🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Một Lương Tâm Nổi Loạn Ebooks Nhóm Zalo Một triết gia - HENRY DAVID THOREAU - đã ảnh hưởng tới Gandhi, Vua Đan-mạch Christian, Danilo Dolci, Mục sư Luther King…, và ảnh hưởng sẽ còn mỗi ngày một lớn trong một thế giới mà chính quyền nào cũng có những phương tiện kinh khủng để kiểm soát, đàn áp cá nhân, một tiểu luận - CIVIL DISOBEDIENCE (Bất tuân chính quyền), chỉ gồm ba chục trang mà đã gây biết bao phong trào tranh đấu bằng bất bạo động ở khắp nơi và được coi là một trong vài chục tác phẩm đã làm thay đổi cục diện thế giới. NGUYỄN HIẾN LÊ HENRY DAVID THOREAU MỘT LƯƠNG TÂM NỔI LOẠN bìa Hoàng Ngọc Biên - Hồ Hải trình bày CẢO THƠM Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com "Hạnh phúc chẳng ở đâu xa, hạnh phúc là khi ta biết ĐỦ." Yêu thương quá sinh gò bó, quan tâm quá khiến mất tự do, ghen tuông quá mất vị tình yêu và cái gì cũng thế, chạm đến chữ ĐỦ sẽ chạm được hạnh phúc tròn vị. Ebook “Một lương tâm nổi loạn” là món quà từ những người bạn 4DHN, Ban Tang Du Tử, dangtuanpr, lichan, Mot_sach09, oceanoc, tamchec, Rafa và teacher.anh gửi tới hanhdb (Bi) với lời nhắn gửi: Đừng chạy theo cái gì quá hoàn chỉnh và cũng chớ ép bản thân phải trở nên quá hoàn hảo. Yêu thương vừa đủ, ấm áp vừa đủ, quan tâm vừa đủ và bên nhau vừa đủ có lẽ sẽ hạnh phúc hơn. Hãy dám sống cuộc đời chân chính với lương tri HENRY DAVID THOREAU đã chứng minh một cá nhân, nếu sống như một con người đích thực, sẽ có sức mạnh và sự tự do to lớn, bằng cả cuộc đời của ông. Walden cùng Bất tuân chính quyền - hai tác phẩm được dẫn trong cuốn sách Một lương tâm nổi loạn - chính là bằng chứng cho điều ông tin tưởng và hành động: Sống một cuộc đời tự do và của chính mình toàn vẹn nhất. Đó chính là cuộc đời dám sống chân chính với lương tri. “Tôi sinh ra không phải để chịu sự cưỡng bức. Tôi muốn sống theo ý tôi.” (Henry) Walden giải quyết cho con người khỏi cái ách về vật chất. Đó là câu chuyện của chính ông sống bằng phương thức tự cung tự cấp suốt hai năm trời ở trong rừng. Ông tự xây nhà, làm vườn, làm thuê lặt vặt… để có tiền vừa đủ để trang trải nhu cầu sống của cá nhân. Ông chỉ mất chừng sáu tuần trong một năm để làm lụng lo cho nhu cầu ăn, ở. Thời gian còn lại ông dành cho suy tư, chiêm ngưỡng cuộc sống. Và bởi vậy ông đạt được những viên mãn trong tâm hồn mình, và cũng không cảm thấy sự thiếu thốn vật chất. Walden là những lời tự sự, những tính toán chi li sáng suốt của chính Henry, để biết được một cách chân xác rằng con người ta không nhất thiết phải khốn đốn để kiếm cái ăn trong cuộc đời. Mà họ có thể như con chim vừa kiếm ăn vừa hát ca được. Còn Bất tuân chính quyền lại giải quyết cái ách về phẩm hạnh của một con người xã hội chân chính – Tác phẩm nói cho mỗi cá nhân phải sử dụng chính quyền như thế nào cho phải lẽ, cho đúng thực là con người có lương tâm và dám hành động cho những điều tốt đẹp nhất. Một chính quyền tốt đẹp nhất theo ông chính là một chính quyền không can thiệp vào cuộc sống của mỗi cá nhân, miễn là cá nhân đó không tổn hại gì cho ai. Còn nếu chính quyền đó sai trái thì bổn phận của mỗi cá nhân phải là bày tỏ sự không tuân theo con đường sai trái đó. “Mọi người đều nhận cái quyền làm cách mạng; nghĩa là cái quyền từ chối sự trung thuận với chính phủ và chống lại chính phủ khi chính phủ tàn bạo quá hoặc bất lực quá, chịu không nổi.” Cách bày tỏ đơn giản chính là không ủng hộ cả về vật chất (đóng thuế) và con người (không hành động theo mệnh lệnh của chính quyền – đi lính). Và chỉ bằng cách như vậy, con người ta có thể làm thay đổi cả một chính quyền bất công, tàn bạo, bất hợp lý với những lẽ phải trong đời. Tuy nhiên, cái ý của Henry không chỉ dừng lại ở đó. Trong Bất tuân chính quyền ông vạch ra được: Thứ nhất: Điều gì làm cản trở một công dân hành động theo lẽ phải mà đáng lẽ ra họ phải hành động khi cần thiết để phản đối một chính quyền không nhân đạo? Câu trả lời chính là sự sở hữu vật chất và cả lòng sợ mất mát một cuộc đời không có lương tri – tức là sinh mạng. Và cả những hiểu lầm tai hại về sự phục tùng chính quyền cùng với lòng ái quốc. Vật chất hay của cải chính là cái trói buộc sự tự do và cả sự cao thượng của con người nữa. Thường để có được của cải càng nhiều con người ta buộc phải gắn chặt với chính quyền, vì chính quyền bảo hộ cho những cuộc làm ăn, những sự vụ kinh tế của họ để tạo ra tài sản. Ngược lại, chỉ bằng với cách đe dọa tước đi của cải của một người cũng đủ để chính quyền bắt người đó suốt đời phục tòng như nô lệ mà không dám nói lên được điều bản thân cảm thấy đúng đắn, nếu mà người ấy sợ mất của cải. Và vì vậy, Henry chủ trương con người đừng bắt đầu mua dây buộc mình bằng cách tích trữ tài sản. Càng nghèo, anh càng ít bị đe dọa sự tự do hơn, bởi vì anh ít có cái để mất hơn và người ta không vin được vào đó mà đe dọa hay bắt ép anh được. Mà nghèo thì chẳng có gì đáng sợ, còn là hạnh phúc nữa, như cái cách mà Henry đã nói trong Walden. Về tính mạng, Henry không chủ trương con người ta phải hy sinh tính mạng để tranh đấu cho một lẽ phải trong đời, bởi cuộc sống nào cũng đáng quý. Nhưng ông vạch ra, không phải cuộc tranh đấu nào cũng dẫn đến mất mạng. Và sự tranh đấu không tổn hại đến tính mạng mà vẫn đạt được hiệu quả to lớn vẫn có. Đó chính là: đấu tranh bất bạo động. “Nếu ta buộc chính quyền phải lựa chọn, một là bỏ tù hết những người công bằng, hai là phải từ bỏ chiến tranh và chế độ nô lệ đi, thì chính quyền tất phải biết lựa chọn đường nào.” Việc đấu tranh chống lại chính quyền này có thể thắng lợi chỉ cần 1000 người không nộp thuế và cam chịu vào tù mà thôi. Và mỗi người phải hiểu rằng: “khi lương tâm bị thương tổn thì có khác gì máu đã đổ rồi”. Cuối cùng, sự nhầm lẫn giữa phục tòng chính quyền và lòng ái quốc cũng là cái bẫy khiến cho mỗi người không dám hành động chống đối lại một chính quyền đã hư hỏng. Vì: “ dưới cái danh hiệu “trật tự và chính quyền”, rốt cuộc người ta bắt chúng ta tôn trọng sự đê hèn của chính ta.”. Nghĩa là bắt mỗi cá nhân phải hành động không như ý mình muốn chỉ bởi vì suy nghĩ đang phụng sự cho quốc gia. Điển hình đây là hình ảnh của những người lính phải bất đắc dĩ cầm súng ra chiến trường vô nghĩa – chiến trường của những cuộc xâm lăng chẳng hạn. Điều thứ hai: Những biểu hiện giả dối của lương tri nửa vời. Để theo đuổi được con đường của lương tri thì phải tuyệt đối rời bỏ con đường lương tri nửa vời. Con đường nửa vời đó còn nguy hiểm hơn là việc không theo đuổi, bởi vì nó làm cho con người ta nghĩ rằng mình đã đủ tốt trong khi chẳng làm nên tích sự gì cả. Nó biểu hiện dưới sự ủng hộ, đồng thuận, bỏ phiếu, tán dương…những cá nhân khác đang đấu tranh cho lẽ phải bằng hành động, mà lại không có hành động cụ thể nào hơn, không dám từ bỏ sự an toàn của mình, lo sợ mất mát tài sản hoặc tính mệnh của bản thân. Con đường nửa vời còn là là tin tưởng, gởi gắm hay ủy thác điều mình mong muốn và nhận định chân xác là đúng đắn, cho một người anh hùng nào đó. Mỗi cá nhân phải hành động theo lương tri của mình, và mỗi cá nhân có đủ sức mạnh để thay đổi tất cả chứ không phải chờ đợi đến một vĩ nhân làm thay họ. “Cứ một người có đạo đức thì có tới chín trăm chín mươi chín người bảo vệ đạo đức; nhưng để thỏa thuận với người làm chủ một vật gì còn dễ dàng hơn là với người chỉ tạm thời giữ vật đó thôi.”(Henry) Hai tác phẩm của Henry chính là gươm báu sắc bén để chặt đứt những gông xiềng mà con người tự mang cho mình và tưởng rằng sẽ chẳng có cách nào thoát được. Nó là chìa khóa để mỗi người có thể tự tin vào chính mình để đi con đường đồng hành cùng lương tri, miễn là anh chịu đồng hành. Chỉ cần lắng nghe lương tri, hành động trong sự không lo sợ, và như vậy mỗi người sẽ đạt đến việc sống một cuộc sống thực sự với đầy đủ những tinh túy và ban tặng của nó. Henry không phải là một triết gia đương thời, không phải một nhà cải cách xã hội đương thời, không cả một nhà văn tên tuổi đương thời. Henry có vẻ như là một kẻ nổi loạn lập dị, thích sự một mình và chống đối lại cả thế giới không dám nhận lấy tiếng nói của lương tâm xung quanh ông. Henry là một kẻ vô danh khi còn sống, nhưng là một lương tâm bất tử mà mọi con người nên soi vào đó để cố gắng tranh đấu giữ lấy phần người của mình và tin tưởng vào thắng lợi của cuộc tranh đấu tưởng như “ngu dại, điên rồ” nhưng thực sự là cuộc đời chân chính đó. Ban Tang Du Tử Mục lục Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com PHẦN 1. - Một lương tâm nổi loạn Biểu biên niên đời Henry David Thoreau Tiểu sử Henry David Thoreau Đã có định kiến từ hồi hai mươi tuổi “Một con người kỳ cục” Vào rừng để tìm một lối sống Bị nhốt khám, khi được thả lại cự nự Rời Walden trở về Concord Nhập tịch làng văn - Bổn phận bất tuân chính quyền “Nghề viết văn như vậy đấy” “Walden” - Một tác phẩm phúng thích văn minh hiện đại Bênh vực nô lệ Chúa và tôi có gây lộn với nhau lần nào đâu? Ảnh hưởng của Thoreau PHẦN 2. - Walden hay Đời sống trong rừng PHẦN 3. - Bất tuân chính quyền Phần 1 Một lương tâm nổi loạn Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com BIỂU BIÊN NIÊN ĐỜI HENRY DAVID THOREAU 1817. Sinh ở Concord (tiểu bang Massachusetts), một thôn thịnh vượng vừa là trạm cách Boston khoảng ba chục cây số về phía tây-bắc; nơi đó là chiến trường đầu tiên trong chiến tranh Độc lập của Hoa-kì, và sau thành nơi trung tâm văn hóa tranh giành ảnh hưởng với Boston. 1833. Vào Đại học Harvard sau khi theo học các lớp dự bị ở Concord Academy. 1837. Được bằng cấp Đại học; lại thăm Emerson, bắt đầu viết Nhật kí. 1838. Mở một trường tư cho thiếu nữ ở Concord, dạy chung với anh là John. Lần đầu tiên lại ở miền Maine. 1839. Cùng với John thực hiện cuộc lãm du nổi tiếng trên các con sông Concord và Merrimark, từ ngày 31 tháng tám tới ngày 13 tháng chín. 1841. Thành người quản gia “làm đủ mọi việc” cho Emerson; đồng thời bắt đầu nghiên cứu văn học phương Đông. 1842. Ông yêu anh là John lắm, nên rất đau lòng khi John vì cạo râu, đứt mặt, bị bệnh phá-thương-phong mà chết. Gửi thiên khảo luận “Vạn vật ở tiểu bang Matssachusetts” cho tạp chí Dial. 1843. Làm giáo sư, dạy con cho một người anh (hay em) của Emerson, tên là William, ở Staten Island, vịnh New York. 1845. Mùng 4 tháng bảy lại ở bên bờ đầm Walden. Bắt đầu viết tập Một tuần trên các dòng sông Concord và Merrimack. 1846-47. Chiến tranh với Mễ-tây-cơ. 1847. San khi rời bờ đầm Walden ngày mùng 6 tháng chín, lại trở về ở nhà Emerson trong khi ông này qua châu Âu, 1849. Trở về nhà cha mẹ. Xuất bản cuốn Một tuần trên các dòng sông Concord và Merrimack, sách bán ế. Chị là Helen mất. Tập Chống lại chính quyền (sau đổi nhan đề là Bất tuân chính quyền) đăng trên tạp chí Aesthetic Papers. Ông lại thăm mũi Cod. 1850. Trở lại mũi Cod. Qua Gia-nã-đại. 1854. Xuất bản cuốn Walden. 1855. Tới ở mũi Cod lần thứ ba. Tạp chí Pulnam’s Magazine đăng bốn chương trong tập Mũi Cod. 1856. Lại chơi Brooklyn, làm quen với Walt Whitman và nghe Beecher thuyết giáo. 1857. Lại ở mũi Cod lần cuối cùng. Gặp John Brown, người chủ trương giải phóng nô lệ. 1858. “Chesuncook” đăng trên tờ Atlantic Monthly. 1859. Đọc một diễn văn ca tụng John Brown ở Concord. 1861. Lại thăm miền Minnesota. Chiến tranh Nam-Bắc bắt đầu. 1862. Mất ngày mùng 6 tháng năm vì bệnh lao. 1865. Chiến tranh Nam-Bắc chấm dứt. TIỂU SỬ HENRY DAVID THOREAU Năm 1956 nhà The New American Library of World Literature Inc. - New York - xuất bản một cuốn nhan đề là Books that changed the World (Những cuốn sách đã thay đổi thế giới)[1]. Tác giả, ông Robert B. Downs chỉ muốn viết một cuốn vài trăm trang, phải tự hạn chế, gạt hết các tác phẩm về tôn giáo, triết học, văn học, (như các Thánh kinh, kinh của Phật giáo, Khổng giáo, kinh Coran, tác phẩm của các triết gia Hi-Lạp, của Kant, Shakespeare, Goethe vân vân…), chỉ lựa mười cuốn về các môn xã hội (Social - Sciences) và sáu cuốn về khoa học. Sự lựa chọn nào cũng miễn cưỡng và có tính cách chủ quan. Sáu nhà khoa học ông lựa có thể coi là xứng đáng cả (Copernic, W. Harvey, Newton, Darwin, Freud. Einstein): nhưng còn mười nhà kia viết về xã hội, thì tôi nghĩ nếu tác giả là người Pháp, hoặc người phương Đông chúng ta, sự lựa chọn tất sẽ khác: chẳng hạn cuốn Uncle Tom’s Cabin (Cái chòi của chú Tom) của H. B. Stowe đâu có ảnh hưởng lớn tới thế giới bằng cuốn De l’espril des lois (Vạn pháp tinh lý) của Montesquieu. Còn vài cuốn khác chắc nhiều bạn cũng như tôi không đồng ý với ông, nhưng ai cũng phải nhận rằng cuốn Civil Disobedience (Bất tuân chính quyền) của Henry David Thoreau, tuy chỉ gồm có vài ba chục trang, đúng ra chỉ là một bài văn phúng thích đăng trên báo, mà quả thực đã có ảnh hưởng khá lớn tới nhân loại. Ảnh hưởng đó từ nay tới cuối thế kỉ, còn mỗi ngày mỗi tăng: chính quyền của các nước càng mạnh lại càng tỏ ra tàn nhẫn, phi nhân, nhân loại không thể chấp nhận được tình trạng như hiện nay; hai phần ba phải chịu đói khát, thất học trong khi các nước “anh chị” tiêu phí không biết bao nhiêu của cải, nhân lực vào việc chế tạo hằng ngàn thứ khí giới kinh khủng để tranh giành ảnh hưởng với nhau. Sẽ tới một lúc lương tâm nhân loại phải nổi loạn như lương tâm của Thoreuu ở giữa thế kỉ trước. Đã có định kiến từ hồi hai mươi tuổi Henry David Thoreau sinh ngày 12 tháng 7 năm 1817 ở Concord, tiểu bang Massachusetts (Huê-kì), trong một gia đình rất nghèo gồm bốn người con: Helen, gái; John, trai; rồi tới ông và một người em gái, Sophia. Cha là John Thoreau, nghiêm trang, ít nói, làm ruộng thất bại, mở một quán ở Chelmsford cũng thất bại nữa, dạy học thì không có học trò, làm lái buôn cũng không đủ ăn, sau cùng an phận, đến Concord chế tạo bút chì để sinh nhai. Mẹ Cynthia Dunbar, trái hẳn cha, tính tình hoạt bát vui vẻ, dễ thương, đọc sách rất nhiều, có những tư tưởng tiến bộ, chẳng hạn kịch liệt chống chế độ nô lệ, ảnh hưởng lớn tới tư tưởng của Thoreau sau này. Concord là một làng có khoảng hai ngàn dân, trên bờ con sông cũng mang tên đó, và là chiến trường đầu tiên trong Chiến tranh Độc lập của Hoa kì. Phong cảnh rất đẹp. Chung quanh là cánh đồng có nhiều con sông nhỏ chảy qua. Xa hơn một chút là những ngọn đồi nhỏ đầy thông, bạch-tùng chiếu bóng xuống những mặt hồ và đầm. Một trong những cái đầm được Thoreau thích nhất, thích ngay từ hồi năm tuổi, là đầm Walden. Cũng như các trẻ em khác, hồi nhỏ ông phải chăn bò, bắt thỏ, câu cá, nhưng không thích những công việc đó mà thích đọc sách. Hồi mười tuổi ông đã viết một bài tiểu luận nhan đề là The Seasons (Bốn mùa), tỏ ra yêu thiên nhiên, thích tĩnh mịch và có khiếu về văn chương. Tuy nhà nghèo, nhưng thân phụ ông cũng rán nuôi ông học hết ban Trung học, rồi vào Đại học Concord để chuẩn bị thi vào Harvard. Mười sáu tuổi ông biết chút ít tiếng La-tinh, Hi-lạp, Pháp và tháng 9 năm 1833 ông vào Harvard. Ở đây ông học thêm toán học, khoa học, nhưng vẫn thích các tác giả cổ điển Hi, La nhất. Tính tình lãnh đạm, không ưa giao du, đi thì lúc nào cũng cúi gầm mặt xuống, như mải suy tư, mơ mộng. Gặp tác phẩm cổ điển nào cũng đọc: Virgile, Cicéron, Horace, Homère, Démosthènes, Euripice, Sénèque…, nhờ vậy rất tiến bộ về luận văn, và đã bắt đầu có những tư tưởng khác người. Chẳng hạn trong một bài, ông viết: “Theo những thói quen và tục lệ của người khác, điều đó không thể gọi là bổn phận được, Tôi chỉ có bổn phận theo những qui tắc mà lương tâm tôi chỉ cho tôi thôi… Tôi không được vì sợ làm phật ý người khác mà không làm theo ý tôi.” Suốt đời ông giữ tư tưởng đó. Năm 1836, tác phẩm Nature (Thiên nhiên) của triết gia Ralph Waldo Emerson ra đời, ảnh hưởng lớn tới thanh niên Hoa-kì. Mới đọc mấy hàng đầu, Thoreau đã mê liền: “Muốn biết sự cô liêu thì phải trốn xã hội, trốn cả cái phông của mình nữa. Khi tôi viết hay đọc sách thì dù không có ai bên cạnh, tôi cũng không thật là cô liêu. Muốn thật là cô liêu thì phải ngắm các vì tinh tú.” Như vậy, tư tưởng của Thoreau đã thành hình từ hồi ông hai mươi tuổi: yêu thiên nhiên, thích cô liêu và sống cho chính mình, hoàn toàn tự do, độc lập, không chịu sự ràng buộc của xã hội. Tháng tám năm 1837, ông được bằng cấp đại học Harvard. Trong bài diễn văn đọc lúc phát bằng cấp, ông mạt sát tinh thần thương mại: “Cái thế giới kì cục mà chúng ta sống này lộng lẫy hơn là ích lợi… Phải đảo lộn một chút trật tự của sự vật đi: chỉ nên đổ mồ hôi để kiếm ăn trong một ngày thôi; còn sáu ngày kia phải là những ngày chủ nhật cho tâm hồn nghỉ ngơi để đi thăm cái vườn vũ trụ mênh mông, hưởng những ảnh hưởng êm đềm và tiếp nhận những khải thị cao cả của Thiên nhiên.” Chưa thấy ai mới hai mươi tuổi mà đã đề cao sự nhàn tản tới mức đó. “Một con người kỳ cục” Thi đậu rồi, Thoreau trở về quê nhà, kiếm cách sinh nhai để có thể độc lập sống theo ý mình, mà lại nhàn hạ để suy tư, làm thơ, viết sách. Ông thích thơ nhưng không có khiếu về thơ, lại biết nghề đó khó nuôi sống mình được; suy đi tính