🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Minh Triết Thiêng Liêng - Tập 2
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
https://thuviensach.vn
ebook©vctvegroup 15-02-2019
https://thuviensach.vn
Phần thứ tư
SỰ NHẬP ĐỊNH
https://thuviensach.vn
I. Hermes Trismegistos
1.
Dưới cái tên Hermes Trismegistos còn lại vài đoạn đối thoại và những văn bản vụn của thời Alexandria. Ngôn ngữ của những lưu trữ này bằng tiếng Hi Lạp, bởi vậy thoạt đầu người ta tưởng tác giả của chúng là một nhà triết học Alexandria sống đầu Công nguyên, hoặc cao nhất là trước Công nguyên một, hai trăm năm.
Nói về nội dung của các tác phẩm, theo một quan điểm đồng nhất, người đọc cần đối diện với những tác phẩm đã thích nghi với tính chất Hi Lạp hóa đặc trưng (sinkretikus hellenistikus). Chủ nghĩa Sinkretizmus (thích nghi) trong trường hợp này có nghĩa là tác giả từ mọi miền quen thuộc của thế gian cố gắng thử nghiệm tính thống nhất bắt buộc của những tinh thần khác nhau xuất phát từ các nguồn ở Alexandria. Công việc mang tính chất thích nghi này về bản chất khác hẳn sự thích nghi; cái ban đầu chỉ tập hợp chất liệu, cùng lắm hàn gắn lại; cái sau đúng là tạo ra một sự thống nhất.
Giữa nhiều tác giả, văn bản của Mead có ý nghĩa nhất, đáng tin cậy nhất, ngoại trừ những nhầm lẫn xuất phát từ lí thuyết của ông. Văn bản Hi Lạp này không chỉ được coi hoàn toàn cổ, mà còn là-một bản dịch nhập định Ai Cập cho phép người đọc quay trở lại thiên niên kỉ thứ tư.
Ngôn ngữ Hi Lạp và thuật ngữ tương tự phái Ngộ đạo (gnostikus) trong những lời đối thoại gốc, văn bản gốc, rất ít thay đổi. Ở Alexandria lúc ấy hàng đội quân các nhà bác học làm việc để thu thập
https://thuviensach.vn
những kỉ vật cổ khắp trái đất cho thư viện. Các đại lí của thư viện từng đi đến tận Trung Quốc, Ấn Độ, Tây Tạng, Iran, Caucazus; Những kẻ kế tục các triều đại cai trị ở Alexandria sử dụng ảnh hưởng của mình để kiếm cho bằng được những văn bản cổ nổi tiếng từ các nhà nước khác. Sau đó cho dịch ra tiếng Hi Lạp và giữ gìn trong thư viện.
Ảnh hưởng sống của các nhân vật đã thánh hóa mai một từ lâu, chỉ còn sách giữ gìn tinh thần thời cổ. Mục đích của thư viện Alexandria là gìn giữ truyền thống của nhân loại ở một nơi. Có thể giả thiết rằng, các văn bản gốc Hi Lạp, ngoài các tên bị gọi khác đi, bản chất không thay đổi. Cái tên Hermes Trismegistos là một sự biến đổi tên theo kiểu Alexandria như vậy.
Theo bản gốc, Hermes có tên là Toth. Dưới cái tên Toth ẩn chứa ba biểu tượng: Toth là một thần linh Ai Cập, và một vị giáo chủ cao nhất của Ai Cập mang tên như vậy, giống như Dalai Lama ở Tây tạng, Zarathusra ở Iran, Puthia ở Delphoi; sau cùng Toth là đẳng cấp giáo chủ, hay là tên gọi của những kẻ đã nhập định. Sau khi đã nhập định, giới giáo sĩ và học giả thường lấy tên của một thần linh là Toth, bởi vì Toth đại diện tinh thần của thần linh thông qua hành động ở loài người.
Trong văn bản nếu người dịch chép lại được một điều gì đó gần như phù hợp với tinh thần tác phẩm thì có thể chấp nhận độ trung thành của bản dịch. Các khó khăn trong sự tin cậy của bản dịch chưa từng là những việc không vượt qua nổi và đặc điểm phổ quát của tiếng Hi Lạp cho phép có thể bước tiếp sang tiếng Ai Cập cũng phổ quát một cách phù hợp nhất. Ngày nay, nếu văn bản Latin cần dịch ra tiếng Pháp, Tây Ban Nha hoặc Ý, các khó khăn gặp phải sẽ lớn hơn một cách phi tỉ lệ, bởi vì cần phải dịch thứ ngôn ngữ Latin phổ quát ra các ngôn ngữ hiện đại đã cá nhân hóa.
Trong trường hợp này thứ bị đánh mất chính là thứ quan trọng nhất: tính phổ quát. Tính chất phổ quát của một ngôn ngữ chỉ mang ngần này ý nghĩa: có khả năng “gọi tên” tất cả các sự vật, sự việc của thế gian.
https://thuviensach.vn
Ngày nay cùng lắm chỉ còn ngôn ngữ ngoại giao, ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ văn học. Nhưng những loại ngôn ngữ này cũng đánh mất bản chất phổ quát của ngôn ngữ cổ, đặc biệt đánh mất những khả năng xướng danh “gọi tên” những hiện thực tinh thần cao nhất. Ngày nay người ta vẫn bắt buộc phải sử dụng các từ ngữ Latin hoặc Hi Lạp để diễn tả các hiện thực tinh thần cao nhất.
Phạm trù tác giả hoàn toàn không mang ý nghĩa gì. Trong bất kì văn bản cổ nào đều không có vai trò cá nhân tác giả như ngày nay. Tinh thần phổ quát không nhấn mạnh đến hiệu suất cá nhân con người, không đánh giá, cũng như không dùng để nhận thức.
Ở châu Á, nơi, tinh thần của truyền thống một phần vẫn chính là hiện thực sống, tình trạng trên ngày nay vẫn như vậy. Nếu khách lữ hành châu Âu có mặt ở Ấn Độ nghe thấy một bản Ballad (bài hát cổ) và thích, họ sẽ hỏi tên bài hát. Dịp khác, họ yêu cầu một danh ca khác hát bài Ballad này, và khi người này hát, người châu Âu kia vẫn nhất định không thỏa mãn. Không giống bài hát họ đã nghe.
Lúc đó người Ấn giải thích, ở Ấn Độ không có các cá nhân tự do diễn đạt bản thân mình trong các tác phẩm âm nhạc và thi ca như ở phương Tây. Người biểu diễn bị ràng buộc chặt chẽ vào các tác phẩm họ diễn, cần giữ nguyên bản chất của tác phẩm. Sự ràng buộc này không đem lại sự tùy tiện và không làm mất sự trung thành của bản gốc. Thi ca và tác phẩm âm nhạc mang chất Âu châu, nếu được bảo tồn trong hình thức truyền khẩu truyền thống như vậy, có thể sẽ tồn tại hàng trăm năm và tinh thần của tác phẩm không hề bị thay đổi.
Bản anh hùng ca Homeros được trình diễn ở Hi Lạp là như vậy; hoặc trường ca Nibelung và Edda cũng thế. Sự trung thành không biểu hiện ra bên ngoài như hình thức theo chữ cái ngày nay nhiều khi hoàn toàn đánh mất tinh thần bên trong của văn bản. Trong thời kì xưa người ta gìn giữ sự trung thành đích thực, và vì vậy tên tuổi của các nghệ nhân xưa lớn hơn nhiều, bởi tính chất đích thực của các buổi biểu diễn của họ.
https://thuviensach.vn
Về tính chất của cội nguồn như ngày nay con người cá nhân thề thốt, rất có thể xưa kia chưa từng mang ý nghĩa gì. Mỗi tác phẩm của truyền thống cổ khi rơi vào thư viện Alexandria có thể giống như việc người Hi Lạp cổ xây một cái nhà thờ, sau đó người Cơ đốc giáo làm lễ rửa tội trong đó, và hôm nay nhà thờ này của người Hồi giáo. Các tôn giáo thay đổi, nhưng cái nhà thờ vẫn còn lại đúng như vậy. Ngôn từ, cách diễn đạt, tên gọi đã thay đổi nhưng tinh thần cơ bản vẫn còn nguyên.
Trong đại đa số những tác phẩm mang tên Hermes Trismegistos đều có thể nhận ra tinh thần cổ tự do của nó. Và tinh thần cổ ngự trị trong thời Alexandria Hi Lạp không hề bị bóp méo, ví dụ: sự thống trị của đạo Phật trong các văn bản của Tử thư Tây Tạng hoặc trong cuốn T’ai I Csin Hua Cung Csih của Trung Quốc.
2.
Tính chất đáng tin cậy của các tác phẩm dịch Hi Lạp dựa trên ba khía cạnh: thứ nhất là các tượng trưng siêu hình học, thứ hai là tên của các vị thần linh, và thứ ba liên quan đến các huyền thoại.
Các tượng trưng siêu hình học được giữ gìn trong các từ ngữ. Nhưng các từ ngữ này không phải là những từ ngữ hằng ngày. Trong các văn bản Hermes Trismegistos người ta gọi từ mang tính chất tượng trưng siêu hình học là logo. Logo nghĩa là sức mạnh, ý nghĩa, tác dụng của tinh thần được tuyên bố, thậm chí trong số nhiều, các logo mang ý nghĩa như những lời kinh (sutra) của tiếng Sancrit.
Mọi liên hệ logos trong tất cả các trường hợp đều mang tính chất phổ quát. Nhiều nơi logos thường trùng với ý nghĩa của từ “buddhi” (Phật tính tiếng Sancrit) Sancrit và “csisti” (sự tỉnh táo) của Iran; trong những trường hợp này logo có nghĩa là sự tỉnh táo trực giác hay sự tỉnh
https://thuviensach.vn
táo tâm linh. Bí ẩn của logo: trước những kẻ chưa nhập định không được phép trình bày các sự vật.
Nếu để kẻ chưa nhập định tiếp cận, xuất hiện sự thay đổi huyền bí của logo; tác dụng và sức mạnh của logo suy giảm và biến mất. Không hiếm trường hợp, ý nghĩa đích thực của logo bị hiểu ngược hẳn nhất là khi kẻ muốn sử dụng logo chỉ vì lợi ích cá nhân. Đặc tính của logo không chỉ vô tác dụng trong tay kẻ vô đạo, mà: nếu kẻ vô đạo muốn sử dụng logo một cách vô luật lời tuyên bố có thể mang đến những sự nguy hiểm không lường trước cho kẻ đó bởi một sức mạnh siêu việt đã linh thiêng hóa.
Vì vậy một trong những mục đích của sự nhập định là người thầy dạy cho học trò các bí ẩn của logo. Không được phép phát ngôn bất cứ gì từ nhu cầu lợi ích ích kỉ; kẻ nào sử dụng dễ dãi những từ ngữ của Thượng Đế, kẻ đó đùa giỡn với sự sống của nó, từ ngữ sẽ chống lại nó. Người thầy dẫn nhập kẻ học vào vương quốc linh thiêng của logo - thần ngôn.
Theo quan điểm siêu hình học, nơi nào có logo, chính xác nơi đó xuất hiện huyền thoại. Lời tuyên bố đầu tiên ở tất cả mọi trường hợp đều mang tính chất siêu hình học. Cái logo tuyên bố chính là sự tượng trưng của cái vô hình và vô ngôn. Cái huyền thoại tuyên bố, cũng vô ngôn nhưng đã hữu hình.
Theo Veda con người nhận ra tượng trưng siêu hình học bằng trực giác tâm linh và tâm bồ đề, và nhận ra hình ảnh huyền thoại bằng manas. Manas là sự nhạy cảm bên trong, sự nhạy cảm với các hình ảnh cổ của linh hồn. Nói theo diễn dịch của Gúenon: sens interne. Logo và huyền thoại cùng nhận ra điều này, nhưng bằng giác quan khác: con người nhận ra logo bằng khả năng siêu nhân phổ quát, nhận ra huyền thoại bằng khả năng mang tính chất tập thể. Logo và huyền thoại cùng nói lên một điều: một cách vô ngôn và khôn tả.
Khía cạnh thứ hai đáng tin cậy của các tác phẩm Hi Lạp liên quan đến tên của các thần linh. Các thần linh - nếu điều này lại trêu tức
https://thuviensach.vn
người ta lần nữa - như các công thức đại số, không thể định nghĩa nổi. Các thần linh không phải là các nhân vật cố định có hình thù rõ ràng. Trực giác tâm linh và sự nhạy cảm bên trong (manas) cùng một lúc nhìn thấy những đường nét và đặc tính mới hơn, và tìm ra những khuôn mặt và tên gọi cho những thứ này. Theurgia như một hoạt động tạo dựng.
Con người nhạy cảm với cái nhìn trực giác sẽ nhìn sự vật một cách bí ẩn (theurgikus). Sự bí ẩn này như một hoạt động tạo dựng trái ngược hẳn với tư duy khoa học ngày nay-thứ chỉ tạo ra các hình thức trừu tượng.
Khía cạnh thứ ba đáng tin cậy của các tác phẩm Hi Lạp là sự nhận thức bằng những hình ảnh huyền bí. Các thi phẩm lớn của Dante, Heros, Vergilius, Shakespeare đầy rẫy những hình ảnh (được gọi là) thiền định mà bất cứ chỗ nào cũng có thể trích dẫn, và là tác động thực chất của tác phẩm.
Điều bí mật của những hình ảnh này: chỉ dẫn tới những biến đổi, những quá trình bên trong (được gọi là) sự thanh tẩy, sự ngộ ra, và bằng những điều này nâng đời sống con người lên cao. Ý nghĩa của những hình ảnh này là sự đánh thức. Biến con người thành kẻ tỉnh táo. Và cái gì sống trong các thi phẩm, trong một mức độ nhất định cũng sống trong huyền thoại. Nội dung của huyền thoại là hình ảnh đánh thức, là hình ảnh cổ, hình ảnh thiền định. Tác dụng của các hình ảnh này phổ quát và mang tính tập thể; không một ai có thể rời bỏ nổi tác động của những hình ảnh này.
Tính chất đáng tin cậy của các đối thoại Hermes Trismegistos phụ thuộc vào những điều sau: có hay không những tượng trưng siêu hình học bên trong nó? Dồi dào hay ít ỏi những quan điểm mang tính chất phổ quát của sự sống siêu việt và sau cùng, có hay không những hình ảnh thiền định huyền bí bên trong?
Cả ba đặc tính này ngay lập tức có thể nhân ra trong các đối thoại Hermes Trismegistos. Có thể thấy các dịch giả đã cứu vớt toàn bộ
https://thuviensach.vn
những gì quan trọng trong các tác phẩm khi dịch chúng từ ngôn ngữ Ai Cập cổ sang các ngôn ngữ đã Hi Lạp hóa.
3.
Sự nhập định luôn dẫn nhập vào một huyền bí nào đấy, nhưng ngay bản thân sự nhập định đã mang tính chất huyền bí. Trong thời cổ, khi sự nhập định còn là một tổ chức, và nhân loại là tổ chức quan trọng nhất của nó, sự nhập định diễn ra theo luật, giữa những điều kiện nghiêm khắc bên ngoài. Thiếu sự nhập định không thể đạt tới các vị trí giáo chủ, vua hay thượng nghị sĩ, thậm chí để trở thành linh mục, quân nhân, quan tòa, hay thầy thuốc, nhân viên hành chính cũng không thể.
Ngoài những nhập định đẳng cấp thông thường để một thanh niên gia nhập vào hoạt động xã hội người đó còn cần trở thành một sinh linh tỉnh táo và biết dự phần vào một đời sống tinh thần cao hơn.
Việc học tập này độc lập hoàn toàn với trường học. Trường học chỉ đem lại kiến thức mang tính chất vật chất và số lượng; còn sự nhập định mang đến các mức độ tinh thần và sự tỉnh táo. Kinh Veda gọi sự học tập ở trường là vidnya, còn mức độ tinh thần và sự tỉnh táo là vidja. Sự phân biệt này ở Iran, Trung Quốc, Tây Tạng cũng giống hệt như ở Ai Cập, ở Mĩ với các tín đồ Orphikus và Pythagoras.
Ngày nay sự nhập định đã hoàn toàn biến mất, chỉ còn lại sự học tập ở trường học một cách không mấy lành mạnh. Bởi vì ngày nay con người chỉ tham dự vào vidnya (kiến thức, số lượng nhận thức) còn mức độ tinh thần và sự tỉnh táo thì không biết đến, nên sự nhập định không còn chạm đến họ một cách trực tiếp nữa.
https://thuviensach.vn
Điểm xuất phát là: các giác quan ràng buộc con người vào thế giới vật chất, nhưng kinh nghiệm và xúc cảm về hiện thực của con người không có. Con người chỉ có đời sống; còn sự sống của nó ẩn hiện trong bóng tối. Ai một lần trong đời cũng sẽ đạt đến ngưỡng chót của đời sống, một lúc nào đấy hoặc trong giây phút hấp hối, kẻ tỉnh táo sẽ đạt tới sớm hơn kẻ mê muội, nhưng con người đều sẽ phải mở mắt ra một lần trước hiên thực đích thực.
Cái chết và sự nhập định là một hiện tượng liên quan với nhau. Bởi nhập định vừa là cái chết vừa là sự sinh ra. Chết trong thế giới vật chất và sinh ra trong thế giới tinh thần. Cái chết cắt đứt thô bạo đời sống, làm tan vỡ mối quan hệ có vẻ cần thiết với thiên nhiên vật chất. Sự nhập định cũng đúng như vậy: cắt đứt sự liên tục của đời sống bằng một can thiệp nhân tạo, và làm cản trở hướng của các giác quan hướng về thiên nhiên.
Nhập định cần phải như thế vì con người cần nhập vào sự sống thông qua phần bị cắt đứt bằng can thiệp nhân tạo. Nói bằng ngôn ngữ ngày nay: sự nhập định cắt đứt mối quan hệ với thiên nhiên bằng phương pháp do người thầy chỉ dẫn, và ở vị trí bị cắt đứt này người thầy sẽ dẫn dắt, đưa tinh thần của sự sống siêu nhiên vào linh hồn người. Quá trình này mang tính chất Hi Lạp hóa, và có thể nguồn gốc của nó bắt nguồn từ truyền thống Orphikus-Pythagoras cổ, mang tên: metanoia. Có nghĩa là sự chuyển hóa.
Sự nhập định có họ hàng với cái chết, và cùng lúc cũng là sự sinh ra. Một số truyền thống gọi nó là sự tái sinh. Đôi khi sự tái sinh xảy ra không cần sự nhập định, khi con người từ trực giác tâm linh tỉnh táo tự dẫn dắt mình chuẩn bị, một cách đạo đức, một cách cần thiết cả về mặt tinh thần lẫn linh hồn. Nhưng metanoia - sự chuyển hóa này chỉ xảy ra từng phần, và như vậy không hoàn thiện. Trong thời cổ các ông thầy thường chuẩn bị toàn diện cho những người trẻ tuổi nhập định một cách phù hợp nhất.
https://thuviensach.vn
4.
Sự nhập định thường cần đi kèm với những điều kiện bên ngoài cần thiết.
Bắt đầu từ giây phút Brahmacsárin - người học trò trẻ của Brahma - xuất hiện ở cửa phòng ông thầy với cây đuốc trong tay, cần phải tiến hành đầy đủ các bước dài của nghi lễ. Ngày nay người ta giải thích một cách tượng trưng những chi tiết nghi lễ này. Họ nhầm. Thực chất như sau: quá trình diễn ra bên trong người học trò và trong thế giới tinh thần và vật chất tự nhiên có sự phù hợp quan trọng.
“Cái gì có ở trên phù hợp đúng như vậy với cái có ở dưới - Hermes Trismegistos tuyên bố trong cuốn Tabula Smaragdina - cái ở dưới cũng phù hợp đúng như vậy với cái có ở trên”.
Trong thiên nhiên mọi điều xảy ra đúng như trong tinh thần và trong linh hồn. Sự phù hợp của con người thiên nhiên trong các sự kiện tinh thần chính là các nghi lễ. Đây là sự phù hợp mà ngày nay người ta không hiểu hoặc cho là phép thuật.
Các mức độ thức tỉnh của học trò cũng cần phải thể hiện ra hình thức bên ngoài: bằng trang phục, bằng màu của trang phục, cách may cắt, bằng đồ vật trang trí trên đầu, bằng sự lựa chọn các cử chỉ, và chọn lựa thực phẩm.
Sau khi đã thử thách những người học trò Ai Cập bằng những bài thi cuối cùng khó nhất, trưởng lão đãi một bữa ăn chung. Bữa ăn này gọi là süntrophion, là nghi lễ thực phẩm thống nhất của những lính canh của tinh thần thần linh Toth hợp nhất trong và nhờ thực phẩm.
Vết tích của bữa ăn này ở thành Roma gọi là caenaromana. Đây là bữa ăn tối hợp nhất với thần linh. Bởi vì: cái gì ở dưới cũng giống như cái ở trên. Trong thế giới tinh thần sự hợp nhất diễn ra cùng lúc với bữa ăn tối hợp nhất, và việc cùng ăn là ý nghĩa của nghi lễ, không là gì khác.
https://thuviensach.vn
5.
Truyền thống cổ không dạy những gì chưa từng ai nghe thấy bao giờ, những gì hoàn toàn mới, đặc thù, đặc biệt và vì thế cần nhiều thời gian và sự cố gắng.
Tư tưởng của truyền thống là những tư tưởng tuyệt đối và vĩnh cửu, là những điều tất cả mọi người đều biết và hiểu một cách trực tiếp, là những điều ai cũng nhận ra. Phần quan trọng nhất không thể so sánh với bất cứ gì của truyền thống chính là sruti, lời tuyên bố, xuất hiện, ra đời cùng thế gian. Nó không hề xuất hiện như thể một người ở một nơi nào đấy viết ra toàn bộ và tiếp tục truyền bá.
Lời tuyên bố trong Tạo Hóa chính là sự sống, là gốc gác, là mục đích, là sự sáng sủa tỉnh táo của ý nghĩa, của hiện thực. Khi thế gian xuất hiện, cùng lúc xuất hiện cả tri thức về nguồn gốc, sự sống, mục đích, ý nghĩa, hiện thực của thế gian, là cái trong tinh thần của Tạo Hóa cùng thời với tạo hóa và cùng với sự tỉnh táo, sự sáng sủa. Khi trong linh hồn tạo hóa cùng lúc xuất hiện mục đích, ý nghĩa, dạng hình, hiện thực và những quá trình, nhận thức chợt lóe lên, trí nhớ tỉnh táo hình thành, và đây là đặc thù từ thuở đó cho tới nay của linh hồn. Linh hồn gìn giữ các tư tưởng. Bởi Linh hồn là tạo hóa, là Sinh Linh tạo nên thế gian.
