🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Mộng Kinh Sư Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn MỘNG KINH SƯ Tác giả: Phan Du Phát hành: Tao Đàn Nhà xuất bản Hà Nội 2016 —✥— VCTVEGROUP Nguồn sách & Solo text: @mayaincaztec Scan & Pdf: @annie_tuongminh Ocr & Đóng gói: @Trúc Quỳnh Đặng ebook©vctvegroup 01/08/2019 https://thuviensach.vn PHAN DU MỘNG KINH SƯ Khả liên nhi bách niên cơ nghiệp Bất cập sơn tăng nhất mộng trường. Hai trăm năm xót cơ đồ, Không bằng giấc mộng thầy chùa trên non! GIẢN CHI (dịch và viết) NHÀ XUẤT BẢN HÀ NỘI https://thuviensach.vn Sóng lớp phế hưng nghe đã rộn, Chuông hồi kim cổ lắng càng mau... https://thuviensach.vn LINH MỤ TỰ VÀ DÒNG HỌ CHÂN CHỦ PHƯƠNG NAM Khắp cả một vùng Hương Ngự non thanh, nước đẹp, thắng cảnh thực chẳng hiếm gì và chùa chiền không phải là ít ỏi. Trong số trên tám mươi đền chùa có tên tuổi tọa lạc đó đây trong toàn tỉnh, vẫn còn có nhiều danh lam có thể chinh phục được lòng ái mộ và tình lưu luyến của du khách hoặc bằng cảnh trí đặc sắc, hoặc với lối kiến trúc quy mô hay với những kỳ tích về nguồn gốc, chứ không riêng gì Linh Mụ tự. Nhưng dù sao, Linh Mụ tự vẫn chiếm được cái ưu thế trội vượt hơn hết, không những vì cái cảnh trí thơ mộng nơi này, nhưng còn vì một đặc điểm mà các danh lam khác không làm sao có được. Đó là những yếu tố phong thủy của cuộc đất nó chiếm cứ, yếu tố đã tạo nên một liên hệ thiêng liêng, mật thiết và bền bỉ, giữa ngôi chùa với dòng họ chân chủ phương Nam. Số là xưa kia, Tiên Chúa Nguyễn Hoàng, tức Thái Tổ Gia Dũ Hoàng đế (1558 -1613)[1] sau khi vào trấn đất Thuận Hóa - bắt đầu từ tháng Mười năm Mậu Ngọ, tức năm Chính Trị nguyên niên thời Lê (1558), với niềm tin tưởng vững chắc ở sức bảo trợ huyền nhiệm của một dãy Hoành Sơn hùng tráng theo lời truyền bảo của Bạch Vân cư sĩ - tuy lập Dinh ở làng Ái Tử, thuộc huyện Đăng Xương, phủ Triệu Phong (nay thuộc tỉnh Quảng Trị), nhưng cặp mắt yêu chuộng phong thủy của Tiên Chúa lại thường soi rọi địa hình, địa vật khắp cả một vùng Thuận Hóa[2]. Chẳng có núi nào, sông nào, chẳng có những cuộc đất lạ nào mà Tiên Chúa không tìm đến, không thăm dò, vì mục đích chiêm ngoạn cái khí tượng vạn thiên của các nơi danh thắng cũng có, mà phần chính là vì cái chủ đích khám phá những địa thế có khí mạch của núi non ngưng kết, cần cho công cuộc khai cơ, hưng nghiệp. https://thuviensach.vn Gót phiếm du của vị chúa phương Nam, một hôm, đã dừng lại trước một ngọn đồi đột khởi giữa một cánh đồng ở thôn Hà Khê, xã An Ninh, huyện Hương Trà[3]. Đồi có hình rất lạ. Giữa khoảng bình địa, nó hiện ra như một con rồng quay đầu nhìn lại dãy núi chính, nơi nó phát xuất. Phía trước, ngay dưới chân đồi, là một dòng sông uốn khúc uyển chuyển, xinh mềm như vòng tay ngọc nữ, và, phía sau, đồi tiếp giáp với một cái hồ, mặt nước phẳng lặng như tờ. Dưới cái nhìn sành sỏi của các nhà địa lý, cảnh trí có cái đặc tính giai thắng này nhất định phải là nơi từng có linh khí ngưng tụ. Tiên Chúa lại tiến lên đỉnh đồi, nhìn ngắm quanh vùng. Trước mắt là cả một bức tranh sơn thủy vô cùng ngoạn mục, huyền ảo chẳng kém gì cảnh sắc trong tranh thủy mặc trên quạt của Mã Viễn đời Tống hay trên lụa của Ngô Đạo Tử đời Đường. Trông về phương nam, một vòng sông thanh tú, và bên kia sông, một ngọn gò thuộc xã Nguyệt Biều, gò Thọ Khang - về sau này được mang tên là gò Thọ Xương hay Long Thọ Cang[4]- nơi mà những canh gà từng được coi như là một trong những yếu tố đã tạo thành cái nguồn thi vị bàng bạc khắp cả một bầu trời Hương Ngự: Gió đưa cành trúc la đà. Tiếng chuông Linh Mụ, canh gà Thọ Xương[5]. Cùng với gò, một bãi hoang phù sa phô trương cái sức sinh sôi rất mực sung thiệm[6] của loài thảo mộc. Xa hơn là cánh đồng Nguyệt Biều phì nhiêu, êm ả. Trông về phương tây, dòng sông, sau khi vừa rẽ qua một khúc quanh, dàn rộng cõi lòng hầu như mênh mông với mặt nước phẳng lì, bóng bẩy như một bức định kính tráng bằng chất ngọc lưu ly vừa đông lại. Xa xa, án ngữ chân trời, một dãy núi xanh huyền ảo, chạy dài phía sau màn sương thoang thoáng, điểm chuyết, cùng với sông kia, gò nọ, cho cảnh trí nơi này cái vẻ lồng lộng, bao la, sáng lạn và thanh khiết của một cõi trời đã lau sạch bụi trần. https://thuviensach.vn Nhưng có thể cặp mắt của vị chân chủ phương Nam đã phải để ý đến một điểm đặc biệt hơn các thức đẹp kết hợp thành cái toàn bộ cảnh trí thơ mộng này. Đó là một đường hào - đào khá sâu - cắt đứt chân đồi tàn nhẫn như dấu vết lưỡi gươm sắc bén của tên đao phủ thiện nghệ còn lưu lại trên cổ tử tù. Bàn tay thô bạo, ngu xuẩn nào đã vô tình làm cái chuyện rất đáng kiêng kỵ về mặt phong thủy đó? Xén ngang chân đồi thì có khác gì là cắt đứt long mạch, làm phân tán cái khí thế của núi non ngưng tụ! Hoặc giả đã có tay tổ nào trong giới phong thủy bày ra cái trò yểm trừ này chăng? Chúa phương Nam liền mở cuộc dò la, thăm hỏi đám bô lão, để tìm hiểu và khám phá cho ra nguyên do. Và quả đúng như điều nghi hoặc của Tiên Chúa, hào đào là nhằm mục đích yểm trừ, và tác giả của cái công trình phá hoại này lại không ai khác hơn là tướng Cao Biền, một tay địa lý đại danh từng có chủ trương triệt tiêu tất cả mọi yếu tố phong thủy có thể giúp cho chân mạng đế vương xuất hiện ở phương Nam.[7] Các vị bô lão hiểu chuyện đã tường trình cùng Tiên Chúa rằng: vì biết được tại đồi này có một nữ thần thường hiện ra, lại xem xét kỹ, thì lòng gò có linh khí đáng ngại, nên Cao Biền đã dùng phép thuật yểm trừ và cho đào hào để dứt tuyệt long mạch. Từ đấy, ngọn đồi vắng bóng nữ thần. Dân làng qua lại đồi này, dù vào lúc giữa trưa đứng bóng hay trong đêm vắng canh khuya, cũng chẳng bao giờ còn được mục kích sự hiển hiện của thần linh như trước. Lạ hơn là cái hồ ở phía sau đồi - về sau được mang tên là Bình Hồ - nước cứ ngày càng đỏ ra như máu[8]. Một hồ máu rõ ràng! Phải chăng là máu của Rồng thiêng? Và như thế rất nhiều năm qua, không ai còn nhắc đến chuyện nữ thần, nhưng rồi, một đêm kia, có đám hành giả, nhân đi ngang qua đồi vào khoảng quá giờ Tý, đã tình cờ trông thấy, dưới bóng trăng khuya mới mọc, một bà lão, tóc và chân mày bạc phơ, ngồi ở chân đồi. Áo dài của bà cụ đỏ chói màu ráng pha, nổi bật trên chiếc quần màu lục rất tươi. Ánh trăng tuy còn lơ mơ, nhưng dường như đã được pha lẫn một https://thuviensach.vn nguồn ánh sáng huyền diệu nào đó, để soi tỏ được không những y phục, mà cả cái dáng mạo phúc hậu, trang nghiêm của bà cụ, cùng những đường nét thêu trổ tuyệt mỹ trên đôi hài gấm đế trắng và chiếc nón thúng - cũng cùng một màu trắng - có quai lụa hồng. Bà cụ nhìn vào đường hào, nhìn lên đỉnh đồi, rồi nói lớn, như có ý để những lời tiên tri của mình được lọt trọn vẹn vào tai đám hành giả đã tán loạn cả hồn phách vì cuộc gặp gỡ bất thần và đáng hãi hùng này: “Cao Biền vì ác ý muốn dứt tuyệt long mạch ở phương Nam, nhưng làm sao có thể nghịch lại sự định phận của Thiên Thư. Sơn hà nào có chân chủ nấy. Long mạch tuy bị dứt, nhưng chưa tuyệt. Máu Rồng còn tươi. Một ngày kia chuyện buồn rồi cũng chấm dứt. Bàn tay của chân chủ phương Nam sẽ lấp hào đi để cho linh khí tụ lại, long mạch nối liền. Một con Linh Quy, để được thoát kiếp, sẽ hút sạch máu trong lòng hồ. Nước hồ trong ra, cõi trời Nam càng thêm hưng thịnh, trăm họ vui khúc âu ca.” Bà cụ nói xong, vụt biến mất. Một vệt hào quang xanh eo éo trườn nhanh ra, bay vút đi trong thanh không như một dải lụa dài, quấy động không khí thành ngọn cuồng phong dữ dội. Nhưng rồi, chỉ trong giây lát, gió lặng, trăng sáng hơn lên. Ngọn đồi lại phục hồi trạng thái đìu hiu, vắng vẻ như chẳng có gì quái dị xảy ra. Câu chuyện trên đây, nhất là những lời tiên tri của vị nữ thần, làm cho Tiên Chúa rất đỗi đẹp lòng. Người liền đổi buồn làm vui phán bảo: “Bà lão ấy chính là người của nhà Trời sai xuống để báo trước về nghiệp lớn của ta. Truyền cho hào kia phải sớm được lấp lại và một cảnh chùa phải được xây cất nơi đây.”[9] Theo lệnh Chúa ban truyền, chẳng bao lâu một ngôi chùa đã được dựng lên ngay trên ngọn đồi, vào tháng sáu mùa hè năm Tân Sửu - tức tháng Bảy dương lịch năm 1601. Chùa được mang tên là Thiên Mụ tự, https://thuviensach.vn và hai trăm sáu mươi mốt năm sau, dưới thời Dực Tôn Anh Hoàng đế, được đổi tên thành Linh Mụ tự[10]. Hồ phía sau được mệnh danh là Bình Hồ. Theo câu chuyện còn được nhân dân xã An Ninh truyền tụng đến nay, thì quả đúng như lời bà lão nhà Trời đã nói về Linh Quy, sau khi chùa được hoàn thành ít lâu, một con rùa khá lớn, từ đâu dưới lòng sông Hương bò lên đồi, tiến vào vườn chùa, rồi vì khát nước, nó đục thủng thành chùa phía sau, tiến ra tận mép Bình Hồ. Con rùa lạ lùng này uống đến đâu thì nước trong đến đấy. Công việc nó làm dường như cảm động thấu đến lòng Trời, nên giông tố tự dưng đùng đùng nổi dậy. Mây vần, gió giục, cát bụi tung bay mù mịt cả một vùng Hà Khê. Và khi nước hồ vừa trong, thì cả đất trời vụt nhiên rung chuyển trong một tiếng nổ kinh hoàng. Lưỡi búa của Thiên Lôi, trong chớp nhoáng, đã giúp Linh Quy thoát kiếp[11]. Xác nó hóa đá và nằm mãi bên hồ cho đến ngày nay[12]. Long mạch ở gò Hà Khê chính là sợi dây vô hình đã gắn liền vận mệnh của Linh Mụ tự với vận mệnh của dòng họ chân chủ phương Nam, và đã dành cho nó một sự đãi ngộ hậu hĩ qua các đời chúa cũng như các triều vua nhà Nguyễn. Tính đến nay, tuổi thọ của Linh Mụ tự đã có trên ba thế kỷ và đã được kết nối bởi biết bao nhiêu vinh, nhục, thăng, trầm. Được khai sinh dưới thời Tiên Chúa, được chăm chút dưới thời Hiền Vương[13], được rạng tỏa ánh vinh quang, hoa gấm dưới thời Quốc Chúa[14], được phục hồi phong độ và sủng ái dưới thời Gia Long, sau cảnh ly loạn, can qua, và được vươn lên tột đỉnh thịnh đạt dưới thời Thiệu Trị, Linh Mụ tự quả đã chiếm được một ưu thế vô song trong các chùa chiền ở vùng Hương Ngự. Nhưng rồi có thể nói là kể từ ngày Hiến Tổ Chương Hoàng đế[15]thăng hà trở đi, cơ duyên phát đạt của ngôi cổ tự này ngày càng suy giảm, nhất là về sau này nữa, với sức tàn phá thảm hại của trận bão năm Thìn (1904), với cái ám kế chiếm đoạt của báu, tượng vàng, do bàn tay bí mật của ngoại nhân có đầy đủ uy quyền, thế lực để khiến được Bộ Công phải dâng thang, Bộ Lễ phải nộp chìa https://thuviensach.vn khóa của kho tàng Bửu Tháp[16]thì Linh Mụ tự phải được coi như đã qua hẳn một thời oanh liệt, vàng son rồi. Từ đó đến nay, tuy không rơi chìm vào quên lãng, và mặc dù được trải mấy lần trùng tu, cái phong thể trọng vọng xưa kia thay vì được phục hồi, chỉ tàn tạ thêm, cái cảnh sắc “vừng nhật chiếu đến Thiền quan, bóng xuân triều về Phật tọa”[17] cũng phải nhường cho nơi khác. Đại hồng chung đã câm tiếng! Hương Nguyện đình chỉ có nền xưa! Khách thập phương ngày càng thưa thớt. Linh Mụ tự giữa những cảnh chùa trẻ trung, tân tiến hiện nay ở Cố đô, tuy vẫn còn hiện diện, vẫn phô trương Bửu Tháp trên đồi Hà Khê, nhưng thực sự thì đã lùi xa vào quá khứ. Sớm chiều, những chú tiểu yếu ớt, vận dụng hết sức mình vẫn không thể thỉnh chuông cho đủ số một trăm lẻ tám tiếng, mệt mỏi buông tay nửa chừng và qua hơi thở nhọc nhằn, qua những tiếng kinh, tiếng mõ bơ vơ, lạc lõng trong bầu không khí u tịch, buồn rầu lóng nghe[18] những âm ba ngắn ngủi chìm tắt vội vàng, để chạnh lòng nuối tiếc cái sức ngân nga du viễn của Đại hồng chung xưa! Nhưng nếu tiếng chuông Linh Mụ không còn đủ sức để vươn lên, từ dưới bóng xanh cổ thụ, thấu tận miền Phật cảnh[19] và lan xa tỏa rộng khắp sông Mê, bể Khổ để làm tròn sứ mạng cảnh tỉnh chúng sinh, thì nó lại có đầy đủ thẩm quyền hơn tiếng chuông chùa nào hết, để kể lể và làm sống lại, dưới mắt du khách, bao nhiêu vang bóng của Kinh sư. Đồng thời có quyền nhắc nhở với một niềm kiêu hãnh rằng: công cuộc hình thành kinh đô nhà Nguyễn, tại Phú Xuân, nếu truy nguyên cho tận cùng, phải được coi như là bắt đầu khởi niệm từ ngôi chùa cổ kính này, một ngôi cổ tự từng được Hiến Tổ Chương Hoàng đế liệt vào trong số hai mươi thắng cảnh trội nhất ở Thần kinh. Là con đầu lòng trong các công trình kiến trúc của họ Nguyễn ở vùng Phú Xuân, Linh Mụ tự, với trên ba trăm rưỡi tuổi, từ ngọn đồi Hà Khê, đã chứng kiến được đầy đủ, từ đầu chí cuối, quá trình hình https://thuviensach.vn thành, diễn biến của Kinh sư qua bao nhiêu thăng trầm, dâu bể, để đến nay có thể thu gọn vào cái lắng mau của những hồi chuông triêu mộ, thành một giấc mộng “Kê Vàng” mà trong đó, du khách nặng lòng hoài cổ, mỗi lúc dừng chân dưới mái chùa xưa, giữa cảnh quạ kêu trăng rụng, có thể tìm được, cùng với cái thú truy hồi những vang bóng xa xưa, một mảnh gương kim cổ rất giàu ý nghĩa. https://thuviensach.vn PHÚ XUÂN VÀ DI CHÍ THIÊN DI DINH, PHỦ VỀ NAM CỦA TIÊN CHÚA NGUYỄN HOÀNG Với bản đồ tịch trong xứ, do Luân Quận công Tống Phước Trị, từng giữ chức vụ Thuận Hóa Trấn phủ[20], dâng lên ngay lúc Tiên Chúa mới vào Nam, và thêm vào đó, những lời tiên tri của bà lão nhà Trời xuất hiện ở ngay chân đồi Hà Khê, Tiên Chúa chắc hẳn đã lưu ý nhiều tới cảnh trí, địa thế của vùng đất thuộc tỉnh Thừa Thiên hiện nay, nhất là vùng Phú Xuân. Cái ý định thiên[21] dinh về Nam hẳn đã ve vãn tâm trí của vị chúa trẻ tuổi - mới trên ba mươi - giàu chí lớn, ngay từ khi cái cảnh sắc, khí tượng “thiên phủ”[22] của nơi này - được tăng thêm phần quyến rũ vì câu chuyện Cao Biền yểm trừ long mạch - đã lọt vào tầm mắt. Thực vậy, cái phần đất đai thuộc vào Hóa Châu dưới thời nhà Trần đã từng nằm trong địa bàn của châu Lý - một trong hai châu mà Chế Mân, vua nước Chiêm Thành, đã dùng làm lễ nạp trưng nhằm đánh đổi cái diễm phúc được vầy duyên loan phượng với một công chúa Việt Nam, và dưới thời Lê, trở thành ba huyện Kim Trà, Đan Điền, Tư Vinh thuộc sáu huyện và hai châu của phủ Triệu Phong thuở đó[23], lại được đổi tên là Hương Trà, Quảng Điền, Phú Vinh dưới thời Tiên Chúa[24], quả là một vùng có hình thế kín đáo, hiểm trọng. Hiểm trọng, kín đáo, vì ở phía Bắc có biển Hạc Hải - năm Minh Mạng thứ hai (1821) được đổi tên là phá Tam Giang - rộng những sáu dặm, dài ba mươi lăm dặm, do nước từ ba ngả sông Tả Giang, Trung Giang và Hữu Giang đổ vào, sâu rộng mênh mông và thường có phong ba dấy khởi[25], ở phía đông có vũng Hà Trung[26] với những đầm Minh Lương, Ô Trai và Đả Đả rộng hai dặm lẻ, chu vi có tới trăm https://thuviensach.vn dặm. Tương truyền, chính tại nơi này, Thái Tôn Hiếu Triết Hoàng đế, tức chúa Nguyễn Phước Tần, nhân một dịp kinh quá, đã trông thấy tận mắt, một con sóng yêu quái nổi dậy. Chúa cả giận, ra lệnh bắn ngay hai phát đại bác vào đám sóng đang lồng lộn trong cơn cuồng nộ. Tức thì, hai con sóng trong đám phun máu ra đỏ cả một vùng, trong lúc một con sóng thứ ba lẩn trốn vội vàng ra khơi. Ở phía đông nam, lại có ải Hải Vân hùng vĩ, hiểm hóc. Hải Vân, một loại thiên hạ đệ nhất hùng quan, cùng với Hang Dơi, tức Bãi Chuối, nằm ngay chân núi giáp bờ bể ở phía bắc, đã từng nổi tiếng với câu ngạn ca: Bộ hành khả úy hề Hải Vàn, Thủy hành khả úy hề Bức Cốc ba thần. Đi bộ thì khiếp Hải Vân, Đi thuyền thì khiếp sóng thần Hang Dơi[27]. Hải Vân còn là nơi mà, về sau này, chúa Nguyễn Phước Châu, một phen tuần hành, đã phải tán tụng về cái vẻ hiểm trở, hùng tráng, trong bốn câu thơ: Việt Nam hiểm ải thử sơn diên, Hình thế hỗn như Thục đạo thiên. Đãn kiến vân hoành tam tuấn lãnh, Bất tri nhân tại kỷ trùng thiên[28]. Chót núi này là hiểm trở nhất ở Việt Nam, Hình thế giống như đường đi đất Thục, Chỉ thấy mây giăng trên ba núi lớn, Không hay mình ở trên mấy từng trời. Ngoài ra còn có nguồn núi Tả Trạch, xoay chuyển về hướng nam, với năm mươi lăm thác nước và nguồn núi Hữu Trạch chạy dài qua phía hữu với mười bốn thác, lại có vô số đồi khe ràng rịt đủ để trấn ngự được bước tiến của các man. https://thuviensach.vn Cùng với cái thế hiểm trở này, còn phải kể những đặc điểm của sơn xuyên có lợi cho công cuộc hưng nghiệp. Núi Cư Chính[29] chẳng hạn - dưới thời Minh Mạng năm thứ hai, được đổi tên là Hưng Nghiệp - đã được các tác giả Đại Nam nhất thống chí nhấn mạnh về tính cách quan hệ đối với nghiệp lớn của nhà Nguyễn như sau: “Thế núi chạy dài nhiều từng quanh bọc, các ngọn nước chạy triều về Đông, nghiệp lớn muôn đời của bản triều thật triệu đoan từ nơi đây[30].” Và sông Hương Giang, ở phía nam quận Hương Trà, một thành quả mỹ miều của một cuộc giao duyên giữa hai nguồn nước đa tình. Một nguồn từ Khe Ba ở núi Trường Động phía Tả Trạch, một từ phía đông núi Chấn Sơn thuộc nguồn Hữu Trạch, băng vượt qua bao nhiêu đường xa, dặm dài, để cùng gặp nhau ở nơi hò hẹn đầy trăng gió là ngã ba sông Bằng Lãng, hợp nhất mà chảy xuống phía đông, tạo thành một dòng tú thủy nổi danh, trầm lặng uốn khúc giữa những đồng xanh, thôn hoa. Chất nước mát ngọt trong lành của dòng sông không những chỉ mang lại sự phì nhiêu cho đôi bờ, mà còn phối hợp với phong thổ để tẩm nhuần thêm chất đường thanh mật ngọt, phổ thêm nhạc điệu vào giọng nói, và điểm chuyết thêm vẻ thanh tân, não chúng cho giống thục nữ sinh trưởng giữa vùng Hương Ngự. Và cũng trên bờ sông này, vị trí Kinh sư tọa lạc quả là một nơi thống hội cả núi bể khí hậu hòa bình... sông lớn bao la ở trước, núi cao hộ vệ ở sau... địa thế hùng tráng như rồng lượn quanh co, hổ ngồi chễm chệ... thật là bụng rốn của trời đất[31]. Thêm vào đấy, còn có cửa bể Ô Long - tức cửa bể Tư Hiền - với câu nói còn được truyền tụng của vua Lê Thánh Tôn nhân dịp vào đánh Chiêm Thành: “Núi sông này khí thế hùng dũng lắm thay! Đời sau chắc có anh hùng chiếm cứ nơi này.” Hùng dũng vì cái cảnh tượng: Liệt chướng huyền nhai thanh xúc xúc Man thiên phách lãng bích trùng trùng. Núi xanh cao giăng sườn đồ sộ, Biển chập chồng sóng vỗ dậy trời.