🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Minh Triết Thiêng Liêng - Tập 1 Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn https://thuviensach.vn ebook©vctvegroup 07-02-2019 https://thuviensach.vn Lời nhà xuất bản Xin bạn đọc lưu ý, Nhà xuất bản Tri thức trân trọng giới thiệu bộ 3 tập sách Minh triết thiêng liêng (Scientia Sacra) của Hamvas Béla, do dịch giả Nguyễn Hồng Nhung dịch một cách đầy đủ và mạch lạc. Chúng tôi tôn trọng, nhưng không nhất thiết đồng tình với quan điểm, cách tiếp cận và lí giải riêng của tác giả về các vấn đề được đề cập đến trong cuốn sách. Chúng tôi mong độc giả đọc cuốn sách này như một tài liệu tham khảo với tinh thần phê phán và khai phóng. Xin chân thành cảm ơn! https://thuviensach.vn Tiếng gọi từ “Thời Trục” Bùi Văn Nam Sơn Thật là một cơ duyên hiếm hoi khi người đọc Việt Nam được thưởng thức một công trình dịch thuật đồ sộ và lừng danh trước cả những người sử dụng các sinh ngữ quốc tế quen thuộc như Anh, Pháp, Đức v.v. Bản dịch ra các sinh ngữ nói trên của bộ Minh triết thiêng liêng (Scientia Sacra) của Hamvas Béla gồm ba tập, theo chỗ chúng tôi được biết, mới đang ở dạng bản thảo, chưa được công bố chính thức và trọn vẹn. Gọi là cơ duyên thiết nghĩ không sai, bởi nếu không có dịch giả Nguyễn Hồng Nhung, sống và làm việc lâu năm tại Hungary, am tường tiếng Hung, làm vị... “nữ thần Hermes” giữa hai bờ ngôn ngữ, ắt người đọc chúng ta không có được may mắn ấy! Từ nhiều năm nay, bên cạnh việc dịch nhiều tác giả khác của nền văn học Hungary, Hồng Nhung dành thời gian và tâm lực để giới thiệu Hamvas Béla cho người đọc Việt Nam một cách có hệ thống, và bây giờ chị thấy đã đủ điều kiện để đi vào khám phá và dịch Minh triết thiêng liêng, được xem là tác phẩm chính của Hamvas Béla. Thoạt đầu, chúng ta không khỏi có đôi chút ngỡ ngàng khi nghe tên Hamvas Béla, một tác giả hầu như khá xa lạ, nhưng rồi sẽ kinh ngạc, say mê mà lại thật gần gũi trước những áng văn tuyệt tác, huyền ảo của ông. Càng kinh ngạc hơn khi được thưởng thức văn dịch tiếng Việt trôi chảy và mượt mà hiếm có từ một dịch giả sống xa quê hương nhiều năm. Không có một công phu “hàm dưỡng” đặc biệt nào đó, ắt https://thuviensach.vn khó thể có một cuộc tao ngộ lạ thường và đẹp đẽ như thế giữa hai ngòi bút, hai tâm hồn! “Bí mật” ấy dường như được giải tỏ phần nào khi ta đọc những dòng lai láng: “ghi chép khi đọc và dịch Hamvas Béla” của Hồng Nhung. Thật hiếm có một dịch giả nào yêu mến và say sưa đối với tác giả “của mình” đến như thế! “Mình có cảm giác giống một sinh viên sắp vào đại học khi chuẩn bị dịch sách của ông, không hiểu có làm nổi không đây, nhưng chắc chắn phải miệt mài, miệt mài... vậy thôi. Nhưng rất thích là tự dưng thấy chẳng có gì quan trọng nữa, chỉ muốn vùi tâm huyết vào dịch Hamvas thôi”... “Đọc Hamvas, bất kì lúc nào có thể, bất kì ở đâu, bất kì trạng thái thời gian, khoảnh khắc nào... Bác Hamvas hiện lên như một người đàn ông dịu dàng, nhẫn nại và chăm chú, đợi Nguyễn Hồng Nhung xong mọi việc ngớ ngẩn, sau đó bắt đầu ngồi xuống và hai người mở sách ra cùng chìm ngập vào đó...” “Có cảm giác mỗi ngày sống bây giờ sẽ rất thiếu thốn, nếu không đọc Hamvas. Bởi vì ông làm mình hiểu sâu sắc hơn về cuộc đời này; đời sống mở ra vô tận trước mắt, nhưng lại theo một trật tự rõ ràng, từ trên xuống dưới, hiểu từ điều nọ, sang điều kia, hết sức sáng sủa, logic và giản dị. Từ ngày đọc và dịch Hamvas, thấy mình thanh lọc. Bớt dần dần những điều thừa, sửa lại những điều hiểu sai, làm sáng sủa những điều trước kia mù mờ”. Đọc Hamvas Béla, Hồng Nhung “cảm ơn Thượng Đế đã cho ta biết tiếng Hung!”, vì với Hồng Nhung, tiếng Hung - ngôn ngữ “mẹ đẻ” thứ hai - “(thêm một lần nữa khẳng định!) đúng là tiếng của các THÁNH. Từ một từ gốc (chính xác vô cùng) kết cấu thêm các đuôi để thành những từ khác cũng chính xác vô cùng. Ví dụ: từ Rend - trật tự - chỉ một cái đã có sẵn, vô tận. Thêm đuôi: szer (chỉ những cái gì là công cụ, nhân tạo) thành ra từ: Rendszer - Hệ thống. Hamvas viết: khi mất ý thức về trật tự, người ta phải tạo ra hệ thống, nhìn từ gốc của Hung: rend-rendszer thấy và hiểu ngay ra ý này, tuyệt!”. Nhưng, tất nhiên phải là tiếng Hung qua sự chưng cất của Hamvas Béla, được Hồng Nhung cảm nhận sâu sắc như “quá trình luyện vàng”: “Không thể thiếu được linh hồn của Hamvas Béla trong những ngày https://thuviensach.vn này - triết gia tâm linh quá đỗi vĩ đại trong nền văn hóa Hungary. Ông làm cho tôi có cảm giác, cứ đọc thêm một trang sách của ông là một ngày mình ngập sâu thêm chút nữa trong thế giới của ánh sáng vũ trụ huyền diệu, vì ông chỉ ngay ra cốt lõi của sự vật, hết sức nguyên thủy, hết sức tất nhiên, như chính là nó, không thể khác được, như nhạc của Beethoven đập ngay vào trực giác, khiến tôi biết ngay mình đang cảm nhận cái gì”. Càng thấy dễ chia sẻ với Hồng Nhung sự “ngây ngất trong cảm giác hạnh phúc” trước “thế giới của Hamvas ấm áp, thư giãn, tinh khôi, giống hệt cảm giác chui vào chăn đệm mùa đông thơm tho sạch sẽ, hứa hẹn một giấc ngủ ngon lành tự nó đến bằng đôi chân hay đôi cánh của nó, ta chỉ việc mỉm cười, và từ từ thiếp đi...”, thì càng thấy khó khi được dịch giả tin cậy giao cho việc viết đôi dòng giới thiệu bộ sách khổng lồ này. Khó khăn thứ nhất, tất nhiên là rào cản ngôn ngữ khi người giới thiệu không đọc được tiếng Hung từ trong nguyên bản. Nhưng, sự chặt chẽ, trau chuốt của bản dịch cho ta sự yên tâm về chất lượng của nó. Thế còn tác giả xa lạ, và nhất là nội dung phong phú, phức tạp và quan trọng của tác phẩm? Quả là một thách thức không dễ vượt qua đối với một người tự biết chỗ đứng khiêm tốn của mình, không khác mấy với cảm nhận của chính dịch giả: “có thể khối tri thức khổng lồ mà Hamvas đưa ra khiến mình đuổi theo không kịp những suy nghĩ của ông, vì mỗi ý tưởng lại liên quan đến một khối lượng tri thức khác, khiến mình phải dừng lại”. Tuy nhiên, tôi vẫn mạnh dạn viết mấy lời này, bởi tin vào nhận xét ngay sau đó của dịch giả sau khi đã phải “lật nhào cả đống từ điển mọi kiểu lên tìm”: “Nhưng không có cảm giác bị tri thức đánh đố, bởi mọi suy nghĩ của Hamvas hết sức sáng sủa và logic, và nhẹ nhàng, giản dị, có thể lần theo dấu vết chỉ dẫn để tìm ra nguồn, hoặc dừng lại để ngẫm nghĩ và hiểu ông định nói gì”. Bài viết sau đây cố lần theo “sợi chỉ Arian” hay “vết lông ngỗng Mị Châu” như thế để tìm hiểu sơ qua về tác giả và những vấn đề đặt ra trong tác phẩm, hiểu như “kí ức văn hóa” và con đường giải cứu trước “khủng hoảng của thời đại”, trong sự đối chiếu thật khái quát với các nhà tư tưởng đương đại có cùng một https://thuviensach.vn mối quan tâm (đặc biệt với Karl Jaspers trong quan niệm của ông về “Thời Trục” (Achsenzeit/axial Age)). https://thuviensach.vn 1. Hamvas Béla (1897-1968): “Kì nhân dị sĩ” Tôi không tìm được cách gọi nào khác hơn khi tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp sáng tác và biên khảo dị thường của Hamvas Béla. Một bậc “kì nhân”, bởi, một cách âm thầm, ông tự trang bị cho mình một kiến thức quảng bác và thâm sâu hiếm có về hàng chục ngôn ngữ và nhiều nền văn hóa cổ đại. Một “dị sĩ”, bởi ông không chịu đầu hàng số mệnh, kiên trì theo đuổi chí hướng và suy tư của mình đến cùng trong nghịch cảnh cực kì khốc liệt của sự bạc đãi và bị cô lập. Một đấng “trượng phu” với tâm hồn và cốt cách của “hiền nhân”! Đến năm 17 tuổi, ông sống với gia đình tại vùng Bratislava (bấy giờ còn thuộc Hungary), đi học và rồi tham gia Thế chiến I (1914- 1918) ở mặt trận Nga và Ukraine. Sau nhiều lần bị thương, ông được giải ngũ, nhưng sau chiến tranh, cả gia đình bị trục xuất, vì cha ông - sau hòa ước Trianon - không chịu tuyên thệ trung thành với Slovakia. Gia đình dời về Budapest; ông học đại học, làm kí giả năm 1923, ở một trong những tòa báo lớn nhất của Budapest. Từ 1927 đến 1948, ông làm thủ thư của Thư viện thành phố. Nhưng, từ 1940, ông nhiều lần bị động viên nhập ngũ. Ông tham chiến tại mặt trận Nga, đến năm 1944 khi cùng đơn vị chuyển sang Đức, ông đào ngũ về nhà. Tháng Giêng 1945, một quả bom rơi đúng ngôi nhà của Hamvas và phá hủy toàn bộ thư viện gia đình cùng với vô số bản thảo của ông. Sau chiến tranh, ông lại bắt tay vào việc, hăng say diễn thuyết, chuẩn bị công bố hàng loạt tác phẩm, mong đợi sự hợp tác với Gyorgy Lukács vừa hồi hương từ Liên Xô. Trái với mong đợi, G. Lukács - sẽ là nhà lãnh đạo văn hóa quan trọng của chế độ mới và là nhà tư tưởng có ảnh hưởng mạnh mẽ https://thuviensach.vn đến Tây Âu sau này, nhất là đến “Trường phái Frankfurt” - vào năm 1948, đã phê phán kịch liệt tác phẩm vừa mới công bố của Hamvas: Cuộc cách mạng trong nghệ thuật - Trường phái trừu tượng và siêu thực ở Hungary. Hệ quả của sự phê phán này là Hamvas bị cấm công bố tác phẩm, mất nghề thủ thư, và các thành viên thuộc “trường phái Âu châu” theo phái trừu tượng và siêu thực cũng bị cấm triển lãm tác phẩm, bắt đầu thời kì khó khăn kéo dài đối với Hamvas mãi cho đến khi ông qua đời. Từ 1948 đến 1951, Hamvas lui về làm vườn ở Szentendre, một thành phố nhỏ gần Budapest; từ 7.1951, làm thủ kho trong một xí nghiệp cách Budapest hơn trăm cây số. Rồi từ 1954 đến 1962, ông làm thợ phụ ở phía đông Hungary. Trong lao động vất vả giữa sự ồn ào trần tục, Hamvas dành từng phút giây rảnh rỗi để âm thầm phiên dịch kinh Upanishaden, các tác phẩm thiền học, huyền học Tây Tạng hay kinh khải huyền Henoch. Mỗi lần về nhà, ông lại mang theo sách, và giấu kín những luận văn, tiểu thuyết và các tác phẩm triết học đã biên soạn. Năm 1964, ông được nghỉ hưu, nhưng vẫn không được công bố tác phẩm. Hamvas qua đời ngày 7.11.1968 trong cảnh âm thầm. Bản thảo của ông được chuyền tay dưới dạng bản sao. Từ những năm 1970, ngày càng nhiều người biết đến tên tuổi ông, kể cả những người chưa được đọc tác phẩm của ông. Trong thập kỉ 1980, vài tác phẩm lẻ tẻ của ông được công bố. Năm 1985, tiểu thuyết Karnaval dày hơn nghìn trang của ông được in dưới dạng bị kiểm duyệt, vẽ nên bức tranh toàn cảnh thật bi tráng về thế kỉ 20. Từ những năm 1990, trong bối cảnh chính trị mới mẻ, di cảo khổng lồ của ông được đưa vào kế hoạch xuất bản toàn bộ, quá trình xuất bản còn kéo dài đến ngày nay. Một số tác phẩm của ông đã được dịch sang tiếng Đức, Pháp, Ý... và công việc còn đang tiếp tục. Từ đâu Hamvas Béla có được nghị lực mạnh mẽ để biên soạn và sáng tác như thế trong nghịch cảnh? Từ đâu Hamvas Béla có được sự “tĩnh tâm” để âm thầm theo đuổi “sứ mệnh tinh thần” ông tự đặt ra cho mình? Hãy thử dõi theo hành trình tinh thần của ông từ buổi ban đầu. https://thuviensach.vn Vào thập niên 1920-1930, cùng với nhiều trí thức Tây phương, ông chia sẻ sâu sắc cảm thức về sự “khủng hoảng hiện sinh” của con người thời đại. Ngay trong những luận văn đầu tiên, ông nỗ lực tìm hiểu và “lột từng lớp vỏ” của truyền thống văn minh Âu châu. Càng mở rộng chân trời hồi cố, ông càng cảm nhận sâu hơn về những “tiền đề” của nền văn hóa Âu châu. Khái niệm trung tâm của thế hệ bấy giờ là sự “khủng hoảng”. Hamvas không dừng lại ở nỗ lực giải thích sự khủng hoảng ấy về mặt lịch sử, mà đi tìm những nguồn cội “hiện sinh” của nó. Trong tiếng Hi Lạp, “khủng hoảng” có nghĩa là “quyết định”, “chọn lựa”, “phân li” và “xung đột”. Ông xuất phát từ cảm thức về sự phân li và xa rời nguồn cội đồng thời cũng nuôi dưỡng niềm khát khao khắc phục sự phân li ấy. Thuật ngữ yêu thích của ông là tìm về “tư thế căn nguyên của con người” (status absolutus), qua đó hi vọng khám phá ra sự nhất thể nguyên thủy. Năm 1935, ông thành lập “Nhóm Đảo” ở Budapest, tập hợp nhiều văn sĩ, thi sĩ và triết gia (kéo dài đến 1939) với mục đích bảo tồn di sản và tinh thần văn minh Hi Lạp trước nguy cơ đen tối của chủ nghĩa phát xít và cực hữu đang đe dọa truyền thống văn hóa Âu châu. Một thành viên nổi tiếng quốc tế (lúc bấy giờ còn ở Hungary) của nhóm sau này là Károly Kérényi, người đi tìm thước cho cái Hiện Đại từ cái Tối cổ. Giống như Hamvas đang dịch Heraclit, Kérényi cũng mong muốn kết hợp cái phổ quát với cái bộ phận. Cả hai công bố nhiều tập với nhan đề Đảo, trong đó có nhiều luận văn của Hamvas, đặc biệt về các đề tài Hi Lạp. Tinh thần của các vựng tập này khiến ta nhớ đến các Niên giám Eranos ở Thụy Sĩ, cũng như NXB Antaios của Ernst Jünger sau này. Còn bản thân Nhóm Đảo khiến nhớ đến Nhóm Georg, nhất là Nhóm Chủ Nhật ở Budapest trước Thế chiến I, với các tên tuổi như Gyorgy Lukács, Béla Belázs, Karl Mannheim, Arnold Hauser và Charles Tolnay - phần lớn về sau phải lưu vong. Tuy nhiên, Nhóm Đảo bị cô lập, không hình thành được một truyền thống lớn, do tình trạng nửa phong kiến của xã hội Hungary giữa hai cuộc Thế chiến đã ngăn trở một sự phát triển tinh thần lành mạnh, cũng như do tình trạng ngặt https://thuviensach.vn nghèo sau Thế chiến II. Hungary, trong bối cảnh lịch sử không thuận lợi, không thể đảm nhận được vai trò tự nhiên là chiếc cầu nối Đông Tây. Ngành phân tâm học ở tầm thế giới của Hungary trước đó cũng sụp đổ. Làm sao đổi mới được “trạng thái tinh thần” trì trệ ấy? Theo Hamvas, phải tìm lại nguồn sinh lực đã bị lãng quên và chối bỏ: từ truyền thống cổ xưa được chọn lọc. Trong chiều hướng ấy, từ đầu những năm 1940, Hamvas bắt đầu viết công trình đồ sộ Đại sảnh của Tiền nhân, được tiếp tục cho đến những năm 1960. Công trình này bao gồm việc phiên dịch và chú giải những tác phẩm quan trọng nhất từ truyền thống cổ xưa cho người đọc Hungary ngày nay. Thật khó hình dung được kiến văn quảng bá của ông về cổ học và cổ ngữ, khi trực tiếp dịch từ nguyên bản nào là Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử, của Trung Hoa cổ đại, Upanischaden, Patanjali, Samkhya của Ấn Độ, Tử thư Tây Tạng, Tử thư Ai Cập Pert Em Heru, Henoch, Soha, Heraklit và Jakob Böhme của Hi Lạp và Đức... Trong những năm tháng khủng hoảng ác liệt nhất của châu Âu khói lửa (1943- 1944), ông bắt đầu biên soạn bộ Minh triết thiêng liêng mà ta đang có trong tay, mượn một phần nhan đề từ tác phẩm Symboles de la Science sacrée của René Guénon (1886-1951), nhà siêu hình học Pháp. Ta sẽ trở lại với tác phẩm vĩ đại này ở phần 3; ở đây ta chỉ ghi nhận rằng: tên gọi Nhóm Đảo quả mang tính biểu trưng cho toàn bộ sự nghiệp của Hamvas: cuộc đời cô độc trên hoang đảo! Không chỉ theo nghĩa chính trị, vì ông tin rằng trong nền văn hóa Âu châu, bản thân “tinh thần” đã trở thành một hòn đảo, và nhiệm vụ quan trọng nhất, với ông, là “canh giữ” nó để không bị chìm đắm nốt. Muốn thế, cần có một lí giải mới, triệt để về “Tinh thần”. “Mới”, theo ông, là so với thực trạng tinh thần của Âu châu đang ngày càng đồng dạng hóa, đồng phục hóa và cơ giới hóa; nhưng không hề “mới” khi tiếp cận trở lại với truyền thống và cách lí giải cổ đại. Hamvas nhìn về phía trước - trong viễn tượng “giải thoát” khỏi hiện đại suy đồi - bằng cách hướng về phía sau, ngay cả về thời tiền sử. Hạt nhân tư tưởng của Hamvas bây giờ là sự “tỉnh thức”. Tỉnh thức là tiền đề cho sự đón nhận truyền thống, bởi đặc điểm chủ https://thuviensach.vn yếu của hiện tại - ông gọi là “hiện tại khải huyền” - chính là sự thiếu vắng tiền đề ấy! Sự ngu độn của “hiện tại khải huyền” không phải là yếu kém về tri thức và trí tuệ, trái lại, là sự dư thừa đến mức bệnh hoạn! Đặc điểm của sự ngu độn ấy là chỉ biết lắng nghe “ý thức” như là kẻ đối thoại duy nhất và độc quyền, cắt đứt mối dây liên kết lành mạnh với những gì ở đằng sau và ở dưới ý thức. Ta nhớ đến nhận định của C. G. Jung: “Trong cuộc sống bị khóa kín thì sự tỉnh thức cũng bị khóa kín. Sự tỉnh thức bị khóa kín và chìm đắm này được tâm lí học mới đây gọi là cái vô-thức. Vô thức là cơ quan tỉnh thức của tâm hồn con người. Đó là năng lực tiếp cận với tồn tại siêu nhiên, không hiện ra trong thực tại. Các nhà tâm lí học không bao giờ hết ngạc nhiên rằng cái vô thức nhận biết tất cả, thẩm định từng hoạt động, chống cự, cổ vũ, hướng dẫn, cảnh giới, khuyên bảo, can ngăn, khêu gợi, nhận biết từng rung động của đời người, luôn quan sát từ khoảng xa vô hạn, ghi nhận những sự biến của số phận, thấu hiểu chúng một cách chắc chắn, không nhầm lẫn theo cách siêu hình học, nghĩa là xem nhẹ những ảo tượng của cái gọi là thế giới bên ngoài, xem chúng là không thực sự hiện hữu. Cái vô thức là sự tỉnh thức của con người mang sử tính. Nó cũng là cái thường xuyên phán xét lí trí và những việc làm của lí tính”. Từ hiện tại-khải huyền tìm về truyền thống để vươn tới “giải thoát vĩnh cửu”, nhưng tất nhiên, với Hamvas, không đồng nghĩa với sùng tín tôn giáo theo nghĩa định chế, mà như là công việc của riêng cá nhân mỗi người: “tôi không có tín ngưỡng - ông viết trong Một giọt đọa đày -, nhưng lạ thay, mỗi kinh nghiệm lớn, mang tính quyết định cả đời tôi lại mang tính tín ngưỡng”. Cảm thức “tín ngưỡng” của Hamvas - hiểu như “logic Nghịch lí và Tồn tại” - lắng sâu trong kinh nghiệm nội tâm: “Tôi đi giật lùi từ giữa thế kỉ trước đến Cách mạng