Truyền thống gọi tư tưởng đầu tiên có liên quan đến tạo vật đầu tiên là Lời Tuyên Bố, là ý nghĩa cổ, mục đích cổ của sự vật, là sự bí ẩn của tạo hóa, là những quy luật của đời sống thế gian. Gọi là lời tuyên bố bởi vì những tư tưởng này xuất hiện cùng sự mở ra của sự sống trong buổi ban mai của thời gian: chúng cùng lúc mở ra cùng tạo hóa và biến thành sự tỉnh táo trong linh hồn.
Linh hồn đều nhớ ra tất cả những kí ức này. Huyền học Hi Lạp gọi kí ức này là anamnesis: những kí ức cổ của con người nhớ ra một cách siêu việt những sự vật tuyệt đối của sự sống. Khi con người sống trong
https://thuviensach.vn
thiên nhiên vật chất, bằng sự giúp đỡ của kí ức cổ (anamnesis) nhận ra những sự vật tuyệt đối, là cái mà thời cổ người ta thường nói đấy là sự tiếp nhận lời tuyên bố.
Nghe thấy và gắn bó với lời tuyên bố không phải là cái gì kì lạ đối với những khát vọng mơ hồ nào đó. Biết về nó và hiểu về nó không đòi hỏi con người phải đi thu thập, học hỏi từ đâu. Linh hồn mang trong bản thân điều này, tùy theo cá tính. Chỉ cần thức tỉnh. Sự dạy dỗ của lời tuyên bố là kiến thức tổng quát nhất và trực tiếp nhất, là thứ tất cả mọi người không cần nghe duy nhất một từ, cũng hiểu.
Nghe thấy, gắn bó, nhận thức, hiểu ra lời tuyên bố - cần hai bước: con người cần nâng mình lên đến mức hiểu được logo-siêu hình học, và cần tỉnh táo.
Cần phải được nâng lên mức độ logo, bởi lời tuyên bố chỉ có thể hiểu và nắm được bằng logo; Logo tạo ra thế gian, và ai muốn hiểu bí ẩn của tạo hóa, người đó cần phải biết rằng: logo - thứ tạo dựng thế gian, bản thân nó chính là lời tuyên bố.
Thứ tạo dựng thế gian, thứ đó là ý nghĩa, là sự sáng sủa, là ý chí, là bản năng; là tư tưởng, ý tưởng, ý muốn, là kinh tế, là lửa, sức mạnh, quyền lực, giới hạn, hình ảnh, kiến thức, tình yêu thương, sự phù hộ, chính là logo. Bởi vậy cần nâng lên mức độ logo.
Cùng lúc đó cần phải giữ vững sự tỉnh táo. Bởi vì lời tuyên bố không thể do một linh hồn vật vờ lĩnh hội.
“Lời tuyên bố chỉ có thể nghe thấy - Böhme nói - như một âm thanh bên trong, và chỉ con người tỉnh táo mới trải qua”. Lời tuyên bố là những tư tưởng tuyệt đối và vĩnh cửu, mà con người ai cũng nhớ ra, là những tư tưởng tất cả mọi người ngay từ đầu đều đã biết, không cần lời giải thích, là những ấn tượng cổ: trạng thái bắt đầu của sự sống, là tạo hóa, mục đích của thế gian và đời sống, là những quy luật sự sống.
Truyền thống Ai Cập nói, Hermes Trismegistos là người ở mức độ tỉnh táo đến mức đã nếm trải qua ấn tượng “lời tuyên bố nghe thấy như
https://thuviensach.vn
một âm thanh bên trong”. Tri thức của Hermes được “ghi lại trong bầu khí quyển eter” - ghi lại trong tinh thần của con người. Lời tuyên bố ở Ấn Độ được bảy đạo sĩ tiếp nhận. Ở Trung Quốc do Hoàng Đế. Ở Mexico do Kecalkoat, Rắn Bút, ông thầy của nhân loại.
Sự bắt đầu của tạo hóa, của sự sống, ý nghĩa, mục đích và định luật của nó con người biết từ lúc mới sinh ra, và trong tri thức từ thuở khai thiên lập địa con người mang theo mình có cả sự nhập định.
Rằng cái gì là sự nhập định, không cần phải dạy dỗ, giống như cái gì là sự sống, là đời sống, cái gì là ý nghĩa và mục đích của tất cả. Trong tận cùng sâu thẳm của linh hồn chứa đựng tri thức về sự nhập định, rằng sinh ra trong sự sáng sủa của thiên nhiên chưa đủ - ý nghĩa và mục đích đích thực của đời sống trần thế là ở đây, trong số phận này, trong cái TÔI này, trong không gian, thời gian này, cần phải sinh ra lần nữa trong cộng đồng, cần phải sinh ra lần thứ hai từ sự sáng sủa vật chất đi vào sự sáng sủa chói lọi cao hơn.
Sự nhập định cũng chính là một ấn tượng cổ, như sự sống, như linh hồn, số phận, hiện thực. Trong nhân loại cổ sự nhập định quan trọng nhất, là một hành động có ý nghĩa quyết định toàn bộ đời sống. Kẻ nào chưa trải qua điều này, kẻ đó chỉ sinh ra một lần. Thực thể đó không thể coi trọng nổi: nó là người anh em thiu thiu ngủ trong đờ đẫn vật chất, như súc vật hoặc cây cỏ.
Nhân loại thực thụ sinh ra hai lần (dvidzsa) và cộng đồng đích thực là cộng đồng của những con người đó. Của những kẻ đã nhập định, những kẻ đã thức tỉnh và trở thành một phần trong lời tuyên bố. Lời của những kẻ này, logo của những kẻ này nằm trong sự thống trị, trong luật lệ, trong sáng tạo; như kinh Veda nói: trong sự thêu dệt tiếp nối đời sống. Những kẻ này là sự thức tỉnh Veda, là những con người chân chính.
https://thuviensach.vn
6.
Với câu hỏi, các quá trình hình thức của sự nhập định là gì, cần trả lời như sau:
- Quá trình đầu tiên là những hoạt động say mê cho mục đích vật chất nhất thời trong một đời sống vô trách nhiệm và bị mê ngủ; - Quá trình thứ hai bắt đầu khi con người đôi khi chậm rãi, đôi khi đột nhiên tỉnh thức khi nhận ra nếu đời sống con người cứ tiếp tục vô trách nhiệm và đờ đẫn, sẽ rơi vào vô nghĩa, vào cái không có gì; nhận thức này thường bất thình lình và rúng động;
- Quá trình thứ ba là sự khủng hoảng; con người vẫn bằng toàn bộ thực thể của mình bám chặt lấy thế gian vật chất, nhưng phân vân và bơ vơ đi về phía các giá trị vĩnh cửu và tận cùng; nó từ từ thấy những hiện thực sâu sắc hơn đời sống vật chất, nó thức tỉnh, đời sống của nó mở rộng ra; sự thức tỉnh và mở ra đôi khi chỉ diễn ra trong vài khoảnh khắc, và người ta gọi khoảnh khắc đó là sự ngộ ra;
- Quá trình thứ tư là cuộc chiến dài lâu và khó khăn, để con người từ bản thân mình quên đi đời sống vật chất hữu hạn và trở nên rắn rỏi dần trong sự sống;
- Quá trình thứ năm là sự trầm tĩnh dần dần tới khi con người thấy sự giải thoát khỏi những điều kiện thiên nhiên vật chất một cách hoàn toàn là không tưởng; con người thánh thiện hóa những nỗ lực và mọi khả năng của mình hướng về sự cứu vớt bản thân bằng sự phục vụ nhân loại phổ quát.
Khi hiểu ra các quá trình hình thức trong phác họa cơ bản này không ai giấu được sự ngạc nhiên, rằng các quá trình này trong hình
https://thuviensach.vn
dạng khác, nhưng gần như trong cùng một ý nghĩa, và thực ra là lời chỉ dẫn đến các quá trình cổ, mà họ đã gặp không biết bao nhiêu lần. Bởi vì điều này, người ta thường nhìn thấy trên sân khấu, nghe thấy trong âm nhạc, đọc thấy từ một truyền thuyết hoặc từ một tiểu thuyết. Đây là điều nói về các nhịp điệu đơn giản hóa về mặt hình học của sự sống: đây là các hình thức cơ bản, các công thức cơ bản. Đây là hình dạng tuyệt đối không thể đơn giản hóa thêm được nữa. Vậy đây là hình dạng gì vậy? Một cuộc sống vô tư, vô trách nhiệm, vô giới hạn - sự khủng hoảng rúng động - sự thức tỉnh bất ngờ về cái cao hơn, vượt quá đời sống, và sự cố gắng chậm rãi từ từ vươn lên một sự sống cao hơn.
Đây là một công thức cơ bản, mà các kết cấu bi kịch dựa trên đó, là kết cấu của âm nhạc, của tiểu thuyết và thi ca, là các kết cấu của hội họa, điêu khắc, triết học: khởi nguồn từ nền tảng của thiên nhiên - sắc nét dần - đạt đến điểm điển hình - trải qua trạng thái ngộ ra (catharsis) và cân bằng lại trong sự sáng sủa.
Tất cả mọi sáng tạo rơi ra từ tay con người và mang nội dung tinh thần đều giữ gìn những nhịp điệu này: những nhịp điệu nhập định - bởi vậy tất cả những gì rơi khỏi tay con người đều một lần nữa nói lên một ấn tượng cổ của sự nhập định. Mọi hình ảnh cổ của lời tuyên ngôn tinh thần của con người đều xảy ra trên cơ sở ấn tượng cổ của sự nhập định, và chỉ có thể diễn ra như vậy mà thôi.
Mọi sáng tạo của con người đều chứa đựng một đời sống dấn thân vào sự khủng hoảng, thanh lọc bằng sự khủng hoảng, và sau rốt trấn tĩnh lại. Mọi sáng tạo văn học, nghệ thuật, triết học đều là bản sao nhạt nhòa của sự nhập định - kể cả những sáng tạo đáng tin tưởng nhất, ngay trong bản thân nó cũng giữ gìn, duy trì, và thể hiện những mệnh lệnh của sự rúng động và thanh lọc bằng cách truyền bá ấn tượng tương tự nảy sinh từ con người.
Và tác phẩm càng mang tính chất quyết định và có ý nghĩa, càng thể hiện rõ nét ấn tượng cổ của sự nhập định càng giống với sự nhập
https://thuviensach.vn
định đích thực. Tác phẩm dưới tác động trực tiếp của sự nhập định như vậy thường là các vở bi kịch và các tác phẩm âm nhạc lớn. Bi kịch của Nietzsche được cho là bắt nguồn từ âm nhạc. Rất có thể đúng như vậy.
Nhưng cả hai thứ đều xuất phát từ tính chất huyền bí của sự nhập định: một đội ngũ các hình ảnh tượng trưng dẫn dắt linh hồn con người bí ẩn của sự giải nghĩa các hình ảnh tượng trưng, không phải về Oidipus, về Antigone, về Philoktetes, về Aias, mà về linh hồn người. Linh hồn là thứ mang số phận người sống trên trái đất và linh hồn nhận lấy số phận này để thức tỉnh.
Linh hồn trên điểm đỉnh của số phận rơi vào sự khủng hoảng và cần phải thanh lọc, tẩy rửa: cần phải thức tỉnh. Bi kịch là một sự mô tả linh hồn anh hùng - tés heroikhes tükhes episztasis - âm nhạc cũng không khác. Và cả hai cùng lúc nói lên một cách tượng trưng quá trình nhận thức ra ánh sáng và trạng thái từng trải tỉnh táo mà sự nhập định dạy dỗ.
https://thuviensach.vn
II. Bình luận
1.
Nhan đề của Chương XIII trong cuốn Corpus Hermeticum: “Bài giảng trên Núi Thần bí”. Người ta gọi là bài giảng trên Núi, cho dù chẳng có núi nào ở đây, truyền thống thường biểu hiện sự nhập định của người học trò bằng hình ảnh tượng trưng gắn với Núi Thiêng “Epi tes tou orous metabaseos”.
Núi ở Hi Lạp là Olimpiek, ở phương đông là Sinai, Tabor, ở Iran là Albodj, ở Ấn Độ là Meru. Người ta thường gọi là Núi Thiêng của châu Âu, của Tây tạng, của da đỏ châu Mĩ.
Hai nhân vật của cuộc đối thoại: Toth và Hermes. Kẻ trước là học trò, người sau là thầy. Hermes là nhân vật đã Hi Lạp hóa của một cái tên Ai Cập cổ. Về nhân vật này chỉ cần ghi nhớ dường như thời cổ người ta hay cho rằng Hermes xuất thân từ dân tộc Seth. Là con trai thứ ba của Seth Adam và Eva, là nhánh thứ ba của nhân loại đầu tiên.
Cain là con người trần thế, là sinh linh thức tỉnh từ bên dưới đi lên, giống như sau này phái Ngộ đạo dạy: là nhà thờ thoái hóa. Nhà thờ (ekklésia) không được hiểu như một đám đông mà như một cộng đồng tâm linh đã được chọn lựa.
Những cách gọi lâu đời này gần như không có ngoại lệ, trong mọi trường hợp đều nói đến các hiện sinh tâm linh, ví dụ: politheia không có nghĩa là nhà nước, mà theo ngôn ngữ ngày nay: là tâm lí tập thể (kollektiv psyche).
https://thuviensach.vn
Cain là hình ảnh tượng trưng của tâm linh bị hư hỏng của con người thế gian, con người vật chất mà làn khói, làn hơi thở mang tính chất nạn nhân hướng xuống lòng đất. Abel là con người từ trên cao đi xuống, là hình ảnh tượng trưng của nhà thờ trời. Tội ác giết người của Cain trong các thời gian cổ chỉ ra sự kiện phạm pháp của nhân loại nguyên thủy, khi con người vật chất đã chiến thắng người trời.
Seth, con trai thứ ba không đến từ trên cao hay từ lòng đất mà là một con người thật sự, không phải quỷ, cũng không phải thiên thần mà là con người, một thực thể bậc trung, hình ảnh tượng trưng của nhân loại. Trong Seth, dù vật chất cai trị, nhưng kí ức về những huyền bí lớn mang theo từ thế giới tinh thần vẫn còn sống động. Thế hệ của Seth không chất chứa những đặc tính Thần của Abel, nhưng cũng không mang nỗi đam mê máu-thịt tăm tối và thèm khát, tính chất vật chất hóa nặng nề của Cain.
Các thế hệ của Seth quay trở lại với thế giới của Adam Kadmon - những người thầy và những kẻ đi thức tỉnh của nhân loại. Các nhà tiên tri, các nhà lập pháp, các giáo chủ, các trưởng tộc. Đại diện nổi bật nhất của thế hệ Seth là Henoch, nhà tiên tri khải huyền.
Thế hệ của Seth là thế hệ lãnh đạo trên con đường Ánh Sáng “Trên con đường này bản thân dạy dỗ không quan trọng, mà là sự chuyển đổi bên trong không thể lường trước, thức tỉnh do sự dạy dỗ”. Seth một mình mang theo tri thức “Bằng hành động, hiện thực, hình ảnh tượng trưng không đếm xuể quay trở về MỘT, và bằng tri thức này cảm nhận nổi con người đánh mất gì, nếu sống ngoài MỘT”.
Không được phép hiểu những cái tên Cain, Abel, Seth như các cá nhân, con người lịch sử cá nhân càng không được phép. Những cái tên giống như ngôn từ, không ngoại lệ, đều để đánh dấu các hiện sinh huyền bí.
Manu ở người Hindu, Buddha, Bodhisattva, Tulku ở Ấn Độ và Tây Tạng, Zarathustra ở Iran, Toth và Hermes ở Hi Lạp đều từng là các hiện sinh huyền bí, không phải là cái Tôi lịch sử. Con người lịch sử đã
https://thuviensach.vn
nhân cách hóa các hiện sinh này. Các hiện sinh này nhập thể vào con người. Nhập thể của Cain, Abel, Seth không có nghĩa là các cái Tôi cá nhân hóa của những đứa con của Adam và Eva tái sinh, mà có nghĩa là hiện sinh tinh thần cổ và vĩnh cửu một lần nữa mang hình dạng trần thế trong thực thể người.
Hermes, như một người thầy của truyền thống Ai Cập vô cùng cổ xưa, xuất thân từ các thế hệ của Seth, và sau nạn hồng thủy là kẻ đã cứu tri thức cổ trước tai họa vũ trụ, là người đầu tiên giảng dạy tri thức cổ này. Từ đó đến nay Hermes trở thành hình ảnh tượng trưng của hiện sinh huyền bí như Seth: là kẻ nhập định, kẻ tiếp tục truyền bá tri thức Hermes cổ, Hermes đã nhập thể.
Trong Lời Đối Thoại, Hermes đã dẫn dắt học trò Toth lên núi Thiêng nhập định, cốt lõi của lời dạy dỗ: sự tái sinh.
Lời Đối Thoại là cấp độ duy nhất của sự nhận định. Trước quá trình quyết định này, là những bàn luận về sự cần thiết phải đắm chìm vào suy tư, sự trong sạch của đạo đức, và sau cùng người học trò cần đưa mắt nhìn vào thế giới bên trong của mình.
Đây là bước chuyển hóa (metanoia). Thực ra việc tự đánh giá nỗi suy tư chìm đắm, kỉ luật đạo đức ngặt nghèo không có. Tất cả chỉ tạo ra khả năng đưa con người bước qua, đi qua metathésis, chuyển đổi từ thế giới vật chất sang thế giới tinh thần.
Sự giác ngộ phụ thuộc vào sự trong sạch của các tầng chăn bao phủ thực thể người: cần nhìn thấu suốt bến mê và ảo ảnh. Cần sống trong sạch về mặt đạo đức vì thế. Porphürios nói: Thần không xuất hiện chừng nào linh hồn chưa trong sạch, hay chừng nào con người tự mình chưa xua đuổi ma quỷ đi.
Sự tiếp nhận đạo đức trong sạch, trinh nguyên, lối sống khổ hạnh khiến mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên vật chất không còn căng thẳng, và để con người nhạy cảm hơn với những kinh nghiệm siêu nhiên. Mục đích: cần sự nhạy cảm. Bởi vậy Thánh Phao-lô trong Lá thư gửi những người Do Thái đã viết: hãy gắn chặt với niềm tin.
https://thuviensach.vn
Ngày nay người ta sử dụng nhầm lẫn một cách cơ bản từ “niềm tin”, làm đảo lộn đến tận cùng toàn bộ các tôn giáo từ hàng thế kỉ nay. Niềm tin không phải một hoạt động tri thức hay cảm xúc hoặc bất kì một hoạt động tinh thần hay linh hồn nào của con người: mà niềm tin là kinh nghiệm siêu nhiên và là sự nhạy cảm siêu nhiên.
“Niềm tin không đối chọi với tri thức - theo thánh Saint-Martin - niềm tin là một cử chỉ phép thuật, không phải là tri thức”. Niềm tin là một tâm trạng siêu nhiên, là sự nhạy cảm, sự cởi mở và khả năng siêu nhiên giúp con người hiểu biết thêm về những thế giới siêu vật chất. Bởi vậy từ Hi Lạp pisztisz - niềm tin - không dở nhưng cũng không diễn tả được điều này.
Thánh Phao-lô từng dạy dỗ về một niềm tin mang lại phúc lạc, có liên quan đến tâm trạng siêu nhiên, không kêu gọi sự mù quáng. Niềm tin là một kinh nghiệm cao cả hơn tạo khả năng cho con người chuyển hóa, biến động, tạo ra một bước ngoặt lớn.
Bởi vậy Thánh Saint-Martin cho rằng niềm tin là phép thuật. Là bước chuyển trong tín đồ, từng bị cất giấu nhưng mang tính chất quyết định, bởi vì: “Kẻ được niềm tin chỉ đường đi phía Thượng Đế, kẻ đó cần thay đổi hoàn toàn đến tận từng tế bào vật lí”.
2.
Bước ngoặt lớn của sự nhập định: quay vào bên trong. Trí thức của sự chuẩn bị này: ấn tượng về MỘT. Kẻ học trò cần hiểu về MỘT như một hiện thực bất biến, không thể đổi thay, vĩnh cửu, không bao giờ mất đi.
Những câu lập luận về bản chất vĩnh cửu bất biến của MỘT có thể bắt gặp trong các chương của kinh Veda nói về Atman, trong Kinh Dịch
https://thuviensach.vn
nói về dương, trong Đạo Đức Kinh nói về đạo, trong kinh Kabbala nói về một hay về alef.
Khi ấn tượng về MỘT tương đối mạnh, một tia sáng mờ nhạt bắt đầu le lói trong tinh thần kẻ học trò rằng, thiên hình vạn trạng của cảm giác nhìn bằng mắt trần là một ảo thuật thật sự. Hiện thực chỉ có: MỘT. Trong giây phút ấy nó kêu lên: “con nhìn thấy toàn bộ, con nhìn thấy bản thân trong cái vĩnh cửu”. Lúc đó Hermes lên tiếng: “Con trai ta, đấy là sự hồi sinh”.
Sự nhập định không bắt đầu bằng lập luận này, cũng như không kết thúc bằng điều đó. Bước ngoặt lớn nhất của quá trình quay vào trong là ngưỡng quyết định. Nhưng đây không phải ngưỡng đầu tiên và cũng không phải là cuối cùng.
Thực ra giờ đây sự sống mới bắt đầu. Là “Niềm tin”. Sự nhạy cảm siêu nhiên giờ đây thức tỉnh. Kẻ học trò giờ đây mới phá tung đời sống bị khóa kín và bước vào sự sống mở.
Bước đầu tiên của kĩ thuật phép mầu nhập định là kẻ học trò hướng toàn bộ sự chú ý của nó đến một điểm nằm bên ngoài thế gian (extramundális). Có nghĩa là: nếu tri thức con người dưới tác động của sự tập trung và kỉ luật có chủ ý ngày càng tăng, trong một khoảnh khắc nó sẽ đứt rời khỏi hiện thực giác quan, và cần phải có một cái gì đó cho nó bám lấy.
Cần tới một điểm ngoài thế gian bởi vì chỉ những gì thật sự nằm ngoài thế giới giác quan mới gắn bó với con người. “Chỉ cái gì hoàn toàn khác biệt với cái Tôi mới có thể giải phóng và giải phóng nổi con người”. Ý nghĩa của khoảnh khắc này bất tử, mang tính bản chất, quyết định, và sâu sắc đối với toàn bộ số phận con người.