[32] https://thuviensach.vn Ngoài những đặc điểm của sơn xuyên vừa kể, nơi này còn là một vùng ruộng đất phì nhiêu, tài nguyên sung thiệm: giáp bờ bể, dọc theo núi, cá tôm, cây gỗ dùng không thể hết[33], hải vị, hào soạn[34], lâm sản vô cùng phong phú. Tấn thảm kịch Huyền Trân, hay cuộc đổi chác xem trọng giá trị đất đai hơn giá trị con người: “Hai châu Ô, Lý vuông ngàn dặm, một gái Huyền Trân của mấy mươi”[35] nỗi sầu khổ, tủi thương của khách má hồng bạc phận, cái cảnh nước non nghìn dặm ra đi của một công chúa hoa ngọc phải đem phẩm tiên trao phó tay phàm, cùng những vang bóng của một cuộc chia ly từng được cấu tạo thành một bức tranh đầy màu sắc tươi sáng mà thê lương, huy hoàng mà bi đát dưới ngòi bút của thi nhân: ... thuyền Chiêm trên bể rộng, Sắp hàng đi tới nơi chân trời mơ mộng. Nơi vầng ô sang sáng pha hồng tươi, Cờ tung bay phấp phới trên nền trời. Và, như ru, nhịp nhàng chèo khua sóng, Tiếng loa xa còn mơ màng đồng vọng. Nhưng dãy thuyền gió quyến vẫn dần trôi, Đưa Huyền Trân về Chiêm quốc, hỡi ôi! PHẠM HUY THÔNG (Huyền Trân công chúa) hẳn phải sống dậy, trên vùng đất đai này, dưới cái nhìn thăm dò địa thế của vị Tổng trấn Tướng quân và chắc là đã phải gợi ra cho Tiên Chúa một sự ngạc nhiên về sự an bài, bố trí khéo léo của Định mệnh, vì hầu như cái thảm kịch Huyền Trân đã chuẩn bị, ngay từ thời nhà Trần, những yếu tố địa lợi cần thiết cho họ Nguyễn sau này trong công cuộc khai cơ hưng nghiệp. Nhưng vì sao cái ý chí ấy lại không được thực hiện ngay trong buổi sinh thời của Tiên Chúa? https://thuviensach.vn Nhiều bậc trưởng lão ở Kinh kỳ, bên cạnh những chén trà ngào ngạt hương lan Trân châu[36] hay hương hoa mộc hoặc trong những chiếu rượu thong dong kiểu Phi anh hội[37], mỗi lúc được gạn hỏi về điểm này, thường có lối suy diễn bằng cách ức đạt tâm lý, tuy có phần khiên cưỡng nhưng không phải là hoàn toàn vô căn cứ. Sự suy diễn này được dựa vào một vài giai thoại có vẻ hoang đường dưới thời Tiên Chúa. Trước tiên là cái điềm lành mà vị Thái phó Nguyễn Ư Dỹ đã nghiệm được ý nghĩa qua bảy chum nước do nhân dân mang đến dâng cho Chúa[38]tại bãi cát Cồn Cỏ, làng Ái Tử, khi Tiên Chúa do[39] An Việt, tức cửa Việt ngày nay, lên sông Quảng Trị, vừa bắt đầu đặt chân vào vùng Thuận Hóa[40]. Thứ đến là cái thắng lợi vô cùng may mắn trong cuộc chống cự Mạc tướng Lập Bạo, cũng trên dòng sông Ái Tử. Chính tại đây, chuyện lạ đã xảy ra, vào một đêm mà hương thơm của những hạt gạo Minh Xuân[41] mềm dẻo, cùng tất cả những thức hào soạn dâng lên, không làm cho Tiên Chúa ngon miệng chút nào. Và, những vò rượu Kim Lung[42] hảo hạng, dù có cạn hết cũng khó thể giải tỏa được nỗi lo buồn trong lòng Tiên Chúa. Thế địch quá manh. Lập Bạo, với sáu chục binh thuyền, từ Hải Dương vượt bể tiến vào[43]. Trại mạc của Lập Bạo giăng đóng san sát từ con đường Hồ Xá đến đền Lãng Uyển Thanh Tương[44], biểu dương cả một khí thế hùng mạnh đến độ chỉ nhìn qua, Tiên Chúa đã biết lực lượng của mình khó bề đương cự nổi. Cứ lấy sức mà chọi sức thì sự thất bại đã quá rõ ràng. Còn Phỉ thúy trĩ, do dân huyện Thành Hóa dâng lên cho Chúa, vào ngày xuất quân, không còn được coi là một điềm lành làm đẹp lòng Chúa như khi nó vừa được mang đến trong chiếc lồng son[45]. Giữa lúc lòng dạ rối bời vì chuyện quân cơ, Chúa tựa mạn thuyền, thờ thẫn lặng nhìn dòng sông. Đêm thanh cảnh vắng. Mặt sông vắng gió, không hề gợn một nếp nhăn, bằng phẳng như tấm kính dưới bóng trăng vàng. Bỗng nhiên Tiên Chúa chú ý đến một hiện tượng bất thường. Gần bên thuyền Chúa, mặt nước tự dưng xao động, ba đào nổi dậy như đang cơn giông tố mà chẳng hề lay chuyển mình thuyền. Và https://thuviensach.vn từ chỗ khơi động thủy ba, có những tiếng “trảo trảo”vọng lên. Trước chuyện quái dị, vị chân chủ phương Nam nghĩ ngay đến sự hiển linh của giang thần, bèn đổi lo làm mừng, chinh túc nghi dung, nhìn thẳng vào đám sóng mà mật đảo[46]. Và, đêm ấy, trong mộng, có một phụ nhân hoa ngọc, mặt sương mình tuyết, phong vận rất mực đoan trang đã hiện về bái yết và hiến kế mỹ nhân. Phụ nhân tự xưng là nữ thần Trảo Trảo[47]. Y theo kế của nữ thần, Tiên Chúa liền chọn một nàng hầu có cái nhan sắc rất đỗi não nùng - nàng Ngô Thị tự là Ngọc Lâm, tục gọi là nàng Trà - trao cho nàng cái nhiệm vụ chiêu phủ kẻ địch bằng vàng ngọc và cái duyên đẹp nói, đẹp cười. Quả nhiên, mặt hoa da phấn và cái vẻ não chúng của nàng Trà đã làm xiêu lòng Mạc tướng, đẩy y đến chỗ bỏ mình giữa chốn ba quân[48]. Cũng như Từ Hải quá tin Kiều nhi thuở nào, Lập Bạo theo lời quyến dụ đường mật của giai nhân, đã chịu cùng nàng bơi một chiếc thuyền con đến nơi họp mặt với Tiên Chúa, một ngôi đền tranh mới dựng bên bờ sông, có sẵn hầm đào cho phục binh ẩn núp. Và tại đây, Lập Bạo đã phải ngã gục xuống giữa trận mưa tên, khi y cố tháo lui để tẩu thoát[49]. Không những trừ được Lập Bạo, Tiên Chúa với chiến thắng này, còn được thêm một số binh sĩ quy hàng đông đảo để sử dụng vào công cuộc khẩn hoang ở các vùng chung quanh cồn Tiên, thuộc huyện Gio Linh, lập thêm được những ba mươi sáu xã mới[50]. Chính những kỷ niệm đẹp đẽ này - từng làm thỏa mãn lòng tự ái và củng cố niềm tin của Chúa vào cái cơ duyên hưng nghiệp của mình - đã gây cho Tĩên Chúa một mối tình quyến luyến keo sơn đối với cái địa phương mà Chúa đã dừng bước để đóng trị sở đầu tiên và, do đó, Tiên Chúa không nỡ rời bỏ nơi này, tuy đã hơn một lần, dinh trại từng được thiên di. Ái Tử hay Trà Bát hay Dinh Cát cũng vẫn là những địa điểm không cách nhau xa lắm, cũng nằm trong phạm vi một huyện Võ Xương hay Đăng Xương như Chúa đã đổi tên cho[51]. https://thuviensach.vn Thực vậy, trong suốt thời gian năm mươi lăm năm trời ở cương vị chân chủ phương Nam, Tiên Chúa không hề rời bỏ huyện Đăng Xương. Có thể câu chuyện bảy chum nước, xét như là một yếu tố về nhân tâm, giải thích được phần nào sự trì hoãn việc thiên dinh về Nam. Vào trấn Thuận Hóa là đi lánh một cái họa có thể xảy ra, đi tìm một chỗ dung thân. Và sự bắt đầu một công cuộc khai cơ ở một vùng xa xôi hiểm trở, còn bỡ ngỡ lạ lùng, lại thường có quân nhà Mạc năng tới lui quấy nhiễu như vùng Thuận Hóa thuở đó, thì yếu tố nhân tâm càng phải được chú trọng nặng hơn yếu tố thiên thời, địa lợi. Vốn phải xa lìa nơi Kinh khuyết chỉ vì muốn tránh một cái họa có thể xảy ra bởi bàn tay thâm độc của một ông anh rể quá giàu tham vọng, Tiên Chúa lòng riêng vẫn còn quyến luyến nhà Lê, và cũng chưa nghĩ đến chuyện chống nhau với họ Trịnh, nếu không có những mưu toan ám hại của Trịnh Tùng[52], mà Tiên Chúa đã cảm đoán được, qua thái độ của đứa cháu gian hùng này, khi Bình An vương cố tình lưu giữ ông Cậu ở Thăng Long để tránh cái chuyện thả hổ về rừng[53]. Năm Kỷ Tỵ (1566), một lần ra chầu vua Lê ở An Tràng; năm Quý Tỵ (1593) một lần đưa quân ra phù Lê giúp Trịnh diệt Mạc[54]. Bốn trăm cân bạc ròng, năm trăm cây lụa quý triều cống hàng năm[55], trước sau vẫn giữ đúng kỳ, đủ lễ, há chẳng đã chứng tỏ cái mộng “Triều đình riêng một cõi trời” chưa hề ve vãn tâm tư của Tiên Chúa thuở đó. Và, sau này, với cuộc giã từ đột ngột Thăng Long (1600), mượn cớ dẹp bọn phản nghịch Phan Ngạn, Ngô Đình Nga, Bùi Văn Khuê nổi lên ở cửa Đại An - do chính âm mưu mật sử của mình[56], dong buồm ra khơi, cướp gió mà quay về Thuận Hóa[57], Tiên Chúa tuy đã rắp tâm chống lại họ Trịnh, mưu đồ hưng khởi sự nghiệp, mở rộng bờ cõi về Nam để bành trướng thế lực, lại càng tha thiết đến yếu tố nhân tâm. Với sự phò giúp của những hạng hiền tài như Oai Quốc công Nguyễn Ư Dỹ, Thống binh Mạc Cảnh Huống và Luân Quận công Tống Phước Trị, cùng một số đông người ở Tống Sơn theo vào với Chúa, mối quan https://thuviensach.vn tâm lớn nhất mà Tiên Chúa thường biểu lộ vào lúc bấy giờ là sự chiêu hiền và thu phục lòng dân. Nhân dân ở huyện Đăng Xương[58] đã tỏ lòng kính mộ Tiên Chúa, ngay từ lúc đầu, qua câu chuyện dâng bảy chum nước, có thể đã trở thành một thứ quần chúng quen thuộc, đáng tin cậy vì lòng trung thành. Phong khí thuần lương, có tính hiếu học, sách đắt tiền mấy cũng sẵn sàng mua[59], nhân dân Đăng Xương hẳn đã chiếm được nhiều cảm tình và tín nhiệm của vị Tổng trấn Tướng quân. Dinh Cát thuở đó còn là một nơi đô hội, vì cái xứ có nhiều con gái đi chợ, tóc bỏ xõa, ngang lưng có thắt dải lụa, khách đến nhà niềm nở chào mời trầu cau[60], vốn đã là một cảng khẩu trọng yếu của các thương thuyền Trung Hoa, với rất nhiều thuyền buôn Trung Quốc đổ về, mang lại cho Tiên Chúa một nguồn lợi không phải là nhỏ[61]. Có thể vì những lẽ vừa nói, mà trong mười hai năm trời còn lại, trị sở của Tiên Chúa không hề rời quá xa làng Ái Tử, tuy Thiên Mụ tự, vì câu chuyện long mạch ở vùng Hà Khê, đã được Chúa cho xây cất, cách một năm sau đó (1601) cùng với một nhà kho tại vùng Hương Ngự, và công cuộc Nam tiến đã ghi được một thắng lợi quan trọng với cuộc tiến chiếm đất Chiêm Thành ở vùng Phú Yên (Sông Cầu) vào năm 1611. Nhưng nếu cái ý định thiên di Thượng đô về Nam không được thực hiện ngay trong buổi sinh thời của Thái Tổ Gia Dũ Hoàng đế, thì nó lại trở thành một thứ di chỉ được các vị chúa kế vị tiếp tục noi theo, như chúng ta sẽ thấy sau này, qua chuỗi thăng trầm, suy thịnh của Linh Mụ tự. https://thuviensach.vn TỪ DINH TRẠI Ở TRÀ BÁT ĐẾN PHỦ TRỊ Ở KIM LONG Vùng đất Thuận Quảng, ngay khi Tiên Chúa mới vào, quả không phải là một vùng hoang vu, ác địa. Phủ Tân Bình, dân cư đã đông đảo “xóm làng trù mật, gà chó đầy đàn, cỏ nước ngon lành, trâu bò béo tốt”[62]. Tài nguyên dồi dào, phong phú “ở đồng bằng, nông tang vốn sẵn nghiệp nhà, bờ biển cá muối là kho vô tận... hải vị, sơn hào của nhiều chan chứa. Đất đai phì nhiêu, lúa thóc làm ra không khó nhọc”[63] nên đời sống của người dân không những no ấm dư dả mà còn có cái phong thú dật lạc, an nhàn.“Thổ nghi đã sẵn thứ rượu tăm ngon nổi tiếng, xuân sang thì mở hội bơi giải, hạ tới thì bày cuộc đấu thăm, dập dìu rộn rã, nơi ca, chốn múa, cách ăn uống hoang phí vô cùng, đến vài lẫm gạo cũng không đủ dùng mười hai tháng”[64]. Và phủ Triệu Phong, ở phía cực nam lộ Thuận Hóa thì“non sông kỳ tú, ruộng đất mở mang, nhân dân đông đúc, quả là một nơi đô hội lớn, cảnh tượng vui tươi, phong vật quý giá”. Còn huyện Điện Bàn - miền bắc tỉnh Quảng Nam hiện nay -“nhân dân làm giàu bằng thóc, nhà nông đạp lúa bằng trâu. Xã Mạc Châu trồng nhiều hoa hồng, xã Lan Châu sản xuất nhiều lụa trắng. Đàn bà mặc áo Chiêm, con trai cầm quạt Tàu, người sang kẻ hèn, bát đĩa đều vẽ rồng, vẽ phượng, kẻ hơn người kém, xống áo toàn đỏ màu hồng”[65],và chính vì cái mức sung thiệm phú túc sẵn có, mà vùng Thuận Quảng, sau năm mươi lăm năm trời “phá rừng bụi, đuổi hùm voi”[66] nhằm mở đường khai cơ, hưng nghiệp của Tiên Chúa, càng biểu lộ rõ hơn, dưới mắt dòng họ chân chủ phương Nam, cái khí tượng của một cõi kim thang[67] vô cùng bền vững, đúng như điều mà Thiên cơ đã mặc khải với Tuyết Giang phu tử[68] qua hòn giả sơn ông thường nhìn ngắm hằng ngày, bên mái Bạch Vân am. Sử văn đã ghi chép: “Đoan Quốc công vũ trị vài mươi năm, https://thuviensach.vn chính trị khoan hòa, thường ra ân huệ, dùng pháp luật công bằng, răn giới bản bộ, cấm trấp kẻ hung dữ, dân hai trấn cảm ân mến đức, dời đổi phong tục, chợ không hai giá, dân không ăn trộm, cửa ngoài không đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến buôn bán, quân lệnh nghiêm túc, mọi người đều cố gắng vì vậy không ai dám dòm ngó, dân trong xứ đều được an cư, lạc nghiệp”[69]. Cho nên ngay vào giờ phút dọn mình để “quay đầu về núi”, Tiên Chúa đã ân cần căn dặn người kế vị mình: “Thuận Quảng, phía bắc có Hoành Sơn, một dãy trường thành chạy dài từ núi Khai Trướng xuống tận bể cả; có Linh Giang, rộng những một trăm bảy chục trượng với đôi bờ viễn cách và sức án ngữ mãnh liệt của ba đào; ở phía nam, có ải Hải Vân và núi Phù Nam hiểm yếu chẳng kém đường đi Ba Thục, là những thành lũy, then khóa cửa ngõ thiên nhiên, bảo vệ vững chắc cơ đồ. Núi non trùng điệp, vàng, sắt chất chứa cả một kho tàng vô tận, sông bể mênh mông, cá, muối, hào soạn tha hồ mà khai thác. Là hạng người dũng lược, nếu khéo biết lợi dụng đến cùng những đặc tính “kim thang, thiên phủ” của nơi này, bằng cách thu nạp trọng dụng hiền tài, chiêu luyện sĩ tốt, hết lòng vỗ thương trăm họ thì sự nghiệp sẽ bền bỉ, trường cửu muôn đời.”[70] Lời trối trăn này của Cẩn Nghĩa công[71]trước khi ngon giấc nghìn thu ở núi Thạch Hàn, đã trở thành một ý chí chung của cả một dòng họ. Ngăn chận sức xâm tính của quân Trịnh ở phương Bắc, bành trướng thế lực bằng cách mở mang bờ cõi về phương Nam - cuộc Nam tiến của dân tộc đã từng được khởi niệm từ dưới thời Lê Đại Hành với con đường bộ do ba vạn dân công thực hiện, dưới quyền điều khiển của Ngô Tử An, khai thông từ nam giới đến châu Địa lý vào năm Nhâm Thìn (992) - quả thực đã là một thứ ý chí được nuôi dưỡng, truyền tiếp không ngừng qua chín đời chúa, được nung nấu ngày thêm kiên cường, mãnh liệt qua một cuộc trường chinh đầy thử thách, gian lao, kéo dài trên hai thế kỷ, để kết tụ ở Nguyễn Ánh sau này, thành một thứ chí khí thiết thạch khả dĩ thắng vượt nguy cơ hầu như tuyệt https://thuviensach.vn vọng và không những cứu vãn được một cơ đồ suy sụp, mà còn từ đó tạo thành một vĩ nghiệp huy hoàng. Và qua cái quá trình “Bắc phòng, Nam tiến” ấy, vùng Phú Xuân, miền cát địa có long mạch ở đồi Hà Khê, có ải trời trục đất ở gò Long Thọ[72]tợ hồ đã là một cái đích nam châm, để trị sở của họ Nguyễn hướng lần từ Dinh, phủ, điện của các chúa cho đến Kinh đô vào thời trung hưng sau này. Thực hiện cái di chí thiên dinh về Nam trước tiên là Sãi Vương hay Tế Vương - công tử thứ sáu của Thái Tổ Gia Dũ Hoàng đế, tức Hy Tôn Hiếu Văn Hoàng đế (1613 - 1635).[73] Tương truyền, trước giờ khai hoa mãn nguyệt, Thái Tổ Gia Dũ Hoàng hậu nằm mộng thấy có thần nhân đến bái yết và trao cho một tờ giấy có viết rất nhiều chữ Phước. Lúc tỉnh dậy, Hoàng hậu sinh được con trai là Hiếu Văn. Hoàng hậu đã định lấy chữ Phước đặt tên cho con, nhưng rồi lại nghĩ rằng nếu đặt như vậy thì chỉ con mình được hưởng phước mà thôi, trái lại dùng chữ Phước đặt thành chữ lót thì cả dòng họ sẽ được hưởng phước đời đời. Bèn đặt tên cho công tử là Nguyên, tức Nguyễn Phước Nguyên, và chính cái điềm mộng kiến này với sự suy rộng của một bà từ mẫu đã biến cải Nguyễn tộc của hoàng gia thành Nguyễn Phước tộc kể từ thuở đó.[74] Sự kế vị của chúa Nguyễn Phước Nguyên tức Thụy Quận công xét ra cũng thực là thuận lý, hợp tình. Bốn người anh đầu, Nguyễn Hà, Nguyễn Hán, Nguyễn Thành, Nguyễn Diễn đã nối gót nhau, xa chơi miền U Minh, trước ngày Thái Tổ băng hà khá lâu. Người anh thứ hai là Nguyễn Hải thì neo thuyền bể hoạn đã vướng mắc ở bến Thăng Long. Lẽ tự nhiên người được chọn để kế vị phải là Phước Nguyên chứ không thể ai khác nữa. Đã thế, Thụy Quận công, ngay từ buổi thiếu thời, đã tỏ ra có nhiều tài đức, xứng đáng để nối được chí lớn, nghiệp lớn của người cha hào hùng từng dày công trấn cứ một vùng lĩnh thổ như Thuận Quảng thuở đó để mở đường cho cơ đồ vương bá về sau. Chỉ ngay cái danh hiệu Phật chủ hay Chúa Sãi mà thần dân https://thuviensach.vn thuở ấy đã dùng để tôn xưng Thụy Quận công[75] cũng đủ bảo chứng được, ở vị chúa quá ngũ tuần này, cái khả năng xứng đáng để kế tục Tiên Chúa trong công cuộc khai cơ hưng nghiệp và giữ vững giềng mối. Nhưng theo công lệ tự nhiên, một cái nghiệp lớn của hạng người kinh quốc cũng như của hạng kinh doanh thường tự nó đã là tạo đoan, ngay từ lúc đã được hình thành, của mầm loạn nẩy sinh trong tình máu mủ, ruột thịt vì sức cám dỗ rất khó thắng vượt của tài lợi hay thế lực, quyền hành. Mầm loạn ấy đã bộc hiện ngay từ đời thứ hai của dòng họ chân chủ phương Nam, một lần với Nguyễn Hạp, con trai thứ bảy, và Nguyễn Trạch, con trai thứ tám của Thái Tổ, và là em cùng cha khác mẹ của Sãi Vương, vào năm Canh Dần, tức năm thứ bảy đời Hy Tôn (1620) và một lần nữa với Nguyễn Phước Anh, con trai thứ ba của Hy Tôn, vào năm 1633[76]. Hạp và Trạch mưu việc phản loạn, mật ước với Trịnh Tráng[77]- con của Trịnh Tùng và là chồng của Ngọc Tú, con gái đứng vào hàng thứ mười hai trong số các con của Thái Tổ - sẽ làm nội ứng, một khi Tráng đưa quân đến bờ sông Nhật Lệ. Tráng được mật thư liền hưởng ứng ngay. Nhưng điều đáng tiếc là cả Hạp lẫn Trạch và Trịnh Tráng, vì chóa mắt bởi tham vọng, mà quên rằng những mưu toan lật đổ Sãi Vương vào thuở đó chỉ là một chuyện manh động, không một điều kiện, yếu tố chủ quan hay khách quan nào có thể hỗ trợ hay bảo đảm được sự thành công. Sự kế vị ngôi chân chủ mà Thụy Quận công đã được Thái Tổ dành cho không những hợp tình, hợp lý như đã nói, mà cái tài trị nước an dân của vị chúa này, với sự phò tá của nhiều bậc hiền tài, sau bảy năm trời tại vị, đã được xác định trước mắt trăm họ. Chỉ nhằm thỏa mãn tham vọng riêng tây, bất chính mà dám phản bội lại cái ý chí của cả một dòng họ - qua sự cấu kết ngay với kẻ thù là Trịnh Tráng - lại dám khinh thường di mệnh của tiên vương không vì một lý do nào khả thủ, bất hiếu, bất đễ và bất nghĩa như thế, Hạp và Trạch làm sao có thể tìm được sự ủng hộ, hưởng ứng của thần dân https://thuviensach.vn thuở đó. Hậu quả đáng tiếc và khó tránh đã xảy ra cho hai anh em phản nghịch là “cái chết nhục nhã trong xó ngục” và cho Trịnh Tráng là trên năm nghìn quân, dưới quyền điều khiển của Nguyễn Khải[78], băng ngàn vượt bể, tụ tập vào nơi “cát lạnh đất chai, sương mù gió thổi”[79] để chờ ngày xâm tính cơ đồ chúa Nguyễn, đã phải cuốn cờ, xếp trống, ngượng ngùng rút lui, tạo cho Sãi Vương một cái cớ để khước từ số cống thuế hàng năm. Hạp và Trạch chết. Quân Trịnh rút lui. Nhưng ngọn lửa bốc dậy từ kho lương làng Ái Tử vào dịp phản loạn nói trên cùng với vụ khước từ việc nạp cống thuế do Trịnh chúa sai người vào đòi hỏi, đã khiến Thụy Quận công, vì sự phòng xa, trước những viễn tượng của một cuộc chiến tranh ác liệt có thể xảy ra, sớm nghĩ đến việc thiên di trị sở. Từ làng Trà Bát, huyện Đăng Xương (Quảng Trị), dinh chúa được dời vào xã Phước An, huyện Quảng Điền, trước đó có tên là Đan Điền - thuộc tỉnh Thừa Thiên, vào năm Vĩnh Tộ Nhị Niên, tức tháng Tư năm 1626. Tới đây dinh được đổi làm phủ. Và, tại trị sở mới, Sãi Vương càng quan tâm đến việc tổ chức guồng máy cai trị, tăng cường kế hoạch nội trị, ngoại an, với chủ trương “mở lưới vơ hiền, giăng chài vét sĩ”. Lại nhận thấy, về mặt quân cơ, binh bị, lối dụng nhân dưới thời Tiên Chúa có phần câu nệ, hẹp hòi vì các chức vụ như Chưởng dinh, Chưởng cơ, Cai đội[80] chỉ dành cho người trong vòng bà con của nhà chúa hoặc cho người Thanh Hóa cùng con cháu của họ mà thôi, Thụy Quận công đã cải cách bằng một chính sách rộng rãi hơn, cho mộ thêm những người có sức mạnh, tinh thông võ nghệ ở khắp hai trấn Thuận Quảng, bổ làm thân binh ở các cơ đội, và xét trong số này những người tỏ ra đắc lực, có công đều được lục dụng[81]. Đã sẵn những bực hiền tài từng phò tá Tiên Chúa trước kia, ngọn gió “chiêu hiền” còn đưa tới cho Thụy Quận công nhiều trang lương đống, đáng kể nhất trong số này: hoặc có tài lược sáng suốt khá sánh với Khổng Minh, Bá Ôn xưa như Nguyễn Hữu Dật và Đào Duy Từ - một kẻ sĩ ngay trong lúc“tạm ẩn bóng đợi chờ tri kỷ”[82], đã tự tin cái https://thuviensach.vn vốn thao lược gồm tài của mình phải có chỗ đắc dụng và chân chúa có ngày phải cầu hiền, để “nay tuy tạm trồng rau cuốc đất, nhưng có ngày cờ phất trên yên”[83], hoặc gan dạ, quả cảm, xứng danh hổ tướng, có thể là “thuyền khi cần qua sông, mơ muối khi cần nêm canh” như Nguyễn Hữu Tiến[84]. Thêm vào sự may mắn này, từ phương xa muôn dặm, những người Tây dương, nhất là người xứ Bồ[85], ngoài việc đem bán súng điểu thương, súng đại bác, vật liệu chế thuốc súng, còn mang tới cho Chúa kỹ thuật chế tạo vũ khí. Nhờ đó, từ ngày trị sở dời vào Phước An cho đến cuối đời mình, Sãi Vương quả đã làm đẹp lòng người cha an nghỉ giấc thiên thu ở núi Thạch Hàn, với rất nhiều thành quả triển khai nghiệp lớn. Để tăng cường phương tiện chiến đấu, ngoài lò đúc súng do Jao Da Cruz[86], một người Bồ lai tới Đàng Trong trước năm 1615, thiết lập tại Phường Đúc[87], một lò thứ hai do lịnh chúa, được tổ chức và bắt đầu hoạt động vào năm Tân Vị (1631) cùng với trường bắn, mã xưởng và tập tượng trường[88]. Để phòng ngự sức xâm tính tràn vào từ phương Bắc - sau chiến thắng ở bờ sông Nhật Lệ với cuộc đại phá hai trăm chiến thuyền của vua Lê Thần Tông và Trịnh Tráng vào năm 1627, và nhất là sau cuộc tiến chiếm đất Bố Chính, từ Linh Giang về Nam, đặt làm Bố Chính dinh hay Ngõa dinh (dinh ngói) hay Nam Bố Chính châu vào năm 1630, một lũy dài hai nghìn năm trăm trượng (khoảng 10 cây số), cao non một trượng (3 mét), chân rộng hai trượng, tức lũy Trường Dục hay lũy Hồi Văn được xây từ làng Trường Dục, ở chân núi Trường Sơn, chạy xuống tận bãi cát Đông Hải, vào năm Canh Ngọ (1630) và một lũy thứ hai, lũy Thầy, cách lũy Trường Dục hai chục cây số về phía Bắc, về sau được mang tên là Định Bắc trường thành, chạy từ cửa Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu, nơi từng nổi tiếng có núi gò hùng vĩ, cao nhọn, có Tiên xuất hiện và có giếng sâu với một con cá thần quái dị. Lũy được hoàn thành vào năm Tân Vị (1631)[89], dài hơn ba nghìn trượng (khoảng mười hai cây số), cao một trượng năm thước (độ 6 mét), mặt ngoài đóng gỗ lim, bên trong đắp đất, xây https://thuviensach.vn làm năm cấp, xe cộ, voi ngựa có thể qua lại dễ dàng, và cứ cách một trượng có đặt một khẩu súng khóa sơn, cách ba hay năm trượng có xây một pháo đài, đặt một khẩu súng nòng lớn[90]. So với thời Thái Tổ Gia Dũ Hoàng đế, binh bị, thực lực, công việc chỉnh đốn nội trị, phòng vệ ngoại an tuy có phần khả quan hơn, ngay cả kế hoạch Nam tiến hầu như cũng đã thâu đạt thêm một thắng lợi đáng kể: việc xâm lấn bờ cõi Chân Lạp một cách hòa bình, êm thắm, qua mối lương duyên của Miên vương Chey Choettha với một công chúa Quảng Nam - Công chúa Ngọc Vạn hay công chúa Ngọc Khoa? [91] Và việc xin đất làm căn cứ ở miền nam Cao Miên và mở đồn quan ải ở Prey-Kor (tức Saigon) cho tiện việc thu thuế[92], nhưng phủ trị của Hy Tôn ở Phước An thì vẫn chưa được chú trọng nhiều về mặt chỉnh nghi hình thức, chưa có cái bề thế khí tượng đặc biệt của một đô ấp vương giả. Phải chăng cái ấn tượng chẳng đẹp của vụ phản nghịch, dấy khởi từ trong tình cốt nhục của hai người em trai, sự nhị tâm của một đứa con giàu tham vọng đến coi nhẹ cả tình phụ tử, sự dòm ngó, rình rập cơ hội phục thù, xâm tính của Trịnh Tráng sau ngày thay thế Trịnh Tùng, còn hứa hẹn nhiều đe dọa, nhất là từ ngày Hy Tôn đã thách thức một cách công khai bằng chuyện trả lại sắc thư trong chiếc mâm đồng hai đáy[93], đã không cho phép vị chúa cao niên này thảnh thơi tâm trí để nghĩ nhiều tới việc kiến tạo cung điện và phô trương nghi vệ? Nhưng chính tất cả những nỗ lực và thành tích hưng nghiệp ở thời Hy Tôn đã chuẩn bị cho cảnh sắc phú thịnh và cái phong khí văn vật của thủ phủ ở Kim Long, dưới thời Thần Tôn sau này. https://thuviensach.vn KIM LONG DƯỚI THỜI NHÂN LỘC HẦU NGUYỄN PHƯỚC LAN Thực vậy, khi Nhân Lộc hầu Nguyễn Phước Lan hay Công Thượng vương, tục gọi là Chúa Thượng kế vị Hy Tôn Hiếu Văn Hoàng đế - thọ bảy mươi ba tuổi, ở ngôi hai mươi năm - thì vùng Thuận Quảng đang là thời kỳ hưng thịnh, phú túc, trăm họ vui cảnh ấm no, thanh bình. Thừa kế đại nghiệp vào năm Ất Hợi (1635), qua năm sau, Nhân Lộc hầu liền cho dời phủ từ Phước An đến làng Kim Long thuộc huyện Hương Trà. Kim Long nằm trên tả ngạn sông Hương, cách đồi Hà Khê và Thiên Mụ tự không xa. Địa thế Kim Long, so với xã Phước An, không những rộng rãi, khoáng đãng hơn nhiều, núi sông lại thanh tú, cảnh trí thanh nhã, thơ mộng đẹp như tranh vẽ. Trị sở chúa Nguyễn, với chuyến thiên di này, đã xích lại khá gần cái vị trí lý tưởng của Kinh sư sau này. Phủ trị tuy đóng tại Kim Long - gần chợ hiện nay - nhưng cảnh sắc, phong khí vui vẻ thì bao trùm cả một địa bàn gồm các xã Phú Xuân, Vạn Xuân, Xuân Hòa và An Ninh, vì lẽ, cùng theo về với chúa, ngoài đám triều thần đông đảo, còn có trên năm sáu nghìn binh sĩ cùng gia đình, thân thuộc[94]. Vào thời đó, tại địa phương, ở tả ngạn cũng như hữu ngạn sông Hương và sông Kim Long - nay đã bị bồi lấp - vốn đã sẵn có những thôn hoa rậm rạp, đông đảo dân cư, nên sau khi phủ chúa được dời đến, Kim Long càng trở nên trù mật. Đường, các, dinh thự lần lượt được xây cất. Lầu son, gác đỏ đua nhau mọc lên bên trong la thành của phủ chúa cũng như trong các khu vườn sầm uất của các thượng quan. Vào thời bấy giờ, tuy mái cung, https://thuviensach.vn mái điện, dinh thự, đài, các chưa rạng tỏa màu ngói hoàng lưu ly, thanh lưu ly - phần nhiều lợp toàn bằng tranh - nhưng cây gỗ quý giá, lối chạm trổ cầu kỳ, tinh xảo, quy mô kiến trúc cũng đã đủ làm cho những du khách, từ viễn xứ đổ về, phải thán phục vì cái vẻ trang nhã, ngoạn mục[95]. Các loại thảo mộc hữu danh cùng các thứ kỳ hoa trong xứ cũng gặp được vận hội tốt để quy tụ về nơi thủ phủ. Cung điện, dinh thự rợp phủ bóng mát lệ chi, long nhãn, càng tôn thêm vẻ trang nghiêm, kín đáo với những hàng hoàng mộc bút, trắc bách diệp, hòe, phượng, lê, đào chầu hầu bên cửa, trong sân, với sức khoe tươi, phô thắm của những cội hải đường, ngọc lan, tường vi, nguyệt quế cùng các giống cúc, lan đủ loại. Thêm vào đó, mã xưởng, tập tượng trường cũng được dời về, binh xá của quân sĩ được xây cất, võ khố được thiết lập, núi đất cao trên ba mươi tám trượng, rộng những một trăm năm chục trượng được đắp lên tại bến đò Thanh Phước, để hàng năm, vào tháng Bảy, tổ chức những cuộc thao diễn phép bơi thuyền, bắn súng[96]. Từ năm 1647, những khoa thi Chính Đồ và Hoa Văn[97] được mở để thu hút nhân tài trong cõi. Vào những dịp khánh tiết, bóng binh sĩ áo đỏ, nón vàng, súng hỏa mai sáng loáng, xen lẫn bóng những thớt thị tượng cao lớn, mang bành vàng, thắt là lụa, và những chiếc hồng thuyền đỏ thắm màu sơn, những chiếc thuyền sơn son thếp vàng lộng lẫy - tỏa rạng ánh vinh quang của những chiến thắng lẫy lừng trên mặt bể cả - thường biểu diễn trên mặt sông Hương, càng làm tôn trưởng thêm cái phong độ đô phủ của Kim Long. Chốn đô hội này còn được điểm chuyết thêm cái sắc thái hoa lệ, phong thói xa hoa, do một ngọn gió phóng lãng thổi lên từ phố Thanh Hà. Ở Đàng Trong, các chúa đối với thương khách ngoại quốc, nhất là đối với người của thiên triều, không áp dụng một chính sách ly cách nghiêm ngặt như ở Đàng Ngoài. Ngay từ thời Tiên Chúa, các Hoa thương đã được phép lui tới mua bán tại vùng phụ cận Thủ phủ. Khi trị sở của chúa Nguyễn còn đóng lại Trà Bát, thì Dinh Cát là một cảng https://thuviensach.vn khẩu trọng yếu. Nhưng khi trị sở đã dời về Phước An, và sau đó thiên di đến Kim Long, thì thuyền buôn của Trung Hoa lại theo cửa Thuận An, tiến vào cập bến Thanh Hà, vì theo lối này, có tiện cho việc mua bán hơn là chạy vào sông Quảng Trị như xưa. Và sau khi dời phủ về Kim Long, Chúa Thượng đã cho phép tiên hiền trong làng Minh Hương kiến thiết một khu chợ tại nơi giáp giới hai xã Thanh Hà và Địa Linh[98]. Mặc dù những thương thuyền từ Trung Quốc chạy qua ít khi ghé thẳng nơi này, nhưng phố Thanh Hà, thuộc tỉnh Thừa Thiên, vốn nằm ngay trên một quãng sông Hương sâu rộng, rất tiện cho các thuyền lớn ghé đậu, phải là một cảng khẩu địa phương thuận lợi cho việc chuyển vận, phân tiêu hàng hóa từ Hội An đưa ra và là một cửa ngõ lý tưởng của Kim Long đối với ngoại thương[99]. Ngoài các phẩm vật đưa sang từ Trung Quốc như tơ sống, đồ sứ, thuốc bắc, giấy tiền, hương đèn, bút chỉ, sách vở, hàng vóc, bánh kẹo, v.v... đám Hoa thương còn buôn cả nồi đồng, mâm đồng của các tàu Tây cập bến Hội An về đây bán lại. Các loại xa xỉ phẩm cũng như sách vở được người dân Kim Long, nhất là hạng quyền quý, tranh nhau mua sắm. Thường dân nơi này, vốn đã từng sống trong cảnh làng chợ đông vui áo cơm dư dật, cũng nhiễm lần phong thói xa hoa. Lẽ tự nhiên đời sống trong phủ chúa, thuở ấy, cũng rạng vẻ kiêu sa, hoa gấm, với những cung cách, nghi phục sặc mùi vương giả. Khách viễn phương, có dịp viếng thăm“Kehue”[100]thường được đẹp mắt hiếu kỳ vì những y phục rực rỡ, cùng cái văn vẻ, sang họng của lối trang hoàng bày biện trong phủ chúa cũng như trong các tư dinh của đám thượng quan. Nhã nhạc đã trỗi dậy và những ca nhi, vũ nữ đã thường được xuất hiện trong các buổi yến ẩm tràn ngập hào soạn, dưới mái vương phủ. Nghi vệ được chăm chút càng làm tăng thêm phong thể trọng vọng của bậc chân chủ. Mỗi lúc chúa ngự ra ngoài, trên hai nghìn cận vệ giáo gươm san sát, tàn lọng, cờ xí rợp đất, tạo thành cái thế tiền hô, hậu ủng lẫm liệt, oai phong. Và chỉ để xem mặt bốn nữ tu sĩ người Tây Dương, tình cờ bị trôi giạt vào bờ cõi bởi một cơn sóng https://thuviensach.vn gió bất kỳ, Công Thượng vương đã dùng đến bốn nghìn lính dàn hầu cùng hai đội cận vệ mang gươm bịt bạc, và đã mở tiệc linh đình khoản đãi, có vũ nữ múa hát giúp vui.[101] Nếp sống vương giả, nghi thể nghiêm lệ kể trên quả cũng thích nghi và phù hợp với một thủ phủ đang vươn lên trong cảnh thịnh trị do tài kinh bang của một vị chúa hào hoa, đa tình, đa cảm nhưng cũng chẳng thiếu hùng nghị và dõng lược. Nhưng cũng chính giữa cuộc sống phồn vinh, sung dật ấy, Công Thượng vương đã hai lần suýt bị nghiêng ngửa cơ đồ, sự nghiệp, một lần vì sự phản nghịch của một người em và một lần vì cái họa nữ sắc. Em Thượng Vương là Nguyễn Phước Anh, trấn thủ Quảng Nam, từ lâu đã có ý giành ngôi thế tử. Ngay từ dưới thời Hy Tôn, Phước Anh đã nuôi những mấy trăm dõng sĩ trong nhà và đã hơn một lần âm mưu liên kết với họ Trịnh, nhưng việc bất thành. Khi Hy Tôn mất, Công Thượng vương được kế thừa đại nghiệp lại có ý định thăng Nguyễn Phước Tuyên làm Trấn thủ Quảng Nam. Phước Anh rất đỗi bất bình. Thay vì lo về chịu tang cha, Anh lại dự định cử binh mưu đoạt ngôi lớn. Trong đám tay chân dưới trướng của Anh thuở đó, có viên Ký lục[102] họ Phạm, vốn là người thân tín của Thượng Vương đưa vào và được giao phó nhiệm vụ theo dõi mọi hành động khả nghi của người em từng đã manh tâm phản nghịch. Ký lục Phạm giả vờ tán thành âm mưu cướp đoạt ngôi lớn, lại đề nghị cùng Anh việc đắp lũy Cu Đê từ núi đến bể phòng chuyện cố thủ và dàn thủy quân ở cửa Hàn để chống cự nếu quân Chúa kéo vào. Bày mưu xong, Ký lục Phạm liền cho người lẻn về Thượng đô cấp báo với Thượng Vương. Được tin, Công Thượng vương rất đỗi phân vân bối rối. Vốn nặng tình cốt nhục hơn ngôi cao, Chúa đã cho triệu một số trọng thần họp mặt và đã khóc mà phán bảo: “Phải chăng vì ta còn kém đức nên mới có chuyện đáng tiếc xảy ra. Ý ta muốn nhường ngôi cho bào đệ hầu tránh nỗi đau lòng vì cảnh cốt nhục tương tàn ngay trong cơn tang khó.” https://thuviensach.vn Nhưng đám cận thần nhất quyết không tán thành ý định của Chúa và xin Chúa phải dẹp bỏ tình riêng vì không thể trao cả đại nghiệp vào tay một người vô đạo như Nguyễn Phước Anh. Chưởng cơ Nguyễn Phước Tuyên liền được lệnh đem quân dẹp loạn. Cai đội bộ binh là Dương Sơn đi đường tắt, đánh thẳng vào dinh trấn Quảng Nam, bắt được quyển sổ “đồng tâm hướng thuận” ghi rõ họ tên những người trong đảng của Anh. Nguyễn Phước Anh chạy về ngả cửa bể Đại Chiêm, nhưng sau đó Anh cùng những người có tên trong sổ đồng tâm đều bị giết sạch[103]. Cái họa phản nghịch dẹp yên. Nhưng sau đó chẳng bao lâu, Công Thượng vương lại vướng vào một cái họa còn nguy hiểm hơn nhiều cho đại nghiệp. Cái họa nữ sắc. Trong giới nữ lưu được cung dưỡng nơi gác gấm ở Thượng đô thuở đó, xuất hiện một áng đào kiểm cực kỳ diễm lệ. Đó là nàng Tống thị, con gái của Tống Phước Thông. Cha Tống thị từng giữ chức Cai cơ[104] vào thời kỳ con rể là công tử Nguyễn Phước Kỳ còn làm Trấn thủ Quảng Nam. Sau khi rể quý tạ thế, Phước Thông buồn rầu, thất vọng, đưa cả gia quyến trở về miền Bắc, Tống thị không chịu theo cha trên đường hồi hương. Góa chồng và đã có ba con, nhưng vốn lẳng lơ, dâm dật, quen nết gió trăng nên Tống thị vẫn háo hức chuyện mặc xiêm áo của chồng để làm đẹp với người. Đã sẵn cái vốn hương trời, sắc nước, cái tài đưa tình, gợi cảm bằng lối ăn nói rất mực duyên dáng, khôn ngoan, Tống thị còn có một phương thuật chinh phục tình yêu rất nhiệm mầu kỳ lạ. Người biết chuyện ở Thượng đô thuở ấy gọi nàng là một “dâm phụ có xâu chuỗi trăm hoa”. Thực vậy, với xâu chuỗi kết bằng trăm thứ hoa, Tống thị đã làm cho biết bao người trong giới cao môn, quyền quý phải say mê đắm đuối đến quên cả đạo nghĩa, luân thường, và coi nhẹ cả thanh danh, sự nghiệp. Trong số này, trước tiên phải kể đến Công Thượng vương Nguyễn Phước Lan. Thực vậy, Công Thượng vương cũng đã phải vướng vào cái mê võng nữ sắc khi tiếp nhận xâu chuỗi trăm hoa của Tống thị, người chị https://thuviensach.vn dâu, dâng tặng. Hương hoa hay nhan sắc của nàng họ Tống đã khiến cho Thượng Vương mê say đắm đuối một người góa phụ đến quên cả thị phi và nghiệp lớn? Cứ theo lời đồn đãi trong dân gian, xâu chuỗi trâm hoa của nàng họ Tống quả có một thứ ma lực rất là quái dị. Vì ngay đến những người chưa từng giáp mặt nàng hay cả những người có ác cảm với nàng, nhưng đã ngửi phải hương thơm của xâu chuỗi trăm hoa do tay nàng kết thành thì tức khắc đâm ra đắm say, mê mẩn, ngày đêm tơ tưởng đến nàng, khát khao cái diễm phúc cùng nàng vui vầy ân ái, hướng vọng về nàng như hoa hướng dương tìm bóng mặt trời, như sắt nhớ nam châm, chẳng hạn như trường hợp của Chưởng cơ Nguyễn Phước Trung sẽ nói đến sau này. Công Thượng vương ngày càng say mê Tống thị và kể từ năm Kỷ Mão (1639), Tống thị được Chúa cho tự do ra vào vương phủ, được sủng ái, quý trọng và tin cậy đến độ nàng muốn gì Chúa cũng chiều ý, nói gì Chúa cũng nhất nhất nghe theo. Được thể, Tống thị càng gièm sảm đủ điều những kẻ nàng thù ghét, những cận thần dám can gián Chúa, những người có thái độ khinh khi, miệt thị hay không chịu đồng tình, đồng lõa với nàng trong các mưu toan bất chính, ám muội. Về phần Công Thượng vương, vì quá đắm say, mê luyến Tống thị nên ngày càng thay đổi tính tình. Con người hào hoa khiêm cung, hòa nhã ấy chẳng mấy chốc đã trở thành một bạo Chúa nóng nảy, hiếu sát, đam mê thú cung dưỡng bằng thanh sắc, hoang dâm xa xỉ, đắm đuối triền miên trong hoan lạc bên cạnh Tống thị, bỏ bê quốc sự, coi nhẹ xã tắc, sơn hà. Lợi dụng cái thế được sủng ái, Tống thị không những chỉ tìm cách làm giàu bằng sự hối lộ của những người ra vào cầu cạnh, mà còn thẳng tay bóc lột đám lê dân nên chẳng mấy chốc gia sản của nàng đã đứng vào hàng đầu trong giới hào phú toàn cõi. Tiền bạc như nước, vàng ngọc châu báu chất đầy rương hòm, ruộng đất cò bay thẳng cánh. Lũ nạn nhân nếu có kêu rên, than thở, thì chỉ một lời nói của Tống thị, đã bị bọn quân lính, theo lệnh Chúa, bắt bớ giam cầm hoặc đánh đập đến chết, ném thây giữa chợ. Số người chết oan vì Tống thị ngày càng https://thuviensach.vn nhiều, nỗi oán hận sôi dậy trong lòng chúng dân tuy phải nơm nớp run sợ, im hơi nín tiếng trước sự đe dọa của những vụ khủng bố kinh hoàng và những cực hình tàn ác. Những lời can gián của triều thần chẳng những không có hiệu lực chút nào mà còn gây thêm cảnh sấm sét, châm ngòi thêm cho những cơn thịnh nộ lôi đình, rước họa cho hạng người trung ngôn. Ngay cả