🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Minh Chứng Thiên Đường - Eben Alexander M.D Ebooks Nhóm Zalo Eben Alexander, M.D Proof of Heaven Minh chứng thiên đường NHÀ XUẤT BẢN DÂN TRÍ Số 9 - Ngõ 26 - Phố Hoàng Cầu - Q. Đống Đa - TP. Hà Nội VPGD: Số 278 Tôn Đức Thắng - Q. Đống Đa - TP. Hà Nội ĐT: (024). 66860751 - (024). 66860752 Email: [email protected] Website: nxbdantri.com.vn Chịu trách nhiệm xuất bản: BÙI THỊ HƯƠNG Chịu trách nhiệm nội dung: LÊ QUANG KHÔI Biên tập : xxxxxxxxxxxxxxx Bìa & Trình bày : Phương Thảo Thực hiện liên kết: CÔNG TY TNHH VĂN HÓA SÁNG TẠO TRÍ VIỆT (First News) Địa chỉ: 11H Nguyễn Thị Minh Khai, Q. 1, TP. HCM XNĐKXB số 000-2022/CXBIPH/00-00/THTPHCM ngày 00/00/0000 - QĐXB số 0000/QĐ-THTPHCM-EBOOK2023 cấp ngày 00/00/0000. Lưu chiểu quý I/2023. ISBN: 978-604-000-000-0. Lời giới thiệu của Giáo sư John Vu Ở góc nhìn của khoa học thực nghiệm, mọi hiện tượng xảy ra đều có thể giải thích bằng các định luật khoa học; không thể có những hiện tượng “tâm linh” và đó chỉ là sự mê tín mà thôi. Như hầu hết các nhà khoa học, tiến sĩ Eben Alexander, một nhà phẫu thuật thần kinh nổi tiếng, cũng từng có suy nghĩ như thế. Ông đã tin rằng bộ óc chỉ là một cỗ máy siêu việt với những tế bào thần kinh hoạt động, nên cần được nghiên cứu và giải thích bằng các định luật vật lý và hóa học. Là một nhà khoa học tại Đại học Y khoa Harvard, ông đã nghiên cứu, giảng dạy và là tác giả của rất nhiều tài liệu nghiên cứu về thần kinh não bộ và được coi là một người có uy tín trong ngành này. Khi trải qua một cơn bệnh hiểm nghèo rất ít ai có thể sống sót, tiến sĩ Eben đã mê man trong nhiều ngày và được coi như đã chết, nhưng ông lại hồi sinh (hiện tượng mà giới khoa học gọi là trải nghiệm cận tử - Near Death Experience - NDE). Với hiểu biết của một nhà khoa học, ông đã bối rối, nghi ngờ, và cố gắng tìm hiểu những gì đã xảy ra với chính mình. Ông đưa ra một số giả thuyết để tìm cách giải thích sự hồi sinh của mình bằng kiến thức khoa học nhưng không thể giải thích được điều này. Trải nghiệm cận tử này đã khiến ông chấp nhận và thay đổi thế giới quan khoa học mà ông đã áp dụng để nghiên cứu và giảng dạy trong bao năm qua. Sau đó, tiến sĩ Eben chuyển qua nghiên cứu các hiện tượng không thể giải thích bằng khoa học. Là một bác sĩ phẫu thuật thần kinh có uy tín, ông đã đóng góp rất nhiều cho việc nghiên cứu về trải nghiệm cận tử. Công trình nghiên cứu của ông đã được các nhà khoa học có uy tín khen ngợi vì sự giản dị, đúng đắn và chân thật của nó. Sau khi viết ra toàn bộ những gì đã xảy ra với mình trong bảy ngày trải nghiệm giữa sự sống và sự chết, ông cũng đã tìm đọc về một số trải nghiệm cận tử đã được công bố và đối chiếu với trải nghiệm của chính mình để đưa ra những đúc kết mà ông đã đưa vào quyển sách Minh Chứng Thiên Đường. Tiến sĩ Eben tin rằng ông đã bước vào một thế giới rất mầu nhiệm và thật sự đã ở trong sự hiện diện của Thượng đế. Bằng sự hồi tưởng của mình, tiến sĩ Eben Alexander nhận thức được rõ thế giới mà chúng ta sống thông qua trải nghiệm sự chuyển tiếp giữa sống và chết và tiếp đó đến một thế giới khác hoàn toàn tốt đẹp, an lạc mà chúng ta có thể gọi đó là “Thiên đường”. Ông viết: “Tôi không có một cơ thể - tức là một cái gì đó mà tôi ý thức được về sự hiện hữu của nó. Tôi chỉ đơn giản là đang... ở đó…”. Ông viết tiếp: “Tôi đã ở trong thế giới đó bao lâu? Tôi không biết. Khi bạn đến một nơi mà ở đó không có khái niệm thời gian như cách chúng ta trải nghiệm đời sống trong thế giới thông thường, thì việc miêu tả chính xác những điều bạn cảm nhận là gần như bất khả”. Ông diễn tả cảm nhận của mình khi vừa rời bỏ thân xác, đến Cảnh Giới Tầm Nhìn Của Giun Đất: “Đen tối, bẩn thỉu, nhầy nhụa, ghê rợn với những âm thanh máy móc, chát chúa như tiếng búa gõ…”; cho đến khi ông thấy một luồng ánh sáng từ xa xuất hiện: “Có cái gì đó xuất hiện trong bóng tối. Chầm chậm xoay vòng, tỏa ra những sợi ánh sáng mảnh như tơ màu vàng trắng, và những vòng xoay của nó khiến bóng tối xung quanh vỡ vụn… Rồi tôi nghe thấy một âm thanh mới: một âm thanh sống, như bản nhạc đẹp đẽ nhất, phức tạp nhất, phong phú nhất mà bạn từng nghe thấy. Trong khi thứ ánh sáng tinh khiết màu trắng đang phủ xuống, âm thanh này càng lúc càng lớn hơn và rồi lấn át hoàn toàn tiếng đập đơn điệu, máy móc… Ánh sáng đó càng lúc càng đến gần hơn, không ngừng xoay và không ngừng tạo ra những sợi tơ ánh sáng trắng tinh khiết mà giờ đây, tôi nhìn thấy thấp thoáng những sợi ánh vàng xen kẽ trong đó”. Ông diễn tả thế giới của bầu ánh sáng đó: “Rực rỡ, sống động, ngây ngất, choáng ngợp... Tôi có thể nghĩ ra rất nhiều từ để diễn tả thế giới đó trông như thế nào và cảm nhận của tôi ra sao, nhưng tất cả những từ đó đều không lột tả hết được. Tôi cảm thấy như mình đang được sinh ra. Không phải là tái sinh hay được sinh ra lần nữa. Chỉ là... được sinh ra”. Ông diễn đạt thông điệp phi ngôn từ mà ông đã cảm nhận được trong thế giới đó: “Nếu tôi phải sử dụng ngôn ngữ của loài người trên trái đất thì thông điệp đó đại khái là như thế này: ‘Anh luôn được yêu thương và trân trọng, vô cùng, một tình yêu vĩnh cửu’; ‘Không có gì phải sợ hãi’; ‘Anh không thể làm điều gì sai’”. Ông tự đặt câu hỏi và tự mình đi đến câu trả lời: “Liệu có một sức mạnh siêu việt hay trí tuệ nào đó đang dõi theo tất cả chúng ta, quan tâm đến chúng ta bằng một tình yêu thật sự? Nếu tôi phải tóm gọn toàn bộ thông điệp này trong một câu, nó sẽ đơn giản chỉ là hai chữ ‘Yêu Thương’”. Và tiến sĩ Eben Alexander đưa ra kết luận: “Rõ ràng, tình yêu thương là nền tảng của mọi thứ. Không phải là kiểu tình yêu trừu tượng, khó hiểu; là tình yêu thương mà ta thấy hằng ngày - tình yêu mà ta cảm thấy khi nhìn vợ hay chồng mình, hay các con, hay cả loài vật. Ở dạng thuần khiết và mạnh mẽ nhất, tình yêu ấy cũng không ghen tuông hay ích kỷ, mà vô điều kiện. Đây là thực tế của mọi thực tế, là chân lý của mọi chân lý, vượt trên mọi vẻ đẹp và sự hiểu biết của chúng ta. Tình yêu ấy sống và thở ở phần cốt lõi của vạn vật hiện hữu trong hiện tại và cả tương lai, và không một ai có thể đạt đến một sự hiểu biết rốt ráo rằng mình là ai và là gì, nếu không biết đến và không thể hiện tình yêu ấy trong mỗi hành động của họ”. Minh Chứng Thiên Đường là một quyển sách đặc biệt mà người đọc, dù tin hay không tin vào “Thiên đường”, cũng sẽ ngạc nhiên, thích thú về sự diễn tả chi tiết hình thái duy vật của thế giới chúng ta đang sống trong sự đối chiếu với hình thái của một thế giới khác đẹp đẽ, rộng lớn, bao la, tràn đầy tình thương. Quyển sách này có thể giúp người đọc nhận ra được một thông điệp rằng “Trải nghiệm cận tử chính là một trải nghiệm về sự thức tỉnh trong một thế giới an lành bất tận với tình thương yêu vô điều kiện”. Quyển sách là một bằng chứng hiển nhiên rằng tất cả chúng ta đều là một phần của một ý thức vĩ đại, một phần của cái gì đó cao cả, siêu việt và trong đó không có sự chia rẽ cá nhân mà tất cả chỉ là một tình thương rộng lớn. - Giáo sư John Vu Nguyên Giám đốc Chương trình Đổi mới Công nghệ sinh học và Tính toán tại Đại học Carnegie Mellon, nguyên kỹ sư trưởng Boeing Lời mở đầu “Con người nên tìm kiếm sự thật, chứ không phải sự thật mà mình mong muốn.” - Albert Einstein (1879-1955) L úc nhỏ, tôi thường mơ thấy mình biết bay. Lần nào cũng vậy, tôi thấy mình đang đứng trong sân nhà vào ban đêm, ngước nhìn lên những vì sao, rồi bỗng nhiên tôi bắt đầu bay lơ lửng lên cao. Trong những xăng-ti- mét đầu tiên, tôi như được tự động nhấc bổng lên. Nhưng ngay sau đó, tôi nhận ra là càng lên cao, chuyển động bay lên của tôi càng phụ thuộc vào bản thân tôi - vào nhất cử nhất động của tôi. Nếu trở nên quá phấn khích hay quá chìm đắm vào trải nghiệm này, tôi sẽ lập tức rơi xuống không phanh... ngã oạch trên đất. Nhưng nếu tôi cứ giữ tinh thần thoải mái, điềm tĩnh đón nhận mọi chuyện xảy ra, thì tôi sẽ bay lên cao, càng lúc càng nhanh về phía bầu trời sao. Có lẽ những giấc mơ đó là một phần lý do vì sao khi lớn lên, tôi dành nhiều tình yêu cho máy bay và tên lửa - những thứ có thể đưa tôi lên lại với thế giới ở trên cao kia, bên trên thế giới này. Trong những chuyến bay cùng với gia đình, tôi thường gí sát mặt vào cửa sổ máy bay từ lúc cất cánh cho đến khi hạ cánh. Vào mùa hè năm 1968, khi tôi mười bốn tuổi, tôi đã tiêu toàn bộ số tiền kiếm được từ công việc cắt cỏ vào lớp học lái tàu lượn với một anh tên là Gus Street ở Strawberry Hill, một “sân bay” nhỏ - thực chất là một dải cỏ - ở rìa phía tây của Winston-Salem thuộc bang Bắc Carolina, thị trấn nơi tôi lớn lên. Tôi vẫn còn nhớ như in cảm giác tim mình đập thình thịch khi kéo cái tay nắm cần lái to màu đỏ anh đào để tháo rời sợi dây nối giữa tôi và chiếc máy bay kéo, rồi cho chiếc tàu lượn chao nghiêng xuống phía cánh đồng. Đó là lần đầu tiên tôi có được cảm giác thật sự một mình và tự do. Đa số bạn bè của tôi nếm trải cảm giác này khi lái xe ô-tô, nhưng với số tiền bỏ ra, tôi nghĩ cảm giác khi lái một chiếc tàu lượn ở độ cao trên 300 mét tuyệt hơn gấp trăm lần. Vào những năm 1970, trong thời gian học đại học, tôi tham gia vào đội tuyển nhảy dù (skydiving) của trường Đại học Bắc Carolina. Tôi cảm thấy như thể mình là thành viên của một đội đặc nhiệm vậy - một nhóm người có kỹ năng đặc biệt và làm nên những kỳ tích. Cú nhảy đầu tiên của tôi thật sự hãi hùng; cú nhảy thứ hai thậm chí còn khiếp đảm hơn. Nhưng đến cú nhảy thứ mười hai, khi tôi bước ra khỏi cửa máy bay và phải rơi tự do hơn 300 mét trước khi bung dù (cú “bung dù chậm mười giây” đầu tiên của tôi), tôi đã có cảm giác bầu trời là nhà. Trong suốt thời đại học, tôi đã thực hiện 365 cú nhảy dù và tổng cộng hơn ba tiếng rưỡi rơi tự do, chủ yếu là trong đội hình gồm tối đa hai mươi lăm đồng đội. Cho dù tôi đã ngưng nhảy dù từ năm 1976, nhưng tôi vẫn không ngừng mơ những giấc mơ nhảy dù sống động, và những giấc mơ ấy luôn mang lại cho tôi cảm giác thật dễ chịu. Thời gian nhảy dù tuyệt nhất thường là vào buổi chiều, khi mặt trời đang dần lặn xuống dưới đường chân trời. Thật khó để lột tả được cảm giác mà tôi nếm trải khi thực hiện những cú nhảy đó: cảm giác gần chạm đến một điều gì đó mà tôi chưa bao giờ gọi tên được, chỉ biết rằng mình phải có được trải nghiệm đó thêm nhiều lần nữa. Không hẳn là cảm giác một mình đơn độc, bởi cách thức mà chúng tôi nhảy dù thật ra không hoàn toàn đơn độc như nghĩa của từ này. Chúng tôi nhảy theo nhóm gồm năm, sáu, hoặc đôi khi mười hay mười hai người mỗi lần, tạo nên một đội hình rơi tự do. Đội hình càng lớn và mức độ thử thách càng cao thì trải nghiệm càng tuyệt vời. Một ngày thứ Bảy đẹp trời vào mùa thu năm 1975, chúng tôi, gồm phần lớn các thành viên của đội tuyển nhảy dù trường Đại học Bắc Carolina cùng với một số bạn bè, tụ họp tại một trung tâm nhảy dù ở phía đông bang Bắc Carolina để lập ra một số đội nhảy theo đội hình. Ở cú nhảy áp chót của ngày hôm đó từ một chiếc D18 Beechcraft ở độ cao 3.200 mét, chúng tôi tạo thành một hình bông tuyết gồm mười người. Chúng tôi đã tạo được một hình hoàn chỉnh trước khi rơi qua độ cao 2.100 mét, và như thế, chúng tôi có đến trọn mười tám giây bay trong đội hình, rơi tự do xuống một khoảng không sâu thẳm giữa hai cột mây tích sừng sững trước khi tách đội hình ở độ cao hơn 1.000 mét và bắt đầu bung dù. Mặt trời đã lặn hẳn khi chúng tôi chạm đất. Nhưng nhờ nhanh chóng nhảy lên một chiếc máy bay khác và chiếc máy bay cất cánh ngay lập tức, chúng tôi vẫn kịp bay trở lại lên cao khi những tia nắng cuối cùng đang lịm tắt để thực hiện cú nhảy hoàng hôn thứ hai. Ở cú nhảy này, hai thành viên mới sẽ thực hiện cú nhảy đội hình đầu tiên của mình - có nghĩa là họ sẽ tham gia vào đội hình từ bên ngoài thay vì là người ở vị trí chốt (thì sẽ dễ dàng hơn vì nhiệm vụ của họ chỉ là rơi thẳng xuống trong khi những thành viên khác phải thực hiện những thao tác sao cho có thể bay về phía họ để tạo đội hình). Không chỉ hai thành viên mới rất phấn khích với thử thách này mà cả chúng tôi, những người có kinh nghiệm dày dạn hơn, cũng vậy, bởi chúng tôi đều mong muốn có thể xây dựng một đội, trong đó các thành viên mới ngày càng có thêm kinh nghiệm để sau này họ có thể cùng chúng tôi tạo nên những đội hình nhảy dù lớn hơn nữa. Tôi là người nhảy cuối cùng trong sáu người với nỗ lực thực hiện tạo hình ngôi sao sáu cánh ở phía trên đường băng của một sân bay nhỏ nằm ở ngoại ô Roanoke Rapids, bang Bắc Carolina. Người nhảy ngay phía trước tôi là Chuck. Chuck có khá nhiều kinh nghiệm trong việc “liên kết đội hình” (relative work - RW), có nghĩa là tạo đội hình rơi tự do. Ở độ cao gần 2.300 mét, chúng tôi vẫn đang rơi trong ánh nắng chiều, nhưng ở độ cao bên dưới chúng tôi hơn 2.000 mét, đèn đường đã bắt đầu nhấp nháy sáng. Những cú nhảy trong ánh chạng vạng lúc nào cũng tuyệt vời và chắc chắn sẽ tạo ra một cảnh tượng tuyệt đẹp. Dù ra khỏi máy bay sau Chuck chỉ khoảng một giây, tôi vẫn phải di chuyển thật nhanh để theo kịp mọi người. Trong khoảng bảy giây đầu, tôi lao đầu thẳng xuống nhanh như tên bắn. Nhờ vậy, tôi sẽ có thể rơi ở vận tốc nhanh hơn các đồng đội khoảng 160 km/giờ để có thể gia nhập đội hình sau khi họ đã lập đội hình sơ khởi. Theo quy trình thông thường cho những cú nhảy RW, tất cả các thành viên sẽ tách rời nhau ở độ cao hơn 1.000 mét và di chuyển ra khỏi đội hình xa nhất có thể. Mỗi người sẽ “vẫy chào tạm biệt” bằng cánh tay (báo hiệu chuẩn bị bung dù), ngước nhìn lên để đảm bảo không có ai ở phía trên mình rồi kéo dây dù. “Ba, hai, một… nhảy!” Bốn người đầu tiên đã rời khỏi máy bay, kế đến là Chuck và tôi ở ngay sau họ. Trong tư thế chúc đầu xuống và gần đạt đến vận tốc đầu cuối1, tôi mỉm cười khi nhìn thấy mặt trời lặn lần thứ hai trong ngày. Sau khi lao nhanh về phía những người khác, kế hoạch của tôi là sẽ thực hiện thao tác phanh gấp trên không bằng cách ném hai cánh tay ra (chúng tôi có những đôi cánh bằng vải từ cổ tay dài đến hông với sức cản gió rất lớn khi chúng căng phồng hết mức ở tốc độ cao) và hướng thẳng phần ống tay và ống quần hình chuông của bộ đồ bay của tôi vào luồng không khí đang thổi tới. 1 Vận tốc đầu cuối là vận tốc cao nhất có thể đạt được bởi một vật thể rơi qua không khí hoặc nước. Khi đạt vận tốc đầu cuối, lực hấp dẫn hướng xuống bằng tổng của độ nổi của đối tượng và lực kéo. Nhưng tôi đã không có cơ hội làm điều đó. Trong lúc đang lao thẳng về hướng đội hình, tôi thấy một trong hai thành viên mới đang lao đến quá nhanh. Có lẽ vì rơi nhanh giữa những đám mây san sát nhau nên anh ta hơi hoảng - nó nhắc anh ta nhớ rằng mình đang lao đi với vận tốc khoảng 60 mét/giây xuống hành tinh khổng lồ bên dưới, đang dần bị che phủ từng phần bởi bóng tối đang buông xuống. Thay vì từ từ gia nhập đội hình ở vị trí rìa, cậu ta lao nhanh vào giữa đội hình, khiến cho tất cả mọi người bị tách rời khỏi nhau. Bây giờ thì cả năm người còn lại của đội hình ngôi sao đều lộn nhào ngoài khả năng kiểm soát. Khoảng cách giữa họ cũng quá gần nhau. Mỗi người nhảy dù để lại phía sau mình một luồng khí áp thấp cực kỳ nhiễu loạn. Nếu bất kỳ một người nhảy dù nào rơi vào luồng không khí đó, anh ta sẽ bị tăng tốc đột ngột và có thể lao vào người ở phía dưới mình. Cú va này sẽ khiến cho cả hai cùng bị tăng tốc và sẽ va vào bất kỳ ai đang ở bên dưới họ. Tóm lại, đây chính là công thức tạo ra thảm họa. Tôi liền gập người lại và di chuyển ra xa khỏi đội hình để tránh kết cục hỗn loạn xảy ra. Tôi cố gắng di chuyển nhanh nhất có thể cho tới khi tôi rơi đến ngay phía trên “điểm rơi”, vị trí lý tưởng trên mặt đất mà từ ngay phía trên vị trí đó, chúng tôi sẽ bung dù và nhẹ nhàng đáp xuống trong vòng hai phút. Tôi nhìn ra xung quanh và thật nhẹ nhõm khi thấy những thành viên còn lại cũng đang dần tách khỏi nhau, không còn tụ lại thành một cụm nguy hiểm chết người nữa. Chuck cũng ở trong số đó. Đột nhiên, tôi sửng sốt khi thấy cậu ta đang tiến thẳng về phía mình. Cậu ta dừng lại ngay phía dưới tôi. Trong khi cả nhóm còn chưa thoát được những cú lộn nhào, chúng tôi đồng thời cũng đã rơi xuống qua khỏi độ cao 600 mét, nhanh hơn Chuck dự tính. Có lẽ Chuck nghĩ cậu ta đã may mắn thoát ra và không cần phải tuyệt đối tuân thủ các quy tắc. Cậu ta chắc hẳn đã không thấy mình. Ý nghĩ đó chỉ vừa kịp thoáng qua đầu tôi thì chiếc máng hoa tiêu1 nhiều màu sặc sỡ của Chuck đã bung ra khỏi ba lô của cậu ta. Chiếc máng hoa tiêu của Chuck bắt lấy cơn gió mạnh hơn 190 km/giờ đang thổi đến chỗ cậu ta và bay thẳng về phía tôi, kéo theo sau nó là chiếc dù chính còn chưa bung. Tôi chỉ có một phần mấy giây để phản ứng kể từ lúc tôi nhìn thấy chiếc máng hoa tiêu của Chuck bung ra, bởi vì sẽ mất gần một giây để tôi lộn người xuống, băng qua chiếc dù chính đang bung ra của Chuck, và - rất có khả năng - sẽ lao thẳng vào người cậu ta. Ở vận tốc đó, nếu tôi va vào chân hay tay của Chuck, tôi sẽ làm chúng đứt lìa, và bản thân tôi cũng bị một cú trời giáng chết người. Còn nếu tôi lao trực diện vào người cậu ta thì cả hai chúng tôi về cơ bản là sẽ nát thây. 1 Máng hoa tiêu là một loại dù phụ nhỏ dùng để triển khai dù chính hoặc để dự bị. Người ta nói mọi thứ chuyển động chậm hơn trong những tình huống như thế này, và họ nói đúng. Tâm trí tôi quan sát sự việc diễn ra trong vài phần triệu giây như thể đang xem một thước phim chiếu chậm vậy. Ngay thời khắc trông thấy chiếc máng hoa tiêu của Chuck, tôi lập tức hạ hai cánh tay xuống dọc hai mạn sườn và duỗi thẳng người trong tư thế cắm đầu xuống, rồi cong người lại thật nhẹ nhàng ở phần hông. Tư thế thẳng đứng giúp tôi tăng tốc, còn độ cong của cơ thể khiến tôi trở thành một chiếc cánh hữu hiệu, để tôi có thể di chuyển sang phương ngang, hơi chậm lúc ban đầu, rồi khi có đà sẽ trượt vút qua Chuck, ngay trước chiếc dù Para Commander sặc sỡ đang bung ra của cậu ta. Tôi bay ngang qua Chuck với vận tốc hơn 240 km/giờ hay 67 mét/giây. Ở vận tốc đó, tôi không tin rằng Chuck có thể kịp nhìn thấy được biểu cảm trên gương mặt tôi. Nhưng nếu kịp, cậu ta sẽ thấy một vẻ sửng sốt tột độ. Bằng cách nào đó mà tôi đã phản ứng được với một tình huống như vậy chỉ trong vài phần triệu giây, một tình huống mà nếu có thời gian để suy nghĩ, tôi sẽ thấy là quá phức tạp để tôi có thể tự mình xử lý. Vậy mà... tôi đã xử lý được nó, và cả hai chúng tôi đều đáp xuống an toàn. Cứ như thể là khi rơi vào một tình huống đòi hỏi khả năng đáp ứng cao hơn thông thường, bộ não của tôi trong một khoảnh khắc đã trở nên siêu việt. Làm thế nào tôi lại làm được điều đó? Hơn hai mươi năm theo đuổi công việc nghiên cứu giải phẫu thần kinh theo hướng học thuật - tức là nghiên cứu bộ não, quan sát cách nó hoạt động, và thực hiện những cuộc giải phẫu - tôi đã có rất nhiều cơ hội để suy ngẫm về câu hỏi này. Cuối cùng, tôi đã đi đến kết luận rằng đó là nhờ bộ não, một cỗ máy thật sự phi thường, thậm chí phi thường hơn chúng ta nghĩ. Tuy nhiên, bây giờ thì tôi nhận ra câu trả lời thật sự cho câu hỏi này sâu sắc hơn rất nhiều. Nhưng để hé mở được phần nào câu trả lời đó, tôi đã phải trải qua một giai đoạn mà cuộc sống và thế giới quan của tôi được chuyển hóa hoàn toàn. Quyển sách này viết về những sự kiện đã khiến tôi thay đổi quan điểm và nhận thức của mình về vấn đề đó. Những sự kiện này đã thuyết phục tôi rằng cho dù bộ não là một cỗ máy kỳ diệu đến thế nào, nhưng điều đã cứu sống tôi ngày hôm đó hoàn toàn không phải là bộ não của tôi. Thứ đã làm nảy sinh ra hành động vào thời khắc ngay khi chiếc dù của Chuck bắt đầu bung ra là một phần khác, nằm ở rất sâu bên trong tôi. Một phần có khả năng ứng phó rất nhanh, bởi nó không hề bị mắc kẹt trong thời gian, như bộ não và thân thể. Thật ra, chính phần này trong tôi đã khiến tôi luôn nhớ nhung bầu trời khi mới chỉ là một đứa trẻ. Không chỉ là phần thông minh nhất, nó còn là phần sâu thẳm nhất của mỗi chúng ta. Ấy vậy mà trong phần lớn cuộc đời trưởng thành của mình, tôi đã không thể nhận ra để đặt niềm tin vào nó. Nhưng bây giờ thì tôi đã tin, và những trang tiếp theo trong quyển sách này sẽ cho bạn biết tại sao. * Tôi là một nhà giải phẫu thần kinh học. Tôi tốt nghiệp Đại học Bắc Carolina ở Chapel Hill, chuyên ngành hóa học vào năm 1976, sau đó tôi lấy bằng tiến sĩ y khoa tại trường Đại học Y khoa Duke vào năm 1980. Trong suốt mười một năm theo học ngành y và được đào tạo nội trú tại Đại học Y khoa Duke, Bệnh viện Đa khoa Massachusetts và Trường Y khoa Harvard, tôi tập trung nghiên cứu về nội tiết thần kinh, ngành học nghiên cứu về mối tương quan giữa hệ thần kinh và hệ nội tiết - tức toàn bộ các tuyến giải phóng hoóc môn, chỉ đạo hầu hết các hoạt động trong cơ thể chúng ta. Trong mười một năm đó, tôi cũng dành ra hai năm để nghiên cứu cách phản ứng bệnh lý của các mạch máu trong một vùng của bộ não khi có hiện tượng chảy máu do phình mạch - một hội chứng mà chúng ta gọi là chứng co thắt mạch máu não. Sau khi hoàn thành chương trình nghiên cứu sinh về giải phẫu mạch máu não tại Newcastle-Upon-Tyne, Anh quốc, tôi trở ạ ạ p y q thành phó giáo sư ngoại khoa của Trường Y khoa Harvard, chuyên khoa giải phẫu thần kinh và làm việc ở đó trong mười lăm năm. Trong suốt những năm đó, tôi đã giải phẫu cho vô số bệnh nhân, phần lớn bị bệnh não ở mức nghiêm trọng, đe dọa mạng sống. Công việc nghiên cứu của tôi chủ yếu tập trung phát triển những quy trình kỹ thuật tiên tiến chẳng hạn như xạ phẫu định vị lập thể, một kỹ thuật cho phép bác sĩ giải phẫu định hướng chính xác những chùm tia xạ vào những mục tiêu cụ thể sâu bên trong não mà không ảnh hưởng đến những vùng kế cận. Tôi cũng đóng góp vào việc phát triển quy trình giải phẫu thần kinh dựa trên độ chính xác của ảnh chụp cộng hưởng từ, là phương pháp chủ yếu để điều trị những căn bệnh nan y liên quan đến bộ não, chẳng hạn như những khối u hay rối loạn tuần hoàn. Trong những năm đó, tôi cũng làm việc trong vai trò tác giả và đồng tác giả của hơn 150 chương sách và bài nghiên cứu cho các tạp chí y khoa được thẩm định bởi các đồng nghiệp trong ngành; đồng thời, tôi cũng trình bày những kết quả nghiên cứu của mình tại hơn hai trăm hội thảo y khoa ở nhiều nơi trên thế giới. Tóm lại, tôi đã dành cả đời mình cho khoa học. Tôi nhận ra sứ mệnh của đời mình là giúp đỡ và chữa bệnh cho con người bằng các phương tiện và phương pháp y khoa hiện đại, và đồng thời tìm hiểu sâu hơn về cơ chế vận hành của cơ thể và bộ não người. Tôi cảm thấy vô cùng may mắn khi đã nhận ra được sứ mệnh của mình. Một điều quan trọng hơn là tôi có một người vợ xinh đẹp cùng hai con đáng yêu, và tuy công việc chiếm phần lớn thời gian của tôi, tôi không hề bỏ bê gia đình. Công việc và gia đình là hai đặc ân mà tôi có được trong đời mình. Xét về nhiều mặt, tôi là một người rất may mắn, và tôi biết vậy. Thế nhưng, vào ngày 10 tháng Mười Một năm 2008, khi tôi ở tuổi năm mươi bốn, vận may của tôi dường như dừng lại ở đó. Tôi đã mắc phải một căn bệnh hiếm gặp và rơi vào tình trạng hôn mê trong bảy ngày liền. Trong suốt thời gian đó, toàn bộ phần vỏ não mới của tôi - tức bề mặt ngoài của não, phần não tạo nên nhận thức và tư duy con người của chúng ta - hoàn toàn ngưng hoạt động. Không một hoạt động nào diễn ra. Về cơ bản, tôi không hiện diện trong suốt thời gian đó. Khi bộ não không hiện diện, chúng ta cũng không còn hiện hữu. Qua nhiều năm trong vai trò một bác sĩ giải phẫu thần kinh, tôi đã nghe nhiều câu chuyện về những trải nghiệm lạ thường mà nhiều người trải qua, thường là sau khi tim họ ngừng đập: những câu chuyện kể về trải nghiệm đi đến những nơi huyền bí có phong cảnh tuyệt vời; trò chuyện với những người thân đã qua đời trước họ, thậm chí có người đã gặp được đấng tối cao của họ. Toàn là những trải nghiệm tuyệt vời - điều này không có gì phải bàn cãi. Nhưng tôi nghĩ tất cả chỉ đơn thuần là tưởng tượng. Điều gì đã tạo ra những hình thức trải nghiệm siêu nhiên mà quá nhiều người trải qua và kể lại như vậy? Tôi không tự nhận là mình biết, nhưng tôi biết rằng những trải nghiệm đó xuất phát từ bộ não. Toàn bộ nhận thức đều từ đó mà ra. Nếu bộ não của chúng ta không hoạt động, chúng ta không thể nhận thức. Đó là vì bộ não vốn là một cỗ máy tạo ra ý thức. Khi cỗ máy này không may ngừng hoạt động, ý thức cũng ngừng theo. Thật ra bản chất của vấn đề cũng chỉ đơn giản như vậy thôi, dù cho cơ chế thật sự vận hành các quy trình của bộ não phức tạp và bí ẩn đến đâu đi chăng nữa. Rút phích cắm là ti-vi sẽ tắt. Chương trình cũng dừng tại đó, cho dù bạn đang xem nó say sưa đến mức nào. Đó là những điều mà tôi hẳn đã nói với bạn trước khi bộ não của tôi ngừng hoạt động. Trong suốt thời gian tôi hôn mê, bộ não của tôi không phải là hoạt động lỗi, mà chính xác là nó đã ngừng hoạt động hoàn toàn. Giờ thì tôi nghĩ có lẽ nhờ vậy mà khi đó tôi đã có được trải nghiệm cận tử sâu sắc và mạnh mẽ đến như vậy. Nhiều ghi chép về trải nghiệm cận tử cho thấy hiện tượng này xảy ra sau khi tim ngừng đập một thời gian. Trong những trường hợp này, vỏ não tạm ngưng hoạt động nhưng nhìn chung không bị thương tổn quá mức, miễn sao dòng máu chứa ôxy sớm được khôi phục nhờ vào thủ thuật hồi sức tim phổi hay tái kích hoạt chức năng tuần hoàn của tim trong vòng khoảng bốn phút. Nhưng trong trường hợp của tôi, vỏ não mới đã ngừng hoạt động hoàn toàn. Tôi đã bước vào thực tại của một thế giới ý thức tồn tại hoàn toàn độc lập khỏi những giới hạn của bộ não vật lý. Có thể nói, trong trường hợp của tôi, thực tại đó là một loạt những trải nghiệm cận tử xảy ra theo một trình tự hoàn hảo. Là một bác sĩ giải phẫu thần kinh đang hành nghề và đã trải qua hàng chục năm nghiên cứu và trực tiếp thực nghiệm những kết quả nghiên cứu của mình trong phòng mổ, tôi tự xem mình có khả năng nhận định đúng đắn trên mức trung bình không chỉ đối với những sự việc thực tế mà cả những hàm ý đằng sau những gì đã xảy ra với tôi. Những hàm ý này vượt xa ngoài khả năng mô tả. Những gì tôi đã trải qua giúp tôi nhận ra rằng cái chết của cơ thể và bộ não không đồng nghĩa với sự chấm dứt của ý thức, rằng trải nghiệm của con người vẫn tiếp tục diễn ra sau cái chết. Quan trọng hơn, sự trải nghiệm đó tiếp diễn dưới ánh mắt dõi theo của Thượng đế - đấng tối cao luôn tràn đầy tình yêu thương và quan tâm tới mỗi chúng ta, luôn quan tâm đến việc vũ trụ này và vạn vật ở bên trong nó rốt cuộc sẽ đi về đâu. Nơi mà tôi đã đến là thực. Thực theo cách mà nó khiến cho cuộc sống hiện giờ và ở đây của chúng ta trở nên hoàn toàn như một giấc mộng nếu đem ra so sánh. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là tôi không trân trọng cuộc sống mà tôi đang sống bây giờ. Thật ra, tôi còn trân trọng và yêu quý cuộc sống này hơn cả trước đây. Bởi vì giờ đây tôi nhìn cuộc sống trong bối cảnh thật sự của nó. Cuộc sống này hoàn toàn không vô nghĩa. Nhưng chúng ta chẳng thể nào nhìn thấy được sự thật này từ vị trí hiện tại của chúng ta - ít nhất là không phải lúc nào cũng nhìn thấy được. Câu chuyện về những gì đã xảy đến với tôi trong thời gian tôi hôn mê sẽ luôn là câu chuyện quan trọng nhất mà tôi nên kể trong đời mình, tôi tin là như thế. Nhưng đó là câu chuyện không dễ dàng để kể, bởi nó quá khác lạ so với hiểu biết thông thường. Tôi không thể đơn giản cứ đứng rêu rao trước đám đông. Bên cạnh đó, những kết luận của tôi về trải nghiệm của bản thân đều dựa trên những phân tích y khoa, đồng thời dựa trên hiểu biết của tôi về những khái niệm tiên tiến nhất trong khoa học não bộ và những nghiên cứu về ý thức. Khi đã nhận ra sự thật đằng sau hành trình của mình, tôi biết rằng tôi nhất thiết phải kể lại. Và kể lại sự thật đó một cách chuẩn xác nhất đã trở thành nhiệm vụ trọng tâm của đời tôi. Tôi không có ý nói rằng tôi sẽ từ bỏ công việc chuyên môn y khoa và cuộc sống của một bác sĩ giải phẫu thần kinh. Nhưng giờ đây, khi tôi đã có được đặc ân để hiểu được rằng cuộc sống của chúng ta không kết thúc đồng thời với cái chết của cơ thể hay não bộ, tôi xem việc kể lại với mọi người những gì tôi đã nhìn thấy ở bên ngoài giới hạn của cơ thể và bên ngoài trái đất này là nhiệm vụ, là tiếng gọi bên trong tôi. Tôi đặc biệt háo hức muốn kể câu chuyện của mình cho những người có thể đã từng nghe những câu chuyện tương tự và muốn tin, nhưng vẫn chưa thể tin hoàn toàn. Quyển sách này quả thật là dành cho những người đó, hơn bất kỳ ai khác, với thông điệp mà nó mang theo. Điều mà tôi cảm thấy nhất thiết phải chia sẻ với bạn sau đây là vô cùng quan trọng và nó là sự thật. 1 Cơn đau Lynchburg, bang Virginia - ngày 10 tháng Mười Một, năm 2008 T ôi bất chợt mở mắt. Trong bóng tối của căn phòng ngủ, mắt tôi bị hút về phía ánh sáng đỏ của chiếc đồng hồ ở cạnh giường: 4 giờ 30 phút sáng - sớm hơn một tiếng so với giờ tôi thức dậy thường ngày để chuẩn bị lái xe suốt bảy mươi phút từ nhà ở Lynchburg, Virginia đến nơi làm việc, Viện Phẫu thuật Siêu âm Hội tụ ở Charlottesville. Holley, vợ tôi, vẫn đang ngon giấc kế bên tôi. Sau gần hai mươi năm làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu giải phẫu thần kinh tại vùng Boston, cách nay hai năm, vào năm 2006, tôi và Holley cùng cả gia đình chuyển đến vùng cao nguyên thuộc Virginia. Holley và tôi gặp nhau vào tháng Mười năm 1977, hai năm sau khi cả hai chúng tôi tốt nghiệp đại học. Vào thời điểm đó, Holley đang theo học thạc sĩ chuyên ngành mỹ thuật, còn tôi đang học trường y. Lúc đó Holley đang hẹn hò với Vic, bạn cùng phòng của tôi. Một ngày nọ, Vic đưa cô ấy đến giới thiệu với tôi, có lẽ để khoe. Khi họ sắp rời đi, tôi nói với Holley là cô ấy có thể trở lại thăm tôi bất cứ lúc nào, còn nhắn nhủ thêm rằng cô ấy không nhất thiết phải đến cùng Vic. Trong buổi hẹn hò thật sự đầu tiên, chúng tôi lái xe đến một bữa tiệc ở Charlotte, Bắc Carolina, mỗi chiều đi và về mất hai tiếng rưỡi đồng hồ. Hôm đó, Holley đang bị viêm thanh quản nên tôi phải lãnh nhiệm vụ nói đến 99% thời gian, cả chuyến đi và về. Tôi thấy nhiệm vụ đó thật dễ dàng. Chúng tôi cưới nhau vào tháng Sáu năm 1980 tại Nhà thờ Giám nhiệm Thánh Thomas ở Windsor, Bắc Carolina và sau đó một thời gian, chúng tôi chuyển đến sống ở khu căn hộ Royal Oaks (tạm dịch: Cây sồi Hoàng gia) ở Durham, nơi tôi đang theo học chương trình nội trú chuyên ngành phẫu thuật của trường Đại học Duke. Nơi ở của chúng tôi còn xa mới gọi là đầy đủ tiện nghi và tôi cũng không nhớ ở đó có cây sồi nào không. Chúng tôi thường xuyên cạn túi nhưng cả hai đều quá bận rộn, và quá hạnh phúc bên nhau, nên chẳng mấy bận tâm. Một trong những kỳ nghỉ đầu tiên của chúng tôi là một chuyến du lịch cắm trại vào mùa xuân tại các bờ biển của bang Bắc Carolina. Mùa xuân là mùa sinh sôi của ruồi “no-see- um” (có nghĩa là: không nhìn thấy chúng), một loài ruồi hút máu họ dĩn, ở khu vực Carolina, mà cái lều của chúng tôi thì chẳng ngăn chặn được chúng bao nhiêu. Tuy vậy, chúng tôi vẫn cảm thấy rất vui. Khi đang bơi cùng những con sóng vào một buổi chiều ở Ocracoke, tôi đã nghĩ ra một cách để bắt những con cua mai xanh đang chạy cuống cuồng tìm chỗ trốn dưới chân tôi. Chúng tôi mang một mẻ cua đầy ắp về nhà nghỉ Pony Island, nơi chúng tôi đang ở cùng mấy người bạn, và đem nướng chúng trên vỉ. Số cua đủ cho tất cả mọi người ăn thoải mái. Mặc dù luôn chi tiêu dè sẻn, chẳng bao lâu sau chúng tôi đã cạn túi. Lúc đó, chúng tôi đang ở cùng hai người bạn thân là Bill và Patty Wilson. Vào một đêm nọ, trong một phút cao hứng, chúng tôi quyết định theo họ đến chỗ chơi lô tô. Trong suốt mười năm, cứ vào mùa hè và mỗi thứ Năm, Bill đều đi chơi trò này nhưng cậu ấy chưa bao giờ thắng. Đó là lần đầu tiên Holley chơi lô tô. Có thể vì người mới chơi lần đầu thường gặp may, hoặc cũng có thể nhờ thánh nhân phù hộ mà cô ấy đã thắng được hai trăm đô-la. Đối với chúng tôi lúc đó, số tiền này như năm ngàn đô vậy. Nhờ vận may này mà chuyến đi được kéo dài hơn và chúng tôi cũng được vui chơi thoải mái hơn. Tôi lấy bằng tiến sĩ y khoa vào năm 1980; Holley cũng lấy bằng thạc sĩ cùng năm đó và bắt đầu sự nghiệp với nghề giáo viên và cả họa sĩ. Lần đầu tiên tôi phụ trách mổ chính là trong một ca phẫu thuật não ở Đại học Duke vào năm 1981. Đứa con đầu lòng của chúng tôi, Eben IV, chào đời vào năm 1987 tại Bệnh viện Phụ sản Princess Mary ở Newcastle-Upon-Tyne, ở miền bắc xứ Anh (Anh quốc) khi tôi đang theo học chương trình nghiên cứu sinh về mạch máu não. Con trai thứ hai của chúng tôi, Bond, ra đời tại Bệnh viện Brigham & Women’s ở vùng Boston vào năm 1998. Mười lăm năm làm việc tại Trường Y khoa Harvard và Bệnh viện Brigham & Women’s là quãng đời đáng nhớ đối với tôi. Gia đình tôi trân trọng những năm tháng sống tại vùng Boston đó. Nhưng đến năm 2005, Holley và tôi đồng ý với nhau rằng đã đến lúc chúng tôi nên chuyển về lại miền nam. Chúng tôi muốn được sống gần đại gia đình hơn và tôi cũng thấy đó là một cơ hội tốt để tôi phần nào có quyền tự chủ hơn so với cuộc sống ở Harvard. Vì vậy, vào mùa xuân năm 2006, chúng tôi bắt đầu lại cuộc sống mới ở Lynchburg, thuộc vùng cao nguyên của bang Virginia. Chúng tôi sớm ổn định và nhanh chóng thích nghi trở lại với một cuộc sống thư thái hơn mà cả hai chúng tôi đều từng được tận hưởng khi trải qua thời niên thiếu ở miền nam. * Tôi cứ nằm yên trên giường thêm một lúc, vừa mơ màng vừa cố nghĩ xem điều gì đã khiến tôi thức giấc sớm. Ngày hôm trước - một ngày Chủ nhật - là một ngày nắng, quang đãng và khá hanh khô - kiểu thời tiết cuối thu điển hình của vùng Virginia. Tôi cùng Holley và Bond (mười tuổi) sang nhà hàng xóm để dự một bữa tiệc nướng. Tối hôm đó, chúng tôi trò chuyện điện thoại với Eben IV (hai mươi tuổi), khi đó đang là sinh viên năm đầu của trường Đại học Delaware. Điều khó chịu duy nhất trong ngày hôm ấy là một cơn cảm cúm nhẹ kéo dài từ tuần trước khiến cả Holley, Bond và tôi đều bị ảnh hưởng. Ngay trước giờ đi ngủ, lưng tôi đã bắt đầu đau nhức nên tôi chỉ tắm sơ qua, và hình như nhờ vậy mà cơn đau dịu xuống. Tôi tự hỏi có phải tôi tỉnh giấc quá sớm như vậy là do con virus cúm này vẫn còn lẩn quất trong cơ thể mình hay không. Tôi trở mình thật khẽ trên giường và nghe đau nhói ở cột sống - đau hơn gấp nhiều lần so với đêm hôm trước. Rõ ràng con virus cúm vẫn còn ở đó, và ắt hẳn là không chỉ có một con. Tôi càng tỉnh táo, cơn đau càng rõ rệt. Vì không thể ngủ tiếp mà lại còn một tiếng nữa mới bắt đầu ngày làm việc, tôi quyết định đi tắm nước ấm lần nữa. Tôi ngồi dậy trên giường, đưa hai chân xuống sàn, rồi đứng dậy. Ngay lập tức, cơn đau quặn lên hẳn một nấc - một cảm giác đau nhức khó tả gây điếng người xuyên thấu qua phần cuối cột sống của tôi. Để không đánh thức Holley, tôi nhón từng bước đi dọc hành lang về phía phòng tắm chính ở lầu trên. Tôi để nước chảy một lúc rồi nhẹ nhàng ngâm mình vào bồn tắm, tự trấn an rằng nước ấm sẽ phần nào làm dịu cơn đau. Nhưng tôi đã phán đoán sai. Khi nước chảy được đến nửa bồn thì tôi biết mình đã lầm to. Cơn đau không chỉ tệ hơn mà nó trở nên dữ dội đến nỗi tôi e rằng mình sẽ phải hét to lên gọi Holley để cô ấy đỡ tôi ra khỏi bồn tắm. Nghĩ rằng mình đang ở trong tình cảnh hơi kỳ cục, tôi bèn rướn người, với lấy cái khăn tắm treo trên giá ngay phía trên đầu tôi. Tôi nhích chiếc khăn sang một bên để tránh làm bung cái giá ra khỏi tường rồi nhẹ nhàng tự kéo mình dậy. Một cơn đau buốt khác chạy dọc sống lưng tôi, đến nỗi tôi phải thở dốc. Chắc chắn đây không phải là bệnh cảm cúm. Nhưng tôi bị gì mới được chứ? Sau một hồi chật vật và bước ra được khỏi cái bồn tắm trơn ướt rồi mặc vào người cái áo choàng tắm bằng vải bông xù màu đỏ, tôi chậm rãi đi về phòng ngủ và ngồi phịch xuống giường. Người tôi ướt đẫm mồ hôi. Holley cựa mình, trở người lại và hỏi: “Chuyện gì vậy? Mấy giờ rồi anh?”