hợp lí. Chỉ đơn giản là nhờ ý chí mà một ý niệm này nọ xuất hiện trong trí tưởng tượng của tôi một cách trực tiếp; và cũng bằng chính năng lực đó, một ý niệm bị xóa bỏ để dành chỗ cho một ý niệm khác. Tác động tạo ra và hủy bỏ các ý niệm này được gọi rất đúng là tinh thần chủ động tích cực. Điều ấy là vững chắc và có cơ sở từ kinh nghiệm; còn khi ta nói về những thực thể hoạt động vô tư tưởng hay về những ý nỉệm được tạo ra không do ý muốn, ta chỉ đùa giỡn với từ ngữ mà thôi.
§29
Nhưng cho dù tôi có thể có bất kì quyền lực gì đi nữa đối với những tư tưởng của riêng tôi, tôi không thể không thấy những ý niệm mà tôi đang thực sự tri giác bằng giác quan không phụ thuộc như nhau vào ý chí của tôi. Khi giữa thanh thiên bạch nhật tôi mở mắt ra, thì tôi không có năng lực chọn lựa có nên nhìn hay không, hay quyết định những sự vật cụ thể nào sẽ tự trình hiện trước cái nhìn của tôi; thính giác và các giác quan khác cũng vậy: những ý niệm in dấu lên chúng không phải là những tạo phẩm của ý chí của tôi. Do đó, hẳn có một ý chí hay tinh thần nào khác tạo ra chúng.
§30
https://thuviensach.vn
Các ý niệm của giác quan thì mạnh mẽ hơn, sống động hơn và rõ ràng hơn các ý niệm của trí tưởng tượng. | Chúng có chung sự ổn định, trật tự và chặt chẽ, và không ngẫu nhiên được tạo ra (như những ý niệm vốn do những tác động của ý chí con người thường tạo ra) nhưng được tạo ra thành từng dòng hay chuỗi đều đặn - sự gắn bó lạ lùng của chúng đủ để chứng thực sự khôn ngoan và lòng lành của Đấng Sáng tạo ra chúng. Vậy thì, những quy tắc chặt chẽ hay những phương pháp được xác lập mà tinh thần (the mind), vốn là cái chúng ta dựa vào, phải tuân thủ để tạo ra trong ta những ý niệm của giác quan, được gọi là những quy luật tự nhiên-, và những quy luật này ta biết được bằng kinh nghiệm, kinh nghiệm dạy chúng ta rằng những ý niệm nhất định sẽ đi kèm theo sau những ý niệm nhất định khác, trong diễn trình bình thường của sự vật.
§31
Sự nhận biết này cho ta một thứ khả năng dự đoán giúp ta hành động vì lợi ích của cuộc sống. Không có sự đoán biết đó ta sẽ mãi mãi bất lực; ta không thể biết hành động thế nào để có thể có được sự sung sướng tối thiểu, hay loại trừ tối thiểu nỗi đau thể xác. Rằng thực phẩm nuôi sống ta, giấc ngủ làm ta khoẻ khoắn, và bếp lửa sưởi ấm ta; rằng phải gieo đúng thời vụ thì mới có thể gặt hái khi mùa màng tới; và nói chung để đạt tới những cứu cánh này nọ thì cần đến những phương tiện này nọ - ta biết tất cả mọi sự này không phải bằng cách khám phá ra bất kì sự nối kết tất yếu nào giữa những ý niệm của ta, mà chỉ bằng cách quan sát những quy luật ổn định của tự nhiên, không như vậy ta sẽ hoàn toàn đắm chìm trong sự bất xác và bối rối, và một người trưởng thành sẽ như một đứa trẻ mới sinh, không mảy may biết cách xử trí những vấn đề của cuộc sống.
§32
https://thuviensach.vn
Ấy vậy nhưng cái tác động nhất quán này, dù hiển nhiên phơi bày sự tốt lành và khôn ngoan của Tinh thần Điều hành (governing spirit) mà ý chí của nó xây dựng các Luật tự nhiên, còn lâu mới dẫn đưa những tư tưởng của ta đến với Ngài, thay vào đó nó dắt những tư tưởng ấy đi lang thang theo những mục đích thứ yếu. Vì, khi ta tri giác rằng một số ý niệm nhất định của giác quan luôn có những ý niệm nhất định khác theo sau và ta biết đây không phải là công việc của riêng mình ta, lập tức ta quy năng lực và sự tác động ấy cho bản thân các ý niệm, và ta nói ý niệm trước là nguyên nhân của ý niệm sau; thật không có gì ngu xuẩn và phi lí hơn. Do đó, chẳng hạn, khí bằng thị giác ta nhìn thấy một hình thể tròn tỏa sáng nào đó thì cùng lúc bằng xúc giác ta có được ý niệm hay cảm giác được gọi là cái nóng, từ đó ta kết luận rằng mặt trời là nguyên nhân của cái nóng. Và cũng bằng cách đó, khi tri giác sự vận động và va chạm của các vật thể có âm thanh đi kèm, ta có khuynh hướng nghĩ rằng sự kiện sau là hậu quả của sự kiện trước.