lại, ông lựa nghề dạy học. Nhờ một tờ giấy chứng nhận rất tốt của viện trưởng trường Harvard - trình độ học vấn cao, hạnh kiểm rất tốt, đủ tư cách dạy học, - ông được ngay trường tiểu học Concord mời dạy. Nhưng tư tưởng về giáo dục của ông khác đời. Ông tuyên bố rằng sẽ bỏ chính sách dùng roi vọt mà chỉ “thuyết luân lí” cho trẻ thôi. Hội đồng quản trị của trường không tin rằng cách đó hữu hiệu nhưng cũng để ông thí nghiệm trong hai tuần. Thấy kỉ luật trong lớp kém hẳn trước, học sinh hóa ra ngỗ nghịch, làm biếng, hội đồng cử một người tới khuyên ông trở lại lối cũ. Ông nổi quạu, bảo thẳng rằng không muốn nghe ai dạy khôn ông về chức vụ dạy học của ông. Ông nhất định giữ chủ trương dạy học thì không được dùng roi vọt. Cuối buổi học đó, vẻ mặt tự cao tự đại và khinh khỉnh, gần như thách đố mọi người, bảo sáu học sinh sắp thành hàng, quất mỗi em mấy roi, rồi liệng roi xuống đất, bước ra khỏi lớp, từ chức luôn. Không ai chịu được thái độ kì cục đó, mà ông cũng bất chấp dư luận của mọi người. Như ông nói, “điệu đi của ông khác thiên hạ vì ông nghe thấy trong thâm tâm ông một điệu trống khác”. Thôi dạy học, ông giúp cha chế tạo bút chì; công việc này đủ ăn, tự do, nhàn nhã, lúc nào muốn làm thì làm, muốn nghỉ thì nghỉ, nhưng vẫn còn thích trở lại nghề dạy học nên làm đơn xin dạy ở vài nơi khác. Gia đình, họ hàng ông - trừ anh ông là John rất hợp ý với ông - đều cho ông là gàn, bướng bỉnh, có những ý nghĩ ngược đời, mà lại hay tranh luận nữa. Vì vậy ông rút lên ở trên thượng lương, nơi người ta dùng làm chỗ chứa những đồ cũ không dùng tới nhưng cũng không nỡ bỏ đi. Trong tập Nhật ký - thời đó người Âu, Mĩ có thói viết nhật kí, đàn ông cũng như đàn bà ai cũng có một tập riêng ghi chép đủ chuyện - chúng ta thấy ông ghi câu này: “Không nên làm kinh động tụi nhện, để yên chúng, cũng không nên quét sàn, thu xếp đồ đạc chất đống đó lại làm chi.” Ở trên thượng lương đó, ông đọc các tác phẩm cổ điển: Ossian, Homère, Chaucer, Pline, Aristote, Virgile, Le Tasse…; chán rồi thì đi chơi các miền chung quanh Concord, vào rừng, ra bờ sông hoặc lại đầm Walden. Ông ghi lại trong nhật kí những đề tài ông tính viết cùng những tư tưởng của ông, chẳng hạn: “Tôi muốn biết tôi đã sống cách nào để suy nghĩ xem từ nay nên sống ra sao ”. Ông đưa nhật kí cho người thân đọc, và một bà bạn của cô Helen (chị ông) thấy tư tưởng của ông có nhiều điểm hợp với Emerson. Bà đó là chị của bà vợ thứ nhì của Emerson, về kể với Emerson, và Emerson nhắn mời Thoreau lại chơi. Emerson là một triết gia hồi đó đã nổi tiếng, mới lại ở Concord, được thanh niên hoan nghênh, vì ông đề cao cá nhân, đúng hơn là lương tâm cá nhân. Ông cho rằng lương tâm cá nhân còn quí hơn những tín ngưỡng truyền thống, hơn cả những tín điều, giáo lí trong Thánh kinh và của giáo hội nữa. Nghĩa là ông chủ trương hoàn toàn tự do tín ngưỡng, chỉ tâm hồn ta mới phán xét được ta về vấn đề tâm linh. Vậy thì bổn phận chúng ta là phải tự tìm hiểu mình, biểu lộ cá tính của mình. Thoreau đã biết danh ông, đã đọc tác phẩm Thiên nhiên của ông, nhưng vì tinh thần độc lập, chưa bao giờ có ý muốn lại làm quen với ông. Lần này, Emerson mời ông mới tới. Emerson hơn Thoreau mười bốn tuổi, thấy Thoreau có tài viết văn, có những tư tưởng độc đáo, ngầm mong rằng chàng thanh niên hai mươi mốt tuổi đó sau này sẽ thành một môn đệ trung thành của mình. Tình của hai triết gia đó mới đầu đằm thắm, sau lơi dần vì Thoreau độc lập quá, vượt cả Emerson nữa. Từ đó Thoreau thường dự những buổi tranh luận về triết lí ở nhà Emerson. Nhiều người trong nhóm tự xưng là phái “siêu triết” (transcendantalist), chủ trương rằng chỉ nhờ trực giác, chứ không nhờ cảm quan mà tìm được chân lí. Thoreau và Emerson không chấp nhận chủ trương đó. Tháng 5 năm 1838, Thoreau đi du lịch miền Maine hai tuần, để ý tới đời sống của người da đỏ, rồi về Concord mở một trường tư cùng với anh là John. Cách dạy của họ hơi giống cách của Rousseau, dắt học sinh đi bộ hoặc đi thuyền thăm các miền chung quanh, nhận xét cây cỏ, chim muông, tìm các di tích của người da đỏ rồi tùy hứng mà truyền cho học sinh những điều họ hiểu. Những lớp học giữa thiên nhiên đó được trẻ rất thích; khỏi dùng roi vọt mà cũng chẳng phải thuyết luận lí nữa. Họ dạy đâu được hai tháng rồi cuối tháng tám dắt nhau đi xuôi dòng sông Concord tới chỗ hợp lưu với sông Merrimack. Nhóm “siêu triết” ở Concord cho ra tờ The Dial, Thoreau gửi đăng một bài tiểu luận về một thi sĩ La-tinh. Nhưng ông không viết đều, lâu lắm mới gửi một bài; hoạt động chính của ông vẫn là tìm hiểu miền Concord và suy tư về thân phận con người. Tập nhật kí năm đó ghi rất nhiều nhận xét về thiên nhiên về tâm hồn ông: “Tôi lấy làm hãnh diện được thiên nhiên đoái tôi tối, dùng tôi mà tôi không ngờ, chẳng hạn để rải rắc những hạt cây trong khi tôi dạo mát, những hạt cỏ hoặc ngưu bàng bám vào áo tôi mà tôi vô tình chở từ khu ruộng này qua khu ruộng khác.” “Đời sống tôi lúc này như một buổi sáng hè vang tiếng chim hót.” Càng thích thiên nhiên, ông càng mong có một nơi ở riêng biệt, ở giữa đồng nhưng không xa Concord lắm để có thể thỉnh thoảng về thăm gia đình và dự các cuộc thảo luận ở nhà Emerson. Ông thấy trại Hollowell có đủ những điều kiện đó: “hoàn toàn cách biệt, cách làng trên ba cây số, vì cách ngôi nhà gần nhất tám trăm thước, ở xa đường cái mà lại ở gần sông; căn nhà và lẫm đều hư nát nhưng dễ chịu, các cây táo rêu bám đầy và bị thỏ đục rỗng”. Ông thích trại đó quá, muốn mua ngay trước khi người chủ phá hàng rào đã hư, đốn những cây táo, đào bỏ mấy khối đá, mà ông cho rằng mất những cái đó thì cảnh hết nên thơ. Ông chưa có tiền, xin mua chịu, vợ chủ nhà không bằng lòng, thành thử cái ước vọng có chỗ ở riêng đành tạm phải bỏ. Emerson thường đi nơi này nơi khác diễn thuyết ít khi ở nhà, cần có người vừa làm quản gia vừa có thể giúp đỡ mình mọi việc được, mời Thoreau tới ở, dành một phòng cho ông ở trên lầu. Công việc không có gì Therau tha hồ đọc sách trong tủ sách Emerson và bắt đầu được biết triết học Ấn-độ. Ông thích nhất bộ Bhagvat Geeta, một bộ trường thi trữ tình và triết lí của Ấn-độ thời cổ; bộ đó ảnh hưởng lớn tới tư tưởng của ông. Ông ghi trong nhật kí: “Tôi không đọc một câu nào trong bộ sách Ấn-độ đó mà không cảm thấy như được bay bổng lên cao nguyên Ghâte. Tiết điệu của nó gợi cho ta cảnh bão tố trong sa mạc và nước chảy trên sông Hằng. Không ai chỉ trích được bộ đó vì nó cao vòi vọi như Hi-mã-lạp-sơn,” Đầu năm 1812, John, cạo râu, đứt mặt, bị bệnh phá-thương phong mà chết. Ông mất người anh mà cũng là người bạn thân nhất của ông, đau lòng lắm, nhưng ba tuần sau viết cho Emerson: “Hiển nhiên là cái chết chỉ hại cho cá nhân hoặc xã hội thôi. Thiên nhiên không hề biết nó, không mất mát gì cả, vì mất hình thức này thì bù lại có hình thức khác. Nhưng nếu ta coi sự chết là một luật trời chứ không phải là một tai ách thì quả là nó đẹp (…) Cây cối vui vẻ phát triển, rồi héo và nhường chỗ cho những đọt mới. Loài người cũng nên như vậy. Chúng ta bất công và ích kỉ khi khóc vì cái tang của người thân.” Ông hiểu ý nghĩa cái chết và coi thường nó từ hồi đó. Ông vẫn thỉnh thoảng gửi bài đăng trên tờ The Dial và đã có một nhận định vững vàng về nghệ thuật viết: “Những tác giả sung sướng không phải là những người viết để mong được người khác khen, mà là những người viết được những đoạn, những câu chính mình thích; chính mình phải phán đoán văn của mình (…). Nếu tôi viết mà thích thì bấy nhiêu đủ rồi; tôi chắc chắn sẽ có độc giả thích tôi.” Giúp việc cho Emerson ít lâu, ông thấy rằng tính tình và tư tưởng hai người có chỗ trái nhau, như vậy sẽ phiền cho cả hai bên. Emerson tốt bụng, kiếm chỗ dạy học cho Thoreau và ít lâu sau, Thoreau đến Stalen Island làm gia sư, dạy mấy đứa trẻ cho ông William, anh hay em của Emerson. Chỗ dạy học đó rất tốt vì Thoreau có dịp gần gũi các nhà xuất bản ở New York, gặp các chủ báo và các trấn sĩ. Số lương lại hậu: ăn ở trong nhà và mỗi năm lãnh trăm Mĩ kim, còn ở nhà Emerson thì không được lãnh đồng nào cả. Stalen Island cách New York có mười hai cây số; chỉ leo lên ngọn đồi là thấy thành phố đó; vậy mà ở cả tháng ông cũng không hề tới thăm, chỉ nghe những tên Wall Street và Broadway ông cũng đã ngán. Tuy nhiên ông cũng rán làm quen với vài danh sĩ, và khi gặp họ rồi, ông thất vọng. Trong một bức thư cho Emerson ông viết: “Lần nào gặp những người mà danh tiếng đã vang lừng, được nhiều người khen, tôi cũng hơi thất vọng, họ có tài đức hơn đại chúng thật đấy, nhưng vầng trán của họ không rực rỡ đủ các đức đâu… Còn New York thì càng coi, tôi lại càng chán.” Rốt cuộc ông chỉ kiếm được hai người bạn mới: Henry James và Horace Greely, rồi cuối năm trở về Concord, chỉ muốn từ nay sống mãi ở quê hương. Vào rừng để tìm một lối sống Trở về Concord ông lại giúp gia đình chế tạo bút chì, và đi thơ thẩn trong các khu rừng, bên bờ sông hoặc bờ hồ, thường là một mình, đôi khi có bạn. Tháng 4 năm 1844, ông cùng với bạn là Edward Hoar, đi ngược dòng con sông Sudbury, câu được mấy con cá, đem lên bờ nướng. Mặc dầu đã hết sức cẩn thận, mà lửa cũng bắt vào một đám cỏ khô, cháy lan tới khu rừng, ông vội vàng báo cho dân làng biết, đám cháy lan tới non hai cây số rồi mới dập được, ông rất ân hận, mà dân làng không tha thứ cho ông, trước kia chỉ coi ông là một kẻ kì dị, gàn dở, nay khinh miệt ông là hạng vô dụng, vô trách nhiệm, hễ gặp ông ở đâu là mắng vào mặt ông: “Đốt rừng!”. Đã bất bình vì chuyện đó, lại chán vì tờ The Dial phải đình bản, các tiểu luận của mình không biết gửi đăng ở đâu, ông quyết tâm sống xa dân làng một thời gian để viết một cuốn đã dự định từ mấy năm trước, nhất là để tìm một lối sống, khám phá bản thể của sự sống. Ông viết: “Tôi vào rừng vì cố ý muốn sống bằng kinh nghiệm bản thân, giải quyết một cách bình dị các hành động căn bản của lối sống và thử xem tôi có thể học được tất cả những gì mà đời sống dạy cho tôi không… Tôi cần sống đầy đủ rút hết cái tinh túy của đời sống, sống một cách đủ nghiêm khắc với đủ nghị lực để trục xuất tất cả những gì không phải là sự sống…” Thì vừa may có cơ hội. Emerson mới mua được một khu đất dăm mẫu ở bên bờ đầm Walden. Một người bạn của Thoreau khuyên Thoreau lại đó cất chòi ở, chỗ đó hợp với sở nguyện của ông. Ông nghe lời, cuối tháng ba năm 1845, mượn một chiếc rìu tới nơi đó phá rừng để cất chòi một mình, không nhờ ai giúp sức. Chỗ ông đốn cây là “một sườn đồi rất đẹp đầy những tùng, nhìn qua cành lá, thấp thoáng thấy mặt đầm [Walden] và một rừng nhỏ lưa thưa những cây hạt dẻ mới đâm chồi và những cây thông. Trên mặt đầm, lớp băng chưa tan - trừ vài chỗ - màu sẫm và ứ nước”. Đầu tháng năm, kèo cột, rui mè đã xong, ông nhờ một người tiếp tay để dựng nhà. Nhà rộng chỉ có một căn phí tổn hết thảy vào khoảng 28 Mĩ kim. Đồ đạc rất sơ sài: một cái giường, một cái bàn, ba cái ghế và ít đồ làm bếp. Ông ở đó một mình, nấu ăn lấy, mỗi bữa thường chỉ có một món; trồng trọt ít luống đậu, bắp, để sống một cách rất giản dị, “thử đương đầu với những sự thực của đời sống xem sao”. Ông rất thích cuộc đời độc lập và cô liêu đó, mỗi năm chỉ làm rẫy độ vài tháng, kiếm vừa đủ ăn thôi, còn thì giờ thì nhận xét thiên nhiên, cây cỏ, nhất là loài vật: chuột, rắn, thỏ, chim, chồn… và suy tư về lối sống của loài người để viết sách; chiều tối, ông ngồi ở trước cửa thổi sáo để nghe tiếng sáo đập vào khu rừng bên kia đầm rồi dội về. Thỉnh thoảng ông đi kiếm một người tiều phu hoặc vài người thợ rừng để nói chuyện; lâu lâu ông trở về Concord thăm gia đình, bạn bè, nghe các cuộc diễn thuyết. Ông bắt đầu viết cuốn A week on the Concord and Merrimack rivers (Một tuần trên các dòng sông Concord và Merrimack), đưa cho Emerson coi trước, Emerson khen là tư tưởng sâu sắc, tác phẩm có cái hương của hoa đồng cỏ nội, thật là kích thích tâm hồn người đọc. Emerson giới thiệu tác phẩm với nhà xuất bản Wiley & Putnam, Thoreau tràn trề hi vọng - vì đó là tác phẩm đầu tay của ông - nhưng đợi hoài không thấy Nhà xuất bản trả lời. Đồng thời ông gom góp tài liệu để soạn một cuốn phê bình văn học, nhan đề là Thomas Carlyle and his Works (Thomas Carlyle và tác phẩm của ông). Trong cuốn đó, Thoreau đưa ra quan niệm này về bút pháp: “Người viết không được định trước bút pháp của mình, định trước như vậy thì không khác gì định trước tư tưởng của mình… Không, tư tưởng của con người luôn luôn bất thường, hung hăng. Quan trọng gì cái bút pháp, miễn là văn của ta rõ ràng, diễn được đúng tư tưởng của ta. Đúng nghĩa thì bút pháp chỉ là ngọn bút (Stylus), cần gì phải gọt giũa, tô chuốt ngọn bút, trừ phi là để nó diễn tư tưởng của mình một cách đúng hơn. Ngọn bút là để cho ta dùng chứ không phải để ngắm.” Ông giữ đúng qui tắc đó: diễn cho đúng tư tưởng của mình, và diễn đúng được là đủ rồi. Mà tư tưởng của ông quả là nhiều khi “bất thường, hung hăng” nữa - chính ông cũng nhận nó ngòng ngoèo, từ vấn đề này, chuyển qua vấn đề khác rất dễ dàng - nên văn của ông, tự nhiên thật đấy, nhưng nhiều chỗ hơi khó hiểu. Có lẽ vì vậy mà cuốn Một tuần trên các dòng sông Concord và Merrimack không được nhà nhà xuất bản chấp nhận. Bị nhốt khám, khi được thả lại cự nự Một buổi chiều tháng 7 năm 1846, Thoreau đi bộ từ Walden lại Concord để lấy một đôi giày đưa sửa vì ông tính hôm sau lên rừng hái nham-lê. Ông bị một người lính bắt vì tội không đóng thuế thân. Từ năm 1843 ông noi gương Bronson Alcott, tác giả cuốn The Little Women, không đóng thuế thân để phản đối chính phủ vẫn chưa bỏ chế độ nô lệ. Ông tự cho rằng chính phủ làm một việc trái với lương tâm ông, thì ông có quyền không giữ bổn phận công dân nữa. Ông không đi bầu nữa cũng không đóng thuế thân nữa, vì như vậy là tiếp tay với chánh phủ để đàn áp bọn nô lệ. Nhất là hai tháng trước, (tháng 5 năm 1846), chính phủ Hoa-kì lại tuyên chiến, xâm lăng Mễ-tây-cơ, thì ông lại có lí do để không ủng hộ một chính phủ mà ông cho là có tội nặng, bất công, tàn nhẫn. Lính bắt ông, ông phản kháng kịch liệt,“vùng vẫy, chống cự như một con quỉ”, nhưng rốt cuộc ông cũng bị nhốt khám. Khi ngục tốt khóa chặt cửa phòng giam thì ông mới chịu an phận và suy tư như một triết nhân: “Nhìn bốn bức tường đá dầy non một thước, nhìn cánh cửa nặng bằng gỗ và sắt, dày trên ba tấc nhìn, cửa sổ có chấn song, ánh sáng chỉ le lói chiếu vào một chút xíu, tôi không khỏi ngạc nhiên về sự ngu xuẩn của một chế độ coi tôi chỉ là một cây thịt có xương có máu để nhốt khám. Tôi ngạc nhiên rằng sao người ta không tìm được cách dùng tôi vào một việc gì có ích lợi hơn. Tôi nhận thấy rằng có một bức tường đá ngăn cách tôi với đồng bào của tôi, nhưng cũng có một bức tường khác còn khó vượt hơn nữa, ngăn cách họ, không cho họ được tự do như tôi. Không một phút nào tôi có cảm giác bị nhốt cả.” Mấy năm trước, Thoreau cũng đã có lần nhận được giấy chính quyền buộc ông phải đóng một số tiền để cung cấp cho một mục sư mà ông không hề lại nghe thuyết giáo lần nào. Ông không đóng. Chính quyền không làm gì ông được, chỉ yêu cầu ông làm một tờ khai rằng không hề thuộc về giáo phái của ông mục sư đó. Ông chịu làm, nhưng rồi mỉa mai rằng giá tôi có được địa chỉ của tất cả các hội khác mà tôi không gia nhập thì tôi sẵn sàng làm luôn một loạt tờ khai như vậy. Lần này, không đóng thuế thân, tội nặng hơn, chính quyền phải giam ông. Nhưng ông chỉ bị giam một đêm vì sáng hôm sau có người - chắc là bà cô Maria Thoreau -nộp thuế thay cho ông. Ông đã chẳng vui mà còn bực mình vì như vậy là không cho ông phản kháng chính quyền, là tiếp tay với chính quyền đàn áp các người nô lệ và dân Mễ-tây-cơ. Khi ngục tốt mở khám cho ông ra, ông cự nự, không chịu ra, đòi được nhốt nữa. Ngục tốt đó sau này kể lại, bảo: “Chưa thấy phạm nhân nào kì cục như vậy!” Được thả rồi, ông đi lấy đôi giày sửa rồi dắt một bọn người lên đồi hái nham-lê, ở giữa đám nham-lê, cách Concord ba cây số, ông khoan khoái vì cách biệt hẳn làng xóm “không còn thấy chính quyền ở đâu hết.” Chính vì vụ nhốt khám đó mà Thoreau suy tư về chính quyền, và hai năm sau, viết tập Resistance to Civil Government (Chống lại Chính quyền) gần cùng một lúc với Karl Marx viết cuốn Manifesie Communiste (Tuyên ngôn của đảng Cộng sản). Tập mỏng đó sau đổi tên là Civil Disobedience (Bất tuân Chính quyền). Rời Walden trở về Concord Hết mùa hái nham-lê rồi, Thoreau trở về Walden, bắt đầu viết một tác phẩm kể về cuộc đời của ông ở giữa rừng, nhan đề là Walden. Ông cứ thủng thẳng viết và cuối tháng 8 năm 1846, ông ngưng lại để cùng với một người bạn đi du lãm miền Maine, kiếm thêm tài liệu về lối sống của người da đỏ Bắc Mĩ. Miền Maine hồi đó hoang vu, rừng rậm âm u, trải dài hằng chục cây số, chỉ trên ngọn núi, trên các lòng suối, trên mặt hồ mới có chút ánh nắng. Chưa có ai tới khai thác, còn thổ dân thì sống thưa thớt, yên ổn, cơ hồ không biết có chính quyền Hoa-kì. Ông rất thích cảnh tĩnh mịch nơi đó, cách biệt hẳn xã hội: “Ước gì được sống ở đó rồi