Bởi trong con người tri thức giải thoát này không phải một tri thức từ trước tới nay xa lạ chưa từng biết đến, mà là “một tri thức được ghi trong bầu khí quyển eter”, một tri thức đã xác định mà Hermes Trismegistos đã “viết vào bầu khí quyển eter”.
https://thuviensach.vn
Linh hồn trong tri thức này nhận ra cội nguồn và hiện thực đích thực của bản chất mình. Nó thức tỉnh rằng: “Con người chỉ là bản sao, bản gốc chính là: Thượng Đế”. Đây là tri thức thiêng liêng, là khoa học thiêng liêng. Đây là sự bắt đầu và kết thúc, là thực chất, là ý nghĩa của mọi sự nhập định.
Đây là điều ở Ấn Độ người ta gọi là adhjátma-vidja.
Manu nói: “Kẻ nào không biết tri thức này, nó trống rỗng trong mọi hành động và tư tưởng… Chỉ kẻ nào biết tri thức này, kẻ đó có thể chỉ huy có hiệu quả quân đội, có thể kết án một cách quang minh, có thể cai trị một cách anh minh”.
Trong giây phút hiện tại chỉ có ngần này thứ cần còn lại: là kỉ luật tự thân, sự từ bỏ, chay tịnh, thực hành khổ hạnh, lời cầu nguyện, thiền định và các hoạt động chuẩn bị sự nhập định, là những thứ những kẻ theo thuật giả kim gọi là lửa; tiếng Sancrit gọi là tapas, ngọn lửa tự phủ nhận bản thân.
Cuộc sống khổ hạnh không là gì khác ngoài sự thức tỉnh của nguyên tố lửa vũ trụ. Lửa “tạo lập” các sự vật trong vũ trụ, lửa của Herakleitos và Jakob Böhme, hay đúng hơn, chính là logos - nguyên tố tạo dựng các thế gian.
Trong bản thân kẻ khổ hạnh ngọn lửa cháy bùng lên và bắt đầu tiêu hóa nó. Trong quá trình này nó hướng toàn bộ sức lực của mình vào một điểm độc lập với thế gian. Điểm này là hình ảnh cổ ban đầu (elemental).
Hình ảnh cổ này là nước của Thales, là apeiron của Anaximandros, là con số của Pythagoras, là trung của Khổng tử, là đạo của Lão tử. Lịch sử triết học gọi những hình ảnh cổ, điểm ngoài thế gian là lí thuyết cơ bản. Thực ra, không có lí thuyết cơ bản nào ở đây. Các hình ảnh cổ không phải là lí thuyết mà là các ý nghĩa.
Và các ý nghĩa không đứng riêng tách rời: “Mọi ý nghĩa giữ trong bản thân nó cái toàn bộ khác” (Saint-Martin). Những hình ảnh cổ ban đầu là các logos, hay như người Hindu gọi: mahavakja, những ngôn từ
https://thuviensach.vn
lớn của sự thông thái, các nguyên tử tạo hóa, hieroi logoi, như nhóm Pythagoras khẳng định. Là tư tưởng: “Lửa Thiêng”.
Không phải là những lí thuyết bởi chúng không tách rời nhau, không mang đặc tính độc lập và riêng biệt. Ý nghĩa của chúng chỉ cùng có trong “sự toàn hảo của sự vật” (pléroma), bởi sự toàn hảo của sự vật là ở nơi tất cả các ý tưởng của thế gian, nguyên tượng của tất cả vũ trụ tinh thần (intelligibilis kozmos) cùng tồn tại.
3.
Lửa khổ hạnh và sự tập trung vào một điểm ngoài thế gian dần dần tước linh hồn con người khỏi thế giới cảm giác. Bước ngoặt lớn, khi đạt đến một mức độ lỏng lẻo nào đấy, linh hồn bắt đầu đứt đoạn khỏi thiên nhiên vật chất.
Trong giây phút đó linh hồn cảm thấy thế gian vật chất mà nó tưởng là hiện thực duy nhất, nứt toác ra dưới chân. Đây là khoảnh khắc đầu tiên và khó khăn nhất của sự nhập định: trạng thái chân không. Linh hồn bị tước ra khỏi thế giới vật chất, bước ra khỏi thế giới giác quan. Ý thức không biết bấu víu vào đâu. Kinh nghiệm bên ngoài đứng lại. Đây là khoảnh khắc của sự đứt đoạn ý thức.
Giờ đây, khi sự liên tục của ý thức bị đứt, bên trong con người nhắc nhở tới một cái gì sơ khai hơn ý thức. Ở châu Âu người ta phân tích quá trình này một cách sai lầm, cần phải sửa lại điều này. Người ta cho rằng tựa như ở đây con người rơi vào một thế giới vô thức - mọi giá phải “vô thức”.
Sai lầm ở chỗ, đối diện với ý thức người ta chỉ nhắc đến cơ cấu gương của ý thức là vô thức. Ý thức là một bộ phận nằm trong thế giới vật chất. Nhưng phần lớn vô thức cũng như vậy. Vô thức là cái Tôi nằm
https://thuviensach.vn
dưới ý thức. Đây là cái Tôi samsara-luân hồi, là Kẻ Vật Vờ - chính là kẻ bằng cơ hội nhập định, người tu hành muốn thoát khỏi nó. Khi sự liên tục của ý thức đứt đoạn không chỉ cái Tôi vô thức, mà cả cái Tôi siêu ý thức cùng đột nhập. Bên ngoài ý thức có một cái gì đó cao hơn và có một cái gì đó thấp hơn. Một cách dễ dãi có thể gọi những cái này là những cái Tôi. Cần gọi những thứ nằm dưới cái Tôi có ý thức, thân xác, ban ngày, kinh nghiệm, cá nhân là cái Tôi vô thức, cái Tôi cộng đồng; đây là cái mà tâm lí học hiện đại nhận thức được. Còn thứ ngự trị trên cái Tôi cá nhân: cái Tôi vũ trụ; đây là điều tâm lí học hiện đại không nhận biết.
Cái mà tâm lí học hiện đại không nhận biết, lại là cái mà những người thầy cổ xưa rất biết: trong khoảnh khắc chân không, trong sự nhập định cần gọi tên cái Tôi vũ trụ chứ không phải cái Tôi vô thức.
Điểm ngoài thế gian (extramundális) cần thiết vì khi chân không mở ra trong con người và đất lở dưới chân nó, nó cần bám vào một điểm tuyệt đối nằm bên ngoài thế gian. Thiếu điểm bám này sự đứt đoạn của ý thức liên tục trở thành một nỗi nguy hiểm vô hình.
Bằng kĩ thuật phép thuật, người thầy thời cổ rất biết điều này; người thầy biết một phương pháp có thể đánh thức được cái Tôi bên trong, cái Tôi siêu việt, cái Tôi mang tính chất Thần, pratjagatma, cái Tôi Thượng Đế. Nếu cái Tôi vô thức đột nhập trước, phần lớn đây sẽ là trường hợp “tử vong” của con người.
Nếu cái Tôi siêu ý thức đột nhập: đây là sự tái sinh. Nhưng cái Tôi siêu ý thức là tinh thần chủ quan. Bởi điều mà sự nhập định hướng tới, là giải phóng linh hồn con người khỏi những ràng buộc khóa kín của thiên nhiên vật chất, thoát khỏi luân hồi, khỏi nhu cầu và mở ra cho nó một sự sống mở. Đây là kaivaljam, cái MỘT cổ đã hiện thực hóa, là sự tan hòa vào trạng thái thống nhất của vũ trụ.
Chỉ cái Tôi siêu ý thức có thể bước vào sự sống phổ quát. Đây là cái Tôi mang tinh thần vũ trụ, biết tất cả, tỉnh táo, giác ngộ - là THẦN. Đây là cái Tôi không dính mắc vào những hình ảnh vật chất tăm tối và
https://thuviensach.vn
vào sự lặp lại của các hình ảnh này, không dính mắc vào sự vật vờ như cái Tôi vô thức.
Tiếp theo, ta nói đến sự phân biệt của truyền thống Hindu: bhéda buddhi là sống trong và nhìn thấy thiên hình vạn trạng; adhéda-buddhi là vượt qua thiên hình vạn trạng để sống trong MỘT và nhìn thấy MỘT. Đây là hai dạng của trực giác tâm linh. Trước hết là Abhéda-buddhi. Tầm nhìn cổ. Hen panta einai - như Herakleitos nói.
Đây là tầm nhìn của kẻ đã nhập định, tầm nhìn của Thần, siêu việt, hiện thực, tuyệt đối, chân chính, vĩnh cửu, tỉnh táo, là tầm nhìn tâm linh. Tầm nhìn tuyệt đối tâm linh này tiếng Hi Lạp cổ gọi là theoria (nguyên lí). Đây là sự thông thái, là tầm nhìn trong sáng, tầm nhìn mang tính chất Thần. Con người nhìn thấy và đọc được những gì Hermes Trismegistos ghi trong bầu khí quyển eter. Đây là tava, là tầm nhìn sâu sắc-huyền bí, như người Tây Tạng nói.
Cái Tôi trên con đường tập trung tư tưởng hướng tới một điểm ngoài thế gian bay ra khỏi thiên nhiên vật chất và bình tĩnh đứng lại ở điểm nằm ngoài thế gian này. Từ đây, từ điểm này linh hồn soi rọi lại bản thân mình và thế gian. Nó được giải phóng. Tất cả mọi điều, cái xảy ra, xuất hiện, có, nó đều kiểm tra được. Nó có sự đo lường của mình. Có logo của mình - Bởi vì logo trong ngôn ngữ cổ Hi Lạp cũng có nghĩa là sự đo lường.
Nó đứng ngoài thế gian và không bao giờ cần quan tâm đến thế gian nữa. Nó có quan điểm độc lập, có sự đo lường chắc chắn. Đấy là là trung, là logo, là nước, là apeiron. Linh hồn tước bỏ thiên nhiên vật chất từ bản thân nó và nâng bản thân nó lên cao hơn từ vật chất.
4.
https://thuviensach.vn
Không chỉ lập luận của Hermes Trismegistos, mà tất cả các văn bản truyền thống, khi nói về con người và xướng danh từ con người, không bao giờ, chưa một lần từng nhắc đến cái Tôi cá nhân. Con người luôn là con người, và không phải con người chung chung, tất cả mọi người, mà là con người phổ quát, homo aeternus, kẻ mà cái Tôi cá nhân chỉ là một sự xuất hiện phần nào của nó, đúng như cách thức xuất hiện nhân loại của các thời kì lịch sử, là nhiều dân tộc, nhiều chủng tộc, nhiều quốc gia.
Không được phép quên nhân tố này. Từ con người không mang nghĩa nói chung và không ngoại lệ cho tất cả mọi người, mà chỉ nói đến con người vĩnh cửu. Nhân chủng học thời cổ không nói về con người chỉ sống trong một thời gian lịch sử nhất định (dzsiva), mà là con người vĩnh cửu, homo aternus, luôn tồn tại.
Ghi nhớ thứ hai cũng không kém phần quan trọng. Quay vào trong không có nghĩa là trái ngược với hướng quay ra ngoài. Hình ảnh nói về một điểm nằm ngoài thế gian sẽ giải thích rõ điều này hơn. Linh hồn quay lưng lại với thế giới giác quan: từ lúc ấy nó bắt đầu nhìn xa hơn - giống hệt sự hiểu biết khiến nhận thức nhìn cao hơn sự vật và có thể nhận ra mối liên hệ của chúng - đúng như cách thức của trực giác lập tức thấy các mối liên hệ hiện ra nhanh như ánh chớp lóe.
Từ đây linh hồn bắt đầu nhìn thấy từ dưới, từ bên trên và nhìn vào trong. Bởi vì cái Tôi siêu nhân, CON NGƯỜI vĩnh cửu, linh hồn bất tử, cái Tôi mang tính chất Thần không ở bên trong, mà có ở cả bên trong, bên ngoài, bên trên. Đây là hạt nhân, là thực thể bí ẩn. Cái bên trong không phải kết cấu gương của cái bên ngoài mà là một thế gian trên cả mọi giác quan và thiên nhiên.
Nếu giờ đây một người bằng bước chuyển đổi của linh hồn bắt đầu phát hiện trong bản thân mình con người vĩnh cửu, con người vũ trụ và bắt đầu hiện thực hóa nó trong bản thân, ý thức vũ trụ trong nó chợt thức tỉnh. Ý thức này không nằm ở dưới hoặc ở trên ý thức, mà là ở “con người-thần”, là khả năng ẩn náu của “con người thượng đẳng”.
https://thuviensach.vn
Sự thức tỉnh của ý thức không chỉ về nhận thức, mà còn cả về hành vi, ý tưởng, thần tượng, bản năng, sự trong sạch. Ý thức vũ trụ nâng mức sống người lên đúng như cách thức nó bứt con người ra khỏi thiên nhiên vật chất và chuyển đổi vào sự sống mở. Con người vật chất tự trị trong thiên nhiên, con người cá nhân trong đời sống; sau sự nhập định con người trong thế giới tinh thần là theocentrikus; đây là theonom, con người vĩnh cửu.
Như vậy con người tiến đến gần một bước chuyển lớn mà những văn bản của Hermes đặt tên là müstérion mega. Mức độ thứ nhất của nhập định là học tập; mức độ thứ hai là: tầm nhìn, tầm nhìn của con người vĩnh cửu; mức độ thứ ba: sự quan tâm. Cái tôi cá nhân và con người vĩnh cửu tan hòa làm một.
Sau trạng thái rúng động tiêu cực chân không là -pleroma - ấn tượng tích cực của toàn hảo sự sống. Và chỉ trong kẻ ý thức vũ trụ tồn tại tỉnh táo mới đạt đến nơi đây, nơi số phận được giải quyết và giải thể - lüsis tes heimarmenes. Đây là kết quả lớn lao của sự nhập định.
Kẻ học trò sau bước đầu tiên cần lựa chọn giữa con đường của những đê mê trần thế (pravritti-marga) và con đường thiêng (nivritti marga). Nó chọn con đường thiêng. Cần từ bỏ các khoái lạc. Cái Tôi trần thế cần đốt cháy trong lửa khổ hạnh, trong tapas, trong sự chối bỏ bản thân. Giờ đây con đường thiêng đã mở. Số phận dính mắc với thiên nhiên vật chất đã tan rời ra khỏi nó.
Ấn tượng này nhanh tới mức biến thành một quá trình diễn tiếp sau đó. Đây là sự tái sinh. Đây là müstérion mega, là điều lớn lao nhất của mọi huyền bí. Là sự bắt đầu cuộc đời của con người tinh thần. Đây là sự rúng động Platon từng nhắc đến, rằng đấy là sự bắt đầu của triết học: bởi vì từ thaumadzein có nghĩa là một sự thức tỉnh rúng động, không phải như khoa học thời hiện đại tin rằng, đấy đơn giản chỉ là một sự “đáng ngạc nhiên”.
Trước kẻ nhập định bỗng nhiên mở ra một cộng đồng người phổ quát mới, vượt lên trên cộng đồng vật chất tự nhiên hỗn loạn hời hợt từ
https://thuviensach.vn
ngôn ngữ, từ giống loài, từ dân tộc. Truyền thống Hermes đặt tên cho cộng đồng mới “gặp gỡ trong tinh thần của Thần” là giống loài logo. Những con người của giống loài logo này là những Toth, những Hermes, những Bodhisattva, và Tulk-hậu duệ của Seth.
Đối với họ nền tảng cộng đồng không phải là nòi giống, ngôn ngữ, dân tộc, quốc gia, huyết thống mà còn sâu sắc và nhất thiết hơn thế: ngay từ ban đầu họ đã cùng với nhau trong tinh thần của Thượng Đế, được buộc vào nhau bằng những sợi vĩnh cửu, được linh thiêng hóa trong huyền bí của logo.
Những cộng đồng người tan vỡ không chỉ trong cái chết mà trong cả thời gian. Đấy là những cộng đồng hữu hạn, không phải những sự thống nhất thật sự, chỉ là những bản sao không hoàn hảo của MỘT.
Cộng đồng lớn, cộng đồng của giống loài logo: là thể thống nhất trong tinh thần vĩnh cửu. Đây là sự tuyệt đối, là hiện thực, là sự bất tử không bao giờ có thể giải thể, là: ekklesia.
5.
Sau đây là những lời giải thích có liên quan đến các phần như: cái tên Trismegistos có liên quan đến nhân vật Hermes đầu tiên, kẻ đã cứu tri thức cổ có trước nạn hồng thủy và lần đầu tiên giảng dạy nó cho nhân loại sau nạn hồng thủy như thế nào. Nhưng, đồng thời Trismegistos cũng nói về mức độ nhập định, và là một trong những mức độ nhập định cao nhất.
Thiên nhiên nguyên sơ (primer) - “thứ vật chất vượt quá các giác quan” là thiên nhiên chưa bị vật chất hóa. Còn cách gọi: Con của Thượng Đế rất có thể bắt nguồn từ gnostikus (phái Ngộ đạo). Ở phương Đông đấy là Con trai của Trời, thường được gọi là con trai của Vũ trụ.
https://thuviensach.vn
“Sự dạy dỗ của loài giống này không có, nhưng nếu nó muốn, có thể làm nhớ lại kí ức của Thần” - đây đang nói về loài giống logo - Không thể giảng dạy logo. Nhập định, không phải sự dạy dỗ. Cái con người có thể học được chỉ là kiến thức vật chất, tiếng Sancrit gọi là vidnya, tiếng Tây Tạng gọi là rtogspa. Nhập định là sự thức tỉnh; sự tỉnh táo tiếng Sancrit là vidja, tiếng Tây Tạng là rtogpas.
Tri thức có thể chắt lọc từ sách, có thể sở hữu hóa cạnh bàn học. Còn sự tỉnh táo chỉ có thể thu thập được bằng sự giúp đỡ của người thầy - Hermes, guru - trên con đường của những quá trình khổ hạnh khó khăn và nguy hiểm.
“Tôi biến thành một cơ thể không bao giờ có thể chết”. Cơ thể bất tử này ở Ai Cập người ta gọi là sáhu. Theo kinh Kabbala trong cơ thể con người giữa xương sống có một đốt xương nhỏ bất tử, đây là mầm của cơ thể bất tử, cơ thể lúc phục sinh hồi sinh từ đây.
“Mơ khi ngủ nhưng không có giấc mộng” chỉ dẫn đến trạng thái cao hơn của ý thức. Đây là cái mà sau này nhiều lần người ta gọi là ekstázis. Con người giống như đang ngủ, bởi vì đối với thế gian vật chất nó đã bị mất, nhưng nó không mơ ngủ, mà: thấy.
Smriti (kí ức) trong kinh Veda có ba guna: tamas, radzsasz và szattva, thực ra là ba mức độ của nhập định. Khi con người chìm vào vật chất tối tăm đậm đặc tamas ngự trị nó; khi lửa trong nó tắt, radzsasz mê muội cháy; khi con người bước qua những cấp độ cao nhất của tâm linh, lúc đó nó ở trạng thái szattva.
Các mức độ của phái Pythagoras: trước tiên là sự chuẩn bị - tinh thần hóa tư duy; bước thứ hai thanh lọc - đây là kỉ luật đạo đức, tapas, khổ hạnh; bước thứ ba sự hoàn hảo - đây đã là mức độ tâm linh; bước thứ tư theophania - hiện thực hóa các sức mạnh của Thần: sự hoàn thành.
Quá trình quay vào trong được giải nghĩa như sau: những nỗ lực cá nhân, danh vọng cá nhân, nếu biểu hiện trong học tập, trong sáng tạo, trong hành động, luôn chỉ ở mức độ con người vật chất, cùng lắm
https://thuviensach.vn
là đi trước, vượt lên một số người. Các nghệ sĩ, những kẻ cai trị nhà nước, các nhà tư tưởng thể hiện hoạt động của mình, và bằng điều này bỏ lại sau lưng những kẻ khác, như vậy người ta thường bảo, họ vượt lên trước thời đại của mình. Nhưng những thế hệ tiếp theo bao giờ cũng đuổi kịp họ. Tại sao? Bởi những hoạt động mang tính chất cá nhân (individuális) không bao giờ có thể nâng cao lên quá mức độ vật chất và lịch sử.
Quá trình quay vào trong, nói đúng hơn: hướng quay về phía thế giới siêu nhiên không song song, mà vuông góc với con đường lịch sử. Đây là nỗ lực mang tính vũ trụ, phổ quát, có nghĩa là sự nâng cao lên theo chiều dọc. Những con người của giống loài logo là các thực thể siêu lịch sử, những kẻ từ thời gian đột phá theo chiều dọc và sống trong sự thống nhất của thế giới siêu nhiên. Đây là ekklesia.
Hình ảnh mười hai đao phủ của Corpus Hermeticum (mười hai chướng ngại của sự nhập định là: sự vô thức, sự tuyệt vọng, sự vô độ, dục vọng, bất công, tham sắc, lừa dối, ghen tị, giả dối, giận giữ, vội vã, độc ác) giới thiệu sự hoạt động phức tạp và khó khăn bên trong của quá trình nhập định.
Tính chất cá nhân không mang ý nghĩa gì khác ngoài ý nghĩa sau đây: con người cần nhiều thời gian, cần nhiều đến mức thời gian không bao giờ đủ, luôn hết “trước thời hạn” của nó. Sự nhập định kéo dài thời gian, cho linh hồn thấy nó vĩnh cửu và bất tử. Từ khoảnh khắc nhận thức được điều này linh hồn thôi chết ngạt trong sự vội vã tuyệt vọng để đạt đến chính bản thân mình. Nó không bao giờ rơi vào trạng thái khủng khiếp vội vã ở một vị trí nữa. Nó biết rằng nó không chậm trễ và không thể chậm trễ.
Số Mười Hai không là gì khác ngoài hình ảnh tượng trưng của đời sống tồn tại trong thế gian vật chất: Zodiakus (hoàng đạo). Còn số Mười là thế giới siêu nhiên: ở Iran có mười amsaspand, ở Judea có mười sefiroth; hệ thống con số của Pythagoras là mười.
https://thuviensach.vn
Ở Ai Cập Mười là hình ảnh tượng trưng của cái toàn bộ. Số Mười Hai và Mười liên quan đến nhau như thế gian (thiên nhiên vật chất) và tinh thần (abszolutum). Ở đây là vấn đề huyền bí học của cầu phương hình tròn.
6.
Poimandres - mục đồng của Con người - là một luận điểm có ý nghĩa nhất của truyền thống Hermes. Ta cần giải thích cặn kẽ phần XXI. Trong văn bản Hermes này nói về các bậc sinh thành trong mối quan hệ với sự tái sinh.
Trong thời cổ, quan điểm nhân chủng học mang ý nghĩa phổ quát. Ý nghĩa của điều này diễn đạt bằng ngôn ngữ ngày nay: chỉ coi thực thể bị rơi vào u mê là cái Tôi cá nhân. Kẻ nào mang trong mình chút ít sự tỉnh táo le lói, kẻ đó đã có thể hiểu chút ít về các phạm trù phổ quát, như một lời tuyên bố nào đấy của tinh thần vĩnh cửu.
Cái Tôi cá nhân không phải là lời tuyên bố của bất kì tinh thần nào, bất kì logo nào, bất kì hiện thực cổ nào mà chỉ là hiện tượng luân hồi (samsara) chỉ là một kẻ vật vờ trong sự hỗn loạn của thế gian thiên hình vạn trạng. Cần tước bỏ cái Tôi cá nhân, biến nó thành phổ quát để con người trở thành thực thể tinh thần.
Đẳng cấp thời cổ không là gì khác ngoài các lĩnh vực của tinh thần vĩnh cửu. Sự nhập định vào đẳng cấp ý thức hóa điều này trong các thành viên của các đẳng cấp. Đẳng cấp tinh thần-giáo chủ, đẳng cấp chiến binh-cai trị, đẳng cấp kinh tế từng đã có sự nhập định riêng của mình nhưng tất cả đều dự phần vào sự nhập định phổ quát - ở Ấn Độ trong lời dạy dỗ của kinh Veda, ở Judea trong sự dạy dỗ của Kinh Thánh và kinh Kabbala, ở Ai Cập trong sự nhập định Hermes.
https://thuviensach.vn
Tại Hi Lạp cổ, Orpheus và Pythagoras từng thí nghiệm phổ thông hóa một quá trình nhập định lớn thời cổ. Các nguyên lí triết học đầu tiên chính là tiếng vang vọng của nỗ lực này, mà Platon là triết gia cuối cùng của nó; nhưng Platon không hiểu rõ mình muốn gì, thậm chí cần và muốn cái gì?
Cần phân biệt sự nhập định trong đẳng cấp, trong nghề nghiệp, trong điều hành công việc khác với cái được đặt tên là Seth, là giống loài logo, là Hermes, là Tulku, là Bodhiszattva. Đây là sự thức tỉnh của chủ thể tâm linh. Chủ thể tâm linh cần một quan hệ mật thiết hoàn toàn với một chủ thể tâm linh khác.
Trong thời cổ cũng chưa từng có lời tuyên bố mang tính chất cá nhân. Tất cả hiện tượng tinh thần đều mang tính phổ quát, nghĩa là trong sự thống nhất siêu nhiên, chủ thể tâm linh cần gặp gỡ với một chủ thể khác, sự phổ quát mang ý nghĩa như vậy.
Kẻ học trò không coi thầy, không sống cùng và kinh nghiệm về thầy như với một cái Tôi cá thể, mà như với guru, một người lãnh đạo, Hermes, như với một lời tuyên bố tuyệt đối của tinh thần phổ quát. Còn Hermes, người lãnh đạo không là người dạy dỗ mà - điều này rất quan trọng: là người cha sinh thành - là người trưng bản chất chân chính của học trò ra thế gian.
Sự truyền bá kiến thức cho học trò của Socrates mang một khía cạnh ánh sáng hoàn toàn khác biệt. Socrates là nhân vật đã nhập định, một Hermes, người đã giúp học trò mở rộng linh hồn của họ tuy ông hoàn toàn không có ý thức về điều này. Quả khá là đặc biệt. Nhưng nếu ai quan tâm tới các văn bản truyền thống người đó cần phải làm quen với một thứ ngôn ngữ nhanh, nhạy cảm hơn ngôn ngữ ngày nay rất nhiều.
Ở Ấn Độ, Iran, Tây Tạng guru là cha-mẹ. Người học trò khi bước qua ngưỡng cửa lớn nhất của tâm linh: họ chết đi và tái sinh. Chết đi, có nghĩa là bước ra khỏi hàng ngũ thiên nhiên. Cha không bao giờ còn
https://thuviensach.vn
là cha, mẹ không bao giờ còn là mẹ, bởi vì nó không bao giờ còn là thực thể, là đứa con của cha-mẹ thiên nhiên nữa.
Cha của nó giờ đây là guru, là người lãnh đạo tinh thần. Là Hermes. Mẹ của nó trong các huyền bí tâm linh khác là Sophia. Bởi vậy khi tái sinh nếu là con trai của Sophia: sinh ra từ Trinh Nữ. Nếu là con trai của Isis: sinh ra từ Thánh Mẫu.
Mức độ Isis trong các hàng nhập định là một trong những mức độ cao nhất. Phù hợp với điểm này ở Hi Lạp cổ có mức độ Demeter Eleusis. Ở Ấn Độ có mẹ Maja hoặc Sakti. Ở Tây Tạng có nữ thần bảo trợ của các nhà khổ hạnh. Linh hồn đã nhập định sẽ là con gái của Thánh Mẫu Magna Mater - từ Hi Lạp gọi là: Perszephone.
Là con gái bởi vì trong thời trung cổ muộn mằn sau này, người ta gọi linh hồn là cô dâu: là kẻ đợi chờ và khao khát, là người yêu của chú rể trời. Đây là những hình ảnh cực kì sống động nảy sinh trực tiếp từ ấn tượng của sự nhập định.
Khi người học trò tái sinh từ đấng sinh thành Trời và tinh thần, nó nhận lấy một tên mới. Ý nghĩa của việc đặt tên đặc biệt lớn. Bởi vì đặt tên cho một người nghĩa là đặt lên nó một quyền lực. Việc xướng danh mang ý nghĩa đánh thức. Tôi gọi tên một người, tôi đánh thức người ấy và người tôi đặt tên, người ấy là của tôi. “Tôi ngự bên trên nó bởi cái tên”.
Sự lựa chọn tên ở các vị vua chúa và các giáo phái không hề tùy tiện. Lí do bởi tên con người có mối quan hệ với tinh thần vũ trụ, từ bỏ cái Tôi cá nhân và mong muốn gánh vác, tiếp tục đại diện và gìn giữ tinh thần phổ quát trong cái tên. Bởi vậy các giáo phái thường lấy những tên các thánh. Bởi vậy vua chúa thường lấy tên những kẻ trị vì trước đó, vì muốn cai trị tiếp trong tinh thần của họ.
Kẻ nhập định thẩm thấu cái Tôi cá nhân, cải hóa, nâng lên và thay đổi cái Tôi cá nhân. Truyền thống gọi kẻ chưa nhập định là con trai của đàn bà, gọi kẻ đã nhập định là con của Thượng Đế hoặc con của Trời.
https://thuviensach.vn
Trái ngược với sự sinh ra tự nhiên người ta gọi tái sinh cũng là sự sinh ra từ Thượng Đế. Theo Thánh Phao-lô tái sinh là sự khác biệt giữa con người thiên nhiên và người Trời. Sự tái sinh thực ra chính là sự ra đời: ousiodes genesis. Thánh Phao-lô tuyên bố: “Ta nói cho các ngươi biết, kẻ không sinh ra từ bên trên kẻ đó sẽ không nhìn thấy vương quốc của Thượng Đế”.
Điều này mang lại ánh sáng mới cho văn bản Hermes. Truyền thống Hermes, tri thức của các thế hệ Seth là nhận thức về sự bí ẩn khi con người sinh ra từ bên trên. Lời đối thoại trên Núi huyền bí cũng dạy như vậy.
https://thuviensach.vn
III. Bảy nhà thông thái
1.
Văn bản nói về Con Đường Của Sự Thống Trị có nguồn gốc từ Alexandria, nhưng thực ra bắt nguồn từ truyền thống Ai Cập cổ - He basilike hodos - phù hợp với yoga-radzsa ở Ấn Độ, cho rằng, con người trước tiên được sinh ra từ cha mẹ hữu hạn, trong thể xác vật chất nặng nề, trong số phận trần thế. Nhưng lần thứ hai nó được sinh ra duy nhất từ người Cha, theo luật lệ của Bảy Trinh Nữ trong tinh thần và trong linh hồn. Đây là sự tái sinh.
Con Đường Của Sự Thống Trị, hay yoga-radzsa nói về sự thống trị, chứ không nói về quyền lực. Việc sử dụng từ basiles, hay từ radzsa ở đây, như trong truyền thống cổ, không ngoại lệ, trong mọi trường hợp chỉ là hình ảnh tượng trưng, không liên quan đến cái Tôi cá nhân mà đến con người vĩnh cửu, như mọi truyền thống tuyên bố. Vua là linh hồn mang tính chất vua chúa đầu tiên, là linh hồn đầu tiên mà Tạo hóa tạo ra, để thống trị thiên nhiên. Trong trạng thái cổ của linh hồn người, Adam Kadmon là vị chúa của thiên nhiên, mang tri thức Thượng Đế.
Cần tách rời hoạt động tinh thần thống trị ra khỏi thực hành chính trị của quyền lực. Quyền lực không là gì khác, ngoài một sự điều hành nhằm hãm phanh đám đông trong thế gian, bằng sức mạnh của luật pháp, bằng vũ khí, bằng bạo lực, một cách có thể, như một sự cưỡng bức, là mệnh lệnh của ananké.
Quyền lực là hành động vật chất dữ tợn không mang cả ý nghĩa lẫn sự thật trong bản thân nó. Bởi vậy cần linh thiêng hóa quyền lực
https://thuviensach.vn
trong tinh thần của sự thống trị. Vì nếu không được linh thiêng hóa, quyền lực vô nghĩa, độc ác, bất công và phi tinh thần. Thống trị là sự chứng thực quyền lực: bởi vì thống trị giữ gìn sự ủy thác cao hơn dành cho thực hành của hành động.
Quyền lực và sự thống trị trong thời kì lịch sử nằm trong thiên nhiên vật chất, vì vậy không tương hòa với cộng đồng con người: đây là sự khủng hoảng không bao giờ giải quyết nổi của chính quyền và sự thống trị, là một vết thương vô phương cứu chữa.
Khi văn bản nói về nhà vua, về basiles, radzsa của sự nhập định, cần hiểu là nói về nhà vua của sự thống trị chứ không nói về sự biểu hiện cũng như nhân vật nhân cách hóa của quyền lực trần thế. Nói về tinh thần của vua chúa. Tinh thần của vua chúa không mang gốc rễ vật chất.
Con người ban đầu sinh ra từ các bậc sinh thành hữu hạn: đây là con người thiên nhiên; khi con người tái sinh, chỉ sinh ra từ người Cha theo luật của Bảy Trinh Nữ. Sự sinh ra mang tính vật chất cùng lắm mang lại quyền lực cho con người, nhưng tính chất vua chúa đích thực: không ngự trị trên quốc gia và dân tộc, mà vượt lên trên cả thiên nhiên và thế gian.
Đây là điều trước hết cần phải hiểu. Giờ đây có thể bàn về khái niệm bí ẩn Bảy Trinh Nữ.
Số bảy là con số trinh nguyên. Con số của Athene Parthenos, Athene Trinh nữ là số bảy. Là bảy nữ thần của Erekhtheion ở Akropolis. Con số của Sophia theo phái Ngộ đạo cũng là bảy. Tên Palestine của Sophia là Hohma và con số của nàng cũng là bảy. Athene, Sophia, Hohma, Trinh nữ Thế gian - Tore Kosmou - không sinh ra từ mẹ. Sự ra đời theo định luật Bảy không ra đời từ mẹ; Pallas Athene vọt ra từ đầu cha, thần Zeus. Nữ thần được phôi thai từ tư tưởng, và bước vào thế gian như tư tưởng.
Một chương trong kinh Kabbala có nói đến ý nghĩa tâm linh của cái đựng nến bảy chân. Mỗi ngọn nến cắm trên đó tượng trưng cho một
https://thuviensach.vn
cái Tôi của con người. Ngọn nến đầu tiên bên phải là thân xác vật chất nặng nề; ngọn nến thứ hai (được gọi là) thân xác thần kinh; ngọn nến thứ ba là nguyên tố cổ có trong thân xác, sự vô thức. Từ bên trái, ngọn nến đầu tiên là thân xác khí, ngọn nến thứ hai là linh hồn, ngọn nến thứ ba là tinh thần. Ở giữa, đứng giữa hai nhóm ba là cái Tôi Thượng Đế, tia lửa của Thần, Ngọn lửa bất tử.
Theo kinh Kabbala: sáu cái Tôi ai cũng có. Nhưng cái thứ bảy, tia lửa của Thượng Đế bất tử không phải trong ai cũng cháy. Tia lửa này chỉ lập lòe, tận trong sâu thẳm con người, chỉ leo lét trong linh hồn (điểm linh quang). Theo thứ tự sự nhập định sẽ tước đi từng cái Tôi của con người và khêu gợi tia lửa từ sâu thẳm linh hồn người biến thành ngọn lửa.
Con số Bảy giải phóng ngọn lửa nhỏ từ bản chất của Tạo hóa. Đấy là ngọn nến thứ bảy đứng giữa, hình ảnh tượng trưng bản chất chân chính của con người. Khi con người sinh ra từ luật lệ thứ bảy, ngọn nến thứ bảy sẽ được khêu cháy.
2.
Bảy vị thông thái của Hi Lạp cổ, từ cổ csiradzsivi của Iran, từ sapta risi của Hindu, trong truyền thống có nhiều nhóm Bảy thông thái quen thuộc mà hình ảnh tượng trưng của nó trên trời là bảy ngôi sao và bảy hành tinh của chòm Bắc Đẩu, mang ý nghĩa bảy chốn ở của các nhân vật không tồn tại trong thời lịch sử.
Bảy vị thông thái là chức vị con người của một ai đấy đạt được khi sức lực, ánh sáng, bản chất linh thiêng của thực thể người ấy đã nâng cao, vượt hơn hẳn mức độ của người thường, là kẻ đã bùng cháy trong nó ngọn nến thứ bảy. Đấy là thực thể đã tái sinh theo định luật của bảy
https://thuviensach.vn
ngôi sao sâu thẳm nhất, rạng rỡ nhất của con người đã bùng cháy giữa những cái Tôi vật chất, thiên nhiên, khí và những cái Tôi khác. Bảy không có nghĩa là ngẫu nhiên có bảy vị thông thái tồn tại, không phải là con số tự tìm ra, bởi vì số bảy đối với kẻ chưa nhập định cũng chỉ là một cái gì đó, giống như ba và mười, mang ý nghĩa tượng trưng. Trong truyền thống Hi Lạp dưới cái tên bảy vị thông thái có mười-mười hai nhân vật cổ được biết đến. Theo truyền thống Ấn Độ từng có bảy tổ chức, như thượng nghị viện, trong hàng thế kỉ từng đứng trên cả các nhà nước và các quốc gia, như một hội đồng cao nhất, đấy là các Risi cứ mười hai năm một lần họp nhau lại và đưa ra các quyết định.
Gắn với bảy nhà thông thái trong thời cổ chỉ có nghĩa như sau: như đạt tới một mức độ nhập định cao nào đó. Ở Ấn Độ gắn với Hội đồng Thiêng là bảy mươi brahman ở một thời kì nào đó và thành viên hội đồng chỉ có thể là kẻ đã nhập định, kẻ đã phải trải qua một kì sát hạch gắt gao. Một văn bản ghi chép rằng, người ta chỉ chọn người đàn ông trên bảy mươi tuổi vào hội đồng, người trước tiên phải chứng minh được sức mạnh đàn ông của mình.
Nếu một đứa con sinh ra từ trinh nữ nhà thờ, người ta đặt nó vào một cái sọt và thả xuống sông và chú ý đến hướng trôi của cái sọt: nếu nước đẩy nó về phía nhà thờ, đứa trẻ sẽ nhận một sự giáo dục đặc biệt và nó được nhập định một cách bí mật nhất. Còn nếu cái sọt trôi sang bên kia bờ sông, đứa trẻ sẽ thành một kẻ trong đẳng cấp thấp (chandala). Ở Ai Cập câu chuyện về Mozes cũng chứng minh phong tục giống như vậy.
Trở thành một trong bảy nhà thông thái có nghĩa là đạt tới mức độ thứ bảy của sự nhập định. Đây là điều mà nhóm Pythagoras gọi là sự “hoàn thành bổn phận”. Đây là epiphania, sự hoàn thành bổn phận của các sức mạnh thần thánh.
Hoàn thành các sức mạnh thần thánh khi con người cố gắng thực hiện cái Tôi cá nhân trong các hoạt động sau: chịu khó suy tư, thực
https://thuviensach.vn
hành sự thiền định cùng lối sống khổ hạnh và nhập định, đấy là các hoạt động cùng đi vào lịch sử và sự sống nhân loại của con người. Bảy nhà thông thái là con người “vũ trụ”, con người tham dự vào sự sáng tạo thế gian, như kinh Veda nói “trong sự thêu dệt nên thế gian”. Những con người này đưa ra lời khuyên cho vua và nhà nước, như ở Ấn Độ, Iran, Judea, Ai Cập. Sáng tạo ra nhiều bộ luật cho các thành phố và các nhà nước mới, như ở Hi Lạp, ở Solo và Bias. Trong các trường hợp nhất định bên cạnh sự thống trị họ còn lĩnh lấy cả quyền lực, như Phereküdés.
Trường học của Pythagoras không là gì khác ngoài hoạt động nâng các học trò lên mức thứ bảy của sự nhập định: để thực hiện các khả năng con người phổ quát được giải tỏa trong các hành động: chữa bệnh, làm khoa học, hoạt động trong xã hội, trong thi ca, trong âm nhạc, trong tôn giáo và trong sự điều khiển nhà nước.
Trong thời kì Đại Hi Lạp những người theo nhóm Pythagoras muốn thiết lập ra một thượng nghị viện bảy nhà thông thái như thế, một hội đồng tinh thần phổ quát đứng trên cả các nhà nước, các dân tộc, các chủng loài, các tôn giáo, là một tổ chức (theo một ghi chép Do Thái) không bị lệ thuộc bởi bất kì ràng buộc trần thế nào, và như vậy có thể giải quyết các sự vụ của nhân loại một cách tự do và khách quan.
Theo dấu vết của Pythagoras, Platon cũng muốn đào tạo một loại người cai trị mang tính chất con người phổ quát: một nhà vua triết gia, kẻ không là ai khác ngoài là bảy vị thông thái thời cổ: là tinh thần và là cái đầu của nhân loại.
Ở Ai Cập kí hiệu của số bảy là cái đầu người. Trinh nữ Athene vọt ra từ đầu thần Zeus.
Mức độ nhập định mà thời cổ gọi là sự hoàn thành bổn phận của con người chỉ có thể hiểu như sau: bằng khả năng nhập định, sau sự sinh ra trong tri thức - noera genesis - linh hồn con người cuối cùng chuyển hóa thành sự tĩnh lặng và vĩnh cửu. Con người quay trở về với cội nguồn: với Tạo hóa. Từ bỏ đời sống vật chất, rút vào chờ đợi một
https://thuviensach.vn
cách bình thản, lặng lẽ, và khi thời gian của nó đến, nó trút bỏ thân xác vật chất nặng nề, để có thể giải thoát. Đây là sự cô độc bình yên kiên nhẫn, tránh xa những đông đúc hỗn loạn đầy nhu cầu - sự luân hồi và anake - tránh xa số phận chìm nổi của cá nhân và chung với nhân loại, đây là tiền sảng của trạng thái hạnh phúc đã tinh thần hóa.
Và khi một kẻ nào đó được gọi đi từ niềm hạnh phúc yên bình đơn độc, rồi được yêu cầu quay trở lại trần thế, điều này không thể so sánh khi nói về sự thực hành nghề nghiệp của một con người mệt mỏi đờ đẫn trong bản năng tăm tối của thiên nhiên vật chất, trong dục vọng cá nhân, trong đam mê rối loạn, trong sự bận rộn, trong các hạn chế, trong sự nghèo nàn tinh thần, trong những đám mây mờ ảo của linh hồn nông nổi và bẩn thỉu. Với một thực thể mang những tính chất như thế quyền lực mới quyến rũ và ngọt ngào làm sao. Bởi vì càng có quyền thế, càng có thể thỏa mãn nhiều hơn các đam mê, các bản năng, các dục vọng. Đây là con người đi từ dưới lên và chỉ đạt tới quyền lực.
Những kẻ đã nhập định đi từ trên xuống. Quyền lực không quyến rũ kẻ đã nhập định. Kẻ nào đã thắng được sự thống trị, với kẻ đó quyền lực là gánh nặng. Họ không vui lòng từ bỏ sự đơn độc yên bình. Họ không sẵn lòng quay trở lại một thế gian của sự hỗn loạn và các nhu cầu. Nhưng khi quay trở lại, họ gánh lấy quyền lực, bởi điều khiển nhân loại sống trong thiên nhiên vật chất chỉ có thể bằng sức mạnh của quyền lực, và họ hoàn thành sứ mệnh từ ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ hướng về nhân loại.
Sự thực hành quyền lực ở họ không là đam mê, không là giấc mộng và mục đích công danh, mà: là một nghĩa vụ mang tính chất nghi lễ. Truyền thống Hindu gọi là karma. Một dạng chuộc tội mang tính tôn giáo. Không với con người mà với Thượng Đế. Con người sau khi thoát khỏi số phận, một lần nữa nhận lấy số phận một cách có ý thức. Một cách thận trọng, từ xa, từ quan điểm kết án một cách thản nhiên và họ hành động. Không có sự thiên vị. Không có thái độ tốt-xấu cá nhân, dân tộc, giống loài.
https://thuviensach.vn
Lúc đó con người chỉ có một nỗ lực duy nhất: Đấng Hóa công sẽ làm gì trong vị trí này. Họ làm điều đó. Nếu dân chúng không hài lòng, hoặc họ nhún vai rồi bỏ đi, hoặc sẽ nói như sau: cần phải làm như thế, không có sự khoan nhượng, cần phải làm đến cùng. Tinh thần của những kẻ lập pháp thời cổ: Menes Ai Cập, Manu Hindu, Minos Kréta, Chamuragga Babilon, Hoàng đế Trung Quốc là như thế, như thể họ là các bóng ma đến từ bầu thiên hà, họ không nhìn thấy gì hết, không muốn thấy mà chỉ muốn sự thật.
Đấy là tinh thần của luật pháp - thứ không phải của nhân loại, không bị cắt rời, không mềm yếu. Mà còn cao hơn nữa. Nhà thông thái đã đi xa, nhưng nếu quay trở lại đời sống một lần nữa, tự gánh phần như một nạn nhân, nhưng cùng lúc, gánh chịu hậu quả một cách hoàn hảo, không bỏ sót, không sai lầm, giống như con người tuyệt đối: homo aeternus.
3.