Pháp, rồi đến thời Khai minh, đến thuyết duy lí, thuyết nhân văn, thông qua thời Trung cổ đến tận Hi Lạp, Ai Cập, Hêbrơ, người nguyên thủy. Đến đâu tôi cũng gặp sự khủng hoảng, nhưng mỗi cuộc khủng hoảng lại chỉ ra một cái gì nằm sâu hơn nữa. Điểm đen nằm xa, càng xa hơn nữa. Tôi phạm phải lỗi lầm tiêu biểu của Âu châu là đi tìm điểm đen ở bên ngoài mình, mặc https://thuviensach.vn dù nó nằm ngay ở bên trong tôi”. Trong bộ tiểu thuyết khổng lồ Karnaval từ đầu những năm 1950 hay bộ tiểu luận đồ sộ ba tập Patmos được viết trong vòng bảy năm (1959-1966) đến công trình triết học Minh triết thiêng liêng, ta thấy thấm đẫm những trải nghiệm nội tâm: vẫn đứng vững trong nỗi cô đơn cùng cực, đúng như tên gọi Patmos, nơi vị tông đồ là Thánh Joan bị lưu đày -Hamvas cũng có hòn đảo Patmos trong nội tâm mình để từ nó ngắm nhìn lịch sử và cả những gì có trước và nằm bên ngoài lịch sử. Với Hamvas, kinh nghiệm nội tâm không phải là sự chiếm hữu mà là tham dự, hay đúng hơn, là “đắm mình” vào trong cái nền tảng - được Parmenides gọi là Tồn tại, như là cái nền tảng của tất cả: không có ranh giới và không lấy cái tồn tại riêng lẻ nào khác làm nền tảng (cái Ungrund/vô căn) theo cách gọi của Jacob Böhme. Nhóm Đảo, cùng thời với những Heidegger, Jaspers, Berdyaev..., tự hỏi đâu là những nguồn cội tinh thần nay tuy không còn hiển hiện, nhưng ở bề sâu, vẫn còn đầy sức sống, có thể được tiếp cận và khai quật cho yêu cầu khắc phục khủng hoảng của hiện tại. Theo cách nhìn của Hamvas, “hiện tại-khải huyền” tiền giả định một “thời hoàng kim”, nơi đó ta có thể tìm thấy “hình ảnh nguyên thủy” (Urbild), theo nghĩa đích thực là meta ta physica: phía bên kia hay phía sau giới tự nhiên. Điều kiện cần cho nhận thức về cái “nguyên tượng” ấy không gì khác hơn là sự tỉnh thức vừa nói trên đây. Trong rất nhiều trường hợp, như Heidegger, Jaspers, Hamvas Béla..., việc đi tìm cái “nguyên tượng” ấy không nhằm thỏa mãn trí tò mò hay thể hiện sự uyên bác sử học, mà là lựa chọn cá nhân như điểm xuất phát mang đậm tính triết học. Trong bối cảnh phức tạp của thế giới như một “ngôi làng toàn cầu” hiện nay, vấn đề này càng mang tính thời sự và cần được tiếp thu, phát triển trong bối cảnh rộng lớn của cuộc đối thoại liên-văn hóa cũng như trước thách thức của “sự xung đột giữa các nền văn minh” trong quan niệm gây nhiều tranh cãi của Samuel. P. Huntington. Trong khuôn khổ hạn hẹp của Lời giới thiệu, trước hết, chúng ta thử lược qua quan niệm của Karl Jaspers về “Thời Trục” như https://thuviensach.vn là phiên bản đối chiếu với quan niệm của Hamvas Béla trong Minh triết thiêng liêng. https://thuviensach.vn 2. Karl Jaspers và “Thời Trục” Trong khi Martin Heidegger tìm về căn nguyên tư tưởng trong triết học Hi Lạp cổ đại trước Socrates thì Karl Japsers, cùng với số ít các triết gia đương thời khác, có ý thức sâu sắc về sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền văn hóa, sớm hướng đến các nền văn hóa ngoài Âu châu với viễn tượng so sánh - chứ không phải chỉ cộng dồn - trong sự trình bày về lịch sử triết học. Trải nghiệm đau buồn về sự tàn phá châu Âu trong Thế chiến II càng làm sâu sắc hơn ý thức ấy, thôi thúc Jaspers viết tác phẩm về nguồn gốc và mục tiêu của lịch sử. Điểm quy chiếu khả tín - bên ngoài viễn tượng dân tộc và lấy châu Âu làm trung tâm theo thói quen, - với Jaspers, chính là khoảng thời gian từ thế kỉ thứ 8 đến thế kỉ thứ 2 trCN (được ông gọi là “Thời Trục”). Bản thân việc đặt tên ấy cũng đã đi ngược lại truyền thống Âu châu-Kitô giáo quen lấy việc ra đời của Đức Jêsu-Kitô như là “trục” của lịch sử thế giới. Dưới cái nhìn của Jaspers, trong khoảng thời gian sáu thế kỉ ấy, có thể nhận ra một sự đột phá về ý thức lịch sử “trong cả ba thế giới”, tạo nên khuôn khổ chung cho con người chúng ta ngày nay. Tư liệu lịch sử về cả ba thế giới cổ đại (Tây phương, Ấn Độ và Trung Hoa) cho thấy những sự phát triển gần như đồng thời một cách đáng ngạc nhiên qua một số tên tuổi được Jaspers điểm lại: “Ở Trung Hoa là Khổng Tử và Lão Tử và sự ra đời của mọi xu hướng triết học Trung Hoa cổ đại như Mặc Tử, Trang Tử, Liệt Tử và nhiều người khác trong “bách gia chư tử”; ở Ấn Độ là sự ra đời của Upanischads, Đức Phật cùng với mọi “phương án” triết học từ hoài nghi, thuyết duy vật cho tới phái ngụy biện và thuyết hư vô. Ở Iran, là Zarathoustra với cuộc đấu tranh giữa thiện và ác; ở Palestine là những tiên tri từ Elias, Jesaias, Jeremias cho đến Deuterojesaias. Ở Hi Lạp là Homer, các triết gia Parmenides, https://thuviensach.vn Heraklit, Plato, rồi các nhà bi kịch, Thukydides và Archimèdes”. Đặc trưng chung và nổi bật của cả “ba thế giới” là việc “con người có ý thức” về Tồn tại nói chung, về chính mình lẫn những giới hạn của mình. Con người trải nghiệm sự đáng sợ của thế giới và sự bất lực của chính mình. Con người đặt những câu hỏi triệt để. Trước hố thẳm, con người vươn lên sự giải phóng và giải thoát. Vừa ý thức về những giới hạn của mình, con người vừa đề ra những mục tiêu cao vời nhất. Họ trải nghiệm sự tuyệt đối vô-điều kiện trong bề sâu của tự ngã và trong sự sáng rõ của sự siêu việt”. Đi vào chi tiết, Jaspers nêu năm phương diện khác nhau của “Thời Trục”, nhưng chúng cần được hiểu trong một tổng thể gắn bó: 1. Sự đột phá về ý thức dựa vào sự phản tư - hay cách lí giải thuần lí về vũ trụ qua đó sự phản tư không chỉ hướng đến những giới hạn đã được trải nghiệm mà cả bản thân tư duy: “Từ sự tĩnh lặng của đời sống đã diễn ra sự bùng vỡ, từ sự yên tĩnh của những đối cực chuyển sang sự bất an của những sự đối lập và nghịch lí. Con người không còn khép kín trong chính mình nữa. Họ trở nên xao xuyến, đồng thời khám phá những khả thể mới, vô giới hạn. Từ nay con người có thể nghe và hiểu những gì trước nay không ai tra hỏi và tuyên bố”. Kết quả lịch sử của quá trình “tinh thần hóa” này là chia tay với thời đại thần thoại “yên tĩnh và hiển nhiên”. “Những quan niệm, phong tục, tập quán ngự trị một cách hiển nhiên, vô-ý thức trước nay “đều bị thẩm định, đặt thành vấn đề, thải hồi... Bắt đầu cuộc đấu tranh chống lại thần thoại từ phía lí tính và kinh nghiệm được lí tính khai minh (Logos chống lại Mythos). Thế giới thần thoại cổ xưa chìm dần vào “hậu cảnh của cái toàn bộ” và chỉ còn lưu giữ trong tín ngưỡng bình dân, trong khi nỗ lực mới mẻ của tinh thần đã thay đổi cách hiểu của thần thoại, bằng cách xem thần thoại chỉ là dụ ngôn, cải biến nó và thấu hiểu nó ở bề sâu mới mẻ””. 2. Động lực của sự phát triển là tiến trình cá nhân hóa mãnh liệt nơi những bậc “vĩ nhân”: “Lần đầu tiên ta có những triết gia. Con người dám đứng thẳng trên đôi chân của mình với tư cách là những cá https://thuviensach.vn nhân”. Dù theo những con đường khác nhau, nhưng bây giờ con người “về nội tâm, đối diện với toàn bộ thế giới. Con người phát hiện cái uyên nguyên từ trong chính mình, từ đó con người - cũng như chân lí - tự nâng mình lên. Trong tư duy tư biện, con người vươn đến cái bản thân Tồn tại”. Những trải nghiệm ấy được phát biểu bằng nhiều cách khác nhau, với sự hàm hồ, khó hiểu không tránh khỏi, do sự khao khát được “giải phóng và giải thoát” theo “mẫu người đích thực” đúng nghĩa. “Trong “Thời Trục”, đã khai mở cái mà về sau sẽ gọi là lí tính và nhân cách. Khoảng cách giữa đỉnh cao của những khả thể làm người và con người đời thường tăng lên. Nhưng, những gì một cá nhân kiệt xuất có thể trở thành, cũng gián tiếp làm chuyển biến tất cả. Việc làm người nói chung đã tiến một bước nhảy vọt”. 3. Sự phản tư của những cá nhân kiệt xuất được lan truyền rộng rãi bằng sự truyền thông ngày càng mở rộng nhanh chóng. “Những cuộc đấu tranh tư tưởng bùng phát nhằm thuyết phục người khác, gây nên cảnh gần như hỗn loạn của “bách gia””. Tiền đề xã hội học của sự truyền thông được tăng cường này là “số lượng tràn ngập của những tiểu quốc và đô thị” trong cả ba thế giới cổ đại, vừa loạn chiến, vừa triển khai sức mạnh và sự giàu có. Sự giao lưu qua lại bên trong ba thế giới thúc đẩy sự vận động của tinh thần; các bậc tôn sư, các giáo chủ bôn tẩu khắp nơi, xây dựng trường phái, tranh cãi và cạnh tranh với nhau về con đường đúng đắn để đi tới chân lí. 4. So sánh với trạng thái tinh thần tĩnh tại của thời đại thần thoại, “trong đó tuy có các thảm họa, nhưng tất cả đều lặp đi lặp lại, bị giới hạn trong những chân trời tĩnh lặng, khiến chúng không thể hiểu nổi và cũng không được nhận thức”, thì bây giờ không chỉ là sự năng động hóa mà còn có cả sự lịch sử hóa của tư duy. Càng có ý thức về những sự căng bức ngày càng gia tăng giữa những đổi thay nhanh chóng, thì “hiện hữu của con người” - với tư cách là lịch sử - càng trở thành đối tượng của suy tưởng. Người ta cảm nhận hiện tại như cái gì phi thường, nhưng đồng thời cũng biết rằng một quá khứ dài dằng dặc đã trôi qua. Vừa mới thức tỉnh, con người mang nặng kí ức về quá khứ, tức “ý thức https://thuviensach.vn về việc đã sinh ra quá muộn, thậm chí về sự suy đồi và sa đọa”. Tuy nhiên, lịch sử đã được suy tưởng như một “nhất thể toàn bộ”, cho dù đó là thịnh, suy hay tuần hoàn. 5. Một hệ quả khác của việc tương đối hóa chỗ đứng của cá nhân là bắt đầu nhận ra yêu cầu xây dựng không gian chính trị. Người ta muốn “thông qua tri thức, giáo dục, cải cách... để tự tay mình nắm lấy diễn trình của biến cố một cách có chủ đích”; “nhận ra việc con người phải sống chung với nhau, phải được quản lí và cai trị như thế nào. Các tư tưởng cải cách làm chủ hành động. Các triết gia du hành từ nơi này sang nơi khác để làm thầy, làm nhà cố vấn, bị khinh rẻ hoặc được trọng vọng”. “Có một sự tương đồng về xã hội học giữa sự thất bại của Khổng Tử trong triều đình nước Vệ và của Plato ở Syrakus, giữa môn phái của Nho gia và Viện Hàn Lâm của Platon trong việc đào tạo những nhà cai trị tương lai”. Trong bối cảnh ấy, theo Jaspers, đã hình thành những phạm trù cơ bản cho tư duy và cho các tôn giáo thế giới mà chúng ta thụ hưởng cho đến tận ngày nay. Bắt đầu “cuộc đấu tranh về sự siêu việt của Thần linh tối cao chống lại ma quỷ, cuộc đấu tranh chống lại những ngẫu tượng thần linh giả hiệu từ sự phẫn nộ về đạo đức. Thần tính được tăng cường thông qua việc đạo đức hóa của tôn giáo”. Trong tư duy mới này, tôn giáo và triết học ngày càng phân li và trở thành những khu vực tự trị. Kết quả sau cùng của “Thời Trục”, theo Jaspers, là thời kì củng cố, trong đó những học thuyết được định hình, trở thành “chuẩn mực của học tập và giáo dục” (Khổng Nho thời Hán, Phật giáo thời Asoka, giáo dục La Mã-Hi Lạp hóa thời Augustin). Nhưng, ngay cả sau sự suy tàn của các đế chế này, hành động của con người vẫn tiếp tục được truy vấn. Thái độ truy vấn ấy đeo đuổi sự phân biệt giữa một bên là các nền văn hóa cổ xưa (như Ai Cập và Babylon) như thể “con người chưa thực sự đi đến với chính mình”, và bên kia là các “dân tộc bán khai” bị tuyệt diệt hoặc bị đồng hóa khi tiếp xúc với “Thời Trục”: ““Thời Trục” đồng hóa tất cả những thứ còn lại. Từ đó, lịch sử thế giới có được cấu trúc và sự thống nhất duy nhất, kéo dài mãi đến tận ngày nay”. https://thuviensach.vn Ba kết luận được Jaspers rút ra về ý nghĩa của “Thời Trục”: - Nhân loại ngày nay sống dựa vào những gì đã được sáng tạo và suy tưởng từ “Thời Trục”. Trong mỗi bước phát triển, ta lại hồi tưởng về “Thời Trục” và lấy cảm hứng từ đó. Hiện tượng “phục hưng” như là Hồi tưởng và khôi phục về “những khả thể của “Thời Trục”” tạo nên tiền đề cho việc cả ba thế giới có thể thấu hiểu nhau một cách sâu xa: “Họ nhìn nhận lẫn nhau khi gặp lại nhau, bất chấp khoảng cách không gian”. - Nếu nỗ lực “đồng đại hóa” giữa ba thế giới về sau là khiên cưỡng và giả tạo, thì vẫn cần nhấn mạnh “Thời Trục” là sự kiện “có một không hai” trong lịch sử. Chỉ trong “Thời Trục”, ta mới có một sự song hành nói chung về mặt lịch sử phổ quát, chứ không đơn thuần là sự trùng hợp ngẫu nhiên của những hiện tượng đặc thù. - Do đó, “Thời Trục” là cơ sở cho việc thông hiểu và chấp nhận lẫn nhau giữa các nền văn hóa: “càng lùi xa về “Thời Trục”, ta càng thấy thân thuộc nhau hơn, gần gũi nhau hơn”. Dù dị biệt về đức tin và nhân chủng, chính trải nghiệm của “Thời Trục” (không dựa vào sự khải thị) mới là “lời kêu gọi truyền thông vô giới hạn. Nhìn và hiểu người khác giúp ta hiểu rõ hơn về chính mình để vượt qua sự hẹp hòi của một sử tính tự khép kín, để thực hiện bước nhảy thật xa”, và đó cũng là “phương tiện tốt nhất chống lại sự sai lầm của việc loại trừ và độc tôn chân lí về tôn giáo lẫn thế giới quan hay ý thức hệ”. https://thuviensach.vn 3. “Thời Trục” trong cách nhìn khác của Hamvas Béla Bên cạnh các nhà văn và nhà tư tưởng Nga như Dostoevsky, Tolstoi, Berdjaev, Shestov, Merezhkovsky và Soloviev, Hamvas Béla rất thích đọc Kierkegaard, nhất là Nietzsche, Camus, Heidegger và Jaspers. Chịu ảnh hưởng của Jaspers, nhưng, trong mối quan tâm đặc biệt đến phạm vi và ý nghĩa của những sự kiện liên quan đến “Thời Trục” - ngay trong những trang mở đầu của Minh triết thiêng liêng, Hamvas đã có cách nhìn hoàn toàn khác, dù ông không bao giờ dùng thuật ngữ “Thời Trục”. Hamvas khiến ta nhớ đến Johan Huizinga, người đã có cách nhìn khác hẳn Jacob Burckhardt* về thời Phục Hưng. Hình ảnh quen thuộc về thời Phục hưng - giai đoạn kết thúc thời Trung cổ - được định hình như là một khởi đầu mới mẻ, hoành tráng nhờ công trình kinh điển của nhà lịch sử văn hóa Jacob Burkhardt đã bị Huizinga lật ngược lại. Dưới con mắt của Huizinga, thời Phục hưng là sự cáo chung của một thời đại, một thứ “fleur du mai” kiểu Baudelaire, hơn là một sự khởi đầu mới*. Ở đây cũng thế, hình ảnh “Thời Trục”, với Jaspers, được xem như một sự đoạn tuyệt triệt để với quá khứ, được đánh dấu bằng những nhân vật ưu tú, những định chế và những nhãn quan mới mẻ về chất so với thời đại thần thoại. Ngược lại, dưới mắt Hamvas, những tư tưởng lớn của “Thời Trục” không có gì khác với thời đại trước đó. Hệ quả của cách nhìn này là: nếu các tư tưởng của “Thời Trục” không phải là mới mẻ, thì, thay vì nhấn mạnh đến sự đoạn tuyệt, cần phải tiếp cận và xem xét kĩ lưỡng nền “minh triết” tưởng như đã được thay thế trong “Thời Trục”. Câu hỏi về “truyền thống” cần được đặt lại. https://thuviensach.vn Vì thế, hầu hết công trình của Hamvas xoay quanh việc tái dựng nền minh triết cổ xưa được bảo tồn trong nhiều “thánh điển” của nhân loại. Sau cùng, việc đảo ngược viễn tượng nghiên cứu sẽ rọi ánh sáng mới vào Kitô giáo. Nếu với Jaspers, khác với Hegel, sự ra đời của Kitô giáo không thể được xem là bước ngoặt của lịch sử tư tưởng, thì, theo Hamvas, “huyền thống thiêng liêng” của nhân loại là giống nhau ở mọi nơi, và Kitô giáo, do đó, chỉ nói lên việc quay trở lại và tái khẳng định những giá trị của truyền thống. Dưới đây, ta thử tóm lược những luận điểm chính của Hamvas liên quan đến ba chủ đề nói trên. Trước hết, theo Hamvas, “Thời Trục” tự nó không phải là một sự phát triển tự tại và tự lập, mà là một triệu chứng: sản phẩm của quá trình hỗn loạn và suy đồi không tiền khoáng hậu! Nó quả thật là một sự biến có tầm vóc thời đại, nhưng theo nghĩa của sự sụp đổ và phá vỡ trật tự. Khoảng thế kỉ thứ 6 trCN là “sự hỗn loạn diễn ra trong trật tự của những giá trị thiêng liêng của Tồn tại”, khi lời nói và việc làm bị phân li, sự hạn độ và sự cân bằng bị thay thế bằng sự quá độ và kiêu mạn. Thật ra, đây không phải là cách nhìn đặc thù của riêng Hamvas, mà được nhiều nhà nghiên cứu khác về “Thời Trục” chia sẻ. Những lời tiên tri u ám về “thời mạt thế” trong truyền thống Hebrew dù sao cũng có tính cục bộ, trong khi Hamvas khởi đầu công trình đồ sộ của mình bằng cách trích dẫn sâu rộng về cả ba khuôn mặt tiêu biểu đương thời - cách rất xa nhau về địa lí, - đó là đức Phật, Lão Tử và Heraclitus. Trong hình thức huyền học, nhiều trích đoạn từ kinh điển Phật giáo cho thấy trải nghiệm về sự đổ vỡ của trật tự truyền thống. Những dòng hàm súc của Lão Tử trong Chương 18 của Đạo đức kinh nói rõ điều ấy: “Đại Đạo phế, hữu nhân nghĩa. Trí tuệ xuất, hữu đại ngụy. Lục thân bất hòa hữu hiếu tử, Quốc gia hỗn loạn hữu trung thần” (Đạo lớn mất, mới có nhân nghĩa; trí tuệ sinh, mới có dối trá; lục thân chẳng hòa, mới có hiếu tử; nước nhà rối loạn, mới có tôi ngay). Từ Hi Lạp cổ đại là tiên đoán của Heraclitus về con người thời đại như những kẻ mộng du, đánh dấu một kỉ nguyên của sự mù quáng và ngu muội chưa từng có trước đó. Nhưng, thời đại khủng hoảng cũng mang lại cơ hội: https://thuviensach.vn “trong thời gian khủng hoảng giữa hai thời đại, khi con người chưa thực sự đến đằng kia nhưng cũng không còn ở đằng này, thì lại có thể nhìn xa hơn, thoát ra khỏi cái vỏ kén tưởng như đương nhiên của cái tự ngã”. Trong tác phẩm Patmos về sau, Hamvas triển khai thêm ý này, so sánh những thời kì như thế với một thung lũng hẹp, nhấn mạnh đến nguy cơ và tầm quan trọng của chúng. Và cũng chính điều này lại làm nổi bật sự mới mẻ đích thực của “Thời Trục”. Những tư tưởng của thời đại này, theo Hamvas, không mới, nhưng được phát biểu thật tân kì, giữ vai trò trung tâm: Thánh Điển và Thánh Nhân (được ông gọi là “Chủ thể thiêng liêng”). Trước đây, việc “truyền đạo” là khẩu truyền, ngăn cấm văn bản. Bây giờ, trước nguy cơ của sự hỗn loạn, đảo lộn trật tự, việc bảo tồn giáo nghĩa dưới hình thức thánh điển trở nên cần thiết. Đồng thời, sự minh triết được hiện thân trong những nhân vật cụ thể: thánh hiền, nhà làm luật, nhà tiên tri, các giáo chủ v.v. Nói theo thuật ngữ của Michel Foucault, việc “khách thể hóa” nền minh triết thiêng liêng bằng sách vở, thánh điển đi liền với tiến trình “chủ thể hóa”. Việc này diễn ra trong vòng vài thế hệ: nếu ở Trung Hoa cổ đại, Lão Tử vẫn còn là một khuôn mặt đầy bí ẩn thì Khổng Tử là nhân vật lịch sử cụ thể. Ở Hi Lạp, Orpheus còn thuộc về thế giới thần thoại, Pythagoras nửa thần thoại, nửa lịch sử, thì Heraclitus hoàn toàn là khuôn mặt lịch sử. Những ví dụ như thế có thể tìm thấy khắp nơi, từ văn hóa Do Thái đến Ấn Độ. Trật tự được đề xướng trong các thánh điển và truyền thống, theo Hamvas, sở dĩ là linh thiêng vì chúng có tính vĩnh hằng, được truyền thừa một cách đặc biệt, trong khi mọi phát kiến về sau đều có tính phái sinh. Theo đó, trật tự và minh triết đích thực không thể hình thành từ tâm trí phân tích, trừu tượng. Hamvas phân biệt minh triết uyên nguyên xét sự vật trong sự liên lập và toàn thể, khác cơ bản với ba hoạt động của lí trí tư biện về sau, đó là biện biệt, đòi hỏi được chứng minh và sự hoài nghi. Đặc điểm nổi bật của trật tự đích thực là tuyên bố chứ không chứng minh, bởi nó không cần những chứng minh. Ông nhắc lại châm ngôn của Vauvenargues: khi một luận cứ cần phải chứng minh, đó là https://thuviensach.vn dấu hiệu nghèo nàn của sự phát biểu. Sau cùng, sự hoài nghi - nguyên tắc cơ bản của triết học Descartes, cũng như các nghịch lí của Kant và phép biện chứng của Hegel - đều là phái sinh. Hen panta einai (“Tất cả là Một”) của Heraclitus - đuợc ông nhắc lại nhiều lần - chính là kinh nghiệm nguyên thủy về cái nhất thể vốn là tâm điểm của đức tin, sự tin cậy và trung thành. Tất nhiên, Hamvas không xem nhẹ sự biện biệt và phê phán của trí tuệ. Ông chỉ muốn nói: chính sự thức nhận và thấu hiểu mới giúp vươn tới trật tự đích thực của sự vật. Rất gần gũi với Heidegger, Hamvas cho rằng thức nhận và thấu hiểu có nghĩa là đặt sự vật trở lại vào đúng chỗ của chúng. Đó là “thức nhận” (recognitive) hơn là “nhận thức” (cognitive). Tri thức đích thực, theo cách hiểu này, không dựa vào sự tích lũy những sự kiện rời rạc theo kiểu thực chứng, cũng không phải là sự kết nối vô hồn, cơ giới của “lí trí” khao khát quyền lực. Nói cách khác, “minh triết” vốn không dựa vào “ý thức” - cơ quan của sự mê muội, sững sờ, - mà dựa vào “vidya”, “trí huệ” nói theo truyền thống Ấn Độ cổ đại. Thức nhận và thấu hiểu trật tự thiêng liêng đòi hỏi sự mẫn cảm và sự hòa hợp. Mẩn cảm không phải là sùng tín mà là mở ngỏ tâm hồn và dịu dàng đón nhận. Sự mẫn cảm được tăng cường khi phát triển trạng thái hòa hợp, hòa âm như trong âm nhạc. Hamvas nhấn mạnh mối quan hệ với âm nhạc, hay thậm chí với âm thanh như là vai trò trung tâm trong việc vun bồi sự mẫn cảm. Nó cũng giải thích tính chất truyền khẩu của truyền thống cổ xưa, ưu tiên cho việc truyền đạt từ miệng đến tai thông qua lời nói sống động của con người. Các kĩ thuật “khổ hạnh” cũng cần thiết để phát triển sự mẫn cảm, không theo nghĩa là sự hành xác, khôi phục sự thống nhất và hài hòa cho con người đã bị đánh mất chính mình. Thế nhưng, đi từ cuộc sống hỗn loạn sang cuộc sống có trật tự là rất khó khăn vì nói dễ hơn làm! Tiền đề cho bước chuyển này, như đã nói, là sự tỉnh thức, một ý niệm trung tâm nơi đức Phật và Heraclitus. Hamvas cũng diễn giải lời dặn dò sau cùng của Socrates: “Này Crito, https://thuviensach.vn chúng ta còn nợ thần Esculape một con gà trống!” theo nghĩa liên tưởng đến tiếng gà báo thức. Việc đổ vỡ và đánh mất “trật tự thiêng liêng” được Hamvas minh họa bằng một chuỗi những cặp khái niệm tương phản. Trước hết, là sự tương phản giữa Tồn tại và Đời sống. Tồn tại là vương quốc của sự an hòa và thanh sạch, của niềm vui và ánh sáng, nhất là của sự cân bằng, hài hòa và tiết độ. Trong Tồn tại có trật tự, thứ bậc thiêng liêng được tôn trọng; sự vật ở đúng nơi chốn của chúng, vì thước đo ở đây là Thượng Đế chứ không phải con người. Trật tự này được minh họa sống động nhất bằng pho tượng nổi tiếng về người cầm cương cỗ xe ngựa ở đền Delphi, Hi Lạp. Hamvas cũng tìm thấy hình tượng “người cầm cương cỗ xe ngựa” tương tự trong nhiều truyền thống cổ xưa khác ở Ấn Độ, Ai Cập, La Mã, Peru, Trung Hoa... từ kiến văn thật quảng bác của ông. Ngược lại, Đời sống là thế giới của bon chen, phiền não. Mượn cách nói của Bergson, ông xem Tồn tại là khai mở, còn Đời sống là khép kín, là samsara trong tư tưởng Ấn giáo và ananke trong tư tưởng Hi Lạp. Theo ông, Đời sống hiện thân nơi Nietzsche và Goethe, vì cả hai ngợi ca sự phóng dật của cá nhân. Ông đối lập nó với câu nói của Bataille: “toute action fait d’un homme un être fragmentaire” (Mọi hành động đều biến con người thành một hữu thể vỡ vụn). Các cặp khái niệm khác sẽ làm rõ hơn các phương diện khác nhau của Tồn tại và Đời sống, trong đó quan trọng nhất và gây tranh cãi nhất là sự đối lập giữa “thời hoàng kim” và “thời khải huyền”. Khải huyền trái ngược với “vườn địa đàng”. Nó dành cho sự hiện hữu khép kín, bị cô lập, vỡ vụn. Hiện hữu vỡ vụn (tört trong tiếng Hung) là lĩnh vực của lịch sử (történelem), một “từ nguyên” ý vị! Hậu quả của nhất thể bị vỡ vụn là đánh mất mối quan hệ với cái siêu hình, là thần thánh hóa cái tự ngã cá nhân cô đơn, khép kín, chỉ còn biết phòng vệ, một biểu hiện của kẻ mộng du nơi Heraclitus. Thời hoàng kim là “vườn địa đàng”, không nhất thiết là trạng thái nguyên thủy có thật của loài người và không phải là đối tượng của tiếc https://thuviensach.vn nuối, hoài niệm. Trái lại, “vườn địa đàng” có mặt khắp nơi - chẳng hạn, trong số ít những nghệ phẩm kiệt xuất: tranh của Corot hay Raphael, nhạc của Bach và Beethoven, thi ca của Hölderlin hay Keats, trong Giấc mộng đêm hè... Đó là chỗ quy chiếu cho cuộc sống của chúng ta, và “bất cứ nơi đâu nó xuất hiện, trong một con người hay một tác phẩm, trong một cảnh tượng hay một âm thanh, thì mọi người đều biết rằng đó chính là nơi ta thật sự về nhà”, không còn bơ vơ, lưu lạc trong thế giới xa lạ nữa. Một sự đối lập khác là giữa con người tâm linh và con người kị sĩ. Các đế chế bành trướng bằng những đức tính của người kị sĩ, thay vì đi tìm trở lại trật tự vĩnh hằng. Đáng chú ý là hai hình tượng được Hamvas lựa chọn: Plato và Nietzsche. Plato là “con người tâm linh cuối cùng”, sau ông là sự ngự trị của các chiến binh. Nietzsche là người sau cùng ở thời hiện đại đi theo trào lưu này trong não trạng, như là một kị sĩ “thoái hóa”, nhưng đồng thời lại mở ra một viễn tượng khác, vượt ra khỏi khuôn khổ cũ. https://thuviensach.vn 4. Tiếng gọi từ “Thời Trục” Nhiệm vụ đơn giản đặt ra cho các nhà tư tưởng “Thời Trục” (và cũng là cho con người ngày nay), theo Hamvas, là quay trở lại với sự tiết độ, cân bằng và hài hòa. Nói cách khác, là lắng nghe Logos. Điều này không có nghĩa là chỉ biết theo đuổi sự cứu độ hay giải thoát cá nhân, trái lại, là chuyển hóa cả thế giới theo những thước đo của thời hoàng kim. Hamvas dùng ba từ khóa để nắm bắt tính chất của công cuộc này. Từ thứ nhất là “asha”, có nghĩa là trật tự chân thật và công chính, từ truyền thống Zarathoustra (hay còn gọi là truyền thống Zoroastre). Xin trích một đoạn dài để minh họa: “Asha là bản thể huyền bí, tăng trưởng lên như là hệ quả của mọi lời nói đúng đắn, mọi việc làm thiện hảo, mọi suy tưởng sâu xa nơi bề sâu, trong lòng của thế giới và trong tinh thần của Thượng Đế. Ai yêu thương sâu sắc, người ấy tăng trưởng asha; ai vun bồi một công trình, tác phẩm đẹp đẽ, người ấy tăng trưởng asha; ai chăm sóc mảnh ruộng của mình một cách chí thú, người ấy tăng trưởng asha; ai cầu nguyện từ đáy lòng, người ấy tăng trưởng asha. Còn mọi ý tưởng lời nói, việc làm đen tối, dối lừa, vị kỉ, sai lầm sẽ làm suy giảm asha; asha suy giảm cùng với mọi tội lỗi; vì thế, chính asha quan trọng cho sự sinh tồn của thế giới hơn cả thức ăn và ánh sáng mặt trời”. Từ thứ hai là “ân sủng” trong truyền thống Hi-La (charis trong tiếng Hi Lạp; gratia trong tiếng Latin). Từ này cũng đồng nghĩa với asha; hàm nghĩa là việc khai quật và tinh chế vàng ròng vốn bị chôn vùi dưới mặt đất. Đặc biệt hơn, nó gắn liền với hành động cho và nhận, thể hiện thật tiêu biểu trong các họa phẩm bất hủ của các tác giả Plato mới ở Florenzia thời Phục hưng, chẳng hạn như bức tranh Primavera https://thuviensach.vn của Botticeli hay Ba ân sủng của Raphael. Cuộc đời đầy ân sủng có nghĩa là cuộc đời luôn bố thí, ban tặng, là nhiệt tâm tận hiến và quên mình, không chỉ trong những thực hành khổ hạnh mà cả trong đời sống ái ân, nói lên khả năng của sự tiếp nhận, mẫn cảm và hài hòa. Bức tranh sơn dầu Ba ân sủng của Raphael cho thấy chu trình trao-nhận-tận hiến chứa chan cho nhau. Một vận động xoắn ốc, ngày càng tăng trưởng và dư dật như thế ngược hẳn với vòng luẩn quẩn của sự ích kỉ và tàn nhẫn đang thống trị ngày nay. Từ thứ ba là “tình yêu thương”. Chưa bàn nhiều trong phần đầu của Minh triết thiêng liêng, Hamvas dành vị trí trung tâm cho “tình yêu thương” ở phần cuối bộ sách, được viết hai mươi năm sau. Ở đây ta đã đi đến chặng cuối trong hành trình suy tưởng của Hamvas, liên quan đến việc ông nhìn nhận lại về Kitô giáo. https://thuviensach.vn 5. Kitô giáo và truyền thống Cũng như nhiều người cùng thế hệ, Hamvas ít có thiện cảm với Kitô giáo hiểu như tôn giáo đã được định chế hóa, ít nhiều xơ cứng, thậm chí thiếu khoan dung như bản thân chế độ “Kitô giáo dân tộc” cai trị Hungary trong thời gian giữa hai cuộc Thế chiến. Ông quay sang đọc Nietzsche của Kẻ phản-Kitô. Không phải ngẫu nhiên mà trong phần đầu của Minh triết thiêng liêng, Hamvas không bàn đến Kitô giáo, nhưng (có lẽ cũng lại từ Nietzsche?), ông dần dần thay đổi thái độ và suy nghĩ. Tất nhiên còn có lí do khách quan. Kitô giáo - hiểu theo nghĩa chặt chẽ - là hiện tượng về sau, không thuộc về “Thời Trục” vốn là quan tâm chủ yếu của ông. Như đã nói, Hamvas, không dùng từ “Thời Trục”, mà dùng cách nói khác: “thời tới ngưỡng” (liminal), kết thúc với Plato, và cho rằng từ sau Plato, ta đã sống trong “thời khải huyền”. Việc đánh giá lại Kitô giáo mở ra cho ông viễn tượng mới và niềm hi vọng mới. Luận điểm ở đây tương đối giản dị. Giáo thuyết Kitô giáo, theo cách nhìn của Hamvas như ta đã biết, không thể hiện điều gì thật sự mới mẻ, vì, về cơ bản, vẫn đồng nhất với các truyền thống thiêng liêng trước đây. Đó là lí do giải thích tính phổ quát và tiềm lực phát triển của nó. Hiểu theo nghĩa ấy, Kitô giáo không phải là một cuộc cách mạng, là lời kêu gọi trở lại với trật tự và sự tiết độ trong các truyền thống khác của “Thời Trục”. Nhưng, lời kêu gọi ấy là triệt để, cấp tiến và kiên quyết trước hiểm họa của sự hỗn loạn và đồi bại. Chỗ đáng nhấn mạnh là thực sự mới mẻ của Kitô giáo chính là tầm quan trọng dành cho “tình yêu thương”, một đặc điểm tuy có nhưng còn khá mờ nhạt trong các truyền thống trước đó. Tình yêu https://thuviensach.vn thương trở thành giá trị cốt lõi trong Phúc âm: thế giới do tình yêu thương tạo ra thậm chí còn cao cả hơn sự sáng tạo nguyên thủy. “Tình yêu thương là thước đo của Tồn tại”, vì nó góp phần chủ yếu để giải quyết sự đồi bại và hỗn loạn. Tình yêu thương giải quyết nghịch lí giữa tự do và cưỡng chế, có thể khôi phục trật tự, bởi bản thân nó có sức mạnh hơn hẳn những thế lực khác. Sức mạnh của tình yêu thương gần gũi với sức mạnh của ân sủng; êm dịu mà không yếu đuối, hân hoan và hạnh phúc chứ không lạnh lùng, khắc nghị và tràn đầy lòng từ mẫn, tha thứ. Nó là exousia (quyền năng mềm) được đề cập nhiều nơi trong Phúc âm (chẳng hạn Mathieu 7, 28-29). Quyền năng ấy tất nhiên dễ bị tổn thương, chê bai hay đả kích, với tất cả sự hung bạo của ác tâm, cái đối nghịch với tình yêu thương. Kết luận sau cùng khá bất ngờ của Hamvas, khác với ngôn từ khá “bi quan” về thời Khải huyền: sức mạnh của tình yêu thương và ân sủng sẽ là vô địch. Hai cách tiếp nhận và lí giải của Karl Jaspers và Hamvas Béla về “Thời Trục” thoạt nhìn có vẻ tương phản. Nhưng, như hai mặt của cùng một đồng tiền, hai lối nhìn càng cho thấy sự phức tạp của một chủ đề học thuật quá rộng lớn và uyên áo mà không ai, kể cả những nhà tư tưởng tầm cỡ như hai ông, có hi vọng tát cạn và nói được lời sau cùng. Điểm chung đáng ghi nhận là cho thấy sức thu hút không hề giảm sút của chủ đề, sau hàng nghìn năm lịch sử. “Thời Trục” - với sự hình thành bộ khung tư duy và tín ngưỡng cho toàn nhân loại như nguồn sữa mẹ nguyên sơ nhất, thanh sạch nhất - trước sau vẫn được xem là “thời đại và cấu trúc (để) quy chiếu và tham chiếu” (Referenz-Strukturzeit), để trên cơ sở đó, mở ra triển vọng về một cuộc đại đối thoại liên-văn hóa. Thêm nữa, cuộc đối thoại ấy có thể góp phần xây dựng một “nền đức lí toàn hoàn vũ” (Weltethos), như tên gọi đề án vĩ đại của Hans Küng, nhà thần học Kitô giáo nhiều ảnh hưởng. Nền “đức lí” như thế nhất thiết phải dựa trên sự hòa đồng và đối thoại liên-tôn giáo theo quan niệm của Küng? Hay phải trên cơ sở thế tục như ý kiến phản bác của nhiều người khác? Quan hệ luôn hết sức căng bức và sâu thẳm giữa cái “divinum” và cái “humanum” phải xử lí và hòa giải như thế nào? https://thuviensach.vn Một cách nhìn lưỡng phân, đen trắng rạch ròi về “Thời Trục” dễ dẫn đến yêu sách tuyệt đối của mỗi bên. Nếu xem nhẹ sự khác biệt và tuyệt đối hóa sự tương đồng, ta sẽ rơi vào cách lí giải nặng tính “ý hệ”. Ngược lại, tuyệt đối hóa sự khác biệt sẽ cản trở diễn ngôn và đối thoại. Cuộc đối thoại liên-văn hóa, nếu có, ắt phải chấp nhận một phiên bản “mềm” về sự đồng thuận: sự đồng thuận là lí tưởng vươn tới, nhưng không nên đòi hỏi và vội vã khẳng định, nhất là trong bối cảnh đầy xung đột của thế giới ngày nay. Tất nhiên, cần phân biệt hai hình thức của tuyệt đối hóa: hướng ngoại và hướng nội. Tuyệt đối hóa hướng ngoại xem mình là độc quyền chân lí, mặc nhiên xem các cách nhìn khác là sai lầm. Ở đây cần hơn hết lẽ phải của sự khoan dung: con đường của tôi là đúng, nhưng con đường của bạn không vì thế mà nhất thiết phải là sai! Mặt khác, lại nên đề cao yêu sách tuyệt đối hướng nội: vững tín vào xác tín của mình, không cần nhân nhượng hay tương đối hóa, đồng thời tôn trọng sự xác tín của người khác. Một “phương pháp luận” trong đối thoại liên-văn hóa là cần thiết: giữ vững niềm tin, nhưng không gây ra xung đột. “Tranh minh” không nhất thiết phải thành “tranh thắng”, một thông điệp hiền minh, ẩn mật của “Thời Trục”? BVNS Xuân Bính Thân, 2016 https://thuviensach.vn Phần đầu tiên TRUYỀN THỐNG MINH TRIẾT CỔ CỦA NHÂN LOẠI https://thuviensach.vn I. Thời hoàng kim và thời khải huyền 1. Lịch sử nhân loại khoảng sáu trăm năm trước Công nguyên là một thời kì liên tục; lúc đó một, hai hoặc cùng lắm sau ba thế hệ mới có sự thay đổi. Trước sáu trăm năm và thời kì tiếp sau hầu như chỉ có một bức mành mỏng chia cắt; trước bức mành có gì, nhìn rất rõ; sau bức mành có gì, cần phải tìm kiếm. Bản thân cá nhân con người rất nhanh chóng trở thành một cái gì đó tương đối. Những đường nét của các sự kiện bị lu mờ. Sự sống trở thành cái không thể hiểu nổi. Những năm tháng cuộc đời Khổng tử từng lan truyền như các câu chuyện minh bạch; nhưng hình ảnh Lão tử đã trở nên mơ hồ đối với những thế hệ muộn hơn. Người ta biết nhiều dữ liệu cơ bản về Heracleitos; nhưng đến Pitago chỉ còn lại truyền thuyết. Đất dưới chân con người bị trôi trượt đi đến nỗi, người ta không tin mình đang đi trên mặt đất nữa, mà đang trên một hành tinh lạ thì đúng hơn. Những Sự vật cơ bản trở nên mơ hồ; không thể nắm giữ nổi các sự kiện và các cá nhân; sự sống trở nên huyền bí và thời gian trở nên âm u. Khoảng sáu trăm năm trước Công nguyên, ở Trung Quốc có Lão tử và Khổng tử, ở Ấn Độ có Buddha, ở Iran có Zarathustra, ở Tiểu-Á có Heracleitos, ở Ai Cập có Toth, ở Ý có Pythagoras. Ngày nay sự thay đổi nhìn như một bức mành đã buông xuống. Thời đó không chỉ người ta nhận thức bằng chứng của mọi sự việc đã diễn ra mà còn hiểu rất sâu về nó. Đặc biệt, dù từ những vùng đất rất https://thuviensach.vn cách xa nhau, những con người rất cách biệt nhau, nhưng các ngôn ngữ khác nhau dùng để diễn tả sự thay đổi đều vang lên giống hệt nhau. “Trong một quá trình biến đổi dài và rộng lớn - Buddha nói - có một khoảng thời gian thế giới quay vào trong... lúc đó các sinh linh sống trông giống như các ngôi sao lấp lánh quay vào bên trong. Chúng được tạo ra từ các tinh thần trong suốt như pha lê, chúng sống trong niềm vui thanh bình, chuyển động