§33
Những ý niệm mà đấng Tạo hóa ghi khắc lên các giác quan được gọi là những sự vật hiện thực-, còn những sự vật được gợi lên trong trí tưởng tượng và không thường xuyên, sinh động và bền bỉ bằng thì được gọi một cách đúng đắn là những ý niệm, hay các hình ảnh của sự vật vì đã sao chép và đại diện cho chúng. Nhưng những tri giác cảm tính của ta, dù có sinh động và rõ ràng đến mấy đi nữa, chúng vẫn là những ý niệm, nghĩa là, chúng hiện hữu ở trong tinh thần, hay được tinh thần tri giác, chẳng khác chút gì so với những ý niệm được chính tinh thần tạo ra. Những ý niệm của giác quan được coi là có tính thực tại nhiều hơn, tức là, chúng mạnh mẽ hơn, có thứ tự hơn, và mạch lạc hơn những tạo phẩm của tinh thần; nhưng điều này tuyệt nhiên không chứng minh rằng chúng hiện hữu ở bên ngoài
https://thuviensach.vn
tinh thần. Người ta cũng nói rằng chúng ít lệ thuộc hơn vào tinh thần, hay vào bản thể tư duy đang tri giác chúng, do chỗ chúng được gợi lên bởi ý chí của một tinh thần khác, mạnh mẽ hơn; tuy thế chúng vẫn là những ý niệm, và chắc chắn là không có ý niệm nào, dù mờ nhạt hay vững chắc, lại có thể hiện hữu cách nào khác ngoài cách ở bên trong cái tinh thần tri giác nó.
§34
Trước khi đi xa hơn ta cần dành chút thời giờ để đáp lại những lời phản bác có lẽ nhằm chống lại những nguyên tắc mà chúng ta đã đề ra trên đây. Trong khi làm việc này, nếu tôi có quá rườm rà đối với những người thông minh trí lự, tôi hi vọng sẽ được tha thứ, bởi không phải ai cũng hiểu thấu bản chất của mọi vấn đề, và tôi mong được mọi người đồng ý. Thứ nhất, người ta có thể phản đối rằng với những nguyên tắc đã nêu, tất cả những gì hiện thực và mang tính bản thể ở trong tự nhiên đều bị loại bỏ khỏi thế giới, và thay vào đó là một hệ thống hão huyền của các khái niệm. Tất cả những gì hiện hữu thì chỉ hiện hữu trong tinh thần, nghĩa là, chúng thuần túy là được hình dung nên. Vậy thì điều gì sẽ xảy ra với mặt trời, mặt trăng và những vì sao? Ta sẽ nghĩ thế nào về những ngôi nhà, những dòng sông, núi non, cây cối, đất đá; hơn thế nữa, ngay cả về cơ thể của chính chúng ta? Có phải tất cả những sự vật này chỉ là những huyễn ảnh (chimeras) và ảo ảnh xuất phát từ trí tưởng tượng? Đối với tất cả những câu hỏi này, và bất kì câu hỏi phản bác nào khác thuộc loại này, tôi xin trả lời rằng, với những nguyên tắc đã đề ra, ta không hề bị cướp mất bất kì thứ gì trong tự nhiên cả! Bất kì cái gì ta nhìn, cảm nhận, nghe, tri giác hay hiểu đều vẫn luôn vững chắc và vẫn luôn hiện thực như xưa nay vẫn thế. có một rerum natura (hiện thực tự nhiên), và sự phân biệt giữa những thực tại và những huyễn ảnh vẫn hoàn toàn có hiệu lực đầy đủ. Điều này đã được trình bày rõ
https://thuviensach.vn
trong các tiểu đoạn §29, §30, và §33 - cho thấy ta hiểu những sự vật có thực đối lập với những huyễn ảnh hay những ý niệm do chính ta tạo ra như thế nào; tuy nhiên cả hai đều hiện hữu ở trong tinh thần, và với ý nghĩa đó, chúng đều là những ý niệm như nhau cả.
§35
Tôi không bác bỏ sự hiện hữu của bất kì một vật gì mà ta có thể lĩnh hội được bằng giác quan hay suy tư. Tôi không chút nghi ngờ rằng những sự vật mà tôi nhìn thấy bằng mắt và sờ bằng tay đang hiện hữu, thực sự hiện hữu. cái duy nhất mà sự hiện hữu của nó bị tôi phủ nhận chính là cái mà các triết gia gọi là vật chất hay bản thể hữu hình. Thế nhưng, với việc phủ định đó, tôi không hề gây chút thiệt hại nào cho toàn bộ nhân loại còn lại. Tôi cam đoan rằng nhân loại sẽ không bao giờ cảm thấy thiếu vắng điều ấy cả. Quả thực nhà vô thần ắt sẽ thấy thiếu mất màu sắc thú vị của một tên gọi trống rỗng [“vật chất”] để củng cố sự bất kính của mình; còn các triết gia có lẽ thấy rằng họ đã bị mất đi một đề tài vĩ đại [“bản thể hữu hình”] để tha hồ đùa cợt và tán nhảm.
§36
Nếu có người nào nghĩ rằng điều đó làm tổn hại đến sự tồn tại hay thực tại của sự vật thì anh ta không hiểu những điều tôi vừa nói bằng những từ ngữ giản dị nhất mà tôi có thể nghĩ ra. Xin tóm tắt lại ở đây những gì vừa trình bày. Có những bản thể tinh thần, những tâm thức, hay những linh hồn con người - tùy ý tạo ra những ý niệm nơi bản thân chúng; nhưng những ý niệm này mờ nhạt, yếu ớt, và thất thường so với những ý niệm được tri giác bởi giác quan. Những ý niệm được tri giác, vốn in hằn lên các giác quan theo những quy tắc hay những quy luật tự nhiên nhất định, cho ta biết rằng chúng là những tác động của một tinh thần (mind) mạnh hơn và sáng
https://thuviensach.vn