Tổng trấn Tường Quận công Nguyễn Phước Khuê, người từng được Thụy Quận công, trước khi lâm chung, ủy thác mọi việc giải quyết chính sự để giúp Thế tử Nguyễn Phước Lan - còn kém lịch duyệt - và đã từng có công dẹp bọn phản nghịch, cũng chịu bất lực trong sự khuyên lơn, can gián. Thượng Vương, chẳng những bất chấp sự dị nghị mà còn tiến xa hơn trong sự lỗi đạo trị quốc, an dân. Muốn chứng tỏ mối tình keo sơn, bền bỉ của mình đối với người đẹp và cái ý nguyện “trăm năm cùng huyệt”, Thượng vương dự định xây cất một lâu đài nguy nga để sau này cùng Tống thị vui hưởng tuổi già. Công trình kiến trúc đồ sộ này đòi hỏi rất nhiều nhân công, vật liệu. Do đó, lệnh còn được truyền ra cho khắp các huyện phải cung ứng đủ số thợ thiện nghệ cùng số nhân công và bắt buộc dân chúng, bất luận lớn bé, già trẻ phải lên rừng đốn gỗ, khiêng đá. Tiếng kêu ca, ta thán vang dậy khắp nơi vì nạn sưu dịch nặng nề, khắc nghiệt. Đám triều thần ai cũng căm tức Tống thị và lo thay cho nghiệp Chúa. Ngay giữa lúc ấy, thiên tai lại phát hiện như để báo trước những chuyện chẳng lành cho nghiệp lớn. Hạn hán xảy ra vào năm Tân Tỵ (1641), lúa bị khô cháy. Nạn đói hoành hành nhiều nơi, so với nạn đói năm Đinh Sửu (1637) còn trầm trọng, nguy nan bội phần. Chưởng cơ Nguyễn Phước Trung - em Công Thượng vương, con thứ tư của Hy Tôn - người có uy lớn khiến các tướng đều sợ, tính vốn nóng nảy, hung dữ, đối với binh, dân, mỗi khi nhận thấy lỗi lầm, lập tức dùng hèo sắt đánh đến toác thịt, gãy xương, lại thích nuôi chơi các loài độc cầm, ác thú, thả ra chợ cho chúng cướp cá tôm, đuổi cắn người để làm trò vui, nhưng thâm tâm vốn không phải là người xấu, https://thuviensach.vn nên rất bất bình trước tình trạng nheo nhóc của nhân dân và sự lộng hành của Tống thị, đã gọi tên thị ra để mắng nhiếc và đe dọa: “Đã đến lúc ta phải cho đám ác thú của ta nhai xương, xé xác con mẹ dâm phụ họ Tống để trả thù, rửa hận cho sĩ thứ, ta mới thỏa lòng.” Lời đe dọa này lọt tai Tống thị, nàng sợ hãi vô cùng, và chính nó là tạo đoan cho một âm mưu kinh khủng của nàng về sau. Nhưng gỡ được cái họa nữ sắc là cái công của Viên Hiền hầu Nội tán họ Phạm[105]. Vốn là người cương trực, tiết khái, không thể coi nhẹ cái trách nhiệm của một trang lương đống trước những đe dọa cho vận mệnh xã tắc mà Thiên cơ đã mặc khải cũng như trước cảnh điêu linh khốn đốn của bách tính. Nội tán họ Phạm, một sớm, đã vào thẳng vương phủ tâu bày: “Thân chúa, xin chúa thượng hãy chém đầu hạ thần nếu chúa thượng không còn muốn nghe những lời trung ngôn. Kẻ bầy tôi này không thể sống mà chịu tiếng bất trung và chịu nhắm mắt, ngậm tăm trước những chuyện ngang trái đưa tới nhiều nguy cơ cho đại nghiệp mà các tiên vương đã dày công tạo dựng.” Thái độ quyết liệt của Viên Hiền hầu có gì khiến Thượng Vương sửng sốt, trong lúc Viên Hiền hầu tiếp tục tâu bày: “Kinh nghiệm cổ kim về điềm tối ư kiêng kỵ cho đạo trị quốc là việc xây cung, đắp nền bằng hờn oán của nhân dân, chất chứa kho lẫm bằng máu mỡ của nhân dân. Vả lại, phép làm chính trị phải tôn trọng cương thường. Nay chúa thượng vì lòng nịch ái[106] một phụ nhân dâm loạn mà coi nhẹ cương thường nhân luân, buông lỏng giềng mối, gây cảnh điêu linh khốn khổ cho sĩ thứ ngay cả giữa lúc thiên tai, hạn hán đang dấy khởi, lan tràn, thì nhất định cái họa suy vong không thể nào tránh thoát. Là kẻ bầy tôi, trong tình trạng này, nếu không đóng trọn vai trò “tránh thần[107]” để cứu vãn được tình thế, thì chỉ còn có cái chết mới bảo toàn được khí tiết và tránh được sự lỗi đạo ái quốc, trung quân.” Nghe giọng nói và ngắm thần sắc cùng thái độ của Viên Hiền hầu, Thượng Vương biết rõ là người bầy tôi trung thực này đã có quyết https://thuviensach.vn định dứt khoát, nên khi thấy Hầu vừa rút gươm ra khỏi vỏ, Thượng Vương đã vội vàng bước xuống, giật vội thanh gươm, phán bảo: “Viên Hiền hầu chớ khá nóng nảy. Chính Hầu đã thức tỉnh ta rồi.” Và quả đúng như vậy. Tuy đắm lụy nữ sắc, Thượng Vương vẫn còn mang sẵn trong dòng máu cái truyền thống hùng nghị để với mối xúc động tâm lý bất thần mãnh liệt - gây nên bởi cái cử chỉ can đảm, hào hùng của một người bầy tôi giàu tiết khái - vụt nhiên tỉnh ngộ và phục hồi lại được cái ý chí thắng vượt nhược điểm của mình. Ngay sau đó, để tỏ ý phục thiện và lòng cảm mộ cái gan trung nghĩa hiếm có của Viên Hiền hầu, Thượng Vương liền hạ lệnh bãi bỏ dự án xây cất lâu đài, tổ chức gấp rút công việc chẩn tế, và cũng kể từ ngày ấy, mối tình đối với Tống thị ngày càng phai nhạt.[108] Sự kế thừa đại nghiệp tuy phải mở đầu với một biến cố chẳng lành hay việc mưu phản của em trai, thêm vào đó, cái họa nữ sắc như vừa nói, nhưng mười ba năm trị vì ở cương vị chân chủ của Công Thượng vương lại là một thời kỳ thịnh đạt, với rất nhiều thành tích vẻ vang gặt hái được về mặt ngoại an cũng như nội trị, nhờ ở sự phò tá tận lực của nhiều bậc hiền tài. Dời trị sở, kiến thiết Thủ phủ, chỉnh đốn tổ chức, mở các khoa thi để tuyển chọn nhân tài, tăng cường binh bị, thao luyện quân sĩ về kỹ thuật chiến đấu trên bộ, dưới thuyền. Nhờ đó, mà đã hơn mấy lần đẩy lui và gây thất bại nặng nề cho quân Trịnh, triệt hạ uy thế của lực lượng hải quân “chỉ biết sợ có sức mạnh của Trời”[109], qua những chiến thắng như chiến thắng năm 1642, làm cho quân Ô Lan (tức Hòa Lan) phải thất điên, bát đảo, và thuyền trưởng Ô Lan, Van Liesvelt, phải tử trận một cách thảm thương; chiến thắng năm 1643 - một võ công oanh liệt của Thế tử Dũng Lễ hầu Nguyễn Phước Tần, tại cửa Hàn - một cuộc chiến đấu oai hùng với cái cảnh “năm chục chiếc ghe Ô, ghe Chu[110], dưới quyền chỉ huy của Thế tử, rượt đuổi vùn vụt như bay trên mặt bể cả, xông xáo vào một chiến thuyền lớn nhất trong ba chiến thuyền của địch - đang cùng hoảng hốt nhắm về hướng đông tìm đường tẩu thoát. Cả đám thủy quân gan dạ, nhảy https://thuviensach.vn ào lên, đẵn cột buồm, chặt bánh lái, dứt đứt dây lèo, khiến cho thuyền trưởng và thủy thủ bên địch phải kinh hoàng như đang đứng trước một đoàn âm binh từ đâu dưới thủy cung đột hiện. Túng thế, quân địch phải phá thuyền bằng thuốc súng. Đô đốc Peter Baek cùng trên hai trăm thủy thủ nát thịt, tan xương. Âm mưu cấu kết giữa quân Trịnh và quân Hà[111]tan vỡ. Trịnh Tráng, sau trên một tháng trời sốt ruột đợi chờ, phải cùng vua Lê ngậm đắng nuốt cay, lủi thủi quay về Thăng Long.”[112] Và sau cùng là chiến thắng năm Phước Thái thứ sáu 1648. Chiến cuộc lần này xảy ra là do âm mưu xúi giục của nàng Tống thị. Sóng khuynh thành đã làm dấy khởi cảnh can qua. Nguyên từ khi bị thất sủng, Tống thị càng lo sợ về lời đe dọa của Chưởng cơ Nguyễn Phước Trung, nên ngày đêm trù kế giữ mình, và để tìm cách thoát khỏi nơi hang hùm nọc rắn, Tống thị đã nghĩ đến chuyện mượn tay họ Trịnh để gây cái họa nghiêng ngửa cơ đồ cho dòng họ chân chủ phương Nam. Nàng bèn viết một bức mật thư kèm theo một xâu chuỗi trăm hoa do chính tay nàng kết thành, sai người tâm phúc mang ra cho thân phụ nàng để dâng lên chúa Trịnh. Trong thư, Tống thị khẩn thiết thỉnh cầu Trịnh Tráng sớm cất quân vào tiến đánh Thuận Hóa và nàng sẽ nguyện đem hết gia sản lớn lao của mình để lo việc quân lương. Cuộc Nam phạt thành công nàng sẽ xin về Đàng Ngoài để hầu hạ Chúa. Trịnh Tráng xem thư đã thích trí lại ngửi đến xâu hoa, tự dưng cảm thấy tâm thần xao xuyến, càng nhìn nét bút càng tơ tưởng đến mỹ nhân ở một phương trời, đâm ra thương mến, nhớ nhung và nôn nóng được sớm thấy dung nhan, vui vầy cá nước, bèn gấp rút chuẩn bị cuộc Nam chinh để làm đẹp lòng Tống thị.[113] Một phen giáp chiến, quân Nguyễn thua to. Quân Trịnh tiến đóng ở đồn Võ Xá. Nhưng rồi với đại binh của Thượng Vương đóng ở trại Toàn Thắng[114], với sự cầm cự anh dũng của Trương Phước Phấn và con là Trương Phước Hùng để giữ vững lũy Trường Dục - lũy được mang thêm cái tên Phấn Cố Trì kể từ ngày ấy[115], với cái khí thế nhổ https://thuviensach.vn núi, đạp thành của quân tiếp viện thiện chiến và một trăm thớt voi dũng mãnh, dưới quyền điều khiển tài tình của Thế tử[116], với cái quyết tâm của các tay hổ tướng như Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật, quân Nguyễn đã lật ngược thế cờ, giành phần toàn thắng, đúng như lời tiên đoán của bà lão dâng đậu Trường Xích cho Thượng Vương, khi quân lính của Chúa vừa hạ trại ở làng Trung Chỉ.[117] Chiếm Nam Bố Chính, đóng trại ở Võ Xá, hạ được Lũy Thầy, quân Trịnh đã chắc mẩm diệt tan quân Nguyễn, nhưng rồi bất ngờ lại bị đánh tan tành không còn manh giáp, bị đuổi chạy đến tận Linh Giang, Trịnh Tráng thêm một phen vỡ mộng xâm tính Thuận Quảng, và, đám tàn quân của họ Trịnh cũng thêm một lần được chiêm nghiệm thấm thía ý nghĩa của câu ca: “Nhất khả kỵ hề Động Hải Trường lũy, nhị khả kỵ hề Võ Xá nê điền“[118]. Và, cũng như chiến thắng trên sông Ái Tử xưa kia đã cống hiến cho Tiên Chúa một số binh sĩ đầu hàng đông đảo để thực hiện công cuộc khẩn hoang quanh vùng Cồn Tiên, chiến thắng 1648, cũng mang lại cho Công Thượng vương trên ba vạn binh sĩ quy hàng để thực hiện công cuộc khẩn hoang, lập ấp, trên dải đất đai chạy từ phủ Thăng Bình và phủ Điện Bàn đến tận Phú Yên.[119] Phủ trị Kim Long lại được dịp phô bày cảnh sắc hoa gấm để đón tiếp Công Thượng vương và đoàn quân chiến thắng. Nhưng tiếc thay, tin mừng vừa loan thì tin buồn cũng được vó ngựa truy phong mang về cấp báo. Vì trên đường khải hoàn, Công Thượng vương, tức Thần Tôn Hiếu Chiêu Hoàng đế, đã băng hà khi thuyền đang vượt phá Tam Giang, vào ngày mồng sáu tháng Hai năm Mậu Tý (tức mười chín tháng Ba năm 1648), thọ 48 tuổi, ở ngôi được 13 năm. Được tin buồn cấp báo, Kim Long buồn rủ băng tang. Chúa chết vì bạo bệnh hay vì sự đầu độc do Tống thị chủ mưu để giành ngôi cho con mình? Đó là một nghi vấn được nêu ra, nhưng sử văn chưa giải đáp thỏa đáng. https://thuviensach.vn NGUYỄN PHỦ Ở KIM LONG DƯỚI THỜI HIỀN VƯƠNG Nhưng sau những ngày tang khó, Kim Long lại thu hồi cảnh sắc trù phú, phồn vinh, để tiến triển thịnh đạt hơn, qua bảy năm trời yên bể lặng, lửa dập, khói tan, kể từ trận thảm bại của quân Trịnh nói trên. Mức phú túc của đám dân thị tứ ngày càng tăng tiến, và, theo với cái đà thăng hoa này, phong thói xa xỉ, nề nếp đài các, phong lưu, cái văn vẻ của nền giáo hóa thiện hạnh chớm nở, lần hồi ăn sâu từ các giới quyền quý đến tận các từng lớp sĩ thứ, đồng thời lan rộng cả một vùng thôn hoa, lục dã, ít nhất là từ Kim Long đến tận phường Phú Hòa bên tả ngạn sông Hương hiện nay, đổ xuống thấu ranh giới Địa Linh, Thanh Hà, và ở phía hữu ngạn, tới mạn Phú Cam cùng các khu vực ven sông của những phường Phú Ninh, Phú Vĩnh. Ngọn gió ngoại thương càng mang thêm về nơi này - qua sự chuyển vận, phân tiêu[120] của thương khẩu Thanh Hà - nhiều loại hóa phẩm ngoại lai quý lạ, dễ đánh động thị hiếu của đám người phồn hoa dư ăn, thừa để, do những thương thuyền từ các xứ Âu châu, hoặc từ Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, hay từ Phi Luật Tân, Malacca đổ về Hội An[121], một mã đầu[122]lớn về thời đó. Tơ lụa, gấm vóc, sa đoạn, đồ sành, đồ sứ, đồ đồng, họa phẩm, đao kiếm, giày, bít tất, các loại rượu và hào soạn, thuốc men cùng các chất bổ dưỡng hiếm lạ. Cũng vào thời bấy giờ, một vài thứ công nghệ trong xứ đã bắt đầu phát triển, đáng lưu ý nhất là nghề dệt các thứ hàng quý như: thái đoạn, sa lăng, cẩm trừu cùng các loại hàng có hoa. Viễn tổ của các phường dệt nổi tiếng thuở đó là người phủ Thăng Hoa, thuộc Quảng Nam dinh[123]. Hội An, như vừa nói, là một mã đầu lớn có sức quyến rũ khá mạnh đối với bọn thương nhân từ phương xa tới. Mà sức quyến https://thuviensach.vn rũ của Hội An lại chính là sức quyến rũ của nguồn thổ sản sung thiệm ở Quảng Nam dinh, một vùng mà Lê Quý Đôn đã từng cho là “một xứ phì nhiêu bậc nhất trong thiên hạ” và một thương khách họ Trần, người Quảng Đông, từ Trung Quốc qua, đã phải nhìn nhận rằng: “... buôn ở Quảng Nam thì trăm thứ chẳng thiếu hàng gì, các phiên bang chẳng nơi nào sánh kịp.”[124] Của núi, của rừng cống hiến thì có: trầm hương, tốc hương, sáp ong, mật ong, dâu sơn, cây gỗ, sừng tê, ngà tượng; của sông, của bể cung cấp thì có: cá, muối, đồi mồi, hạt trai; của đất đai thết đãi thì có: lúa, kê, đường, chè, hạt cau, hồ tiêu[125], toàn là những loại sản phẩm đáp ứng đúng sự thèm khát của những lòng thuyền cầu tài, cầu lợi từ mười phương viễn xứ đổ về. Cho nên rất sớm, kể từ buổi đầu thế kỷ thứ mười bảy, Hội An đã mở rộng cánh tay “chiêu khách”, đón tiếp các thương thuyền Âu châu, và sớm hơn nữa, từ cuối thế kỷ thứ mười sáu, Hội An đã là nơi tới lui, lưu trú của các thương gia Nhật Bản, Trung Hoa, nhiều nhất là Trung Hoa, với những thương thuyền Phúc Kiến cập bến khá tấp nập, kể từ mùa xuân Vạn Lịch thứ năm (1577)[126]. Nhờ có sự tiếp xúc, chung đụng sớm sủa như thế với đám người thiên triều, mà một số người địa phương ở Quảng Nam dinh đã học được nghề dệt các thứ hàng quý nói trên. Vì sẵn óc thông minh, sẵn có xảo tứ[127], lại giàu đức tính cần cù, chịu khổ công tìm tòi học hỏi cái khôn, cái khéo của người nên “người phủ Thăng, phủ Điện dệt được các thứ the đoạn, lụa là hoa hòe, tinh xảo chẳng kém gì hàng Quảng Đông”[128], và đời này qua đời khác, truyền cho con cháu, phổ biến ngày thêm sâu rộng. Cả một vùng Thuận Quảng, dưới thời Dũng Quốc công[129], đã có rất nhiều phường dệt lừng danh trong cõi. Ngay ở Thuận Hóa, gần Nguyễn phủ, có phường dệt Thái Nghệ, ở mạn sau Phú Cam, trong địa phận các làng Sơn Điền, Dương Xuân, Vạn Xuân, số thợ có tới non năm trăm người, chuyên sản xuất những loại cẩm trừu, sa đoạn đẹp nổi tiếng. Lại có làng Quang Xuyên, dân làng rất thiện nghệ về lối đan mũ mã vĩ, hay đan những con rồng, con phượng, https://thuviensach.vn các kiểu vạn thọ, tam sơn, bát bảo cùng các thứ hoa để chế khăn đạo sĩ, trông thấp thoáng như sa huyền[130]. Ngoài ra, ở huyện Phú Vinh - nay gọi là Phú Vang - có nhiều thợ thêu hoa vào cổ áo phụ nữ và các túi đựng trầu bằng hàng, gấm, đường nét thêu thùa trông thật tinh xảo. Cũng tại huyện này, lụa vàng, lụa trắng của làng An Lưu sản xuất rất được hạng giàu sang ưa chuộng. Tơ lụa trong xứ sản xuất đã nhiều, nghề dệt lụa và hàng quý lại rất phát đạt, thợ thêu, thợ may khéo léo, nên lối ăn mặc của đám thị dân thị tứ thuở đó thực là diễm lệ, xa hoa. Ở Kim Long, hạng quyền quý “quần áo may thuần gấm vóc. Những người sắc mục ở dân gian, quần áo mặc thường cũng thuần sa đoạn chứ mặc áo vải thì lấy làm xấu hổ.”[131] Đến như nếp sống hàng ngày, thì cái phong khí xa xỉ, hào phóng quả đã tạo thành một trào lưu đua đòi từ trên xuống dưới, bày ra cái cảnh tượng “phượng hoàng đua, bìm bịp cũng đua”. Chẳng những hạng quan quyền đua tranh nhau khoa trương vẻ phú quý, sang trọng “nhà cửa chạm trổ, thềm đá tường xây, chăn màn toàn bằng sa đoạn, vung nồi thuần bằng đồng thau, sập ngồi, ghế tựa, mâm sứ chén hoa, yên cương ngựa nạm thuần vàng bạc”[132], mà đến hạng lính tráng cũng nhiễm nặng thói phong lưu, trưởng giả, cũng “ngồi chiếu mây, ghế tựa”, cũng nghiền cái thú thưởng thức trà Tàu bên cạnh đỉnh trầm nhẹ tỏa khói thơm, cũng dùng chén sứ bịt bạc, ống nhổ bằng thau[133].Hầu hết các thứ vật dụng tiện nghi sang trọng đều do Hoa thương cung cấp. Đàn bà con gái thì chăm chút tô điểm, chưng diện “áo quần toàn bằng tơ lụa, cổ áo thêu hoa, coi tiền bạc, thóc gạo rẻ như bùn”[134]. Cái cảnh “thương mãi giồi son phấn, quân dân diện áo xanh, khăn gấm đựng trầu, chân hoa trổ bước[135]” thường đập vào mắt Đại Sán Hán Ông[136] dưới thời Quốc Chúa Nguyễn Phước Châu sau này, có thể đã rất thịnh hành, phổ biến dưới thời Dũng Quốc công. Đàn bà, con gái Kim Long, vì đó, từng nổi tiếng quyến rũ, lẳng lơ, quen nết gió trăng, hoa liễu một thời. Cái di phong ấy còn kéo dài mãi về sau, để một nhà vua si tình - chừng như vua Thành Thái - đã đắm https://thuviensach.vn say đến độ quên mình đường đường là một đấng chí tôn trên ngôi cửu ngũ, lén lút vì hành vi lên xuống nhiều lần, làm nảy sinh trong đám dân gian một câu ca dao đầy giọng phúng thích sâu cay: “Kim Long lắm gái mỹ miều, Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi.” Phong thói sinh hoạt của Nguyễn phủ, vào thuở đó, lẽ tự nhiên, càng tăng thêm vẻ xa hoa, nghiêm lệ. Công cuộc khai hoang, dinh điền phát triển, quan thuế cũng như sự đổi chác các loại hồ tiêu, vẩy cá, trầm hương, yến sào cho bọn khách buôn ngoại quốc để lấy hàng hóa, mang lại cho Nguyễn phủ một nguồn lợi không nhỏ. Công khố đã sung dật, các vật liệu, tiện nghi cần thiết cho nếp sống vương giả và triều nghi lại được cung cấp dồi dào hơn trước bởi đám Hoa thương. Thổ sản ngự tiến từ các vùng xa đổ về Kim Long thực chẳng thiếu gì của ngon, vật lạ. Thuế lụa Quang Lăng ở Quảng Nam dinh, thuế vải trắng Thanh Hào ở Quảng Ngãi, thuế gấm ở Thuận Hóa, và các loại châm kim đoạn, hồng phương ty, bạch phương ty, hồng sơ, bạch quyến hoa lăng do các Cai bạ tàu[137] dâng nộp vào các ngày chính đản[138], lễ lạc, hay do thương thuyền Trung Quốc thường mang từ Hội An tới, làm trội thêm vẻ hoa mỹ, thanh lịch, kiêu sa của lối phục sức trong phủ chúa. Thêm vào đó, còn có sự phục vụ rất tận tâm và đắc lực, vào những dịp khánh điền, của dân xã Minh Hương hay bọn khách buôn ở phố Thanh Hà, vốn là những người rất thành thạo, khéo tay về các công việc thường được Nguyễn phủ trao phó, như trang trí, trần thiết, xe đèn sáp, viết liễn đối, bày biện cỗ bàn, yến tiệc v.v...