. Tôi trả lời: “Anh không biết. Lưng anh đau quá”. Holley bắt đầu xoa lưng tôi. Thật ngạc nhiên, tôi thấy đỡ đau hơn một chút. Các bác sĩ nói chung đều xem nhẹ việc mình bị ộ g ẹ ệ ị ốm. Tôi cũng không phải là ngoại lệ. Trong một lúc, tôi liên tục tự nhủ rằng cơn đau, cùng với bất kỳ nguyên nhân gì gây ra nó, sẽ từ từ biến mất. Nhưng cho đến 6 giờ 30 phút sáng, tôi vẫn oằn mình trong cơn đau đớn và gần như nằm bất động. Bond đi vào phòng ngủ của chúng tôi lúc 7 giờ 30 phút, thắc mắc tại sao giờ này tôi vẫn còn ở nhà. “Chuyện gì xảy ra vậy ạ?” “Cha con không khỏe, con trai à”, Holley đáp. Tôi vẫn nằm yên trên giường, kê cao đầu trên gối. Bond lại gần, rướn người tới và đưa tay xoa thật nhẹ hai bên thái dương của tôi. Khi Bond vừa chạm tay vào đầu tôi, tôi cảm thấy như thể một tia chớp giáng xuống đầu mình - cơn đau dữ dội nhất từ trước đến giờ. Tôi thét lên. Bất ngờ trước phản ứng của tôi, Bond nhảy lùi về phía sau. “Không sao đâu”, Holley nói với Bond, nhưng cô ấy rõ ràng không nghĩ như thế. “Không phải tại con đâu. Cha chỉ đau đầu khủng khiếp thôi.” Rồi sau đó tôi nghe cô ấy nói: “Em có nên gọi xe cứu thương không nhỉ?”, như thể cô ấy đang nói với chính mình hơn là nói với tôi. Điều các bác sĩ ghét nhất, còn hơn cả việc bị bệnh, là phải ở trong phòng cấp cứu trong vai trò một bệnh nhân. Tôi hình dung ra trong đầu cảnh những nhân viên cấp cứu đến đầy nhà, phải trả lời họ hàng chục câu hỏi, rồi nằm trên xe cứu thương, rồi làm thủ tục nhập viện... Tôi nghĩ tới lúc mình sẽ cảm thấy khá hơn và phải hối tiếc vì đã quá vội gọi xe cấp cứu. “Không, không sao đâu”, tôi nói. “Hiện giờ anh còn đau lắm nhưng một lát nữa sẽ đỡ hơn. Em cứ lo cho Bond đi học đi.” “Eben à, em thật sự nghĩ là...” “Anh sẽ ổn thôi”, tôi ngắt lời vợ, trong khi vẫn vùi mặt vào gối. Cơn đau vẫn khiến tôi nằm bất động. “Thật mà, đừng gọi cấp cứu. Anh không bị gì nghiêm trọng đâu. Chỉ là một cơn co thắt ở phần cơ thắt lưng và anh bị đau đầu thôi.” Sau một chút lưỡng lự, Holley đưa Bond xuống dưới nhà, cho thằng bé ăn sáng, rồi thằng bé sẽ đi bộ đến nhà một đứa bạn cùng lớp ở cùng con phố để cùng bắt xe đi đến trường. Khi Bond bước ra đến cửa, tôi chợt nghĩ nếu tôi bị bệnh gì đó nghiêm trọng và cuối cùng phải đi bệnh viện, tôi có thể sẽ không gặp được thằng bé khi nó đi học về chiều hôm đó. Tôi ráng hết sức và thều thào: “Chúc con một ngày vui vẻ ở trường, Bond”. Khi Holley trở lên lầu để xem tôi thế nào thì tôi đã chìm vào trạng thái hôn mê. Nghĩ rằng chắc tôi đang ngủ, cô ấy để cho tôi nằm nghỉ, rồi đi xuống dưới nhà gọi điện cho vài đồng nghiệp của tôi để nghe ý kiến của họ xem may ra có biết được chuyện gì đang xảy ra với tôi không. Hai tiếng sau, có lẽ nghĩ rằng tôi đã nghỉ đủ lâu, cô ấy lại đi trở lên để xem tôi ra sao. Khi vừa đẩy cửa phòng ngủ, cô ấy thấy tôi vẫn nằm trên giường y như trước đó. Nhưng khi nhìn gần hơn, cô ấy thấy cơ thể tôi không thả lỏng như trước mà cứng đơ như một tấm ván. Cô ấy bật đèn lên và thấy tôi đang bị co cứng dữ dội. Hàm dưới của tôi đưa ra một cách bất thường, còn mắt tôi thì mở to và trợn ngược. “Eben, nói gì đi anh!”, Holley thét lên. Khi không thấy tôi phản ứng gì, cô ấy liền gọi cấp cứu. Đội cấp cứu đến trong vòng mười phút. Họ nhanh chóng khiêng tôi lên xe cứu thương, đến thẳng phòng cấp cứu của Bệnh viện Đa khoa Lynchburg. Giá như lúc đó tôi vẫn còn ý thức, tôi đã có thể nói với Holley đích xác chuyện gì đang diễn ra với tôi khi tôi nằm trên giường trong suốt những phút giây kinh hoàng mà cô ấy đã phải trải g g p g y g y p qua trong khi chờ xe cứu thương đến: một cơn co giật toàn thân, hay còn gọi là động kinh nặng, chắc chắn là do một tình trạng sốc rất nghiêm trọng ở não. Nhưng dĩ nhiên, tôi đã không thể làm điều đó. Trong bảy ngày sau đó, đối với Holley và mọi người trong gia đình, tôi chỉ còn là một thân xác thuần túy. Giờ đây tôi chẳng có ký ức gì về những chuyện đã xảy ra trong thế giới này trong suốt một tuần đó, nên đành phải lượm lặt từ những gì mọi người kể lại để liên kết các phần thành diễn tiến những sự việc đã xảy ra trong suốt thời gian tôi hôn mê. Tâm trí tôi, linh hồn tôi - nói chung là phần cốt lõi, phần người của tôi, bạn thích gọi là gì cũng được - thì đã không hiện diện ở đó. 2 Bệnh viện P hòng cấp cứu của Bệnh viện Đa khoa Lynchburg là phòng cấp cứu đông bệnh nhân thứ nhì bang Virginia, và giờ cao điểm thường là khoảng 9 giờ 30 phút vào buổi sáng các ngày trong tuần. Sáng thứ Hai đó cũng không phải là ngoại lệ. Mặc dù chủ yếu làm việc ở Charlottesville trong các ngày thường, tôi vẫn tiến hành nhiều ca mổ tại Bệnh viện Đa khoa Lynchburg và tôi quen hầu như tất cả mọi người ở đó. Buổi sáng hôm ấy, Laura Potter, một bác sĩ của khoa cấp cứu mà tôi biết và đã cùng sát cánh làm việc suốt gần hai năm, nhận được một cuộc điện thoại từ xe cứu thương, thông báo rằng bệnh nhân là một người đàn ông da trắng năm mươi bốn tuổi, đang trong trạng thái động kinh và sắp được đưa đến phòng cấp cứu của cô. Khi cửa xe cứu thương vừa được mở ra, cô ấy liền điểm nhanh qua danh sách những nguyên nhân có thể gây ra tình trạng của bệnh nhân được chuyển đến. Nếu ở vị trí của cô ấy, tôi cũng sẽ làm việc này trước tiên, và danh sách bao gồm: hội chứng cai rượu, dùng ma túy quá liều, hạ natri huyết (nồng độ natri trong máu giảm một cách bất thường), đột quỵ, khối u tiên phát hoặc di căn ở não, xuất huyết não (hiện tượng máu chảy vào bên trong các mô não), áp xe não... và viêm màng não. Khi đội cấp cứu đẩy cáng cứu thương đưa tôi vào trong Khu chính 1 của phòng cấp cứu, tôi vẫn đang co giật dữ dội, thỉnh thoảng lại rên rỉ và chân tay vung loạn xạ. Nhìn những biểu hiện mê sảng và quằn quại của tôi, tiến sĩ Potter xác định ngay rằng não của tôi đang bị tấn công nghiêm trọng. Một y tá đẩy xe đựng dụng cụ cấp cứu đến, một người khác lấy mẫu máu, và một người thứ ba thay túi đựng dịch truyền tĩnh mạch, thay cho chiếc túi đã được đội cấp cứu truyền cho tôi từ lúc ở nhà, trước khi tôi được đưa lên xe cứu thương. Trong lúc họ thực hiện các bước cấp cứu cho tôi, tôi vẫn tiếp tục quằn quại như một con cá dài hơn một mét tám khi bị lôi lên khỏi nước. Tôi thốt ra một tràng những âm thanh vô nghĩa, lộn xộn, và những tiếng nghe như tiếng kêu của những con thú. Điều khiến Laura lo ngại không chỉ là những cơn co giật của tôi, mà còn là hiện tượng bất cân xứng trong những cử động cơ thể của tôi. Điều này có thể có nghĩa là không chỉ não của tôi đang bị tấn công mà có nhiều khả năng đã có những tổn thương nghiêm trọng và có lẽ đó là những tổn thương không thể cứu vãn. Vì đã trải qua nhiều năm làm việc ở phòng cấp cứu nên Laura đã chứng kiến mọi tình huống có thể xảy ra với bệnh nhân trong trường hợp này. Tuy nhiên, cô ấy chưa bao giờ gặp tình huống một bác sĩ đồng nghiệp của mình được đưa vào phòng cấp cứu trong tình trạng tương tự, và khi nhìn kỹ hơn bệnh nhân đang la hét, quằn quại trên cáng, cô ấy nói, gần như là kêu lên với chính mình: “Eben”. Rồi cô nói to hơn, để thông báo với các bác sĩ và y tá khác đang ở gần đó: “Đây là Eben Alexander”. Nghe thấy thế, các nhân viên ở gần đó xúm lại quanh cáng của tôi. Holley đi theo xe cứu thương từ nhà đến đây và đang đứng bên cáng của tôi cùng mọi người, trong khi Laura điểm qua danh sách các câu hỏi bắt buộc của phòng cấp cứu để tìm ra những nguyên nhân khả dĩ nhất gây ra tình trạng của tôi - Tôi có đang cai rượu không? Gần đây tôi có dùng chất ma túy gây ảo giác mạnh nào không? - Rồi cô ấy bắt tay vào việc cố gắng làm ngừng cơn co giật của tôi. Trong mấy tháng gần đây, Eben IV bắt tôi tham gia vào một chương trình rèn luyện thể lực để chuẩn bị cho hành trình leo núi sắp tới của hai cha con, chinh phục đỉnh Cotopaxi cao 5.897 mét ở Ecuador, đỉnh núi mà Eben IV đã leo hồi tháng Hai vừa rồi. Chương trình tập luyện đã làm tăng thể lực của tôi lên đáng kể, khiến cho những người hộ lý gặp khó khăn hơn rất nhiều để đè tôi xuống. Sau năm phút và 15 miligam thuốc diazepam tiêm vào tĩnh mạch, tôi vẫn mê sảng và vùng vẫy, cố đẩy mọi người ra khỏi mình, nhưng tiến sĩ Potter thì cảm thấy nhẹ nhõm vì ít ra, tôi đang chống cự bằng cả hai bên cơ thể mình. Holley kể với Laura rằng tôi đã bị đau đầu trầm trọng trước khi bắt đầu co giật, nên tiến sĩ Potter quyết định chọc dò tủy sống của tôi - một quy trình trích một lượng nhỏ dịch não tủy từ phần đốt sống thắt lưng. Dịch não tủy là một chất dịch lỏng, trong suốt, chạy dọc theo bề mặt của cột sống và trong mô bao quanh não, bảo vệ não khỏi những tác động bên ngoài. Cơ thể của một người khỏe mạnh bình thường sản xuất ra khoảng nửa lít dịch mỗi ngày, và bất kỳ sự suy giảm độ trong suốt ở mức độ nào của chất dịch cũng là dấu hiệu cho thấy bệnh nhân đã bị nhiễm trùng hoặc xuất huyết. Hiện tượng nhiễm trùng như vậy được gọi là viêm màng não: đó là tình trạng sưng lên của màng não, tức những lớp màng lót dọc phần bên trong của cột sống và hộp sọ và tiếp xúc trực tiếp với dịch não tủy. Bốn trong năm trường hợp viêm màng não là do virus. Viêm màng não do virus có thể khiến tình trạng bệnh nhân trở nên nghiêm trọng, nhưng chỉ 1% trường hợp dẫn đến tử vong. Tuy nhiên, một trong năm trường hợp viêm màng não là do vi khuẩn gây ra. Vi khuẩn có thể còn nguy hiểm hơn bởi nó nguyên thủy hơn virus. Những trường hợp viêm màng não do vi khuẩn nếu không được chữa trị đều sẽ gây tử vong. Thậm chí, ngay cả khi được nhanh chóng chữa trị bằng các kháng sinh phù hợp, tỷ lệ tử vong vẫn cao, từ 15% đến 40%. Một trong số những thủ phạm ít gặp nhất gây ra bệnh viêm màng não ở người lớn là một loại vi khuẩn lâu năm và rất mạnh có tên gọi Escherichia coli - tên thường gọi là E. coli. Không ai biết chính xác E. coli đã có từ bao giờ, nhưng số năm được ước lượng là trong khoảng giữa ba và bốn tỷ năm. Sinh vật này không có nhân tế bào và tái sinh sản thông qua một quá trình nguyên thủy nhưng cực kỳ hữu hiệu được biết đến dưới tên gọi sự sinh sản phân đôi vô tính (hay nói cách khác là tự phân đôi). Hãy tưởng tượng một tế bào chủ yếu chứa đầy ADN và có thể hấp thụ các chất dinh dưỡng (thường là từ các tế bào khác mà nó tấn công và hút lấy dưỡng chất) trực tiếp qua thành tế bào. Rồi hãy tưởng tượng rằng nó có thể đồng thời sao chép một vài chuỗi ADN rồi cứ khoảng mỗi hai mươi phút lại phân đôi thành hai tế bào con. Như vậy, trong vòng một giờ sẽ có 8 tế bào được tạo ra từ mỗi tế bào. Trong mười hai tiếng đồng hồ sẽ có 69 tỷ tế bào được sản sinh. Sau mười lăm tiếng, con số sẽ là 35 ngàn tỷ. Sự phát triển bùng nổ này chỉ chậm lại khi nguồn thức ăn cho nó bắt đầu cạn. E. coli cũng rất bừa bãi trong sinh hoạt. Chúng có thể trao đổi gien với các loài vi khuẩn khác thông qua một quá trình được gọi là tiếp hợp vi khuẩn, cho phép E. coli nhanh chóng tiếp nhận thêm những đặc tính mới (ví dụ như tính kháng kháng sinh đối với những kháng sinh mới) khi cần. Phương thức đơn giản này đã giúp cho E. coli thành công trong việc duy trì đời sống của nó trên hành tinh này từ những ngày đầu của sự sống đơn bào. Tất cả chúng ta đều có vi khuẩn E. coli sống trong cơ thể, chủ yếu ở đường tiêu hóa. Trong những điều kiện bình thường thì chúng vô hại, nhưng khi các chủng E. coli đa dạng đã sao chép được những chuỗi ADN khiến chúng trở nên đặc biệt táo tợn, xâm nhập vào dịch não tủy ở xung quanh cột sống và trong não thì các tế bào nguyên thủy này ngay lập tức ngấu nghiến đường glucose trong dịch và bất cứ thứ gì chúng có thể ăn được, kể cả bộ não. Cho đến thời điểm đó, không ai trong phòng cấp cứu nghĩ rằng tôi bị viêm màng não do khuẩn E. coli. Họ không có lý do gì để nghi ngờ điều đó. Căn bệnh này cực kỳ hiếm khi xảy ra đối với người lớn. Trẻ sơ sinh là đối tượng có nguy cơ mắc bệnh này nhiều nhất, nhưng trường hợp trẻ trên ba tháng tuổi mắc bệnh này là vô cùng hiếm. Mỗi năm chỉ có chưa đến một trong số mười triệu người lớn mắc phải con vi khuẩn này một cách ngẫu nhiên. Trong các ca viêm màng não do vi khuẩn, vi khuẩn tấn công lớp ngoài của não, tức vỏ não, trước tiên. Từ vỏ não (cortex) xuất phát từ một từ La-tinh có nghĩa là “vỏ trái cây” hay “vỏ cây”. Nếu bạn hình dung ra một quả cam, bạn sẽ thấy vỏ của nó là một mô hình khá giống với cách mà vỏ não bao quanh những phần nguyên thủy hơn của não. Vỏ não chịu trách nhiệm về trí nhớ, ngôn ngữ, cảm xúc, nhận thức hình ảnh và âm thanh, và tư duy logic. Vì vậy, khi một sinh