Để hiểu tác phẩm vĩ đại của sự nhập định không gì bằng ví dụ về bảy nhà thông thái. Sự nhập định trong đời sống con người mang một ý nghĩa quyết định duy nhất. Nhập định là một tác phẩm lớn, kẻ theo thuật giả kim gọi là magnum opus, hoặc còn có tên là sự tạo dựng con người tinh thần, đây là một quá trình phức tạp bất tử, lâu dài, khó khăn và thượng đẳng. Các nỗ lực tương tự giống như sự nhập định, nhân loại thời lịch sử (hiện nay) chưa hề biết đến.
Bản chất thực sự của con người, nói theo ngôn ngữ của những kẻ giả kim, cần vứt vào lò để nung chảy: một cách cương quyết sống-chết, bằng những quyết định không rút lại - để-một lần nữa (vẫn bằng ngôn ngữ của thuật giả kim) - vàng sẽ chảy ra từ đó. Vàng không là gì khác ngoài là tia lửa bất tử, Ngọn Lửa thứ bảy, cái Tôi thần thánh. Chưa kể
https://thuviensach.vn
đến việc, công việc này duy trì hàng tháng hay hàng năm trời, mà cần từ bỏ, cần đặt bản thân hoàn toàn dưới sự dẫn dắt của người thầy nhập định, cần tách khỏi gia đình, cần duy trì liên tục sự mặc tưởng khổ ải và nguy hiểm, cần cố gắng hướng đến một mục đích duy nhất và chỉ được phép nhìn thấy một mục đích mà thôi.
Giống như trên mọi lĩnh vực của truyền thống, cần hiểu ý nghĩa tượng trưng của lời giải thích, và không thể tìm thấy trong một truyền thống duy nhất toàn bộ các hình ảnh tượng trưng. Ở Ấn Độ, Trung Quốc, Ai Cập, thậm chí ở Peru, Yucatan và Mexico thời cổ từng đã có đầy đủ một tri thức hoàn chỉnh về sự nhập định.
Nhưng kiến thức nói về các thần hộ mệnh trong truyền thống ở Ai Cập chắc chắn còn lại nhiều hơn so với các kiến thức phổ quát như một nền tảng dẫn nhập về thời cổ. Ngày nay, giống như nhiều điều khác, việc giảng dạy về truyền thống chỉ nằm ở hình thức bên ngoài. Muốn biết hình ảnh về một tổng thể toàn diện chỉ có thể thu thập các phần tố của sự thống nhất cổ từ nhiều dân tộc, nhiều tôn giáo. Nhưng luôn luôn có sự đe dọa là con người sẽ phân tích và hiểu một cách sai lầm về những phần tố nào đấy, hoặc làm méo mó hoặc giải nghĩa sai chệch chúng.
Nhưng có một sự việc này chắc chắn: dưới cái tên bảy nhà thông thái ẩn giấu bảy mức độ nhập định. Và bảy mức độ còn có nghĩa: linh hồn con người sống trong thiên nhiên vật chất xa rời linh hồn thần thánh bảy lần. Đây là cách cắt nghĩa về bảy cây nến Kabbala: buổi ban đầu Thượng Đế tạo ra linh hồn người, tạo ra tia lửa bất tử, cái Tôi vĩnh cửu. Tất cả những gì con người mang trên nó, chỉ là tấm chăn phủ của cái Tôi, hoặc là tia khúc xạ, là sự mờ mịt, là tính chất bị vật chất hóa của nó. Sau khi bước ra khỏi đời sống, những tấm chăn này tan ra, các tia chiếu tắt. Trong quá trình ngụp lặn ở thế giới bên kia từ các lớp vỏ rơi khỏi thực thể người, bởi tất cả đều hữu hạn: lúc đó chỉ cái Tôi vĩnh cửu quay trở lai với Tạo hóa.
Kẻ học trò đi trên con đường nhập định gần như cũng cần đi lên các bậc thang như linh hồn sau cái chết. Đây là tính chất nguy hiểm vô
https://thuviensach.vn
biên của sự nhập định, rằng con người chỉ có thể hồi sinh nếu trước đấy, cần chết đi. Cần phải bước qua ngưỡng cửa của cái chết, và cần phải chịu đựng sự chết.
Ở Ai Cập cái chết nghi lễ mang một ngoại hình đáng sợ. Sau sự chuẩn bị cần thiết người ta khóa người học trò vào nhà mồ và tác động một cách nhân tạo để người học trò trải qua việc bước qua ngưỡng, nghĩa là bước vào cái chết. Huyền bí Mithras và Eleusis là hình dạng mờ nhạt của sự nhập định cổ.
Tia sáng đầu tiên của tia lửa bất tử là tinh thần, tia sáng thứ hai là linh hồn. Tinh thần và linh hồn cùng tia lửa sống với nhau trong lớp chăn phủ cơ thể khí. Đây là cơ thể khí mà con người bước ra trong khoảnh khắc chết đi và bắt đầu dấn thân vào thế giới vô hình.
Kẻ nhập định cần nhận thức riêng rẽ tính chất của tinh thần, tính chất của linh hồn và tính chất của cơ thể khí. Cần nhận biết riêng rẽ về chúng, như Veda nói: không phải cái này, không phải cái này. Cần phải học để đừng nhầm lẫn tinh thần với bản chất thật của linh hồn, và đừng nhầm lẫn đồng nhất chúng (adhjasa).
Không phải cái này, không phải cái này - chỉ có nghĩa như sau: cái Tôi thật sự của tôi không phải cái này. Cái Tôi thật sự vượt qua các chất lượng, hình dáng, là thứ không nắm bắt được, không thể hiểu được, vô hình. Nhưng đấy là ai, kẻ nào là hiện thực chân chính để khi so sánh với nó, tất cả chỉ là maja - phép thuật, ảo vọng, các lớp vỏ, các lớp chăn phủ. Từ đời sống trần thế có vẻ như cái Tôi thật sự này xa vời nhất? Tại sao?
Bởi vì sự sống trần thế là phép thuật và đời sống trần gian chỉ là một giả tưởng (adhjasa). Con người trần thế đồng nhất chính nó, bởi sự bắt buộc và bởi các nhu cầu (anake), nó đồng nhất chính nó với thân xác vật chất nặng nề, với thiên nhiên, với thân xác thần kinh, với kí ức vô thức, với thân xác khí, với linh hồn, với tinh thần. Cho dù tất cả những điều này chỉ là gánh nặng. Kẻ nhập định cần nhận biết ra tất cả
https://thuviensach.vn
những sự nhầm lẫn này. Cần phải hiểu, cái Tôi thật sự gần nhất. Cái Tôi thật sự chính là nó.
Nhận thức không phải là một hoạt động bình thản, phi cá nhân, vô lợi ích, mang tính chất lí thuyết hay quan điểm, mà là sự nỗ lực ở mức độ cao nhất của toàn bộ sức mạnh. Mọi tầng, lớp, mọi lớp chăn phủ, và trên ngưỡng cửa của mọi cái Tôi đều có một sự bảo vệ. Sự bảo vệ này là Daimon. Daimon là thần hộ mệnh.
Các vị thần hộ mệnh theo truyền thống cổ được lấy tên từ các tinh tú. Không hề ngẫu nhiên. Con người từ bảy tầng rơi chìm xuống sự sống vật chất, và cần thanh lọc bảy vòng để quay trở lại. Bảy vòng này trong vũ trụ cần phù hợp với bảy vòng của các tinh tú. Chiêm tinh học nằm trên nền tảng này. Nhưng vũ trụ và linh hồn con người không tách rời riêng biệt.
Sự tạo dựng vũ trụ xảy ra trong tim con người - một văn bản Hermes nói vậy. Mặt Trăng là thân thể vật lí (phüsikon), Merkus (sao Thủy) là tri thức và sự phát minh (hermeneutikon), Vệ nữ là thân thể của linh hồn (epithümetikon) mà người Hindu gọi là prana, Mặt Trời là sự nhận thức (aisthétikon), Mars (sao Hỏa) là sức mạnh đời sống (thümikon), Jupiter (sao Mộc) là sự hành động, Saturnus (sao Thổ) là tư duy và quan điểm (theoretikon, logistikon).
Việc thanh toán, việc nhận thức và tinh thần hóa ba tầng đầu tiên: thân xác nặng nề, thân xác thần kinh và cái vô thức là những nhiệm vụ dễ dàng. Ba tầng này lỏng lẻo, giống như áo quần, gắn với sự sống trần thế, và cái chết sẽ làm tan nó ra từ con người. Nhưng việc thanh toán nó cũng không hề dễ dàng.
Người thầy cần cẩn trọng và chú ý một cách vô bờ bến để theo dõi đường đi nước bước của người học trò. Mọi bước đi cần phân tích bằng giải mã giấc mộng, để phòng ngừa trước. Con người khi sống trên trần thế, chỉ là prima materia. Đây là con người tự nhiên với những nguyên tử hỗn loạn trộn lẫn bên trong.
https://thuviensach.vn
Chính bản thân người thầy cũng không biết có gì ẩn giấu trong học trò. Tất nhiên, người học trò đợi nhập định biết càng ít hơn nữa. Nhưng thời cổ đã tìm ra một phương pháp không thể đánh lừa khi tìm ra bí mật của bản chất ban đầu của con người. Phương pháp này là tìm ra sự liên quan giữa các khả năng con người và các tinh tú. Nền tảng của sự liên quan này là số bảy.
Đây là bảy ngọn nến của Kabbala, bảy lần đường con người tiến hành khi biến thành vật chất nặng nề, và là bảy vòng quay trở lại nếu muốn tìm về cội nguồn. Chiêm tinh học chỉ ra con đường linh hồn con người đi. Nếu người thầy tìm ra con đường này, có thể bảo học trò cần đi con đường nào để quay ngược lại, và nói, ở đâu nó sẽ gặp thần hộ mệnh nào, lúc nào, cần dấn thân vào trận chiến nào, cần vượt qua những vực sâu nào.
Chiêm tinh học không đơn thuần chỉ là cá tính học như tâm lí học hiện đại tuyên bố. Trong kích thước của khoa học tự nhiên hiện đại, hoặc trong khoa học tinh thần đi chăng nữa nhân chủng học phổ quát hoàn toàn vô nghĩa và không thể đạt tới. Chỉ trong mối quan hệ lớn nhất và sâu sắc nhất về sự phổ quát mới có thể hiểu nổi và không thể thiếu được nhân chủng học phổ quát.
Kẻ nhập định cần làm quen với các daimon của mình để có thể cưỡng lại chúng. Về cuộc chiến đấu này các huyền thoại nói đến nhiều, và bằng những hoang đường bên ngoài thêu dệt nên truyền thống. Các huyền thoại thời cổ đầy rẫy các văn bản nói về cuộc chiến giữa linh hồn và daimon.
Nhưng cuộc chiến này không hề mang tính chất hội họa, văn chương hay sân khấu hấp dẫn. Daimon, như ở Ấn Độ người ta thường nói, là thần nghiệp của linh hồn, ngăn không cho linh hồn quay lại cội nguồn. Thần hộ mệnh của số phận bắt con người phải sống đời sống theo lệnh của nó. Và nếu ai muốn bỏ trốn, nó trả thù. Huyền thoại chứa đầy rẫy các daimon trả thù.
https://thuviensach.vn
Cuộc chiến này hoàn toàn bên trong, hoàn toàn vô hình và hoàn toàn trải qua từ kĩ thuật phép thuật của sự nhập định. Bản thân các kĩ thuật này dễ gọi tên. Rất dễ, bởi nơi nào trong số phận của mình con người gặp khó khăn, trong mọi trường hợp chỉ duy nhất một thứ cứu được nó. Duy nhất một thứ: Lời. Logo. Logo hãm phanh daimon. Thần hộ mệnh rút lui và buông thả khi Lời vang lên. Nếu người học trò nhận ra và đặt tên cho daimon, daimon sẽ thành nô lệ.
Sự nỗ lực này đến một khoảnh khắc cũng không hề nhìn thấy. Nó tiếp diễn bên trong, người thầy và học trò không ai nhìn thấy và không ai biết gì hết. Sự thể hiện quá trình này quay vào bên trong. Cái thấu kính bên trong và sự nhạy cảm là tri thức đầu tiên đánh dấu sự nhập định.
Người học trò trước hết cần học: cái gì là thấu kính bên ngoài phủ mất thế giới của Thần. Katabazis, thế giới vật chất nặng nề, cần từ bỏ thông qua bảy vòng vũ trụ, cho đến khi kẻ học trò rơi vào đất, vòng tăm tối nhất, nặng nề nhất và bên ngoài nhất, đi vào vật chất, vào sự tăm tối bên ngoài. Tên cúa nó là sự thất bại, là sự lao xuống dốc.
Thấu kính bên ngoài, nhãn quan thứ yếu hỗn loạn này trái ngược với con đường Thần của con người. Chừng nào con người chưa biết đến thấu kính bên trong, anabazis, và đường đi xuống đất chưa mở ra, nó không thể bước tới tiếp tục. Chừng nào nó chưa biết giải thoát khỏi sự tăm tối.
Một trong những nhầm lẫn (adhjasa) nguy hiểm nhất là con người tưởng nhãn quan thứ yếu bên ngoài là thấu kính nguyên sơ, tưởng thiên nhiên vật chất tăm tối là sự sáng sủa. Con người đui mù lầm lạc trong vật chất bên ngoài đến mức nó không nhìn thấy bất cứ cái gì ở bên trong. Bước đầu tiên của người học trò là lấy lại cái nhìn nguyên sơ thực chất. Trước khi sụ nhập định bắt đầu, người học trò bằng câu nói của Horus quay sang người thầy - Hermes Trismegistos - và nói như sau: “Con đến, để tìm những đôi mắt của con”.
https://thuviensach.vn
4.
Truyền thống Hermes gọi bảy vòng tinh tú là bảy hơi thở của Tạo Hóa (hepta epithümata). Bảy hơi thở không là gì khác ngoài bảy nốt nhạc, bảy màu của cầu vồng, bảy bước của sự nhập định, bảy mức độ huyền bí của Mithras trong mối quan hệ với sự nhập định.
Phép huyền bí Mithras thật đáng ngạc nhiên, tựa như các quá trình nghi lễ của nhập định Ai Cập. Bảy cái hang mở ra nối tiếp nhau tượng trưng cho bảy mức độ. Con đường mở, đi vào bên trong - ngược với hướng thế giới bên ngoài: từ sự tăm tối bên ngoài đi vào ánh sáng bên trong.
Mức độ đầu tiên nhấc người học trò từ đất lên và nâng nó lên cao trong không khí. Đây là bước đầu tiên của niềm cảm hứng (ekstazis). Ekstazis có nghĩa là: sự mở rộng ra của ý thức. Là trạng thái ở ngoài bản thân, hay còn gọi là bước rút ra khỏi cái Tôi vật chất.
Mức độ thứ hai là sự chuyển dời từ không khí vào vòng quay của các tinh tú. Bước thứ ba, người học trò bước ra khỏi vòng của các tinh tú và đến Sao Bắc Cực. Bước thứ tư do Mặt Trời chỉ lối. Mặt Trời là sự sáng sủa của Thượng Đế. Ở bước thứ năm con người gặp các Trinh Nữ Số Phận và đợi đạt đến sự nhập định. Đây là các daimon và moira trong hình dáng đàn bà, ở đây người ta tìm thấy nhiều liên quan họ hàng với các nhân vật Athene, Parthenos, Sophia, Hohma, Trinh nữ Thần.
Ở mức độ thứ sáu linh hồn con người gặp thần hộ mệnh của Sao Bắc Cực. Mức độ thứ bảy là mức độ cao nhất của niềm hứng khởi, ý thức của nó được nâng lên hoàn toàn và nhập vào thế giới Thần: vào mức độ siêu nhiên của một thế giới cao hơn từ Sao Bắc Cực. Thần Mithras hiện ra và nhận lấy linh hồn con người quay trở lại. Đấy là sự cứu rỗi.
Bảy bước của phép huyền bí Mithras gần như đồng nhất với bảy cấp độ chiêm niệm Bonaventura thời trung cổ và bảy cấp độ vasistha
https://thuviensach.vn
của yoga Ấn Độ cổ, và cũng đồng nhất với bảy lĩnh vực vũ trụ của Jamblikhos và bảy đẳng cấp của sự sống.
Về mức độ đầu tiên không có gì để nói. Đây là thế gian vật chất và trần tục. Cái mà linh hồn người nhìn thấy và kinh nghiệm được, và là cái mà trong đời sống vật chất tự nhiên nặng nề ai cũng tự nguyện tin rằng đấy là hiện thực duy nhất, dù đây chỉ là thế giới của các giác quan: các sự vật, sự việc, thiên hình vạn trạng của thể hiện vật chất, có thể thấy bằng mắt, nghe bằng tai, sờ bằng tay.
Mức độ thứ hai sâu hơn. Đây là góc độ tinh thần. Là cái nhìn trí thức. Con người bằng tri thức nhận thức ra mối quan hệ và sự liên quan của các sự vật, sự việc, các hiện tượng giác quan. Khi con người biết xác định sự giống nhau và khác nhau, lúc đó không bằng các giác quan nữa, mà bằng tư duy tri thức. Tính chất quy luật và sự bất thường của sự vật cũng do tri thức nhận ra. Đây là bậc thang logic, là bậc thang của tư duy tri thức.
Những ai không hoàn toàn sống đui mù trong sự tăm tối vật chất bên ngoài đều đạt tới cấp độ thứ hai. Những người có khả năng suy nghĩ tỉnh táo đều nhận ra mối quan hệ, sự giống nhau, sự khác biệt, và tính quy luật của sự vật, sự việc.
Nhưng để đạt đến mức độ thứ ba đã bắt đầu hiếm hoi một cách phi tỉ lệ. Ở đây không nhận thức bằng tri thức thấy nữa mà bằng tri giác bên trong. Tiếng Sancrit gọi là: manas. Guenon dịch từ này ra là sens interne. Nhãn quan bên trong bắt đầu từ cấp độ này. Khi Horus nói: Tôi đến để tìm những đôi mắt của tôi - là sự tìm kiếm bắt đầu từ đây.
Thật nhầm lẫn khi đặt tên cho tri giác bên trong là tâm lí. Manas không chỉ thấy mà còn thường xuyên tạo ra các hình ảnh. Cũng như các giác quan không chỉ là nhãn quan bên ngoài, mà đồng thời còn là ảo ảnh vật chất; tri thức không là gì khác ngoài sự tạo ra các mối quan hệ và liên kết nhận thức.
Nhưng cũng có lúc - thậm chí thường xuyên - ở nơi có hình ảnh, có liên kết nhận thức, nhưng tuyệt đối không thấy sự vật đâu. Từ tri
https://thuviensach.vn
giác bên trong, từ manas tràn ngập các hình ảnh, như thể nó là trọng tâm thường xuyên của giấc mộng và sự tưởng tượng, những ảo ảnh không thể hiểu, không thể nắm bắt, như từ một nguồn tuôn chảy không thể dừng.
Nhãn quan của cấp độ đầu tiên khó tin tưởng nhất. Di sản tư tưởng châu Âu đã chứng thực nhãn quan của các giác quan không mấy gần gũi so với hiện thực. Đây là sự phù phép rành rành phi hiện thực của thế giới vật chất, là thứ không có gì đúng.
Mức độ thứ hai đã mang tính hiện thực hơn một chút. Tựa hồ như một cái gì đó bắt đầu le lói: sự hợp nhất, dự cảm của một viễn cảnh tinh thần trong sạch xuất hiện trong lối tư duy có tri thức. Nhưng bộ não của con người vẫn run rẩy. Mức độ thứ ba càng mang nhiều tính hiện thực hơn nữa. Các giác quan, chính là những hình ảnh vô nghĩa và phi lí đối với bộ óc tỉnh táo - chủ nhân thực chất của số phận con người. Bởi vì quyền lực thật sự của con người không xuất phát từ thế giới của các hình ảnh giác quan, cũng không của tri thức, mà là của thế giới hình ảnh bên trong.
Trong thế giới của manas những nhầm lẫn khủng khiếp đã xảy ra. Những nhân tố phi tư duy, chỉ là các hình dạng như trong giấc mơ, khôn lường, siêu nhiên, đồng nhất và biến đổi, những thứ mà cái Tôi của con người liên tục đồng nhất với chính nó. Những hình ảnh của kí ức tồn tại ở đây, không chỉ của đời sống cá nhân con người, mà còn là cả những kỉ niệm của đời sống nhân loại con người đã thu thập.
Dưới tác động của những quyến rũ thất thường và các mối ác cảm bản năng, các tình cảm được hình thành ở đây. Đây là các hình ảnh, các tình cảm, các bản năng, sự đồng hóa, sự nhầm lẫn dẫn dắt con người vào số phận.
Tính chất hiện thực của vòng manas không thể so sánh với tính chất hiện thực của vòng giác quan hay của vòng tri thức. Đúng hơn, như một giấc mộng so với lúc tỉnh, như linh hồn so với thể xác. Các hình ảnh trong vòng manas một mặt vẫn còn liên quan đến vật chất đi
https://thuviensach.vn
xuống, nhưng mặt khác đã mang tính chất liên quan với tinh thần đi lên.
Thiên nhiên vật chất trong manas chỉ là hệ thống của các dấu hiệu để con người thể hiện và để hiểu chính mình. Còn cái Tôi bên trong nó kết án các sự kiện của thiên nhiên vật chất. Bói tử vi, xem tương lai, ngoại cảm, dự đoán tương lai là ở vòng này. Vòng giác quan hoàn toàn mang tính cá nhân; là sự phụ thuộc của cái Tôi cá nhân hoàn toàn.
Vòng nhận thức đã bắt đầu mang tính phổ quát hơn. Vòng manas ngày càng trở nên phổ quát hơn. Ý nghĩa của các hình ảnh bên trong đối với tất cả mọi người quen thuộc hơn, tổng quát hơn, như hình ảnh của giấc mộng và của thế giới tưởng tượng.
Còn hình ảnh huyền thoại lại càng ở mức độ phổ quát cao hơn nữa. Mức độ thứ tư này so với manas hiện thực hơn, sâu sắc hơn, sống động hơn. Hiệu lực của thế giới huyền thoại không chỉ lan truyền trong toàn bộ nhân loại, mà còn có trong mọi thời gian và trong mọi mức độ của sự sống.
Giác quan không biết gì khác ngoài các đồ vật và các hiện tượng của thế gian vật chất; trí óc không biết gì khác ngoài các liên hệ và tính quy luật của tự nhiên; manas không biết gì khác ngoài những kỉ niệm chồng chất trong đời sống nhân loại và các kinh nghiệm lọc ra từ các kỉ niệm ấy.