trong không gian tưng bừng ánh sáng của chính bản thân, và sắc đẹp tỏa sáng này vĩnh cửu. - Sau, đến một quá trình biến đổi rất dài và rộng lớn, đến thời kì thế giới quay ra ngoài, lúc đó các sinh linh bắt đầu chìm vào đời sống. Nhưng tận lúc đó vẫn là những tinh thần trong suốt pha lê, sống trong niềm vui vô tư, chúng lung linh rạng ngời trong ánh sáng của chính mình tỏa ra, sống vô tận trong sắc đẹp của chúng. Lúc đó vẫn chưa có Mặt Trời, Mặt Trăng và các ngôi sao, chưa có ngày và đêm, chưa có tuần và tháng, chưa có đàn ông và đàn bà. Sau một thời gian dài như vậy, một ngày kia đất có vị thơm ngon lạ lùng bỗng trồi lên, mềm như kem, và sặc sỡ như cầu vồng, thơm và ngọt như mật. Sự tò mò tóm lấy một sinh linh, nó bèn nếm thử; và thấy ngon, nhưng đất này làm nó khát. Những sinh linh khác lần lượt nếm thử, đều thấy ngon, nhưng đều bị khát. Khi đã nếm thử đất, chúng bắt đầu đánh mất ánh sáng riêng của mình. Khi ánh sáng bên trong của chúng bị mất, lúc đó xuất hiện ánh sáng bên ngoài, Mặt Trời, Mặt Trăng và các ngôi sao, bắt đầu xuất hiện đêm và ngày, xuất hiện các tuần và các tháng. - Còn các sinh linh ăn càng nhiều đất, càng đánh mất tinh thần trong suốt pha lê và vẻ đẹp của chúng. Rồi đất ngon lành biến mất, từ đất mọc lên những mầm cây như nấm, các thực thể ăn mầm cây, càng ăn nhiều cơ thể chúng càng thô thiển, và sắc đẹp của chúng càng lụi tàn. Từ từ các mầm cây cũng biến mất, từ đất mọc lên các quả dại, các sinh linh ăn quả dại, cái tinh thần trong suốt pha lê của chúng trở nên thô tục, và vẻ đẹp của chúng càng phai nhạt dần. Rồi lúa mì mọc lên, https://thuviensach.vn lúc đầu vẫn còn hoang dại, màu trắng như bột, không cần phải xay, mang vị ngọt, không cần phải nướng. Lúa mì buổi tối bị ngắt, sáng hôm sau tự mọc lên, nếu buổi sáng bị ngắt, tối, lúa mì lại tự mọc lên. Các sinh linh ăn lúa mì, lúc đó một trong số chúng nhìn thấy nhau như là đàn bà, và một số khác thành đàn ông. Khi nhìn nhau, một nỗi đam mê cháy bỏng tóm lấy chúng, thế là chúng ôm choàng lấy nhau. Những sinh linh khác thấy vậy rất tức giận, thế là các sinh linh bắt đầu dựng những căn nhà và giấu nỗi hổ thẹn của chúng vào đấy. Một ngày một sinh linh nói như sau: tại sao tôi lại phải đi ngắt lúa mì cả buổi sáng lẫn buổi tối nhỉ? Sáng hôm sau nó ngắt luôn cả phần lúa mì buổi tối. Lúa mì vào ngày hôm sau không mọc lên cả đọn nữa, mà chỉ mọc nửa đọn. Những sinh linh khác cũng bắt chước làm theo, thế là lúa mì không thể mọc hoàn chỉnh nữa, mà chỉ mọc có một nửa. Một hôm một sinh linh khác nói: tại sao ngày nào tôi cũng phải đi ngắt lúa mì? Nó bèn ngắt luôn phần lúa của hai ngày. Thế là lúa mì chỉ cao lên một phần tư, khi các sinh linh ngắt luôn cho cả tuần, lúc đó lúa mì chỉ mọc lên một phần tám. - Sẽ ra sao nếu chúng ta chia đất? Các sinh linh thốt lên và bắt đầu chia đất, lúc đó một vài sinh linh đi ngắt trộm lúa mì của một số khác. Nhận ra điều này, các sinh linh bèn nói: chúng ta hãy chọn ra một kẻ canh chừng, để mọi người chỉ được ngắt lúa mì trên phần đất của mình thôi. Thế là xuất hiện kẻ cai trị, sau đó đến linh mục, quân nhân, thị dân, nông dân và thợ thủ công”. 2. Trước Công nguyên khoảng sáu trăm năm, từ Trung Quốc đến Ý trong sự thay đổi (còn gọi là) lịch sử con người bắt đầu bước vào giai đoạn cuối của một thời kì đen tối. Sự sống bị mất; cái còn lại chỉ là đời sống. Toàn bộ hiện thực bị đứt làm đôi; tính chất mở khép lại; những https://thuviensach.vn mối liên quan lớn bị đứt đoạn. Chỉ trong một vài năm ngắn ngủi sự mù lòa và ngu độn hóa không thể tưởng tượng tiếp diễn và lan truyền. Heracleitos giận dữ, cay đắng và bực bội chống lại lũ “bẩn thỉu”, những kẻ vấy bẩn bằng chính máu của chúng và muốn tắm bằng máu; những kẻ như những con lợn thích thú với bùn; những kẻ như lũ lừa chọn đống rơm hơn là chọn vàng: Pythagoras từng thốt lên: “Lũ bất hạnh! Chúng không thấy và không hiểu cái tốt ở ngay bên cạnh chúng! Ít kẻ biết rằng từ sự bất hạnh của chúng đã phóng ra cái gì! Chúng như những cục bột vô duyên lăn đây đó, và gặp đủ mọi bất hạnh. Từ lúc chúng ra đời trở đi, sự phiền nhiễu định mệnh đuổi theo chúng khắp nơi, khiến chúng lên bờ xuống ruộng và chẳng tài nào hiểu nổi tại sao”. Sau buổi tế lễ các vị thần trở về nhà, người ta hỏi Khổng tử: “Tại sao thầy lại thở dài trong buổi lễ?”. Ngài trả lời như sau: “Những bậc cai trị lớn từng đã sống nơi đây, dù lúc đó ta chưa sinh ra nhưng ta biết những gì truyền thống đã từng nói về họ. Khi Đạo còn trên trái đất, thế giới là của tất cả mọi người; con người lựa chọn những kẻ cai trị có năng lực; con người nói sự thật và giữ gìn sự thật. Không ai biết đến sự dối trá và lừa lọc; không có kẻ trộm và kẻ cướp. Cửa các nhà không có, nhưng không ai đột nhập. Đấy là thời kì Cộng Đồng Lớn (Thế giới đại đồng). Nhưng rồi Đạo phải giấu kĩ, thế giới không phải của chung nữa mà trở thành tư hữu. Người ta xây tường thành và những cái tháp để bảo vệ thành phố... Sự lừa đảo và dối trá xuất hiện, vũ khí xuất hiện. Đây là thời kì Tiểu Vượng”. Còn Lão tử viết: “Con người từ bỏ Đạo đạo đức và nghĩa vụ tấn công như thế đó. Sự ranh mãnh và nhận thức xuất hiện: những dối trá lớn tấn công như thế đó. Họ hàng máu thịt lìa xa nhau: nghĩa và tình thương con trẻ tấn công như thế đó https://thuviensach.vn Trong các nhà nước sự hỗn loạn và tùy tiện ngự trị: những kẻ tôi tớ trung thành tấn công như thế đó.” 3. Tri thức liên quan đến thời cổ biến mất nhanh chóng. Chỉ còn lại kỉ niệm mơ hồ về thời hoàng kim; niềm hoài hương như muốn nhấn mạnh đến sự thô bạo ngày mỗi tăng lên của đời sống. Và không phải chỉ từng phần biến mất trong thời lịch sử mà phần quan trọng nhất của tri thức rơi rụng, chỉ còn lại các thói quen; Cảm giác, thứ để biết phân biệt sự sống và đời sống biến mất; và bản năng, thứ dùng để hoàn thiện sự sống trong đời sống cũng biến mất. Sự sống, như Buddha gọi, là các sinh linh, như những ngôi sao lấp lánh quay vào bên trong nó. Đấy là thời kì Khổng tử gọi là Cộng Đồng Lớn (hay thời Đại Đồng). Thời kì chưa có đạo đức, chưa có cả nghĩa vụ, sự thông thái, sự nhận thức, họ hàng ruột thịt chưa xa rời nhau, trong các nhà nước sự hỗn loạn chưa ngự trị. Sự sống bị khóa lại. Thứ khác xuất hiện: giới hạn. Sự sống chìm vào đời sống. Những dấu hiệu của đời sống xuất hiện: thay thế cho sự tĩnh tại là sự hoạt động; thay thế cho sự êm ả và đầy đủ là các nỗ lực và sự khổ hạnh; thay thế cho văn hóa bình yên, lòng yêu thương, niềm quan tâm vô tư, sự bình thản là công việc, là ý chí, nghĩa vụ, kỉ luật. Các sinh linh phải tìm kẻ canh gác, bởi chúng lấy trộm lẫn nhau trên cánh đồng lúa mì. Đấy là thời kì mà Khổng tử gọi là thời Tiểu Vượng (hay thời Tiểu Khang). Con người từ bỏ Đạo, bỏ con đường lớn của thời cổ, và sự dối trá lớn cũng bắt đầu xuất hiện. Ý nghĩa của sáu trăm năm trước Công nguyên chính là sự khác biệt, không đủ chỉ ra cái đã từng có: Sự SỐNG, và cái xảy ra sau đó: ĐỜI SỐNG. https://thuviensach.vn Rốt cuộc đây cũng chỉ là hai từ ngữ. Hai trích dẫn sau của thời kì này sẽ giải thích rõ hơn. Trích dẫn thứ nhất từ cuốn Zend Avesta, như sau: “Thế là Dzsamsid xây dựng một vương quốc rộng lớn, đặt tên là Ver, rồi làm cho thành phố, đồng ruộng, rừng cây đầy ngập gia súc, con người, gà lợn, chó, và mang đến đây lửa cháy đỏ bập bùng, mang hạt giống, cây trồng và thức ăn để nuôi dưỡng cho các sinh vật sống. Nước tràn đầy trên các suối nguồn và tường thành cao ngất vây xung quanh vương quốc Ver. Tại đây có đầy đủ các loại chim muông, đất vàng màu mỡ, các sản phẩm thu hoạch đầy ắp, trong tâm hồn những người trai trẻ còn ngượng ngập là sự khiêm tốn và lòng kính trọng ngự trị, trẻ em khỏe mạnh, hay ăn chóng lớn. Vương quốc đầy sức quyến rũ, sạch sẽ như chốn trú ngụ của thiên thần, vô cùng đẹp đẽ và từ sự cao quý hương thơm tỏa ngọt ngào. Cây cối um tùm, đầy rẫy hoa thơm quả lạ mọc lên từ đất. Chưa từng có những kẻ cai trị lập ra những đạo luật hà khắc giữa các cư dân của vương quốc Ver; chưa từng có người ăn mày, kẻ lừa đảo, không có kẻ thù rình rập trong bóng tối, không có những kẻ dùng bạo lực hành hạ người khác, không có những hàm răng nghiến chặt. Giữa con người với nhau không có sự khác biệt, đàn bà không đau đớn sau khi sinh nở. Và ở giữa đất nước, chín cây cầu được dựng lên, sáu cây lớn hơn và ba cây nhỏ hơn. Trên đỉnh núi một lâu đài cao vút dựng lên, tường thành vây xung quanh, lâu đài chia ra nhiều phòng, có nhiều cửa sổ lớn”. Trích dẫn thứ hai từ cuốn sách của Hénoch (còn gọi là Énok - một nhà thông thái cổ được cho đã sống khoảng năm 8000 trước Công nguyên, người viết về các nguyên nhân của nạn Hồng thủy đầu tiên của nhân loại). Trích dẫn như sau: https://thuviensach.vn “Ta thề với các ngươi ở nơi đây, trước các nhà thông thái và lũ điên rồ, các ngươi sẽ còn nhìn thấy nhiều điều trên trái đất! Các ngươi chất lên người đồ tư trang như đàn bà và che đậy bằng áo quần như một gái trẻ. Chúng đi đi lại lại với vẻ trịnh trọng vua chúa, trong quyền lực, trong bạc vàng, trong quyền quý, giàu có và thịnh vượng thừa mứa như biển dâng thủy triều. Nhưng trong đầu chúng không có gì đã tiếp thu, không có chút thông thái nào hết, bởi thế chúng sẽ bị tiêu diệt cùng của cải của chúng, cùng quyền lực, cùng phẩm giá của chúng, trong sự hổ thẹn tinh thần của chúng, trong nỗi sợ chết, trong nghèo đói và bị dẫn xuống lò lửa. Ta thề với các ngươi, những kẻ tội phạm rằng, núi không biến thành kẻ hầu hạ, đồi không biến thành đầy tớ, tội lỗi không bị gửi xuống thế gian mà do chính con người, từ cái Tôi làm ra tội lỗi, và những kẻ đồng lõa với họ cũng phải chịu chung một tai họa... Ta thề với các ngươi, những kẻ tội phạm, ta thề có thánh thần và sự cao cả, rằng tội lỗi của các ngươi bị ghi sổ trên trời, và không một vũ lực nào trên trái đất có thể che giấu nổi... Và vũ lực cũng sẽ bị ghi sổ, chỉ còn sót lại dấu hiệu đợi ngày phán xử. Ôi các ngươi, lũ điên khùng, bởi sự điên khùng của các ngươi sẽ là sự mất mát của các ngươi... và các ngươi có biết chăng, các ngươi đã chín muồi cho ngày tận diệt, và các người đừng hi vọng sẽ sống sót... Trong những ngày đó dân chúng của trái đất sẽ nổi loạn, và trong những ngày đổ vỡ đó các quốc gia sẽ sôi lên sùng sục, và trong những ngày đó sẽ cần phải để con người xé xác những đứa trẻ... và chúng sẽ chìm nghỉm trong sự vô thần, bởi chúng đã đánh mất ý nghĩa trái tim của chúng, mắt chúng đui mù từ sự run rẩy và từ những hình ảnh mộng khủng khiếp... và trong thời gian ấy cha và con cùng một lúc sẽ đánh vỡ đầu nhau, anh chị em ruột sẽ đánh mất lẫn nhau, trong khi máu https://thuviensach.vn chảy đầm đìa trái đất như sông lớn... và lũ ngựa sẽ phi ngập thân trong máu, và những vòng bánh xe cũng lún xuống đất bùn đẫm máu. Và trong những ngày đó thiên thần sẽ bay xuống trái đất, thu gom lũ tội phạm lại một chỗ và tuyên bố bản án khủng khiếp nhất đối với chúng”. 4. Những trích dẫn trên chưa đến lúc cần giải thích cặn kẽ. Ta hiểu thế này là đủ: trong phần trích dẫn cuốn Zend Avesta, Dzsamsid là vua thời cổ, ở Trung Hoa là Hoàng đế truyền thống, ở Hindu là Manu truyền thống, là Ménes Ai Cập, là Minos Hi Lạp. Dân chúng của Dxsamsid cùng những kẻ thống trị không là ai khác ngoài là Con người, chính là con người của Tinh Thần cổ. Theo truyền thống Do Thái con người này là Adam. Đây là con người Đầu tiên và Đích thực. Dzsamsid đã tạo dựng vương quốc hòa bình, xinh đẹp, trật tự và trù phú. Vương quốc quyến rũ và sạch sẽ như nơi trú ngụ của thiên thần. Đấy là Ver, theo truyền thống Hi Lạp gọi là thời hoàng kim, theo truyền thống Do Thái đấy là vườn Ê-đen, vườn Địa Đàng. Điều quan trọng nhất chỉ gói gọn vào vài từ. Đấy là: tồn tại hay không hiện thực của thời hoàng kim? Câu trả lời chỉ chừng này: từ thời lịch sử (sau Công nguyên) trở đi vô ích kiếm tìm những người có tầm vóc ngang hàng với Zarathustra và các đồng sự, với Lão tử, với Buddha, Heracleitos. Đây là sự thật ngày hôm nay, sau hai nghìn năm trăm năm còn nhìn rõ hơn nữa so với thời đó. Những khái niệm như sức mạnh tinh thần, sự sâu sắc, tính chất siêu nhân không thể diễn đạt nổi những đặc thù đích thực của những cá nhân này. Những cá nhân này chỉ ra thời kì hoàng kim là có thực, cần phải chấp nhận cho dù từ đó tới nay mọi nghiên cứu duy lí đều chống lại nó. https://thuviensach.vn Cái gì khiến vương quốc của Dzsamsid biến thành thời kì hoàng kim? Câu trả lời đơn giản: chín cây cầu. Zend Avesta viết, Con Người xây chín cây cầu ở giữa quốc gia, sáu cây lớn hơn và ba cây nhỏ hơn. Những cây cầu này dẫn đi đâu, về điều này Zarathustra không nói đến. Nhưng từ các phần khác của sách thánh cho thấy trong chín cây cầu thì tám cây đã gãy cuối thời kì hoàng kim, cây còn lại có tên gọi là Csinvat. Những linh hồn đi trên cây cầu này là những kẻ đến từ trái đất, quay trở lại cõi vô hình. Csinvat nối thế giới hiện hữu và thế giới vô hình lại với nhau; nối Trời với Đất; nối thế giới vật chất với thế giới tinh thần. Cái biến vương quốc Ver thành thời hoàng kim là chín cây cầu nối Đất với Trời; để sự sống là cửa ra vào tự do liên tục cho đời sống, và để đời sống cũng có cửa đi lên sự sống liên tục tự do. Từ đời sống vào sự sống qua chín lần chuyển đổi. Số chín không là gì khác ngoài chín số đầu tiên của hệ thống mười số, là con số Chín Ai Cập. Thời hoàng kim là thời gian, khi đời sống mở về phía sự sống, khi các thiên thần bay xuống trần gian, và tinh thần chảy xuyên qua thế giới vật chất chín lần. Với phác họa bình luận này chỉ cần nhớ thêm một điều: thời kì hoàng kim là thời gian của hòa bình, của cái đẹp và sự trù phú, là hiện thực thật sự được xây dựng trên trái đất. Khi những sức mạnh siêu nhiên và sức mạnh tinh thần chảy vào số phận con người, vào cuộc sống cộng đồng, vào thiên nhiên và vật chất một cách tự do và phong phú, tất cả những điều này, khi còn tồn tại trên trái đất, đều được soi sáng, được coi trọng và trở nên viên mãn. Thế giới hiện hữu hòa hợp một cách tự nhiên với thế giới vô hình, biến đời sống thành sự sống; biến tất cả thành một, thành vẹn toàn, thành thể thống nhất. Đấy là tính chất của thời kì hoàng kim: sự sống. 5. https://thuviensach.vn Tám trong chín cây cầu bị sụp đổ chỉ còn lại cây cầu Csinvat để các linh hồn có thể quay lại thế giới tinh thần vô hình. Giọng điệu này không phải của Zend Avesta nữa mà của Hénoch. Đây là âm thanh vẫn vang lên từ đó đến nay, như thể vừa viết ra ngày hôm nay: đây là tiếng thét thất thanh đau đớn và hoang mang của con người gục ngã và bị xé ra từng mảnh. “Ta thề với các ngươi, những kẻ tội phạm, rằng núi không biến thành kẻ hầu hạ, đồi không biến thành đầy tớ, tội lỗi không được gửi xuống thế gian mà chính con người, từ cái Tôi làm ra tội lỗi, và những kẻ đồng lõa cũng phải chịu chung một tai họa...”. Không phải âm thanh từ chương nói về Ver trong Zend Avesta, khác hẳn. Đấy là âm thanh của sự sống; còn đây là của đời sống. Đấy là của sự sống mở; còn đây là của đời sống khóa kín. Toàn bộ thế gian bị chia làm đôi, con người quằn quại trong một nửa gãy gục của nó. Giữa dân chúng may mắn của vương quốc Dzsamsid không có những kẻ cai trị tạo ra những bộ luật hà khắc. Các sinh linh như những ngôi sao lấp lánh quay vào bên trong nó. Chín cây cầu nối liền Trái đất và Bầu trời. Đấy là thời kì của Cộng Đồng Lớn (thế giới đại đồng). Đấy là thời kì Hoàng kim. Còn hiện nay là thời kì Khải huyền (apokalipsis), khi những quyền lực bạo lực “đi đi-lại lại với vẻ trịnh trọng vua chúa, trong quyền lực, trong bạc vàng, trong quyền quý, giàu có và thịnh vượng thừa mứa như biển dâng thủy triều”. Nhưng nhà tiên tri biết cái kết thúc của thời kì này là cái gì. Cái gì sẽ tới? Bản án. “Và trong những ngày đó thiên thần sẽ bay xuống trái đất, thu gom lũ tội phạm lại một chỗ và tuyên bố bản án khủng khiếp nhất đối với chúng”. ... và trong thời gian ấy cha và con cùng một lúc sẽ đánh vỡ đầu nhau, anh chị em ruột sẽ đánh mất lẫn nhau, trong khi máu chảy đầm đìa trái đất như sông lớn. .. và lũ ngựa sẽ phi ngập thân trong máu, và https://thuviensach.vn những vòng bánh xe lún xuống đất bùn đẫm máu”. Hénoch, Heracleitos, Pythagoras. Và Lão tử nói: “Sự hỗn loạn ngự trị trong các nhà nước... và sự giả dối lớn nổi lên”. Thời kì hoàng kim không là gì khác ngoài là sự sống. Đấy là một tổng thể toàn vẹn, hiện hữu và vô hình cùng lúc hiện diện. Trái đất và Bầu trời, Thượng Đế và Con người. Đây là Cộng Đồng Lớn. Cần đồng thời với nhau bởi nó cần cùng tồn tại như thế, cái này thiếu cái kia chỉ là một nửa, chỉ là sự gãy gục. Khải huyền là cái bị gãy, bị vỡ. Sự sống vỡ, gãy chỉ là vật chất, chỉ là trần thế, chỉ là: đời sống. Sự sống vỡ, sự sống bị khóa kín: “tội lỗi không bị gửi xuống thế gian mà chính con người, từ cái Tôi làm ra tội lỗi, và những kẻ đồng lõa với họ cũng phải chịu chung một tai họa...”