[139] Giữa cuộc đời “rồng bay, phượng gáy” ấy, Dũng Lễ hầu Nguyễn Phước Tần - công tử thứ hai của Thần Tôn, một vị thế tử thanh niên anh hùng, mới hai mươi chín tuổi, từng lập nhiều võ công oanh liệt trên bộ cũng như dưới thuyền, lúc Thần Tôn còn tại thế - sau khi thừa kế đại nghiệp, có thể vì quá say sưa với cảnh vinh quang, chiến thắng vừa thâu đạt, tưởng mình đã có quyền được nghĩ nhiều đến sự hưởng thụ các thú vui chơi hoan lạc, nên đã có lúc nhắm mắt, buông mình, https://thuviensach.vn đắm đuối trong nguồn ma lực của nữ sắc, đến độ xao nhãng cả di chí hưng nghiệp của các Tiền vương. Chuyện chẳng lành ấy hầu như đã xảy ra vào năm thứ tư đời Dũng Quốc công, khi giữa đám ca nhi trong Nguyễn phủ đột nhiên xuất hiện một ngôi sao sáng chói. Nàng Thừa hay ngôi sao ấy - một áng đào kiểm trổ sinh ở đất Nghệ An - vốn có một thứ diễm sắc thanh quý, lộng lẫy mười phân vẹn mười, và hào quang của nó đã làm tái nhạt lu mờ tất cả mọi vẻ thanh tân, mỹ tú của đám phi tần dày công trau luyện sắc, duyên. Cho nên Dũng Quốc công, một phen vừa giáp mặt và được thưởng thức tài nghệ, đã đem lòng sủng ái. Thế rồi, tiếng đàn ngọt hát hay phối hợp với cái mãnh lực ma túy của sóng khuynh thành, đã lôi cuốn một vị chân chủ anh hùng, minh mẫn như Dũng Quốc công vào giữa cái mịt mờ của đám mê vân sắc dục. Nhưng với cái vận số đang lên, cái thế thăng tiến đang phấn phát, nghiệp lớn của họ Nguyễn vẫn còn mang sẵn những yếu tố khả dĩ giúp nó thoát vượt được những cạm bẫy làm đổ nát cơ đồ. Một ưu điểm rất may mắn của các chúa Nguyễn là, để đáp ứng nhu cầu nhân sự cần thiết cho công cuộc khai quốc, Nguyễn phủ đã có một chủ trương chiêu nạp hiền tài sâu rộng, không hề câu nệ về đẳng cấp, dòng dõi, quốc tịch, ngay trong đường lối tiến cử cũng như về đường khoa cử, và, để chứng tỏ tinh thần trọng dụng người hiền, đã tỏ ra rất hào phóng về tước lộc, áo mão, cân đai. Trong đám người phò tá vì thế không thiếu những hạng có tài kinh luân, mà cũng không hiếm gì những hạng nghĩa khí, trung trực, có can đảm nhẹ xem tính mệnh để đóng vai“tránh thần”, mỗi lúc xét ra cần thiết. Cũng như Viên Hiền hầu Nội tán họ Phạm trước kia đã dám can ngăn Chúa Thượng, một cựu thần - có thể là Chưởng dinh Nguyễn Cửu Kiều - một hôm, đã thẳng thắn tâu gửi những lời can gián, vạch rõ cái họa nữ sắc nguy hại cho vận mệnh đại nghiệp như thế nào, và khẩn thiết yêu cầu Dũng Quốc công phải sớm xa lìa con đường sắc dục, thu hồi tấc lòng sủng ái từng https://thuviensach.vn dành cho ả ca nhi xứ Nghệ. Dũng Quốc công nghe xong cả giận, và, trong một phút thiếu tự chủ vì cơn lôi đình, thịnh nộ, đã đập bàn, xẵng giọng phán bảo: - Ta đã từng nằm gai nếm mật để bảo vệ cơ đồ, đến nay giềng mối vững vàng, trăm họ an lạc, há ta chẳng có quyền được cung dưỡng bằng cái vui thanh sắc, yến ẩm hay sao? Tiếng nói của Chính khí đâu có chịu chùn bước trước cái uy sấm sét trên chín bệ cao: - Thân chúa, cung dưỡng bằng ca vũ, yến diên[140] để thỏa cái thích tình của ngũ quan không hẳn là điều kiêng kỵ đối với quân đạo. Nhưng quá buông lung theo sở thích, mê đắm tửu sắc đến độ lãng quên trọng trách trị quốc, an dân, cổ kim chưa hề tránh được cái họa nghiêng đổ giềng mối. Vùng Thuận Quảng này mặc dù là nơi hổ ngồi, rồng nằm[141], quân Trịnh mặc dù bị thảm bại phải tạm nguôi ngoai tham vọng xâm tính, nhưng nếu vì đó mà kỷ cương buông lỏng, pháp lệnh bỏ bê, thì cái cơ suy vong chẳng mời gọi cũng tự nhiên tìm đến. Gương Oai Mục Đế và Tương Dực Đế[142] đâu đã phai nhòa, mai một, chúa thượng há sớm quên sao? Và quả tiếng nói của Chính khí đã gây được cái tác dụng của một hồi chuông cảnh tình. Nó làm sống dậy trong tâm tưởng của một vị chân chủ những gì cần chiêm nghiệm như một bài học lịch sử quý báu cho hạng người trị quốc. Hình ảnh cung điện dọc ngang trên trăm sở, đài cao đến chín tầng, hình ảnh những chiếc long thuyền vàng son chói lọi, đủng đỉnh rẽ nước Tây Hồ rạng tỏa gấm sen, với những kiều nữ phô diễn vóc ngọc thân ngà lộ liễu, trần truồng, uốn lượn đường cong, nét mềm thanh tú theo nhịp mái chèo và ca nhạc, đi liền với hình ảnh một hôn quân dâm đãng bị phanh thây, xé xác trước họng thần công, hình ảnh một bạo chúa đắm đuối giữa bể truy hoan bị hạ sát một cách thảm nhục tại Bích Câu và xác bị ném vào lửa đỏ... vụt nhiên hiện ra, sống động, trước mắt Dũng Quốc công. Những lời trung ngôn chưa hẳn đã vui tai, nhưng trong men nồng của rượu quý, trong cái https://thuviensach.vn mãnh lực quyến rũ của thanh sắc đã nghe có thoảng qua những gì khác lạ. Và, đêm hôm ấy, chẳng biết bàn tay hữu ý nào đã đặt trên án thư một tập sử tích “Ngô Vương”[143]. Cảo thơm lần giở trước đèn, Dũng Quốc công hốt nhiên tỉnh ngộ. Và cuộc phản tỉnh cam go, đau xót, đã đưa tới một quyết định tàn nhẫn, não nùng. Tựa cửa lầu khuya, hướng nhìn về phía núi Thạch Hàn xa xăm, và sau những phút vô biên trầm ngâm tư lự, Dũng Quốc công thở dài nhưng cương quyết: - Chính kẻ đã can gián ta sẽ có đủ quyết tâm để thi hành ý định của ta. Sáng hôm sau, nàng Thừa - người đẹp được sủng ái - thể theo mỹ ý của Dũng Quốc công, mang đến tận nhà vị Chưởng dinh họ Nguyễn một bộ triều phục mới tinh. Vui vẻ tuân hành mệnh lệnh, con người đáng giá nghìn vàng ấy có biết đâu rằng: gót sen, một khi đã tiến về phía tư thất của Chưởng dinh Nguyễn Cửu Kiều, là sẽ phải tiến thẳng vào thế giới u linh. Vì, hỡi ôi! Bức mật thư mà Dũng Quốc công đã lồng vào tay áo của bộ triều phục do nàng mang đến là một mật lệnh ủy thác cho Chưởng dinh họ Nguyễn cái nhiệm vụ kết liễu đời nàng bằng một thanh gươm sắc bén[144]. Vụ hành quyết âm thầm, tàn nhẫn ấy đã xảy ra tại nơi nào trong vùng Hương Ngự? Không có sử văn ghi chép rõ ràng. Nhưng trong lòng thuyền lạnh lùng cô tịch, giữa cảnh sương mờ, trăng xế, trên mặt sông Hương, mỗi lúc nhắc lại câu chuyện “phong tình cổ lục”, du khách như có thể còn nghe oan hồn của khách hồng nhan bạc mệnh, rũ tóc sầu, ôm ngực huyết, khóc than đâu đó bên cầu Bạch Hồ hay trên cồn Dã Viên. Nhưng vụ nàng Thừa vừa giải quyết xong với mối ly sầu huyết lệ, thì một đại biến lại xảy ra vì một phụ nhân gian hoạt là nàng Tống thị. Thất bại trong âm mưu năm Mậu Tí, Tống thị càng thêm lo ngại cho thân phận của mình. Nhưng vốn thông minh, giảo hoạt, có tài quyền biến, Tống thị liền nghĩ đến cái kế mê hoặc, lung lay ngay cả con người trước đây từng thù ghét và muốn diệt trừ nàng: Trung Tín hầu https://thuviensach.vn Nguyễn Phước Trung. Mượn tay họ Trịnh để trả thù không xong, nàng họ Tống lại muốn mượn tay chú của Dũng Quốc công để rửa hận và phá hoại cơ đồ họ Nguyễn. Thực là cả một chuyện mạo hiểm, nhưng Tống thị vẫn dám nghĩ, dám làm vì nàng vững tin ở sắc đẹp và cái thuật quyến rũ bằng xâu chuỗi trăm hoa. Bèn chọn một nữ tì duyên dáng, lanh lợi nhất - nàng Hoa, bày dạy cung cách phục dịch đúng theo khuôn phép ở chốn cao môn rồi nhờ người thân tín đưa vào hầu hạ trong dinh Trung Tín hầu. Trước khi vào dinh, Hoa đã được Tống thị dặn dò tỉ mi những điều cần thực hiện. Điều quan hệ là phải gây được lòng tin yêu và tìm hiểu sở thích của hầu. Hoa quả đã đáp ứng được điều mong muốn của nàng họ Tống. Chỉ một thời gian ngắn, Trung Tín hầu đã phải chú ý đến Hoa và cho nàng chuyên giữ công việc hầu trà, chuốc rượu, sớm hôm gần gũi bên mình. Đã biết Trung Tín hầu mỗi khi dùng trà thơm thường có thói quen thích dùng đồ ngọt, Hoa tin ngay cho Tống thị, và, một sớm, sau khi đã chuyên trà thơm vào chén, Hoa bưng lên, đặt cạnh khay trà một quả bánh khô rất đẹp và, cùng với quả bánh, một xâu chuỗi trăm hoa cực kỳ ngoạn mục. Trung Tín hầu nhìn quả bánh, trầm trồ ngợi khen và khi ăn thử mấy cái, càng thấy khoái khẩu, vì hương vị của bánh thực là đặc biệt, khác xa với các loại bánh từng dùng xưa nay. Vừa thưởng thức, Trung Túi hầu vừa gật gù lẩm bẩm: - Ngon lắm! Ngon lắm! Và lạ thực! Cái tài bánh trái đến như thế này thì quả là tuyệt diệu. Rồi nhân lúc khoái trá vì hương vị của trà quý, bánh ngon, Trung Tín hầu vui tay cầm lấy xâu hoa ngắm nghía. Ngắm mãi không chán, hầu lại ngửi qua hương thơm. Bất giác, lòng nghe bồi hồi, rung động và tự dưng đâm ra khát vọng được trông thấy dung nhan của người tặng bánh, tặng hoa. Hầu liền gọi Hoa, căn vặn dập dồn: https://thuviensach.vn - Bàn tay nào đã kết chuỗi hoa này? Đã làm ra những chiếc bánh này? Ta muốn biết rõ để đáp lại tấm thịnh tình đáng quý. Hoa làm ra vẻ bối rối, run sợ rồi khép nép thưa: - Kính xin Đức ông tha cho tội chết, con mới dám thưa. - Sao vậy? Sao lại tội chết...? Ta chẳng bắt tội đâu mà sợ, nói đi. - Thưa Đức ông, vì người dâng hoa, dâng bánh không xứng đáng được Đức ông biết tới. Con chỉ nhận quà để dâng lên chỉ vì biết Đức ông thích món này và biết bánh trái của kẻ ấy làm thì cái khéo, cái ngon không có tay nào có thể sánh kịp. - Nhưng tại sao lại không xứng đáng được ta biết tới. Ta cần biết người ấy là ai? Ta cần biết ngay, mày phải nói ngay. Hoa trộm liếc nhìn Trung Tín hầu, ấp úng giây lát, rồi hạ thấp giọng: - Thưa... đó là người từng ước mong được làm hoa hướng dương để chầu vầng nhật là Đức ông, nhưng đã phải ôm một mối khổ hận từ lâu, vì chẳng những nỗi lòng thầm kín đã không được bóng huy quang soi thấu, mà còn phải chịu nhiều điều sàm báng của bọn người ác khẩu để bị hiểu lầm, ngộ nhận và phải lâm vào cái thế bơ vơ qua bao cảnh hổ chọi, rồng tranh... Trung Tín hầu tỏ vẻ cảm động, kinh ngạc kêu lên: - Thực sao? Nhưng kẻ ấy là ai? Ta muốn biết tên, biết mặt. Ta muốn gặp ngay. Mày phải nói mau. Hoa cúi đầu, hạ giọng, thưa nhỏ cho Hầu biết kẻ đó chính là nàng Tống thị. Và, lạ lùng thay, vừa nghe đến tên nàng, Trung Tín hầu đã hớn hở mặt mày: - Tống thị! Tống thị! Trời ơi, ta muốn gặp nàng. Ta muốn tin ngay cho nàng biết là nàng phải sớm gặp ta. Mày nghe rõ chưa. Đi gấp, tin gấp. Ngay tối hôm ấy, Tống thị trang điểm cực kỳ lộng lẫy, theo Hoa mà lẻn vào dinh. Một phen gặp gỡ, cái nhan sắc kiều diễm, lối phục sức https://thuviensach.vn chải chuốt, thanh lịch, cái phong vận yểu điệu, thanh tân của nàng đã gây cho Trung Tín hầu cái ảo giác như đang đứng trước một giáng tiên vừa đội trăng sa, rẽ khói sương mà đến. Thi lễ xong, Tống thị khép nép thưa gửi: - Trước kia, tiện thiếp vì khiếp sợ uy danh của bậc cao minh quân tử mà phải ẩn lánh, nay lại cũng vì nể sợ uy danh mà xin tìm đến khấu đầu dưới trướng. Nhớ lại chuyện cũ, Trung Tín hầu vội vàng tạ lỗi. Và đêm hôm ấy, với cái thuật ái ân “tía rụng, hồng rơi”,Tống thị đã chinh phục được lòng nịch ái, đắm say của một võ quan hung bạo từng coi nàng như một loài yêu quái cần phải diệt trừ. Và những gì phải xảy ra, đã xảy ra, đúng theo kế hoạch dự liệu của nàng họ Tống. Trung Tín hầu nghe theo lời nàng, xuất tiền kết nạp dũng sĩ, ngấm ngầm chuẩn bị một trận tập kích vương phủ vào khoảng tháng Tư năm Giáp Ngọ (1654). Những người gia nhập đảng của Hầu và Tống thị đều được ghi tên vào một sổ bộ do Tống thị cất giữ. Nhưng thiên bất dung gian. Trong đám thuộc hạ của Trung Tín hầu, có tên Thắng Bố, khi biết được mưu đồ dấy loạn này liền mật báo ngay với Dũng Quốc công. Được tin mật báo hôm trước, thì ngay sáng hôm sau, lệnh từ vương phủ được ban ra bất thần, cấm chợ búa không được họp, đường sá không cho người được đi lại. Khắp nơi từ điền dã đến sơn khê, binh cũng như dân, nam nữ, lão ấu tuyệt đối phải ở yên tại chỗ. Và trong lúc đó, tại Thượng đô, quân lính kéo tới bao vây dinh Trung Tín hầu, bắt hết người nhà, giam cầm, xét hỏi, Trung Tín hầu Nguyễn Phước Trung, không còn chạy chối ngả nào, phải cung khai sự thực. Vì Trung Tín hầu là chú, nên Dũng Quốc công không nỡ nào khép vào tội chết, chỉ giam cầm ngục thất mà thôi. Nhưng rồi Hầu cũng chết trong ngục thất. Tống thị lần này quả đã đến bước đường cùng và phải đền tội một cách xứng đáng với những ác họa do thị gây ra. Thị https://thuviensach.vn bị chém và bêu đầu giữa chợ. Và theo lệnh Chúa, gia tài lớn lao của thị được đem cấp phát cho quân, dân trong vùng.[145] Sau khi Trung Tín hầu đã bỏ mình trong xó ngục và Tống thị đã gửi hồn theo bóng kiếm, có người bắt được, ngay tại nhà nàng, sổ bộ ghi tên tất cả những người tham dự cuộc mưu phản của Trung Tín hầu, đem dâng cho Chúa. Nhưng thay vì khai thác để thanh trừng, Dũng Quốc công đã cho đốt đi.[146] Cử chỉ khoan hồng này của Chúa đã gây một cảm kích rất sâu xa trong đám bề tôi cũng như trong các tầng lớp chúng dân. Cái họa nữ sắc được chặn đứng kịp thời, mầm phản loạn được hủy diệt ngay trong trứng nước, Dũng Quốc công như người tỉnh mộng, càng tỏ ra xứng đáng hơn trước trên cương vị chân chủ phương Nam. Bảy năm hưu chiến giữa Nam Bắc thay vì trôi qua hoàn toàn trong cảnh an nghỉ vui chơi, đã được Dũng Quốc công, sau cơn hối ngộ, khai thác đủ mọi lợi thế để chỉnh đốn nội trị, ngoại an và xúc tiến công cuộc mở mang bờ cõi. Qua gần bốn chục năm trời tại vị, Dũng Quốc công hay Thái Tôn, Hiếu Triết Hoàng đế quả đã đáp ứng đúng kỳ vọng của các đấng tiền vương, nhất là của Tiên Chúa, từng đặt để ở những người kế thừa đại nghiệp. Trong phủ chúa, sự kiệm ước được thay thế cho những phong thói xa hoa, lãng phí. Các công tác tu trúc lâu đài, cung thất cũng được hạn chế đúng mức. Để phòng vệ biên cương cho hữu hiệu, Cai suất đại viên và binh đồn trú được đặt thường xuyên tại Lưu đồn đạo hay Dinh Mười (Thập Dinh)[147], lũy Trấn Ninh và lũy Sa Phụ được xây đắp (1662). Công việc thao luyện quân sĩ, cải tiến kỹ thuật và tăng cường phương tiện chiến đấu trên bộ cũng như dưới thuyền được xúc tiến thường xuyên, trong tinh thần nghiêm chỉnh, khẩn trương. Ở khắp các đồn trại hiểm yếu, quân số được bổ sung. Tại Quảng Bình, Thủy dinh Tham tướng Tôn Thất Tráng được mạng rèn thêm binh khí, huấn luyện sĩ tốt. Từ năm Vĩnh Thọ nguyên niên (1658), Chúa đã ra lệnh tập tuyển trường ở https://thuviensach.vn Nghệ An, duyệt dân bảy huyện chia thành ba hạng: toáng, quân và dân, chỉnh đốn việc thu thuế để cung cấp quân lương. Và sau trận thất bại năm 1660, khi bảy huyện Nghệ An lọt trở vào tay họ Trịnh, Dũng Quốc công rút kinh nghiệm, nhận thấy phép bắn của quân mình chưa được tinh thông, bèn ra lệnh phải luyện tập ráo riết[148]. Vào năm Quý Mão (1663), tại Thuận Hóa, núi đất ở bến đò Thanh Phước - đắp từ đời Thần Tôn được xây ụ cao thêm ba chục thước và trang bị xạ hầu (khung căng ở giữa có vẽ đích) cùng các vũ khí đầy đủ để thường xuyên tổ chức những cuộc thi bắn cho quân sĩ và các thủy sư[149]. Nhờ đó, phép bắn ngày cành tinh thêm. Ngoài ra, việc kiểm xét tình trạng tốt xấu, cùn, sắc của các thứ quân khí ở các dinh, các quận hay châu, huyện cũng được đặc biệt chú trọng[150]. Mặc dù đã nhiều phen chiến thắng quân Ô Lan trên mặt bể cả - ngay từ thuở còn là Thế tử - Dũng Quốc công vẫn không chủ quan khinh địch, trái lại càng quan tâm nhiều hơn về mặt chỉnh bị chiến thuyền. Vào năm 1674, tổng số chiến thuyền của Đàng Trong đã có tới 133 chiếc[151] với cái khả năng cướp gió, vượt sóng nhặm lẹ[152] phi thường, và cái khí thế chiến đấu táo bạo, dũng mãnh khiến cho địch quân thoạt thấy bóng đã khiếp vía, kinh hồn. Thay vì những cuộc hội hè, vui chơi do Nguyễn phủ thường tổ chức vào các dịp khánh điền, nhân dân Kim Long được vui xem nhiều hơn trước các cuộc thao diễn của quân sĩ, phi ngựa, bắn cung, múa kiếm của giới công tử, vương tôn, những cuộc tập trận tại Tập tượng trường, hoạt động nhộn nhịp hơn xưa, với số thị tượng được gia tăng hoặc bằng lối săn bắt, dụ dỗ từ rừng già về, hoặc do sự triều cống của các man và nước Chân Lạp. Ngay tại các dinh, Chúa cũng ra lệnh cho đám văn thần, quan lại Tam Ty phải tập bắn cung, cưỡi ngựa. Để mở rộng đường “săn hiền, đón sĩ”, ngoài các khoa thi Chính đồ và Hoa văn đã có từ thời Thần Tôn, Dũng Quốc công còn đặt thêm khoa thi Thám phỏng hỏi về tình trạng binh, dân và việc Lê Trịnh[153]. https://thuviensach.vn Vói ý chí thiết thạch và tài trị quốc, Dũng Quốc công còn được phò tá bởi một đám bề tôi tạn trung hầu hết là hạng “lương đống, can thành”[154], đáng kể nhất trong số như Chiêu Võ hầu Nguyễn Hữu Dật - từng được triệu bổ văn chức từ năm mới mười sáu tuổi, dưới thời Hy Tôn, và Quận công Nguyễn Hữu Tiến - vốn là Cai đội dưới thời Hy Tôn, cả hai có công đánh bại Trịnh quân nhiều phen, xây đắp lũy Trấn Ninh, Sa Phụ và được người đương thời xưng tụng là hai “hổ tướng”. Về hai bậc công thần này, sử văn có đoạn ghi chép, theo đó, vào năm Thịnh Đức thứ ba (1655), Trịnh Đào[155] sai Phạm Tất Đồng đem quân vượt sông Gianh để xâm lấn Nam Bố Chính. Dũng Quốc công quyết định đem quân đánh đuổi. Trong khi Chúa đang còn phân vân chưa biết nhân tài nào đáng chọn để giao phó việc quân thì một đêm, Chúa nằm mộng, thấy thần nhân trao cho một bài thơ: Tiên kết nhân tâm thuận, Hậu thi đức hóa chiêu. Chi diệp kham tồi lạc, Căn bản dã nan diêu. Có nghĩa là: “Trước đoàn kết lòng người cho hòa thuận, sau thi thố đức hóa cho rõ ràng. Cành lá có khi gãy rụng, nhưng gốc rễ khó thể chuyển lay.” Lúc tỉnh dậy, Chúa nghiệm thấy bài thơ có hai chữ Thuận và Chiêu ứng với tên Thuận Nghĩa (Thuận Nghĩa hầu Nguyễn Hữu Tiến) và tên Chiêu Võ (Chiêu Võ hầu Nguyễn Hữu Dật), nên từ đó mọi cơ mưu về quân sự, Chúa đều đem bàn cùng hai người ấy[156]. Ngoài hai hổ tướng này, còn phải kể đến Chưởng dinh Nguyễn Cửu Kiều, từng phá được thủy binh họ Trịnh tại cửa bể Đan Nhai, có công triệu phủ các hạt Kỳ Anh, Thạch Hà, được quân, dân theo rất đông đảo[157]; Chương phủ trấn Nguyễn Dương Hưu có công đánh dẹp Chân Lạp; Chưởng cơ Nguyễn Đức Bảo, trấn thủ Quảng Nam, từng được Dũng Quốc công, hạ tỉ thư khen ngợi về cái đức thân dân, đồng thời ban thưởng cho kiệu https://thuviensach.vn đen, ấn đồng[158]. Và nhất là Chưởng cơ Nguyễn Phước Hiệp, công tử thứ tư của Dũng Quốc công, mới hai mươi hai tuổi đã lãnh mệnh Nguyên soái, đóng quân ở Cư Hà, chống cự anh dũng quân Trịnh xâm lăng, chiếm phần toàn thắng[159]. Chính vì những yếu tố trên đây mà về thời Dũng Quốc công, sử văn đã ghi nhận được rất nhiều thắng lợi của họ Nguyễn trong cuộc Nam Bắc phân tranh cũng như về mặt nới rộng bờ cõi, bành trước thế lực xa dần về Nam. Năm Ất Vỵ[160](1655) - sau bảy mươi năm hưu chiến nhân cớ Trịnh quân xâm lấn Nam Bố Chính, Dũng Quốc công liền từ thế thủ xưa nay, đột khởi thế công. Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến và Đốc chiến Nguyễn Hữu Dật, một phen vượt sông Linh Giang, với cái khí thế đạp thành nhổ núi của đoàn quân Bắc phạt, đã thực hiện được cái chí “thành liền mong tiến bệ rồng”. Cả bảy huyện ở Nghệ An, nằm về phía nam sông Cả, lọt trọn vào tay chúa Nguyễn[161]. Mặc dù về sau, vì sự bất hòa giữa các tướng Nguyễn, Trịnh Cán[162]lại có cơ giành được ưu thế, thắng được nhiều trận, thu hồi bảy huyện nhưng cũng bắt đầu từ đấy, quân Trịnh phải lần lượt rước hết thảm bại này đến thảm bại khác, qua các cuộc Nam phạt do Trịnh Tạc[163] chỉ huy. Với cuộc Nam phạt vào năm 1661, Trịnh Tạc và vua Lê Thần Tôn, vì cái mưu cố thủ thành trì của Nguyễn Hữu Dật nhằm kéo dài ngày tháng để đánh úp một đêm bất ngờ, đã phải đại bại, kéo vội tàn quân sang sông, ôm hận quay về phương Bắc.[164] Nhưng vẻ vang và quan trọng hơn nữa là chiến thắng năm Nhâm Tý (1672). Cũng như Trịnh Tráng trong cuộc chinh phạt năm Mậu Tý (1648) trước kia. Trịnh Tạc và vua Lê Gia Tông lần này, khi vượt qua Linh Giang, vây bức được lũy Trấn Ninh, lấp bằng được hào rãnh, những tưởng đã nắm chắc phần thắng trong tay, diệt trừ được họ Nguyễn, nhưng rồi, với cái tài điều khiển và hiệu lệnh nghiêm minh của Nguyên súy Nguyễn Phước Hiệp cũng như tinh thần quyết chiến, quyết thắng của tướng tá, binh sĩ, quân Trịnh lại thêm một lần đại bại, https://thuviensach.vn Trịnh Tạc và vua Lê Gia Tông đành phải rút lui[165]. Khói lửa của cuộc Nam Bắc phân tranh được dập tắt kể từ ngày ấy, và được thay thế bởi một cuộc hưu chiến kéo dài trên trăm năm, tạo thêm rất nhiều lợi thế cho sự củng cố, phát triển đại nghiệp của dòng họ Nguyễn Phước ở phương Nam. Kim Long lại được khoác áo hoa gấm, mở hội liên hoan để đón tiếp đoàn quân chiến thắng. Dũng Quốc công còn muốn đi xa hơn trong việc chào mừng một thắng lợi đưa tới cho đại nghiệp vận hội long hưng. Quang cảnh khải hoàn, vì thế, càng tưng bừng, long trọng hơn mọi lần trước, với lễ tế Trời Đất và lễ Hiến phù[166]tại Từ đường. Đồng thời các lò ở xóm Phường Đúc, theo lệnh Nguyễn phủ, hoạt động rộn rịp ngày đêm. Bao nhiêu tay thợ lành nghề từng được học hỏi, trau luyện thuật đúc súng với người xứ Bồ, đều được huy động để trổ tài nghệ trong một công tác đặc biệt nhằm kỷ niệm ngày chiến thắng: những chiếc vạc đồng to lớn, tượng trưng cho sự uy quyền và sự bền vững của đại nghiệp họ Nguyễn bắt đầu xuất hiện kể từ ngày ấy.[167] Không những chận đứng được tham vọng xâm tính của họ Trịnh ở mặt Bắc. Nguyễn phủ, dưới thời Dũng Quốc công, còn gây được ảnh hưởng, thế lực sâu rộng trên lĩnh thổ Chiêm Thành, Chân Lạp. Về phía Chân Lạp, ngay những lưu dân Việt Nam, sống xen lẫn với dân Miên, mở mang đất ruộng, tại những vùng xa xôi như hai xứ Moi Xui (tức huyện Phúc Chánh, tỉnh Biên Hòa sau này) và Don Nai (tức Biên Hòa) ở địa đầu Gia Định, cũng được thổ dân kiêng nể, không dám tranh trở, nhường lánh đi nơi khác vì sợ oai đức của Triều đình. [168] Vùng Gia Định ao chuôm, rừng rú được bắt đầu khai thác, với sự xây cất đồn, dinh tại chợ Điều Khiển hiện nay, đặt dinh Phiên Trấn ở gần ấp Tân Thuận, cho dân được trưng chiếm đất dư chung quanh để lập làng mạc, chợ, phố.[169] Về phía Chiêm Thành, bờ cõi được nới rộng trên lĩnh thổ xứ này với sự thành lập dinh Thái Khang và phủ Diên Khánh (tức Khánh https://thuviensach.vn Hòa) vào năm 1653. Sau khi đàn áp được vụ quật khởi của vua Bà Thấm.[170] Công việc duyệt tuyển hai phủ Diên Ninh và Thái Khương bắt đầu vào năm Cảnh Trị thứ bảy (1669). Bọn văn thần Hồ Quang Đại được Chúa giao phó công việc bao đạc những ruộng đất thực sự cày cấy của các xã dân, định làm ba bậc, lại chia các ruộng mùa thu cùng thổ khô thành nhiều hạng để lấy lúa tô. Ruộng khẩn ngày càng gia tăng nhiều nên Chúa cho đặt Ty Nông lại để trông coi thuế khóa[171]. Tinh hình Đàng Trong thuở đó, theo sử văn ghi chép thì: “... Trong cõi vô sự, thóc lúa được mùa. Chúa lo sửa sang chính trị, không xây đài tạ, không gần thanh sắc, giảm nhẹ sưu dịch, thuế má. Trăm họ vui vẻ, đều khen là đời thái bình.”[172] Trong cái thế hưng thịnh của họ Nguyễn, dưới thời Dũng Quốc công, Thiên Mụ tự, lẽ tất nhiên không những chỉ được chứng kiến mà còn được chia sẻ cái vinh dự thăng hoa. Với cảnh phồn vinh của Kim Long và ảnh hưởng Phật giáo về thời đó, Thiên Mụ tự phải là một cửa Thiền quan rạng tỏa bóng xuân. Đèn sáp, hương khoanh, các đồ tự khí bằng đồng do các thương thuyền Trung Quốc du nhập và qua sự cúng dường của khách thập phương đông đảo, càng làm tôn trưởng thêm vẻ trang nghiêm, tráng lệ của nơi cung Thiền, Phật tọa. Nhưng cũng chính vì cái cơ duyên phát triển này của mây lành, mưa pháp, mà Thiên Mụ tự, xét về cơ cấu và lối kiến trúc đơn giản lúc đầu, quả không xứng đáng chút nào với cái phong thể ngày càng trọng vọng của một đệ nhất danh lam, nhất là sau trên nửa thế kỷ phải chịu đựng sự thử thách của phong sương, tuế nguyệt. Người lưu ý đến điểm này trước nhất phải là Dũng Quốc công, vị chân chủ đã có sẵn lòng sùng mộ Đạo pháp, lại từng thoát vượt được cạm bẫy của lòng mê dục, tránh khỏi cái họa nghiêng đổ cơ đồ, giềng mối. Có thể những lúc nghĩ đến sự may mắn lớn lao này của đại nghiệp, Dũng Quốc công phải liên tưởng tới mối liên hệ huyền nhiệm https://thuviensach.vn kỳ bí giữa dòng họ mình với câu chuyện“trích tiên” và “long mạch” ở gò Hà Khê. Cho nên, chính dưới thời của Chúa, cùng vào một năm mà tại Bình Định, ngôi chùa Thập Tháp (Amitâbha) được xây cất tại phủ Quy Ninh do ý nguyện của một nhà sư Trung Quốc, Tạ Nguyên Thiều, đồ đệ của Khoáng Viên hòa thượng, từ Quảng Đông vượt bể qua Đại Việt, mở đường giác lộ[173], thì ở Kim Long, công tác tu trúc Thiên Mụ tự được khởi công vào tháng Bảy, năm thứ mười bảy đời Hiền Vương, tức năm 1665.[174] Dự hưởng sự hưng thịnh của đại nghiệp họ Nguyễn dưới thời Dũng Quốc công, Thiên Mụ tự, với cái quy mô lớn lao hơn trước cùng vẻ lộng lẫy vàng son do công trình tu trúc lần này mang lại, càng được tôn trưởng thêm bề thế, phong độ để càng lưu ý khách thập phương nhiều hơn trước về cái kỳ tích phát nguyên đã dành cho nó sự đãi ngộ hậu hĩ của dòng họ chúa Nguyễn, qua cái huyền thoại: Trích tiên chuyện cũ truyền Thiên Mụ, Hồn mộng mơ màng trở lại đây.[175] Và, cũng từ ngày ấy, cơ duyên phát triển của ngôi cổ tự ngày thêm tăng tiến, theo với cái đà hưng khởi của họ Nguyễn, để sau non nửa thế kỷ, càng trở nên huy hoàng lộng lẫy hơn, với công trình bồi đắp của Minh Vương Nguyễn Phước Châu, tức Hiền Tôn Hiếu Minh Hoàng đế. https://thuviensach.vn PHÚ XUÂN DƯỚI THỜI NGHĨA VƯƠNG VÀ MINH VƯƠNG Kim Long chiếm giữ địa vị một thủ phủ, tính ra trước sau có tới nửa thế kỷ, từ năm 1636 cho đến năm 1687. Cái vinh dự này đã tới lúc phải được nhường lại cho nơi khác. Tháng Ba năm Chính Hòa thứ tám (1687), Dũng Quốc công ngọa bệnh. Vào ngày Đinh Dậu, nghiệm biết là đã sắp đến giờ phút quay đầu về núi, Chúa bèn cho triệu công tử thứ hai là Hoàng Ân hầu Nguyễn Phước Trăn, ân cần phán bảo: - Bình sinh, ta vì đại nghiệp không ngại xông pha ra vào những nơi gian hiểm để bảo toàn xã tắc, sơn hà. Con nối ngôi ta, phải nối chí ta, phải lấy nghĩa làm chèo lái, lấy nhân làm yên khấu để nắm vững mối giềng, giữ an bờ cõi. Hầu hết các quan văn võ đều do ta trạch dụng cần được con hết lòng tin dùng để chăm lo chính sự, tuyệt đối không được cho bọn tiểu nhân lẻn vào.[176] Triều thần, vì nặng tình với Chúa, tâu xúi được cầu chết thay bằng cách nạp sách trong hòm kim đằng[177] nhu Chu Công xưa từng làm tờ sách cầu xin chết thay cho Võ Vương, nhưng Chúa mỉm cười, từ khước: - Các khanh quá yêu ta, nhưng làm sao mà cải được mệnh trời khi số ta đã đến. Nói xong nhìn khắp mọi người, ra dấu giã từ rồi nhắm mắt ngon giấc thiên thu. Dũng Quốc công thọ sáu mươi tám tuổi và trị vì ba mươi chín năm ở ngôi chân chủ. Đại nghiệp của họ Nguyễn, kể từ ngày Tiên Chúa bắt đầu “chinh phục hoang vu, ác địa, đuổi hùm voi để giành chỗ ở” cho đến cuối đời Hiền Vương Nguyễn Phước Tần (1648-1687) đã trải qua trên một thế https://thuviensach.vn kỷ hưng phát không ngừng. Thủ phủ, lẽ tự nhiên, với tầm quan trọng và cái bề thế ngày càng lớn lao của nó phải cần đến một địa điểm tọa lạc hội đủ hơn Kim Long những điều kiện, yếu tố phải có của một thượng đô xét về địa thế cũng như về phong thủy, cảnh trí. Có thể chúa Nguyễn Phước Trăn hay Nghĩa Vương, tục gọi là Chúa Ngãi, ngay khi còn là Thế tử, đã lưu ý nhiều về điểm này. Từ tả ngạn sông Kim Long thuở đó, cái nhìn của Chúa đã hướng về vùng Phú Xuân ở phía đông, nơi mà các nhà địa lý thời danh, từng được ra vào vương phủ, không ngớt lời ca tụng về cái đặc tính “giai thắng” của địa thế. Nghĩa Vương lên ngôi, thủ phủ liền được thiên di qua làng Phú Xuân vào tháng Bảy năm Đinh Mão tức năm 1687.[178] Kim Long, với sự thoái nhượng này, đã được đền bù lại bằng một vinh dự khác: trị sở cũ biến thành nơi thờ phụng Thái Tôn Hiếu Triết Hoàng đế, vị chân chủ đã từng đem lại cho nó một thời oanh liệt, vàng son.[179] Từ tả ngạn sông Kim Long dời qua phía hữu ngạn, tọa lạc ở vùng Phú Xuân, trên tả ngạn Hương Giang, trị sở mới của chúa Nguyễn đã nằm vào cái vị trí lý tưởng của Kinh sư sau này. Với vị trí mới, thủ phủ của chúa Nguyễn được coi như đã tiếp thu tất cả những cái lợi của yếu tố phong thủy mà núi sông nơi này có thể cung hiến, đáng kể trước nhất là sông Hương Giang và núi Bằng Sơn. Ngay từ thuở ấy, ngọn núi Bằng Sơn - được đổi tên là Ngự Bình từ thời Gia Long - đã được chọn làm án trước. Với hình thế bằng phẳng, vuông vức, đột khởi ở phương Nam về phía tây bắc huyện Hương Thủy, giữa hai núi đất ở hai bên: Tả Bật Sơn và Hữu Bật Sơn[180], Bằng Sơn là một ngọn núi từng được các nhà phong thủy coi như là một thứ “bảo chướng nguy nga” đem lại cho thủ phủ của các chúa Nguyễn ở thời khai quốc, cũng như cho Đế thành của các vua Nguyễn vào thời Trung Hưng, cái hiểm yếu không kém gì sự hiểm yếu của đất nước Tần bên Trung Quốc, cái thế hiểm yếu có thể giúp cho hai vạn https://thuviensach.vn quân của Thiên tử địch lại một trăm vạn quân của chư hầu. Đặc tính “bách nhị” này đã được chính vua Thiệu Trị, tức Hiến Tổ Chương Hoàng đế, một phen xa giá quang lâm, và trước cảnh múa dâng ngự tửu, tung hô vạn tuế ba lần của đám quân tiên xu, đã nhắc đến với một niềm tin trọn vẹn, qua mấy vần thơ sau đây, trong bài “Bình lãnh đăng cao”: ... Thừa ân vũ trụ thiên niên tại Túng lãm kiền khôn vạn cảnh hàm “Bách nhị” sơn hà tăng tráng cố, Vân khai thụy khí ái tình lam. ... Thừa ân huệ ngàn năm vũ trụ còn lâu dài, Cuộc du lãm thấy bao hàm cả kiền khôn muôn cảnh. “Hai phần trăm” núi sông thêm bền vững, Mây dăng khí tốt trên dặng núi tình minh.[181] Cùng với cái thế bảo vệ của núi, hay của ngọn Bằng Sơn, còn có cái thế hộ vệ của sông. Và sông là dòng sông Hương hay dòng sông Thơm. Mà thơm là vì: ... Cỏ thơm có giống thạch xương bồ, Sanh ở hai nguồn Tả, Hữu hạch, Hơi thơm dầm nước, nước trong veo, Hợp thành sông Thơm chảy róc rách... VÂN BÌNH TÔN THẤT LƯƠNG (Hương Giang hành) Cũng chính với vị trí mới của thủ phủ họ Nguyễn, sông Thơm hay Hương Giang, núi Bằng Sơn hay Ngự Bình càng gặp được cái thế thuận lợi để chứng tỏ tất cả sự đắc lực trong nhiệm vụ hộ vệ Đế thành. Từ cao mà phóng xuống một cái nhìn bao quát để thâu tóm cả muôn sải quanh co, rộng hẹp của dòng sông, cặp mắt đế vương hẳn phải nhìn nhận Hương Giang - dòng tú thủy được chọn để chầu hầu kinh khuyết https://thuviensach.vn - quả đã có đủ tác phong, cung cách phù hợp với sự đòi hỏi của triều nghi. Thực vậy, ở ngay cái khởi điểm hình thành là ngã ba sông Bằng Lãng, dòng sông Hương uyển chuyển uốn mình quanh co giữa ruộng vườn, gò bãi của bao nhiêu lục dã, hoa thôn, qua lăng Cơ Thánh, đổ theo phía đông Hương Uyển sơn tức núi Ngọc Trản, tiến lần đến ngã ba sông Long Hồ để chuyển qua Lợi Tế kiều hay cầu Bạch Hồ. Và, đến đây, như một cung nữ đã thành thuộc triều nghi, Hương Giang dừng lại giây phút, chỉnh túc nghi dung, y thường, để kính cẩn tiến qua trên bốn dặm dài trước mặt Kinh thành, với cái dáng khiêm cung, khép nép của những gót chân hoa phi tần rón rén bên cạnh long sàng. Qua khỏi quãng lộ trình nghiêm cẩn ấy, dòng sông liền chuyển hướng về phía Tam giang khẩu Gia Hội, đổ xuống Bao Vinh, Triều Sơn, Thanh Phước, vượt cửa tấn[182] Thuận An để ngả mình vào lòng Bể Cả[183]. Hiền dịu, từ tốn, thầm lặng, khiêm cung, đó là những đức tính mà Kinh Khuyết đòi hỏi ở một dòng sông hộ vệ Đế thành. Để rút được những kinh nghiệm này, Hương Giang đã phải trả một cái giá khá đắt. Một cánh tay ngà ngọc của nó: dòng sông Kim Long - xưa kia chảy từ chợ Kim Long đến chợ Kẻ Vạn, băng ngang vùng thành nội, đổ ra phía đông theo ngả Đông Thành thủy quan hiện nay[184]- vốn rất trung thành, hăng hái trong nhiệm vụ hộ vệ thủ phủ về mặt Bắc vào lúc Nghĩa Vương dời trị sở về đất Phú Xuân, nghe đâu đã bị yểm trừ bởi chính Nghĩa Vương, lại bị chặt rụng dưới thời Thế Tổ Cao Hoàng đế, chỉ vì nó không biết khéo uốn mình theo khuôn phép, còn muốn giữ nguyên cái phong độ hiên ngang, man rợ, phóng túng của khe, thác và đã dám sỗ sàng xâm nhập vào gần nơi cung cấm.[185] Bài học quý giá về cung cách phục vụ uy quyền phong kiến này, Hương Giang đã lĩnh hội thấu đáo và nhờ đó, nó càng ý thức rõ được tính cách vừa quan trọng, vừa khiêm nhường của vai trò nó đảm nhận. Đế thành không đòi hỏi ở nó cái ồn ào, hùng tráng, mênh mông. Phận https://thuviensach.vn sự của nó là túc trực ở đấy, đem cái duyên dáng của một dòng lệ thủy dịu hiền để hòa hợp các thức đẹp thiên nhiên với những công trình nhân tạo của nghiệp vương, nghiệp bá: cung điện, lăng tẩm, thành quách, đền đài, nhằm điểm chuyết thêm vẻ trang nghiêm, thơ mộng cho nơi kinh khuyết. Hương Giang đã đáp ứng đúng các yêu cầu này, đã làm vui đẹp lòng rồng, và vì thế đã được nhìn nhận là “nhất phái uyên nguyên hộ đế thành”[186], được chạm hình ảnh vào “nhân đỉnh”[187], đăng trật vào Tự điển[188] công trạng ngang hàng với ngọn Bằng Sơn án ngữ ở phương Nam. Cho nên, muốn thấy cái đẹp của dòng sông Hương thì phải nhìn nó bằng cái nhìn của bậc đế vương từ trên ngôi cửu ngũ nhìn xuống, hay bằng cái nhìn của hạng tao nhân mặc khách chỉ thích những nét thanh tú thơ mộng, hiền hòa, những vẻ êm đềm, trầm lặng. Trái lại, với cái nhìn của khách hải hồ từng quen ngắm cái dài thăm thẳm, rộng mênh mông của trường giang, quen nhìn cái cảnh “Hoàng hà chi thủy thiên thượng lai” hay cái sức tuôn đổ ngang tàng của nước thác dưới ngọn bút danh họa của Vương Duy thì Hương Giang sẽ chỉ là một lạch nước hẹp hòi, nhỏ mọn. Phụ lực vào cái thế hộ vệ của núi sông trên đây, các cồn Thanh Long ở đông bắc, Bạch Hổ ở tây nam, Giang Hến và Dã Viên còn góp thêm phần hiệu năng tốt lành về mặt phong thủy. Chính trên dải đất nằm giữa sông Hương - ở phía nam - và sông Kim Long - ở phía bắc, ngay về phía đông nam kinh thành hiện nay, đường sá được mở ra, viên tường, cung thất được xây cất, ao lớn được đào, nhà cửa mọc lên san sát, nghi vệ và cái không khí thuần nhã, văn vật - nhen nhúm từ Kim Long - được chuyển về triển khai ở Phú Xuân, làm tăng thêm ảnh hưởng của nền giáo hóa thiện hạnh. Tuy nhiên, các công tác kiến trúc cung thất, phủ đệ, cũng như công cuộc tu trúc phủ cũ ở gò Dương Xuân, Văn Miếu ở làng Triệu Sơn[189] dưới thời này, vẫn còn giữ theo tinh thần kiệm ước, chừng mực của thời Thái Tôn. https://thuviensach.vn Nội vi của vương phủ rộng chừng một hai dặm, chung quanh có vòng tường thấp. Ngoài vòng tường có hàng rào tre gai. Bên ngoài hàng rào là một dãy trại súng, gồm nhiều trại lợp bằng tranh, “mỗi trại đều có đặt súng đồng, nặng từ vài trăm cân đến vài nghìn cân, đúc rất tinh xảo, khảm châu sa, phỉ túy, văn vẻ sáng ngời”[190]. Phía ngoài các trại súng lại có lũy tre bao bọc. Thủ phủ được dời về Phú Xuân giữa cảnh phong điều, vũ thuận. Nối ngôi chân chủ vào năm Đinh Mão, Anh Tôn Hiếu Nghĩa Hoàng đế Nguyễn Phước Trăn (1687-1691)[191] được thừa hưởng một di sản sung thiệm, tráng quan biểu hiện cả cái thế long hưng của đại nghiệp xét về mọi mặt. Ở phương Bắc, hiểm họa xâm tính của quân Đông kinh không còn là mối đe dọa trầm trọng như xưa. Về phương Nam, Chiêm Thành, sau cuộc quật khởi thất bại của vua Bà Thấm vào năm 1653, và sự thành lập dinh Thái Khang cùng phủ Diên Khánh dưới thời Thái Tôn, đã chịu khép mình trong cái thế thần phục và giữ đúng lệ triều cống hàng năm. Về phần Chân Lạp, sau cuộc nổi loạn bất thành của Nặc Ông Thu vào năm Mậu Thìn (1688)[192] xứ này cũng đành yên phận một phiên bang, biết kính nể uy đức của Nguyễn phủ. Phú Xuân, cũng như Kim Long trước đó, hàng năm kiêu hãnh tiếp nhận những số cống thuế quan trọng, do các đoàn sứ giả từ Chân Lạp, Chiêm Thành và các man thành kính kéo về tiến dâng. Chỉ riêng Chiêm Thành, số cống thuế đã gồm có tới hai thớt voi, một trăm trâu, một trăm bò, năm trăm cây vải, rất nhiều ngà tượng, gỗ mun cùng nhiều thứ danh mộc khác[193]. Vua xứ Chân Lạp, Nặc Ông Thu, năm 1690, chỉ trong vòng hai tháng, đã tiến cống một số voi có trên ba chục thớt[194]. Các man thì có ngà tượng, sừng tê, mây song, kỳ nam hương, sáp ong, mật ong, khổng tước v.v... Dưới thời Nghĩa Vương cũng như Minh Vương, công việc binh bị, về mặt tổ chức cũng như thao luyện, tập dượt càng hoàn bị, chu đáo và nghiêm nhặt hơn trước bội phần. https://thuviensach.vn Để có đủ quân số cần thiết, mỗi gia đình bách tính, có con trai được mười tám tuổi, phải đưa một người. Nguyễn phủ tuyển chọn toàn những người khỏe mạnh. Tân binh phải trải qua ba năm tập luyện, hoặc về mặt thủy, hoặc về mặt bộ, và, sau đó, phải phục vụ cho tới lúc mái tóc điểm sương, tuổi đến lục tuần mới được giải ngũ. Trong thời gian tại ngũ, ngoài áo quần được cung cấp, vũ khí được trang bị, mỗi binh sĩ hàng tháng được lãnh một số bạc, gạo, cá, mắm đủ dùng.