chết ở đó, chôn ở đó! Nơi đó chắc chắn là có thể sống suốt đời được, ngạo cái chết và nấm mồ được.” Hết lương thực, ông trở về Walden để viết sách một cách tuyệt vọng. Năm đó ông đã ba mươi tuổi, không có vợ con mà chưa lập được sự nghiệp gì cả, mới chỉ có được ít bài báo đăng trên tờ The Dial mà tờ này đã đóng cửa. Đợi mãi không thấy nhà xuất bản Wiley & Putnam trả lời về tập Một tuần trên các dòng sông Concord và Merrimack, ông viết thư yêu cầu trả lại ông bản thảo để ông sửa chữa. Tòa báo Graham’s đề nghị với ông viết vài bài về Emerson hoặc Hawthorne - cả hai đều nổi tiếng đương thời - và sẽ tặng ông một số nhuận bút xứng đáng: nhưng ông làm thinh, vì không muốn lợi dụng tình bạn bè với hai nhà đó để kiếm tiền. Ông lấy bản thảo Một tuần trên các dòng sông Conrord và Merrimack gửi cho các nhà xuất bản khác, cũng không được nhà nào chấp nhận. Nóng ruột, ông hỏi nhà James Munroe xem nếu ông bỏ tiền in lấy thì phí tổn bao nhiêu. Và ngày mùng 6 tháng chín năm đó ông đột nhiên rời chòi của ông của Walden, nghĩ rằng “mình còn có vài cuộc đời nữa để sống, không nên mất thêm thì giờ vào cuộc đời ở bên bờ đầm này”. Thế là khoảng hai giờ chiều ông gom góp quần áo, sách vở, bản thảo, trở về nhà Emerson, coi nhà cho Emerson trong khi ông này qua Anh diễn thuyết. Căn nhà chòi của ông bán lại cho người làm vườn của Emerson. Tính ra ông ở Walden trên hai năm - từ mùng 4 tháng bảy năm 1845 đến mùng 6 tháng chín năm 1847 - trồng trọt lấy và thỉnh thoảng làm thuê vài công việc như đạc điền, đốn cây… để sống, và mỗi ngày tiêu trung bình mất hai cắc bảy. Một cựu sinh viên Harvard, cùng một khóa với ông, phỏng vấn ông về những hoạt động từ khi ở trường ra, ông đáp: “Tôi làm đủ nghề: giáo viên - gia sư - đạc điền - làm vườn - cày ruộng - sơn nhà cửa - thợ mộc - thợ nề - làm lao công - chế tạo bút chì, giấy nhám - viết văn và đôi khi ghép vần vớ vẩn nữa.” Ở nhà Emerson, một hôm ông nhận được một bức thư của cô Sophia Ford - trước làm nữ gia sư cho con Emerson - ngỏ ý muốn làm vợ ông. Ông không do dự gì cả, từ chối thẳng vì không có ý muốn lập gia đình. Thỉnh thoảng ông diễn thuyết ở Concord và một lần ông nói về Quyền lợi và bổn phận của cá nhân đối với chính quyền (The rights and duties of the Individual in relation to government). Sau này ông khai triển những ý chính trong bài đó mà viết thành tập Bất tuân chính quyền. Diễn văn đó không gây một tiếng vang nào cả. Tháng 7 năm 1848, Emerson ở Anh về, Thoreau giao nhà lại cho ông ta, trở về sống với gia đình, lại chế tạo bút chì, đạc điền thuê, ngao du ở đồng ruộng, đồi suối, và viết lách. Nhập tịch làng văn - Bổn phận bất tuân chính quyền Năm 1849 đánh dấu cuộc đời của ông vì ông đích thực bước vào làng văn nhờ cuốn Một tuần trên các dòng sông Concord và Merrinmak và bài báo Bất tuân chính quyền. Ông hỏi hai nhà xuất bản: nhà W. D. Ticknor và Munroe về giá in cuốn Một tuần trên các dòng sông… Nhà trên đưa ra một bản khai giá: 1.000 bản mỗi bản 418 trang giấy tốt, giá 501,21 Mĩ kim. Rốt cuộc ông giao cho nhà Munroe, không rõ phí tổn là bao nhiêu, nhưng chắc là số tiền khá lớn đối với ông, nên ông phải đi diễn thuyết vài nơi để có tiền trả nợ. Cuối tháng năm, sách phát hành, đúng vào lúc chị ông, cô Hellen đau nặng rồi chết (14 tháng sáu). Như mọi tác giả, ông nuôi nhiều hi vọng về tác phẩm đầu tay đó, ước ao chẳng những được nổi danh mà còn lời được một số để có thể chuyên sống một cách thanh bạch về nghề cầm bút. Ông gửi tặng các nhà báo trong nước, các bạn bè và cả các nhà phê bình ở Anh. Tờ New York Tribune lúc đó rất có ảnh hưởng ở Hoa-kì, giao cho George Ripley việc phê bình tác phẩm, Ripley nhận định đúng giá trị văn chương của tác phẩm; mới mẻ, độc đáo, tươi tắn, có nhiều nhận xét tài tình về thiên nhiên, lời du dương như tiếng sáo; nhưng chê triết lí của Thoreau là mượn của người khác, nhiều khi quá đáng, đáng nghi ngờ và không phải là không tai hại. Có lẽ lời phê bình đó làm cho sách khó bán, nhưng lí do chính là thể văn nửa du kí nửa triết lí đó còn mới mẻ quá, hạng bình dân Hoa-kì chưa thưởng thức nổi; họ chỉ thích đọc những trang tả cảnh thiên nhiên, đẹp đẽ du dương để tiêu khiển, chứ không ưa những đoạn triết lí dài dòng mà thường ngược đời của Thoreau. Thành thử tác phẩm Thoreau đặt hết hi vọng vào đó đánh dấu một sự thất bại chua chát ngay khi ông mới góp mặt với làng văn. Bài Chống lại chính quyền đăng số đầu trên tạp chí Aesthetic Papers tháng tư năm đó cũng không được hoan nghênh, độc giả chỉ coi ông là một nhà văn có tài đấy, nhưng lập dị, đọc qua rồi bỏ. Điều mà độc giả thời đó, chính ông nữa cũng không ngờ, là tiểu luận mấy chục trang đó đã làm cho ông trở thành bất hủ. Thomas Paine, trong cuốn Common Sense (Lương tri) xuất bản năm 1776, cho rằng “chính quyền cả những khi ở vào một tình trạng tốt đẹp nhất cũng chỉ là một cái hại cần thiết; nếu lại ở vào một tình trạng tồi tệ nhất thì quả là không thể dung thứ được”. Thoreau cùng một chủ trương với Paine, nên mở đầu bài tiểu luận của ông bằng câu: Tôi sẵn sàng chấp nhận châm ngôn này: “Chính quyền nào chi phối ít nhất là chính quyền ấy tốt nhất”, và tôi mong được thấy châm ngôn đó đem ra thực hành mau hơn, một cách triệt để. Rốt cuộc nó sẽ đưa tới điều này mà tôi cũng tin là đúng nữa: “Chính quyền nào không chi phối chút gì là chính quyền ấy tốt nhất”. Ông nghĩ rằng sự thống trị của chính quyền chỉ là một phương tiện bất đắc dĩ trong giai đoạn hiện tại để bảo vệ sự yên ổn cho dân, càng ít can thiệp vào đời sống của dân càng tốt, vì can thiệp tức là làm mất tự do của cá nhân, mà không gì quí bằng sự tự do của con người. Tuy nhiên ông nhận rằng hiện tình nhân loại chưa đủ chuẩn bị, sáng suốt để không cần tới chính quyền, nên ông không đồng ý với … hạng người tự xưng là theo chủ trương vô chính phủ, [ông] không đòi hỏi phải dẹp mọi chính quyền ngay, chỉ đòi có một chính quyền tốt hơn ngay bây giờ thôi. Từ trước tới nay nhân loại đã tiến được vài bước: từ quân chủ chuyên chế tới quân chủ lập hiến, tức hạn chế; rồi từ quân chủ lập hiến tới dân chủ, đúng hơn là tới chính thể đại diện. Nhưng như vậy đâu có phải là không tiến thêm được nữa. Chính thể dân chủ hiện nay có một khuyết điểm là thiểu số phải phục tùng đa số. Ông cho rằng chế độ đó không công bằng: Quyền hành đã giao vào tay toàn dân mà lại để cho một đa số thống trị và nắm hết quyền trong một thời gian lâu được là tại sao? Không phải là tại đa số đó có vẻ nắm được chân lí, cũng không phải là tại thiểu số kia cho như vậy là công bằng mà chỉ tại đa số đó mạnh nhất về vật chất. Nhưng một chính quyền mà phần đa số nắm được quyền hành trong mọi trường hợp thì chính quyền đó không thể bảo là xây dựng trên sự công bằng được, dù người ta cho như vậy là công bằng. Giao phó hết mọi việc cho phe đa số như vậy thì lương tâm của cá nhân để làm gì? Con người trước hết phải là người đã rồi mới là một công dân. Nếu chính quyền - tức phe đa số - làm một việc trái với lương tâm con người, chẳng hạn trường hợp duy trì chế độ nô lệ, đem quân xâm chiếm Mễ-tây-cơ, mà thiểu số, vì bổn phận công dân, phải phục tùng đa số, không phản kháng, vẫn đóng thuế, vẫn nhập ngũ, dù trong lòng không muốn chút nào, thì không phải là phục vụ Quốc gia mà là phụng sự Quỉ. Không phải là tôn trọng chính quyền mà là tôn trọng sự đê hèn của mình. Gặp trường hợp như vậy thì người công dân có lương tâm phải hành động ra sao? Ông cho rằng không thể một mặt vẫn tuân lệnh chính quyền, một mặt tìm cách cải thiện Chính quyền, thuyết phục cho đồng bào thấy lẽ phải ở đâu và hi vọng rằng một ngày kia đa số sẽ theo chủ trương của mình và lúc đó chính quyền tự nhiên phải thay đổi chính sách. Không, phải phản đối ngay đoạn tuyệt với chính quyền, như ông đã làm. Ông vốn là một công dân tốt, sẵn sàng đóng thuế đường sá, thuế giáo dục, nhưng từ khi chính quyền đàn áp nô lệ, rồi xâm lăng Mễ-tây-cơ thì ông không đóng thuế thân nữa, không muốn cho chính quyền dùng số tiền đóng góp của ông để đàn áp kẻ khác, làm một sự bất công. Ông nói: “Khi một phần sáu dân chúng một nước được tự cho là thành trì của tự do mà bị nô lệ… thì tôi cho rằng giờ của cách mạng đã điểm rồi đấy, đã tới lúc những người chính trực phải nổi loạn rồi đấy. Nhất là khi nước ta không bị xâm lăng mà lại đi xâm lăng thì cái bổn phận nổi loại càng cấp thiết hơn nữa.” Tôi đã cho in ngả câu cuối trong đó ông đã can đảm tỏ thái độ của ông đối với cuộc xâm lăng Mễ-tây-cơ mà chính phủ Hòa-kì phải chịu trách nhiệm. Một trang sau ông còn viết thêm: Dân tộc chúng ta phải bãi bỏ chế độ nô lệ và không gây chiến với Mễ-tây-cơ nữa, dù như vậy có hại cho đời sống của dân tộc thì cũng phải chịu….Một quốc gia trụy lạc thì không khác gì một con điếm bận chiếc áo ngân tuyến mà đuôi áo phải vén lên trong khi tâm hồn ả nhày nhụa ở trong bùn. Có người cho rằng chống lại phép nước như vậy thì sẽ xáo động trong nước, lợi bất cập hại cho quốc gia; ông đáp: Đó là lỗi tại chính quyền….Tại sao chính quyền không biết quí trọng phần thiểu số sáng suốt? Tại sao không khuyến khích các công dân lúc nào cũng thận trọng đề phòng, vạch những lỗi của chính quyền?… Tại sao chính quyền lại cứ hành tội mãi Đức Ki-Tô, bài xích hoài Copernic và Luther ra khỏi Giáo hội, kết tội Washington và Franklin là phản loạn? Chúng ta sinh sau ông một thể kỉ có thể góp thêm ý với ông rằng: Thế nào là lợi và hại cho Quốc gia trong trường hợp đó? Có thể rằng - mặc dầu là chưa chắc - xét cái lợi trước mắt thì mọi công dân phục tùng chính quyền, trong nước không chia rẽ, là một cái lợi cho Quốc gia đấy, nhưng xét về ảnh hưởng lâu dài của một chế độ bất công như chế độ nô lệ, hoặc của một chính sách xâm lăng như chiến tranh Mễ-tây-cơ thì càng để cho nó kéo dài càng có hại, đó mới thực là lợi bất cập hại. Hiện nay người da trắng ở Hoa-kì còn chịu cái tai họa của chế độ nô lệ, chế độ kì thị da đen của tổ tiên họ mấy thế kỉ trước; và bọn thực dân Âu, Mĩ thử kiểm điểm lại xem chính sách thuộc địa của họ rốt cuộc có lợi hay có hại cho chính họ, sau hai thế chiến nó đã gây ra? Pháp có lợi hay có hại sau khi cố tái chiếm xứ mình để rồi mang nhục ở Điện-biên-phủ và bây giờ bao nhiêu ảnh hưởng ở trên bán đảo này sắp vào tay kẻ khác hết? Vậy mà vẫn còn những kẻ lăm le tái lập chế độ thực dân tại các nước Á, Phi dưới một hình thức mới! Vậy Thorean chủ trương khi chính quyền làm bậy thì phải tẩy chay chính quyền liền: Tôi không do dự mà tuyên bố thẳng rằng những người tự mệnh danh là chủ trương bãi bỏ nô lệ, phải đoạn tuyệt với chính quyền đi, không đem bản thân cùng tiền bạc làm hậu thuẫn cho chính quyền nữa (…) Thiểu số mà thuận theo đa số thì là bất lực; nhưng nếu đem toàn lực ra ngăn cản thì chính quyền không sao chống lại được. Nếu ta buộc chính quyền phải lựa chọn một là bỏ tù hết những người công bằng, hai là phải từ bỏ chiến tranh và chế độ nô lệ đi thì chính quyền tất sẽ biết lựa đường nào. Chỉ cần năm nay có được một ngàn người không đóng thuế thôi… Nếu người dân bất tuân chính quyền mà công chức lại từ chức nữa thì là cuộc cách mạng thực hiện được rồi đấy… Đó, cách mạng ôn hòa, bất bạo động là thế đấy. Dĩ nhiên, bất tuân chính quyền như vậy thì thế nào cũng bị nhốt khám như ông, nhưng: Trong một xứ mà bất kì ai cũng có thể bị nhốt khám một cách bất công thì cái chỗ thích hợp nhất cho một người công bằng chính trực là nhà lao…, cái nơi cách biệt nhưng vẻ vang và độc lập đó mà chính quyền nhốt những người chống lại mình là nơi duy nhất mà một người tự do có thể ở một cách vẻ vang trong một xứ giữ chế độ nô lệ… Tôi tin chắc rằng nếu có một ngàn, một trăm hay một chục người… không nuôi dưỡng chế độ nô lệ nữa, mà để cho chính phủ nhốt khám thì Hoa-kì sẽ phải hủy bỏ chế độ nô lệ. Thoreau dẫn một câu của Khổng Tử: “Bang hữu đạo, bần thả tiện yên, sỉ dã; bang vô đạo, phu thả qui yên sỉ dã” (Nước hữu đạo, nghĩa là gặp thời trị, mà mình nghèo và hèn là điều đáng nhục; nước vô đạo, nghĩa là gặp thời loạn, mà mình giàu và sang là điều đáng nhục). Nhưng ông đã tiến xa hơn Khổng Tử nhiều. Cuối bài, Thoreau đưa một biện pháp để sửa đổi chế độ đại diện thời đó mà cũng là thời nay nữa: Tôi thích tưởng tượng một chính phủ biết công bằng với mọi người, tôn trọng cá nhân…,một chính phủ cho một số người dân được sống tách ra ngoài, không liên hệ gì với chính quyền, không bị chính quyền ghì chặt lấy, miễn họ làm tròn bổn phận đối với những người khác, mà không coi họ là nguy hại cho sự an ninh của chính phủ. Như vậy là tôn trọng cá nhân, tôn trọng thiểu số, không bắt thiểu số phải phục tùng, hi sinh cho đa số. Một chính phủ như vậy không khi nào đàn áp đảng đối lập, và nếu phe đối lập làm gì nguy hại cho quốc gia - xét theo quan niệm của chính quyền - thì cùng lắm chính quyền chỉ giam lỏng họ ở một chỗ nào và coi chừng hoạt động của họ thôi. Lời hô hào của Thoreau phát ra tới nay đã một trăm hai mươi năm mà khắp thế giới chưa có một quốc gia nào nghĩ tới việc đem ra thực hiện: ngược lại là khác, cơ hồ như đâu đâu chính quyền cũng vẫn thêm nhiều quyền hành, nhiều phương tiện để đàn áp phe chống đối, mà phe này có khi lại là đa số nữa. Tóm lại Bất tuân chính quyền không nhằm mục đích cải tổ xã hội như bản Tuyên ngôn của Karl Marx, chỉ là một bài chỉ trích chính quyền, và đưa ra vài qui tắc bảo vệ tự do cá nhân, bảo vệ sự công bằng. Ý chính trong tập đó là vì cá nhân mới có chính quyền, vậy thì chính quyền phải phục vụ cá nhân, chứ cá nhân không phải nhắm mắt hi sinh cho chính quyền. Một thiểu số có thể không tuân lệnh của đa số nếu luật đó trái với lương tâm con người. Chính quyền không có thể viện bất kì một lí do gì để buộc dân phải làm hậu thuẫn cho những sự bất công, vô nhân đạo. Lương tâm con người vẫn là đáng trọng hơn cả. Khi có sự xung đột giữa lương tâm của ta và phép nước thì ta cứ theo lương tâm mà bất tuân theo phép nước, và vui vẻ vào khám để đánh thức lương tâm của đồng bào. Thuyết đó không phải là mới mẻ. Từ thời thượng cổ, đã có những triết gia như Socrate, Mạnh Tử phản kháng một chính quyền tàn bạo, thối nát; mà giọng của Mạnh Tử còn gay gắt hơn của Thoreau nhiều (Quân thị thần như thổ giới, tắc thần thị quân như khấu thù: Vua xem bề tôi như đất như cỏ thì bề tôi xem vua như giặc như thù), không kém giọng của các nhà cách mạng 1789 ở Pháp; nhưng cái còng của Thoreau là đã nhấn mạnh vào điểm này: lương tâm con người đáng trọng hơn luật pháp mà quyền của thiểu số, hơn nữa, quyền của cá nhân cũng đáng trọng như quyền của đa số, do đó vạch cho ta thấy một nhược điểm của chế độ đại diện. “Nghề viết văn như vậy đấy” Như trên tôi đã nói, thời đó ít ai chú ý tới lời cảnh cáo của Thoreau, mà chính ông cũng không cho Bất tuân chính quyền là tác phẩm quan trọng nhất của mình. Ông buồn về sự thờ ơ của độc giả đối với cuốn Một tuần trên các dòng sông Concord và Merrimack hơn. Ông lại sống cuộc đời như trước ở Concord. Tháng mười năm 1849 ông đi du lịch ở mũi Cod cùng với Ellery Channing, vừa để ngắm cảnh, vừa nghiên cứu về sinh vật trong miền. Tháng chính năm sau, ông lại cùng với Channing đi du lịch ở Gia-nã-đại một cách rất bình dân, chỉ mang theo ít quần áo gói trong một tờ giấy, rồi lên xe lửa. Ông rất thích cảnh Gia-nã-đại, cho những địa danh bằng tiếng Pháp ở xứ đó như: Chambly, Longueil, Pointe aux trembles… là nên thơ, cho cách cất nhà của người bản xứ: của chính trông ra vườn sau, là kín đáo, hợp với lối sống tĩnh mịch, cô liêu của ông; nhưng vì khí hậu lạnh quá, ông chỉ đi chơi được một tuần rồi về, tiêu hết chưa đầy mười ba Mĩ kim. Năm 1851, ông xúc động khi hay tin một người nô lệ da đen, tên là Thomas Sims ở tiểu bang Virginia đã trốn lên làm ăn ở Boston, bị chính quyền Massachusetts bắt lại giải về cho chủ cũ. Ông phản kháng, cho đạo luật truy nã các nô lệ trốn chủ là dã man; ông mạt sát các báo bênh vực đạo luật đó vì muốn chiều lòng độc giả hầu hết là người da trắng. Đã mấy lần ông giúp các nô lệ da đen trốn qua Gia-nã-đại, giúp cả tiền bạc lẫn phương tiện. Ông vẫn nghiên cứu đời sống của các loài vật, lâu lâu diễn thuyết hoặc bán được một bài cho các tạp chí, để lấy tiền trả nợ nhà xuất bản. Vì cuốn Một tuần trên các dòng sông Concord và Merrimack bán rất ế. Nhà xuất bản Munroe đã mấy lần nhắc ông tính ra sao về cuốn đó, và tháng mười năm 1853, ông bảo họ gửi hết nhưng bản còn lại về cho ông. Trong nhật kí ông ghi: Sách tới hôm nay, chất đầy một xe: in một ngàn mà sau bốn năm, còn lại bảy trăm lẻ sáu bản, tặng mất bảy mươi lăm bản, vậy là bán được khoảng hai trăm bản. Thế là bây giờ tôi có một tủ sách gần chín trăm cuốn mà trên bảy trăm cuốn do tôi viết. Tác giả được ngắm cái kết quả công trình của mình như vậy, thú đấy chứ? Nhưng cuốn đó chất sát tường trong phòng tôi, cao tới đầu tôi. Nghề viết văn như vậy đấy. Bốn năm mà chưa trả hết nợ cho Munroe, vẫn còn thiếu trăm Mĩ kim nữa. Ông phải chế tạo cho mau một ngàn Mĩ kim bút chì, bán lần lần và sau cùng bán lỗ một mớ để có tiền trả nợ. Vậy mà ông vẫn không thất vọng, vẫn mong cho ra đời một cuốn nữa. “Walden” - Một tác phẩm phúng thích văn minh hiện đại Ông giao thiệp với các nhà xuất bản và đầu năm 1854, nhà Ticknor & Fields cho ông hay sẽ xuất bản cho ông cuốn Walden, ông rất mừng, khoe với bạn là Greely. Ông không có vợ con, sống rất giản dị, chỉ một nghề làm bút chì cũng đủ tiêu rồi, ông không cần tiền. Và lại do kinh nghiệm cuốn Một tuần trên các dòng sông Concord và Merrimack ông cũng biết rằng cây bút của ông không nhọn trong cái việc kiếm tiền. Nhưng chắc chắn là ông muốn có chút danh vọng. Ông biết địa vị tầm thường của ông trong xã hội. Một người trạm đưa thư đã mỉa mai gọi ông là hạng “lãng tử”. Ngay một chú lính cảnh sát ở Concord, Sam Staples, cũng coi thường ông. Ông lễ phép gọi hắn bằng tên họ, mà hắn dám sai bảo ông chứ: “Ê, Thoreau, có đi về phía này phía nọ không? Tốt. Đem giùm hai gói này, một đặt ở hiên nhà ông H, một ở nhà ông M. Rồi lúc nào có dịp, tôi giúp đỡ lại cho.” Thoreau chua chát ghi trong nhật ký: Làm con người thấp hèn nhất,“rẻ tiền” nhất ở trong làng, tới nỗi những tên coi chuồng ngựa cũng coi thường mình, thế mà lại có lợi. Tôi được hưởng cái lợi đó tới một mức khác thường, hình như vậy. Có những tên vô lại, chỉ biết mặt tôi thôi chẳng quen thuộc gì tôi cả mà cũng gọi tên tục của tôi ra. Vì vậy ông muốn cho tên ông được quốc dân biết tới mà bọn vô lại đó phải kính trọng ông hơn một chút. Cuốn Walden (hoặc Đời sống trong rừng) được Ticknor & Fields xuất bản đầu tháng tám năm đó: vốn in mỗi bản là bốn cắc ba, giá bán là một đồng (Mĩ kim). Mới phát hành được ba ngày, Thoreau đã nhận ngay được một bức thư khen ngợi chân thành của một độc giả tên là Daniel Ricketson: “Đọc tác phẩm của ông, tôi thú vô cùng… một tác phẩm độc đáo, chứa một nhân sinh quan chân chính… Có nhiều độc giả sẽ cho là tác phẩm chứa những mơ mộng hỗn độn của một người kì cục… Nhưng riêng phần tôi, tôi thấy ông làm chủ được ông, kiến thức thâm trầm và có nhiều lương tri.” Horace Gresly đã giới thiệu xổi cho ông, đăng trên báo trước khi sách phát hành. Vài nhà phê bình khác cũng khen là “sách hay”,“nhiều độc giả sẽ thấy thích và rút được nhiều lời khuyên có ích”. Đặc biệt là tờ Kinckerbocker nhận rằng “sách đáng được thật nhiều người đọc, vì ở cái thời đại con người có thói ham lợi này, sách khuyên chúng ta nên tin ở một lối sống khác lối sống để làm tiền.” Lời phê bình đó đúng. Giữa thế kỉ trước nó đúng một phần thì bây giờ nó đúng ba phần, nhất là trong xã hội hiện tại của chúng ta. Nhân sinh quan của Thoreau hiện rõ trong cuốn đó: yêu thiên nhiên, sống giản dị, trọng tinh thần hơn vật chất, trọng công việc tay chân. Tác giả chép lại tỉ mỉ - gần như là một nhật kí - đời sống trong hai năm của ông ở giữa rừng, bên bờ đầm Walden: đốn cây cất nhà, khai phá ruộng đất, chỉ làm việc vừa đủ để sống một cách rất giản dị, còn dư thời giờ di dưỡng tinh thần, ngắm cảnh thiên nhiên, nhận xét đời sống chim muông, chuyện trò với thợ rừng, thổi sáo đọc sách, viết sách, nhất là suy tư về một nhân sinh quan. Ở phương Tây, làm ẩn sĩ trong rừng như vậy là trường hợp rất hiếm, mà ở phương Đông chúng ta là chuyện rất thường. Tại Nam-Việt này chúng ta vẫn thấy những người một buổi sáng nào đó từ biệt vợ con họ hàng, xách một cái nóp lên núi Tô, núi Cầm, núi Bà-đen, hoặc xa hơn nữa, núi Tà-lơn rồi sống ở trong hang luôn mấy năm, có khi cả chục năm, bằng ít gạo, rau cỏ và nước suối. Nhất là ở Ấn-độ, hạng tu hành đó thời nào cũng nhiều vô kể. Thoreau thích triết học, văn học Ấn-độ, có lẽ đã chịu ảnh hưởng của Ấn, muốn thử sống cuộc đời ở thâm sơn cùng cốc xem sao. Sự thực bờ đầm Walden chưa phải theo nơi hẻo lánh gì lắm, cuộc sống cũng chưa phải là lánh hẳn xã hội - vì lâu lâu ông vẫn về thăm gia đình và bạn bè ở Concord cách Walden có mấy cây số - mà cũng chưa phải là khổ hạnh, chỉ mới là giản dị thôi: căn nhà chòi ông tự tay cất lên còn có đủ những tiện nghi tối thiểu, có giường, có bàn, có ghế, có mười mấy thứ đồ dùng lặt vặt nữa, chứ đâu phải là những cái hang của các ông “đạo” tôi đã được thấy trên dãy núi Thất-sơn. Ông cũng không nhập định, trầm tư bằng các nhà tu hành đó, nhưng theo chỗ tôi biết, ông là người duy nhất ghi chép kĩ những kinh nghiệm, cảm tưởng cùng ý nghĩ của mình trong suốt thời gian “vào rừng”, bằng một bút pháp cao, nên tác phẩm Walden chẳng những có giá trị đối với người phương Tây mà còn gây được nhiều cảm xúc trong lòng người phương Đông chúng ta nữa. Tác phẩm dài bốn trăm trang chép lại đời sống hai năm của ông ở trong rừng, chia làm mười tám chương, có thể đọc riêng từng chương mà vẫn hiểu được, vì ông không ghi công việc từng ngày mà gom lại để thành đề mục: Lối sống, lối sinh nhai, nơi ở, cảnh tĩnh mịch cô liêu, cảnh thiên nhiên, các luật cao đẹp về tinh thần, các người hàng xóm, khách khứa, loài vật trong rừng, cảnh đầm mùa đông, cảnh xuân vân vân… Bố cục chặt chẽ, đề mục luôn luôn thay đổi, cho độc giả khỏi chán, chẳng hạn sau chương về các luật tinh thần, tiếp tới chương về các ông hàng xóm chất phác, sau chương về tiếng động là chương về tĩnh mịch, sau chương về mùa đông tới chương về mùa xuân… Bút pháp của ông rất đặc biệt: nửa thế kỉ trước Marcel Proust, ông đã viết những câu dài cả trang, tổ chức rất chặt chẽ, như Marcel Proust. Ông lại hay dùng nhiều điển, đặc biệt là lấy trong Thánh kinh, trong thần thoại Hi-lạp, trong các tác giả cổ điển như Homère, Shakespeare, cả trong các kinh của Ấn-độ nữa, vì ông rất tinh triết lí Ấn-độ. Dụng ngữ của ông phong phú và văn ông có rất nhiều hình ảnh linh động, làm cho ta cảm thấy được bằng ngũ quan những vật ông miêu tả. Vì vậy mà Hemingway, Sinclair Lewis, Marcel Proust, Henry Miller… đều coi ông là bực thầy. Ông tả cá: Khi thấy chúng nằm trên lớp băng (…) tôi luôn luôn ngạc nhiên sao chúng đẹp lạ lùng, như thể chúng là những con vật hoang đường, xa lạ với thành thị, cả với rừng suối nữa, xa lạ như xứ Ả-rập xa lạ với Concord vậy (…) Chúng không xanh như lá thông, xám như đá, hoặc lam như da trời đâu, tôi thấy chúng còn có những màu đẹp hơn nữa, rực rỡ như hoa, như ngọc, như thể chúng là trân châu, là pha lê của đầm Walden vậy! Một đoạn khác, ông tả cảnh thiên nhiên: Trong tuần lễ thứ nhất, mỗi khi nhìn ra phía đầm, tôi có cảm tưởng là nhìn một tarn[2] nổi ở sườn một ngọn núi, mà đáy cao hơn mặt các hồ khác nhiều; buổi sáng mặt đầm như cởi bỏ lớp áo ngủ bằng sương mù ban đêm, và đây đó lần lần hiện lên những làn sóng nhấp nhô dịu dàng, hoặc một mặt phẳng lặng lấp lánh như gương, trong khi làn sương mù như bóng ma, lẩn lút tan vào trong rừng, sau một đêm hội họp bí mật với nhau. Những đoạn ông tả loài vật, chẳng hạn một con chuột đồng làm bạn với ông, leo lên vai, lên đùi ông, hoặc con ngỗng trời, con ễnh-ương đầu mùa, tiếng dế kêu ban đêm… cũng rất nên thơ, tôi không trích dẫn thêm, mà xin giới thiệu nhân sinh quan của ông, phần tôi cho là quan trọng nhất trong tác phẩm. Ông cho rằng sống chỉ nên thỏa mãn những nhu cầu vật chất thật cần thiết mà thôi. Phải biết coi thường dư luận, trút bỏ các thành kiến của xã hội mà ta đã vội vàng chấp nhận ngay, không chịu suy xét. Mỗi khi nghĩ tới thức ăn, nhà cửa, ta phải tự hỏi: cái đó có thực là cần thiết không? Đục cái cửa này hay cái cửa sổ kia, xây cái lẫm, cái hầm có phải để thỏa mãn một nhu cầu cốt yếu của ta không? Rồi tới sự ăn uống: có cần thiết là mỗi ngày phải ba bữa không? Và tại sao mỗi bữa, lại phải cần nhiều món? Chỉ mấy cái bắp luộc chấm muối không đủ cho bữa trưa ư? Còn bữa tối có lần chỉ luộc ít rau sam hái trong rừng, ông thấy cũng ngon và đủ bổ. Ông giảm những nhu cầu vật chất như vậy và thấy rằng: … nếu người ta sống giản dị, chỉ ăn thứ mình trồng và chỉ trồng cho vừa đủ ăn, không thừa để đổi lấy những vật xa xỉ hơn, hoặc đắt tiền hơn… thì chỉ cần trồng trọt vài khoảnh đất thôi… vì con người có thể ăn uống đơn sơ đạm bạc như loài vật mà vẫn khỏe mạnh. [Như vậy thì] mỗi năm chỉ làm việc khoảng sáu tuần là đủ thỏa mãn mọi nhu cầu. Tôi được rảnh trọn mùa đông và gần hết mùa hè để học hỏi nghiên cứu. Ông phàn nàn rằng người ta lo cái phần xác quá mà bỏ quên cái phần linh hồn, mà càng lo cái phần xác thì đời sống càng bận rộn; “Chúng ta làm phí cuộc đời chúng ta vào các chi tiết”, phải sống “giản dị, giản dị và giản dị” và “khi ta đã giản dị hóa đời sống rồi thì các luật thiên nhiên cũng hóa ra bớt phức tạp đi, sự cô liêu không còn là cô liêu nữa, sự nghèo không còn là nghèo nữa, sự yếu đuối không còn là yếu đuối nữa….mà ta đạt tới một bình diện cao hơn.” Dĩ nhiên, ông xét trường hợp của ông - một người không vợ không con, gần như không còn hệ lụy gì với gia đình, xã hội. Không phải ai cũng có thể theo ông được, mà cũng không nên mong rằng mọi người trong xã hội đều như ông - chính ông, ông cũng nhận vậy, nên bảo rằng ông không khuyên ai sống như ông cả, mà mỗi người phải tự kiếm lấy một lối sống riêng. Nhưng ai cũng phải đồng ý với ông rằng “cái hình hài” quả thực “làm tội cái thân” chúng ta, mà cái văn minh vật chất này tuy có lợi về nhiều mặt, mà cũng có hại lớn tới tâm hồn con người. Chúng ta cứ nhớ lại mà xem, hồi tản cư, sống ở đồng ruộng, rừng núi, chỉ có bát cơm hẩm với mấy hạt muối, chúng ta ăn ngon, ngủ ngon, thảnh thơi biết bao, thấy trăng nước, cây cỏ, văn thơ đẹp biết bao, còn như bây giờ giờ đây… Người ta quá tin ở “những cải thiện tân thời”: sự tiến bộ không phải là luôn chắc chắn đâu. Con quỉ đó đầu tư cho ta mượn vốn rồi tiếp tục bắt ta phải trả lãi dồn cho tới cùng. Những sáng chế của ta, những đồ chơi đẹp đẽ đó, làm cho ta quên không chú ý tới cái cốt yếu. Chúng chỉ là những phương tiện đã được cải thiện để hướng dẫn chúng ta tới một mục đích không được cải thiện, mà mục đích này hiện nay đã dễ đạt quá rồi. Tôi cho in ngả mấy chữ: một mục đích không được cải thiện. Lời đó thật thâm thúy. Nếu Thoreau sống tới ngày nay, chắc không chỉ trách móc nhẹ nhàng như vậy đâu. Các cường quốc, nắm hết sức mạnh vô biên của khoa học cơ giới hiện nay có nhắm mục đích gì không? Nếu có thì mục đích đó không phải chỉ không được cải thiện mà thôi đâu, nó có vẻ như còn mỗi ngày mỗi sa đọa nữa, Thoreau mạt sát sự xa xỉ, nhất là những công trình kiến trúc làm hao kiệt huyết hãn, sinh lực của nhân dân: Các quốc gia bị cái tham vọng điên khùng này ám ảnh: chồng chất cho thật nhiều phiến đá đục khắc để lưu danh hậu thế. Giá họ chịu tốn công như vậy để mài chuốt phong tục!… Phần lớn số đá mà một quốc gia đẽo đục chỉ là đưa tới mồ của quốc gia đó thôi Quốc gia đó tự chôn sống mình. Xét các kim tự tháp Ai-cập, ta thấy điều này đáng ngạc nhiên nhất là tại sao lại có biết bao kẻ trụy lạc đến nỗi bỏ suốt đời để xây mộ cho một tên ngu ngốc tự phụ nào đó; giá dìm nó xuống sống Nil rồi liệng thây nó cho chó ăn, có phải là sáng suốt, hùng dũng hơn không? Tôi có thể tìm ra được một lí lẽ nào đó để biện hộ cho những kẻ xây cất và tên vua Ai-cập đó, nhưng tôi không hoài công. Trong Walden, xen vào những đoạn tả cảnh và tự sự, ta thấy rất nhiều suy tư triết lí như trên: vấn đề gì hiện ra trong óc là ông ghi lại: về cách viết văn, về sự dùng bò cày, ngựa kéo… Ông có một quan niệm độc đáo về kiến trúc: xây nhà không nên trang hoàng, tô điểm trước, vì một căn nhà không đẹp nhờ những cái phô trương đó mà nhờ biểu lộ được tâm hồn, cá tính của người ở; vì căn nhà cũng như cái “vỏ” của mỗi người, cũng như cái mai của con rùa, cái vỏ của con ốc, con sò. Mỗi cá nhân phải biểu lộ cá tính của mình trong hành động, nếp suy tư, cách ăn, cách ở, cách mặc… Theo đòi người khác, muốn phù hợp với xã hội, tức là muốn chết. Ông rất tôn trọng sự làm việc bằng tay chân: Con người suy tư bằng chân tay cũng như bằng óc… Loài người mà cất lấy nhà để ở, kiếm lấy thức ăn một cách giản dị và lương thiện để tự nuôi thân và nuôi gia đình thì biết đâu cái thi năng (tài năng làm thơ) chẳng phát triển trên khắp mặt đất, như loài chim vừa làm những việc đó vừa hót? Về giáo dục ông cũng có những ý kiến mới mẻ. Ông muốn rằng sinh viên phải vận dụng tay chân nhiều hơn, chẳng hạn có thể xây cất lấy căn nhà, trường học, chứ không được biệt đãi, hưởng hết những khó nhọc của người khác. Sinh viên không nên coi sinh hoạt là một trò chơi hoặc chỉ nghiên cứu nó thôi, trong khi quốc gia nuôi họ… mà phải sống đầy đủ từ ngày đầu tới ngày cuối. Có cách nào cho thanh niên tập sống tốt hơn cách thí nghiệm ngay cuộc sống không? Tôi tưởng cách đó cũng luyện trí óc họ bằng môn toán chứ đâu có kém. Giọng ông thật hóm hỉnh: Ở Đại học ra, tôi ngạc nhiên nhận thấy rằng mình đã được học môn… hàng hải. Giá người ta dắt tôi đi coi hải cảng một lần thì lại bổ ích cho tôi hơn. Ngay một sinh viên nghèo mà cũng chỉ học môn kinh tế thôi, còn cái môn kinh tế thực hành, kinh tế nhân sinh - nó đồng nghĩa với triết lí - thì không có trong chương trình. Kết quả là trong khi cậu ta đọc Adam Smith, Ricardo và Say [các lí thuyết gia về kinh tế ở thế kỉ XVIII và XIX] thì nhất định cậu làm cho cha cậu ngày phải mang nợ. Walden và Bất tuân chính quyền là hai tác phẩm chính, bất hủ của Thoreau, nên trong hai phần sau tôi sẽ trích ba bốn chục trang (khoảng một phần mười) trong cuốn trên và dịch trọn cuốn dưới để giới thiệu và độc giả. Khi ông suy tư về triết lí thì tư tưởng của ông và có lúc “ngoắt ngoéo” như ông nói, nên đôi khi khó hiểu; ông có vẻ chỉ ghi cảm tưởng cùng ý nghĩ một cách tự nhiên chứ không có ý lập luận để thuyết phục người đọc; văn ông lại bóng bảy, hơi phóng túng, có câu dài cả một trang, cho nên khó dịch; chúng tôi chỉ cố dịch cho thoát, chắc có chỗ không được đúng lắm. Bênh vực nô lệ Xuất bản Walden rồi, Thoreau vẫn tiếp tục đi du lịch và viết. Năm 1854, lại một người nô lệ da đen trốn rồi cũng bị chính quyền Massachusetts bắt ở Boston, giải về Virginia, y như vụ người nô lệ Sims mấy năm trước. Thoreau gom hết cả những điều đã ghi chép về hai vụ đó, viết một bài diễn văn nẩy lửa, nhan đề là Slavery in Massachusetts (Vấn đề nô lệ ở Massachusetts) đọc ở Framingham, làm cho mọi người chú ý tới. Ông bảo: Tất cả quân lực của tiểu bang này là để phục vụ một người chủ nô lệ ở Virginia, một ông Sut le nào đó, để cho ông ta bắt lại một người mà ông ta coi như của cải của mình; nhưng người ta lại không nhờ tới một người lính nào để che chở cho một công dân Massachusetts khỏi bị bắt cóc. Luật pháp không bao giờ làm cho người hóa ra tự do cả; chính con người phải trả lại tự do cho luật pháp… Cùng năm đó ông viết một bài nữa: Life without principle (Sống không qui tắc) cũng rất nổi danh. Ông chỉ trích lối sống của mọi người, bảo cái thói làm việc hoài hủy suốt ngày trái với triết lí, với sự sinh hoạt, còn hơn là tội lỗi nữa: Nếu một người vì yêu rừng mà thơ thẩn trong rừng nửa buổi [như ông chẳng hạn] thì người ta chê là tên ăn hại; nhưng nếu người đó suốt ngày đầu cơ, đốn củi, phá rừng thì người ta khen là một công dân hoạt động, có óc kinh doanh, mạo hiểm. Cơ hồ như người thành phố có chú ý tới cây thì chỉ là để đốn nó thôi. Ông cho cái việc thiên hạ đổ xô lại California tìm vàng là nhục nhã cho nhân loại: Có bao nhiêu kẻ sẵn sàng sống nhờ may rủi, và tìm cách dùng quyền hành đàn áp những người không được may mắn bằng mình, mà chẳng cống hiến cho xã hội được gì. Và người ta gọi tinh thần đó là tinh thần mạo hiểm đấy!