. Và vì sự sống bị vỡ, con người phải chịu trách nhiệm ở ngày tận thế, khi thiên thần: “sẽ bay xuống trái đất, thu gom lũ tội phạm lại một chỗ và tuyên bố bản án khủng khiếp nhất đối với chúng”. 6. Sau tất cả những điều trên mà vẫn còn cho rằng thời hoàng kim không hiện hữu, quả thật không tỉnh táo chút nào. Thời kì hoàng kim là điều kiện của thời kì khải huyền. Khải huyền thiếu thời hoàng kim không thể hiểu nổi. Đau khổ, tội lỗi, hỗn nhương đều là đau khổ, tội lỗi và hỗn nhương, bởi trong con người, tri thức tỉnh táo về thời hoàng kim là cái đẹp, sự quyến rũ và trong sạch của vương quốc Ver. Mọi đau khổ chỉ khi so sánh với niềm hạnh phúc mới là sự đau khổ. Mọi tiêu cực chỉ khi so sánh với tích cực mới là tiêu cực. Mọi hỗn loạn chỉ khi so sánh với trật tự mới là hỗn loạn. Khải huyền chỉ khi so sánh với thời hoàng kim mới là khải huyền. Hình ảnh cổ và ý tuởng của https://thuviensach.vn mọi loại đời sống: sự sống, là thứ, bằng sự giúp đỡ tái tạo của lịch sử, chúng ta đều biết đến. Nhưng hai từ này cứng nhắc đối chọi nhau như hai thanh gươm, không được phép nhìn chúng như một, cả hai đều là hình ảnh ít nhiều may mắn cố gắng chiếu rọi lại sáu trăm năm từ hai mặt. Và hai từ này không là gì khác ngoài hai khái niệm: sự sống và đời sống, là hình thái thể hiện như là hình ảnh và được định hình một cách có ý thức, là hai trật tự sống, là sự khác biệt cơ bản giữa sự sống mở và đời sống khóa kín. Bây giờ ta có thể nói rõ hơn một chút. Câu hỏi của sáu trăm năm không phải là đã từng có hay không thời hoàng kim, mà là: có thể quay lại hay không thời hoàng kim? Đây là câu hỏi được nhắc lại thường xuyên, bí ẩn, nhưng duy nhất của đời sống từ trước đến nay: có thể lấy lại được hay không vương quốc Ver quý giá đã mất, nơi không có những hàm răng nghiến chặt. Hoặc nếu không, có thể xây dựng lại nó một lần nữa được chăng? Bởi vì thời hoàng kim không là gì khác ngoài hình ảnh cổ của đời sống. Đây là một đời sống mở, là sự sống đã hoàn thành, định hình, vẹn toàn, toàn diện, đầy đủ. Và bởi thời hoàng kim là sự sống, nên nó không là gì khác ngoài đối tượng mơ ước liên tục và không ngừng nghỉ trong mọi con người và trong mọi thời gian. Còn khải huyền là một đời sống bị hư hoại và bị phá hủy, là dạng đời sống trong trạng thái nhão, không hình hài, không có cách giải quyết. Và từ khi thời hoàng kim biến mất, nhân loại sống trong khải huyền. Từ khải huyền - apokalipsis có nghĩa là: revelatio, sự biểu hiện, lời tuyên ngôn - như một bản án. Thời hoàng kim có nghĩa là: niềm hạnh phúc được đón chào. Hai cách thể hiện này là vị trí cuối cùng của sự sống. Từ khi nhân loại bước ra khỏi thời hoàng kim, sự sống từng định hình, hoàn hảo, bình yên, hạnh phúc và toàn vẹn đã bị bóp méo và biến thành một khả năng. Hiện thực đích thực của nó bị đánh mất. Đây là ý https://thuviensach.vn nghĩa của sáu trăm năm (trước Công nguyên). Từ phút ấy trở đi sự sống không bao giờ có giải pháp của nó nữa, mà chỉ còn là một khả năng; không có hình hài, chỉ là khả năng; không còn sự bình yên, mà một lần nữa chỉ còn là khả năng. Trong thời khải huyền tất cả các hình thức tổng quát và hoàn chỉnh trở thành chất lỏng: hình thức bị lỏng hóa này chính là khả năng. Khả năng này cùng những khả năng khác đều nằm trong thời khải huyền, bởi bản án luôn ở thời hiện tại, là lời kết tội của Tinh thần-Thượng Đế. Bản án và lời kết tội đối với đời sống bị đứt đoạn khỏi sự sống. Đây là ý nghĩa cuối cùng trong sách của Hénoch, từ trước đến nay vẫn mang ý nghĩa của khái niệm khải huyền. Đời sống đứt đoạn từ sự sống, nhưng: nó đứng trước tòa án. Những lời nói của Lão tử, Buddha, Heracleitos và Pythagoras đều tiếp cận sự tận thế này. Tính chất khải huyền của nhân loại sau thời hoàng kim là: đứng trước một bản án. https://thuviensach.vn II. Sự tỉnh táo 1. Kẻ canh giữ tinh thần cổ đại là cuốn sách thiêng của Ấn Độ: Veda. Từ Veda bắt nguồn từ vidja và có liên quan tới từ Latin videre, có nghĩa là nhìn và thấy. Điều đầu tiên Veda nói đến là cảnh và hình ảnh. Không chỉ là hình ảnh con người nhìn thấy ban ngày mà cả hình ảnh trong giấc mơ và trong trí tưởng tượng; có vẻ không chỉ là hình ảnh của các sự vật mà cả nội dung và ý nghĩa của sự vật nữa, cùng tất cả những gì xảy ra, kết nối và tách rời các sự vật. Bởi vậy nếu giải thích vidja chỉ là nhìn và thấy, ý nghĩa của nó bị thu hẹp. Đúng hơn, vidja có nghĩa là: tri thức, kiến thức. Guénon theo quan điểm này. Theo ông: Veda là kiến thức về mọi sự vật, sự việc trên thế gian, là kiến thức cổ vĩnh cửu và thiêng liêng. Là kiến thức gốc rễ của trí tuệ về các sự vật. Hiểu như vậy đơn giản và rộng hơn. Nhưng hiện thực còn đơn giản hơn nữa, và tầm quan trọng của nó vô hạn. Veda (vidja) thực chất có nghĩa là: sự tỉnh táo. Veda bảo vệ sự tỉnh táo, bảo vệ và truyền tiếp; đây là tinh thần của thời cổ, là bản chất của thời gian trước thời lịch sử (trước Công nguyên). Nhiệm vụ của Veda có một không hai, đánh thức, mang lại và duy trì sự tỉnh táo. Không dạy nhìn và thấy, dạy để biết lại càng ít hơn. Để có kiến thức, con người cần phải thấy; nhưng để con người thấy, cần sự tỉnh táo. Từ một giấc mộng là đời sống người trên thế gian vật chất, Veda đánh thức; nó phá vỡ đời sống khép kín và khai mở đời sống; Nó nêu ý nghĩa đích thực của sự vật, mở mắt cho con người và https://thuviensach.vn tuyên bố nội dung đích thực của thế gian. Bởi tác động của những điều Veda tuyên bố không phải là việc con người nhìn thấy và nhận biết hình ảnh của thế gian, mà là; từ cảnh vật, họ thức tỉnh. 2. Khi Socrates uống cốc thuốc độc, chân tay bắt đầu lạnh dần, cái chết đông cứng đến gần tim, ông còn nói: Các ngươi đừng quên hiến tế con gà trống cho Asclepius. Ta không bàn tới những lời giải thích xưa về nội dung câu nói trên, các thế hệ sau thường không hiểu. Người ta cố giải thích: những kẻ khỏi bệnh thường dâng vật hiến tế cho Asclepius, và câu nói của Socrates phút lâm chung mang ý nghĩa đó: đời sống được chữa khỏi từ căn bệnh lớn (từ cái chết). Đây là sự biện bạch của Socrates bằng tư tưởng của Schopenhauer. Con gà trống cần tế hiến cho Asclepius chính là: sự tỉnh táo. Đây là con gà trống xoay trên nóc chuông nhà thờ. Đây là con gà trống gió trên các mái nhà và trong các phù hiệu quý tộc. Và trước khi gà trống cất tiếng gáy, Kinh Thánh bảo, mi sẽ bán đứng ta ba lần. Ý nghĩa của câu này: trước khi mi thức tỉnh về sự sống toàn vẹn, và hiểu cái gì xảy ra với mi trong toàn bộ hiện thực của sự sống, mi không thể làm gì khác ngoài việc đi theo sự phản bội thường xuyên chống lại Thượng Đế và bản thân. Trên đỉnh núi Ôliu, Chúa bảo khi rút lui để cầu nguyện: “Các con hãy tỉnh dậy và hãy cầu nguyện”. Khi Chúa quay lại, các tông đồ đã ngủ say. Ở Irán con gà trống có tên Paroderes, đưa con người đến với việc “thực hiện những nhiệm vụ hăng say”. Buổi sáng khi Paroderes cất tiếng gáy, theo Avesta có nghĩa là: “Các ngươi hãy thức dậy và cầu nguyện đi bởi vì Busjasta, con quỷ của sự mê ngủ đang đến để cổ vũ: “hãy ngủ đi, con người, ngủ đi, thời gian của mi chưa tới đâu””. https://thuviensach.vn Tỉnh táo không chỉ có nghĩa như một sự tồn tại tỉnh. Không chỉ có nghĩa như duy trì các giác quan trong sự hoạt động, thấy, nhìn, làm, cử động, có ý thức, biết. Sự tồn tại tỉnh cũng không khác gì một đặc tính khác của giấc ngủ: giấc ngủ trong thế giới giác quan. Và con gà trống, mà Socrates ám chỉ, mà Kinh thánh nhắc đến và có tên gọi Paroderes chính là sự tỉnh táo, gọi sự thức tỉnh từ thế giới giác quan. Đây là sự tỉnh táo, để thấy và biết rằng thế giới giác quan cũng là hình ảnh mộng. Socrates, khi thuốc độc ngấm dần đến ngực, ông tỉnh giấc từ giấc mộng này. Bởi vậy cần hiến gà trống cho Asclepius vì sự biết ơn, rằng-ông đã thức tỉnh. Socrates yêu cầu hãy nhân danh mình tế con gà trống, bởi vì đấy là sự vật duy nhất ông muốn mang theo mình, là thứ nằm trong mọi trạng thái của sự tồn tại, trong mọi thế giới có thể, trong vật chất ở đây, trong tinh thần ở kia, giữa các vị thần ở chỗ nào đó và trong cái bất biến vĩnh cửu, thứ duy nhất quan trọng: đấy là sự tỉnh táo của con gà trống. Bởi vậy trên ngọn tháp chuông nhà thờ có con gà trống. Và những kẻ như đám tông đồ trên đỉnh núi Ôliu, ngủ, và không chỉ buồn ngủ. Những kẻ đó không biết và cũng không thấy gì hết. Mù lòa và vô thức; bởi vì tri thức-sự nhận thức-sự tỉnh táo liên hệ với nhau như tỉnh táo là điều kiện của mọi nhận biết và tri thức. Kẻ nào mù lòa và vô thức, kẻ đó phân vân, dao động, hèn nhát và phản bội. Mi sẽ bán đứng ta ba lần. Kẻ mù lòa, vô thức và mê muội, kẻ bị con quỷ của sự buồn ngủ đánh lừa, kẻ đó tưởng thời gian của nó chưa đến, cả cuộc đời của nó ngủ quên giữa những hình ảnh của các giác quan và sự tưởng tượng. Khả năng định mệnh của cuộc đời trần thế là con người ngủ ngon lành trong cuộc đời đó. Nếu như không có con gà trống, tất cả mọi người vẫn tiếp tục ngủ. Tỉnh táo là sự nhạy cảm siêu hình của con người. Meta ta phüszika nghĩa của nó chỉ có ngần này: siêu nhiên. Sự nhạy cảm siêu nhiên, thứ nhìn và thấy và biết những gì giác quan không vươn tới được. https://thuviensach.vn Kẻ tỉnh, là kẻ nhìn thấy, vượt cao hơn các hiện tượng của giác quan, của ý thức, của cảm xúc và của đam mê. Dấu hiệu liên tục của Buddha: sự tỉnh táo hoàn toàn. Nhưng bản thân từ Buddha cũng có nghĩa là sự tỉnh táo tinh thần. Kẻ mơ màng đã tỉnh. Kẻ từ bỏ tất cả các dạng của trạng thái buồn ngủ, không bao giờ ngủ tiếp trong các giác quan, các đam mê, các khát vọng và trong cả cái Tôi khóa kín. 3. Ở Irán, Avesta nói với thần Mitra như sau: “Hỡi Đấng Mitra cao cả, vị thần nghìn tai nghìn mắt, Người nhìn thấy thế gian vô tận từ muôn hướng, Người không bao giờ ngủ, người thức tỉnh vĩnh viễn!”. Mitra là mặt trời và ánh sáng; bởi vì các vị thần mặt trời và ánh sáng đều là thần của sự tỉnh táo: Orizis, Apollon. Dấu hiệu quay lại của các vị thần tỉnh táo ở Irán; jogaurvah có nghĩa là sự thức tỉnh thường xuyên - ahvafna có nghĩa là sự mất ngủ. Giấc mơ - hvafna, cùng một từ như tiếng Hi Lạp hupnosz, tiếng Latin somnus và tiếng Sanskrit szvapna, đều có nghĩa là giấc mơ, nhưng cùng lúc có nghĩa là hình ảnh giấc mơ và ảo ảnh (maja) tưởng tượng. Có sự gắn bó chặt chẽ với những hình ảnh mê hoặc của maja-ảo ảnh. Bởi vì Busjasta, con quỷ giống cái của sự mê ngủ không là ai khác ngoài hình ảnh của Kali Tăm tối (Ấn Độ) và Âm (Trung Quốc). “Sự tỉnh táo là cái tốt nhất trong mọi cái hiện hữu”- Avesta viết. “Hãy thấy bằng linh hồn của các ngươi!”. Khi linh hồn rời khỏi trái đất, nó không mang theo gì ngoài sự tỉnh táo. Zarathustra gọi cái thấy siêu nhiên là csisti và nói đấy là quà của nữ thần cao quý nhất của bầu trời. Nếu csisti mạnh mẽ trong linh hồn, linh hồn dễ dàng bước qua ngưỡng của đời sống. Tại sao? Bởi vì nó tỉnh. Và bởi vì nó tỉnh, nên bên trong nó có tri thức để nhìn thấy mọi hoàn cảnh và nhận biết mọi hoàn cảnh. https://thuviensach.vn Cuốn Tử thư Tây tạng viết, khoảnh khắc của cái chết mở ra khả năng cho tất cả mọi người bước vào thiên đường cao nhất, với thời gian không nhiều hơn thời gian một kẻ ăn trưa. Một ánh sáng chói lòa tiếp nhận linh hồn di chuyển khiến linh hồn choáng váng và rên rỉ. Nhưng thật thảm hại cho nó nếu nó run rẩy và bắt đầu sợ hãi! Thật thảm hại cho nó nếu nó không nhận ra, ánh sáng này không là gì khác, ngoài là hình ảnh cổ thần thánh tỉnh táo của con người: sự Thức Tỉnh vĩnh cửu. Nếu linh hồn chưa đủ tỉnh táo, nếu bắt đầu run sợ, co rúm lại, quay đi, hoặc rơi vào mê muội, linh hồn sẽ nhầm lẫn, nó không thể bước vào ánh sáng vĩnh cửu, vào sự Thức Tỉnh thần thánh. Bởi vì; “Sự tỉnh táo là cái tốt nhất trong mọi cái hiện hữu”. Linh hồn đờ đẫn, vô thức và hèn nhát rơi xuống, một lần nữa rơi vào vòng quay vô tận của những hình ảnh mộng. Sự tỉnh táo của con gà trống không đủ mạnh trong nó. Nó không thể thức tỉnh. Ở Ai Cập, trên con đường âm thế, linh hồn sẽ gặp gỡ các quái vật khủng khiếp và các vị thần mê li đổi chỗ cho nhau. Kẻ nào không tỉnh sẽ sợ hãi trốn tránh trước quái vật và vui mừng với các vị thần. Linh hồn mê muội và vô thức không biết rằng ở âm thế ban đầu nó đi giữa những bóng ma mang hình ảnh của thế giới cảm xúc, ở đó nó vật vờ trong một thời gian vô hạn giữa những hình ảnh của trí tưởng tượng riêng của nó và những hình ảnh của giấc mộng, trong tiền sảnh đích thực của âm thế, giữa những cái bóng, ở Hádes, như người Hi Lạp nói, hay ở Seol như người Do Thái nói. Linh hồn đau đớn vì bị cá sấu cấu xé và bản án âm thế treo trên đầu nó, đợi ném nó vào lửa. Nhưng kẻ nào tỉnh, sẽ quỳ xuống trước những hình ảnh đó và cầu nguyện: “Hỡi cá sấu vĩ đại, ta chính là ngươi! Ngươi, Horus rạng ngời vĩ đại, ta là Horus!”. Và kẻ nào nhận ra nó đang đi giữa các hình ảnh, kẻ đó sẽ đến Orizis, sẽ bước vào đất nước của ánh sáng. “Sự tỉnh táo là cái tốt nhất trong mọi cái hiện hữu”. Từ csisti có nghĩa là “khả năng thấy”. Từ “thấy” này cần hiểu theo nghĩa bóng, giống như từ vidja trong nghĩa bóng là sự tỉnh táo, và sự tỉnh táo này trong nghĩa bóng là một khả năng, là sự nhạy cảm siêu https://thuviensach.vn hình. Spenta Mainju, tên gọi thường xuyên của đấng Đại Minh; ahvafna, sự tỉnh. Ở Irán là dấu hiệu của thần ánh sáng, ở Ấn Độ là của Buddha và ở Judea là Zebaoth. Tất cả đều có nghĩa là sự tỉnh táo. Linh hồn rời trái đất là chuẩn bị từ bỏ thế giới vật chất, và muốn bước sang thế giới tinh thần. Bước vào những thế giới có thể tự do chọn lựa cao hơn trong thời cổ cần đi qua chín cây cầu; nhưng tám cây bị gãy, chỉ cây cầu Csinvat còn trụ lại. Khi linh hồn đến bên cầu Csinvat một cô gái cực kì đẹp đi từ xa đến. Cô gái đấy là daéna, không là ai khác ngoài một nửa của lứa đôi đích thực của cái Tôi trần thế con người, là cái Tôi Thượng Đế. Đặc tính cao nhất của cái Tôi trần thế là csisti, sự tỉnh táo. Và khi linh hồn nhìn thấy daéna, nó nhận ra, nó còn là sự tỉnh táo của cái Tôi Thượng Đế. Cô gái đẹp rực rỡ đó là sự tỉnh táo bất diệt. Cũng chính là nguồn ánh sáng mà cuốn Tử thư Tây tạng nói đến. Trong một khoảnh khắc trên cây cầu Csinvat, sự tỉnh táo rực rỡ tỏa ra từ cái Tôi trần thế gặp gỡ sự tỉnh táo rạng rỡ tỏa ra từ cái Tôi Thượng Đế. 4. Sau các tiên đề và các tương đồng, giờ đây ta có thể đi vào bản chất, có thể quay lại với kinh Veda và phân tích chương Isaupanisád của Veda. Đây là các trích đoạn của chương này: “Thế giới và tất cả những gì sống đều chìm ngập trong sự tồn tại của Thượng Đế. Kẻ biết từ bỏ, kẻ đó có niềm vui. Cái của người khác, mi đừng mơ ước. Hãy để đám đông rên rỉ, hãy để họ chúc tụng họ cuộc đời trăm tuổi. Bởi niềm vui đích thực là của ngươi. Đừng hám lấy niềm mong ước trần thế. Những sức mạnh ma quỷ che đậy thế giới này và phủ bóng tối mù lòa bao trùm lên sau cái chết, những kẻ mất linh hồn sẽ sa xuống đây. https://thuviensach.vn Kẻ biết duy trì những sinh linh sống trong bản thân, giống như duy trì các phần của cái Tôi, của bản thân trong tất cả những gì nó sống, kẻ đó không bao giờ biết sợ hãi, không sợ cái chết và cả những cái khác. Bởi kẻ là cái Tôi của mọi sinh linh sống, đã thức tỉnh; và nỗi buồn phiền và lo lắng đọng ở đâu, nếu mi thấy tất cả là MỘT? Những kẻ vô thức vật vờ trong bóng tối mù lòa, nhưng những kẻ tích lũy kiến thức cho kiến thức còn vật vờ hơn trong bóng tối dày đặc hơn. Con đường dẫn tới một nơi khác, khác nơi kiến thức hoặc phi kiến thức dẫn dắt. Những bậc thầy lớn của thời cổ đã dạy như thế, những người mà bao lời dạy của họ còn để lại cho chúng ta. Kẻ nào biết rằng, có kiến thức hoặc phi kiến thức đều không đủ, cần phải bước qua cái chết bằng nhận thức đúp này, chỉ kẻ đó bất tử. Bước vào màn đêm dày đặc là kẻ tin rằng nó biến thành hư vô; nhưng kẻ cho rằng sẽ trở thành một cái gì đó, kẻ đó còn bước vào một màn đêm dày đặc hơn. Trở thành một cái gì là điều khác với việc trở thành hư vô. Các bậc thầy thời cổ đã dạy như thế, và truyền thống còn lại với chúng ta cũng như thế. Kẻ nào biết, không có chuyện trở thành một cái gì đó, nhưng hư vô hóa cũng không, và với nhận thức đúp này bước qua cái chết, chỉ kẻ đó bất tử”. Trước hết cần tách ra những phần phụ. Câu nói đầu tiên mang ý nghĩa thiền quán thông thường, hai đoạn tiếp theo của câu đầu tiên đòi hỏi sự trong sạch của đạo đức. Linh hồn vấy bẩn vô ích thử thức tỉnh. Phần thứ ba là một hình ảnh dẫn luận quan trọng: sự tăm tối của thế gian. Đây là sự tăm tối ta đã bàn lúc trước, nữ thần Kali, khí Âm, Maja-ảo ảnh. Bóng tối là nơi không ánh sáng. Ánh sáng là mặt trời, Ahura Mazda, khí dương, Orizis, Apollon, Brahman, vị thần của sự thức tỉnh. Linh hồn con người trong bóng tối thiu thiu một cách mù lòa https://thuviensach.vn và vô thức, giữa những ảo ảnh ma quái và những hiện tượng mê hoặc. Nhưng ảo ảnh và mê hoặc đều là một; cả hai đều là biến hóa của ảo ảnh. Đây là giai đoạn nguy hiểm, khi linh hồn con người có thể ngủ say hoàn toàn, và đánh mất sự tỉnh táo đến mức không bao giờ thức tỉnh được nữa. Câu này trong đoạn trích trên cần hiểu như vậy khi chúng ta đọc: “những kẻ mất linh hồn”. Đây không phải cái chết vật lí, mà như các nhà huyền học gọi là cái chết thứ hai khi linh hồn trong cuốn Tử thư Ai Cập viết: vật vờ vĩnh viễn giữa những ảo ảnh mộng, hoặc trong cuốn Tử thư Tây tạng viết: linh hồn rơi trở lại vòng quay vô tận của những hình ảnh mộng. Đấy là những kẻ mê muội dưới bùa mê của con quỷ Busjasta, và sống trong một tiềm thức: Hãy ngủ đi, ngủ đi, thời gian của mi chưa tới đâu. Thời gian của những kẻ như vậy không bao giờ tới. Đấy là các tông đồ lăn ra ngủ khi Chúa cầu nguyện. Những kẻ tưởng rằng dục vọng, nỗi đam mê, ý muốn, tư tưởng, khát vọng, thế giới giác quan của họ là hiện thực. Đây là trạng thái mà kinh Veda đã chỉ ra: avidja. Avidja không có nghĩa là mù lòa, vô thức mà có nghĩa là sự chìm đắm trong mê muội. Một sự sống suy thoái. Một sự sống bị khóa, bị khép kín. Sự đờ đẫn. Avidja là mối tai họa nguy hiểm nhất tác động tới linh hồn: linh hồn vật vờ giữa những hình ảnh của nữ thần Busjasta tăm tối bỏ bùa mê và giữa những ảo ảnh nhầm lẫn, những thất bại riêng của nó, đến chừng sự tỉnh táo của nó cứ giảm dần, và sau cùng mất hẳn, nó ngủ yên hoàn toàn. Linh hồn nghẹt thở giữa những hình ảnh của chính nó. Theo Veda avidja có ba mức độ: ngủ sâu, giấc ngủ không mơ, giấc mơ và trạng thái tỉnh. Trong giấc ngủ sâu con người không thấy và không biết gì hết. Cuộc đời này đúng ra là một trạng thái suy thoái. Khi con người mơ, nó thấy nhưng không biết. Trạng thái này ở một mức độ cao hơn. Trong https://thuviensach.vn trạng thái tỉnh con người thấy, biết nhưng vẫn chưa tỉnh táo. Tỉnh táo chỉ ở dạng thứ tư (turijam). Avidja là sự vô thức, đờ đẫn, buồn ngủ, là cuộc đời thoái hóa, là sự mù lòa: trong vật chất, trong cái Tôi trần thế và là trạng thái đờ đẫn ngất ngây trong các giác quan. Veda gọi trạng thái này là maja. Linh hồn bị mê hoặc là kẻ tưởng thời gian của nó chưa đến. Nó coi các hình ảnh là hiện thực. Các hình ảnh là các cảnh tượng của thế giới giác quan, các cảm giác, các xúc cảm, các tư tưởng, các đam mê, các dục vọng, là sự khác nhau giữa thế giới bên ngoài và bên trong, là sự khác nhau giữa đời sống và sự sống, là sự khác nhau giữa tồn tại trần thế và tồn tại tinh thần, là sự khác nhau giữa Tôi và Anh và Chúng ta. Con người bị khóa trong sự mê hoặc này. Và trong sự cùm khóa lưu đày này nó tưởng nó là cái Tôi, là cái cá nhân đặc biệt. Sự tồn tại mê muội này là Hades, một loại địa ngục, ở giữa thế gian, như Orpheus nói, nữ thần Persephon, linh hồn ngự trị, phủ voan đen, trên trán quấn một vòng hoa anh túc tượng trưng cho sự mê hoặc. Heracleitos nói, giữa những kẻ mê muội mỗi người có một thế giới riêng, còn những người tỉnh táo có một thế gian chung. Cái thế giới riêng đấy là cái Tôi. Cái Tôi có hình ảnh mộng riêng, có số phận cá nhân, có tư tưởng, hành động, quan niệm cá nhân. Kẻ nào ngủ càng say, càng chìm sâu vào sự đờ đẫn, kẻ đó càng tách biệt và đơn độc, càng cá nhân hóa và càng lập dị. Trạng thái đặc thù của avidja coi thế giới cảm giác, những kinh nghiệm thu thập được là hiện thực; nó tưởng sự mê hoặc của thế giới vật chất là thực; nó không biết rằng cái nó tin là hiện thực chỉ là ảo ảnh - là giấc mơ bất thường của linh hồn bị mê hoặc. Nó không bao giờ có thể thức tỉnh nữa, và luôn tin rằng thời gian của nó chưa đến. Không bao giờ nó linh cảm rằng có siêu nhiên, meta ta phüszika, có một cái gì đó đôi khi nó vấp phải trong giấc mộng, và đáng lẽ cần phải mở mắt ra, thì nó lại tiếp tục ngủ mơ về một cái gì: https://thuviensach.vn mục đích sống, lí tưởng, nỗi đam mê, danh vọng. Luôn có một cái gì đó kế tiếp từ cái Tôi, và là mục đích của cái Tôi. Hiện thực thật sự chỉ thấy như kẻ bị trói trước cửa ra của một cái hang, kẻ chỉ nhìn thấy những cái bóng chạy vụt qua. Và mức độ chìm đắm trong mê muội phụ thuộc bởi ai coi những hình ảnh mộng nào là hiện thực, đến mức độ nào, coi những thất bại và sự hào nhoáng là sự thật đến đâu, coi mơ hồ là trạng thái tỉnh táo đến mức nào. Cho đấy là sự thật đến mức nào những gì chỉ có trong cái Tôi: tư tưởng, cảm giác, quan điểm, lí thuyết, sự đánh giá. Càng kiêu ngạo, khinh người, tự phụ, tự tin, nghênh ngang, ích kỉ, càng mù lòa, vô thức, ảo tưởng, hão huyền, mơ hồ, càng đờ đẫn, thui chột và mê muội. 5. Một khía cạnh khác của Isaupanisád cho thấy kiến thức không phải là sự tỉnh táo. Từ “kiến thức” của tiếng Sanskrit là vidnya. Vidnya không phải là vidja. Vidnya có nghĩa là kiến thức vật chất thu được. Trái ngược với avidnya - phi kiến thức. Bài kinh nói thế này: “Những kẻ vô thức vật vờ trong bóng tối mù lòa, nhưng những kẻ thu thập kiến thức cho kiến thức còn lần mò trong bóng đen dày đặc hơn”. Vidnya và avidnya, kiến thức duy lí và sự vô thức, hay một dạng của sự mê muội, cả hai đều vô dụng để con người có thể hiểu và nhìn thấy hiện thực. “Kiến thức và vô thức, cả hai đều không đủ”. Những kẻ vô thức đi vào bóng tối mù lòa. Đúng hơn, họ đã ở đấy sẵn. Họ là những tông đồ đang ngủ. Họ là những kẻ tưởng thời gian của mình chưa tới. Nhưng với những kẻ này vẫn còn hi vọng. Họ có thể nhận những cú giáng để vấp ngã và mở mắt. Nhưng những kẻ ở trong sự tăm tối nô lệ hơn là những kẻ thu thập kiến thức cho kiến thức. Đây là thứ kiến thức duy lí. Kiến thức duy lí là https://thuviensach.vn giấc ngủ nguy hiểm nhất. Chỉ tăng thêm số lượng vật chất của kiến thức, nhưng không nâng lên đến tầm chất lượng và sự tinh thông của nhận thức, đây chính là khoa học (vidnya). Đấy không phải sự thức tỉnh, chính vì vậy vô nghĩa; vô ích và nguy hiểm. Đấy là loại kiến thức làm linh hồn còn đờ đẫn hơn so với khi đang ở trong vô thức. Bước đầu tiên, vidja: đi về phía sự tỉnh táo. Sau ba mức độ của sự đờ đẫn, ngủ say, giấc mộng và trạng thái tỉnh dậy sẽ đến mức độ thứ tư: turijam. Mức độ thứ tư này là sự tỉnh táo. Đây là trạng thái thấy một cách rõ ràng, toàn diện, khác hẳn với ba mức độ đầu tiên. Đây là “kẻ mơ thức giấc”, là buddha, là trạng thái bồ tát, ngộ. Đây là mahatma - linh hồn lớn - là trạng thái lớn nhất và cao nhất linh hồn có thể đạt được. Đây là cái nhìn đích thực, là kiến thức đích thực, không phải vidnya, thứ kiến thức vật chất và duy lí, mà là vidja, sự tỉnh táo. Dấu hiệu tỉnh táo đầu tiên là trong con người nổi lên một nỗi nghi ngờ mơ hồ về maja, về sự mê hoặc của giác quan. Me on như Platón nói. Không hiện thực. Là sự mê hoặc của trạng thái đờ đẫn trong thế giới cảm giác chung mà tất cả con người đều có. Người nào bắt đầu nhận thức vượt qua cảm giác - meta ta phüszika - là bắt đầu nhận ra một cái gì đó siêu nhiên. Liên hệ siêu hình học là bến bờ đầu tiên của sự tỉnh táo. Tiếp sau đó đến hai trạm quan trọng nữa, khi hình ảnh mộng cơ bản nhất, hình ảnh mộng về cái Tôi cá nhân bắt đầu tan rã. Kinh Veda diễn tả hai trạm này như sau: etad vai tat và tat tvam assi. Câu đầu tiên có nghĩa là: điều này không khác điều kia; và câu sau là: đó chính là mi. “Kẻ biết duy trì những sinh linh sống trong bản thân, giống như duy trì các phần của cái Tôi, của bản thân trong tất cả những gì nó sống...”. Con người bắt đầu thấy và hiểu trên thế gian có những sự tương đồng không thay đổi. Cái này không là gì khác ngoài là cái kia, và cái https://thuviensach.vn này chính là mi. Giấc mộng đa dạng của cái TÔI cá nhân có thể kinh nghiệm được bằng cảm giác. Còn hiện thực không là gì khác ngoài chính bản thân mi. Kẻ nào từ bóng tối che phủ thế gian bước ra, kẻ đó nhận ra sự đa dạng mê hoặc. Con người trong giây phút ấy không bao giờ còn là cái Tôi cá nhân nữa, mà là một cá nhân mang tính vũ trụ. Và cá nhân vũ trụ này không tồn tại trong cuộc sống nữa mà trong sự sống. Dấu hiệu nhận biết sự sống tồn tại: thế gian là MỘT. Hen pantn einai, như Heracleitos nói. Những kẻ đờ đẫn mê muội mỗi kẻ có một thế gian riêng, còn những người đã thức tỉnh chỉ có một thế gian chung. Những kẻ mê muội luôn ngủ ngon trong những cái Tôi riêng biệt, trong các đam mê, các khát vọng, các thế giới quan; còn những kẻ tỉnh sống trong cùng một thế giới hiện thực. Con người không còn thấy mình tách ra khỏi các thực thể khác: nó nhìn thấy mọi bản chất của thế gian trong bản thân nó, và trong mọi thực thể có bản thân nó “etad vai tat” - “cái này không khác cái kia”. Tất cả thực thể, động vật, thực vật, đá, đất, côn trùng, chim muông, kẻ khác, mẹ, anh em, ma quỷ, Thượng Đế - đây là Tôi. Tat tvam asi. Đây là mi. Tất nhiên đây không phải cái Tôi cá nhân mê muội (avidja), mà là cái Tôi thức tỉnh (vidja), biết tất cả chỉ là ảo ảnh phi hiện thực. Sự mê muội đờ đẫn tồn tại riêng biệt trong một đời sống khóa kín, còn sự tỉnh táo là sự sống mở, và mọi thực thể cùng nhau sống trong thế gian ấy. Kẻ nào thức tỉnh, kẻ đó bước ra khỏi đời sống bị khóa kín: mọi cánh cửa đột nhiên mở ra cho nó, mọi tri thức nó đều có thể đạt tới, như ảo tưởng biến thành hữu hình. Đấy là ý nghĩa của Veda. 6. Ở châu Âu người ta tưởng Veda dạy: chuyển hóa là kiến thức. Niềm tin này ngu xuẩn và đơn điệu như khoa học được truyền bá. https://thuviensach.vn Không có kiến thức nào ở đây. Vidja không có nghĩa là kiến thức mà là sự tỉnh táo. “Con đường đưa tới một nơi khác, khác kiến thức và phi kiến thức - Kẻ nào biết, không có chuyện trở thành một cái gì đó, nhưng hư vô hóa cũng không, và với nhận thức đúp này bước qua cái chết, chỉ kẻ đó bất tử”. Tri thức không chuyển hóa. Duy nhất chỉ có sự tỉnh táo. Bởi vì cái gì là sự chuyển hóa? Không là gì khác ngoài việc từ bỏ cái Tôi cá nhân để trở thành một cá nhân vũ trụ, phổ quát. Không là gì khác ngoài việc bước ra khỏi một đời sống khép kín và nâng mình lên sự sống mở. Không là gì khác ngoài sự tỉnh giấc bước ra khỏi sự đờ đẫn mê hoặc để ở trong hiện thực. Bước quyết định cuối cùng dẫn đến sự am hiểu về tỉnh táo như sau: một từ nền tảng của Veda là atman. Atman là linh hồn siêu đẳng đối lập với linh hồn cá nhân. Là cái Tôi Thượng Đế đối lập với cái Tôi con người trần tục. Đây là linh hồn và là Tôi, kẻ có mặt trong tất cả các thực thể, kẻ “cái này không khác cái kia”, “đây là mi”. Đây là linh hồn-sự sống, là cái tôi tinh thần siêu đẳng, bất tử, phi thời gian và không gian. Atman có quan hệ khăng khít với sự tỉnh táo, đến mức Veda không chỉ một lần gọi Atman là Sự Tỉnh Táo. Atman chính là sự tỉnh táo. Atman là một linh hồn Thượng Đế, không sinh ra và chết đi, mà có ở khắp mọi nơi, là linh hồn thấu suốt tất cả, bản thân nó là sự Thức tỉnh. Con người bước ra khỏi cái Tôi cá nhân bé nhỏ khép kín, bắt đầu học tri kiến trong sự sống mở, trong dự phần này của atman không bao giờ là các nỗ lực, hay là kết quả của học tập và chuyên cần. “Kẻ đạt tới, là kẻ tự mình chọn”- Katha-upanisád tuyên bố. Không do bất kì một thực hành đạo hạnh, yoga, tri thức, ý thức kỉ luật hoặc sự trong sạch nào đạt tới. Sự tỉnh táo đồng nhất với atman, với linh hồn Thượng Đế, đấy là ân sủng của atman. https://thuviensach.vn Sự tỉnh táo mang tính chất siêu hình học-tôn giáo. Cùng với sự tỉnh táo con người đạt tới bất tử. Bởi vậy sự tỉnh táo là một trạng thái tôn giáo. Sự tỉnh táo là sự tương đồng cao cả nhất thánh thiện nhất với thần linh. Tỉnh Táo khiến sự thánh thiện hiện hữu ở mọi nơi, vĩnh hằng. Tỉnh táo không là tri thức mà là sự nhạy cảm. Tỉnh táo là cường độ của sự sống, và là cường độ cao nhất. Sự tỉnh táo mà con người đạt tới trong mối quan hệ với sự thức tỉnh của atman, giống như ngọn lửa nến với tia chớp. Con người thức tỉnh cùng lắm bằng sức mạnh của ngọn lửa nến, còn atman thức tỉnh với sức mạnh của tia chớp. Sự tỉnh táo là sự sáng sủa tuyệt đối của linh hồn. Sự tỉnh táo hoàn thiện là một linh hồn hoàn thiện, là ánh sáng hoàn thiện: Apollón, Oziris, Brahman, Ahura Mazda. Linh hồn trong bản thân nó là sự nhạy cảm cao độ vượt qua đời sống, biến thành sự sống, nhìn thấy tất cả, biết tất cả, cảm thấy tất cả, trải qua tất cả, hoàn toàn tự do, hoàn toàn sáng sủa, đấy là: Bồ tát (Buddha) là sự thức tỉnh, là ngộ. Bởi vậy Zarathustra nói sự tỉnh táo là cái tốt nhất trong mọi cái hiện hữu. Bởi vậy các vị thần mặt trời ở các dân tộc đều mang nghĩa là sự tỉnh táo, và các vị thần này vì thế tỉnh táo vĩnh hằng, những kẻ không bao giờ ngủ như Zebaoth, Ahura Mazda, Brahman, Oziris, Apollón, không biết giấc ngủ là gì. Sự tỉnh táo mang ý nghĩa tôn giáo, bởi không chỉ liên quan đến đời sống con người mà đến mọi khả năng của sự sống, hay đúng hơn đến toàn bộ sự sống. Sự tỉnh táo là bất tử, như là bản thân atman, linh hồn bất tử. Linh hồn không mang gì khác sang thế giới bên kia ngoài sự tỉnh táo. Sự tỉnh táo mang linh hồn đi, dẫn dắt, nâng nó lên đến sự thánh thiện. Linh hồn, nếu thức tỉnh, hay đúng hơn nếu đạt tới nhạy cảm siêu nhiên, siêu hình, sẽ vượt qua cả nhận thức và tri thức. Nhận thức, tri thức hướng ra ngoài, còn sự tỉnh táo không có hướng: sự nhạy cảm https://thuviensach.vn hướng ra ngoài, hướng vào trong, lên trên, xuống dưới, hướng đến tất cả các hiện tượng của đời sống và sự sống siêu việt. Bởi linh hồn thức tỉnh, khi ngày càng nhạy cảm với cường độ mạnh hơn, sẽ ngày càng trở thành bản thân nó nhanh hơn, ngày càng sáng sủa và tỉnh táo tự thân hơn. Ngày càng từ bỏ đời sống khép kín và tương đồng với trạng thái atman thánh thiện trong sự sống mở hơn. Bởi vậy theo Isa-upanisád, con người đã hoàn toàn thức tỉnh, khác như trở thành một cái gì đó, khác như không trở thành một cái gì đó: “Kẻ nào biết, không có chuyện trở thành một cái gì đó, nhưng hư vô hóa cũng không, và với nhận thức đúp này bước qua cái chết, chỉ kẻ đó bất tử”. Sự sống không là gì khác ngoài sự nhạy cảm cao độ của linh hồn. Và sự sống này là hiện thực duy nhất; đấy là cái có thực; là to on, như Platón tuyên bố. Tất cả những hình ảnh mộng, sự huyễn hoặc, maja, mé on không hiện thực. Chỉ linh hồn là: có. Nhưng linh hồn không là cái Tôi cá nhân mê ngủ, trong một nhà tù riêng hay thế giới riêng của nó, mà là linh hồn-atman, thức tỉnh và thấy, để biết: chỉ có một thế gian chung mà thôi: đấy là vũ trụ vĩ đại chung, là linh hồn Thượng Đế siêu việt. Bởi vậy theo kinh Veda: sự chuyển hóa chính là sự Tỉnh táo. https://thuviensach.vn III. Sự sống và đời sống 1. Khoảng thời gian sáu trăm năm trước Công nguyên đã tách nhân loại ra thành thời hoàng kim và thời khải huyền. Khoảng thời gian này là tấm mành che giữa sự sống mở và đời sống khép kín. Khi truyền thống nói về thời hoàng kim, cần nghĩ đến nhân loại trong sự sống mở; khi nói đến thời kì khải huyền, cần nghĩ đến sự sống này đã bị đánh mất, và nhân loại chìm vào đời sống khép kín. Thêm một điểm nữa vào yếu tố đơn giản này: đời sống khép kín không tự nó dừng lại. Nếu đời sống có thể đóng lại hoàn toàn, nó đã có thể chấm dứt; nó đã có thể không tiếp nhận từ trên cao bầu khí quyển siêu hình bắt buộc, cần thiết cho mọi đời sống. Chính vì vậy sự sống mở luôn cần phải đột nhập vào đời sống khép kín; cần đến sự bất an, những tín hiệu cần được đưa ra; những hoạt động thường xuyên để đánh thức những kẻ mộng du luôn cần được thể hiện. Thế giới của sự sống mở là trạng thái liên tục nhưng bí ẩn, và hành động khó hiểu nhất của sự sống mở đối với sự mê muội khi tuyên bố: bản án. Sự sống liên tục phán xử đời sống. Bản án treo trên đầu nhân loại thời khải huyền là trạng thái con người luôn mang trong mình bản án và trích dẫn nó bằng cuộc đời của họ. Thời hoàng kim là trạng thái cổ và tự nhiên của con người. Thời khải huyền không là gì khác ngoài là yếu tố cuối cùng, sau rốt của tạo hóa, là lời phán xử đối với đời sống. Để con người có thể hiểu được sự khác biệt về nhân loại thời hoàng kim và thời khải huyền, cần tiếp cận cụ thể hơn một vài điểm https://thuviensach.vn của sự sống. Điểm quan trọng nhất: linh hồn. 2. Sự tỉnh táo mà chúng ta đã nhắc đến là một khái niệm siêu hình học. Nằm trong mối quan hệ gắn bó nhất có thể với chủ thể thiêng liêng của thế gian, với cái Tôi Thượng Đế và bất tử. Còn sự tỉnh táo bàn đến sau đây là một khái niệm tâm lí. Cần phải đặt tên như vậy bởi vì không có từ ngữ khác. Theo Iran truyền thống, có thể đánh dấu hai khái niệm chính xác bằng hai từ tách biệt khác hẳn nhau. Sự tỉnh táo siêu hình đã nhắc đến là csisti, là sự nhạy cảm cao độ của đời sống, là đặc tính và bản chất quan trọng nhất của cái Tôi Thượng Đế, là điểm nhảy vọt của sự chuyển hóa. Sự nhạy cảm tâm lí ngược lại: là zaéman; đây là trạng thái tâm hồn thức tỉnh của con người, ở đây cần tách biệt một cách dứt khoát, sắc gọn khái niệm tâm lí tỉnh ra khỏi phạm trù ý thức. Ý thức đóng vai trò trong tâm lí giống như một cơ cấu tỉnh của linh hồn con người. Quá trình nhận biết, tư tưởng, sự phát hiện, quyết định, ý đồ, hành động, nếu có ý thức, như người ta nói, thường sáng sủa. Ý thức, một cách bí ẩn, đồng nghĩa với sự tỉnh táo, và người ta hay dùng theo nghĩa này. Trong nhiều trường hợp hai cách nói này có thể đổi chỗ cho nhau. Khi nói, con người cần có ý thức, cần hành động một cách có ý thức, lúc đó từ ý thức đồng nghĩa với từ tỉnh táo, hoặc tỉnh táo không là