vật như E. coli tấn công vào bộ não, những vùng não dễ dàng bị tổn thương trước hết sẽ là những phần đảm trách những chức năng quan trọng nhất trong việc duy trì các phẩm chất đặc trưng của người. Nhiều bệnh nhân viêm màng não do vi khuẩn chết trong vòng vài ngày sau khi nhiễm bệnh. Chỉ có 10% số người được đưa đến phòng cấp cứu trong tình trạng chức năng thần kinh đang suy giảm nhanh chóng, như trường hợp của tôi, là may mắn sống sót. Tuy nhiên, cơ may của họ cũng có giới hạn, vì nhiều người trong số đó sẽ sống đời sống thực vật trong suốt quãng đời còn lại. Dù không nghi ngờ tôi nhiễm khuẩn E. coli, tiến sĩ Potter nghĩ rằng có lẽ tôi đã mắc phải một dạng nhiễm trùng não nào đó, nên cô ấy quyết định tiến hành chọc dò tủy sống cho tôi. Ngay khi cô ấy yêu cầu một trong các y tá mang khay dụng cụ chọc dò tủy sống lại và thực hiện các bước chuẩn bị cần thiết trên người tôi thì người tôi giật nẩy lên như thể chiếc cáng cứu thương của tôi có điện. Với luồng năng lượng mới nhận được, tôi phát ra một tiếng rên dài đau đớn, lưng oằn lên và hai cánh tay vung lên. Mặt tôi đỏ bừng và các mạch máu ở cổ phình lên một cách khác lạ. Laura la lên, gọi thêm người trợ giúp và chỉ một lát sau, hai, bốn, và cuối cùng là sáu hộ lý chạy đến, cố tìm mọi cách đè tôi xuống để Laura có thể thực hiện việc chọc dò. Họ ép tôi vào tư thế nằm nghiêng co người như tư thế của thai nhi trong khi Laura tiêm thêm cho tôi một vài mũi an thần. Cuối cùng họ cũng giữ được tôi nằm yên, đủ để Laura chọc mũi kim vào đốt sống thắt lưng của tôi. Khi vi khuẩn tấn công, cơ thể ngay lập tức chuyển sang cơ chế phòng vệ, gửi các đội quân bạch cầu xung kích từ các doanh trại ở lá lách và tủy xương đến để đánh đuổi những kẻ xâm lược. Đó là đội quân chịu thương vong đầu tiên trong cuộc chiến tranh tế bào trên diện rộng, nổ ra bất cứ khi nào cơ thể bị một nhân tố sinh học ngoại lai xâm nhập, và tiến sĩ Potter biết rằng nếu có hiện tượng dịch tủy không trong suốt thì chính là do các tế bào bạch cầu của tôi. Tiến sĩ Potter cúi xuống và nhìn chăm chú vào áp kế - một cái ống thẳng đứng trong suốt trong đó dịch tủy não sẽ chảy vào. Điều đầu tiên khiến Laura bất ngờ là dịch không chảy nhỏ giọt vào ống mà tuôn vào - do áp suất cao ở mức báo động. Điều ngạc nhiên thứ hai là màu sắc của dịch. Màu sắc chỉ cần hơi đục là đã dấu hiệu cho biết tôi đang gặp nguy; đằng này, thứ chất lỏng bắn vào trong áp kế là một chất dịch sền sệt màu trắng, hơi ngả màu xanh lá. Dịch tủy sống của tôi đầy mủ. 3 Không rõ nguyên nhân T iến sĩ Potter gọi cho tiến sĩ Robert Brennan, một đồng nghiệp của cô tại Bệnh viện Đa khoa Lynchburg và là một chuyên gia về bệnh nhiễm trùng. Trong khi chờ thêm kết quả xét nghiệm từ những phòng thí nghiệm ở kế bên, họ xem xét mọi khả năng chẩn đoán và tất cả các phương án điều trị. Từng phút trôi qua, khi kết quả xét nghiệm được chuyển đến, tôi vẫn đang tiếp tục rên rỉ và quằn quại dưới những đai trói trên cáng. Các kết quả khiến cho tình trạng của tôi càng khó chẩn đoán hơn. Kết quả nhuộm Gram (một quy trình xét nghiệm hóa học được đặt theo tên nhà vật lý người Đan Mạch đã sáng chế ra phương pháp này, cho phép các bác sĩ phân loại một vi khuẩn xâm nhập thành gram dương hoặc gram âm) của tôi cho thấy có vi khuẩn que gram âm - một trường hợp rất bất thường. Trong khi đó, kết quả chụp cắt lớp (CT) não cho thấy lớp màng não của tôi đang bị viêm và sưng phồng nghiêm trọng. Một ống thở được đặt vào trong khí quản để giúp tôi thở bằng máy - chính xác mỗi phút mười hai hơi thở - và một dãy những màn hình theo dõi được đặt quanh giường tôi để ghi lại mọi chuyển động bên trong cơ thể và bộ não dường như đã bị hủy hoại hoàn toàn của tôi. Trong số rất ít những người trưởng thành mắc phải bệnh viêm màng não do vi khuẩn E. coli gây ra mỗi năm một cách ngẫu nhiên (tức là họ chưa từng trải qua phẫu thuật não hay bị chấn thương ở đầu gây tổn thương não), hầu hết là do một nguyên nhân rõ ràng nào đó, chẳng hạn như tình trạng suy giảm hệ miễn dịch (thường do HIV hay AIDS). Nhưng trong trường hợp của tôi, những nguyên nhân đó đều được loại trừ. Các vi khuẩn khác có thể gây ra bệnh viêm màng não bằng cách xâm nhập từ các xoang mũi kế cận hay tai giữa, nhưng E. coli thì không. Vùng não tủy gần như hoàn toàn tách biệt khỏi phần còn lại của cơ thể, nên việc này rất khó xảy ra. Trừ khi cột sống hay hộp sọ bị đâm thủng (ví dụ như khi các bác sĩ giải phẫu thần kinh sử dụng một máy kích thích não sâu bị nhiễm trùng hay thực hiện phẫu thuật đặt ống dẫn lưu não thất), các vi khuẩn thường chỉ sống trong ruột như E. coli không thể nào tiếp cận được với vùng não này. Bản thân tôi cũng đã đặt hàng trăm ống dẫn lưu não thất và máy kích thích não sâu cho bệnh nhân, và nếu tôi có thể thảo luận vấn đề của tôi với các đồng nghiệp đang rối bời của mình lúc đó, tôi cũng sẽ đồng ý với họ rằng, nói một cách đơn giản, tôi đang mang trong mình một căn bệnh mà gần như không thể mắc phải. Vì vẫn không thể hoàn toàn chấp nhận các chứng cứ được đưa ra từ các kết quả xét nghiệm, hai bác sĩ đồng nghiệp của tôi đã gọi điện cho các chuyên gia trong lĩnh vực bệnh nhiễm trùng ở các trung tâm y khoa học thuật lớn. Tất cả đều nhất trí rằng các kết quả đều dẫn đến một chẩn đoán khả dĩ duy nhất. Nhưng việc mắc phải căn bệnh viêm màng não nghiêm trọng do vi khuẩn E. coli gây ra một cách bí ẩn không phải là kỳ tích y học lạ thường duy nhất mà tôi đạt được trong ngày đầu tiên đó ở bệnh viện. Trong những phút cuối cùng trước khi rời khỏi phòng cấp cứu và sau hai giờ liền rên rỉ và gầm lên như một con thú, tôi đột nhiên yên lặng. Sau đó, chẳng hiểu vì sao, tôi bỗng hét lên bốn tiếng. Bốn tiếng đó được phát âm rất rõ ràng. Tất cả các bác sĩ và y tá đang có mặt trong phòng đều nghe thấy, trong đó có cả Holley, khi ấy đang đứng cách đó vài bước, ngay sau tấm rèm. “Chúa ơi, cứu con!” Mọi người lao đến bên chiếc cáng nhưng khi họ đến nơi, tôi đã hoàn toàn không phản ứng gì nữa. Tôi không có ký ức nào về quãng thời gian tôi nằm trong phòng cấp cứu, kể cả bốn tiếng tôi đã kêu lên. Nhưng đó là những từ cuối cùng tôi nói ra trong suốt bảy ngày từ lúc đó. 4 Eben IV T rong lúc ở Khu chính 1, sức khỏe của tôi tiếp tục suy giảm. Nồng độ glucose trong dịch não tủy (DNT) của một người khỏe mạnh bình thường là khoảng 80 miligram trong mỗi một phần mười lít. Đối với một người ở trong tình trạng rất nặng và có nguy cơ tử vong bởi căn bệnh viêm màng não do vi khuẩn, nồng độ này có thể xuống thấp đến 20 miligram trong mỗi một phần mười lít. Nồng độ glucose trong DNT của tôi là 1. Thang điểm hôn mê Glasgow của tôi là 8/15, cho thấy căn bệnh viêm màng não đang ở mức đáng lo ngại, và tiếp tục giảm hơn nữa trong vài ngày sau đó. Thang điểm APACHE II (Acute Physiology and Chronic Health Evaluation, thang điểm đánh giá tình trạng sức khỏe lâu dài và các thông số sinh lý trong giai đoạn cấp) của tôi khi ở trong phòng cấp cứu là 18/71, cho thấy khả năng tử vong của tôi trong suốt thời gian ở đó là khoảng 30%. Cụ thể hơn, nếu căn cứ vào chẩn đoán về bệnh viêm màng não cấp tính do vi khuẩn gram âm và sự suy giảm chức năng thần kinh nhanh chóng của tôi lúc mới nhập viện, tôi chỉ có khoảng gần 10% cơ hội sống sót khi được đưa vào khoa cấp cứu. Nếu thuốc kháng sinh không có tác dụng, nguy cơ tử vong sẽ tăng dần trong vài ngày kế tiếp, cho đến khi nó đạt tới 100% - một tỷ lệ vô phương. Các bác sĩ tiêm vào tĩnh mạch của tôi ba loại kháng sinh mạnh trước khi chuyển tôi lên nhà mới của mình: một phòng riêng rộng rãi, phòng số 10, thuộc khoa Chăm sóc Tích cực (Medical Intensive Care Unit - ICU), nằm ở ngay tầng trên khoa cấp cứu. Tôi đã vào khoa ICU này nhiều lần trong vai trò bác sĩ giải phẫu. Đây là khoa dành cho những bệnh nhân nguy kịch nhất, những người cận kề cái chết, nơi cùng một lúc nhiều y bác sĩ có thể đồng thời hỗ trợ hay điều trị cho họ. Cảnh tượng một đội ngũ gồm nhiều người lao vào phối hợp nhịp nhàng và chặt chẽ với nhau, cùng chiến đấu trong một cuộc chiến gần như tuyệt vọng để giữ lại mạng sống cho bệnh nhân luôn là một cảnh tượng khó quên. Tôi luôn có cả cảm xúc tự hào tột bậc và thất vọng nặng nề mỗi khi ở trong khoa này, cung bậc cảm xúc tùy vào kết quả điều trị - bệnh nhân mà chúng tôi hết lòng cứu chữa vượt qua được cơn nguy kịch hay ngừng thở trong tay chúng tôi. Trong hoàn cảnh như vậy, tiến sĩ Brennan cùng cả đội ngũ bác sĩ cố gắng tỏ ra lạc quan hết mức có thể đối với Holley, trong khi hoàn cảnh này thật khó để mà lạc quan. Sự thật là tôi đang gần kề với cái chết, rất gần. Ngay cả nếu như tôi không chết, thì những con vi khuẩn tấn công não của tôi có lẽ cũng đã ngốn hết phần lớn vỏ não, đủ để não của tôi không thể khôi phục lại bất kỳ hoạt động thần kinh bậc cao nào. Thời gian bất tỉnh càng kéo dài, tôi càng có khả năng trải qua phần đời còn lại của mình trong trạng thái thực vật mạn tính. Thật may là, không chỉ đội ngũ y bác sĩ của Bệnh viện Đa khoa Lynchburg mà cả những người khác cũng sẵn sàng xúm vào giúp. Michael Sullivan, vị mục sư tại nhà thờ Giám nhiệm1 ở nơi tôi sống và là hàng xóm của chúng tôi, đến phòng cấp cứu sau Holley một giờ. Ngay khi Holley vừa chạy ra khỏi cửa để đi theo xe cứu thương thì điện thoại di động của cô ấy đã reo. Đó là cuộc gọi của một người bạn lâu năm của cô ấy, Sylvia White. Một cách thật kỳ lạ, Sylvia luôn xuất hiện ngay khi có điều gì đó quan trọng xảy ra. Holley tin rằng Sylvia là một bà đồng (tôi thì chọn cách lý giải nghe có vẻ có lý và an toàn hơn, rằng cô ấy là người có trực giác tốt). Holley nói vắn tắt cho Sylvia nghe chuyện gì đang xảy ra và họ chia nhau gọi cho những người thân gần nhất của tôi: em gái tôi, Betsy, sống gần đó, Phyllis, em gái út của tôi, bốn mươi tám tuổi, hiện đang sống ở Boston, và Jean, chị cả của tôi. 1 Hay còn gọi là Anh giáo, là một truyền thống Kitô giáo Tây phương. Vào buổi sáng thứ Hai đó, Jean đang lái xe về hướng nam từ nhà mình ở Delaware và đang trên đường đi ngang qua Virginia. Thật trùng hợp là chị ấy đang đi đến chỗ mẹ chúng tôi ở Winston-Salem để giúp mẹ việc gì đó. Điện thoại của Jean reo. David, chồng của Jean gọi. “Em đã đi qua Richmond chưa?”, David hỏi. “Chưa”, Jean trả lời. “Em đang ở ngay phía bắc Richmond, trên đường cao tốc I-95.” “Bây giờ em rẽ sang đường 60 West, rồi đi đường 24 để xuống Lynchburg. Holley vừa gọi điện. Eben đang ở phòng cấp cứu. Cậu ấy bị co giật sáng nay và giờ đang bất tỉnh.” “Ôi, Chúa ơi! Họ có biết tại sao không?” “Họ không chắc, nhưng hình như là viêm màng não.” Jean rẽ hướng ngay, vừa kịp đi vào con đường nhựa 60 West gồm hai làn đường, xuyên qua những đám mây thấp đang lướt nhanh, hướng về đường 24 và Lynchburg. Chính Phyllis là người gọi điện cho Eben IV vào lúc ba giờ chiều ngày đầu tiên đó. Khi chuông điện thoại reng, Eben đang ở ký túc xá của trường Đại học Delaware. Thằng bé đang ở ngoài hiên, làm bài tập khoa học (cha tôi trước đây là một bác sĩ giải phẫu thần kinh, và Eben cũng muốn theo nghiệp này). Phyllis kể nhanh tình hình cho Eben và nói thằng bé đừng quá lo, rằng mọi việc đang ở trong tầm kiểm soát của các bác sĩ. “Họ có biết đó là bệnh gì không?”, Eben hỏi. “À, họ có nói đến vi khuẩn gram âm và căn bệnh viêm màng não.” “Con có hai bài kiểm tra trong mấy ngày tới. Con sẽ gửi e-mail để xin phép các thầy cô dạy bộ môn đó”, Eben nói. Sau này, Eben nói với tôi rằng ban đầu thằng bé cũng lưỡng lự chưa muốn tin rằng tôi đang ở trong tình trạng nguy cấp như Phyllis nói, vì Phyllis và Holley thường hay “phóng đại mọi chuyện”, và nhất là tôi hầu như chưa bao giờ bị ốm cả. Nhưng khi Michael Sullivan gọi điện một tiếng sau đó, thằng bé biết mình cần phải lái xe về, ngay lập tức. Khi Eben lái xe về hướng Virginia, một con mưa đá bắt đầu trút xối xả. Phyllis đã rời Boston từ lúc sáu giờ, và khi Eben đang lái xe đến gần cầu I-495 băng qua sông Potomac để vào địa phận Virginia thì Phyllis đang đi ngang qua chỗ những đám mây thấp bay trên đầu. Đến Richmond, cô