[195] Dưới thời Minh Vương, chế độ bắt lính càng có phần gắt gao hơn nhiều. “Trong nước trăm thứ thợ đều do quân làm. Mỗi năm, vào khoảng tháng Ba, tháng Tư, quân nhân đi ra các làng, bắt dân từ mười sáu tuổi trở lên, những người thân thể cường tráng, đóng gông lại bằng một cái gông tre hình như cái thang nhưng hẹp hơn, để giải về phủ sung quân. Vào quân đội rồi, mỗi người chuyên học một nghề, kế phân phái đi theo các chiến thuyền để luyện tập; có chiến tranh đem ra đánh giặc, lúc vô sự ở theo vương phủ làm xâu, tuổi chưa được sáu mươi chẳng được về làng cùng cha mẹ, vợ con đoàn tụ; hàng năm thân thích đem áo quần, vật thực đến thăm mà thôi.”[196] Ngay lúc thường, số sĩ tốt tinh nhuệ, có mặt dưới bóng cờ cũng đã lên tới bốn vạn. Ngoài số một vạn rưỡi quân sĩ túc trực thường xuyên với nhiệm vụ biên phòng ở mặt bắc, còn có một vạn được phân phối các dinh, chín nghìn dành cho vương phủ, sáu nghìn đặt dưới quyền sử dụng của Thế tử, các công tử[197] cùng các thượng quan. Ở vương phủ thời đó còn có hai đội kỵ binh gồm bốn trăm kỵ sĩ.[198] Vào những dịp thao diễn hay khánh tiết, y phục của binh sĩ trông rất đẹp đẽ, ngoạn mục. Mỗi đội có một màu sắc riêng hoặc đỏ, hoặc xanh hay vàng. Các đội cận vệ của Chúa và của Thế tử mặc toàn đồng phục bằng nhung, mang khí giới nạm vàng, nạm bạc vào những ngày đại lễ.[199] Thủy quân cũng có một khí thế hùng dũng không kém, với những đội chiến thuyền rất hùng hậu và tinh nhuệ. Thuyền lớn và khá dài, mỗi bên có tới ba chục mái chèo mạ vàng rực rỡ, và được trang bị ba khẩu đại bác lớn ở đằng mũi, hai khẩu nhỏ ở hai bên.[200] Ngoài ra còn https://thuviensach.vn có hai cỗ trống lớn, một mõ gỗ lớn để gõ nhịp, bắc ngang trên bốn cọc nạng sơn son ở giữa khoang thuyền, vỏ thuyền sơn đen, lòng thuyền sơn đỏ, láng và bóng bẩy đến soi rõ mặt người. Binh sĩ thủy quân lúc thường mặc quần đùi bằng thao trắng, đội nón dấu chóp lông. Khi chiến đấu thì mặc áo bó sát thân mình, dài tới đầu gối và đội mão gỗ thếp vàng. Mỗi chiến thuyền có một sắc áo riêng cho quân sĩ. Ngoài sáu chục binh sĩ chèo thuyền - có súng hỏa mai, đoản đao và cung tên đặt sẵn dưới chân - còn có ba võ quan điều khiển, sáu lính pháo binh, hai lính báo hiệu. Trong lúc chèo, binh sĩ đứng thành hàng dài ở giữa thuyền và phải tuyệt đối giữ im lặng - trừ lúc nào có lệnh phải cất tiếng hò - phải lắng nghe tiếng mõ gõ nhịp, mắt phải chăm chú theo dõi hiệu lệnh phát ra từ chiếc gậy điều khiển của vị chỉ huy. Vì được tập luyện đêm ngày rất thuần thục, nên hiệu lệnh được tuân hành một cách đúng đắn, rập ràng, không một tơ hào đơn sai. Cả một đoàn chiến thuyền khi tiến, khi thối, lúc cạy qua tả, lúc bát qua hữu[201], phân tán, tập trung, phóng tên, nã súng, nhất nhất đều nhanh nhẹn, lẹ làng, với sức cướp gió, vượt sóng nhanh và khỏe như ngựa phi trên bộ, chim bay trên không[202] và một khí thế chiến đấu trông đến phải kinh hoàng, khiếp phục. Chẳng những lục quân, thủy quân được chỉnh bị chu đáo, mà cả Tượng binh cũng được tăng cường hùng hậu hơn xưa, nhất là dưới thời Minh Vương. Vì lẽ sức voi đã góp phần rất nhiều vào các chiến thắng vẻ vang của quân đội Nguyễn phủ, qua các trận truy kích Trịnh quân, chinh phạt Chiêm Thành, nên việc diễn tập tượng binh, săn dụ voi rừng được Quốc Chúa đặc biệt chú trọng. Ở Phú Xuân, thuở đó, nhân dân thủ phủ, đêm về, thường quen với tiếng chuông báo hiệu cho khách hành nhân qua lại được biết để tránh xa đám voi cái kèm những thớt voi đực vừa dụ được ở rừng già đưa về. https://thuviensach.vn Xưởng tượng của Chúa có rất nhiều voi lớn[203]. Những cuộc thao diễn tượng binh thường được tổ chức vào tháng Tư, dưới quyền chủ tọa của Quốc Chúa. Và đây là cả một ngày hội vui của nhân dân Thượng đô nhưng lại là một ngày dài nhất, chứa chất đầy lo âu, đe dọa, đối với đám võ quan, quân sĩ tượng binh và đám quản tượng. Cảnh tượng hùng tráng, ngoạn mục của cuộc thao diễn tượng binh đã được Đại Sán Hán Ông, một lão tăng từ Trung Quốc qua Việt Nam, thể theo lời mời của Quốc Chúa, ghi nhận thành một bức tranh linh động, trong bài Thao tượng hành sau đây: “Tháng Tư ngày dài buổi ban mai, Nón hồng, mũi bạc tuốt sáng ngời. Đứng trên lưng voi ba võ sĩ, Tay cầm xà mâu dáng hùng oai. Phía đông mười voi làm một đội, Phía tây quân sĩ năm trăm người Cờ trắng phất lên, quân sĩ tiến, Hò reo đốt lửa, khói mù trời. Cờ trắng hạ xuống, phất cờ xanh, Nài cứ đầu voi búa chan chát. Voi quật bù nhìn cuốn đem về, Mau thì có thưởng, chậm bị phạt. Bỗng chốc tập xong định hơn thua, Xiết bao máu chảy, thịt da nát, Xiết bao khó nhọc quy sa trường, Lính bị roi đòn, quan bị cách.”[204] Quân bị đã vững vàng, hùng hậu, mà công việc điều hành nên công vụ cũng được chú trọng đúng mức qua việc mở rộng phương thế tuyển chọn, trạch dụng nhân tài. Về việc thi cử, lúc đầu lệ thi Nhiêu học trong các kỳ duyệt tuyển lớn vẫn giữ y như trước. Nhưng bốn năm https://thuviensach.vn sau, lại tổ chức thi riêng, chẳng hạn như trong khoa thi mở vào năm Chính Hòa thứ mười sáu (1695), cùng với các danh mục trúng tuyển đã có từ trước như Chính đồ, Nhiêu học, Hoa văn, Thám phỏng, còn có thêm những danh mục trúng tuyển mới như Giám sinh, Sinh đồ. Cũng trong năm ấy, cùng với khoa thi ấy, Minh Vương còn cho mở khoa thi Văn chức và Tam ty tại sân vương phủ, gọi là thi Đình. Thi Văn chức nhằm tuyển người có văn học, còn thi Tam ty là để tuyển chọn viên chức phục vụ tại ba Ty: Xá Sai, Tương Thần Lại và Lệnh Sử.[205] Nguyễn phủ, vào thời này, còn nhờ ở cảnh “phong điều, vũ thuận”, đạt tới một mức phong phú, sung thiệm hiếm có vì các lợi nguyên trong cõi. Khắp các dinh, kho lẫm tràn đầy lúa thóc. Công cuộc khẩn hoang, dinh điền, di dân, lập ấp ngày càng phát triển. Các nguồn tài nguyên được khai thác hữu hiệu hơn xưa, nhất là vàng, bạc và sắt. Vàng ở núi Kim Sơn, thuộc tỉnh Thừa Thiên[206] và nhiều hơn là ở Trà Tế Sơn cùng các núi ở phủ Thăng Hoa (nay là Thăng Bình) thuộc Quảng Nam dinh, nơi mà, sau này, Ngoại tả Trương Phúc Loan được chiếm cứ để làm ngụ lộc[207]. Theo Lê Quý Đôn ghi chép trong “Tạp lục” thì Trà Tế cũng như Trà Nô là “những ngọn núi có kim khí rất vượng, thường có một đường từ trong đất đi xiên xéo ra, khí vàng bốc nổi lên trên cũng có đường đi thẳng, có đường đi ngang qua núi khác. Núi nào có vàng thì đất mềm, không thì đất cứng. Chủ hộ đãi vàng tìm ở đầu núi thấy có mạch vàng thì đào lấy đất ấy, trữ làm một đống, làm nhà che trên rồi lấy nước đãi cho sạch đất. Chỗ đất đào ấy hoặc sâu đến một nghìn thước, đãi lọc trong một ngày thường được một nghé[208] vàng vụn, đem nạp cho sở nấu vàng.”[209] Các khách du từ viễn phương lui tới thủ phủ không ngớt trầm trồ về việc chúa Nguyễn có rất nhiều vàng đãi[210] cũng như các thứ vật dụng bằng quý kim. Hai câu thơ: Gạo thơm hơi bốc mây nhường trắng, https://thuviensach.vn Vàng báo ân ban đất chói lòa. của Đại Sán Hán Ông, tuy có phần nào thậm xưng về sự thù phụng hậu hĩ của Quốc Chúa đối với một vị lão hòa thượng người thiên triều được Chúa quý trọng, vẫn là một bằng chứng về cảnh hào phú rất mực của vương phủ thời đó, nhất là câu chuyện khoe của sau đây của Minh Vương, cũng do Đại Sán Hán Ông kể lại: “... Ta bày dâng bài khải, bốn bài thơ và một ít trái cây. Nhà vua xem kỹ từng bài, rất tán thưởng. Chặp lâu, đem ra các đồ vật ngự dụng, chỉ từng món, hỏi ta có đẹp không? Xem ra các món đều toàn bằng vàng bạc, châu báu, chạm trổ công phu, tuy không văn nhã, thiếu chất phác, nhưng thảy đều lạ lùng, chóa mắt, có phong vị phú quý...”[211] Với cảnh hưng thịnh, phú cường như thế, nghị vệ của vương phủ cũng được chăm chút tỉ mỉ và càng tăng thêm vẻ trang nghiêm, đường bệ. Thuyền của Chúa ngự chẳng hạn là loại Hồng thuyền, kiểu đóng rất đẹp và khá lớn, vì tả hữu có tới hai mươi lăm mái chèo. Thuyền sơn son bóng loáng. Lối trang trí rất thanh nhã. Cửa khoang cũng sơn đỏ và chạm long vân, phía trên che đệm có đằng văn. Trong khoang thuyền có trải chiếu lát mịn màu xanh lục, lại có đặt đỉnh trầm để xông kỳ nam hương và bày đủ các thứ tiện nghi như gối tựa bọc gấm, hộp đựng cau trầu, ống nhổ, toàn bằng vàng ròng. Lính chèo Hồng thuyền được tuyển chọn phải là những thủy quân lực lưỡng đã trải nhiều năm trong nghề.[212] Trên bộ, mỗi lúc Chúa ngự ra ngoài thì có đội quân mão đỏ đi trước dẹp đường. Khách hành nhân qua lại phải tránh xa kiệu chúa những một hai dặm. Kiệu giống hình xe lừa, có mười sáu quân khiêng toàn là những binh sĩ cao lớn, vạm vỡ, mình trần, vận khố có vuông vải che phía trước, tóc bỏ xõa xuống lưng. Hai bên kiệu có đội quân hầu cầm kim đao, kim thương dài những năm, sáu thước, số hộ tốt[213] đã đông đảo, nghi thức chầu hầu, phòng vệ lại rất cẩn mật, nghiêm minh, như chúng ta sẽ thấy, qua sự mô tả dưới đây của Hòa thượng Thích Đại https://thuviensach.vn Sán về cuộc ngự giá của Chúa đến một đàn chay, vào buổi cuối xuân năm Ất Hợi (1695): “... Quốc vương đội mão xung thiên cánh chuồn, mặc đạo bào màu huyền, đi giày nhung, không mang bít tất. Quốc cậu mặc áo mãng bào, cầm kim đao đứng hầu. Ngoài vách chùa, quân lính đứng vây hai lớp. Lớp ngoài toàn người cao lớn, râu ria. Ai râu ít thì vẽ thêm râu giả, đội mão bằng gỗ đỏ thếp vàng, mặc áo đoạn đỏ, cầm kim thương đứng thẳng hàng khít rịt. Lớp trong toàn thanh niên mạnh mẽ, chít khăn đà-la-ni đỏ, mặc áo nhung lục, cầm kim đao, cũng đứng như lớp ngoài. Cán đao và cán thương đều sơn màu anh đào. Mối khi Quốc vương trong điện bước ra, quân lính đều xây mặt ngó vào. Quốc vương đi vào thì sắp hàng đứng hai hên đối diện nhau rất thẳng. Ngoài dậu tuy có vài nghìn quân thế mà trong ngự tọa lặng thinh, chỉ nghe tiếng chim kêu, lá rụng mà thôi.”[214] Việc cung dưỡng bằng thanh sắc, đền Vũ tạ, thú ca lâu, so với các thời tiền vương cũng có phần chấn khởi hơn nhiều. Trong vương phủ cũng như ở Thủy điện thường có ca vũ, hát tuồng để chúa, vương mẫu, thế tử, các công tử, công nương cùng các vị thượng quan thưởng thức, nhất là vào những dịp khánh điển. Những đoàn“Tiểu hầu” được thành lập, tuyển mộ toàn những ca nhi, vũ nữ tài hoa, có đủ thanh sắc, lại được luyện tập rất công phu về các vũ điệu hiến vui. Điệu múa được ưa chuộng nhất trong vương phủ là vũ khúc “Thái liên”diễn tả trạng thái cao nhã, trang trọng, tình tứ, dáng dấp mềm mại, bay bướm của người đẹp trong lúc dong thuyền hái hoa Quân tử. Những lúc trình diễn ca vũ, các vũ nữ đội mão vàng giống mão thất phật, vận áo hoa màu lục dài phết đất, tay cầm nhạc khí, thoa son, dồi phấn rất mực diễm lệ, não nùng.[215] Đại nghiệp của họ Nguyễn ở phương Nam, vào thời này, quả thực đã đạt tới cái thế vững chãi và cái khí tượng tráng quan của một bá nghiệp, với cái uy phong bao trùm cả một bờ cõi rộng lớn “... hùng cứ https://thuviensach.vn tam giang bát trấn, thống trị bốn mươi bảy châu... bao la vạn thủy thiên sơn, thuộc hạt trăm sáu mươi quận.”[216] Hoài bão lớn lao của Tiên Chúa, hoài bão xây dựng nghiệp lớn ngay trên gai góc, bụi bờ của vùng ô châu ác địa, mãi về lúc Tiên Chúa quay đầu về núi dưới bóng Thạch Hãn Sơn với cái phạm vi lãnh thổ “chuyên có hai châu, hẹp như một dải”[217] - vẫn đang còn là một cái mộng mơ hồ, thì đến lúc này đã trở thành sự thực hiển nhiên. Và chuyện phải đến đã xảy đến. Trên danh nghĩa, họ Nguyễn, cho đến thời Hiếu Võ sau này, vẫn tỏ ra còn tôn trọng nhà Lê. Công văn, giấy tờ vẫn noi dùng Quốc hiệu và niên hiệu Lê Triều[218]. Ngay trong tư tưởng, nỗi niềm tư Lê[219] vẫn còn vương vấn vì mối liên hệ giữa dòng họ với Lê triều từ thời Nguyễn Kim. Quốc Chúa, trong những cuộc mạn đàm với Đại Sán Hán Ông, vẫn thường nhắc nhở đến chuyện này, nhất là chuyện Thái tổ Gia Dũ Hoàng đế, vì thiện ý phò Lê, đã từng kéo quân ra Đông Đô, ở lại những tám năm trời, góp sức với Trịnh Tùng diệt trừ quân Mạc, lập được biết bao công lớn. Nhưng trong thực tế, cái cảnh “Triều đình riêng một cõi trời, gồm hai văn vũ” thì lại ngày càng phát hiện theo với cái đà long hưng của đại nghiệp. Kịp đến thời Minh Vương, tức Hiền Tôn Hiếu Minh Hoàng đế (1691-1725), công tử cả của Nghĩa Vương - một vị chân chủ trẻ trung, nối nghiệp lớn vào năm mười bảy tuổi, không những chỉ có “phú tính thông minh, độ lượng khoan hòa, dung mạo đoan chính”[220] chữ tốt, văn hay, mà còn sẵn có bẩm tính kiêu hùng, dũng lược, từng bao phen đánh đông, dẹp bắc, thâu phục được cả Chiêm Thành, nới rộng thêm bờ cõi xa hơn về phương Nam, thì việc tiến thêm một bước để tự xưng Quốc Chúa, đưa quốc thư và cống phẩm sang Thanh đình cầu phong và đúc Quốc tỷ “Đại Việt quốc Nguyễn Vương vĩnh trấn chi bửu”[221]là một sự đun dẩy[222]tất nhiên của cái cơ duyên hưng nghiệp đã tới kỳ cực triển. https://thuviensach.vn Và chính giữa cảnh long thịnh ấy của Nguyễn phủ, Thiên Mụ tự lại, một lần nữa, được gia tăng ân sủng. https://thuviensach.vn QUỐC CHÚA VÀ NGÔI CỔ TỰ TRÊN ĐỒI HÀ KHÊ Linh Mụ tự, thuở đó, còn mang tên là Thiên Mụ tự, vào mùa đông năm Ất Hợi - ngày 16 tháng Mười âm lịch, tức ngày 22 tháng 11 năm 1695 - được Quốc Chúa chọn làm nơi lưu trú cho một vị thượng khách: Thạch Liêm hòa thượng, hiệu Đại Sán Hán Ông. Ngay khi đến ở tại ngôi cổ tự “chung quanh có trồng nhiều cổ thụ, day mặt ra bờ sông. Trước chùa, ngư phủ, tiều phu tấp nập sớm chiều qua lại. Trong chùa cột kèo chạm trổ rất tinh xảo”[223]. Vị lão hòa thượng sính thi họa này, đối cảnh sinh tình, đã có thơ vịnh như sau: Cảnh bụt từ xưa chúa Nguyễn xây, Cửa son, điện ngọc phủ rêu đầy. Một đời tươi sáng còn cây cỏ, Muôn thuở mưa hoa kết điện đài. Sơn thủy ngoài hiên mây ngả bóng, Đi về trước ngõ cánh buồm bay. Trích tiên chuyện cũ chùa Thiên Mụ, Hồn mộng mơ màng trở lại đây.[224] Việc Thạch Liêm lưu trú tại chùa Thiên Mụ, cũng như chuyện Quảng Nam Nguyễn vương hai lần thỉnh cầu vị lão tăng này qua Việt Nam đem “kim thằng khai giác lộ”[225], lần đầu dưới thời Anh Tôn - do nhà sư Tạ Nguyên Thiều tự Hoàng Bích phụng mạng qua Quảng Đông đón rước (không có kết quả) và thỉnh tượng Phật, chuông khánh - và lần này, do Trần Thiềm Quan cùng Ngô Tư Quan mang thư của Quốc Chúa và của Quốc sư Hưng Liên qua mời, cũng như việc tổ chức những pháp hội trọng thể để Đại Sán Hán Ông truyền thụ Bồ Tát https://thuviensach.vn giới cho một nghìn bốn trăm tăng chúng tại Phú Xuân và ba trăm tăng chúng ở Hội An, sau cùng, chuyện Minh Vương đem vương mẫu, công chúa, hậu cung, quyến thuộc đồng thọ Bồ Tát giới và quì thọ Hộ pháp Kim cang thư[226] nhân ngày Phật Đản, mồng tám tháng Tư năm Ất Hợi, thực đã quá đủ để chứng tỏ cái ưu thế của Phật giáo ở Đàng Trong vào thuở đó. Phật giáo, nhất là Thiền học, trong cái thế phục hưng, đã gây được một ảnh hưởng rất sâu đậm trong giới sĩ phu, quan lại, và cả trong vương phủ, để ngay trong giới cao môn, quyền quý, không hiếm gì những hạng lương đống, khôi nho, vì nặng tình với Đạo pháp mà coi nhẹ mùi vị đinh chung và cái mộng công hầu, khanh tướng. Đệ tứ công tử của Thái Tôn, tức Quận công Nguyễn Phước Hiệp, mới hai mươi tuổi đã lãnh mệnh làm nguyên soái, chống cự quân Trịnh xâm lăng vào năm Nhâm Tý (1672). Một phen đại thắng, được ân hưởng những trăm lượng hoàng kim, năm chục cây gấm, nhưng rồi thay vì bén mồi phú quý, say bả vinh hoa, đã khước từ tất cả mọi tước lộc, xua đuổi bọn thiếp hầu, lập am mây vui cảnh nhàn lạc, tu hành, đặt túi kinh luân và tài thao lược ra ngoài vòng cương tỏa[227], Đông Triều hầu tức Tham chính đoan sự Trần Đình Ân, có công phò tá bốn triều, lúc tuổi đã già càng được trọng dụng, nhưng không tham luyến quyền cao, chức trọng, một hai thỉnh cầu xin lui gót về chốn điền viên. Một khi được Quốc Chúa chấp thuận, hầu liền tìm về chùa Bình Trung hưởng thú ẩn cư, vui say Thiền học, chăm lo vun xới hoa Đàm thay cho đào, lý[228]. Lại có Thiều Dương hầu, anh thứ ba[229] của Quốc Chúa, tuy không chuyên tâm về Phật học, không gửi mình vào chốn Thiền môn, nhưng vẫn dửng dưng với tuồng danh lợi, lập vườn ở mé sông, sống trong mấy gian nhà cỏ đơn sơ, tiêu điều, với cái đạo phong của hạng thoát tục, dứt tuyệt mê luyến sân si, tháng ngày bỡn cợt với gió trăng, kho trời vô tận, “trồng cây chơi cảnh, ngồi đất uống trà, tuyệt nhiên không có vẻ vương hầu, phú quý”.