gì khác ngoài trạng thái của ý thức, trạng thái hoàn toàn sáng sủa và mở rộng. Trong ngành tâm lí học sau này chỉ đôi người lên tiếng chống lại sự đánh tráo từ ngữ trên. Họ nhấn mạnh, ý thức và trạng thái có ý thức tuyệt đối không phải là hoạt động của linh hồn tiếp cận sát cường độ nhạy cảm cao, nghĩa là tiếp cận đời sống siêu nhiên, hay nói đơn giản, https://thuviensach.vn là thứ có thể làm cho đời sống mở ra. Phần lớn người ta cho rằng ngược lại thì có, ý thức là sự phiền nhiễu của đời sống. Nghĩa là không làm cho đời sống mở ra mà trái lại ngày càng khóa kín đời sống lại. Đặc trưng này xuất phát từ sự nhiễu loạn không phương cứu chữa của nhân loại thời kì khải huyền, và sự nhiễu loạn này không thể chỉ nói lên bằng từ ngữ, bằng khái niệm, bằng lí thuyết, bằng quan điểm. Ngay từ phút đầu tiên có thể nhận ra đây là sự tỉnh táo bị thiếu hụt, một sự thức tỉnh yếu ớt. Trong con người lịch sử - hay con người thời khải huyền (lịch sử chính là bản án cần lĩnh hội khi con người rơi khỏi thời hoàng kim) cũng có sự tỉnh táo, sự nhạy cảm. Nhưng là sự nhạy cảm bất lực, phi thực hiện hóa. Con người lịch sử, đặc biệt con người ngày hôm nay không nhạy cảm mà chỉ cảm thấy bực bội. Sự bực bội chính là sự mê muội bị kích thích. Linh hồn có sự nhạy cảm cao độ: là khả năng để thấy và lĩnh hội, vươn lên sự sống mở. Nhưng sự (nhạy cảm) tỉnh táo này bị khóa lại trong đời sống khép kín. Sự tỉnh táo bị khóa và chìm đắm này tâm lí học gọi là tiềm thức. Đây là cơ cấu tỉnh của linh hồn con người. Đây là khả năng liên kết trong mối quan hệ với sự sống siêu nhiên tồn tại trong hiện thực (ontosz on). Các nhà tâm lí học không giấu nổi ngạc nhiên khi tiềm thức nhận biết tất cả, phán xử mọi hành động, phản kháng, đồng tình, dẫn dắt, chống lại, cảnh cáo, dọa dẫm, khuyên nhủ, tỉ tê, phản ứng. Tiềm thức nhận thức đời sống người trong mọi mặt, tiềm thức chú ý thường xuyên đến toàn bộ đời sống từ một miền xa vô thinh, dõi theo những sự kiện của số phận, am hiểu, và không nhầm lẫn, một cách đặc thù, chắc chắn và: một cách siêu hình, hay đúng hơn coi những hình ảnh mộng (có tên là) thế giới bên ngoài không là gì cả: coi đó là maja, mé on, thứ không có thật. Tiềm thức là sự tỉnh táo của con người lịch sử. Luôn phán xử trên đầu và trong mọi hành động của con người. Tiềm thức không chịu nổi https://thuviensach.vn một trật tự sống nhất định; nó tấn công sự nhiễu loạn; loại bỏ những tư tưởng khăng khăng ra khỏi con người; và chỉ làm theo quy luật riêng của nó; cái gì muốn xâm phạm quy luật này, nó gạt bỏ. Nếu con người trong trật tự đời sống của họ muốn bỏ qua hoặc coi thường tiềm thức, tiềm thức sẽ chỉ ra những khủng hoảng khủng khiếp. Nó đủ khả năng xé rách toang con người. Hành vi và lời phán xử của nó đối với ý thức trong mọi trường hợp đều căng thẳng. Tại sao? Bởi trật tự sống mà tiềm thức đòi hỏi khác biệt với trật tự đời sống của ý thức. Hành vi của tiềm thức siêu hình tuyệt đối: nó đồng thuận với mọi dấu hiệu cơ bản nhất của sự tỉnh táo. Tiềm thức giữ gìn đặc tính tôn giáo của sự tỉnh táo cổ trong con người lịch sử. Tại sao cần đặt tên đặc tính này là đặc trưng mang tính chất tôn giáo? Cũng như vậy tại sao cần biết: sự tỉnh táo mang tính tôn giáo? Bởi vì trong nó có sự so sánh với Thượng Đế. Thậm chí nhiều hơn thế: nó mang tính chất Thượng Đế. Thậm chí nhiều hơn thế nữa: nó là Thượng Đế. Toàn bộ khả năng của linh hồn là bản năng thể hiện mở và tự do của mọi khả năng, chính là sự sống, được nâng lên mức độ siêu nhiên. Sự tỉnh táo này là một sức sống trong đó toàn bộ vũ trụ chứa đựng trong từng khoảnh khắc, trong tổng thể và là hiện thực đang là. Là thứ vượt thời gian, siêu nhiên, vượt không gian, vượt qua đời sống. Là siêu hình học. Mang tính tôn giáo. Mang tính Thượng Đế. Bởi vậy nó tỉnh, và rõ ràng, và mở. Bởi vậy nó biết tất cả, thấy tất cả và không nhầm lẫn, không dựa trên những sự phù phép, ảo tưởng và sự lừa dối. Sự tỉnh táo này trong con người đã bị chìm đắm, bị khóa kín và bị chìm xuống. Con người lịch sử sống một cách đảo ngược: quay xuống dưới cùng sự tỉnh táo của mình, con người lịch sử quay sự tỉnh táo xuống dưới và vào trong. Và bởi vậy sự tỉnh táo biến thành tiềm thức. Trong con người lịch sử, sự tỉnh táo rơi vào bầu khí quyển của sự mông muội. https://thuviensach.vn Trong một môi trường như vậy giờ đây có thể hiểu được (cái người ta gọi là) ý thức chính là sự hoạt động và là đặc tính nào của linh hồn. Ý thức thực ra là một bộ phận của sự mê muội, không thức tỉnh. Sự đờ đẫn được nâng lên vị trí của sự tỉnh táo. Về bản chất, ý thức là mối quan hệ của con người với sự sống vật chất khép kín. Đây là một đặc tính mà vị trí của nó chính là “dưới” và “trong” đối với môi trường vật chất tự nhiên, với sự tăm tối, với thế giới mộng. Ý thức là cơ cấu âm của con người, là cơ cấu-Káli, là cơ cấu của màn đêm. Trong đời sống của nhân loại lịch sử, cơ cấu và khả năng này (ý thức) này nổi trội trên bề mặt đời sống. Con người lịch sử mang trong mình khả năng tỉnh táo liên tục, nhưng không đạt tới sự tỉnh táo để đánh thức ngay chính bản thân sự tỉnh táo của mình. Bởi vậy sự tỉnh táo đích thực rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa mơ, mờ mịt trong khi ý thức, một cơ cấu-đêm lại dẫn dắt con người. Đây chính là đặc tính tâm lí của nhân loại thời khải huyền. Tóm lại định nghĩa cuối cùng như sau: Ý thức là một cơ cấu có quan hệ đến thế giới ảo mộng của cái Tôi suy thoái của con người; ý thức thuộc về cái Tôi cá nhân. Tỉnh táo là sự nhạy cảm hiện thực cao độ của những cá nhân mang sức sống vũ trụ mở; sự tỉnh táo thuộc về cái Tôi phổ quát. Đây là những điều dạy dỗ của truyền thống cổ về sự tỉnh táo tâm lí và về ý thức, có thể lĩnh hội từ thời của kinh Veda cho đến tận thời Platon. 3. Ý thức giống một bộ máy thuộc về vòng đời sống khép kín, tính chất của nó gắn liền với thế giới - májá, mé on, với cái không có thật. Thế giới này người ta gọi là thế giới bên ngoài, hiểu theo nghĩa: là thế giới của các giác quan, là sự đa dạng trong không gian và trong thời gian. https://thuviensach.vn Còn sự tỉnh táo là một khả năng phép thuật thuộc về vòng sự sống mở, tính chất của nó gắn liền với hiện thực, với ontosz on, người ta gọi nó là thế giới bên trong, nhưng không đúng, kể cả khi nó khác hẳn với thế giới của các giác quan, khác hẳn với đời sống đa dạng trong không thời gian. Cách diễn đạt rõ ràng hơn như sau: Cái TÔI của con người tách rời sự sống mở tổng quát, suy thoái thành cái TÔI cá nhân khép kín, chìm vào sự mông muội; cái TÔI cá nhân suy thoái này trong một hiện thực suy thoái mang đến cảm giác một hiện thực suy thoái: gọi là daénat. Hiện thực suy thoái này từ tất cả các truyền thống cổ đến tận thời Platon đều đặt tên là một hiện thực phi thực. Những phần tử đóng vai trò và hoạt động trong ý thức đều không phải là hiện thực, mà chỉ là các hình ảnh mộng. Trong ý thức, thế giới maja tồn tại. Đây là sự sống bị suy thoái, đứt đoạn, tan rã - bởi vậy nó đa dạng và không thể nắm bắt. Cái TÔI đích thực sống trong sự tổng quát và cởi mở của sự sống; mang cảm giác hiện thực của cái TÔI thức. Đây là dấu hiệu của sự tỉnh táo. Trong bối cảnh này luôn cần hiểu đây là sự tỉnh táo tâm lí. Những yếu tố hành động đóng vai trò trong sự tỉnh táo là những hiện thực. Có thực. Nói theo ngôn ngữ của Platon: là những ý niệm. Những hình ảnh cổ. Thượng Đế. Bởi vì thế giới thực tại sống trong sự tỉnh táo. Thực tại này mang tính chất tinh thần. Bởi thế giới là tuyên ngôn tinh thần Thượng Đế. Và đời sống có thật này thống nhất, hoàn thiện, mở và là MỘT. Tình thế (về mặt tâm lí) của thời kì sáu trăm năm trước Công nguyên như sau: sự sống nhạy cảm cao độ bị khóa lại, biến thành tiềm thức, sự nhạy cảm của hình ảnh mộng từ dưới tối tăm mông muội trồi lên trên và chiếm vị trí của sự tỉnh táo. Đây là cái sau này người ta gọi là ý thức. Và vì là sự tỉnh táo, ý thức cũng là sự nhạy cảm, bởi mức độ cao nhất của sự sống không phải tri thức, mà là sự nhạy cảm. https://thuviensach.vn Nhưng ý thức hướng về phía thế giới cảm giác không có thực, nên có thể nói như sau: ý thức hướng về thế giới mộng, về ảo ảnh, về maja, ý thức là sự nhạy cảm hướng về cái phi hiện thực. Còn sự tỉnh táo hướng về thế giới ý niệm có thực: về hiện thực, tỉnh táo là sự nhạy cảm có liên quan và hướng đến thế giới mở. Giữa ý thức và sự tỉnh táo của thế giới giác quan ảo ảnh, maja tồn tại như một mức độ, như một dấu hỏi và là sự kiểm định cho cả hai. Ý thức ngây ngất trong phép thuật. Người ta có thể đặt tên sự ngây ngất này là nghệ thuật, là hưởng thụ xúc cảm, là công danh, là khoa học, là thế nào cũng được. Cho dù đặt tên là gì đi chăng nữa, cũng không là gì khác ngoài sự chìm đắm vào thuật phù phép. Sự chìm đắm có chủ ý vào phép thuật này người ta gọi nó là đặc thù của ý thức. Mức độ của ý thức: sống-chết trong thuật phù phép. Sự tỉnh táo không mang tính chất ngây ngất, mà là một cái nhìn thấu suốt. Con người không hưởng thụ, mà kiếm tìm sự thức tỉnh. Thế giới của sự ngây ngất và phù phép thực ra là thế giới của aesthetics (Mĩ học). Người ta sai lầm khi gọi nó là extraverzio (sự hướng ngoại-tính chất mở). Sự tỉnh táo không gọi là gì hết. Kẻ muốn thức tỉnh, kẻ đấy không gọi là nhà thông thái, nhà triết học, hay kẻ khổ hạnh, mà có thể là bất kì ai, ở bất kì đâu, trong bất kì thời điểm nào. Tại sao? Bởi bất kì sự tiếp cận được đánh dấu nào cũng đều chỉ là cái bên ngoài, hay còn gọi là một thuật phù phép, còn kẻ tỉnh hay đã thức tỉnh là con người đã bước ra khỏi vòng phép thuật. Thế giới aesthetics - Mĩ học - có lịch sử của nó, bởi nó mang tính lịch sử, là hiện tượng khải huyền (apokliptikus). Đấy là: các nhà nghệ sĩ, bác học, triết học, là người anh hùng. Trạng thái tỉnh không có lịch sử mà là một quá trình liên tục sinh tỉnh-đau khổ. Bởi vậy điều rất cần thiết: kẻ nào không muốn sự ngây ngất, say sưa và bị phù phép, hãy lên đường: những kẻ không sống bằng ý thức mà bằng sự tỉnh táo. Bởi tỉnh táo trong lịch sử không là gì https://thuviensach.vn khác ngoài việc thanh toán ý thức như thanh toán một sự nhiễu loạn của đời sống. 4. Ai đọc pho sách cổ Trung Quốc - Kinh Dịch - bằng con mắt truyền thống quen thuộc không thể không nhận ra sự đứt đoạn giữa tinh thần của cuốn sách và việc ứng dụng tinh thần này. Kinh Dịch là cuốn sách của số phận. Khái niệm số phận trong truyền thống cũng vậy, từ trước tới nay đều mang ý nghĩa: đời sống thế gian nằm trong những sức mạnh của sự sống. Đời sống con người phụ thuộc vào những sức mạnh của sự sống. Như từ xưa đến nay người ta hằng nói: cuộc đời nằm trong tay Thượng Đế và phụ thuộc vào Thượng Đế. Đấy là số phận. Tự nó và điều dĩ nhiên cho thấy, khoảng thời gian trước Công nguyên (trước thời lịch sử) số phận con người phụ thuộc vào những sức mạnh của sự sống. Sự tỉnh táo của nó chắc cũng không chịu nổi một loại quan niệm khác; nhưng khi lịch sử bắt đầu, có một cái gì đó xuất hiện, một thứ đi chệch khỏi bản chất xác thực nhận được từ nền tảng tuyệt đối của sự sống. Một cái gì đó chính là sự xác định của cá nhân. Chính là sự quyết định có ý thức mang tính chất cá nhân của con người. Trong cuốn sách cổ thiêng của Trung Quốc gần như từng bước có thể xác định bản chất xác thực thụ động biến đổi thành quyết định có ý thức và tích cực như thế nào (lời thoán), khi sự tỉnh táo, một khả năng lĩnh hội tính chất tổng quát sáng rõ của sự sống đã biến mất. Trên ngưỡng cửa của thời lịch sử con người không tự nguyện giao phó bản thân cho lòng tin tưởng vào sự sống nữa; càng ngày nó càng đánh mất sự nhạy cảm cao độ của mình. Càng ngày nó càng tăm tối, xám xịt và suy thoái theo hướng đi xuống. Giờ đây nó bắt đầu tin rằng https://thuviensach.vn quyết định của cái TÔI là kim chỉ nam chắc chắn của số phận, như một sự hòa nhập với những sức mạnh của sự sống. Một trong những đặc điểm của thời khải huyền: con người tước quyền chỉ đường từ tay Thượng Đế và trao cho bản thân mình. Sản phẩm khủng khiếp của điều này là bi kịch Hi Lạp, chính là và chưa bao giờ là gì khác ngoài sự nổi loạn của quyết định chống lại ý muốn của Thượng Đế. Con người đứng dưới bản án như thế đó, họ không thấy rằng không thể cướp được số phận từ tay Thượng Đế, và kẻ nào muốn đối diện với ý muốn của Thượng Đế, kẻ đó mời gọi bản án chống lại chính mình đến. Hậu quả tâm lí của giai đoạn này là sự đổi chỗ của ý thức và sự tỉnh táo. Điều tận cùng không là gì khác ngoài sự đổi chỗ của cái TÔI Thượng Đế và cái TÔI vật chất. Cái TÔI Thượng Đế đứng giữa trung tâm của sự sống mở; còn cái TÔI cá nhân đứng giữa trung tâm của thời lịch sử. Và hậu quả của giai đoạn này cũng là cái ngày nay người ta gọi là lịch sử. Những nhân vật của lịch sử là những cái TÔI cá nhân, và những sự kiện của lịch sử vì thế cũng chính là maja, những ảo ảnh của thế gian. Đây là kết quả của sự đổi chỗ trong giai đoạn này, trên tất cả các lĩnh vực của sự sống người: cái bên ngoài đổi vào trong, cái từ dưới nổi trồi lên trên. Khía cạnh mở của sự sống có bốn hướng chính: đầu tiên là hướng về thế giới siêu nhiên; thứ hai là hướng về thế giới bên kia vượt qua đời sống; thứ ba là hướng về sự thần bí của linh hồn; thứ tư là hướng về phía tất cả các sinh linh tồn tại mà trước hết là con người. Hướng đầu tiên của sự sống mở là siêu hình học; hướng thứ hai là mối quan hệ với thế giới của những người đã chết; hướng thứ ba là sự quen thuộc với những bí ẩn của linh hồn; hướng thứ tư là sự trực tiếp trong cộng đồng. Và đời sống cũng bị khóa lại theo đúng những hướng trên. Đời sống khóa kín không nhìn vượt qua thế giới của các giác https://thuviensach.vn quan; đánh mất sự nhạy cảm hướng về thế giới siêu nhiên; và chính vì thế buộc phải phủ nhận thế giới siêu nhiên. Và vì buộc phải phủ nhận, đời sống khóa kín không bao giờ có ý niệm về chân hiện thực. Đại đa số nhân loại của thời kì lịch sử không bao giờ đối diện với hiện thực. Cái họ nhìn thấy, họ học, cái họ chống lại, họ muốn, cái để họ sống, chết đều là những sự tưởng tượng riêng của họ, cùng lắm là giấc mộng tập thể của thời đại. Tòa nhà tinh thần họ ẩn nấp trong đó là thế giới quan của họ nhưng là những thế giới riêng biệt mà Heracleitos đã nói: trong đó tất cả mọi người thiu thiu ngủ. Cái thế giới quan này không là gì khác ngoài chủ nghĩa cá nhân, hay dùng từ khác, là sự tưởng tượng của cái TÔI sống trong một hiện thực đã suy thoái. Sự tưởng tượng này chỉ liên quan với hiện thực ở một vài điểm. Cái TÔI cá nhân ở đây, giữa thế giới quan của nó, sống một đời sống ngủ thiu thiu. Niềm tin của cá nhân này là niềm tin của cái TÔI: sự kiêu ngạo; bảo bối của nó: sự ích kỉ; nỗi sợ hãi của nó: sự lo lắng. Đời sống không vượt quá thế giới tự nhiên và không mang tính chất siêu hình học. Sự nhận biết về thế giới bên kia của con người thật mơ hồ, cái (mệnh danh là) sự suy thoái trở thành đức tin. Đức tin này phần lớn - nhất là đối với những kẻ (được cho là) giác ngộ - là sự hổ thẹn, là sự mê tín thô thiển. Cần vứt bỏ những điều mê tín dị đoan bởi nỗi sợ hãi thế giới bên kia trong một ý nghĩa nào đấy có tác dụng tốt và hãm phanh đam mê lại. Cuộc sống hướng về thế giới bên kia của nhân loại trong những thời đại gần đây bị khóa kín một cách huyền bí. Sự khóa kín này đạt tới đỉnh điểm khi người ta thử dẫn dắt thế giới linh hồn quay về hoạt động của vật chất. 5. https://thuviensach.vn Sự khép kín của hướng thứ tư là sự khép kín hướng về các thực thể sống, trước tiên là hướng về con người. Đây là tính trực tiếp bị đánh mất. Ý nghĩa của tư tưởng thường sâu sắc và mang tính quyết định nên cần thận trọng khi đưa ra lời giải thích. Một trong những ghi chép muộn mằn của Nietzsche viết về sự ra đời của linh hồn. Trong giây phút - Nietzsche viết - con người năng động, tự do trong xã hội đầu tiên, dưới sự kiểm soát của cộng đồng và áp lực của những người khác, chợt nhận ra bản thân mình, lúc đó bản năng không bị cấm tỏa quay trở lại thế gian. Giây phút này Nietzsche gọi là sự ra đời của linh hồn. Ý tưởng đáng lưu ý này có thể dẫn ra từ bất cứ cuốn sách cá nào nếu thay từ linh hồn bằng từ TÔI. Bởi vì cái TÔI cá nhân đã xác định và bị khóa kín, mang tính vật chất, thiên nhiên, khác biệt với cái TÔI cá nhân mang tính phổ quát mà Nietzsche nhắc đến. Cá nhân phổ quát tỉnh táo là trọng tâm bất tử của con người. Đặc tính của trọng tâm này là: vì tính chất mở nên con người không bị khóa trong thiên nhiên vật chất. Con người phổ quát tự do, những sợi dây số phận của nó nằm trong tay thánh thần. Đây là điều mà mọi truyền thống đều biết, đều gìn giữ, thấy và nhận thức ra trong linh hồn bất tử, trong cái TÔI vĩnh cửu, trong bản chất thần thánh của con người. Còn cái TÔI cá nhân không bất tử, không vĩnh cửu và cũng không thần thánh. Chính vì vậy cũng không hề tự do. Không thể trôi nổi và bay lượn trong thế gian mở. Trọng tâm của cái TÔI thánh thần là: Thượng Đế. Sức hấp dẫn