… Thà chết đói còn hơn là đánh mất cái thiên chân của mình trong cách thức kiếm ăn. Mạt sát thói gì của loài người thì người ta cũng nghe được, mạt sát cái thói tham tiền thì nhất định không ai hoan nghênh ông rồi. Chúa và tôi có gây lộn với nhau lần nào đâu? Từ năm 1855, mới ba mươi tám tuổi, sức ông bắt đầu suy, thường nóng, ho, run chân. Có lẽ vì chế tạo bút chì, hít bụi than chì, nên bị lao phổi, nhưng cũng tại thể chất ông vốn yếu nữa. Về phương diện tiền bạc thì tình trạng của ông rất khá: vẫn bán được chì để làm bút; mà cuốn Walden chưa đầy một năm đã bán được trên ngàn bản: cuốn Một tuần trên các dòng sông Concord và Merrimack lúc này nhờ ông đã có danh, được nhiều người hỏi hơn và ông đề nghị với nhà Ticknor & Fields tái bản, mặc dầu số in lần trước chưa bán hết. Năm sau, ông tới New York, lại thăm nhà thơ danh tiếng Walt Whitman, cũng có óc độc lập, cũng đề cao, tôn sùng cá nhân như ông, ông khen Whitman, thích nhất bài thơ về Người Mĩ và mặt trời lặn của thi sĩ đó, chịu phục là Whitman có một bản tính mạnh mẽ, bình tĩnh, mặc dầu cục mịch. Sức khỏe bình phục được kha khá, ông lại đi du lịch một lần chót ở miền Maine và mũi Cod (1857) để nghiên cứu về rừng và ruộng. Văn của ông lúc này càng giản dị. Ông bảo: Về cách viết, nếu thực sự có điều gì muốn diễn thì nó tự nhiên từ ngòi bút tuôn thẳng ra như n cục đá rớt xuống, vì không có hai cách viết. Tô Đông Pha khi nói rằng văn minh như “hành vân, lưu thủy” cũng là diễn ý đó một cách đẹp đẽ hơn mà không mạnh mẽ bằng. Năm 1859, thân phụ ông mất. Năm sau ông viết tiếp mấy cuốn nghiên cứu: Kalendar of Concord (Lịch Concord) một loại sách về vạn vật ở Concord; Dispersion of seeds (Sự rải rác tự nhiên của các hạt giống)… Ông chưa kịp in mấy cuốn đó thì đầu năm 1862 bệnh đau phổi trở lại nặng. Ông biết rằng lần này khó qua khỏi, viết cho một người bạn: “Nếu tôi còn sống được thì còn giúp cho khoa vạn vật học được nhiều”. Ông đã theo đúng triết lí của ông: thản nhiên với sự chết. Bà cô Louisa của ông hỏi ông đã giải hòa với Chúa chưa, ông đáp: “Chúa và tôi có gây lộn với nhau lần nào đâu?” Channing, bạn thân của ông rầu rĩ rằng ông mất đi, mình sẽ cô độc, ông bảo: “Cái gì cũng nên có một lúc hết chứ”. Một người lại thăm, muốn an ủi ông, bảo rằng ai cũng phải chết. Ông đáp: “Ngay từ hồi nhỏ tôi đã biết điều đó rồi, và bây giờ tôi không thất vọng”. Một người quen khác cũng muốn an ủi ông nói về thế giới bên kia, ông chỉ bảo: “Sống một thế giới một lúc thôi chứ.” Và sáng mùng 6 tháng năm, ông trút hơi thở cuối cùng một cách rất bình tĩnh, dễ dàng. Năm đó ông mới bốn mươi lăm tuổi. Emerson đưa ông tới huyệt, đọc điếu văn khen ông là “Người Hoa-kì thành thực nhất”,“thể xác và tinh thần hòa hợp nhau nhất”,“tay lực lưỡng, ngũ quan tinh tường, nghị lực mạnh mẽ, tinh thần rất minh triết.” Emerson tiếc rằng Hoa-kì chưa hiểu được chân giá trị của Thoreau. Lời đó đúng. Ảnh hưởng của Thoreau Danh của Thoreau lớn lên một cách chậm chạp mà ảnh hưởng của ông lan ra cũng chậm, một phần có lẽ vì chủ nghĩa duy vật ông đả kích đương phát triển mạnh quá, và ông là người đi ngược dòng thời đại. Chậm nhưng vững, bền. Khi ông mất chỉ có vài tờ báo đăng tin buồn và ít lời khen rồi không ai nhắc tới ông cả. Ba bốn năm sau, nhà Ticknor & Fields tái bản hai cuốn Walden, Một tuần trên các dòng sông Concord và Merrimack, và xuất bản một tập tiểu luận: Exxcursions (Du lãm), hai tập nửa du kí nửa nghiên cứu vạn vật: The Maine woods (Rừng ở Maine), CapCod (Mũi Cod), cũng không được hoan nghênh gì lắm. Mười một năm sau khi ông mất, bạn thân của ông là Channing mới cho in một cuốn chép đời sống của ông; gần cuối thế kỉ trước, một tác giả Anh mới viết về ông, và sau thế chiến thứ nhất (1924), người Pháp mới chú ý tới ông nhờ cuốn Henrry Thoreau, sauvage của Léon Bagalgete; và người Hoa-kì ngày nay đã nhận chân được giá trị của ông, đặt ông vào hàng các văn hào cổ điển của mình. Ảnh hưởng của Thoreau còn lớn hơn nữa, nhưng cũng đi vòng quanh khắp thế giới rồi mới trở về quê hương của ông. Mới đầu có lẽ là nữ sĩ Pháp Hubertine Auclert người sáng lập ra tờ báo La ciloyenne (Nữ công dân) để bênh vực nữ quyền. Năm 1880 (mười tám năm sau khi Thoreau mất) bà viết một bức thư ngỏ gửi Quận trưởng hạt Seine (Paris) bảo: “Tôi đã không có quyền kiểm soát cách chính phủ dùng tiền của tôi ra sao thì tôi không muốn cho chính phủ tiền nữa.” Hai mươi năm sau, văn hào Nga Léon Toistoi đọc Bất tuân chính quyền, càng hăng hái bênh vực bọn nông nô Nga, rồi viết một bức nhắn nhủ dân tộc Hoa-kì, gửi đăng trên tờ North American Review (Tạp chí Bắc Mỹ) trách dân Hoa-kì không biết nghe lời cảnh cáo của Thoreau mà chỉ nghe lời những nhà tài phiệt, kĩ nghệ gia của họ. Nhưng ảnh hưởng lớn nhất của Thoreau là ảnh hưởng tới Gandhi. Năm 1907, một bản Bất tuân chính quyền tới tay một luật sư Ấn còn trẻ, làm việc ở Nam Phi: Mohandas Karamchand Gandhi, lúc đó đương tìm một lối bất bạo động để chống đối chính quyền thực dân Anh. Theo Henry Salt, một người viết tiểu sử Thoreau thì Thánh Gandhi đã xúc động mạnh khi đọc Bất tuân chính quyền, dịch ngay một phần đăng trên báo Indian Opinion in South Africa (Công luận Ấn ở Nam Phi), lại trích nhiều đoạn nguyên văn đăng trên phần Anh văn của tờ đó nữa. Rồi Thánh tìm đọc Walden và các tiểu luận khác để hiểu thêm Thoreau. Thánh cải thiện thuyết bất tuân chính quyền thành thuyết Slyagraha (Sức mạnh tinh thần), năm 1915 trở về Ấn-độ, dùng chính sách bất bạo động, bất hợp tác, bất tuân chính quyền mà tranh đấu với thực dân Anh, gây tiếng vang trên khắp thế giới. Chẳng những Thánh bình tĩnh vào khám hơn Thoreau nhiều, mà còn bảo: “Chúng ta nên yêu cầu mở rộng khám đường để chúng ta bước vào, hân hoan như chú rể vén rèm bước vào buồng cưới. Khám đường chính là nơi chúng ta rèn luyện ý chí đấu tranh.” Một cuộc vận động của Thánh làm cho thế giới kinh ngạc, thán phục là cuộc vận động không nộp thuế muối, tháng tư năm 1929. Một đoàn đông tới cả trăm ngàn người theo Thánh đi 200 dặm, ra bờ biển, sau khi cầu nguyện rồi, xuống biển, múc nước, nấu muối lấy mà dùng, chứ không chịu dùng muối của chính quyền Anh, nghĩa là không chịu nộp thuế muối nữa, như vậy để tỏ cho người Anh thấy rằng người Ấn có quyền sử dụng thổ sản thiên nhiên của họ, luật pháp Anh không thể ngăn cản nổi. Thực dân Anh đàn áp dữ dội: hằng ngàn người bị bắt giam hoặc bị đánh nát tay mà không chịu bỏ dúm muối mới vét được. Một đoàn 2500 người lầm lũi tiến tới những nồi muối của chính phủ có 400 lính cảnh sát canh chừng. Lính giáng tay thước và báng súng lên đầu, lên lưng họ. Họ không kêu, không đỡ, cứ im lặng cho đánh, hết tốp này tới tốp khác tiến lên cho đánh. Sau lính sợ, không dám đánh nữa, rốt cuộc có 2 người chết và 320 người bị thương. Cuối thế chiến thứ nhì, Anh mới công nhận Ấn là quốc gia độc lập, nhưng sự thực thì Ấn đã giành lại được tự do từ cuộc vận động không nộp thuế muối đó rồi. Thánh đã nói và đã chứng minh rằng lời của Thánh đúng: “Ngay cả một chính quyền độc tài vào bậc nhất cũng không thể đứng vững được nếu không có sự tán đồng của dân, của kẻ bị trị… Khi người dân không còn sợ sức mạnh của kẻ độc tài nữa thì uy quyền của chúng tiêu tan rồi.” Thánh còn dùng chính sách bất bạo động để chống tôn giáo và hủ tục, khi Thánh dắt bọn “tiện dân” lại giếng của làng để lấy nước, như vậy là phá cái luật kì thị tiện dân đã có từ mấy nghìn năm ở Ấn-độ. Gandhi đã thắng được Anh, mà vua Đan-mạch đã thắng được Đức-quốc-xã, cũng nhờ Thoreau. Trong thế chiến thứ nhì, khi quân đội Hitler đã xâm chiếm Đan-mạch, ra lệnh cho các người Do-thái ở Đan-mạch phải đeo ngôi sao David sáu cách để phân biệt với các người dân khác, mà chúng sẽ dễ kiểm soát, bắt giam, hành hạ. Tức thì gần như toàn dân Đan-mạch, ngay cả nhà vua, Christian, hễ ra đường là đeo ngôi sao David. Bọn Đức-quốc-xã căm lắm, nhưng không dám xử tội nhà vua, chỉ cấm ngặt không cho ngài ra khỏi cung, và tuyên bố với dân chúng rằng “long thể bất an”. Dân Đan-mạch thừa hiểu dã tâm của chúng, dùng chính sách “phản kháng bằng hoa”: Người dân nào cũng kiếm hoặc mua một bó hoa, cùng đem lại cung điện dâng hoàng thượng thành thử đường phố ở kinh Copenhagen mắc nghẽn hết, xe cộ không qua lại được, mọi công việc ngưng trệ. Bọn Đức phải nhượng bộ, tuyên bố rằng nhà vua đã bình phục một cách mau chóng, và từ đó chính sách kì thị Do-thái của chúng hóa ra vô hiệu ở Đan mạch, trong khi vẫn còn áp dụng ở các nước Đông-Âu và Tây-Âu mà chúng chiếm được. Đó là một vinh dự lớn lao cho dân tộc Đan-mạch. Sau chiến tranh, dân da đen ở Nam-Phi chống chính phủ Strijdom độc tài, kì thị màu da, cũng là nhờ ảnh hưởng của Thoreau. Rồi năm 1956, ở gần Partinico, trên đảo Sicile của Ý, và trăm người dân nghèo, đợi mấy năm không thấy chính quyền cấp cho kinh phí để đắp một con đường cần thiết cho sự sinh hoạt của làng, cùng nhau vác cuốc, xẻng, tự đắp lấy đường, dưới sự điều khiển của Danilo Dolci. Bọn cảnh binh vác súng tới, bắt họ giải tán. Họ không giải tán, liệng đồ nghề xuống đất rồi ngồi xổm xuống, để cho cảnh binh khiên họ chất lên “xe cày”, chở về khám đường. Vụ đó làm vang động dư luận, và báo chí khắp thế giới đều đăng hình Danilo Doici, coi ông là môn đệ của Gandhi. Sau cùng ảnh hưởng của Thoreau trở về Hoa-kì. Mới đầu là Mục sư da đen James Robinson, tuyên bố rằng không có câu nào trong cuốn Bất tuân chính quyền mà không có ý nghĩa đối với “người da đen chúng ta ngày nay” vì tuy ở Hoa-kì không còn chế độ nô lệ mà Thoreau đã mạt sát, nhưng vẫn còn chính sách kì thị màu da và người da đen vẫn bị ngược đãi về kinh tế, chính trị, xã hội. Sau tới Mục sư, cũng da đen, Martin Luther King, người đã điều khiển cuộc tranh đấu bất bạo động của mấy chục triệu đồng bào ông, tổ chức các cuộc tẩy chay các tiệm của người da trắng, ngồi ỳ ở trong giáo đường, khách sạn da trắng, những cuộc diễn hành mang tên là “Tự Do” ở Alabama, Mississipi…, đã bao nhiêu lần vào tù ra khám, và mấy năm trước đây được giải thưởng Hòa bình Nobel, rồi bị ám sát. Mục sư bảo: “Chúng tôi chỉ nói với đoàn thể da trắng rằng chúng tôi không hợp tác với họ nữa đâu vì chính sách của họ xấu xa… Khi một dân tộc bị đàn áp mà sẵn lòng chấp nhận sự đàn áp thì khác gì khuyến khích kẻ kia càng đàn áp thêm nữa không?” Ở nước ta, từ khi quân Pháp muốn tái chiếm xứ mình tới nay, trải qua bao nhiêu “triều đại”, đã có bao nhiêu cuộc chống đối bất bạo động đồng thời với những cuộc chống đối bằng vũ khí và cuộc phản kháng của Phật-giáo năm 1963 cũng vang động khắp thế giới không kém cuộc thắng lợi ở Điện-biên-phủ năm 1954. Ở thời đại người ta gọi là dân chủ này mà nhìn khắp thế giới, đâu đâu cũng thấy những chính quyền chà đạp cá nhân, đàn áp kẻ yếu còn hơn thời xưa thì học thuyết Thoreau càng cần thiết mà ảnh hưởng của ông sẽ càng ngày càng lớn. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ rằng Bất tuân chính quyền và Walden được in mỗi ngày mỗi nhiều ở các nước Á Phi và châu Mĩ La-tinh. Sài Gòn, ngày 10.4.1970 Phần 2 Walden (Đời sống trong rừng) Life in the woods (trích) Khoảng cuối tháng 3 năm 1845, tôi mượn 1 chiếc rìu và xuống khu rừng gần đầm Walden, ngay sát chỗ mà trước kia tôi đã định cất nhà rồi tôi bắt đầu đốn những cây nhỏ, những cây bạch tùng cao thẳng và nhọn như mũi tên, để lấy gỗ làm sườn nhà. Buổi đầu khó mà khỏi mượn dụng cụ của người khác được, nhưng có lẽ đó là cách đối xử nhã nhặn nhất, vì như vậy là cho người khác cơ hội để ý tới công việc của mình. Người chủ, khi trao chiếc rìu cho tôi, bảo rằng ông ta quý nó như quý con ngươi của mình; nhưng khi trả cho ông, thì lưỡi rìu còn bén hơn hồi tôi mượn của ông nữa. Chỗ tôi đốn cây là một sườn đồi rất đẹp, đầy những cây tùng, nhìn qua cành lá thấp thoáng thấy mặt đầm và một rừng nhỏ lưa thưa những cây dẻ mới đâm chồi và những cây thông. Trên mặt đầm, lớp băng chưa tan - trừ vài chỗ - màu sẫm và ứ nước. Suốt mấy ngày đó tuyết rơi nhè nhẹ trong rừng, nhưng thường thường khi trở về nhà, đi ngang qua mặt đường xe lửa, tôi thấy lớp cát vàng đắp lên, trải ra tới xa, bóng loáng trong không khí có mù sương, và đường rầy lấp lánh dưới mặt trời xuân, tôi nghe thấy tiếng hót của các con chim sơn ca, te-te và nhiều loài khác đã từ nơi xa lại đây báo tin xuân về. Những ngày xuân đó tươi đẹp; mùa đông của thiên nhiên cũng như sự bất bình cáu kỉnh của con người đã tan vào khí xuân; và đời sống trước kia thiêm thiếp bây giờ bắt đầu tỉnh dậy. Một hôm chiếc rìu của tôi long cán, tôi đẽo một khúc cây dẻ còn xanh để chêm, rồi dùng một cục đá nện nó vào, tôi đem hết cả xuống ngâm trong một cái hố dưới đầm để gỗ nở ra, và tôi thấy một con rắn len lỏi xuống nước; nó nằm sâu dưới đáy, có vẻ không khó chịu gì cả suốt thời gian tôi ở đó, ít nhất là mười lăm phút. Có lẽ nó chưa ra khỏi trạng thái hôn thụy mùa đông. Tôi cho rằng cũng vì một lý do y hệt vậy mà loài người còn ở trong trạng thái thấp kém, bán khai; nên họ chịu để cho mùa xuân của các mùa xuân kích thích họ, thì nhất định đời sống của họ sẽ cao đẹp hơn, trong sạch hơn. Trước đó, những buổi sáng đông giá, đi trên đường, tôi gặp những con rắn mà thân mình còn cóng một phần, đợi ánh nắng sưởi ấm rồi mới cử động được. Ngày mùng một tháng tư, trời mưa và băng rã. Sáng hôm đó, nhiều mây mù, tôi nghe thấy một con ngỗng trời lang thang trên đầm, kêu dữ dội như gặp tai nạn; hoặc như thần sương mù. Trong mấy ngày tôi tiếp tục đốn cây làm cột, làm đòn tay bằng chiếc rìu lưỡi hẹp của tôi, không suy nghĩ gì thâm trầm, cũng chẳng có gì đáng nói với người khác, tự hát cho mình nghe: Con người khoe kiến thức của mình rộng; Coi kìa! Con người bay bổng lên: Nào là khoa học, nào là nghệ thuật, lại thêm Cả ngàn áp dụng của những môn đó, Mà không biết rằng Gió … đương thổi.[3] Tôi đẽo những thân cây lớn thành những khúc chiều ngang khoảng mười lăm phân, giữ lại lớp vỏ ở hai hoặc ba mặt, tùy theo khúc cây dùng để làm cột, làm đòn tay hoặc ván lót sàn; thành thử có được những khúc cũng thẳng như xẻ bằng cưa mà lại chắc chắn hơn. Khúc nào cũng đục mộng ở hai đầu vì tôi đã mượn thêm được ít dụng cụ khác. Mấy ngày ở trong rừng trôi qua thật mau; tôi có thói quen gói bánh mỳ và bơ vào một tờ báo đem theo để ăn, và buổi trưa tôi lấy tờ báo đó ra đọc trong đám thông xanh tôi mới đốn. Tay tôi dính bết một lớp nhựa thông dầy, và những khúc bánh phết bơ của tôi cũng thơm phức nhựa thông. Nhờ đốn thông mà tôi biết rõ loài thông và mặc dầu đốn chúng, tôi đã thành bạn thân chứ không phải kẻ thù của chúng. Đôi khi một người đi chơi trong rừng nghe tiếng rìu của tôi, lại coi và chúng tôi vui vẻ chuyện trò ngay trên đống vỏ bào. Tôi không hấp tấp cho mau xong, trái lại muốn kéo dài cái thú vui làm thợ mộc; vào khoảng giữa tháng tư, nhà tôi đã sẵn sàng để dựng (…) Tôi đào hầm cho nhà tôi ở sườn một ngọn đồi hướng nam, đúng vào chỗ mà trước kia một con ngân-thử đã làm hang; tôi cho hầm vuông vức mỗi chiều non hai thước; tôi đào qua lớp rễ các cây gai và cây thù- du (sumach), hết lớp rễ đó rồi tới một lớp cát mịn; như vậy mùa đông dù lạnh tới mấy, chứa khoai tây thì cũng không sợ hư. Tôi để cho thành hầm xiên xiên, chứ không cho dựng đứng rồi lát đá; vì ở lớp sâu đó mặt trời không bao giờ chiếu tới nên cát không sụt. Công việc đó mất khoảng hai giờ và tôi thích thú đặc biệt. Hầu hết ở vĩ tuyến nào, loài người cũng đào hầm để cho nhiệt độ không thay đổi nhiều[4]. Dưới những ngôi nhà lộng lẫy nhất ở các thị trấn, luôn luôn có một cái hầm, nó như là cái rễ của ngôi nhà; và phần xây cất ở trên có khi đã tan nát từ lâu rồi mà hậu thế còn tìm thấy dấu vết trong lòng đất. Nhà không khác một cái cổng để đưa vào cái hang. Sau cùng, đầu tháng năm tôi nhờ vài người quen tiếp tay dựng ngôi nhà, để tình hàng xóm thêm gắn bó, chứ thực ra không cần họ giúp đỡ (…) Ngày mùng bốn tháng bảy, ngay khi nóc và tường vừa dựng xong, tôi bắt đầu lại nhà mới ở; mép các tấm ván đã được hớt, tấm nọ phủ kín mép tấm kia cho nên nước không rỉ qua được. Tôi đã ôm đá từ dưới đầm lên đồi, được đầy hai xe, để dùng làm nền lò sưởi ở một góc nhà. Tôi xây lò sưởi sau khi giẫy cỏ mùa thu, và trước khi trời lạnh cần phải sưởi; trong khi chờ đợi, tôi nấu bếp ở trên mặt đất, giữa trời, buổi sáng sớm - luôn luôn tôi thấy cách đó tiện hơn và thích thú hơn cách chúng ta thường làm (nghĩa là cách nấu trong bếp). Nếu bánh chưa chín mà trời muốn nổi cơn dông thì tôi ghép vài tấm ván để che ngọn lửa rồi tôi ngồi ở dưới coi chừng bánh; những lúc như vậy thú tuyệt. Trong suốt thời gian làm việc nhiều bằng chân tay đó, tôi không đọc sách, nhưng bất kỳ một mảnh báo nào rơi rớt trên mặt đất, cái tay nắm hay nắp bàn, tôi cũng lượm lên đọc, thích thú như đọc tập Iliade - mà sự thực công dụng cũng như nhau. Xây cất mà làm thủng thẳng, thủng thẳng hơn tôi lần đó nữa, vừa xây cất vừa tự hỏi chẳng hạn: cái cửa, cái cửa sổ, cái lẫm, cái hầm có để thỏa mãn một nhu cầu cốt yếu của ta không, xây cất như vậy và có lẽ đừng bao giờ dựng một ngôi nhà để nhằm mục đích gì khác ngoài cái mục đích thỏa mãn nhu cầu nhất thời của ta, thì là một việc bõ công làm đấy. Tự cất lấy căn nhà cho mình là chứng tỏ rằng có tinh thần thích nghi của loài chim khi nó làm tổ. Loài người mà cất lấy nhà để ở, kiếm lấy thức ăn một cách giản dị và lương thiện để tự nuôi thân và nuôi gia đình thì biết đâu cái thi - năng (tài năng làm thơ) chẳng phát triển khắp trên mặt đất, như loài chim vừa làm những việc đó vừa hót? Hỡi ơi! Chúng ta bắt chước con sáo sậu và con tu hú đẻ trứng vào ổ các chim khác, và tiếng kêu inh tai của chúng chẳng làm vui lòng người dạo mát chút nào. Chúng ta nhường mãi cái vui xây cất cho người thợ mộc sao đây? Đối với đại đa số con người, môn kiến trúc còn là cái gì? Những lần đi dạo chơi, chưa bao giờ tôi thấy một người nào tự cất nhà để ở, mà công việc đó giản dị và tự nhiên, chứ khó gì đâu. Chúng ta ở trong một cộng đồng. Không phải chỉ riêng người thợ may là phần chín của một người[5]; nhà thuyết giáo, thương gia, tá điền cũng vậy[6]. Sự phân công đó đưa tới đâu? Cứu cánh là gì? Đành rằng người khác cũng có thể suy nghĩ thay cho tôi, nhưng không phải vì vậy mà tôi không được suy nghĩ cho chính tôi. Phải, ở trong xứ này, có những người tự xưng là kiến trúc sư và ít nhất một trong những người đó cơ hồ như bị ý này ám ảnh: cho những trang hoàng kiến trúc một nội dung đúng sự thực, một sự cần thiết phát ra từ chính cái đẹp; cơ hồ như ông ta bỗng nảy ra ý tài tình đó. Xét về quan điểm của ông ta thì tài tình đấy; nhưng nó có hơn gì ý của người thường, không