Còn huyền thoại đã vượt qua nhân loại. Nhãn quan huyền bí đã biết đến các con quỷ, các vị thần, các thiên thần, các quái vật, thế giới bên kia, những người âm, các sinh linh chưa sinh ra. Huyền thoại sáng sủa bất tận, thông thái hơn, tỉnh táo hơn, nhạy cảm hơn, so với các giác quan, với trí óc hay trí giác bên trong.
Mức độ thứ năm là thế giới của các ý tưởng và hình ảnh ý tưởng. Mối quan hệ của các ý tưởng đối với huyền thoại giống như nhận thức đối với kinh nghiệm giác quan. Con người sống trong thiên nhiên vật chất tưởng rằng hiện thực duy nhất là kinh nghiệm giác quan, và họ nhận thức ra điều này một cách trừu tượng. Con người sống trong thiên
https://thuviensach.vn
nhiên vật chất bằng đường nọ, cách kia thu thập khái niệm về ý tưởng và hưyền thoại, họ nghĩ rằng huyền thoại và ý tưởng cũng trừu tượng nốt. Đây là một trong những ví dụ về sự nhầm lẫn điển hình cho con người sống trong sự tối tăm bên ngoài.
Nhận thức không là gì khác ngoài việc nhận ra và thấu tỏ những nguyên lí, những quy luật cơ bản của thế giới giác quan; ý tưởng không là gì khác ngoài nhận thức ra những nguyên lí và quy luật cơ bản của thế giới hình ảnh vũ trụ huyền thoại. Ngoài ra ý tưởng còn dẫn dắt cả thế giới hình ảnh vũ trụ quay trở lại cội nguồn của nó. Các ý tưởng không phải là các huyền thoại nhợt nhạt như người ta thường ưa thích nói như vậy mà huyền thoại là các ý tưởng đã được tháo gỡ, rơi xuống thế gian và đánh mất cường độ của chúng.
Huyền thoại vẫn còn mang tính chất hình ảnh trong bản chất toàn bộ của nó. Nhưng trong ý tưởng, hình ảnh đã không còn; thứ ý tưởng còn mang tính hình ảnh, trong suốt pha lê là hình tượng. Theo quan điểm này ý tưởng là một hình tượng rạng rỡ. So với huyền thoại, hình tượng phổ quát hơn, tinh thần hóa hơn, nguyên sơ hơn, cao hơn và sáng sủa hơn.
Từ mức độ thứ sáu trở đi tất cả những gì linh hồn người kinh nghiệm được từ năm bậc thang trước từ từ giải tỏa, giờ chỉ nhìn thấy như một sự lơ lửng chậm rãi, từ tốn, với những đường nét lờ mờ, rất ít tính chất hình ảnh, chỉ như hơi nước trắng bạc run rẩy, sáng rõ hơn hiện trên bầu trời xanh.
Trong vòng này, hay gọi là vòng thần bí hoặc tiền sảng của tinh thần trong sạch, linh hồn người bằng một cú sốc kinh ngạc nghiệm ra sự tan vỡ của mọi nhận thức. Bởi vì nhận thức vẫn theo sát con người, trải qua từng bậc thang dù khó khăn. Nhận thức hiểu ra thế giới của manas, của huyền thoại, của ý tưởng. Nhưng đến vòng này mọi nhận thức bất lực. Một hoạt động song song cùng nhận thức là quan điểm, đến đây cũng bất lực nốt.
https://thuviensach.vn
Bởi vì các hình ảnh manas, huyền thoại, và ngay cả trong thế giới của ý tưởng, linh hồn người vẫn biết nhận thức và ghi giữ. Nhưng đến đây, trong thế giới Thần, phi nhận thức, phi quan điểm, giữa lơ lửng phi vật chất, linh hồn ngơ ngác: nó không thấy hình thức, tri thức, không hướng xác định, không mục đích, chỉ thấy trong ánh sáng chói lòa, các thân thể ánh sáng không đường nét, luôn thay đổi và rạng ngời chuyển động nhẹ nhàng và trong suốt.
Ở cấp độ thứ bảy xảy ra điều này. Sự rạng ngời chiếu sáng phi hình thức và phi nhận thức: Sự Tuyệt đối. Không thân thể, không hình dạng, không chuyển động, bất biến, không nhìn thấu, không cái Tôi, chỉ một sự sống không thể đo nổi từ các cấp độ đã trải qua, sâu sắc và thấu suốt hơn. Và linh hồn càng tiến sâu vào càng nhẹ đi, càng cảm thấy mình gần nhà hơn, hạnh phúc hơn, tươi tỉnh hơn, lặng lẽ hơn. Giờ đây, sau cùng nó đã an bình. Trong thế giới Thần nó đã có thể thở ra nhẹ nhõm: trong những tia sáng lơ lửng nó cảm thấy nhà của nó gần hơn.
Giờ đây trong sự sống bất biến tuyệt đối, phi hình hài, vô bờ bến, nó biết rằng nó đã cập bến. Giờ đây nó có thể thả nó ra. Và một điều kinh ngạc: nó không tan ra. Vòng tuyệt đối này là một sự sống sâu sắc đến mức không một trạng thái tiêu cực nào tồn tại: không có sự tan ra, không có sự biến mất, không có sự hấp thụ. Đây là vòng, nơi tất cả: Có. Đây là sự viên mãn của sự sống rạng ngời, là an bình cân bằng của sự sống trong suốt. Đây là hiện thực tuyệt đối, là cái có từ linh hồn, và là chính bản thân linh hồn.
5.
Thoạt nhìn, con đường của basileus và radzsa không phẳng lặng, đơn giản hay oanh liệt như các văn bản truyền thống ghi chép. Bởi vì các văn bản để lại cho các thế hệ sau đã được khái niệm hóa, chứ không
https://thuviensach.vn
như một miêu tả tỉ mỉ về một con đường vua chúa. Cũng không thể khác, vì con đường của tất cả mọi người đều khác nhau - trong các số phận các nguy hiểm khác nhau đe dọa - các sức mạnh khác nhau sống ở những nơi khác nhau với những động lực khác nhau - những cái bẫy bí ẩn gài ở những chỗ khác nhau và những bức tường ngăn cản dựng lên ở chỗ khác nhau.
Kẻ hiểu về con đường là kẻ biết rằng: chủ thể, có nghĩa là con đường của linh hồn thực ra chính là bản thân linh hồn; khi linh hồn tiến lên, nó tiến lên từ bản thân nó; ánh sáng soi rọi con đường là ánh sáng tự thân của linh hồn; mục đích không là gì khác, ngoài chính bản thân linh hồn; và khi đạt đến, nó đã đạt đến chính nó.
Nhưng khó khăn lớn nhất không phải điều này.
Trong các vòng, trong các vương quốc ảnh hưởng trên con đường, như giác quan, nhận thức, manas, huyền thoại, ý tưởng, trong các thế giới Thần, linh hồn biến đổi, nhận lấy đặc tính và tính chất của các thế giới ấy. Con đường không phải là một sự hành hương mà kẻ đi hành hương luôn là một cá nhân ấy. Con đường là sự hóa thân (metamorfozis); và trong tất cả mọi vòng đều chứa dựng nỗi de dọa về sự bất lực của linh hồn, linh hồn có thể thay đổi, bị mắc kẹt và đứng lại.
“Dấu hiệu đầu tiên của sự đứt đoạn với thế giới giác quan - một văn bản Hermes viết - là linh hồn biến thành quỷ”. Trong thế giới vật chất, nó biến thành vật chất, trong thế giới nhận thức nó biến thành nhận thức, trong thế giới manas nó thành hình ảnh mộng, trong thế giới huyền thoại nó biến thành sinh linh daimon. Nhưng đấy cũng vẫn chưa phải đe dọa lớn nhất.
Hiểm nguy lớn nhất, như thời trung cổ người ta từng biết, “Mi đặt bao nhiêu bước chân về phía Thượng Đế, quỷ Santan đặt bấy nhiêu bước chân về phía mi”. Nói theo ngôn ngữ siêu hình học: tất cả mọi bước chân trên con đường đi tới ánh sáng đều nhắc nhở đến một sự tối tăm sâu hơn nữa.
https://thuviensach.vn
Kẻ học trò sắp nhập định không biết những điều đáng sợ này. Lời dạy bảo không nói tới. Không thấy ghi chép ở đâu. Không ai nói đến bao giờ. Cũng không thể nói ra, cũng không thể viết ra, cũng không thể dạy dỗ. Đây là tri thức cá nhân của người thầy dạy nhập định, bất truyền.
Người thầy mang trên mình số phận của học trò, từng trải qua, thấy thay học trò, chịu đựng, xua đuổi ma quỷ, giữ gìn và bảo vệ kẻ học trò. Đấy là điều truyền thống nói, người thầy là Cha, và khi học trò tái sinh, một mình duy nhất từ người Cha, trong tinh thần và trong linh hồn sinh ra một lần nữa.
Các văn bản viết về các mức độ, các tầng, hay về các đẳng cấp và các vương quốc, không quan tâm đến con đường của kẻ học trò chờ nhập định, mà chỉ tuyên bố ý nghĩa của bảy màu sắc, bảy âm thanh, bảy ngày, bảy tinh tú, bảy ngọn nến của thế gian.
Về, bảy bậc thang cần phải hiểu như thế nào, các văn bản không nói đến. Con người lịch sử cảm thấy như bị lừa khi nghĩ đến việc học xong bảy năm trung học dễ dàng như thế nào. Bảy mức độ ở Ấn Độ phù hợp với bảy bậc thang của con đường bước ra khỏi cộng đồng người tự nhiên.
Mức độ đầu tiên: chủ gia đình (grihastha) là người lập gia đình, công dân, người làm việc trong cộng đồng; mức độ thứ hai là con người đã dâng hiến đời sống cho quyền lợi của một mục đích nào đó (purohita); thứ ba, là kẻ đã hãm phanh bản chất xác thịt của mình lại (fakir); thứ tư là tín đồ rút vào rừng (sannjasin); thứ năm là kẻ hành hương đã tặng lại tất cả tài sản, cắt đứt mọi ràng buộc con người (nirvánis); thứ sáu là kẻ chiêm nghiệm trong bất động hoàn hảo (yogin); thứ bảy là kẻ mà phái Pythagoras nhận biết như một kẻ đã hiện thực hóa tinh thần của Thần, đã làm tròn bổn phận, trải qua epiphani, đây là brahmatma.
Phù hiệu của brahmatma là cây gậy tre bảy mấu: bảy mấu là bảy mức độ của nhập định. Việc đạt tới từng mức độ là một nhiệm vụ lớn
https://thuviensach.vn
lao riêng biệt. Nhưng tất cả mức độ cũng dừng lại trong bản thân nó. Đa số con người chỉ trở thành grihastha (chủ gia đình), kẻ đạt tới mức độ thứ ba (fakir) ít hơn kẻ đạt tới mức độ thứ hai (furohita), kẻ đạt tới mức độ thứ năm (nirvánis) còn ít hơn nữa so với kẻ đạt tới mức độ thứ tư (sanjasin) và kẻ đạt tới mức độ thứ bảy (brahmatma) càng ít hơn nữa so với kẻ đạt tới mức độ thứ sáu (yogi). Có như vậy, bởi vì người thầy của sự nhập định từ chối phần lớn học trò. “Nếu trong kẻ nào khát vọng giải phóng thức tỉnh hơn thời gian của nó cần đạt đến, - sách luật của Manu tuyên bố - và nó theo con đường đi lên, kết quả sự cố gắng của nó sẽ lao sâu xuống hơn vào tăm tối”.
6.
Trong đời chúng ta đạt được quá ít - Baader nói - bởi vì chúng ta không thể nhân bản thân mình lên lũy thừa bảy. Con người lịch sử, đặc biệt trong thời hiện đại, nhất là khi sống trong sự vô thức về bản chất sự sống của nó, thường mặc kệ bản thân, nó không hiểu nổi nghĩa là gì nếu một người nâng bản thân mình lên đến lũy thừa bảy.
Tri thức vật chất trắng trợn thay thế tổ chức của sự nhập định. Vật chất đã hấp thụ không bao giờ có thể nâng lên cấp lũy thừa. Học tập là một quá trình bên ngoài, ở giữa các thế gian, là một thứ đọng lại sâu nhất, đậm đặc nhất, nặng nề nhất; đây là sự tăm tối bên ngoài. Học tập không là gì khác ngoài một dạng của sự mơ hồ.
Sự nhập định, khi được tiến hành trọn vẹn trên con đường vua chúa, nhập vào radzsa-yoga - theo định luật của Bảy Trinh Nữ, giết chết con người tự nhiên, và chuẩn bị cho sự tái sinh của con người tinh thần, phi dạy dỗ, phi giáo dục, phi nuôi dưỡng.
Sự nhập định là sự dẫn dắt ngược trở lại của linh hồn con người vào chính bản thân nó và vào trạng thái cổ: là sự thức tỉnh của ý thức
https://thuviensach.vn
thống trị, tính chất vua chúa vốn có. Bảy mức độ là sự giải phóng của linh hồn con người khỏi số phận hành tinh, khỏi vòng của bảy tinh tú; là sự chiến thắng bảy vị thần của số phận, bảy daimon. Đây là sự ra đời của sinh linh cổ - ousiodes genesis. Đây là lũy thừa bảy.
Con người nâng bản thân mình lên lũy thừa bảy có nghĩa là lên khỏi bảy ngưỡng khủng hoảng, nhân lên bảy lần sức mạnh của chính bản thân, sự sáng sủa, sự tỉnh táo, sự sống của mình; nó đi lên bảy bậc thang, chính là bảy bậc thang nó đã tụt xuống khi rơi chìm vào thiên nhiên vật chất.
Nó bảy lần làm bản thân mình tự do hơn, nâng lên bảy lần khả năng của mình cho có hiệu quả hơn, phong phú hơn. Làm tinh thần của nó bảy lần sáng sủa hơn, làm linh hồn bảy lần nhạy cảm hơn, làm nhận thức bảy lần sắc sảo hơn, làm tình cảm bảy lần ấm áp hơn, làm trí tưởng tượng bảy lần phong phú hơn, làm trực giác tâm linh bảy lần sâu sắc hơn.
Con đường của sự nhập định bởi thế nguy hiểm và khủng hoảng, bởi vì cái xảy ra trong thời gian nhập định trong suốt vô tận. Sự nhập định khó khăn vì nó đơn giản. Khủng hoảng vì con người đã đi quá xa bản tính cội nguồn. Bởi vì cái nó cần thu thập, không phải là một cái gì xa lạ và đặc biệt, mà là một thứ dễ hiểu, tự thân và tất nhiên.
Sự nhập định, như Sankara viết: “Linh hồn phát hiện ra ý nghĩa của sự lầm lẫn trong u mê và nhận ra bản chất tự do, bất tử của chính bản thân nó”. Điều dễ hiểu đơn giản, tất nhiên và tự thân, chính vì không cần làm bất kì cái gì: “Sự giải thoát không phải là kết quả của ngôn từ, của các tư tưởng và sự hoạt động”. “Không phải sự đổi thay lẫn hoạt động nói lên sự giải thoát… sự giải thoát không đạt tới; sự tự do này trong bản chất đích thực của cái Tôi chân chính của con người, sống một cách hiện thực, có từ vĩnh cửu, chứ không phải là một cái gì cần phải tranh đấu mới có”.
“Cái Tôi chân chính của con người không thể đặt dưới quan điểm, đặt dưới sự hoạt động, đặt dưới sự thay thế - bởi vì lúc đó cái Tôi này
https://thuviensach.vn
trở thành đối tượng của một cái gì đó, của một cái gọi là quan điểm, sự hoạt động, sự thay thế. Thực chất, cái Tôi là một cá nhân tuyệt đối, là chủ thể không bao giờ có thể biến thành sự vật”.
Nói theo ngôn ngữ của Sankara: Khi con người nhân bản thân mình lên lũy thừa bảy, trong ảo ảnh của các hình ảnh, các giấc mộng, các ý tưởng, các nhận thức, nó tưởng hoạt động này dẫn đến sự giải thoát. Không. Sự hoạt động này dẫn tới một nơi khác hoàn toàn. Dẫn đến trạng thái phi hoạt động; đến sự tĩnh lặng; đến sự tránh xa các biến đổi; đến phi nhận thức; đến việc chấm dứt các nỗ lực.
Sự giải thoát không phải là kết quả của sự thay thế, của tư duy, thể hiện sức mạnh, hoạt động, mà là sự nghiền ngẫm để nhận ra mọi tư duy đều là nhà tù, mọi tư tưởng đều là cạm bẫy, mọi nỗ lực đều là xiềng xích trên con đường giải thoát. Tôi chỉ có thể giải thoát, nếu tôi từ bỏ mọi kích động, giác quan, nhận thức, tư duy, sự tưởng tượng, trực giác, sự hoạt động từ chính bản thân, tôi bước ra khỏi bảy vòng quay của bảy daimon, từ bỏ thế gian như từ bỏ mọi ảo vọng không có thật, và điều chỉnh lại nhãn quan trực tiếp về hiện thực (saksatakara), là nhãn quan cội nguồn của linh hồn con người.
Con người lịch sử không giấu nổi ngạc nhiên khi thấy các ngôn từ của ý nghĩa truyền thống cổ, các ngôn từ của sự nhập định, (không ngoại lệ), đều là những hình ảnh tượng trưng. Ý nghĩa của chúng liên quan đến một cái gì hoàn toàn khác với cái tưởng rằng chúng nói đến, và chỉ ra một hướng khác so với cái tưởng chúng chỉ ra, đưa ra dấu hiệu.
Ngôn ngữ tượng trưng này hướng về điều Sankara đã nói: sự hoạt động, sự biến đổi, sự chuyển biến, sự hoàn hảo, sự tỉnh táo, về các bậc thang, các mức độ. Tất cả đều mang ý nghĩa tượng trưng của ngôn từ. Thực ra chẳng có gì xảy ra hết, chỉ linh hồn rơi vào u mê nhầm lẫn bản thân mình với những hình ảnh được dựng lên về chính bản thân nó.
Giải thoát chỉ có ngần này ý nghĩa: không nhầm, không lẫn lộn các hình ảnh, thậm chí giải thoát chỉ có nghĩa thế này: không ảo vọng.
https://thuviensach.vn
Giải thoát là “nhận thức ra ý nghĩa bến mê của linh hồn và nhận biết bản chất tự do, bất tử của chính bản thân linh hồn”. Con đường vua chúa, hodos basilike cũng là cái mà huyền bí trung cổ gọi là via negativa. Đây là metanoia, là metathesis. Đây là mahajana. Đây là Đạo. Là CON ĐƯỜNG. Nhưng đây là một con đường ngăn ngừa các bước đi đến tất cả những con đường khác.
Con người cần bước lên bảy bậc thang, để đạt tới mức không bước đi tới bất kì nơi nào nữa - và khi nó biết điều này, rằng không cần phải đi đâu tiếp, nó cập bến và giải thoát. Con người cần nhân bản thân mình lên bảy lần, đến chừng nào nó hiểu rằng cần từ bỏ tất cả mọi hoạt động - và khi nó hiểu ra không có gì để làm nữa, nó giải thoát.
Csiradzsivi, sapta risi - chức vị tinh thần của bảy nhà thông thái là sự giải thoát này. Người nào nâng bản thân lên lũy thừa bảy, đạt đến nhiều thứ - đạt đến tất cả. Đạt đến sự giải thoát. Đạt đến tự do vĩnh viễn là của nó, đạt đến sự bất tử vĩnh viễn là của nó. Đạt đến mức sau đó nó không cần chạm đến nữa, bởi nó biết điều này nằm trong nó, đã từng nằm trong nó và là cái Tôi chân chính.
Mức độ nhập định của bảy nhà thông thái không phải là mục đích cuối cùng của đời sống người. Con người được giải thoát biết rằng, nếu tự do này nó chỉ giữ trong bản thân, để hưởng thụ, nó sẽ đánh mất, bởi nó sẽ rơi vào sự cầm tù của tự do của nó. Bảy nhà thông thái lập pháp, cai trị, tư duy. Đây là mức độ epiphania, khi con người bằng hành động thực hiện những sức mạnh của Thượng Đế. Như ở Ấn Độ người ta thường nói: không bị ràng buộc bởi bất cứ liên hệ trần gian nào.
Một lần nó đã được giải thoát, nhưng giờ đây nó quay trở lại và cuộc đời của nó là của nhân loại. Rơi vào giữa bảy nhà thông thái không mang ý nghĩa là sự kết thúc của một số phận đời sống, mà có nghĩa là bắt đầu một hành động chân chính.
https://thuviensach.vn
IV. Các bậc thang phép thuật
1.
Chỉ người nào - Manu nói - trong tất cả các bến đỗ hoàn toàn chủ tâm, tỉnh táo và dứt khoát tham dự, kẻ đó mới được coi là đã giải thoát. Về sự nhập định thời cổ, con người lịch sử cũng được học chút ít gì đó, họ tưởng rằng điểm xuất phát là đời sống trong tự nhiên vật chất, và mục đích cuối cùng phụ thuộc vào một cái gì đấy như sự cứu rỗi, niềm hứng khởi, niềm hạnh phúc, đời sống vĩnh cửu và những hình ảnh khó hiểu của sự bất tử.
Trong khi đó, điều mà Manu nói rằng cần phải trải qua tất cả các bến đỗ, thậm chí: một cách tỉnh táo, có chủ ý và chủ tâm - không một tri thức nào giải thích nổi. Ngoại trừ các nhà huyền học, những người có thể giải thích các mức độ này; nhưng các tư tưởng của họ không những không trở thành đại cương mà nhiều khi khó có thể tiếp cận.
Khi môn tâm lí học hiện đại thử giải thích những điều huyền bí, lập tức một loạt hiểu lầm cơ bản nổi lên. Tâm lí học cho rằng bậc thang huyền bí là mức độ hoàn hảo của cái Tôi cá nhân. Giải thích này trong tổng thể là sai. Bậc thang ở các nhà huyền học, nhất là trong thời cổ, không phải sự đo lường mức độ hoàn hảo của cái Tôi cá nhân, mà là sự đo lường mức độ sự sống được nâng lên cao hơn.
Các bậc thang huyền bí xét về mặt tâm lí học tuyệt đối không thể hiểu nổi. Vì chúng không phải là tâm lí học mà là siêu hình học. Trọng tâm của tư tưởng không phải là cái Tôi cá nhân mà là sự sống; không
https://thuviensach.vn
phải con người cá nhân hóa mà là con người siêu việt. Các bến đỗ thực chất có nghĩa là sự nhập định vào các nhiệm vụ đời sống cao hơn. Để cho tư tưởng này trở nên dễ hiểu hơn, cần biết: với con người sống trong thiên nhiên vật chất, kẻ mà số phận của nó hoàn toàn diễn ra trong niềm vui mang tính chất gia đình, công việc, thể xác, và các khát vọng đi liền với những cái bên ngoài, những kẻ này không cần đến sự nhập định cao hơn. Sự sống của nó không đòi hỏi một sự tỉnh táo đặc biệt hơn.