thuê một chiếc ô-tô và đi vào đường 60. Khi chỉ còn cách Lynchburg vài cây số, Eben gọi cho Holley. “Em Bond thế nào, mẹ?” “Em đang ngủ”, Holley trả lời. “Vậy thì con sẽ đi thẳng đến bệnh viện luôn”, Eben nói. “Con có chắc là mình không muốn về nhà trước không?” “Không mẹ à”, Eben trả lời. “Con chỉ muốn nhìn thấy cha.” Eben dừng xe trước khoa ICU vào lúc 11 giờ 15 phút tối. Lối đi bộ vào bệnh viện đã bắt đầu đóng băng và khi Eben bước vào chỗ sáng đèn của khu lễ tân, thằng bé chỉ thấy một y tá trực đêm. Cô ấy đưa Eben đến giường của tôi, loại giường ICU dành riêng cho bệnh nhân cần được chăm sóc đặc biệt. Trước đó, tất cả những người trực ca sớm hơn đã về nhà. Những âm thanh duy nhất vang lên trong căn phòng rộng, lờ mờ sáng chỉ là những tiếng kêu tít tít và tiếng rít rất khẽ của những chiếc máy đang cố duy trì sự sống cho cơ thể tôi. Eben đứng lặng người ở cửa khi trông thấy tôi. Cậu con trai đang ở tuổi hai mươi của tôi chưa từng thấy tôi bị bệnh gì nghiêm trọng ngoài những cơn cảm cúm. Giờ đây, cho dù tất cả những máy móc và trang thiết bị đang làm hết khả năng để giúp làm cho tình hình trông có vẻ khả quan, nhưng thằng bé vẫn biết cái mà nó đang nhìn thấy về cơ bản là một cái xác. Cơ thể vật lý của tôi đang ở ngay trước mắt thằng bé, nhưng người cha mà nó từng biết không còn ở đó nữa. Hay có lẽ nên dùng một từ khác: đang ở một nơi nào khác. 5 Thế giới bên dưới B óng tối, nhưng là bóng tối có thể nhìn qua được - giống như khi bị nhấn chìm trong bùn lầy nhưng chúng ta vẫn có thể nhìn xuyên qua nó. Hay có lẽ nếu miêu tả nó như một cục thạch bị bám bẩn thì sẽ dễ hình dung hơn. Có thể nhìn xuyên qua được, nhưng lờ mờ, mọi thứ như nhòe đi, cảm giác như ở trong một không gian hẹp, mù sương, ngột ngạt đến khó thở. Ý thức, nhưng là một ý thức không hồi ức và không danh tính - giống như bạn đang ở trong một giấc mơ, vẫn biết chuyện gì đang xảy ra xung quanh mình, nhưng lại không có ý niệm đời thực nào về việc mình là ai hay là gì. Cả âm thanh nữa: một tiếng đập đều đặn và như từ sâu thẳm, xa văng vẳng nhưng mạnh, tạo cảm giác như từng nhịp đập xuyên thẳng qua bạn. Giống như nhịp đập của tim? Cũng giống một chút, nhưng nghe tối tăm hơn, máy móc hơn - như tiếng kim loại đánh vào kim loại, như có một gã thợ rèn khổng lồ ở đâu đó xa xa dưới lòng đất đang nện lên cái đe: mỗi nhát nện mạnh đến nỗi tiếng động nó gây ra làm rúng động bên trong lòng đất, hay trong bùn lầy, hay nói đúng hơn là nơi tôi đang ở lúc đó. Tôi không có một cơ thể - tức là một cái gì đó mà tôi ý thức được về sự hiện hữu của nó. Tôi chỉ đơn giản là đang... ở đó, trong không gian bóng tối đang vang lên những tiếng đập thình thịch như nhịp tim này. Vào thời điểm đó, lẽ ra tôi có thể gọi nó là một nơi “ban sơ”, nhưng tôi đã không biết từ này. Thật ra là, khi ấy tôi không hề biết một từ nào cả. Những từ tôi đang dùng để mô tả trải nghiệm này thì phải đến mãi về sau, khi đã trở về lại thế giới này và viết lại những gì đã xảy ra dựa theo trí nhớ của mình, tôi mới nghĩ đến. Ngôn ngữ, cảm xúc và logic: những thứ này khi ấy đều không hiện hữu, như thể tôi đã đi lùi lại, trở về một trạng thái hiện hữu nào đó từ thuở sơ khai của sự sống; tôi cứ tiếp tục lùi như thế, có lẽ là đến khi những con vi khuẩn nguyên thủy chiếm lấy và đánh sập bộ não của tôi. Tôi đã ở trong thế giới đó bao lâu? Tôi không biết. Khi bạn đi đến một nơi mà ở đó không có khái niệm thời gian như cách mà chúng ta trải nghiệm đời sống trong thế giới thông thường, thì việc miêu tả chính xác những điều bạn cảm nhận là gần như không thể. Khi nó đang xảy ra, khi tôi đang ở đó, tôi cảm thấy như mình (dù lúc đó mình là gì đi chăng nữa) từ trước đến nay vẫn luôn ở đó và sẽ ở đó mãi mãi. Mà tôi cũng chẳng bận tâm về điều này, ít ra là lúc đầu. Rốt cuộc thì tại sao tôi phải bận tâm, bởi chẳng phải đây là trạng thái hiện hữu duy nhất mà tôi từng biết đó sao? Vì không có ký ức nào tốt đẹp hơn thế, nên việc tôi đang ở đâu chẳng phải là điều khiến tôi thật sự bận tâm lúc ấy. Mặc dù tôi nhớ mình có đặt dấu hỏi rằng liệu mình có thể sống sót được hay không, nhưng việc tôi không xem đó là điều cấp thiết lại càng khiến tôi cảm thấy mình bất khả xâm hại. Tôi chẳng có manh mối nào để biết thế giới mà tôi đang hiện hữu này được vận hành theo những quy tắc gì, nhưng tôi cũng không nóng lòng phải biết. Rốt cuộc, điều đó có quá quan trọng đâu? Đến một thời điểm, tôi không thể nói đích xác là sau đó bao lâu, tôi bắt đầu có ý thức hơn về những thứ ở xung quanh mình. Chúng vừa hơi giống rễ cây, vừa hơi giống như những mạch máu bên trong một tử cung chứa đầy bùn lầy khổng lồ. Ánh lên một thứ ánh sáng màu đỏ xỉn bẩn và u tối, từ đâu đó ở xa lắm bên trên, chúng đi một khoảng xa không kém, đến một nơi nào đó ở sâu bên dưới. Trong hồi ức của tôi về khoảnh khắc đó, tôi như một con chuột chũi hay con giun đất đang nhìn vào những thứ đó, tuy ở sâu trong lòng đất nhưng bằng cách nào đó vẫn nhìn thấy những cây và rễ ngoằn ngoèo, rối rắm như ma trận ở xung quanh nó. Đó là lý do tại sao sau này, khi nghĩ lại về nơi đó, tôi gọi đó là Cảnh Giới Tầm Nhìn Của Giun Đất. Trong một thời gian dài, tôi đã ngờ rằng ký ức mà tôi đã có về nơi này có thể xuất phát từ ảo giác của bộ não của tôi trong giai đoạn bị những con vi khuẩn bắt đầu xâm chiếm. Nhưng càng nghĩ về cách lý giải này, tôi càng thấy nó vô lý (và tôi cũng cần nhắc lại rằng hoạt động suy nghĩ này của tôi phải rất lâu sau đó mới diễn ra). Bởi vì - dù thật khó để hình dung thật rõ nếu chính bạn chưa từng ở đó - ý thức của tôi hoàn toàn không mù mịt hay méo mó khi tôi ở đó. Chỉ là ý thức khi đó... có giới hạn. Tôi không phải là con người khi tôi ở nơi đó. Tôi thậm chí cũng không phải là động vật. Tôi là một sự hiện hữu nào đó từ trước, và ở bên dưới vạn vật. Tôi chỉ đơn thuần là một điểm ý thức đơn độc giữa một đại dương màu nâu-đỏ bên ngoài giới hạn thời gian. Càng ở lâu nơi này, tôi càng trở nên khó chịu. Ban đầu, tôi đắm chìm sâu trong nó đến nỗi không có sự khác biệt nào giữa “tôi” và thành phần nửa gây cảm giác rờn rợn, nửa thân thuộc đang bao bọc lấy tôi. Nhưng dần dần, thứ cảm giác chìm sâu, phi thời gian và phi biên giới này nhường chỗ cho một cảm giác khác: cảm giác khi chợt nhận ra mình hoàn toàn không phải là một phần của thế giới dưới lòng đất này, mà chỉ đang bị mắc kẹt trong nó. Những gương mặt thú quái dị trồi lên trên mặt bùn lầy nhớp nhúa, khi thì rên rỉ, khi rít lên tiếng rít khó nghe, rồi lại mất tăm. Thỉnh thoảng, tôi lại nghe một tiếng gầm mờ đục. Đôi khi, những tiếng gầm này nghe như tiếng tụng rất khẽ và du dương, những tiếng tụng vừa gây cảm giác rờn rợn vừa thân quen một cách khó hiểu - như thể tôi đã từng biết và tại một thời điểm nào đó chính tôi đã từng thốt ra những lời tụng đó. Vì tôi không có ký ức nào về sự tồn tại trước đó nên thời gian trong cõi giới này của tôi cứ kéo dài, dài thêm nữa. Bao nhiêu tháng? Bao nhiêu năm? Vô tận? Bất kể câu trả lời là gì thì cuối cùng tôi cũng đã đến một điểm mà cảm giác rờn rợn hoàn toàn lấn át cảm giác dễ chịu và thân thuộc thường có của tôi. Tôi càng bắt đầu cảm nhận về mình rõ hơn - một sự hiện hữu tách biệt khỏi những gì lạnh lẽo, ẩm thấp và tối tăm xung quanh, thì những gương mặt thú trồi lên từ bóng tối đó càng trở nên xấu xí và đáng sợ. Những tiếng đập nhịp nhàng từ xa cũng càng lúc càng rõ rệt và mạnh hơn - nghe như một đội quân lao động nào đó ở dưới lòng đất đang làm một công việc đơn điệu đến vô vọng, dường như không bao giờ dứt. Những chuyển động ở xung quanh tôi bắt đầu trở nên khó nhìn thấy hơn bằng mắt thường nhưng dễ cảm nhận hơn bằng xúc giác, như thể một đàn bò sát đang nối đuôi nhau bò ngang qua tôi, chốc chốc lại cọ vào người tôi bằng lớp da trơn nhẵn hay đầy lông gai của chúng. Rồi tôi cảm thấy một mùi: vừa hơi giống mùi phân, vừa hơi tanh như mùi máu, lại có cả mùi ói mửa. Nói cách khác, đó là một mùi sinh học, nhưng là mùi sinh học của sự chết, chứ không phải sự sống. Khi ý thức của tôi càng nhạy bén hơn, tôi càng tiến gần đến nỗi sợ hơn. Dù tôi có là ai hay là gì, tôi cũng không thuộc về nơi này. Tôi cần phải thoát ra. Nhưng tôi sẽ về đâu? Ngay trong khi tôi đang tự hỏi mình như vậy, một thứ gì đó mới mẻ hiện lên từ bóng tối ở bên trên: một thứ gì đó không lạnh lẽo, không chết chóc, không tối tăm, mà hoàn toàn ngược lại. Cho dù tôi có cố gắng trong suốt phần đời còn lại của mình, tôi cũng sẽ chẳng bao giờ miêu tả được hết sức chân thực thực thể đang tiến đến gần tôi lúc ấy... không bao giờ lột tả hết được vẻ đẹp của nó. Nhưng dù sao tôi cũng sẽ cố. 6 Cái neo vào sự sống P hyllis lái xe vào bãi đỗ xe của bệnh viện chỉ gần hai tiếng sau khi Eben IV đến, vào khoảng một giờ sáng. Khi bước vào phòng ICU của tôi, cô nhìn thấy Eben IV đang ngồi bên giường tôi, ôm một cái gối của bệnh viện ở trước ngực để giữ cho mình khỏi ngủ gật. “Mẹ đang ở nhà với Bond”, Eben nói, bằng giọng vừa mệt mỏi, căng thẳng, vừa vui mừng khi thấy Phyllis. Phyllis bảo Eben rằng thằng bé cần phải về nhà, rằng nếu thức cả đêm sau khi vừa lái xe cả đoạn đường từ Delaware như thế thì ngày mai thằng bé sẽ chẳng giúp được gì cho ai, kể cả việc chăm sóc cha mình. Rồi Phyllis gọi điện thoại cho Holley và Jean đang ở nhà, nói rằng Eben IV sẽ về ngay và cô ấy sẽ túc trực ở bệnh viện đêm hôm đó. “Bây giờ con đi về nhà với mẹ, cô Jean và em con”, cô nói với Eben IV sau cuộc gọi. “Họ cần con. Cha con và cô vẫn sẽ ở đây khi con trở lại vào ngày mai.” Eben IV nhìn lại khắp người tôi: nhìn cái ống thở bằng nhựa trong suốt thông qua lỗ mũi xuống khí quản; nhìn đôi môi mỏng đang trở nên khô nứt nẻ; nhìn đôi mắt nhắm nghiền và các cơ mặt hơi xệ xuống của tôi. Phyllis đọc được suy nghĩ của thằng bé. “Về nhà đi, Eben. Cố gắng đừng lo nghĩ quá. Cha con vẫn còn ở đây với chúng ta. Và cô sẽ không để cha con đi đâu.” Nói rồi, Phyllis đi đến bên giường tôi, cầm lấy bàn tay tôi và bắt đầu xoa bóp. Phyllis ngồi như vậy suốt đêm; chẳng có ai ngoài những cái máy và cô y tá trực đêm vào kiểm tra các thông số mỗi giờ, cô ấy nắm tay tôi, duy trì một sự kết nối - sự kết nối mà cô ấy biết rõ là vô cùng cần thiết để giúp tôi vượt qua biến cố này. Một điều cũ rích nhưng tôi thấy rất đúng, đó là người miền nam luôn nhắc đi nhắc lại rằng gia đình là quan trọng. Khi tôi vào học Trường Y khoa Harvard vào năm 1988, điều đầu tiên tôi nhận thấy ở người miền bắc là họ có phần dè dặt hơn trong việc thừa nhận một thực tế mà nhiều người miền nam xem là hiển nhiên: gia đình bạn cho biết bạn là ai. Trong suốt cuộc đời mình, mối quan hệ của tôi với gia đình mình - cha mẹ và các chị em, và sau này là Holley, Eben IV và Bond - đã luôn là một nguồn mang lại sức mạnh và sự vững vàng thiết yếu đối với tôi, và tôi càng thấy rõ điều này hơn trong những năm gần đây. Gia đình là nơi tôi luôn tìm được sự hỗ trợ vô điều kiện trong một thế giới mà, dù ở miền bắc hay miền nam, điều này luôn luôn thiếu. Thỉnh thoảng, tôi vẫn cùng Holley và bọn trẻ đi đến nhà thờ Giám nhiệm. Nhưng thật ra thì đã nhiều năm nay, tôi hầu như chỉ có mặt ở nhà thờ vào dịp lễ Giáng sinh và Phục sinh. Tôi cũng khuyến khích các con cầu nguyện hằng đêm, nhưng tôi không phải là người dẫn dắt tâm linh của gia đình. Tôi chưa bao giờ thoát ra được cảm giác hoài nghi, rằng làm sao tất cả những điều đó có thể là thật được. Dù cho khi càng trưởng thành, tôi càng muốn tin vào Chúa, Thiên đàng và cả kiếp sau, nhưng nhiều thập niên sống trong thế giới khoa học giải phẫu thần kinh đã khiến tôi hoài nghi sâu sắc về sự tồn tại của những điều này. Khoa học thần kinh hiện đại khẳng định rằng bộ não là khởi nguồn của ý thức - của tâm trí, linh hồn, tâm linh, của cái phần vô hình, không dễ nắm bắt hay mô tả chính xác của mỗi chúng ta, tạo nên con người thật sự của chúng ta - và tôi không nghi ngờ gì về điều này. Giống như hầu hết những người làm trong ngành y tế, luôn làm việc trực tiếp với những bệnh nhân ở giữa ranh giới của sự sống và cái chết cùng gia đình của