chuyên môn như ông ta đâu. Ông ta thuộc phái cải cách tình cảm, bắt đầu cải cách cái hiên (cornice), chứ không phải cải cách nền móng. Theo ông ta chỉ cần biết làm sao cho các trang hoàng có nội dung đúng sự thực; không khác gì làm sao cho mỗi cái kẹo chứa một hạt hạnh nhân hay một hạt thìa-là - nhưng tôi thì tôi cho rằng hột hạnh nhân đừng bọc đường lại ngon và bổ hơn- mà không cần biết người chủ nhà, người ở căn nhà đó sẽ làm cách nào để căn nhà có cái đặc trưng của mình ở phía trong cũng như phía ngoài, và để cho những sự trang hoàng tự hòa hợp lấy với nhau. Có người nào có lương thức mà cho rằng sự trang hoàng chỉ là hoàn toàn ở bề ngoài, có tính cách “bì phu” mà thôi không? rằng mai con rùa sở dĩ vằn vện, hoặc vỏ con sò sở dĩ có những màu xà cừ là do một bản hợp đồng tựa như bản hợp đồng mà dân Broadway ký với kiến trúc sư khi xây cất giáo đường Trinity? Nhưng con rùa đâu có quan tâm gì tới kiểu thức cái mai của nó, mà con người thì cũng chẳng quan tâm gì hơn tới kiểu kiến trúc căn nhà của mình; và người lính không nên khoe khoang, đi vẽ cái màu của giá trị của mình lên lá cờ của binh đoàn. Giá trị hay không thì địch sẽ biết. Chưa biết chừng mà mặt xám nghoét khi giao phong đấy. Tôi tưởng tượng tới ông kiến trúc sư trang hoàng cái hiên đó, cúi xuống để rụt-rè nói nho nhỏ vào tai các người quê mùa cho họ hiểu cái chân lí nửa mùa của ông, nhưng họ còn hiểu rõ nó hơn ông ta nữa. Cái kiến trúc mà ngày nay tôi cho là đẹp, là thứ kiến trúc đẹp lần lần từ trong ra ngoài, đẹp hợp với nhu cầu và cá tính của người ở trong nhà - chỉ người này mới là người xây cất căn nhà thôi - đẹp nhờ một sự thành thực bất tự giác nào đó, nhờ một kẻ cao nhã nào đó, không bao giờ có ý phô trương; và tất cả cái đẹp nào thêm thắt theo điệu đó đều xuất hiện sau một cái đẹp bất tự giác tỏa từ lối sống ra. Các căn nhà đẹp nhất ở xứ mình là những cái chòi tầm thường, những căn nhà ván nghèo nàn, ở núi làm bằng những khúc cây nguyên, điều đó các họa sĩ đều biết rõ; những căn nhà đó là cái vỏ[7] của người dân, và chính cuộc sống của dân chứ không phải vài đặc điểm ở mặt ngoài làm cho những căn nhà đó hóa đẹp; cái chòi ở ngoại ô của dân thành thị cũng đẹp không kém nếu đời sống của họ cũng bình dị, cũng gợi cảm như đời sống dân quê, và nếu họ không cầu kỳ trang hoàng kiểu nhà cho ra vẻ. Hầu hết các trang hoàng kiến trúc đều quả thực là “rỗng” và một ngọn gió tháng chín làm cho nó rời ra, bay tung đi như những sợi lông chim cắm vào cái nón; như vậy chẳng thiệt hại gì cho căn nhà cả. Những người không có hầm rượu, ô liu[8]thì có thể chẳng cần tới kiến trúc. Về văn chương mà người ta cũng lúng túng về cái việc trang sức hoa hòe hoa sói đó thì văn chương sẽ ra sao nhỉ? Và nếu các nhà kiến trúc các Thánh kinh cũng bỏ biết bao công phu trang hoàng các hiên của các bộ đó như các kiến trúc sư của chúng ta trang hoàng cái hiên của giáo đường thì sẽ ra sao nhỉ? Văn chương và mỹ thuật thì cũng vậy, các nhà dạy các môn đó thì cũng vậy.[9] Tôi xin nói thực này, vài khúc gỗ ở trên đầu hoặc dưới chân mình sắp đặt cách nào, căn chòi của mình sơn phết màu nào, cái đó mà quan trọng gì đâu. Nó chỉ quan trọng nếu chính ta thực sự đã xếp đặt, sơn phết lấy cho ta ở; nhưng bây giờ người ở căn nhà đã không còn tâm hồn nữa,“căn nhà” với “ngôi mộ” đã gần như đồng nghĩa với nhau, và danh từ “thợ mộc” đồng nghĩa với danh từ “thợ đóng quan tài”. Một người nọ trong cơn thất vọng hoặc lãnh đạm với cuộc đời, tuyên bố: “Bốc một nắm đất ở dưới chân anh và sơn phết nhà anh bằng màu đó.” Người đó nghĩ tới cỗ thọ, căn nhà cuối cùng của mình chăng? Như vậy thì khác gì gieo âm dương.[10] Người đó chắc không biết dùng những lúc rảnh của mình để làm gì! Tại sao lại vốc một nắm bùn? Sơn phết căn nhà theo da của mình có hơn không? Xanh hay đỏ cho hợp với màu da của bạn (...) Trước mùa đông tôi xây lò sưởi, và tuy các bức vách đã kín, không lọt nước mưa nữa, tôi cũng xẻ một khúc gỗ thành những miếng gỗ lợp, rồi bào lại các mép để đóng phủ lên vách. Như vậy tôi có một căn nhà nhỏ ngoài có gỗ che thật khít và chét thạch cao, rộng ba thước, sâu bốn thước rưỡi, cột cách nhau khoảng hai thước rưỡi; nhà gồm một bục lúa, một chái, một cửa sổ lớn ở mỗi bên, hai cửa sập, một cửa ra vào ở một đầu và một lò sưởi đối diện. Dưới đây tôi kê đúng giá căn nhà của tôi, theo thời giá các vật liệu, nhưng không kể công xây cất vì công việc đó tôi hoàn toàn làm lấy (tôi ghi giá từng món vì nhiều người không biết đích xác căn nhà của mình đáng giá bao nhiêu - và nếu có thì cũng rất ít người biết được giá từng vật liệu một): (tác giả kê ở đây phí tổn về các vật liệu, mười ba món, tổng cộng là 28,12 Mĩ kim). Đó, tôi đã kê hết các vật liệu, trừ gỗ làm sườn nhà[11] và đá, cát mà tôi lấy cái quyền của một squatter mà đòi chính quyền phải cung cấp.[12] Cất nhà xong, còn dư ít gỗ, tôi chất thành một đống nhỏ ở sát ngay nhà. Sau này lúc nào cao hứng, tôi sẽ cất ngôi nhà đẹp đẽ, lộng lẫy hơn tất cả những ngôi trên con đường lớn ở Concord mà phí tổn sẽ không hơn căn hiện tại của tôi. Nhờ cất nhà lấy, tôi thấy rằng sinh viên nào không có chỗ ở có thể mua một căn ở suốt đời được mà giá không cao hơn tiền thuê nhà hiện nay họ phải trả trong một năm. Nếu tôi muốn khoe khoang thì tôi sẽ nói để tự biện hộ rằng xây cất lấy nhà như vậy là tôi nghĩ đến người khác hơn là nghĩ đến tôi. Tôi có thể lầm lẫn, khinh suất, mâu thuẫn, nhưng lời của tôi vẫn đúng sự thực. Mặc dầu lời của tôi dài dòng và có chút giả đạo đức - tôi thấy khó tránh được tật đó, cũng như khó quạt lúa cho hết trấu đi được, tôi rầu rĩ về điều đó, cũng như ai - tôi cũng sẽ thở phào cho khỏe và bàn kỹ về vấn đề đó. Thực là nhẹ mình và nhẹ tâm hồn! Tôi đã quyết định không vì khiêm tốn mà xúi người ta làm ác. Tôi sẽ rán bênh vực chân lí. Ở đại học Cambridge, mướn một căn phòng không rộng gì hơn căn của tôi, phải trả mỗi năm ba mươi đồng, mặc dầu người ta đã được cái lợi cất ba mươi hai phòng tiếp giáp nhau cùng chung một mái, thành thử sinh viên phải chịu cái nạn chung đụng, bên cạnh ồn ào, đôi khi lại phải ở từng lầu tư nữa. Tôi không thể không nghĩ rằng nếu về điểm đó, người ta biết tổ chức có lương tri hơn thì chẳng những bớt phải dạy dỗ sinh viên - vì nhất định là sinh viên đã được tự học lấy một phần lớn rồi - mà phí tổn giáo giục cũng giảm đi một phần lớn nữa. Những tiện nghi mà sinh viên ở Cambridge hoặc ở đại học khác đòi hỏi, làm tốn kém cho sinh viên hoặc một người nào khác gấp mười số cần thiết, nếu ở phía này và ở phía kia[13] người ta biết khéo tổ chức hơn. Những cái tốn kém nhất không phải là những cái cần thiết nhất cho sinh viên: chẳng hạn trí dục là một khoản rất tốn kém cho sinh viên, còn đức dục quan trọng hơn, lại không có, mà nó không tốn kém gì nhiều, chỉ cần tiếp xúc với những nhà kiến thức nhất đương thời thôi. Cách thức thông thường hiện nay để thành lập một trường đại học là đi quyên tiền rồi nhắm mắt theo chính sách phân công đến cực điểm - chính sách này người ta không nên áp dụng mà không suy nghĩ kĩ - giao cho một thầu khoán: người này khéo đầu cơ, dùng những thợ Ái-nhĩ-lan hoặc những thợ nào khác để xây móng, còn sinh viên học xây cất thì không mó tay vào. Và cả mấy thế hệ phải trả đắt chính sách lầm lẫn đó. Các sinh viên hoặc những người muốn được hưởng lợi về việc đó, hãy tự xây lấy móng, như vậy chẳng hơn ư? Sinh viên nhất quyết tránh mọi công việc cần thiết cho con người để hưởng nhàn thì cái nhàn ấy đáng khinh bỉ và vô ích, và họ không học được kinh nghiệm mà chỉ kinh nghiệm mới có thể làm cho sự nhàn nhã hóa ra có lợi. Người ta sẽ hỏi tôi: “Bộ ông muốn bắt sinh viên vận dụng tay chân chứ không vận dụng trí óc ư?” Không hoàn toàn như vậy, nhưng người ta có thể hiểu lầm tôi như vậy; tôi chỉ muốn nói rằng sinh viên không nên coi sinh hoạt là một trò chơi, hoặc chỉ nghiên cứu nó thôi, bắt quốc dân nuôi họ trong cái trò chơi tốn tiền đó, mà phải sống đầy đủ từ ngày đầu tới ngày cuối. Có cách nào cho thanh niên tập sống tốt hơn cách thí nghiệm ngay cuộc sống không? Tôi tưởng cách đó cũng luyện trí óc họ bằng môn toán chứ đâu có kém. Nếu tôi muốn cho em trai biết ít điều về nghệ thuật hoặc khoa học chẳng hạn thì tôi không theo cái lối thông thường là cho nó đến học một giáo sư nào đó để người ta dạy nó đủ thứ trừ nghệ thuật sống - để nó nghiên cứu thế giới qua một cái kính viễn vọng hoặc một cái kính hiển vi chứ không bao giờ nhìn trực tiếp bằng mắt, không cần kính; để nó học môn hóa học, môn cơ giới học mà không biết làm bánh, không biết kiếm ăn; để nó học được cách phát giác thêm được những vệ tinh mới của ngôi Thủy tinh mà không thấy chính những tật của nó, hoặc không biết chính nó là tiểu yêu hộ vệ một tên du đãng nào; để nó nghiên cứu những quái vật trong một giọt dấm trong khi chính nó thì bị vô số quái vật ở xung quanh ăn sống nuốt tươi. Một thiếu niên chế tạo lấy con dao bỏ túi bằng khoáng chất tự đào lấy rồi nấu sau khi đọc hết những điều chỉ dẫn trong sách, với một thiếu niên theo học ở lớp da-kim-thuật ở viện khoa học mà chẳng chế tạo gì cả, xin cha tiền mua con dao ở tiệm Rodgers, thử hỏi hai em đó, sau một tháng, em nào tiến bộ hơn em nào? Em nào dùng dao lóng cóng dễ đứt tay hơn? Ở đại học tôi ngạc nhiên thấy rằng mình được học môn… hàng hải. Giá người ta dắt tôi đi coi hải cảng một lần thì lại bổ ích cho tôi hơn. Ngay một sinh viên nghèo mà cũng chỉ học lý thuyết kinh tế thôi, còn cái môn kinh tế thực hành, kinh tế nhân sinh - nó đồng nghĩa với triết lý - thì không có trong chương trình. Kết quả là trong khi cậu ta đọc Adam Smith, Ricardo và Say[14]thì nhất định cậu làm cho cha cậu phải mang nợ. Có cả trăm cái “cải thiện tân thời” cũng không khác gì các đại học của chúng ta. Người ta quá tin ở chúng: sự tiến bộ không phải luôn luôn chắc chắn đâu. Con quỷ đó đầu tư, cho ta mượn vốn rồi tiếp tục bắt ta phải trả lãi dồn cho tới cùng. Những sáng chế của ta, những đồ chơi đẹp đẽ đó, làm cho ta quên không chú ý tới cái cốt yếu. Chúng chỉ là những phương tiện đã được cải thiện để hướng dẫn chúng ta tới một mục đích không được cải thiện mà mục đích hiện nay đã dễ đạt quá rồi, như đường xe lửa từ Boston tới Nữu-ước. Chúng ta nóng lòng muốn có một đường dây-thép từ-khí từ Maine tới Texas; nhưng hai miền đó thực có cái gì quan trọng để thông đạt cho nhau không? Miền này hay miền kia có lẽ ở trong cái tình trạng bực mình của một người đàn ông đòi hoài được giới thiệu với một người đàn bà sang trọng nhưng điếc và khi được giới thiệu với bà ta rồi, tay cầm đầu ống nghe và miệng không biết nói gì. Cơ hồ như chỉ cần nói cho nhanh chứ không cần nói cho có ý nghĩa, hợp lí. Chúng ta nóng lòng muốn đào một đường hầm dưới đáy Đại Tây dương để cho Tân lục địa và Cựu lục địa gần nhau hơn được vài tuần; nhưng cái tin đầu tiên đập vào tai vĩ đại của Châu Mĩ có lẽ là tin công chúa Adelaide ho gà. Người phi ngựa nhanh nhất chưa nhất định là người đem những tin quan trọng nhất; người đó không phải là nhà thuyết giáo đâu và không sống bằng châu-chấu cùng mật ong rừng đâu[15]. Tôi ngờ rằng con Flying Childers[16] chưa bao giờ chở một thùng lúa tới nhà máy xay. Người ta bảo tôi: “Ông thích đi du lịch mà tại sao ông không để dành tiền? Ông có thể lấy vé xe lửa và hôm nay đi coi miền Fitchburg.” Nhưng tôi đâu có dại như vậy. Tôi đã biết rằng người lữ hành mau nhất là người đi bộ, và tôi trả lời ông bạn đó: “Nếu anh muốn thì chúng ta thử xem ai là người tới trước nào. Quãng đường dài khoảng năm chục cây số, tiền xe lửa là chín cắc, gần bằng tiền công một ngày làm việc. Tôi còn nhớ cái thời trước, cũng trên con đường đó, một người lao công được lĩnh sáu cắc một ngày. Vậy, tôi đi bộ và tới nơi trước ban đêm. Tôi đã du lịch theo cái nhịp đó luôn mấy tuần. Còn anh, trong thời gian đó anh phải làm việc để có tiền mua vé xe và sáng mai anh mới tới nơi, tôi không biết hồi mấy giờ; hoặc cũng có thể là tối nay anh cũng tới được rồi nếu anh kiếm được việc làm kịp thời. Đáng lẽ lên đường để tới Fitchburg thì anh còn phải ở lại đây hết ngày để làm việc. Nếu có đường xe lửa đi vòng quanh thế giới thì tôi tin chắc rằng tôi sẽ đi nhanh hơn anh. Còn cái việc coi cho biết đó đây và nhờ vậy rút được kinh nghiệm thì anh làm sao bằng tôi được.” Đó là luật chung không ai thoát khỏi, mà vấn đề xe lửa thì cũng vậy. Làm ở khắp thế giới những đường xe lửa để cho ai cũng có thể đi được, tức là san phẳng mặt địa cầu. Người ta có cảm tưởng mơ hồ rằng nếu tiếp tục giữ được lâu hai hoạt động đó: hoạt động đầu tư và hoạt động lao công, thì có phương tiện đi khắp nơi được, chỉ nháy mắt là tới mà chẳng tốn tiền bao nhiêu; nhưng đám đông đổ xô lại nhà ga và người xếp chuyển xe la lớn: “Lên xe đi!”. Một khi khói đầu máy tan rồi, hơi nước trong nồi súp-de ngưng kết lại rồi, người ta mới thấy rằng một số ít người được đi xe còn bao nhiêu thì bị cán chết, và người ta gọi đó là một “tai nạn bi thảm”, mà quả thực là một tai nạn bi thảm. Dĩ nhiên những người kiếm được tiền mua vé xe thì sẽ được lên xe, miễn là sống khá lâu để có tiền đi xe, và có thể rằng khi có tiền rồi, thân thể không còn dẻo dai nữa và mất luôn cái ý nghĩ muốn đi du lịch. Cái lối bỏ ra cái thời tươi trẻ nhất trong đời để kiếm tiền, mong sẽ được hưởng một chút tự do không lấy gì làm chắc chắn vào cái thời già nua ít đáng quý nhất, lối đó làm cho tôi nhớ một người Anh nọ[17] qua Ấn độ làm giàu để sau này có thể trở về quê hương sống một đời thi sĩ. Ông ta giá leo lên thượng lương trước hết thì phải hơn. Một triệu người Ái-nhĩ-lan ló đầu ra khỏi chòi của họ la lớn: “A! Coi đường xe lửa chúng tôi xây cất này, một công việc tốt đấy chớ?” Tôi đáp: “Phải, tốt một cách tương đối; nghĩa là các ông có thể còn làm một việc tệ hơn nữa; nhưng chúng mình là anh em với nhau, nên tôi mong rằng các ông để thời giờ cuốc trong đám đất bùn này mà lại ích lợi hơn.” Trước khi dựng xong căn nhà, muốn kiếm mươi mười hai Mĩ kim một cách lương thiện và thích thú, đề phòng những chi tiêu bất thường, tôi cày khoảng một mẫu đất xốp và có cát ở bên cạnh, để trồng đậu, cả khoai tây, ngô, củ cải nữa. Cả lô rộng khoảng bốn mẫu rưỡi, thông và cây dẻ trắng choán tới già nửa; mùa mưa rồi, người ta bán với giá tám Mĩ kim tám xu nửa mẫu. Một người chủ trại nọ bảo: “đất đó chỉ để nuôi sóc là tốt”. Tôi không dùng phân bón vì tôi chưa phải là chủ, chỉ mới là người khai phá ( squatter ); vả lại tôi không tính trồng thêm một khu rộng như vậy, nên không dẫy cỏ hết ngay một lần. Trong khi cày, tôi đào được nhiều rễ cây để làm củi đun khá lâu và chừa lại nhiều khoảnh đất ải, mùa hè rất dễ nhận ra được vì đậu mọc ở đó xanh tốt lại thường. Cành khô ở phía sau nhà tôi, hầu hết là bán không được tiền, và củi nổi trên mặt đầm, tôi đem về để dành mà đốt. Tôi phải mướn một cặp bò và một người để cày, nhưng đích thân tôi cầm cày. Mùa đầu, phí tổn trồng trọt của tôi - dụng cụ, hạt giống, nhân công, vân vân - lên tới mười bốn Mĩ kim, bảy cắc hai xu rưỡi. Có người tặng tôi hột ngô giống. Gần như không tốn kém gì cho tôi cả, trừ phi tôi muốn gieo thêm quá cái mức tôi cần dùng. Mùa đó tôi thu được mười hai thùng[18] đậu, mười tám thùng khoai tây, một ít đậu hòa lan và bắp xanh. Thứ bắp vàng và củ cải trồng muộn quá, không thu hoạch được mấy tí. Tôi bán hết thảy được: 23,44 Mĩ kim Trừ phí tổn 14,72 Còn lại 8,71 không kể tôi đã ăn một số và để dành một số, cả thảy đáng giá bốn Mĩ kim rưỡi; số để dành lại dư để bù vào số thất thu về cỏ mà tôi không cho mọc. Cân nhắc kỹ lưỡng, nếu kể cả sự ích lợi cho tâm hồn và cái thú vui qua ngày thì tôi thấy rằng năm đó tôi thu hoạch được hơn bất kỳ chủ trại nào ở Concord, mặc dầu tôi chỉ thí nghiệm trong một thời gian ngắn và một phần vì tính cách nhất thời của công việc. Năm sau tôi thu hoạch được nhiều hơn vì tôi xới bằng cái mai một khoảng đất độ một phần ba acre[19]. Tôi chẳng buồn coi các tác phẩm thông thái về canh nông, như tác phẩm của Athur Young và các nhà khác; sau hai năm kinh nghiệm đó tôi thấy rằng nếu người ta sống giản dị, chỉ ăn thứ mình trồng và chỉ trồng cho vừa đủ ăn thôi, không dư để đổi lấy những vật xa xỉ hơn hoặc đắt tiền hơn, mà có bao nhiêu người ta vẫn không cho là đủ, nếu muốn sống như vậy thì chỉ cần trồng trọt vài khoảnh đất thôi; mà trồng ít thì xới đất bằng mai lợi hơn là dùng bò để cày; lâu lâu chọn một đất mới lợi hơn là bón phân đất cũ, nghĩa là nên coi công việc trồng trọt chỉ như một công việc phụ, làm vào những lúc rảnh mùa hè. Như vậy khỏi phải tùy thuộc một con bò cày, một con ngựa, một con bò cái hoặc một con lợn như hiện nay. Tôi có thể trình bày về việc đó một cách hoàn toàn vô tư, vì không nghĩ tới sự thành công hay thất bại về tổ chức kinh tế và xã hội. Tôi là người độc lập nhất trong giới chủ trại ở Concord, không có gì cột tôi với một căn nhà hay một cái trại, và tôi có thể tùy thích theo dòng tư tưởng của tôi, nó đôi khi ngoắt ngoéo. Lại thêm, tình trạng của tôi đã khá hơn của họ rồi, thì dù có mất mùa hay cháy nhà, tôi cũng không đến nỗi lại nghèo hơn trước nhiều nữa. Tôi muốn tin rằng loài người không phải là để chăn bò cũng như loài bò không phải để chăn người, mà bò tự do hơn người nhiều. Người và bò trao đổi công việc với nhau. Nhưng nếu chỉ xét công việc cần thiết thôi thì bò sướng hơn người nhiều; khu vực của chúng mênh mông hơn nhiều. Người, trong sáu tuần cắt cỏ (để nuôi bò), là làm xong một phần công việc để trao đổi với bò, mà cắt cỏ không phải là một trò chơi của trẻ con đâu. Một dân tộc sống giản dị về mọi phương tiện, một dân tộc toàn là triết nhân thì nhất định là không dại dột gì dùng tới công việc của loài vật. Đành rằng từ trước tới nay chưa có một dân tộc nào toàn triết nhân, mà chắc chắn cũng không có dân tộc như vậy một ngày gần đây đâu; với lại cũng không nên mong điều ấy. Nhưng riêng tôi thì không khi nào luyện tập hoặc nuôi như nuôi trọ một con ngựa, hoặc một con bò đực nào để đáp lại, chúng làm giúp tôi một việc gì vì tôi phải sợ cái nông nỗi phải chăn dắt nó về mọi mặt; xã hội có thể cho làm như vậy là có lợi, nhưng không có gì chứng tỏ rằng cái lợi cho người này không phải là cái hại cho người khác, đứa coi chuồng ngựa có thể không có những lí do của ông chủ của nó để thỏa mãn về việc chăn ngựa. Dù có nhận rằng, không nhờ loài vật giúp sức thì không xây cất được vài công trình công cộng - công trình mà loài ngoài phải cho con bò và con ngựa được hưởng chung vinh dự - nhưng đâu có phải vì vậy mà bảo rằng con người không thực hiện được những công trình xứng đáng cho họ hơn? Khi loài người nhờ loài vật giúp mà làm một công việc không phải chỉ có tính cách phù phiếm, nghệ thuật mà còn có tính cách xa xỉ, vô dụng thì nhất định có một số người phải làm tất cả công việc trao đổi với con bò, điều đó không sao tránh được; nói cách khác là họ thành nô lệ cho những kẻ mạnh hơn họ. Thế là cá nhân phải làm việc chẳng những cho cái con vật ở trong bản thân mình mà phải làm cả, như là một tượng trưng, cho con vật ở ngoài bản thân mình nữa.