Truyền thống Hindu gọi mức độ đại cương của con người sống trong thiên nhiên vật chất là grihastha, là người chủ gia đình. Mức độ này hoàn toàn phù hợp với thiên nhiên vật chất. Đây là: sức khỏe, sự sinh sôi nảy nở, dinh dưỡng, cộng đồng, đạo đức trong sạch, khẩu vị, tính vị tha. Rất ít ỏi kỉ luật tự thân, sự nghiêm túc, trí tuệ minh mẫn trong đó, chỉ cần có cảm giác tập thể đã là đủ.
Nhưng khi nói đến nhu cầu cao hơn so với một đời sống người, lập tức nổi lên không phải câu hỏi làm thế nào để thu được tri thức. Tri thức có thể thu được bằng sự nhẫn nại và chăm chỉ. Cái khó hơn, là mức độ cao hơn nào được sử dụng để thỏa mãn nhu cầu cao hơn. Người nào muốn nhiều hơn cái mức độ chỉ là người chủ gia đình, đối với người ấy giàu có về kiến thức không đủ. Cần phải bước vào mức độ cao hơn nữa của sự sống.
Nhưng bước vào mức độ cao hơn của sự sống không phải là một yêu cầu từ đời sống tự nhiên vật chất. Trong đời sống vật chất tự nhiên có quyền lực, sức mạnh, tài năng, sự khéo léo - nhưng mức độ sự sống lại không có. Con người lịch sử tưởng rằng, bí ẩn của kẻ lãnh đạo, giáo sĩ, quân nhân, kẻ cầm quyền, nhà bác học, nhà thơ là tài năng hoặc khả năng hoặc sức mạnh. Họ tin như vậy bởi để hiểu đời sống, ngoài các nhân tố trong tự nhiên vật chất và thiên nhiên không còn các cách đo lường khác.
Mức độ cao hơn của sự sống không thể thu thập bằng bất kì tài năng nào, sức mạnh nào. Người nào có nhu cầu cao hơn đời sống vật
https://thuviensach.vn
chất của nó, tự nó phải đòi hỏi từ bản thân, và rất khó thỏa mãn, kẻ đó cần từ bỏ mức độ thỏa mãn trong đời sống vật chất và cần phải bước lên một mức độ cao hơn. Với câu hỏi làm thế nào để thu thập tri thức cho nhu cầu ở mức cao hơn này, câu trả lời sẽ là: chỉ tham gia sự nhập định mới đạt tới.
Sự nhập định chỉ có thể hiểu được bằng siêu hình học. Bởi vì ở đây không nói đến sự tăng trưởng của kiến thức, nhận thức, sự thể hiện các sức mạnh thân xác hoặc tinh thần, sự tiếp thu các nghề nghiệp - những thứ dễ dàng đạt được trong đời sống thiên nhiên vật chất - và cũng như vậy, không hề nói đến sự hoàn thiện cái Tôi tâm lí của thực thể người cá nhân.
Các bậc thang nhập định là các bậc thang phép thuật, dẫn tới một thế giới siêu nhiên bên trên thế gian vật chất. Và tất cả những ai đòi hỏi từ đời sống của mình nhiều hơn những người khác, đều bắt buộc phải bước lên các bậc thang này. Nếu họ không bước lên, họ vẫn cứ tham gia vào một trong những hoạt động của những mức độ sự sống cao hơn: họ sẽ trở thành giáo sĩ, thầy giáo, nhà thơ, kẻ cầm quyền, người quân nhân - nhưng họ không đạt được bất kì kết quả nào, hoạt động của họ chỉ tạo thêm sự nhiễu nhương, công việc của họ không bản chất, vô ích, vô nghĩa, vô giá trị.
Bước lên những bậc thang phép thuật của sự nhập định có nghĩa là, kẻ nhập định bước vào vòng sự sống siêu việt hơn. Truyền thống cổ gọi bước chuyển này là sự tái sinh. Thành viên của tất cả các đẳng cấp (kast) đều cần sự nhập định, trừ đẳng cấp thấp nhất, sudra.
Những kẻ trong các đẳng cấp cao hơn tuyên bố muốn thực hiện các nhiệm vụ đời sống cao hơn cần phải bước vào mức độ cao hơn của sự sống, sinh ra hai lần. Kẻ sinh ra hai lần tiếng Sancrit gọi là dvidzsa, họ có thể là nông dân, lái buôn, thợ thuyền, quân nhân, quan tòa, kẻ cầm quyền hoặc linh mục. Tất cả những ai có nhu cầu lớn hơn nhu cầu vật chất tối thiểu, đều cần phải nhập định.
https://thuviensach.vn
Và con người càng có nhu cầu cao hơn, càng cần phải bước lên thêm nhiều hơn các bậc thang phép thuật. Kẻ nào muốn đạt đến mức độ con người cao nhất, thực hiện sức mạnh Thần và hiện thực hóa tinh thần tuyệt đối thông qua chính bản thân mình, kẻ đó cần phải bước lên tất cả các bậc thang, hay nói cách khác: phải đứt đoạn hoàn toàn với thiên nhiên vật chất. Con người này đã thoát khỏi ràng buộc.
Đây là brahmatma, như truyền thống Hindu gọi, người có thể đưa vào vòng hoạt động của mình nghệ thuật, sự tiên tri, dạy học, cai trị: tất cả những gì con người này làm, trong tất cả mọi việc làm của nó thể hiện rõ các sức mạnh tinh thần. Đây là con người, như Manu nói, đã giải thoát, và: là kẻ trong tất cả các bến đỗ hoàn toàn chủ tâm, tỉnh táo và dứt khoát tham dự, kẻ đó được coi là đã giải thoát.
2.
Các bậc thang phép thuật người học trò đợi nhập định cần phải bước qua, theo tất cả các truyền thống cổ đều đồng nhất với những bến đỗ mà linh hồn âm từ bỏ đời sống trần tục cần phải trải qua ở thế giới bên kia.
Cần giải thích hết sức cơ bản điều này, không chỉ vì truyền thống dạy về những điều này rất phong phú, mà còn vì chưa bao giờ có thể đến gần tinh thần của truyền thống cổ như lúc này đây. Nhưng trước khi chỉ nêu lên một từ thôi nói về sự dạy dỗ của truyền thống cổ, cần phải hiểu ấn tượng của ngưỡng nghĩa là gì. Có vẻ như: ai đã trải qua điều này, không cần giải thích nữa, nhưng với ai chưa trải qua, không giải thích nổi. Tất nhiên khó khăn này chỉ có vẻ như vậy.
Ấn tượng về ngưỡng không ràng buộc về tuổi tác, giới tính, trình độ, tri thức. Ấn tượng về ngưỡng mọi linh hồn đều nhận biết một cách trực tiếp, và giữ gìn kí ức về nó, không phải trong kỉ niệm của cái Tôi
https://thuviensach.vn
cá nhân, không phải trong kinh nghiệm vô thức thu thập trong cuộc đời cá nhân, mà trong cái Tôi vĩnh cửu và siêu việt.
Điều này sống động trong mỗi con người, cái Tôi siêu việt và vĩnh cửu, cho dù mơ hồ, vẫn hiện ra một cách trực tiếp qua ấn tượng về ngưỡng này, cái mà truyền thống tôn giáo thường gọi là sự thất bại, sự phạm tội, sự thức tỉnh, là bước rút ra khỏi sự bao phủ tăm tối của vật chất.
Một cách đặc thù, linh hồn con người gìn giữ trong kí ức của nó những bến đỗ của số phận đời sống người vĩnh cửu. Bằng một khả năng bí ẩn nào đó, nó biết nhận ra cái gì đã xảy ra, khi con người sinh ra và khi con người chết đi. Như thể nó đã trải qua một cách trực tiếp, đến mức khi nghe đến tư tưởng luân hồi, đối với nó tư tưởng này không hề xa lạ. Về sự sinh ra và về cái chết tất cả mọi người giữ trong mình không chỉ một ấn tượng mà cả kinh nghiệm cá nhân rõ ràng nữa, và điều đặc biệt nhất, kinh nghiệm này ở tất cả mọi người đều giống nhau.
Ngưỡng là một trạng thái đột ngột mang ý nghĩa một sự thay đổi đến tận gốc rễ một cách bất thình lình, toàn diện toàn bộ những môi trường bên ngoài và bên trong: ngoại trừ một điểm nhỏ nhoi vô hình, toàn bộ các mối quan hệ, liên hệ, môi trường, hướng đi, trạng thái của thực thể người trong một tích tắc hoàn toàn biến mất, đến mức cái thay thế vào đó, mới, lạ lẫm, bất thường, đáng sợ một cách cội rễ và hoàn hảo, bản chất triệt để và bất ngờ của sự thay đổi này đe dọa đến cả sự sống của một hạt mầm bé xíu.
Ngưỡng là trạng thái đột ngột mà linh hồn trải qua, khi bước từ thế gian này sang thế gian khác, khi: hoặc khi sinh ra, thức tỉnh từ sự mơ hồ đặc sệt của quên lãng, hoặc khi chết đi bước ra khỏi thiên nhiên vật chất. Môi trường, mối liên hệ cuộc đời, mối quan hệ, trạng thái, ý thức, quan điểm, tất cả trong giây lát dừng lại, và cơn gió hủy diệt chạm đến hạt linh hồn. Tất cả, cái nó tưởng là rốt ráo và có thể tin được là một quyền lực vô hình rúng động báo hiệu sự lao xuống vực của linh hồn có thể xảy ra.
https://thuviensach.vn
Trong thế gian vật chất linh hồn đồng hóa mình với thể xác vật chất, thứ phụ thuộc vào những điều kiện vật chất. Giờ đây khi những điều kiện vật chất này tan rã một cách ma quỷ và linh hồn tưởng rằng nếu các điều kiện biến mất, nó cũng cần bị tiêu diệt. Sức mạnh của sự rúng động này mới to lớn làm sao, khiến cho toàn bộ nó, ngoài một điểm bé xíu duy nhất ở trọng tâm linh hồn - hạt giống linh hồn - suy sụp toàn diện vì sợ hãi và khủng khiếp.
Đấy là hướng đi xuống của ngưỡng. Còn hướng đi lên của ngưỡng xuất phát từ một điểm nhỏ xíu, một thứ không bao giờ thay đổi, không run sợ, không hốt hoảng, đến ngạc nhiên cũng không, một thứ bình thản, ổn định, chắc chắn, bắt đầu từ từ sáng rạng lên.
Ý thức vẫn chưa quay lại; ý thức là bộ phận của cái Tôi cá nhân, đã tan vỡ. Một cái khác, rộng hơn, phổ quát hơn so với ý thức cũ bắt đầu xuất hiện. Cái này vẫn chứa trong nó thiên hình vạn trạng của kinh nghiệm thu được trong thiên nhiên vật chất. Nhưng những kinh nghiệm này ngày càng mờ nhạt dần, giống như đường nho mất dần chất ngọt để trở thành rượu.
Lúc này từ tất cả những gì con người trải qua trong cuộc sống vật chất, chỉ còn lại một trích xuất đậm đặc: mức độ cao hơn của sự sống. Tri thức về cái Tôi cá nhân cũng bốc hơi. Kỉ niệm của điều này ban đầu giống như ấn tượng về kết quả hoàn thành của một con đường đầy ắp; sau dần con đường cũng mờ dần, và linh hồn tiếp cận tới bản thân mình như đạt tới bến đỗ của sự sống người siêu việt.
Nhưng điều này cũng tan ra, hoặc là một cái gì cũng như thế: kỉ niệm này cô đặc dần và trở nên đậm đặc hơn. Khả năng đứng riêng biệt, một sự sống riêng, cái mang tính chất cá nhân, từ từ chấm dứt. Hạt mầm vô hình, bé xíu ngày càng rõ và chín muồi bao nhiêu, linh hồn càng nâng cao lên đến vòng siêu việt bấy nhiêu, càng bám một cách vững chắc vào sự sống phổ quát bấy nhiêu.
Chủ thể hóa mỗi lúc một sâu hơn được duy trì bằng việc từ bỏ chậm rãi sự sống riêng biệt. Và ở mức độ cuối cùng chủ thể tuyệt đối
https://thuviensach.vn
nằm trong sự sống tuyệt đối: đấy là vị trí tuyệt đối của linh hồn. Tất cả các ấn tượng ngưỡng mà con người trải qua trong đời, trong mức độ lớn hay nhỏ đều có họ hàng với ấn tượng ngưỡng của cái chết. Có họ hàng bởi vì trong ý nghĩa của truyền thống cổ, ngưỡng giống như một sự chuyển dời khỏi đời sống, thực chất: “bước ra ánh sáng”, như người Ai Cập thường nói: bước chuyển dời từ sự sống người sang sự sống siêu nhiên.
Đây là trạng thái người ta hay gọi là esktazis. Còn bản thân ngưỡng (được gọi) là re-stau, vạch ranh giới chia cắt giữa sáng sủa và tăm tối, thiên nhiên và thế giới bên kia, đời sống và sự sống. Trên ranh giới của re-stau. Horus, ánh sáng và Seth, bóng tối, giao tranh với nhau. Linh hồn con người là mặt trời, bước ra khỏi bóng tối, khi sinh ra, và bước ra khỏi ban ngày, khi chết đi - khi mặt trời mọc ở phương Đông và lặn ở phương Tây.
Sinh ra không là việc khó khăn, bởi vì linh hồn con người từ sự quên lãng của vật chất không mang theo bản thân mình cái gì; nhưng ngưỡng khó khăn và khủng hoảng chính là cái chết, khi linh hồn cần nâng lên và chuyển đời sống vào sự sống: chuyển sự sáng sủa và tỉnh táo mà nó đã tiếp thu được. Chỉ có một ngưỡng duy nhất chân chính: ngưỡng của cái chết.
Nhưng ở đây theo truyền thống không phải một cái gì đó đợi con người, cái mà nó không thể biết và nhìn thấy trước. Cái đợi con người cũng giống như cái nó sống ở trần gian, chỉ tăng lên cao thêm một cách bao la hơn: đấy là sự sống.
Có thể chuẩn bị cho sự sống. Chuẩn bị như con người đã tiếp cận sự sống trong đời nó, thậm chí đã thực hiện. Các bậc thang phép thuật của sự nhập định là các ngưỡng và các mức độ mà con người ngay trong cuộc sống đã có thể bước lên. Bước lên như khi nó chết và từ bỏ thân xác, cái chết đối với nó không là gì khác ngoài bậc thang cuối cùng của sự nhập định.
https://thuviensach.vn
Theo truyền thống cổ linh hồn chuyển dời cần phải thực hiện các bậc thang phép thuật của sự nhập định bằng các bến đỗ trong thế giới bên kia, điều này đồng nhất với nhau bởi vì các bậc thang phép thuật, các bến đỗ ở thế giới bên kia của linh hồn chuyển dời đều từ thiên nhiên vật chất dẫn đến sự sống siêu việt.
3.
Môn huyền học: là mọi ấn tượng huyền bí và toàn bộ sự nhập định đều nằm trong sự đồng nhất của thế giới bên kia và sự sống siêu việt. Đạt đến mức độ cao hơn của sự sống có nghĩa là đạt tới bến đỗ nhất định của thế giới bên kia. Người học trò đợi nhập định đi hết con đường, đúng như linh hồn con người lúc từ bỏ thế gian vật chất.
Sự dạy dỗ này đối với con người lịch sử vô cùng khó hiểu. Đời sống của nó khép kín đến mức, cái có nghĩa là ranh giới nằm giữa thiên nhiên và thế giới bên kia -re stau - ngưỡng giữa đời sống và sự sống, đối với nó là một chướng ngại vật không thể bước qua nổi.
Câu hỏi nổi lên ở đây là: có phải ranh giới trở thành chướng ngại vật không thể vượt qua, vì sự quên lãng mất các tổ chức nhập định, và đời sống bị khóa kín đến mức đó vì cái quá trình có thể mở đời sống ra đã bị người ta quên lãng; hay trước đấy đời sống đã bị khóa kín đến mức không bao giờ có thể nghĩ đến chuyện mở nó ra được nữa, bởi vậy các tổ chức nhập định chấm dứt?
Trong mọi trường hợp ở thời lịch sử, sự nhập định, hay việc bước qua ngưỡng của sự tỉnh táo và nâng lên mức độ sự sống cao hơn hiếm khi xảy ra, chỉ ở các vị thánh hoặc ở các nhà huyền học, đôi khi có thể ở các nhà thơ hoặc nghệ sĩ - nhưng những người này phần lớn không hiểu cái gì xảy ra với họ, và: sự sống cùng thế giới bên kia chỉ là một, điều này họ không hề nhận biết.
https://thuviensach.vn
Trong thời lịch sử, ấn tượng hứng khởi (ekstazis) và nhập định ( epopteia) được coi là sự say mê, sự say sưa ngây ngất, nhãn thị siêu nhiên được người ta cho là hiện tượng cực kì đặc biệt, hiếm hoi. Hướng mở về phía những sức mạnh của sự sống và cái đi kèm theo: sự thiếp đi của cái Tôi cá nhân và ý thức đi kèm, thường bị nhân loại thời lịch sử coi là bệnh lí. Trong thời cổ, sức mạnh của sự sống hoàn toàn thẩm thấu vào con người trong một đời sống mở hơn, sáng sủa hơn, tỉnh táo hơn, một sự sống không thể so sánh nổi so với đời sống ngày hôm nay.
Trong sự sống mở, thế giới bên kia như một cái ngưỡng không hề bị tách ra khỏi đời sống. Đối với con người lịch sử, điều này thật đáng sợ. Đây là thời kì các huyền thoại kể rằng các thiên thần và con người vẫn còn sống cùng nhau. Đây là thời kì, mối quan hệ của những người đã sang thế giới bên kia chưa bị cắt hẳn.
Con người sống trong thiên nhiên vật chất luôn cho rằng đây là nơi mình sống, đây là cách mình sống, và thế là sự sống siêu việt chỉ còn là một phần hết sức bé nhỏ và chật hẹp. Cái chết đối với họ không là gì khác ngoài sự khủng hoảng và thất bại mà linh hồn bị đánh đồng với thể xác phải chịu đựng một cách vô lí. Họ không biết rằng, sự thất bại cần phải trải qua trong không-thời gian ở đây là điều mà sự sống siêu việt đòi hỏi. Bằng điều này, các bậc thang đi về phía sự sống làm dịu đi cơn khủng hoảng trong ý thức con người.
Sự nhập định từng: một mặt là sự thức tỉnh của con người trong một đời sống bị khóa kín, mặt khác là sự phá vỡ những giới hạn bị khóa. Hai điều này không chỉ song song, mà là một và như nhau. Sự thức tỉnh nâng con người lên sự sống cao hơn và cùng lúc mang lại sự sống mở. Nâng lên mức độ mà từ tinh thần của sự sống siêu việt con người nhìn đời sống trong thiên nhiên vật chất và đời sống trong thế giới bên kia chỉ khác nhau về cường độ: đời sống trong vật chất hẹp hơn, nhiều giới hạn hơn, non nớt hơn, bất lực hơn, u mê hơn, nhiễu nhương hơn, vô nghĩa hơn; còn đời sống ở thế giới bên kia tự do hơn, sáng sủa hơn, rộng hơn, có ý nghĩa hơn.
https://thuviensach.vn
Sự giống nhau của nhập định và bước chuyển dời qua thế giới bên kia như sau: cả hai sự thay đổi đều là, linh hồn nhận thức được bản chất ảo ảnh của thế gian vật chất, đều thấy chỉ có một hiện thực duy nhất là chủ thể, cái Tôi huyền bí, là bản thân linh hồn. Ý nghĩa của cả hai ngưỡng đều là linh hồn người rơi vào giữa những điều kiện để thức tỉnh về giấc mộng ảo vọng của thế gian vật chất, tự nhiên, bên ngoài, đặc thù, và tỉnh thức ra bản chất phù phép của nó - mà sự bổ sung là bắt buộc phải nhìn ra hiện thực của cái Tôi tinh thần mang sự sống, là chủ thể, tuyệt đối.
Sự nhập định và cái chết đều làm tan ra sự phù phép và trải rộng hiện thực chân chính của sự sống: bản chất Thần - chủ thể. Dùng từ của Schuler: sự sống không là thế giới bên kia, mà là đời sống chân chính: là những người chết. Cần nghiêm chỉnh nhận ra sự phân biệt này. Sự nhập định và sự chuyển dời không có nghĩa là linh hồn người bước sang một môi trường và thiên nhiên hiện thực hơn; môi trường và thiên nhiên chính cái là cái ảo ảnh và cần tan ra.
Ở mức độ cao hơn của sự sống: thiên nhiên, sự vật, sự việc, vật chất, cái bên ngoài, tuyệt đối không là cái gì khác ngoài phép mầu của linh hồn chủ thể. Con người trong sự nhập định, một cách có phương pháp, trong quá trình tinh thần hóa dần dần nhận ra nhân tố này.
Trong cái chết cần phải nhận ra nhân tố này một cách định mệnh. Và ở thế giới bên kia không phải môi trường và thiên nhiên giống như thế gian đã kinh nghiệm hóa này đón chờ con người; cái đón chờ con người là một nhận thức bắt buộc, rằng bất kì hiện thực bên ngoài nào cũng không có. Cái có, cái là hiện thực, và duy nhất, đấy là cái Tôi Thần. Đấy là chủ thể.
Bởi vậy Schuler nói, thế giới bên kia không phải là đời sống tinh thần (kvintessencialis) - Schuler gọi sự sống như thế, đời sống tinh thần là những người chết. Thế giới bên kia không phải là khách thể, mà là thế giới chủ thể, không phải là sự vật và sự việc, mà là thế giới của chủ thể và các chủ thể, và ngoài bản chất của những người chết ra, trong thế
https://thuviensach.vn
giới bên kia không có gì hết. Toàn bộ thế giới bên kia không là gì khác ngoài sự chủ thể hóa của những người đã chết.
Nhưng không chỉ thế giới bên kia mới chủ thể hóa như thế, mà mức độ cao hơn của sự sống cũng như vậy. Linh hồn con người, khi trải qua những bậc thang nhập định, hay khi chuyển hóa, rơi vào một sự thay đổi căn bản: nó bắt gặp lại bản thân mình bị bứt ra khỏi thế gian bên ngoài và vật chất. Nó bắt buộc nhận ra, cái bên ngoài và thế gian vật chất luôn phi hiện thực, và chưa bao giờ cái thế gian này là gì ngoài sự phù phép của chính bản chất mình trong một sự sống bị thoái hóa.