họ, trong nhiều năm, tôi đã nghe, và cả chứng kiến, về một số những sự việc xảy ra không giải thích được. Tôi ghi nhận lại những sự việc này vào danh mục “chưa giải thích được” và đến nay vẫn chưa có ghi nhận mới nào cho những trường hợp đó. Tôi chỉ có thể đưa ra một cách lý giải hợp lý nhất cho mỗi sự việc. Không phải là tôi phản đối những niềm tin vào thế giới siêu nhiên. Là một bác sĩ phải thường xuyên chứng kiến những đau khổ tột cùng, cả về mặt thân thể lẫn cảm xúc, tôi hoàn toàn không muốn phủ nhận niềm tin của bất cứ ai, phủ nhận niềm an ủi và hy vọng mà đức tin mang đến cho họ. Thật ra, bản thân tôi cũng nghĩ giá như mình cũng có được một đức tin như thế. Tuy vậy, càng lớn tuổi, dường như tôi càng xa rời điều đó hơn. Như một đại dương xâm lấn dần bờ biển, qua nhiều năm, một cách nhẹ nhàng nhưng bền bỉ, thế giới quan khoa học đã làm xói mòn khả năng tôi tin vào một điều gì đó lớn lao hơn. Khoa học dường như cứ liên tục đưa ra những chứng cứ mạnh mẽ để đẩy dần vai trò quan trọng của con người chúng ta trong vũ trụ xuống gần bằng không. Niềm tin hẳn đã khiến cho cuộc sống của chúng ta trở nên dễ chịu. Nhưng khoa học không quan tâm đến điều đó. Nó quan tâm đến sự thật. Tôi là người có xu hướng học hỏi thông qua hành động, nói một cách dễ hiểu, tôi học cái gì bằng cách làm cái đó. Nếu tôi không tự mình cảm nhận hay xúc chạm vào nó, tôi khó lòng nảy sinh sự say mê. Bên cạnh mong muốn được giống như cha mình, chính niềm mong muốn được xắn tay lên và chạm vào bất kỳ điều gì tôi muốn hiểu đã đưa tôi đến với ngành học giải phẫu thần kinh. Bộ não con người rất trừu tượng và bí ẩn nhưng cũng vô cùng rõ ràng và chặt chẽ. Khi còn là một sinh viên y khoa ở trường Đại học Duke, tôi háo hức khi tận mắt thấy được qua kính hiển vi các sợi tế bào thần kinh mỏng manh tạo ra sự kết nối giữa các khớp thần kinh, từ đó sinh ra nhận thức. Tôi yêu sự kết hợp giữa kiến thức trừu tượng và tính chất vật lý đơn thuần của bộ môn giải phẫu não. Để tiếp cận được bộ não, các bác sĩ giải phẫu phải mở nhiều lớp da và mô bao bọc phần sọ và sử dụng một thiết bị khí nén tốc độ cao có tên gọi là khoan Midas Rex. Đây là một công cụ rất tinh vi, có giá hàng ngàn đô la. Nhưng nghĩ cho cùng, đó cũng chỉ là... một cái khoan. Tương tự, việc sửa chữa bộ não bằng phẫu thuật tuy là một công việc cực kỳ phức tạp nhưng thật ra cũng không khác mấy so với việc sửa chữa một bộ máy chạy bằng điện vô cùng tinh vi. Bộ não thật sự là như vậy: một bộ máy sản xuất ra hiện tượng ý thức, điều này tôi biết rất rõ. Tất nhiên là các nhà khoa học vẫn chưa khám phá ra chính xác bằng cách nào các neuron thần kinh của bộ não có thể làm được như thế, nhưng việc tìm ra câu trả lời cũng chỉ là vấn đề thời gian. Điều này được chứng minh ở trong phòng mổ mỗi ngày. Một bệnh nhân đến bệnh viện với triệu chứng đau đầu và ý thức suy giảm. Bạn cho chụp MRI (chụp cộng hưởng từ) cho bộ não của cô ấy và phát hiện ra một khối u. Bạn gây mê toàn thân cho bệnh nhân, cắt bỏ khối u và vài giờ sau, cô ấy tỉnh lại. Không còn những cơn đau đầu. Không còn vấn đề về ý thức. Mọi việc dường như khá đơn giản. Tôi ngưỡng mộ sự đơn giản này - tính trung thực tuyệt đối và tính trong sạch của khoa học. Tôi kính trọng nó bởi vì trong bộ môn này không có chỗ cho vọng tưởng hay suy nghĩ viển vông. Nếu một dữ kiện có thể được chứng minh là xác thực và đáng tin cậy, nó được chấp nhận. Nếu không, nó bị gạt đi. Với cách tiếp cận này, hầu như không còn chỗ cho linh hồn, cho sự tiếp tục tồn tại của nhân cách sau khi bộ não hỗ trợ nó đã ngừng hoạt động. Thậm chí còn có ít chỗ hơn cho những từ mà tôi từng nghe đi nghe lại trong nhà thờ: “sống mãi muôn đời”. Đó là lý do mà tôi nương tựa vào gia đình mình - Holley và hai con trai của chúng tôi, chị và hai em gái của tôi, và dĩ nhiên, cha và mẹ tôi - nhiều người để tôi nương tựa đến thế. Một thực tế rất rõ ràng là, tôi đã chẳng thể nào làm tốt nghề nghiệp của mình - làm những việc tôi làm mỗi ngày và nhìn thấy được những điều tôi đã nhìn thấy - nếu không có sự hỗ trợ mang tính nền tảng là tình yêu và sự thấu hiểu mà gia đình đã dành cho tôi. Đó là lý do tại sao em gái út Phyllis (sau khi hỏi ý kiến của Betsy, em gái kế tôi, qua điện thoại) đã quyết định tối hôm đó thay mặt toàn thể gia đình, hứa với tôi một chuyện. Cô ấy ngồi bên tôi, nắm lấy bàn tay gần như không còn sức sống của tôi, và nói với tôi rằng từ bây giờ, cho dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, sẽ luôn có một ai đó ở ngay đây, nắm lấy tay tôi. “Gia đình sẽ không để cho anh đi đâu, Eben”, Phyllis nói. “Anh cần một cái neo để giữ anh ở lại đây, ở lại thế giới này, nơi tất cả mọi người trong gia đình đều cần anh. Và gia đình sẽ làm mọi thứ hết sức có thể cho điều đó.” Cô ấy không biết rằng trong những ngày sắp tới, cái neo này cho thấy nó quan trọng ra sao. 7 Giai Điệu Xoay Vòng và Lối Vào C ó cái gì đó xuất hiện trong bóng tối. Vừa chầm chậm xoay vòng, nó vừa tỏa ra những sợi ánh sáng mảnh như tơ màu vàng trắng, và những vòng xoay của nó khiến bóng tối xung quanh tôi bắt đầu vỡ vụn thành từng mảnh. Rồi tôi nghe thấy một âm thanh mới: một âm thanh sống, cảm giác như đó là bản nhạc đẹp đẽ nhất, phức tạp nhất, phong phú nhất mà bạn từng nghe thấy. Trong khi một thứ ánh sáng tinh khiết màu trắng đang phủ xuống, âm thanh này càng lúc càng lớn hơn và rồi lấn át hoàn toàn tiếng đập thình thịch đơn điệu, máy móc mà cho đến lúc ấy là bạn đồng hành duy nhất của tôi, trong suốt một khoảng thời gian mà tôi tưởng như hàng niên đại. Ánh sáng đó càng lúc càng đến gần hơn, không ngừng xoay và không ngừng tạo ra những sợi tơ ánh sáng trắng tinh khiết mà giờ đây, tôi nhìn thấy thấp thoáng những sợi ánh vàng xen kẽ trong đó. Và rồi, ở ngay giữa luồng ánh sáng này, một thứ gì đó khác lại xuất hiện. Tôi tập trung toàn bộ ý thức, cố gắng đoán xem nó là gì. Một khoảng trống. Tôi hoàn toàn không còn nhìn vào luồng ánh sáng đang chầm chậm xoay vòng đó nữa, mà nhìn xuyên qua nó. Ngay khi hiểu ra điều này, tôi bắt đầu di chuyển lên trên. Rất nhanh. Nghe một âm thanh vút qua, rồi vụt một cái, tôi đã đi xuyên qua khoảng trống đó và thấy mình đang ở trong một thế giới hoàn toàn mới. Một thế giới kỳ lạ nhất, đẹp đẽ nhất mà tôi từng nhìn thấy. Rực rỡ, sống động, ngây ngất, choáng ngợp... Tôi có thể nghĩ ra hàng đống tính từ để diễn tả thế giới đó trông như thế nào và cảm nhận của tôi ra sao, nhưng tất cả những tính từ đó đều không lột tả hết được. Tôi cảm thấy như mình đang được sinh ra. Không phải là tái sinh hay được sinh ra lần nữa. Chỉ là... được sinh ra. Phía dưới tôi là một miền đồng quê. Xanh mướt, tốt tươi và nhìn giống như trái đất. Nó là trái đất... nhưng đồng thời lại không phải là trái đất. Giống như là cha mẹ bạn đưa bạn trở lại nơi bạn đã sống một vài năm khi còn rất nhỏ. Bạn chưa biết gì về nơi đó. Hay ít ra là bạn nghĩ thế. Nhưng khi bạn nhìn ra xung quanh, có thứ gì đó khiến bạn chú ý, và bạn nhận ra rằng một phần bên trong bạn - phần sâu thẳm bên trong - cuối cùng đã nhớ ra nơi này, và hân hoan khi được trở lại đây. Tôi đang bay, bay qua những ngọn cây và cánh đồng, những con suối và thác nước, và ở một vài nơi bên dưới có cả người. Có cả trẻ con đang chơi đùa và cười vang. Những người ở đó hát và nhảy thành những vòng tròn và thi thoảng, tôi nhìn thấy một chú chó đang chạy nhảy cùng với họ; cả người và vật đều ngập tràn niềm vui. Trang phục của họ đơn giản nhưng trông rất đẹp, và tôi thấy màu sắc của những bộ trang phục dường như cũng có cùng thứ hơi ấm của sự sống tỏa ra từ cây cối và những bông hoa đồng nội đang nở rộ xung quanh. Một thế giới trong mơ đẹp đẽ và tuyệt vời... Nhưng đây không phải là một giấc mơ. Cho dù tôi không biết mình đang ở đâu hay thậm chí là cái gì, nhưng có một điều tôi hoàn toàn chắc chắn: nơi mà bỗng nhiên tôi thấy mình đang có mặt hoàn toàn là thực. Từ thực thường diễn tả điều gì đó trừu tượng, và mặc dù tôi rất cố gắng thì cũng đành bất lực một cách tức tối vì nó không truyền tải được những gì tôi đang cố diễn đạt ra đây. Hãy tưởng tượng bạn là một đứa trẻ và bạn đang đi xem một bộ phim vào một ngày hè. Có lẽ bộ phim khá hay và bạn thích thú ngồi xem từ đầu đến cuối. Nhưng khi bộ phim kết thúc, bạn xếp hàng đi ra khỏi rạp và trở lại với buổi chiều hè tràn đầy hơi ấm rực rỡ và vô cùng thân thuộc đang mời gọi bạn. Và ngay khi bạn cảm nhận được bầu không khí và ánh mặt trời đó, bạn tự hỏi tại sao bạn lại có thể phí hoài một ngày rực rỡ như thế này để ngồi trong một rạp phim tối om như vậy chứ. Nhân cái cảm giác đó lên một ngàn lần, bạn sẽ vẫn không thể hình dung được những gì tôi đã cảm thấy ở nơi đây. Tôi không biết chính xác mình đã bay như vậy bao lâu. (Thời gian ở nơi này khác với thời gian tuyến tính đơn giản mà chúng ta trải nghiệm trên trái đất, và miêu tả về nó cũng vô vọng như miêu tả về mọi khía cạnh khác của nơi này.) Nhưng đến một lúc, tôi nhận ra rằng tôi không ở đó một mình. Có ai đó ở kế bên tôi: một cô gái xinh đẹp có gò má cao và đôi mắt xanh sâu thẳm. Cô ấy mặc bộ quần áo trông giống như nông dân, giống như trang phục của những người mà tôi thấy ở ngôi làng bên dưới. Những lọn tóc màu nâu vàng ôm lấy gương mặt khả ái. Chúng tôi đang lướt đi bên cạnh nhau, trên một bề mặt có hoa văn phức tạp và trông sống động với những màu sắc rực rỡ và khó tả - đó là cánh của một con bướm. Thật ra, có hàng triệu con bướm ở khắp xung quanh chúng tôi - như những con sóng lớn dập dờn, lao xuống thảm thực vật bên dưới rồi bay vút lên trở lại xung quanh chúng tôi. Thì ra không phải là một cánh bướm đơn độc, riêng lẻ, mà là tất cả những con bướm xuất hiện cùng nhau, như một dòng sông của màu sắc và sự sống đang bay qua trên không trung. Chúng tôi nhàn nhã bay trong những đội hình vòng tròn, ngang qua những bông hoa nở rộ và những nụ hoa trên cây hé nở khi chúng tôi tiến lại gần. Trang phục của cô gái giản đơn thôi, nhưng màu sắc của nó - màu thiên thanh, chàm, và cam đào nhạt - cũng mang cùng một sức sống vô cùng sinh động đến choáng ngợp như tất cả mọi vật ở xung quanh. Cô ấy nhìn tôi bằng ánh mắt mà chỉ cần nhìn thấy trong giây lát, bạn cũng sẽ cảm thấy như toàn bộ cuộc sống của mình cho đến thời điểm đó là vô cùng đáng sống, mặc cho chuyện gì đã xảy ra trước đó. Không phải là một cái nhìn lãng mạn. Không phải là một cái nhìn bằng hữu. Nó là một cái nhìn mà, bằng cách nào đó, vượt lên trên tất cả những thứ đó... vượt lên trên tất cả những dạng thức tình yêu thương mà con người chúng ta trên trái đất từng biết đến. Nó là thứ gì đó cao cả hơn, bao hàm trong nó tất thảy mọi kiểu tình yêu còn lại, đồng thời vừa chân thực, vừa thuần khiết hơn tất thảy. Cô ấy nói chuyện với tôi, nhưng không phải bằng ngôn từ. Thông điệp của cô ấy đi xuyên qua tôi như một làn gió, và ngay lập tức tôi biết nó là thật. Tôi biết điều đó, giống như cách mà tôi biết thế giới xung quanh chúng tôi là thực - chứ không phải là một thứ ảo tưởng thoáng qua và mong manh nào đó. Thông điệp đó gồm ba phần, và nếu tôi phải dịch nó ra ngôn ngữ của loài người trên trái đất, nó sẽ đến tai tôi đại khái như thế này: “Anh luôn được yêu thương và trân trọng, vô cùng, một tình yêu vĩnh cửu.” “Không có gì phải sợ hãi.” “Anh không thể làm điều gì sai.” Thông điệp làm dâng lên trong tôi một cảm giác nhẹ nhõm vô hạn khiến tôi lâng lâng. Giống như ai đó đang trao cho tôi các quy luật của một trò chơi mà tôi đã chơi trong suốt quãng đời trước đó nhưng chưa bao giờ hiểu về nó một cách đầy đủ. “Chúng tôi sẽ cho anh xem nhiều thứ ở đây”, cô gái nói và lần này, vẫn không dùng ngôn từ mà bằng cách truyền trực tiếp đến tôi tinh thần cốt tủy của những ý niệm đó. “Nhưng cuối cùng, anh cũng sẽ trở lại.” Với câu nói đó, tôi chỉ có một câu hỏi. Trở lại đâu? Đừng quên người đang trò chuyện với bạn là ai nhé. Tôi không phải là một kẻ ủy mị hay chưa từng trải qua điều gì. Tôi biết cái chết trông ra sao. Tôi biết cảm giác thế nào khi một người đang sống, chuyện trò và bông