của những sức mạnh trong nó đạt đến bên Thượng Đế. Còn cái TÔI cá nhân với sức nặng vật chất luôn sụt giảm, quay trở lại ngay trong chính bản thân nó. Và điều quan trọng nhất; cái TÔI thần thánh, sinh linh vĩnh cửu luôn được nhắc đến, kể từ thời của kinh Veda đến thời Platon. Còn cái TÔI cá nhân xuất hiện từ thiên nhiên vật chất, trong những điều kiện và môi trường như Nietzsche đã chỉ ra. Cái TÔI cá nhân không là gì khác https://thuviensach.vn ngoài sự ức chế thường xuyên của những bản năng không được giải thoát. Khoảng thời gian giữa thời cổ và thời lịch sử, sự trực tiếp biến mất, hay nói như Khổng tử: thay thế cho Cộng Đồng Lớn là thời kì Tiểu Vượng, khi cái TÔI cá nhân biến thành trọng tâm đời sống. Đời sống của lịch sử từ đó đến nay vẫn như vậy, trọng tâm và trung tâm của đời sống vẫn luôn là cái TÔI cá nhân liên tục. Trong thời cổ bằng những phương pháp hữu hiệu và những quá trình liên tục người ta hoặc thanh toán hoàn toàn hoặc hạn chế cái TÔI cá nhân, còn giờ đây trong thời kì (gọi là) lịch sử, khi sự tỉnh táo bị đánh mất, cùng với sự mê muội, cái TÔI cá nhân trở thành trọng tâm của đời sống, giữa những thời điểm quan trọng. Nói một cách ngắn gọn: cái TÔI trở thành Thượng Đế. Vị trí của những ức chế thường xuyên - cái TÔI - trở thành tâm điểm của đời sống. Tất nhiên quá trình này xảy ra với tất cả các sinh linh sống, nhưng trước tiên là với con người, đã đình chỉ mối quan hệ và sự hợp tác với người khác. Sự trực tiếp chấm dứt, thay thế vào đó: sự phản xạ. Phản xạ là trật tự sống điển hình của cái TÔI cá nhân: nghiêng về và quay trở lại bản thân, là cái đà để rơi xuống, hướng về bản thân, tự trò chuyện, hành động, thưởng thức, thu thập những nỗi niềm mừng vui và sống. Vòng quay sống tất nhiên của cái TÔI thánh thần trong cộng đồng lớn của các sinh linh là sự trực tiếp. Còn vòng quay sống của cái TÔI cá nhân là phản xạ đơn độc. Trong sự sống mở, các thực thể sống trong cộng đồng đời sống; không có tư hữu, pháp luật, công danh, sự ích kỉ, sự kiêu ngạo; Trong đời sống bị khóa kín các thực thể sống cô đơn; đời sống càng khóa kín, nỗi cô đơn càng lớn; và bản năng chiếm hữu, quyền lực pháp luật, lòng háo danh và kiêu ngạo cũng như tính ích kỉ càng lớn. Nhưng nỗi lo sợ còn lớn hơn, sự định hướng bấp bênh, sự mê muội còn trầm trọng và đen tối hơn. https://thuviensach.vn Trong thời cổ thế giới là thước đo của con người, giờ đây thước đo của mọi vật là con người. Trong nhà nước, sự thống trị tinh thần bị thay thế bằng những hoạt động quyền lực vô thần. Con người phủ nhận sự sống, và bắt đầu tin rằng tất cả chỉ là một không gian rỗng tuếch. Họ muốn giật lấy số phận từ tay Thượng Đế và dựa vào quyết định của cá nhân. Trái đất ngập lụt tung hoành cái gọi là szamszára (sankhja): thứ không là gì khác ngoài sự nhiễu loạn vô nghĩa và hỗn loạn của cái TÔI cá nhân. 6. Con người sống theo phản xạ bị rơi ra khỏi cộng đồng lớn, không còn kỉ luật, không còn sự hợp tác và nhất là không còn giao tiếp chung nữa. Trong phản xạ sự vật, con người và các sự kiện đánh mất tính hiện thực của nó. Một sự biến hóa đặc thù xảy ra, kết quả là: như thể một ai đó gian lận ý nghĩa của hiện thực bằng một thủ thuật không cho phép - trong khi con người liên tục giữ bản thân mình trong một nỗi nghi ngờ tự kết tội, rằng chính họ là kẻ ăn gian. Con người hoặc hành động hoặc quan sát. Hành động, nếu nhất quán và trực tiếp, làm sâu sắc quá trình quan sát; Quan sát, nếu nhất quán và trực tiếp, mang lại hưng phấn cho hành động. Kẻ phản xạ đứng giữa hành động và quan sát, giữ thế thủ: và đúng là giữ thế thủ bởi phải giữ thế với cả hành động lẫn quan sát, như thể trong bế tắc giữ mình, giữa chừng thử đặt một giả định phân vân, rằng nó đang nhào luyện sự vô công rồi nghề này chống lại chính ý định của nó, và không ai kết tội được nó bằng lời khiển trách phản bội này, trừ chính bản thân nó. Trong phản xạ các diễn biến phức tạp bất thường tấn công, khiến bằng những cử chỉ giấu giếm, con người lờ đi ý nghĩa của các sự vật, của các cá nhân, các sự kiện, để từ phía sau, trong sự trực tiếp nó ngáng chính bản thân nó lại. https://thuviensach.vn Về phản xạ có thể nói như sau: con người không thể đi đến với bất kì cái gì một cách thẳng tắp và cởi mở - nếu có thể nói là nó định đến với cái gì. Bởi vì nó không hề đến với cái gì. Nó luôn cần phải đứng lại, tuy chưa hề xuất phát. Nó chỉ quay tròn trong một vị trí, và cái nó thấy và quan tâm không là gì khác ngoài chính sự bận rộn luẩn quẩn với bản thân. Có thể coi Kierkegaard như một tác giả chuyên về đề tài này, bởi những bài viết và những bài phê bình về ấn tượng, tâm lí của phản xạ là đề tài chính trong cuộc đời của ông, theo ông trạng thái này trái ngược với sự đồng cảm, gọi là autopátia (bệnh nội sinh). Đây là “khuynh hướng bệnh thần kinh, khiến con người trở thành điệp viên của chính mình”, con người liên tục “sống trong âm mưu” bị cưỡng bức chống lại chính mình. Kierkegaard nói về cách diễn đạt này như sau: “để tìm một biểu hiện trực tiếp, rất hãn hữu, để tìm một biểu hiện gián tiếp, ở mọi mức độ đều thành công”. Đây là một trật tự sống mà bản chất là: “một bước tiến hai bước lùi”, con người tìm thấy cảm giác của mình trong sự tự lừa dối, nhưng nó cố tình quên đây chính là sự phản bội, kẻ đi lừa dối chính là bản thân mình. Bản thân nó không có chính kiến riêng, nhưng cố tình bẻ quẹo ý nghĩa của các ý kiến, và khi phải chịu trách nhiệm, nó nhâng nháo phô ra bộ mặt vô tội. Đời sống không đối lập với sự sống, đời sống là trạng thái suy thoái và bị khóa kín của sự sống. Tình trạng tiêu cực của đời sống không phải là cái chết, sự thụ động, sự thủ tiêu mà là sự bế tắc dửng dưng. Đây chính là phản xạ. Phản xạ là tình trạng trừu tượng của đời sống, là sự tách biệt, cô đơn, là một dạng của trạng thái khóa kín, được con người nâng thành một vòng quay liên tục quanh bản thân, thành định luật sống. Bằng sự trừu tượng này, con người đánh mất hiện thực sống của mình và suy thoái, điều tất nhiên; sự tỉnh táo của nó ngủ yên, đờ đẫn, tự đời sống của nó nói lên điều này; nó sống trong một không gian rỗng tuếch, điều chắc chắn. Đây là szamszára, là sự mê muội lạc giữa những https://thuviensach.vn hình ảnh mộng. Đây là trạng thái tiêu cực của sự sống. Là sự vật vờ giữa những tồn tại trừu tượng, phi hiện thực, mà hình ảnh tượng trưng của nó là cuộn dây Gordius và các mê cung đời sống. Phản xạ là mặt tiêu cực của sự sống; trong phản xạ, sự sống toàn diện bị phá vỡ và đóng lại. Nói một cách khác: sự sống bị xoắn lại và trở nên không thể giải quyết, giống như cuộn dây Gordius, hoặc có thể nói cách khác nữa: vì lạc phương hướng, sự sống trở thành một ảo tưởng tuyệt vọng, như một người lạc vào mê cung. Phản xạ là mặt tiêu cực của sự sống, bởi vì cội nguồn và trọng tâm của sự sống phải là cái TÔI tỉnh táo vĩ đại, mang tính chất thần thánh. Trong phản xạ, con người biến thành cực trái ngược: thành cái TÔI vật chất cá nhân. Nó rớt xuống từ sự sống và ngừng tồn tại. Đời sống của nó là một ảo ảnh bịa đặt, cùng lắm là một khả năng (theo Kierkegaard). Cái tôi vật chất cá nhân không bao giờ đạt đến sự sống; không theo kịp số phận của mình - bởi toàn bộ nỗ lực của nó tiêu tan khi tự nhủ bản thân, phải vượt lên số phận, nhưng nó thất bại dù tin hoặc không tin điều này, đúng hơn nó duy trì bản thân trong sự phân vân lưỡng lự phi niềm tin. Hậu quả của sự sống tiêu cực là sự trực tiếp biến mất. Con người không có mối quan hệ, chỉ tiếp xúc với bản chất thực của riêng mình và vì thế cần phải sống bên ngoài cộng đồng. Nhân loại thời khải huyền đánh mất sự trực tiếp của mình và chỉ tồn tại trong một sự sống tiêu cực phi cộng đồng. Và khi có một tia nghi ngờ nhen nhóm, trong trạng thái này nó đang đánh mất sự sống, đánh mất số phận và cuộc đời. Con người bắt đầu thử suy ngẫm - đó là lúc bản án thực hiện hoàn toàn hiệu lực với nó: con người bắt đầu phản xạ một cách có ý thức. Phản xạ có ý thức này được gọi là introverzio (bị khóa lại - quay vào trong). Đây là thời điểm sau khi đánh mất sự trực tiếp: khi con người xoay chìa, khóa cái nhà tù mê muội đơn độc của mình lại. Đây là mê cung. https://thuviensach.vn Đời sống cộng đồng giữa những môi trường như vậy là một ảo ảnh bịa đặt. Thực chất chẳng có gì khác ngoài việc chưa bao giờ xảy ra sự gặp gỡ đích thực, chỉ là sự húc vào nhau tình cờ trong bóng tối. Không gặp gỡ, không nhận biết, không thấy, không nhận ra, và như vậy không tình bạn, cũng chẳng hôn nhân, tình yêu, sự trực tiếp, không lời nói, không tiếng vang vọng, chẳng có sự lôi cuốn, chẳng sự đồng cảm, và tình thương cũng không có nốt. Nếu sự trực tiếp đã mất, trong giây phút ấy các phân tử phi đồng nhất của cộng đồng biến thành sự hỗn độn xung đột. Những thực thể ảo tưởng lầm lũi đi trên đường băng, ngoài định luật mù lòa tránh nhau, chỉ đâm vào nhau, nhưng sự lẩn tránh cũng vô nghĩa y như sự chạm trán. Phản xạ là trạng thái khi con người đứng ngoài tất cả: ngoài đời sống, ngoài sự sống, ngoài cộng đồng, ngoài hiện thực, ngoài sự tỉnh táo, ngoài sự tồn tại. Phản xạ vì vậy phi siêu hình, phi tôn giáo và vì thế phi cộng đồng. Phản xạ chỉ có duy nhất một nội dung: ảo tưởng. Đây chính là: cái TÔI cá nhân. Kinh Veda gọi trạng thái này là abhimána, là sự hỗn loạn điên khùng, khi con người hoàn toàn đánh chìm bản thân vào giữa những hình ảnh của thế giới vật chất, và suy thoái thành ảo ảnh, là kẻ mà mục đích, khát vọng, nỗi đam mê, niềm ao ước chỉ là vật chất, kẻ mà số phận chỉ đi đến cuối đời, kẻ chỉ thấy đến giới hạn của vật chất, và kẻ sau một đời sống thiếu linh hồn và tinh thần, chỉ còn sự tiêu hủy đợi nó. https://thuviensach.vn IV. Người thầy của đời sống Trước Công nguyên khoảng sáu trăm năm, trên ngưỡng cửa của thời cổ, cả một đội quân những con người xếp hàng, như ở Trung Quốc là Khổng tử và Lão tử, ở Ấn Độ là Buddha, ở Irán là Zarathustra, hoặc, không cần đi đâu xa, ở Hi Lạp: Heracleitos, Pythagoras, Empedokles. Hình ảnh về những con người này tỏa sáng ngay từ giây phút đầu tiên. Họ khoan thai với sự tự chủ vô bờ bến; lượng kiến thức của họ nằm trong thiên văn học, địa chất học, trong tôn giáo, giáo dục, y học, trong lí thuyết cai trị nhà nước, trong siêu hình học, trong thi ca. Các nhân vật lớn lao với sự đa tài của họ trở nên đáng nghi ngờ trong các thời đại sau này, và sự đa tài của các nhân vật trước thời kì lịch sử đã bị truyền thuyết hóa. Sự nghi ngờ này thực ra vô nghĩa. Hoạt động của Pythagoras xảy ra vào thời kì giáp ranh của mọi thời gian lịch sử, còn của Empedokles muộn hơn một chút. Mọi dấu hiệu đều chỉ ra rằng họ nếu không hoàn toàn như người thường thì cũng không hẳn chỉ là nhân vật truyền thuyết. Và nếu họ trong thời gian lịch sử gần như ta có thể thấy được bằng con mắt của mình, thì không có lí do gì không đặt giả thuyết, họ cũng đã từng như vậy cách đây một-hai trăm năm. Những cá nhân mang tính vũ trụ phổ quát trở nên đáng nghi ngờ trong cái thế giới ngày nay bị thu hẹp bởi những kẻ mang tính chất chuyên ngành. Người Hi Lạp gọi họ là các nhà thần học (palaioi theologoi). Để có thể đi ngay vào bản chất sự vật, ta có thể xác định tính chất và vị trí vũ trụ phổ quát của những nhân vật này là: các chủ thể thần thánh (sakrális subjektum). https://thuviensach.vn Tầm quan trọng của Pythagoras, Empedokles, Orpheus, Solon hay tính chất phương Đông hoặc Cận Đông của họ không nằm ở chỗ, gần như cùng một hình thức tự chủ như nhau, họ điều hành công việc nhà nước, làm thơ, chữa bệnh, dạy học và sáng tạo ra toán học. Tầm quan trọng của họ không nằm trong sự đa dạng về các khả năng hoạt động trên mọi lĩnh vực mà trên cái tên gọi người Hi Lạp đã đặt cho họ: các chủ thể thần thánh. Ý nghĩa mang tính phổ quát (vũ trụ) của họ vượt quá tầm con người. Sự tỏa sáng đầy tự chủ và có ý thức thể hiện trong lời nói và hành động của họ, phẩm chất siêu việt của họ dù nhiều khi chỉ bộc lộ thông qua các giai thoại ngu xuẩn, nhưng vẫn có thể cảm nhận được. Vị trí một nhà thần học cổ trước thời gian lịch sử (trước Công nguyên) tuy có vẻ hiếm hoi, nhưng quả thật đã từng hiện hữu. Từ đó tới nay chủ thể thần thánh này đã biến mất. Sau sự xuất hiện của một cá nhân vĩ đại cuối cùng, Platon, lịch sử không biết thêm một tầm vóc siêu việt nào nữa. Chống lại cá nhân thần thánh, ngày nay người ta thường đưa ra một luận điểm: thời đó - người ta nói - cuộc sống còn thô thiển (primitiv), hệ thống các mối quan hệ chưa hình thành, các nhân tố kết hợp nhau ít ỏi, tri thức ít ỏi, cộng đồng bé nhỏ, nên ở một ý nghĩa nhất định nào đó tầm phổ quát không thể có. Quan niệm này sai lầm như thế nào thiết tưởng không cần nhấn mạnh thêm. Tầm phổ quát không phải là kiến thức bách khoa toàn thư và đa ngành. Cả hai thứ này đều là tri thức vật chất cóp nhặt, thiên về số lượng. Tri thức hay phi tri thức cả hai đều không đủ, như kinh Veda từng nói. Còn Heracleitos cho rằng: tri thức không dạy thêm nhiều điều. Trang tử cũng nói đúng như vậy. Thực chất: con người thời cổ phát triển một cách trưởng thành. Tính phổ quát không nằm trong tri thức vật chất mà trong phẩm chất tinh thần. Không nảy sinh từ bản chất đời sống nguyên thủy, mà từ https://thuviensach.vn những sức mạnh tinh thần khủng khiếp, từ sự trực tiếp và độ sâu sắc của những sức mạnh ấy. Rất có thể trong thời cổ, sự xuất hiện và sự hoạt động của các chủ thể thần thánh là tất nhiên; và rất có thể chủ thể thần thánh thể hiện sự sống cổ còn sống động, xác thực, sinh động hơn những văn bản truyền lại ghi chép về họ. Với vai trò, vị trí và nhiệm vụ của họ có thể thu nhận một điều: họ là người Thầy của Đời sống. Giảng hòa các nhà nước như Bias? Chấm dứt các mối quan hệ xã hội và viết các cuốn luật như Solón? Là nhà thơ, nhà tiên tri, linh mục và là một vị thánh như Orpheus? Đúng. Chuyên môn hóa trong mọi lĩnh vực đời sống chưa chứng tỏ hết bản chất hoạt động của họ, họ còn biết ứng dụng vào từng lĩnh vực ấy khả năng tổng quát của mình. Chưa hết. Sau nhiều thế kỉ, khi sự sống cổ dường như một lần nữa xuất hiện trong thời đại của Julius Caesar, có vẻ như chủ thể thần thánh một lần nữa lại xuất hiện. Trong giây phút, như thể sự sống mở quay lại lần nữa, xoa dịu mọi mâu thuẫn của đời sống, Schuler viết, như thể trong đó xuất hiện sự sống tinh túy, như thể bằng cá nhân này trích dẫn một lần nữa tính chất thần linh cổ. Nhưng khoảnh khắc ấy trôi qua, từ trời đất cổ không có gì quay lại hết. Julius Caesar không phải là một chủ thể thần thánh. Sau ánh hào quang siêu việt đem ra trình diễn trước công chúng và lịch sử là những che giấu bẩn thỉu của cuộc đời riêng ma quỷ và đen tối của ông ta. Bên cạnh đời sống trong sạch như pha lê và như khí ê ter của Empedoklés và Pythagoras, đời sống của Caesar như vũng nước bùn. Caesar chỉ là một nhân vật lịch sử lớn, nhưng không phải là một chủ thể thần thánh, không phải là người Thầy của Đời sống. Trọng tâm đời sống Caesar là cái TÔI cá nhân, không phải sự sống Thượng Đế. Chủ thể thần thánh có thể và là người Thầy của Đời sống bởi vì, như lời của Schuler, bằng cá nhân mình họ triệu tập thần linh, bởi bên trong họ là sự sống tinh túy thể hiện, bởi từ bản chất tổng quát của họ https://thuviensach.vn tỏa sáng sự sống cổ tỉnh táo. Sự sống tổng quát vũ trụ, thứ từng hiện thực hóa trong thời cổ, cô đọng trong họ, và tiếp tục tồn tại trong vài trăm năm, sau khi thời cổ biến mất. Những con người này là chủ thể thần thánh bởi bên trong cái cá nhân của họ, họ giữ gìn một bản chất thần thánh-Thượng Đế của sự sống cổ. 2. Trong những khổ thơ của Đạo Đức Kinh có một (khổ XV) nói về người Thầy thời cổ: “Những người Thầy cổ xưa biết mở các bí ẩn khóa kín” - khổ thơ vào đề như vậy. Sau khi trình bày về sự sống và đời sống, sự khép kín và sự khóa kín, sự thức tỉnh và sự mê muội, khổ thơ không đề cập tới những gì khó hiểu hơn. Hành động và tiêu chí lớn nhất của người Thầy của Đời sống là tháo gỡ. Nơi nào đời sống bị khóa lại, nơi nào đời sống bắt đầu bị chìm đắm và không là gì khác ngoài chỉ là một quá trình sinh học, ở đó có người Thầy, như kẻ dẫn đường cho dân chúng trong sa mạc, như khi nước phụt lên từ khe núi, sự sống dành cho đời sống lại một lần nữa mở ra. Tại vị trí, nơi đời sống bình yên mềm mại bắt đầu trở nên chai sạn, người Thầy giải phóng nó, khiến đời sống lại tiếp cận với những sức mạnh tâm linh. Đây là tri thức của người Thầy. Bởi vì cuộc sống cần phải bình yên, mềm mại, cần phải nhạy cảm, nhạy cảm cao độ để có thể tiếp nhận được những sức mạnh thần thánh của sự sống. Cần phải mềm mại như người đàn bà hoặc như trẻ sơ sinh. “Thứ gì trên trái đất mềm mại nhất sẽ chiến thắng thứ cứng nhất trên trái đất”. “Mềm thắng cứng, yếu thắng mạnh”- “nếu con người mạnh lên, họ già đi”. “Họ nhận biết và hiểu sự vật” - khổ thơ nói tiếp. “Sức mạnh của họ là sự tỉnh táo”. Tình thế ngày càng rõ ràng hơn. Lão tử trong câu https://thuviensach.vn