[20] Muốn biết sự thịnh vượng của một trang trại nào thì coi những dãy nhà ngang dọc bằng gạch, bằng đá và nhất là cái bóng của ngôi lẫm đồ sộ chiếu lên ngôi nhà nữa. Thị trấn này nổi tiếng là có những “nhà” lớn nhất trong miền để cho bò và ngựa ở; còn các kiểu kiến trúc công cộng thì chắc chắn cũng không thua thị trấn nào, nhưng lại không có những phòng dành cho sự tự do thờ phụng và sự tự do ngôn luận.[21] các quốc gia nên lưu danh lại bằng sức mạnh của tư tưởng hơn là bằng các công trình kiến trúc. Kinh Bhagvat-Geeta[22] chẳng đẹp hơn hết thảy các phế tích phương đông đấy ư? Tháp và đền đài là sự xa xỉ của hạng vua chúa. Một tinh thần chính trực và độc lập thì không phụng sự vua chúa để nhận bổng lộc của họ. Thiên tài không chịu đứng vào hàng tùy tùng của bất kỳ hoàng đế nào và vật liệu người đó dùng để xây cất, trừ một số rất ít, không phải là vàng, bạc, cẩm thạch. Tôi hỏi bạn này, đục khắc bao nhiêu đá đó để làm gì vậy? Khi tôi ở miền Arcadia,[23]tôi không thấy ai đục đá cả. Các quốc gia bị cái tham vọng điên cuồng này ám ảnh: chồng chất thật nhiều phiến đá đục khắc để lưu danh lại hậu thế. Giá họ chịu tốn công như vậy để mài chuốt phong tục! Chỉ một hành động đấy lương tri cũng đáng kỉ niệm hơn là một công trình kiến trúc cao ngất trời, đụng tới mặt trăng! Tôi thích người ta để yên đá ở trên núi. Sự vĩ đại của thành Thèbes[24]là sự vĩ đại phàm tục. Một hàng đá ở bờ ruộng của một chính nhân còn có ý nghĩa hơn là một thành Thèbes có một trăm cửa mà bỏ xa mục đích chân chính của cuộc sống. Những tà giáo và văn minh dã man xây cất những ngôi đền lộng lẫy; nhưng Ki-tô giáo mà danh xứng với thực thì không làm vậy. Phần lớn số đá mà một quốc gia đẽo đục chỉ là đưa tới mồ của quốc gia đó thôi. Quốc gia đó tự chôn sống mình. Xét các kim tự tháp Ai-cập ta thấy điều này đáng ngạc nhiên nhất là tại sao lại có biết bao kẻ trụy lạc đến nỗi bỏ ra suốt đời để xây mộ cho một tên ngu ngốc tự phụ nào đó; giá dìm nó xuống sông Nil rồi liệng thây nó cho chó ăn, có phải là sáng suốt hơn, hùng dũng hơn không? Tôi có thể tìm ra được một lý lẽ nào đó để biện hộ cho những kẻ xây cất và cho tên vua Ai-cập đó, nhưng tôi không hoài công. Về tôn giáo và tính ham nghệ thuật xây cất thì khắp thế giới gần như đâu đâu cũng một tật đó, Ai cập có những đền đài, Hoa kỳ có Ngân-hàng Quốc-gia. Ngoài những lúc trồng trọt, thỉnh thoảng tôi làm mướn công nhật, như đạc điền, làm thợ mộc, làm mọi việc lặt vặt - vì tôi có cả chục nghề - và kiếm được 13,34 Mĩ kim. Về việc ăn uống trong tám tháng, nghĩa là từ mùng 4 tháng bảy tới ngày mùng 1 tháng ba, (tôi ở nơi đó trên hai năm, nhưng chỉ ghi sổ tới khoảng đó thôi), không thể kể khoai tây, một ít bắp xanh và đậu hòa-lan mà tôi trồng lấy, cũng không kể số còn lại vào ngày mùng 1 tháng ba, tốn kém hết thảy như dưới đây: (Tác giả kê phí tổn mười bốn thức, như gạo, đường, bột, thịt lợn, muối, một trái dưa vân vân..., tổng cộng 1à 8,74 Mĩ kim. Tác giả tính thêm phí tổn về quần áo và các chi phí lặt vặt khác là 8,403/4 Mĩ kim, dầu và đồ soong, chảo: 2 Mĩ kim. Sau cùng, tác giả tính gồm tất cả các món chi tiêu từ khi cất nhà, là 61,993/4 Mĩ kim; và tất cả các món tiền tác giả đã kiếm được (bán hoa lợi và làm công), được 36,78 Mĩ kim, rồi tác giả viết tiếp: Số chi vượt số thu là 25,213/4 Mĩ kim — nhưng số tiền hụt đó gần bằng số tiền tôi mang theo lúc đầu để cất nhà (nghĩa là trong thời gian đó tác giả tự túc được) mà tôi được lợi đã sống độc lập, sức khỏe dồi dào thêm, ấy là chưa kể có một căn nhà đủ tiện nghi tôi có thể ở suốt đời nếu tôi muốn (…) Sau hai năm kinh nghiệm tôi thấy rằng ngay ở miền này, muốn kiếm đủ thức ăn cần thiết thôi, thì chúng ta chỉ cần gắng sức rất ít, không thể ngờ được; rằng con người có thể ăn uống đơn sơ đạm bạc như loài vật mà khỏe mạnh. Bữa tôi chỉ ăn một đĩa rau sam tôi hái trong ruộng, luộc rồi cho ít muối vào, như vậy ngon mà đủ bổ (…) Tôi hỏi bạn này, một người biết suy nghĩ, ở thời bình, bữa trưa mà có được mấy cái bắp xanh luộc, chấm muối thì còn có món nào hơn được nữa không? Thỉnh thoảng tôi thay đổi vài món là để cho thích khẩu chứ thực ra không cần thiết cho sức khỏe. Vậy mà có người chết đói không phải vì thiếu những thứ cần thiết mà vì thiếu những thứ vô ích; tôi biết một thím nọ tưởng tượng rằng đứa con trai của thím chết vì chỉ uống độc nhất có nước lã (…) Vậy về việc ăn, tôi khỏi phải mua bán trao đổi với ai cả, về chỗ ở thì tôi đã có một mái che mưa che nắng rồi. Còn lại vấn đề mặc và sưởi, đốt. Chiếc quần tôi bận lúc này do một gia đình nông dân dệt — nhờ trời, con người hãy còn chút đạo đức đấy, vì tôi cho từ nông dân mà thành thợ là tụt xuống một bực cũng đáng kể như từ con người[25] mà tụt xuống thành nông dân — và trong một đất mới, chưa khai phá thì vấn đề sưởi, đốt, làm cho ta lúng túng đấy. Về nền nhà, nếu người ta không cho phép tôi cất nhà trên một khu đất không phải của tôi nữa, thì tôi có thể mua một miếng đất theo giá khu đất tôi trồng trọt nghĩa là tám Mĩ kim tám xu một acre. Với lại tôi cho rằng làm squatter, sống trên khu đất nào là làm tăng giá trị của khu đất đó lên. Có một hạng người nghi ngờ, hỏi tôi những câu chẳng hạn như: có thể sống bằng toàn rau được không, và tôi đáp ngay rằng, tôi có thể ăn đinh mà sống được — tôi nói quá như vậy vì có tin chắc thì mới nói quá. Nếu họ không hiểu điều đó thì tôi có giảng gì thêm, họ cũng không hiểu thêm được bao nhiêu. Về phần tôi, tôi mong người ta thử sống như vậy xem sao, như thanh niên nọ thử ăn mười lăm ngày toàn là hột ngô sống, tỉa ở bắp ra, cứng ngắc, không xay cũng không luộc, cứ dùng hai hàm răng mà nhai. Loài sóc đã thí nghiệm như vậy mà thành công. Loài người nên thí nghiệm như vậy, mặc cho các bà già kêu trời vì các bà hoặc không còn đủ răng để nhai hoặc còn đủ nhưng lại sợ mất cái lợi tức xay lúa. Đồ đạc trong nhà một phần do tôi đóng lấy, còn phần kia phải mua thì tôi đã tính cả trên kia rồi; nó gồm một cái giường, một cái bàn ăn, một bàn viết, ba chiếc ghế dựa, một tấm gương tròn trực kính tám phân; một cái kẹp để gắp than, một cái giá để trong lò sưởi, một cái ấm đun nước, một cái nồi, một lò sưởi; một cái muỗng lớn, một cái chậu, hai con dao, hai cái nĩa, ba cái đĩa, một cái tách, một cái muỗng nhỏ, một cái bình đựng dầu, một cái bình đựng mật và cây đèn sơn. Không ai nghèo tới nỗi không có cái gì để ngồi, phải ngồi lên quả bí ngô. Như vậy là không biết xoay xở. Lẫm nào trong làng cũng đầy những chiếc ghế nhỏ mà tôi thích và tôi chỉ có việc khiêng về nhà. Đồ đạc ư! Nhờ trời, tôi có thể đứng và ngồi mà chẳng cần phải có cả một kho bàn ghế. Một triết nhân sẽ phải đỏ mặt lên khi thấy đồ đạc của mình chất đầy một chiếc xe bò đi ngang cánh đồng, dưới thanh thiên bạch nhật bày ra cho mọi người thấy những đồ đạc bần tiện của mình. Đấy đồ đạc của ông Nọ ông Kia đấy[26]. Nhìn một chiếc xe chất đồ như vậy, tôi không thể nói được nó là của một người nghèo hay của một người tự xưng là giàu; người chủ luôn luôn có vẻ khổ sở. Sự thực càng có nhiều những vật đó bao nhiêu, người ta lại càng nghèo bấy nhiêu. Người ta bảo mỗi chiếc xe đó chất được đồ của mười hai cái túp lều đấy, như vậy là vẻ nghèo nàn nhân lên tới mười hai lần. Nào, chúng ta thử xét xem tại sao chúng ta lại dọn nhà; chẳng phải là để liệng bỏ một mớ đồ đạc đi ư? để từ nơi này qua ở một nơi khác đồ đạc mới hơn, và ném vào lửa những đồ cũ đi ư? Như thể tất cả những cái lưới đó cột chặt vào dây lưng ta, và chúng ta không thể đi đâu mà không kéo theo cái bẫy nó giam ta vậy. Sướng thay con chồn nào mắc bẫy, để lại cái đuôi trong bẫy mà thoát ra được! Con chuột xạ tự gậm đứt cái cẳng thứ ba để được thoát khỏi bẫy. Loài người đã mất tính dẻo dang, điều đó không có gì lạ. Rất nhiều khi con người ở tử điểm. “Xin lỗi ông, xin ông làm ơn giảng cho thế nào là tử điểm.” — Nếu ông có cái thiên tư thấu thị[27]thì gặp một người nào ở trên đường, nhìn phía sau người ấy, ông cũng thấy được những đồ vật người đó có, vâng, và cả nhiều cái người đó làm bộ nói là không có, cả những nồi niêu soong chảo trong bếp người đó nữa, cả những phế vật mà người đó chất chứa, không chịu đem đốt quách đi, không khác gì cái bộ yên cương nặng nề nó hãm bước đi người đó lại, làm cho người đó lúng túng vùng vẫy không ra. Khi nghe một người chải chuốt, chỉnh tề, bề ngoài có vẻ tự do, ăn bận đàng hoàng từ đầu tới chân, mà nói tới những “đồ đạc” của mình, được bảo hiểm hay không, thì làm sao mà tôi không động lòng thương hại cho được? “Những đồ đạc của tôi, ông bảo tôi đem làm gì bây giờ?” Con bươm bướm rực rỡ của tôi đã cất cánh bay và mắc vào cái màng nhện rồi[28]. Cả những người trong một thời gian lâu có vẻ như chẳng có chút đồ đạc nào, cũng sẽ để lộ rằng có một mớ đồ đạc chất trong một cái lẫm của ai đó; bạn cứ điều tra kĩ một chút thì sẽ rõ. Tôi coi nước Anh ngày nay như một nhà quí phái già đi du lịch với vô số hành lí, quần áo cũ giữ lại từ đời kiếp nào đó mà không có can đảm đem đốt đi; rương lớn, rương nhỏ, hộp đựng mũ rồi gói này gói khác. Xin bạn liệng ít nhất là ba thứ trên đi. Ngày nay không ai dù là mạnh khỏe mà có đủ sức khiêng cái giường theo, và người nào đau ốm thì nhất định là tôi khuyên đừng nghĩ tới cái giường làm quái gì. Một lần tôi gặp một người di trú khiêng một bao nặng quá tới lảo đảo; bao đó chứa hết của cải và như cái bướu kì quái mọc ở dưới gáy chú ta; tôi thương hại chú không phải vì tất cả của cải chỉ có bấy nhiêu mà vì chú phải khiêng tất cả cái đó. Nếu tôi phải kéo theo cái bẫy nó giam tôi thì tôi sẽ làm cách nào cho nó thật nhẹ, và khỏi làm vướng tôi ở một điểm sinh tử nào đó; nhưng có lẽ đừng đút chân vào bẫy thì khôn hơn. Nhân tiện đây tôi xin nói rằng tôi không tốn một xu về cái khoản màn cửa. Có ai tò mò nhìn vào nhà tôi làm gì, trừ mặt trời và mặt trăng, mà tôi mong cho có ánh nắng, ánh trăng chiếu vào. Ánh trăng có làm hư sữa, thỏi thịt của tôi đâu, còn ánh nắng thì không làm hư đồ đạc hoặc phai màu tấm thảm của tôi. Nếu ánh nắng có lúc” nhiệt liệt” quá thì tôi rút vào sau tấm màn thiên nhiên, như vậy tôi thấy có lợi hơn là sắm thêm một đồ vật nữa. Một bà nọ có lần bảo để tặng tôi một cái nệm bằng rơm, nhưng trong nhà tôi không còn chỗ để trải, mà tôi cũng không có thì giờ giũ bụi, ở trong cũng như ở ngoài, thành thử tôi từ chối, cứ chùi chân vào đám cỏ ở trước cửa lại thích hơn. Nên tính trước cái hại đi. Cách đây không lâu, tôi coi người ta bán đấu giá những đồ đạc của một ông trợ tế, vì đời của ông ta không phải là không thành công: Cái ác con người gây ra, con người chết rồi nó vẫn còn tác hại.[29] Cũng như mọi lần khác, hầu hết là những đồ cũ kĩ tom góp từ thuở sinh tiền của thân phụ ông ta. Có một con sán lãi chết khô trong đám đồ đạc đó. Người ta đã chất những thứ đó cả nửa thế kỉ trong lẫm và các kho bụi bậm mà không chịu thiêu đi, còn đem ra bán, bán đấu giá. Các người hàng xóm vội vàng bu lại coi và mua hết nhẵn, cẩn thận chở về cất trong lẫm hoặc trong kho để đợi khi nào họ chết, chia gia tài, người ta lại đem ra bày bán một lần nữa. Khi chết, con người lấy chân gạt bụi ra. Có lẽ chúng ta nên bắt chước tục của một số dân tộc bán khai, ít nhất cũng làm cái lệ, giả vờ trút cái xác của họ mỗi năm một lần; dù hiểu được bản chất cuộc lễ hay không, họ cũng đã có ý niệm về cái đó. Ông Bartram đã tả tục busk, tức làm “lễ đầu mùa” của dân da đỏ Mucclasse. Ông viết: “Khi một thị trấn làm lễ busk, thì dân chúng, sau khi đã sắm sẵn quần áo, nồi siêu, soong chảo và các đồ làm bếp khác, cùng mọi đồ đạc, hết thảy đều mới, như vậy đủ cả rồi, họ gom góp hết các quần áo cũ và các đồ phế thải khác, quét cọ nhà cửa, đường sá, cả thị trấn, rồi liệng cả những lúa còn lại và các thức ăn cũ, hết thảy thành một đống thật lớn, nổi lửa đốt. Sau khi uống thuốc và nhịn ăn ba ngày, họ tắt hết lửa trong thị trấn. Trong khi nhịn ăn, họ kiêng cữ đủ thứ, bất kì là thị dục, khát vọng gì. Họ tuyên bố ân xá mọi tội nhân, cho người nào về nhà nấy hết. “Buổi sáng ngày thứ tư, vị trưởng lão lại công trường cọ mấy khúc gỗ khô vào nhau để phát ra lửa và mỗi gia đình lại mồi ngọn lửa mới mẻ, trong sạch đó đem về.” Họ ăn tiệc — ngô và trái cây đầu mùa — ca hát nhảy múa trong ba ngày,“rồi bốn ngày sau họ đi thăm nhau, vui vẻ tiếp đãi các bạn bè ở các nơi lân cận, những người này cũng đã chuẩn bị, tẩy uế như họ rồi lại thăm họ ”. Người Mễ-tây-cơ cứ năm mươi hai năm một lần, tin rằng sắp tận thế, cũng làm một lễ tẩy uế như vậy. Tôi không biết có sự thánh-hóa nào, nghĩa là theo giáo lí cương yếu,“cái dấu hiệu bề ngoài, thấy được của một ân sủng tinh thần ở bên trong” mà chính xác hơn lối tẩy uế đó; và tôi tin chắc rằng các dân tộc đó đã được Thượng Đế trực tiếp mặc khải mặc dầu họ không có Thánh kinh chép một lời mặc khải nào cả. Trong hơn năm năm tôi sinh sống toàn bằng công việc tay chân và tôi thấy rằng mỗi năm làm việc khoảng sáu tuần là đủ thỏa mãn mọi nhu cầu. Tôi được rảnh trọn các mùa đông và gần hết các mùa hè để học hỏi nghiên cứu. Tôi đã chăm chỉ ráng dạy học nhưng tôi thấy rằng tiền kiếm được bao nhiêu tiêu hết bấy nhiêu, có khi còn thiếu nữa, vì phải may mặc, tập tành, lại phải suy nghĩ, tin tưởng theo nhà giáo, rốt cuộc việc đó chỉ thêm mất thì giờ. Vì tôi dạy học không phải để giúp ích đồng bào mà chỉ để kiếm ăn, cho nên tôi đã thất bại. Tôi đã thử làm thương mại, nhưng tôi thấy rằng phải mất mười năm mới theo nghề được, mà lúc đó có lẽ tôi về chầu Trời rồi. Chỉ nghĩ tới cái nông nỗi trong thời gian đó làm được những “áp-phe” tốt như người ta nói, tôi đã ớn xương sống rồi. Có hồi tôi ngó chung quanh để tìm một công việc gì có lợi, vì còn nhớ rõ vài kinh nghiệm tai hại do nghe lời bạn xúi giục, nên tôi phải đề phòng tính thực thà của tôi và tôi nghiêm trang tính việc đi hái trái nham-lê. Công việc đó tôi làm được, kiếm chẳng được bao nhưng cũng đủ tiêu vì tôi không đòi hỏi gì nhiều — lại cần rất ít vốn, không làm thay đổi bao nhiêu các thói quen tinh thần của tôi, tôi điên khùng nghĩ vậy. Trong khi các bạn tôi xoay ra buôn bán hoặc chọn một nghề nào đó, thì tôi cho việc hái nham-lê cũng không thua kém gì. Suốt mùa hè đi khắp miền núi để hái những trái ngay bên đường, rồi tùy ý sử dụng, chẳng lo lắng gì cả. Tóm lại, cũng như giữ cừu cho vua Admetus.