Kẻ nào giải thích sự dạy dỗ của Tử thư Ai Cập, Hermes Trismegistos, Zohar, Veda Ấn Độ hay Tử thư Tây tạng, hay các cuốn sách cổ thiêng khác là: thiên nhiên bên ngoài mang tính vật chất, là sự bị phù phép của cái Tôi cá nhân, kẻ đó đã hiểu sai về truyền thống. Không có tất cả những điều này. Bởi vì cái Tôi cá nhân cũng không là gì khác ngoài ảo ảnh, thứ sẽ tan ra trên ngưỡng nhập định, hoặc trên các bậc thang của sự chuyển hóa.
Ảo ảnh, sự phù phép là ảo ảnh của Atman, maja, là ảo ảnh của linh hồn con người siêu việt, con người vĩnh cửu. Chính vì thế ảo ảnh, sự phù phép của cái Tôi cá nhân không thể làm tan ra. Sự tan đi phải bắt đầu chính tự nó - ahamkara, bằng sự hút vào tự thân, ahamkara không chỉ hút cái Tôi cá nhân, mà cả những cái Tôi vật chất. Đây chính là điều khó có thể làm được.
Sự thanh toán ảo ảnh phải bắt đầu bằng cái Tôi thần thánh, từ linh hồn vĩnh cửu. Thấu ngộ tuyệt đối phải do chủ thể tuyệt đối thao tác. Bản thân cái Tôi cá nhân cũng là một sáng tạo thiên nhiên. Một hóa công, như các cuốn sách thiêng từng nói. Chỉ là ảo ảnh của chủ thể vĩnh cửu. Cá nhân hóa, thiên hình vạn trạng, hình ảnh mộng, ảo ảnh. Và trên các bậc thang nhập định, đúng như trong các bước đầu tiên và đáng sợ nhất của sự chuyển hóa, cần tiêu hủy cái Tôi cá nhân này.
Bước đầu tiên của ngưỡng là cái Tôi cá nhân, cần lay động vị trí thống trị của ahamkara, và cần phải đến với atman, cái Tôi vĩnh cửu.
https://thuviensach.vn
Đây là bước cơ bản. Thiếu bước này sự nhập định tuyệt vọng. Bởi vậy mọi thử nghiệm nhập định của châu Âu hiện đại đều thất vọng. Chỉ có thể bước vào sự sống sau khi đã diệt trừ cái cá nhân hóa: bởi sự sống là siêu việt. Và sau khi cái Tôi cá nhân, sự cá nhân hóa - ảo ảnh bị diệt trừ, linh hồn từ từ nhận hiện thực “cái Tôi Thần”, chủ thể.
Thế giới bên kia không phải là thế giới trong nghĩa như thiên nhiên vật chất, mà là sự hiện thực hóa các mức độ khác nhau của chủ thể tuyệt đối và phổ quát. Ở thế giới bên kia không có gì khác ngoài một cá nhân, tinh thần, chủ thể, linh hồn: trên những mức độ khác nhau của sự tỉnh táo, là thứ có nghĩa như sau: trên những mức độ khác nhau của hiện thực hóa sự sống tinh thần hoàn hảo: bắt đầu từ trạng thái u mê đến tận sự thức tỉnh rạng rỡ.
4.
Chỉ giữa những môi trường như vậy và sau những lai lịch như vậy mới hi vọng con người lịch sử hiểu ý nghĩa về các bậc thang phép thuật trong sự nhập định, và những diễn đạt cổ như: “Sự cắt đứt với những mối quan hệ con người”, “Cởi bỏ thân xác” - “Sự thanh toán thế giới giác quan”.
Các cách diễn đạt này nói về sự tước bỏ các tấm chăn bao quanh hạt thực thể người - cái Tôi bất tử. Những lớp chăn bên ngoài đó là: giác quan-thể xác, ngày nay người ta gọi là thực thể sinh học, hệ thần kinh, và sau cùng: thực thể tâm lí, hay ý thức, vô thức cá nhân gắn với linh hồn cá nhân, kí ức, thế giới cảm giác-tưởng tượng, bộ não, trí tưởng tượng. Ba cái này có tên gọi là cái Tôi kinh nghiệm. Đây là thứ mà vài ba trăm năm nay người ta cho rằng đấy là con người, với niềm tin, con người không là gì khác ngoài một thể xác, hệ thần kinh, thực thể tâm lí.
https://thuviensach.vn
Bậc thang lớn đầu tiên của sự nhập định có mục đích: làm lung lay cái Tôi kinh nghiệm này trong vị trí độc tôn của nó. Đây cần là mục đích đầu tiên, bởi vì chừng nào linh hồn còn nhầm lẫn bản thân nó với cái Tôi kinh nghiệm, chừng đó nó vẫn bị khóa lại giữa những vòng sự sống. Mục đích đầu tiên rất cần bởi vì bước đầu tiên này con người không thể tự mình tiến hành. Cái Tôi kinh nghiệm tắc nghẹn trong cổ, khi nghe nói đến cái Tôi bất tử - hướng mở ra về phía sự sống mở. Cần có một người thầy “từ trên” giúp nó giải quyết.
Sự nhập định thời cổ không thể hình dung nổi nếu thiếu người thầy. Kiến thức của người thầy không mang tính chất cá nhân, mà có thể nhận được từ các vị tiền bối, và các vị này lại từ các bậc đi trước nữa. Ở Ấn Độ người ta cho rằng Manu là người cứu các kiến thức nhập định từ các thời đại trước nạn hồng thủy; ở Ai Cập cũng là nhân vật này với tên gọi Hermes Trismegistos đã Hi Lạp hóa; ở Mexico là Kecalkoatl.
Truyền thống Judea cho rằng người nói đến sự nhập định đầu tiên là Seth, con trai của Adam và Eva. Truyền thống khác lại cho rằng tri thức này do các thiên thần dạy cho con người. Bản thân tri thức này ở tất cả các dân tộc cổ đều là bí ẩn của lớp tăng lữ cao nhất - đẳng cấp tinh thần, của Zarathustra, của Toth, Manu.
Còn tại sao cần có thầy bên cạnh người học trò trên các bậc thang khủng hoảng của sự nhập định, câu trả lời không khó lắm. Bên cạnh một quá trình, bất kì là quá trình gì để con người ngộ ra, đều cần đến một quá trình khác. Các cảm giác, sự tưởng tượng, ấn tượng, tri giác, ý đồ, nếu được tiếp nhận hoặc đào thải một cách dễ dàng, thường không gây trở ngại cho con người, và đều không giúp con người nhận thức.
Nhận thức là giới hạn khi một sự bối rối mơ hồ tiến nhập vào con người: là nơi mọi bản năng dù chạy ra ngoài hoặc vào trong đều bị đổ vỡ một cách tinh vi, như ánh sáng trên mặt nước. Sự đổ vỡ, sự bối rối mơ hồ tiếp diễn trên con đường của các bản năng, sự muộn mằn bé nhỏ không đo được và nhảy xóc lên này là quá trình “thứ hai”, rất cần thiết để một cái gì đấy trở thành ý thức hóa, để từ đó con người nhận thức ra
https://thuviensach.vn
một cái gì đấy. Tâm lí học hiện đại gọi quá trình này là appercepcio (tự giác).
Nếu sự đổ vỡ vụn vặt này không xảy ra tiếp sau những ức chế nhỏ bé khó đo lường nổi, có lẽ con người sẽ tiếp nhận và đào thải các ấn tượng và các bản năng một cách trơ lì và toàn bộ đời sống sẽ diễn ra một cách vô thức. Ý thức đứng giữa những bản năng bên ngoài và bên trong, nhiệm vụ của nó là làm gãy các tia khúc xạ, và vì thế đánh thức các linh hồn thức tỉnh để nhận thức. Ý thức là bộ phận của diskontinuitás (sự gián đoạn).
Khi trong con người quá trình của gián đoạn này đứt, sự thức tỉnh trong giấc ngủ và sự suy sụp cũng tắt. Rất cần thiết phải duy trì sự tỉnh táo, hay duy trì quá trình thứ hai để nhận lấy và bảo tồn nhận thức sự vật, khi ý thức tắt.
Muộn hơn, khi bản thân kẻ nhập định biết tự tắt và tự duy trì ý thức, nó trải qua các mức độ khác nhau của niềm hứng khởi (ekstazis), bản thân nó có thể thu quá trình thứ hai từ mức độ ý thức của cái Tôi kinh nghiệm vào sự thức tỉnh của cái Tôi siêu việt, và như vậy không hề đánh mất bản thân trong trạng thái samadhi sâu nhất. Truyền thống Hindu gọi sự dập tắt hoàn toàn ý thức là samadhi.
Nhưng nếu con người chưa biết cách làm dừng quá trình liên tục của diskontinuitás (sự gián đoạn), nó vẫn bị đứt đoạn vì môi trường chẳng hạn, lúc đó sự nhập định dễ dàng biến thành một cái chết thật sự. Bởi vậy cần người thầy bên cạnh học trò, trong thời gian ý thức bị đứt đoạn, thầy sẽ bảo hộ học trò bằng sự tỉnh táo riêng của mình, thay thế ý thức của học trò bằng ý thức riêng của mình. Quá trình này diễn ra tất nhiên, phức tạp, kĩ càng, khó khăn, đòi hỏi trực giác tâm linh, tầm hiểu biết, sự cảm nhận, mà con người thời lịch sử gần như không thể hiểu nổi.
Nhiệm vụ người thầy dạy nhập định cần hoàn thành với học trò của mình là làm lay động vị trí tuyệt đối của cái Tôi kinh nghiệm, để giải thoát kẻ học trò khỏi đời sống khóa kín. Cần phải đánh thức dưới
https://thuviensach.vn
cái Tôi kinh nghiệm một thực thể tồn tại ở đằng sau, bên trên và ở dưới sâu, một thực thể đại cương hơn, để học trò nhìn thấy bản chất thấp và trong vòng sinh tử của cái Tôi bên ngoài, để học trò tập trung toàn bộ sức lực, không bao giờ đồng hóa mình với cái Tôi giác quan nữa.
Sự nhập định xảy ra từ điểm dễ bị tấn công nhất thông qua ý thức. Người thầy thông qua ý thức đặt học trò dưới những tác động làm lung lay dao động kẻ học trò. Sự bấp bênh của ý thức bắt đầu run rẩy mờ nhạt trong nó. Sự tác động cực kì nguy hiểm và mạo hiểm. Cái mà người thầy muốn đạt tới: làm đứt đoạn sự liên tục của ý thức.
Muốn làm đứt đoạn bởi người thầy muốn học trò trải qua trạng thái nó không còn ý thức nữa. Đây là trạng thái con người trải qua khoảnh khắc của cái chết. Đây là giây phút đáng sợ và khủng khiếp, khi ý thức của con người tắt, cùng lúc đó cái gọi là thế giới bên ngoài cũng tắt, thiên nhiên vật chất cùng ý thức đơn giản là bốc hơi.
Nếu người thầy làm đứt đoạn sự liên tục của ý thức học trò, kẻ đợi nhập định hiểu rằng trong ý thức, nó nhìn thấy thế giới tự nhiên như hiện thực, và thấy cái Tôi tự nhiên như hiện thực, trong khi thực ra nó đang đi xuống một con tàu chắc chắn sắp chìm. Thân xác là con tàu này, với những thứ không thể cứu vãn nổi: da thịt, xương, máu, dây thần kinh, ý thức, trí não, các đam mê. Chừng nào người ta còn nói, chừng đó nó còn không tin. Không thể tin được. Nhưng khi nó trải qua trạng thái đứt đoạn của ý thức, nó cần phải tin. Và giờ đây nó bắt đầu biết tin.
Hành động làm đứt đoạn ý thức vô cùng khó khăn; truyền thống cổ, khi nhắc đến cái chết ở đây, tuyệt đối dùng không thừa từ ngữ to lớn này. Trong con người lúc đó chính xác sự đổ vỡ định mệnh tiếp diễn, cái xảy ra trong giây phút của cái chết. Và sự thăng hoa sau đổ vỡ, sự tái sinh, bằng từ ngữ của truyền thống: sự ra đời không từ người cha và người mẹ thiên nhiên mà theo trật tự của tinh thần vĩnh cửu, trạng thái bước ra thật sự khỏi thế gian. Cách diễn đạt này không hề là sự lạm dụng từ ngữ một cách quá đáng.
https://thuviensach.vn
Việc trải qua ngưỡng lớn của sự nhập định đòi hỏi một tri thức mà con người lịch sử hoàn toàn không biết đến mảy may. Cần nhận thức lại về con người, linh hồn, tinh thần, thế gian, hiện thực, thứ nhận thức con người lịch sử đã đánh mất từ lâu, giờ đây người ta bắt đầu đi thu nhặt các mảnh vụn của nó. Và chừng nào con người còn chưa biết ít nhất đến nhân chủng học cổ trong những phác họa lớn, chừng đó cần phải im lặng khi nói về chi tiết và kĩ thuật của nhập định.
5.
Sự sống mở và mối quan hệ với cái chết cho phép bàn đôi chút đến các bậc thang phép thuật trên nền tảng của những cuốn tử thư còn sót lại từ thời cổ. Những hình thức lịch sử của các cuốn tử thư này là những cuộc du hành sang thế giới bên kia: những ấn tượng của Dante, Ardai Viraf, Odüsszeu. Ngoài cuốn Popol Vuh của Mexico, Tử thư Tây Tạng (Bardo Tödol) kỉ vật cổ quan trọng nhất là cuốn Tử thư Ai Cập (Pert em heru - có nghĩa là Bước ra ánh sáng).
Katabazis, hay thuật ngữ “cởi bỏ” dễ dẫn đến sự hiểu lầm. Thực ra không có sự cởi bỏ nào ở đây. Nhưng cũng có thể dùng từ “đi lên” (anabasis). Không chỉ vì, như Herakleitos nói: “Con đường đi lên và đi xuống như nhau”, mà bởi vì sau cái chết linh hồn bắt đầu từ đầu và hoàn toàn mới trong vòng của sự sống, nơi mà hướng đi lên hay xuống đều là tương đối.
Ngưỡng đầu tiên của linh hồn chuyển dời: re-stau, ranh giới giữa sáng và tối mà con người thông qua đó bước ra ban ngày. Sự thức tỉnh của linh hồn quyết định bản chất khủng hoảng của bước đi ra này. Linh hồn cần đồng nhất mình với Oziris, với mặt trời, kẻ sinh ra ở đằng đông hằng ngày và chết đi ở đằng tây hằng ngày, nhưng không bao giờ đánh mất sự tỉnh táo.
https://thuviensach.vn
Oziris - tính chất Thần “Căm thù sự ngủ và khinh thường sự mê muội”. Kẻ vĩnh viễn tỉnh táo. Hình ảnh tượng trưng của cái Tôi bất tử. Linh hồn bước qua re-stau biến thành Oziris, nếu tỉnh táo nó nhìn thấy cái gì đợi nó.
Cái gì đợi nó mới được chứ? Linh hồn từ phút này qua phút kia không cởi bỏ được trạng thái bị phù phép. Nó vẫn tiếp tục ảo vọng, và vẫn tin những hình ảnh nó hình dung là hiện thực. Những hình ảnh đó giờ đây là những con quái vật khủng khiếp tấn công nó. Rắn rết và cá sấu lượn lờ xung quanh, muốn ngoạm chân, tay, đầu nó.
Nhiệm vụ của cuốn Tử thư là chăm sóc thực thể bước vào thế giới bên kia. Cuốn Tử thư thay thế người thầy. Việc đầu tiên của mọi sự bắt đầu là làm cho linh hồn mở miệng. Tại sao? Cần trả lại Lời cho nó. Lời, truyền thống Hindu gọi là mantra (Chân ngôn), muộn hơn những người theo truyền thống Hermes gọi là logo.
Mantra không phải là thần chú như người thời lịch sử tưởng thế. Đây là một khả năng phép thuật: Nói ra. Nói. Liên quan. Chuyển. Cũng như thế: yêu. Nói luôn luôn là nói với người khác: mở ra và ôm lấy. Mở ra, ôm lấy, tình yêu thương và sự liên quan chính là nỗi bày tỏ: là mức độ; và điều này không là gì khác ngoài sự tỉnh táo. Vì Lời con người đến với sự tỉnh táo. Đây là ý nghĩa của mantra.
Những Lời thiêng, lời kinh mà cuốn Tử thư đưa vào miệng kẻ chuyển hóa, đánh thức linh hồn nó khỏi sự suy sụp. Lay động, để linh hồn đừng rơi vào quyền lực của cá sấu, rắn rết - những ảo ảnh riêng của nó. Lời đánh thức kí ức của linh hồn, ấn tượng của sự nhập định trong kí ức. Lời đánh thức trái tim nó. Cần bảo vệ trái tim, bởi vì tim là ý thức trời, là trung tâm của tình yêu thương. Khi quái vật định cướp linh hồn đi, cần đọc mantra: “Trái tim này của Oziris. Mi đừng cho phép nó lấy mất trái tim của ta. Đừng cho phép nó làm tổn thương”.
Quái vật rút lui khi nghe tên Oziris. Giờ đến quái vật tấn công Lời. Đây là nguy hiểm lớn nhất. Bởi vì linh hồn bằng khả năng của Lời đặt tên được sự vật và các thực thể, việc đặt tên là một hành động phép
https://thuviensach.vn
thuật, thu quyền lực của chúng. Lời mở ra một quá trình khủng khiếp, thứ quan trọng nhất trong cả đời sống và sự sống: nếu con người tiếp xúc với sự vật hoặc thực thể bằng Lời, bộ mặt và ý nghĩa thật của nó bắt buộc phải lộ diện.
Bộ mặt và ý nghĩa thật phải lộ diện nghĩa là thế nào? Nghĩa là bản chất của ảo ảnh bị vạch trần. Chi tiết hiện tượng của tất cả truyền thống cổ đều có quan hệ với ấn tượng trọng tâm siêu hình học duy nhất, từ đó nó quay trở lại và từ đó có thể hiểu được. Đây là ấn tượng duy nhất: hiện thực của sự sống là linh hồn; cái tồn tại ngoài linh hồn chỉ là sự phù phép của bản chất linh hồn thoái hóa, là ảo ảnh.
Lời là công cụ để phơi bày nhân tố cổ này. Truyền thống Hindu cổ gọi là mantra-vidja, điểm xuất phát tỉnh táo. Kiến thức của những từ ngữ này trong truyền thống Hermes gọi là Sự Bí Ẩn Của Các Bí Ẩn Lớn: Müstérion Mega.
Khi linh hồn con người, cho dù trong thiên nhiên vật chất, hay trong sự sống của thế giới bên kia đặt tên một cái gì hoặc một ai bằng Lời, bản chất ảo ảnh của cái đó lập tức biến mất. Đây là bí ẩn của logo, của mantra. “Linh hồn của ta đã đến - khách bộ hành của thế giới bên kia trong Tử thư Ai Cập nói - trò chuyện với cha của nó và Ngài, Quyền Lực Vĩ Đại đã cứu nó khỏi tầm con cá sấu. Ta biết chúng theo những cái tên”.
Ở một bậc thang khác linh hồn nói như sau: “Mọi sự việc của thế gian đều sinh ra trong bàn tay ta; cả những thứ chưa bước ra thế gian, vẫn ở trong ta”. Linh hồn nhận ra, nó tạo ra các sự việc. Không có sự sống nào độc lập với nó. Thế gian là sáng tạo của linh hồn: “Mọi sự việc sinh ra trong lòng bàn tay ta”. Và trong linh hồn còn vô số khả năng của các thế gian: vô số hình ảnh, tư tưởng chưa hiện thực hóa: “thứ còn chưa bước ra thế gian”. Linh hồn nhận ra điều này bằng sự giúp đỡ của Lời. Lời là thân xác chân chính của linh hồn. “Áo quần của ta là động từ của mi, thần Ra của ta!”
https://thuviensach.vn
Giữa các chương của Tử thư Ai Cập có rất nhiều mantra, logo để chống lại sự tấn công của rắn, của cá sấu, bọ cạp. Con người lịch sử đứng ngơ ngẩn trước các câu chân ngôn, bởi vì họ không thể hình dung nổi, tại sao cần phải bảo vệ những người chết khỏi sự tấn công của bọ cạp? Tại sao cần đuổi rắn Rerek khủng khiếp đi? Tại sao cần đánh nhau với nữ thần Selk? Tại sao cần đánh nhau với Apel, kẻ thù của thần Ra? Bọ cạp, quái vật, rắn không là gì khác ngoài ảo ảnh tấn công sự tỉnh táo của linh hồn ngay cả ở thế giới bên kia. Sức mạnh của các mantra làm tan ra các ảo ảnh.
Bây giờ đến sự hóa thân (metamorfozis) của linh hồn. Biến thành hoa sen, thành chim Bennu, thành con én, con rắn. Thí nghiệm mới, hiểm nguy mới. Bậc thang mới. Cái miệng đã mở cứu nó.
Muộn hơn, linh hồn gặp con tàu. Nhiệm vụ là cần đặt tên tất cả các thành phần của tàu. Cột buồm lên tiếng, tay lái, cánh buồm, ghế dài, linh hồn cần nêu những cái tên. Linh hồn đi hết phạm vi của nghiệp: cần phải nhận biết tất cả và đặt tên tất cả. Nghĩa là gì? Ngắn gọn thế này: Ôi, tội nghiệp linh hồn nếu mi mắc lại ở bậc thang nào đấy. Nó sẽ lập tức hóa thành hoa sen, hay con rắn, hay bọ cạp, như buổi ban đầu của mọi thời gian biến thành thiên nhiên vật chất.
Quyền lực của mantra là nhìn thấy đặc tính nghiệp của bậc thang, nhận ra rằng chỉ là bậc thang, bến đỗ, mức độ. Ảo ảnh. Không được dừng lại! Không được mắc kẹt ở đâu cả! Lời mở toàn bộ các cánh cổng và làm tan ra toàn bộ sự phù phép. Lời là quyền lực lớn nhất của thế gian. Lời là sự sáng sủa. Lời là sự tỉnh táo.
Đích sau cùng linh hồn đạt tới mức độ Nab-er tcher. Mức độ này có nghĩa là: Đấng Của Tất Cả. Bởi vì con người đầu tiên - Adam Kadmon - là vua của tự nhiên. Lúc đó gọi là Oziris, khi Seth, bóng tối bên ngoài chặt con người đầu tiên này ra từng mảnh, nhưng Izis nhặt lại các mảnh tứ chi và lắp vào.
Đấng Của Tất Cả là người trong sự quên lãng dày đặc và tối tăm của vật chất bị chặt ra từng mảnh, hay nói cách khác trong vật chất
https://thuviensach.vn