[230] https://thuviensach.vn Và ngay trong hàng chân chủ, lòng sùng mộ giáo lý Phật đà cũng từng được biểu thị qua rất nhiều công trình kiến tạo hoặc tu trúc chùa chiền, đúc chuông, đúc tượng, ân ban biển vàng, bi văn, câu đối hoặc các thứ tự khí cho rất nhiều danh lam, Phật đường trong cõi. Phần đông các chúa như Hiền Vương, Nghĩa Vương, Minh Vương và Võ Vương đều có Pháp danh. Nhất là Minh Vương thì quả đúng là vị chân chủ “muốn lấy nghiệp tu để gầy nghiệp bá”. Vị chúa trẻ tuổi này đã sùng Nho lại rất mộ Phật, làu thông kinh sử, và đạo tâm đã nảy nở ngay từ thuở còn thơ ấu. Cùng với công cuộc trùng tu Văn Miếu ở Triều Sơn, Chúa đã thực hiện rất nhiều công quả trong việc “đắp trường thành che chở vườn Thiền”. Với vận hội tốt đẹp và những cơ duyên may mắn này, Thiên Mụ tự, dưới thời Quốc Chúa, hẳn phải có đủ điều kiện thuận lợi để đạt tới cái tư thế, phong độ của một đệ nhất danh lam ở Thuận Hóa. Quy mô và vẻ tráng lệ của nó vượt xa hẳn các cảnh chùa cùng được kiến tạo từ thuở sinh thời của Tiên Chúa. Sùng Hóa ở Phú Vang (Thừa Thiên), Bửu Châu ở Trà Kiệu (Quảng Nam), Kính Thiên ở Lệ Thủy (Quảng Bình)[231], so với Thiên Mụ tự, dưới thời Quốc Chúa, mờ nhạt như những hoa sao cùng nở một lúc với vầng nguyệt đêm rằm. Quả vậy, vì kể từ năm Canh Dần (1710) - Hiển Tôn thứ 19 - những hồi chuông triêu mộ của Thiên Mụ tự không chỉ đánh tan niềm tục ở các thôn mạc thuộc vùng Hà Khê, mà còn ngân xa tỏa rộng khắp cả một vùng bao trùm Kinh sư sau này, nhờ ở những loạt âm ba du viễn của một cỗ Đại hồng chung nặng trên ba nghìn hai trăm tám mươi lăm cân, cao hai thước rưỡi tây và rộng một thước hai, với một bài minh khắc trên mặt, do tự tay Chúa làm ra. Nhưng Hiển Tôn Hiếu Minh Hoàng đế hay Minh Vương vẫn chưa lấy thế làm hài lòng. Có thể cảnh thanh bình đã vững chắc của đất nước, và những thắng lợi về mặt mở mang bờ cõi ở phương Nam đã làm cho vị chân chủ tự phong là Quốc Chúa này chú trọng càng nhiều https://thuviensach.vn hơn công việc khuếch đại Thiên Mụ tự, để tỏ niềm tri ân đối với vị “trích tiên”, sứ giả nhà Trời. Vào thuở đó, khói lửa của cuộc phân tranh Nam - Bắc từng kéo dài dai dẳng non nửa thế kỷ (1627-1673) đã được đôi bên hai họ Nguyễn, Trịnh cùng dập tắt từ trên bốn chục năm trời, sau trận thảm bại của Trịnh Tạc ở bờ sông Nhật Lệ. Và, ở phương Nam, bờ cõi càng mở rộng với sự thành lập, ở hạ phần Lục Chân Lạp[232], các dinh Trấn Biên (Biên Hòa), Phiên Trấn (Gia Định), các huyện Phước Long (Đồng Nai), Tân Bình (Saigon) vào năm 1698[233], mở đất thêm nghìn dặm, được dân số hơn bốn vạn[234]. Cùng với những thành tích này, công cuộc dẹp nội loạn ở Chân Lạp, vào năm Ất Dậu (1705) và việc bày vẽ cho quân dân khai khẩn ruộng đất ở Vũng Cù của Chính thống Cai cơ Nguyễn Cửu Vân, và, thêm vào đó, sự quy thuộc của Mạc Cửu, năm 1708 - được Chúa cho nhậm chức Tổng binh trấn Hà Tiên - càng làm cho uy danh của Quốc Chúa lan rộng từ Phú Xuân đến vịnh Thái Lan[235], về phía Chiêm Thành, sau vụ đánh bắt được vua Chiêm là Bà Tranh vào năm Chính Hòa thứ mười ba (1692), đổi nước ấy thành trấn Thuận Thành, phong cho viên quan cũ của vua Chiêm là Tả trà viên[236] Kế Bà Tử làm Khâm lý, sau đó lại phong làm Phiên vương, Nguyễn phủ hàng năm được Chiêm Thành nạp cống: hai thớt voi, hai chục con bò vàng, sáu chiếc ngà voi, mười sừng tê, năm trăm khăn vải trắng, năm chục cân sáp ong, hai trăm tấn da cá, bốn trăm thùng cát phất sa, năm trăm chiếc chiếu tre trắng, hai trăm cây gỗ mun và một chiếc thuyền dài.[237] Những thành tích vẻ vang của công cuộc khai cơ, hưng nghiệp kể trên, nhất là việc xâm lấn lĩnh thổ Chân Lạp - một hoài bão từng được ủ ấp từ thời Chúa Sãi hay Hy Tôn Hiếu Văn Hoàng đế - lẽ tất nhiên phải có dự phần vào cái động cơ đã thúc đẩy Quốc Chúa thực hiện các công tác trùng tu, kiến tạo nhằm làm tôn trưởng thêm phần nguy nga, tráng lệ cho Thiên Mụ tự, vào năm Giáp Ngọ (1714). Và có thể cũng dự phần vào động cơ này, một sự kiện may mắn, tránh cho cơ đồ cái https://thuviensach.vn họa ngửa nghiêng, là việc phát giác và đàn áp kịp thời một âm mưu phản loạn, vào năm Kỷ Sửu (1709)[238]. Đó là vụ mưu phản của Nội hữu Phò mã Tống Phước Thiệu, vốn nuôi tham vọng đoạt ngôi chân chủ, Thiệu đã quyến dụ được Cai đội Nguyễn Cửu Khâm, cùng lập mưu cho thuộc hạ vào Quảng Nam, bí mật liên kết một số hào kiệt, dấy binh đánh lấy Bình Khương, Phú Yên, rồi quay về Quảng Nam, cướp quân của Hòa Đức, để từ đấy đánh thẳng ra Chánh dinh. Nhưng trong số người dự mưu, có tên Nguyễn Phước Thuận, vì sợ hãi mà tố cáo. Những kẻ chủ mưu đều bị bắt, bị giết, riêng Tống Phước Thiệu được Quốc Chúa, vì lượng khoan hồng, tha cho tội chết, bãi làm thứ dân, giam cầm ở vườn Bát Khải[239]. Công cuộc tu trúc Thiên Mụ tự được Chúa giao phó cho Chưởng cơ Tống Đức Đại. Một năm tròn xẻ cây, chặt đá, đắp đất, nung gạch, với sự gia công, gắng sức đêm ngày của một số đông đảo những tay thợ thiện nghệ được huy động từ khắp nơi trong cõi, công cuộc trùng tu đã làm cho ngôi cổ tự càng trở nên nguy nga, đồ sộ, tỏa rạng ánh vàng son, châu báu, với rất nhiều điện, đường, lâu, các như Thiên Vương điện, Ngọc Hoàng điện, Đại Hùng bửu điện, Thập Vương điện, Đại Bi điện, Dược Sư điện, như Tàng Kinh lâu, Chung Cổ lâu, như Thuyết pháp đường, Vân thủy đường, Thuyền đường và Tri vị đường, ngoài ra còn có Tăng liêu cùng Thuyền xá những vài mươi sở, với vườn Côn Gia trong đó có trên vài mươi phương trượng, với Điếu đài xây cất ở bên sông, để Quốc Chúa làm nơi giải trí, di dưỡng tinh thần mỗi kỳ thăm viếng[240]. Lại mở hội lớn vào dịp khánh thành, xuất kho chẩn tế tiền, gạo cho đám bần dân. Nhân dịp này, Quốc Chúa còn chịu trai giới suốt một tháng trời tại vườn Côn Gia. Tiếng đồn về công cuộc tu trúc Thiên Mụ tự cùng tầm quan trọng của lễ khánh thành được lan truyền xa rộng nên các phiên hầu cũng nao nức đổ về, nhất là Phiên vương Chiêm Thành là Kế Bà Tử còn đem cả con cái, tướng tá, băng ngàn, vượt suối xa dâng tấc thành[241]. https://thuviensach.vn Công cuộc tu trúc Thiên Mụ tự dưới thời Minh Vương Nguyễn Phước Châu sở dĩ đạt tới cái tầm quan trọng như vậy, ngoài những lý do đã nói, còn có một lý do khác nữa bắt nguồn từ việc thiên di trị sở. Vào năm 1712, mặc dù đã có cái bề thế và khí tượng của một thủ phủ và tuy đã hội đủ những yếu tố giai thắng về địa lý, Phú Xuân vẫn không giữ vững được cái địa vị trọng yếu mà Nghĩa Vương Nguyễn Phước Trăn đã dành cho nó. Đến đây, nó phải nhường cái vinh dự này lại cho xã Bát Vọng ở huyện Quảng Điền. Dời trị sở, nhưng vốn sùng mộ giáo lý Phật đà, lại nặng tình với ngôi cổ tự ở gò Hà Khê, vị chân chủ từng mang pháp danh là Hưng Long[242] và thường xưng là“Quốc chủ Thiên Túng đạo nhân”[243] đã chọn cảnh Thiền quan có nhiều liên hệ màu nhiệm với đại nghiệp của dòng họ mình làm nơi di dưỡng tinh thần, tìm những giây phút siêu thoát trong hương thơm, sắc đẹp của án Phật, hoa Đàm cùng cái cảnh trí thơ mộng nơi này. Việc xây cất điếu đài chứng tỏ Quốc Chúa thường lui tới Thiên Mụ tự[244]. Và, vườn Côn Gia nhờ đó mà có được cái cảnh sắc huy hoàng, tráng lệ để, sau này, khi lâm vào cái thế điêu tàn, đổ nát theo với cảnh ngửa nghiêng của đại nghiệp họ Nguyễn - vì cái họa xâm tính của quân Trịnh và quân Tây Sơn - đã khiến cho du khách, mỗi lúc viếng thăm cảnh cũ, đối cảnh sinh tình, mối sầu hoài càng thêm trĩu nặng, và, có người vì đã tiếc rẻ cái bề thế xưa mà phải buồn than: Nguyễn gia thất thế bài không tại, Tăng xá thiên gian ngõa bán linh. (Bài vị của bảy đời chúa Nguyễn còn đấy, ngói của ngàn gian tăng xá đã trụt hết nửa rồi.)[245] Nhưng đó là chuyện về sau. Cái họa suy vong còn những trên nửa thế kỷ về sau mới xảy ra cho dòng họ chân chủ phương Nam. Còn ngay lúc bấy giờ, thì cái thế thăng hoa của Thiên Mụ tự vẫn còn nương theo vận hội long hưng của nghiệp chúa, như diều nương theo gió. https://thuviensach.vn Sau ngày hoàn tất công cuộc đại trùng tu, Quốc Chúa còn trang bị cho tự viện của chùa một số có tới nghìn bộ kinh Đại tạng và Luật, Luận mua từ Trung Quốc đưa về. Quốc Chúa lại cho dựng một tấm thạch bi cao những sáu thước rưỡi, rộng ba thước, đặt trên lưng một linh quy bằng cẩm thạch dài năm thước, rộng ba thước rưỡi, cao một thước bảy tấc năm phân[246]. Nội dung bi văn đã nói lên cái chủ ý của Quốc Chúa, vị chân chủ “muốn lấy nghiệp tu để gầy nghiệp bá” và “... coi đời sống vương giả ở nơi cung điện không thoải mái bằng đời sống ở chốn thiền quan, ngựa thắng yên cương nạm vàng, dát ngọc không quý bằng một chiếc gậy kim cang, cẩm y, hoàng bào rực rỡ thường làm chóa mắt thế nhân không giá trị bằng chiếc áo cà sa, và những kho ngọc vàng, châu báu xét cho cùng chỉ toàn là những trò hư ảo mà thôi[247]”, nhân đó mà phát khởi cái ý nguyện xây cất một ngôi Phật tự, rồi do cái ý nguyện này, đã đi tới quyết định công cuộc đại trùng tu Thiên Mụ tự vốn đã tọa lạc giữa một đồng ruộng đẹp tợ thảm thêu lại được bọc quanh bởi những dãy quần sơn xinh như rồng bay, phượng múa.[248] https://thuviensach.vn CẢNH THỊNH ĐẠT CỦA PHÚ XUÂN DƯỚI THỜI VÕ VƯƠNG NGUYỄN PHƯỚC KHOÁT Trong lúc Thiên Mụ tự được hưởng thụ dồi dào ân sủng, thì Phú Xuân, kể từ năm 1712, phải lâm vào cái số phận hẩm hiu như Kim Long thuở trước. Từ cái cương vị một thủ phủ rạng vẻ phồn vinh, đô hội, nó phải thầm lặng rút lui vào cái tư thế khiêm nhường của những lục dã, hoa thôn. Đã có lúc cuộc đất quý này đâm ra nghi ngờ cả những yếu tố “giai thắng” mà các nhà phong thủy tài danh từng gán vào cho nó. Phải chăng cái vị trí nó cung hiến cho thủ phủ chưa xứng và chưa đúng với điểm kết cục của long mạch ở gò Hà Khê để đảm bảo sự củng cố và trường cửu của đại nghiệp? Phải chăng Quốc Chúa đã bị ám ảnh, ngay từ ngày kế thừa nghiệp lớn, về sự thăng hà quá vội của Anh Tôn Hiếu Nghĩa Hoàng đế sau ngày xây dựng tân phủ Phú Xuân mới được ba năm? Sử văn hoàn toàn thinh lặng về những nghi vấn trên đây. Chỉ biết Phú Xuân phải chờ tới trên một phần tư thế kỷ, qua hai đời chúa - Minh Vương và sau đó, Ninh Vương Nguyễn Phước Trú (1725-1738) [249]- mới thu hồi lại được ưu thế để vươn lên tột đỉnh thịnh đạt dưới thời Võ Vương Nguyễn Phước Khoát, tức Thế Tôn Hiếu Võ Hoàng đế (1738-1765). Võ Vương Nguyễn Phước Khoát - công tử cả của Ninh Vương, mẹ là Trương thị, sinh năm Giáp Ngọ Lê Vĩnh Thịnh năm thứ mười (1714), hiệu là Từ Tế đạo nhân - kế vị năm hai mươi bốn tuổi, là một vị chúa thông minh, cương nghị, biết quan tâm đến chính sự, nhưng lại có tính tàn nhẫn, tham lam, và ham đắm cái thú yến ca, tửu sắc. Ngay sau khi kế vị, một sớm, có một kẻ sĩ hào hoa, tuấn lãng, lấy tư cách là thư sinh đến xin bệ kiến để hiến sách. Võ Vương cho được bái yết. Xem qua sách lược và hỏi qua nhiều vấn đề quan trọng về chính https://thuviensach.vn sự, Võ Vương biết ngay kẻ hiến sách quả là hạng người xuất chúng, kiến thức uyên bác, kinh luân, thao lược gồm tài, lại tỏ ra tinh thông về Lý số, bèn hỏi họ tên. Được biết tên họ là Nguyễn Đăng Đàn, người huyện Hương Trà[250]. Võ Vương cả mừng, phán bảo: - Thì ra chính là Siêu Quần tiên sinh đây sao? Ta đã từng được nghe chúng dân ca tụng tài đức của nhà thầy từ lâu, nay lại được nhà thầy hiến sách thực là một may mắn lớn cho ta... Siêu Quần tiên sinh vội nghiêng mình, từ tốn: - Thân chúa thượng, chẳng qua vì quá yêu mà có số người đã xưng tụng một cách quá đáng như vậy, khiến kẻ dật dân[251] này phải tự thẹn vì rất nhiều cái danh hư truyền của thiên hạ gán cho. Nhân sẵn mối ưu tư vì một câu sấm truyền chẳng lành, Chúa hỏi: - Gần đây trong dân gian có đồn đãi về câu sấm văn“Bát thế hoàn trung đô”, nhà thầy nghĩ sao về chuyện đó? - Thân chúa thượng, quả có như vậy. Đó là sự chuyển vận của thiên cơ do rất nhiều nguyên nhân sâu xa tích lũy từ trước. Theo sấm văn, đại nghiệp này chỉ vững được tám đời, rồi mất. Nhưng bên cạnh cái lý “Thiên định” còn có cái lý “nhân định thắng thiên”. Chính vì đó mà kẻ dật dân này mới xin hiến sách, nhằm mong tránh được cái họa chung cho trăm họ. - Nhưng có chắc là thành sự hay không? - Thân chúa thượng, cổ kim đã từng chứng minh muốn được lòng Trời không gì hơn là làm đẹp ý dân, muốn làm đẹp ý dân không gì hơn là rộng ban đức nghĩa, xa truyền oai lệnh, lấy trung tín làm giáp trụ, lo cảnh yên vui, no ấm cho sĩ thứ như lo cho chính thân mình. Võ Vương tỏ vẻ hoan hỉ: - Nhà thầy đã vì ta mà đến, há chẳng vì ta mà vui lòng, vứt bỏ cần câu Vị thủy, ở lại giúp đời hành sự hay sao? Siêu Quần tiên sinh vội tâu: https://thuviensach.vn - Kẻ dật dân này vốn đã bén mùi hang mây, cành khói, quen vui với tơi, nón, cá, tôm, lại xét thấy những hạng khôi nho, lương đống phò tá đắc lực không hiếm gì người, xin chúa thượng thể tình mà tha cho cái khổ phải xa lìa trúc mai, rừng, suối. Khi cần, sẽ xin tìm đến. Trong số môn đệ đông đảo của Siêu Quần tiên sinh từng theo thọ giáo từ ngày tiên sinh mở trường dạy học ở chân núi Thanh Thủy[252], có người hỏi tiên sinh vì lẽ gì đã chịu hiến sách lại không chịu phò tá Võ Vương, tiên sinh thở dài mà đáp: - Khi chưa giáp mặt Chúa, ta có nhiều tin tưởng là những sách lược của ta sẽ được nghe theo. Nhưng trong lúc bệ kiến, thường để ý đến dung mạo, thần sắc, lại xét qua ngôn ý của Người, ta nhận ra Chúa không phải là hạng thực sự ưa chuộng vương đạo, nhất là không đủ kiên nhẫn để tin tưởng vào phương sách chuyển đổi vận số, cứu vãn nguy cơ bằng đường lối trung chính. Chúa là hạng quyền xảo, thích cơ mưu... chỉ cầu chuyện thành tựu ngay trước mắt mà không nghĩ được chuyện lâu dài về sau. Đã vận dụng cơ mưu thì dù có thành công cũng chỉ là tạm bợ. Ăn thua ở một chữ “thành“ mà thôi. Người môn đệ cầu xúi được biết rõ hơn, Siêu Quần tiên sinh tỏ dáng ngậm ngùi: - Con hươu đã đến lúc phải sổ, dù có trói buộc bằng xiềng xích chặt chẽ đến đâu rồi nó cũng thoát ra. Đại nghiệp của họ Nguyễn dù có được cố gắng duy trì bằng những cơ mưu đánh tráo thiên cơ, cũng chỉ kéo dài thêm một đời nữa là cùng. Tương truyền rằng: đúng như điều dự đoán của Siêu Quần tiên sinh, Võ Vương, sau đó, vì nghe theo lời giải thích sấm văn của một thuật sĩ người xứ Nghệ An cho rằng qua tám đời chúa - chỉ tám mà thôi - đại nghiệp sẽ lọt vào tay người khác, phương Nam sẽ nằm dưới ách thống trị của những người lạ[253] và muốn thoát được cái họa này cần phải sớm có cơ mưu để cải đổi mạng Trời, đánh lạc được sự ứng nghiệm của Thiên cơ. https://thuviensach.vn Võ Vương lại suy nghiệm kỹ về mấy chữ “hoàn trung đô” càng lo ngại về nỗi Đàng Trong sẽ có thể bị sáp nhập với Đàng Ngoài, thuộc uy quyền vua Lê, chúa Trịnh như xưa nên càng tin và nghe lời thuật sĩ. Trị sở, từ xã Bát Vọng, huyện Quảng Điền, liền được dời trở về Phú Xuân. Phủ chánh được lập ngay bên tả phủ cũ và hoàn thành vào tháng Giêng năm Kỷ Mùi (T739). Vào tháng Sáu năm sau, triều thần dâng Chúa tôn hiệu Thái phó Quốc công. Việc lập phủ chánh tuy đã hoàn tất, nhưng với cái ý hướng đổi mới theo cơ mưu của thuật sĩ, Võ Vương còn ra lệnh xây dựng Đô ấp. Công cuộc kiến tạo này kéo dài trên năm năm trời và được coi như là hoàn thành vào năm Giáp Tí (1744). Từ cái thế bị thất sủng, Phú Xuân đột nhiên gặp tuần thái lai. Không những chỉ được phục hồi phong độ xưa, mà còn được tiến xa hơn theo vận hội thăng hoa, đạt tới cái bề thế tráng lệ, huy hoàng chưa từng có của một Thượng đô. Xét về mặt phong thủy, cái khí tượng “thiên phủ” thực đã biểu hiện rõ ràng: “Đất bằng phẳng như bàn tay, rộng hơn mười dặm, ở giữa là chánh dinh - đất cao, bốn bề đều thấp - tức là chỗ nổi bật ở giữa đất bằng, ở vị Càn (tây bắc), trông về hướng Tốn (đông nam), đặt ngang sống đất (long tích), trông xuống bến sông, đằng trước là quần sơn, chầu về la liệt, thu hết nước ở bên hữu nên của cải và vật lực giàu thạnh”[254]. Lầu son, gác tía, điện các nguy nga, cảnh sắc trù mật, phồn vinh, phong khí văn vật, hoa lệ, so với xưa khác hẳn một trời, một vực[255]. Ngay tại vương phủ mọc lên biết bao công trình kiến trúc quy mô: nào điện Kim Hoa, điện Quang Hoa, điện Quang Văn, nào là Diên Trì các, Triều Dương các, nào là Tựu Lạc đường, Chính Quan đường, Trung Hòa đường, Di Nhiên đường, Sướng Xuân đường, nào là đình Thụy Vân, đình Giáng Hương lại có hiên Đồng Lạc, có am Nội Viện, lối kiến trúc rất công phu, cầu kỳ, phô diễn được tất cả vẻ cao sang, vương giả[256]. Khuôn viên của vương phủ hình vuông, có ba lớp https://thuviensach.vn thành bao bọc, có bảy cửa thành ra vào, cửa chính trông thẳng ra sông có xây vọng lầu. Một trăm năm chục đại bác cỡ nhỏ đặt rải rác quanh thành, ba khẩu thần công lớn đặt cách vương phủ không xa, về phía tả, làm tăng thêm vẻ uy nghiêm, đường bệ[257]. Vì dụng ý đổi mới, đổi lạ, lại ưa chuộng việc chỉnh nghi hình thức, khoa trương cái khí tượng vương giả của Đô ấp, nên ngoài những công trình kiến trúc này, Võ Vương còn cho sửa sang lại điện cũ ở phủ Dương Xuân - vốn được coi là Ấn phủ dưới thời Minh Vương vì vào năm Canh Thìn (1700), nhân trùng tu cơ Tả Thủy của Phủ, lính đào đất đã bắt gặp một ấn đồng có khắc chữ“Trấn Lỗ tướng quân chi ấn”[258]- và xây cất điện Trường Lạc cùng hiên Duyệt Võ ở phía thượng lưu sông Hương với hậu uyển có đặt giả sơn, kỳ thạch, đào ao vuông, hồ cong, cất nhà thủy tạ, chắp nối phi kiều, xây tường bao quanh có tạc hình cỏ hoa, long, hổ, lân, phụng để làm nơi thừa lương, yến hội.[259] Phía trên cũng như phía dưới Đô ấp, quân trại, quan xá được xây cất la liệt, “... bày hàng như bàn cờ. Nhà của Thủy quân nằm trên bờ bên kia sông. Xưởng thuyền, kho lúa tọa lạc ở các xã Hà Khê, Thọ Khương. Nhà vườn của công, hầu, quý thần nằm men hai bờ thượng lưu... Các nhà đều lát nền bằng đá, trên lát ván kiền kiền, có xối thiếc để hứng nước”[260]. Tiếp theo là thị phố trù mật, đường sá rộng rãi, chợ búa đông đảo, nhà cửa san sát, mái ngói dăng hàng, quang cảnh trông thực tưng bừng, rộn rịp. Dưới sông ghe câu, đò, nốt, thuyền buôn, thuyền chài qua lại liên miên, tấp nập. Từ hữu ngạn sông Hương nhìn qua, hay từ Triều Dương các phóng xuống một cái nhìn bao quát, cảnh trí của vương phủ ở Phú Xuân thời bấy giờ quả là cảnh trí của một Thượng đô uy nghiêm, nằm giữa một vùng địa thế vừa hùng tráng lại vừa u nhã với sự phối hợp tuyệt mỹ của núi sông thanh tú. Công cuộc kiến tạo đô ấp vừa hoàn tất thì tầm quan trọng của Phú Xuân lại được tăng thêm bởi một biến cố tốt lành xảy ra ngay tại Thượng đô. Biến cố này đã từng xảy ra một lần dưới thời Minh https://thuviensach.vn