[30] Tôi cũng ước ao kết những bó cỏ hoang hoặc chở đầy những xe cành lá tươi về bán cho những người trong thành phố nhớ nhung cảnh núi rừng. Nhưng tôi đã thấy ngay rằng cái gì mà bị thương mại đụng tới thì cũng đồi bại, ác hóa đi. Lời truyền bảo của Thượng Đế mà đem ra buôn bán thì cũng hóa xấu xa nhơ nhớp. Có những cái tôi thích, có những cái tôi không thích, và tôi thích sự tự do của tôi hơn hết; tôi sống khó nhọc được mà không thấy khổ, tôi không thích bỏ thì giờ kiếm nhiều tiền để sắm những bức thảm lộng lẫy hoặc những đồ đạc đẹp đẽ, ăn cao lương mỹ vị, ở ngôi nhà kiểu Hi-lạp hoặc Gô-tích[31], ít nhất là lúc này. Ai kia cho rằng sắm các vật đó không làm mất một sự liên tục nào cả và khi sắm về rồi lại biết hưởng thụ, thì tùy ý, tôi không dám cản. Một số người tỏ vẻ “hoạt động”, có vẻ thích làm việc chỉ để làm việc, hoặc để khỏi bị một cái hại nào lớn hơn; những người đó, tôi không có điều gì để nói với họ lúc này cả. Những người nào được thêm nhàn rỗi mà không biết làm gì, thì tôi khuyên họ làm việc cực nhọc gấp đôi bây giờ đi, làm việc để trả các chi tiêu của họ và được quyền làm thị dân đi. Còn về phần tôi, tôi thấy rằng cái nghề làm công nhật là một trong những nghề độc lập nhất, thú nhất là vì chỉ cần làm mỗi năm ba bốn chục ngày là đủ sống. Mặt trời lặn là được nghỉ ngơi, muốn làm gì tùy thích; còn ông chủ đầu cơ tháng này sang tháng khác thì suốt năm có lúc nào được rảnh? Tóm lại, do kinh nghiệm bản thân, tôi tin chắc rằng kiếm ăn ở cái cõi trần này không phải là một cực hình mà là một việc tiêu khiển, miễn là chúng ta sáng suốt và biết sống giản dị; những hoạt động của những dân tộc giản dị nhất ngày nay chỉ là những môn thể thao của các dân tộc máy móc nhất. Người ta đâu có cần đổ mồ hôi để kiếm miếng ăn, trừ phi người ta dễ đổ mồ hôi quá, không như tôi. Một thanh niên quen biết tôi, được cha mẹ để lại cho một miếng đất, bảo tôi rằng, nếu có phương tiện thì cũng sẽ sống như tôi, đó là sở nguyện của chàng. Tôi tuyệt nhiên không muốn một người nào theo lối sống của tôi; trước khi người ta theo lối sống của tôi, có thể rằng tôi đã tìm được một lối sống khác cho tôi; với lại tôi mong rằng trên đời không có người nào giống người nào; nhưng tôi muốn rằng mỗi người có được cái vui tìm ra lấy con đường riêng của mình và theo nó, chứ không theo con đường của cha, của mẹ hoặc của ông hàng xóm. Thanh niên có thể xây cất, trồng trọt, chèo thuyền, miễn là làm việc mà mình thích. Chỉ nhờ một điểm toán học nào mà chúng ta mới sáng suốt, cũng như người đi biển hoặc người nô lệ trốn chủ, nhờ ngôi sao bắc đẩu mà biết phương hướng. Chúng ta có lẽ không tới bến trong một thời gian đã định được đâu, nhưng chúng ta sẽ không lạc đường. Chắc chắn là trong trường hợp này, điều mà một người cho là đúng thì ngàn người còn cho là đúng hơn, cũng như xây một ngôi nhà lớn, tính theo tỉ lệ, không tốn hơn một căn nhà nhỏ, vì chỉ cần một cái nóc, một cái hầm chung cho mấy căn, và một bức tường có thể chung cho hai căn được. Nhưng riêng phần tôi, tôi vẫn thích một căn nhà khuất nẻo cách biệt các căn nhà khác. Vả lại, tự xây cất lấy hết thảy, thường đỡ tốn hơn thuyết phục người khác cùng xây với mình một bức tường chung; bức tường này muốn cho rõ hơn thì phải rất mỏng và người chung với mình có thể là một ông hàng xóm xấu, không chịu sửa chữa phía của ông ta. Thường thường, sự hợp tác duy nhất có thể thực hiện được lại cực kì hời hợt bề ngoài và phiến diện, thành thử có cũng như không; sự hợp tác thực sự là một hòa điệu mà tai loài người không nhận ra được. Nếu một người có đức tin thì bất kì ở đâu cũng hợp tác với những người cùng đức tin với mình. Nếu không có đức tin thì vẫn tiếp tục sống như đám đông, bất kì là những người hợp tác với mình ra sao. Hợp tác, hiểu theo nghĩa cao nhất cũng như nghĩa thấp nhất, là kiếm ăn chung với nhau. Mới rồi tôi nghe có ai gợi ý cho hai thanh niên cùng đi khắp thế giới với nhau; một chàng không có tiền, tới đâu kiếm ăn ở đó, hoặc làm thủy thủ hoặc làm thợ cày thợ gặt, còn chàng kia thì có một hối phiếu, tới đâu thì lại ngân hàng ở đó lãnh tiền tiêu. Ai cũng đoán được rằng họ không thể cùng đi với nhau lâu được, không thể hợp tác với nhau được vì một trong hai người không “tác” chút nào cả mà. Gặp một cuộc khủng hoảng đầu tiên trong cuộc mạo hiểm của họ là họ chia rẽ nhau liền. Nhất là như tôi đã nói, đi một mình thì có thể đi ngay tức khắc được; còn đi với một người khác thì phải đợi người này sẵn sàng đã, và như vậy có thể là còn lâu cả hai mới cùng lên đường được. Căn nhà của tôi ở trên bờ một cái đầm nhỏ, cách Concord khoảng hai cây số rưỡi, ở phía trên Concord một chút, giữa khu rừng nằm từ Concord tới Lincoln, cách chiến trường Concord trên ba cây số về phía nam, chiến trường này là chiến trường duy nhất nổi danh của chúng ta; nhưng nhà tôi ở hẻo lánh giữa rừng, tới nỗi chân trời xa nhất của tôi là hàng cây ở bờ bên kia đầm, cách nhà tôi tám trăm thước; chung quanh chỗ nào cũng là cây cối. Trong tuần lễ thứ nhất, mỗi khi nhìn ra phía đầm, tôi có cảm tưởng là nhìn một cái tarn[32] nổi ở sườn một ngọn núi, mà đáy cao hơn mặt các hồ khác nhiều; buổi sáng mặt đầm như cởi bỏ lớp áo ngủ bằng sương mù ban đêm, và đây đó, lần lần hiện lên những làn sóng nhấp nhô dịu dàng hoặc một mặt phẳng lặng lấp lánh như gương, trong khi làn sương mù, như bóng ma, lén lút tan vào trong rừng sau một đêm bí mật hội họp với nhau. Những giọt sương ban ngày cơ hồ như bám vào cây và sườn đồi lâu hơn thường lệ. Tháng tám, mưa nhẹ lúc đổ lúc ngừng, không khí và nước như ngưng đọng lại dưới nền trời u ám, tôi mới thấy có cái hồ nhỏ đó ở bên là quí vô cùng; những ngày đó, trời mới xế bóng một lúc mà đã có cái vẻ thanh tĩnh như buổi chiều, và chim họa mi hót vang ở chung quanh bên kia hồ mà bên đây cũng nghe thấy. Một cái hồ như vậy thì không giờ nào tĩnh mịch bằng giờ đó; lớp không khí nhẹ lưu động, nổi ở trên mặt hồ, hóa tối lại vì trời có mây, làn nước lấp lánh cũng hóa thành một nền trời thăm thẳm. Từ đỉnh một ngọn đồi kế cận mà cây mới bị đốn, tầm mắt phóng xa về phía nam, qua bên kia đầm, nhờ một lỗ hở ở trên các ngọn đồi ở bờ đầm; cảnh đó tuyệt đẹp; sườn những đồi đó nối tiếp nhau thoai thoải đưa xuống, cho ta cảm tưởng rằng có một dòng nước chảy qua một thung lũng có rừng rậm, nhưng sự thực không có dòng suối nào cả, chỉ là tưởng tượng thôi. Đứng trên cao đó, tôi nhìn thấy ở dưới là dãy đồi gần, màu xanh lá cây, rồi tới dãy đồi cao hơn, xa hơn, màu lam, sau cùng là chân trời. Nhón gót lên, tôi có thể thấy thấp thoáng vài ngọn của một dãy núi màu lam đậm hơn, xa hơn nữa chạy dài ở phía tây bắc, y như những cái khuôn dấu màu chính-lam của trời; tôi cũng thấy được một khu nhỏ của làng mạc. Nhưng nhìn về các phía khác thì ngay ở trên chỗ cao đó, tôi cùng chỉ thấy toàn là rừng bao bọc tôi. Nên có nước ở gần nhà để cho đất có vẻ bập bềnh hơn. Dù chỉ là cái giếng tầm thường nhất thì cũng có cái lợi này là nhìn vào đó ta có cảm tưởng rằng chỗ mình ở là một hòn đảo chứ không phải lục địa, và điều đó cũng quan trọng cho ta như cái lợi có thể ngâm bơ xuống giếng cho nó mát. Khi đứng trên đỉnh đồi mà nhìn những bãi cỏ Sudbury ở bên kia đầm — mùa nước lụt, có lẽ do ảo giác, những bãi cỏ đó như dâng lên cao trong thung lũng đầy hơi nước, y hệt những đồng tiền trong một cái chậu — thì tôi thấy tất cả những đất ở bên đó có vẻ như một lớp mỏng cách biệt ra, lềnh bềnh, và tôi nhớ ra rằng chỗ tôi đứng đây là đất khô. Mặc dầu đứng ở cửa nhà tôi nhìn ra không thấy được xa bằng, tôi cũng không có cảm giác bị cách biệt, bị giam hãm. Thế là đủ cho óc tưởng tượng của tôi rồi. Bờ bên kia đưa lên một bình nguyên thấp, có nhiều cây “sên” xanh và tôi tưởng tượng bình nguyên đó chạy tới những cánh đồng cỏ miền tây, tới những hoang nguyên xứ Tartary, những miền mênh mông cho tất cả các gia đình lang thang tới cắm trại. Khi bầy cừu[33] cần tới một miền khác có nhiều cỏ hơn, Damodara bảo: “Trên đời này chỉ những sinh vật nào được tự do hưởng một chân trời rộng rãi thì mới thực là sướng.” (…) Đối với tôi, buổi sáng nào cũng như mời mọc tôi vui vẻ ráng sống giản dị và giữ được thiên chân như vạn vật chung quanh. Tôi cũng sùng bái Bình-Minh như người Hi-lạp, chứ không kém. Tôi dậy sớm, xuống đầm tắm; việc đó cũng như một việc lễ bái và tôi cho rằng nó là một trong những việc tốt nhất của tôi. Tương truyền rằng trên bàn tắm của vua Thang nhà Thương, có khắc mấy chữ này: “Mỗi ngày mỗi mới, rồi mới nữa, mới nữa, mới hoài”.[34] Tôi hiểu điều đó. Bình minh nhắc ta nhớ những thời đại anh hùng. Lúc hừng đông, khi cửa và cửa sổ mở rồi, những con muỗi bay lượn mà tôi không thấy, vo ve trong phòng tôi làm cho tôi xúc động như nghe tiếng kèn xưng tán một bậc danh vọng vậy. Nó là kinh cầu nguyện của Homère. Một thiên Iliade hoặc Odyssée mà loài muỗi vừa bay lượn uể oải vừa vo vo kể lại, và tỏ nỗi bất bình của nó nữa. Có cái gì thuộc về vũ trụ ở trong đó; một dấu hiệu xác thực tỏ rằng thế giới phong phú và có sinh lực bất tuyệt. Buổi sáng là lúc tỉnh dậy, thời gian quan trọng nhất trong ngày. Lúc đó ta ít mơ màng nhất; một phần của cơ thể chúng ta thiu thiu ngủ suốt ngày và đêm, lúc đó tỉnh táo lại. Ngày nào mà buổi sáng không phải vị Thần của chính ta đánh thức ta dậy, mà phải có bàn tay máy móc của người ở lay ta dậy; nghĩa là không phải những sinh lực đã phục hoạt, những hoài bão thầm kín của ta đánh thức ta dậy trong một không khí thơm tho, và trong tiếng nhạc như trên trời vẳng xuống, mà phải có tiếng kiểng của xưởng dựng ta dậy, thì ngày đó coi như bỏ, còn trông mong gì được nữa đâu. Sự tối tăm (ban đêm) cũng có lợi cho ta không kém ánh sáng (ban ngày). Người nào mà không tin rằng mỗi ngày có một giờ thiêng liêng hơn, bình minh hơn chưa bị hóa phàm tục đi, thì là người đó đã tuyệt vọng về đời và nhắm mắt để cho mình tuột dốc. Sau khi ngũ quan ngưng hoạt động một thời gian (trong lúc ngủ) linh hồn con người, đúng hơn là cơ thể con người lấy lại sinh lực và vị Thần của mình lại hoạt động. Tôi còn muốn nói rằng tất cả các biến cố quan trọng xảy ra vào lúc bình minh, trong cái không khí bình minh. Kinh Phệ-Đà của Ấn-độ bảo rằng: “Trí tuệ nào cũng bừng tỉnh vào buổi sáng.” Thi ca, nghệ thuật, những hành vi cao cả nhất, đẹp đẽ nhất của loài người xảy ra trong buổi sáng sớm. Tất cả các thi sĩ, các anh hùng, như Memnon[35], đều là con của Bình-Minh, và tiếng ca hát của các vị đó nổi lên lúc mặt trời mọc. Người nào mà tư tưởng mạnh mẽ cùng tiến với mặt trời thì trọn ngày là buổi bình minh bất tuyệt. Kim đồng hồ, thái độ hoặc công việc có đáng kể gì đâu: cứ lúc nào tôi tỉnh táo, có một bình minh ở trong tâm hồn tôi thì lúc ấy là buổi sáng. Cải thiện tinh thần là gắng sức làm cho tỉnh ngủ. Nếu họ không thiêm thiếp ngủ thì tại sao lại có nhiều người chẳng làm được gì trong ngày như vậy? Họ đâu có tính toán dở tệ. Nếu họ không thiu thiu ngủ thì họ đã làm được cái gì rồi. Đa số đủ tỉnh táo để làm những công việc khó nhọc về thân thể; nhưng cả triệu người mới có một người tỉnh táo để làm một công việc hữu hiệu về tinh thần, và trăm triệu người mới có một người sống một đời thi vị hoặc thần thánh. Tỉnh táo tức là sống. Tôi chưa thấy người nào hoàn toàn tỉnh táo. Làm sao tôi có thể nhìn thẳng vào mặt người đó được nếu tôi được gặp. Chúng ta phải tập thức dậy và giữ cho tỉnh táo, không phải bằng những cách máy móc, mà bằng cách luôn luôn chờ đợi bình minh nó không rời bỏ ta cả trong khi ta ngủ say nhất. Hiển nhiên là con người có thể gắng sức để nâng cao đời của mình lên, khả năng đó không ai chối cãi được; và tôi cho điều đó đáng làm cho ta phấn khởi nhất. Vẽ một bức họa, tạc một bức tượng, đem lại vẻ đẹp cho vài vật nào đó, điều đó tốt đấy, nhưng vẽ, khắc cái không khí cùng cảnh vực trong đó ta sống, điều đó mới vẻ vang hơn. Làm cho cái phẩm của ngày tăng lên, nghệ thuật đó mới là tinh tế nhất. Ai cũng có bổn phận làm cho đời mình, cả trong những tiểu tiết, xứng đáng với sự trầm tư trong cái giờ cao cả nhất, đòi hỏi nhiều nhất của mình (…) Tôi vào rừng vì tôi cố ý muốn sống bằng kinh nghiệm bản thân, giải quyết một cách bình dị các hành động căn bản của đời sống và thử xem tôi có thể học được tất cả những gì mà đời sống dạy cho tôi không; tôi không muốn, khi chết, thấy rằng mình chưa hề sống; tôi không muốn sống một đời không thật là đời sống — đời người quí quá mà — cũng không muốn an phận, trừ phi là khi nào hoàn toàn bị bắt buộc. Tôi cần là cần sống đầy đủ, rút hết cái tinh túy của đời sống, sống một cách đủ nghiêm khắc với đủ nghị lực để trục xuất tất cả những gì không phải là sự sống, cắt sát đất cái đám cỏ lớn bao vây sự sống, đuổi nó tới cùng đường của nó để bắt nó; nếu nó quả là ti tiện thì khám phá xem cái ti tiện hoàn toàn, đích thực của nó ở đâu để phát giác cho thế giới thấy; còn như nếu nó cao cả thì do kinh nghiệm mà biết được nó cao cả ra sao để báo cáo cho đúng trong cuộc du lãm của tôi. Vì theo tôi thấy thì hình như đa số nhân loại, lạ lùng thay, không biết rõ về bản thể của nó là do ma quỉ hay do Thượng Đế mà đã hơi vội vàng kết luận rằng cứu cánh chính của chúng ta ở cõi trần này là biểu dương Thượng Đế và tin ở Ngài mà vĩnh viễn hoan hỉ an mệnh”. Phần 3 Bất tuân chính quyền (Civil disobedience) Tôi sẵn sàng chấp nhận châm ngôn này: “Chính quyền nào chi phối[36]ít nhất là chính quyền ấy tốt nhất”, và tôi mong được thấy châm ngôn đó đem ra thực hành mau hơn, một cách triệt để. Rốt cuộc nó sẽ đưa tới điều này mà tôi cũng tin là đúng nữa: “Chính quyền nào không chi phối chút gì là chính quyền ấy tốt nhất”, và sau này, khi nào loài người được chuẩn bị rồi thì sẽ được chính quyền đó. Sự thống trị luôn luôn chỉ là một phương tiện, nhưng thường thường thì hầu hết các chính quyền — đôi khi tất cả các chính quyền nữa — không thích hợp, tiện lợi chút nào cả. Đã có nhiều phản kháng sự thành lập một đạo quân thường bị; những lời phán kháng đó nghiêm trọng đáng cho ta lưu ý tới và cũng có thể đem áp dụng vào một chính quyền thường trực được. Một đạo quân thường bị chỉ là một khí giới của một chính quyền thường trực. Ngay như chính quyền chỉ là do dân bầu lên để thi hành ý chí của dân, mà cũng có thể bị lợi dụng, đi sai mục đích, tới khi dân can thiệp thì đã trễ. Chứng cớ là chiến tranh Mễ-tây-cơ hiện nay[37] do một bọn không đông lắm gây ra, và chính quyền đã làm tay sai cho họ; mới đầu, dân chúng đâu có chịu biện pháp đó. Như vậy thì chính quyền Hoa-kì đó bất quá chỉ là một truyền thống mới có đây, cần lưu truyền tới hậu thế, nhưng mỗi lúc mỗi thêm tan rã. Nó không có sinh lực, không mạnh bằng một cá nhân duy nhất vì một cá nhân có thể bắt chính quyền đó phục tòng ý chí mình được; ngay trong mắt người dân nó là một thứ súng bằng gỗ, mặc dầu vậy mà nó cũng có vẻ cần thiết; dân chúng đòi hòi một bộ máy (chính quyền) rắc rối, ồn ào là vì họ có quan niệm như vậy về chính quyền. Và các chính quyền đã chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng lừa gạt dân là điều rất dễ, chính dân chúng cũng dễ tự lừa gạt họ nữa. Điều đó có lợi cho chính quyền. Phải công nhận rằng như vậy thật là hoàn hảo. Nhưng cái chính quyền đó có bao giờ tán trợ một công trình nào đâu, nếu có thì chỉ là làm bậy, đi sai con đường của nó. Đâu phải là chính quyền (Hoa-kì) duy trì sự tự do trong nước, nó đâu có tổ chức miền Tây, nó đâu có điều khiển giáo dục. Chính dân tộc Hoa-kì theo bản tính tự nhiên đã làm tất cả những công việc đó; mà còn làm được nhiều hơn vậy nữa kia, nếu chính quyền không đôi khi tìm mọi cách làm cho công việc thêm khó khăn. Con người muốn dùng chính quyền làm một phương tiện để người nọ sống yên ổn với người kia; và như tôi đã nói khi nào chính quyền để mặc cho dân tự do hành động thì chính quyền hóa đắc lực nhất. Thương mại và sự giao dịch nếu không phải bằng cao-xu thì khi đụng vào các trở ngại do các nhà làm luật dựng lên mãi, sẽ không sao nẩy bật lên mà vượt khỏi những trở ngại đó được; và nếu chỉ xét các nhà làm luật đó theo hậu quả hành dộng của họ chứ không một phần theo ý chí của họ thì tội của họ không khác gì tội những kẻ bất lương đặt các chướng ngại vật lên đường rầy, và phải trừng trị họ như trừng trị bọn bất lương đó. Nhưng tôi muốn lấy tư cách một công dân có chủ trương thiết thực, không muốn làm cái hạng người tự xưng là theo chủ trương vô chính phủ[38], cho nên tôi không đòi hỏi phải dẹp bỏ mọi chính quyền ngay, chỉ đòi có một chính quyền tốt hơn, ngay bây giờ thôi. Nếu người dân nào cũng cho biết mình sẽ tin cậy một chính quyền ra sao, thì là tiến được một bước tới sự thực hiện một chính quyền như vậy rồi đấy. Quyền hành đã giao vào tay toàn dân mà lại để cho một đa số thống trị và nắm hết quyền trong một thời gian lâu được là tại sao? Không phải là đa số đó có vẻ nắm được chân lí, cũng không phải là tại thiểu số kia cho như vậy là công bằng, mà chỉ tại đa số đó mạnh nhất về vật chất. Nhưng một chính quyền mà phần đa số nắm được quyền hành trong mọi trường hợp thì chính quyền đó không thể bảo là xây dựng trên sự công bằng được, dù người ta cho như vậy là công bằng. Không thể nào có một chính thể trong đó không phải là phe đa số mà là lương tâm quyết định cái gì là tốt, là nên, cái gì là xấu, là không nên ư? Không thể có một chính thể trong đó phe đa số chỉ quyết định về những vấn đề nào có tính cách thích nghi thôi ư? Người công dân lúc nào cũng phải giao phó lương tâm mình cho nhà làm luật ư? Nếu vậy thì chúng ta có lương tâm để làm gì kìa? Tôi cho rằng chúng ta phải là con