đùa cùng bạn trong những ngày người đó còn khỏe mạnh, bỗng trở thành một cái xác bất động nằm trên bàn mổ sau hàng giờ đồng hồ bạn nỗ lực để giữ cho bộ máy, tức cơ thể của người đó, tiếp tục hoạt động. Tôi biết sự đau khổ trông ra sao, và nỗi đau đớn không có câu trả lời trên khuôn mặt của những người thân đã mất đi một người mà họ không thể tưởng tượng nổi là sẽ có ngày rời bỏ họ ra đi. Tôi biết cơ chế sinh học của mình, và dù tôi không phải là một nhà vật lý, hiểu biết của tôi cũng không xoàng về lĩnh vực này. Tôi biết phân biệt giữa tưởng tượng và thực tế, và tôi biết rằng trải nghiệm mà tôi đang cố gắng hết sức nhưng vẫn chỉ giúp bạn hình dung được một bức tranh rất mờ nhạt về nó, hoàn toàn không khiến tôi thỏa mãn, là trải nghiệm thật nhất mà tôi đã có trong cuộc đời mình. Thật ra, điều duy nhất có thể khiến trải nghiệm trên trở nên xác thực, giải tỏa mọi sự nghi hoặc, là điều sắp xảy đến tiếp theo sau đây. T 8 Israel ám giờ sáng ngày hôm sau, Holley quay trở vào bệnh viện với tôi. Cô ấy thay phiên cho Phyllis, ngồi vào chiếc ghế ở đầu giường tôi và nắm chặt lấy bàn tay vẫn không có phản ứng gì của tôi. Vào khoảng 11 giờ sáng, Michael Sullivan đến và mọi người đứng thành vòng tròn xung quanh tôi, Betsy nắm tay tôi để tôi cũng là một phần của vòng tròn. Michael dẫn lời cầu nguyện. Khi họ vừa kết thúc một bài kinh, một bác sĩ chuyên về bệnh nhiễm trùng bước vào, cầm trên tay báo cáo mới toanh từ tầng dưới. Mặc dù các bác sĩ đã điều chỉnh các loại thuốc kháng sinh cho tôi trong đêm qua, lượng tế bào bạch cầu của tôi vẫn tiếp tục tăng cao. Các vi khuẩn vẫn tiếp tục ăn não của tôi mà không gặp bất cứ trở ngại nào. Trước thực tế là chưa một ai biết chính xác chuyện gì đang xảy ra với tôi, các bác sĩ một lần nữa kiểm tra lại chi tiết các hoạt động của tôi trong những ngày vừa qua với Holley. Rồi họ mở rộng phạm vi rà soát bằng cách đặt thêm câu hỏi về cả vài tuần trước đó; liệu có điều gì đó - bất cứ điều gì - trong cụ thể từng việc mà tôi đã làm có thể giúp họ hiểu được chính xác tình trạng của tôi hay không. “À”, Holley nói, “vài tháng trước anh ấy có một chuyến công tác đến Israel.” Bác sĩ Brennan ngẩng đầu lên trong khi đang nhìn vào cuốn sổ. Các tế bào khuẩn E. coli có thể trao đổi ADN không chỉ với các vi khuẩn E. coli khác mà còn với các vi khuẩn gram âm khác nữa. Điều này có rất nhiều hàm ý trong thời đại của chúng ta, thời đại mà con người đi khắp toàn cầu, thời đại của việc sử dụng tràn lan thuốc kháng sinh, và của các loại bệnh gây ra bởi các chủng vi khuẩn mới đang đột biến nhanh chóng. Nếu những vi khuẩn E. coli nào đó được đặt vào trong một môi trường sinh học khắc nghiệt cùng với nhiều loại sinh vật nguyên thủy khác có khả năng thích nghi cao hơn chúng, thì các vi khuẩn E. coli này sẽ có khả năng sao chép ADN từ những vi khuẩn có khả năng thích nghi hơn này và tích hợp chúng vào chính nó. Vào năm 1996, các bác sĩ khám phá ra một chủng vi khuẩn mới chứa các ADN dùng để tạo mã gien cho Klebsiella pneumoniae carbapenemase, hay KPC, một loại enzyme trao đổi khả năng kháng thuốc kháng sinh với vi khuẩn chủ của nó. Chủng vi khuẩn mới này được tìm thấy trong dạ dày của một bệnh nhân qua đời tại một bệnh viện ở Bắc Carolina. Nó ngay lập tức thu hút sự chú ý của các bác sĩ trên toàn thế giới khi người ta khám phá ra rằng KPC có khả năng khiến cho vi khuẩn nào hấp thụ nó có khả năng kháng lại không chỉ một vài mà toàn bộ các loại kháng sinh hiện thời. Nếu một chủng vi khuẩn độc hại (mà những anh em họ hàng vô hại của nó có mặt ở khắp nơi trong cơ thể của chúng ta) miễn nhiễm với thuốc kháng sinh được phát tán trong dân chúng, chúng sẽ có một khoảng thời gian tha hồ khám phá cơ thể loài người. Không có loại kháng sinh mới nào được phát triển trong ngành dược trong vòng mười năm trở lại có khả năng đánh bại được chúng để cứu loài người. Bác sĩ Brennan biết chỉ vài tháng trước đó, một bệnh nhân nhập viện trong tình trạng nhiễm khuẩn nặng và được điều trị bằng nhiều loại kháng sinh mạnh khác nhau nhằm kiểm soát tình trạng nhiễm khuẩn Klebsiella pneumoniae của anh ta. Nhưng bệnh tình của bệnh nhân này càng lúc càng nặng. Các kết quả kiểm tra cho thấy bệnh nhân vẫn bị nhiễm khuẩn Klebsiella pheumoniae và các loại kháng sinh đều đã không có tác dụng. Các kết quả kiểm tra sâu hơn cho thấy loại vi khuẩn sống trong ruột già của bệnh nhân đã tiếp nhận gien KPC qua sự chuyển giao plasmid trực tiếp từ vi khuẩn Klebsiella pneumoniae có khả năng kháng kháng sinh này. Hay nói cách khác, cơ thể bệnh nhân này đã trở thành một phòng thí nghiệm, nơi tạo ra một chủng vi khuẩn mà nếu được phát tán trong dân chúng thì hậu quả có thể sánh ngang với Cái chết Đen, đại dịch đã giết chết phân nửa dân số châu Âu vào thế kỷ 14. Bệnh viện nơi diễn ra tất cả những chuyện này là Trung tâm Y tế Sourasky ở Tel Aviv, Israel, và sự kiện này mới chỉ cách đó vài tháng. Thật ra, nó đã xảy ra vào khoảng thời gian tôi đang đi công tác ở đó, và một phần công việc của tôi là điều phối thực hiện một sáng kiến nghiên cứu toàn cầu về giải phẫu thần kinh bằng sóng siêu âm hội tụ. Tôi đến Jerusalem vào lúc 3 giờ 15 phút sáng và sau khi tìm được khách sạn, tôi ngẫu hứng nảy ra ý định đi bộ tới khu phố cổ. Cuối cùng, tôi đã một mình thực hiện một chuyến đi bộ trước bình minh vòng quanh khu phố cổ, trong đó có Con Đường Khổ Nạn (Via Dolorosa Street)1 và địa điểm được cho là nơi diễn ra Bữa ăn tối cuối cùng của Chúa Jesus. Chuyến đi bộ gây cho tôi một niềm xúc động lạ kỳ, và khi trở về Mỹ, tôi vẫn thường nhắc tới nó với Holley. Nhưng lúc đó, tôi không hay biết gì về bệnh nhân ở Trung tâm Y tế Sourasky hay về việc loại vi khuẩn mà bệnh nhân đó mắc phải đã tiếp nhận gien KPC. Loại vi khuẩn mới đó chính là một chủng của E. coli. 1 Con Đường Khổ Nạn là con đường được đặt tên theo những chặng đường khổ nạn của Chúa Jesus tại thành cổ Jerusalem, mô tả con đường mà Chúa Jesus đã vác thập giá và đi đến nơi bị đóng đinh và cuối cùng, Ngài sống lại ba ngày sau đó. Liệu có phải, bằng cách nào đó, tôi đã bị nhiễm loại vi khuẩn chứa KPC kháng thuốc kháng sinh trong thời gian công tác ở Israel? Điều này khó có khả năng xảy ra. Nhưng nó có thể là một lời giải thích cho tình trạng kháng thuốc rõ rệt của căn bệnh nhiễm khuẩn của tôi, và các bác sĩ bắt tay vào việc xác định xem liệu có đúng là loại vi khuẩn đó đang tấn công vào não của tôi không. Đây là lý do trước nhất trong nhiều lý do mà trường hợp của tôi sắp được ghi nhận trong lịch sử y khoa. T 9 Cốt Lõi rong lúc mọi chuyện bên ngoài đang diễn ra như thế, tôi đang ở một nơi toàn mây. Những đám mây lớn, xốp phồng, màu trắng ráng hồng hiện lên nổi bật, tương phản với nền trời màu xanh đen thăm thẳm. Cao hơn những đám mây ấy - cao đến vô cùng - là những quả cầu ánh sáng trong suốt, những sinh vật lấp lánh tụ lại thành từng đám, di chuyển thành hình vòng cung trên bầu trời, để lại phía sau chúng những vệt dài tựa như những dải cờ hiệu. Là chim ư? Hay các thiên thần? Những từ này nảy ra trong khi tôi viết lại theo trí nhớ của mình. Nhưng chẳng từ nào là đủ để miêu tả những sinh vật ấy - những sinh vật đơn giản là hoàn toàn khác biệt so với bất kỳ thực thể nào mà tôi đã từng biết đến trên hành tinh này. Chúng tiên tiến hơn. Ở một bậc cao hơn. Một thanh âm lớn, ngân vang như một khúc ca huy hoàng, vọng xuống từ bên trên, và tôi tự hỏi liệu có phải những thanh âm này được phát từ những sinh vật có cánh kia. Sau này nghĩ lại, tôi nhận ra rằng niềm hân hoan của những sinh vật ấy khi chúng được tung cánh trên bầu trời cao là quá đỗi lớn lao đến nỗi chúng không thể không thốt ra những âm thanh như thế - vì nếu niềm hân hoan dâng tràn đó không được tuôn ra bên ngoài theo cách này, thì chúng không thể nào chất chứa hết nổi niềm hân hoan ấy. Âm thanh đó chân thực như có thể xúc chạm được, gần như là một dạng vật chất, giống như một cơn mưa mà bạn có thể cảm nhận là đang rơi trên làn da của mình nhưng lại không hề làm ướt bạn. Không có sự khác biệt giữa nghe và thấy ở nơi này. Tôi có thể nghe thấy vẻ đẹp của những hình thù óng ánh bạc của những sinh vật rất đỗi hân hoan ở trên cao kia, và tôi có thể nhìn thấy được sự hoàn mỹ đầy niềm hân hoan đang trào dâng trong lời ca của chúng. Dường như bạn không thể nhìn thấy hay nghe thấy bất kỳ sự hiện hữu nào trong thế giới này nếu không trở thành một phần của nó - nếu không hòa vào nó theo một cách huyền bí nào đó. Đến đây, tôi cần nhắc lại, từ góc nhìn hiện tại của mình, tôi nghĩ rằng bạn không thể nhìn vào bất kỳ một thực thể nào trong thế giới ấy cả, bởi bản thân từ vào đã ngụ ý một sự phân tách vốn không tồn tại ở đó. Mọi thứ ở đó đều riêng biệt nhưng đồng thời, mọi thứ đều là một phần của mọi thứ khác, như những thiết kế đan xen phức tạp và phong phú trên một chiếc thảm Ba Tư... hay trên một cánh bướm. Một làn gió ấm thổi qua, giống như loại gió thường xuất hiện vào những ngày hè hoàn hảo nhất, lay động những chiếc lá trên ngọn cây và tràn qua như một dòng nước Thiên đường. Một làn gió nhẹ của xứ Thiên đường. Nó làm thay đổi mọi thứ, nâng thế giới xung quanh tôi lên thậm chí cao hơn một quãng tám, lên một tần số rung động mới. Mặc dù chức năng ngôn ngữ của tôi vẫn hầu như không hoạt động, ít nhất là theo cách mà chúng ta vẫn hiểu trên trái đất, nhưng tôi đã bắt đầu đặt ra những câu hỏi không lời với ngọn gió này, và với những sinh vật thiên thần mà tôi cảm giác được rằng làn gió đến từ đằng sau hay từ bên trong chúng. Nơi đây là đâu? Tôi là ai? Tại sao tôi lại ở đây? Mỗi khi một trong những câu hỏi này nảy sinh trong tôi dưới hình thức phi ngôn từ, câu trả lời lập tức đến theo dưới dạng một sự bùng nổ của ánh sáng, màu sắc, tình yêu thương và vẻ ộ ự g g y g đẹp, thổi xuyên qua tôi như một con sóng đang ầm ào lao tới. Điều quan trọng đáng nói là những cơn bùng nổ này không chỉ tràn qua, lấn át mọi câu hỏi của tôi và khiến chúng phải im lặng. Những cơn bùng nổ này trả lời những câu hỏi của tôi, nhưng không bằng ngôn từ. Những ý nghĩ đi thẳng vào bên trong tôi. Nhưng không phải dạng ý nghĩ mà chúng ta có trên trái đất. Không mơ hồ, phi vật chất hay trừu tượng. Những ý nghĩ này rắn, đặc và tức thời - nóng hơn cả lửa và ướt hơn cả nước - và khi tôi nhận được chúng, tôi hiểu được một cách dễ dàng và ngay lập tức những khái niệm mà lẽ ra tôi sẽ phải mất hàng năm trời để hiểu được trong cuộc sống của tôi ở trên trái đất. Tôi tiếp tục di chuyển về phía trước và thấy mình đang đi vào một khoảng trống bao la, tối mịt, vô hạn về kích thước, nhưng cũng cho một cảm giác dễ chịu vô cùng. Khoảng trống ấy dù tối đen như mực nhưng lại ngập tràn ánh sáng: một thứ ánh sáng dường như tỏa ra từ một quả cầu rực rỡ mà lúc này đây, tôi cảm thấy nó đang ở gần bên tôi. Một quả cầu chứa đựng sự sống và gần như là chất rắn, tựa như những khúc hoan ca của các thiên thần mà tôi đã nghe. Một điều lạ là, tôi trong tình thế hiện tại giống hệt như một bào thai đang ở trong tử cung. Cái bào thai này bồng bềnh trong tử cung cùng với người bạn đồng hành không lời là nhau thai, người bạn nuôi dưỡng nó và làm trung gian trong mối quan hệ của nó với người mẹ mà nó cảm nhận vừa như hiện diện ở khắp mọi nơi, lại vừa không nhìn thấy được. Trong trường hợp này, người “mẹ” chính là Chúa, là Đấng Sáng Tạo, là Nguồn Sống, chịu trách nhiệm kiến tạo ra vũ trụ và vạn vật bên trong nó. Đấng này gần gũi đến mức dường như tôi không cảm thấy chút khoảng cách nào giữa tôi và Người. Nhưng đồng thời, tôi cũng có thể cảm thấy được sự bao la vô tận của Người, cảm thấy được mình là một thực thể bé nhỏ đến nhường nào nếu mang ra so sánh. Tôi sẽ thỉnh thoảng dùng từ Om, là đại từ khi nói về Người vì tôi đã dùng tên này trong những gì tôi viết ra sau khi tỉnh dậy. “Om” là âm thanh gắn liền với Chúa đầy tình yêu thương vô điều kiện, đấng toàn năng, toàn trí mà tôi nhớ mình đã nghe thấy, nhưng mọi sự diễn đạt bằng ngôn từ đều không đủ. Tôi nhận ra rằng, sự bao la thuần khiết ngăn cách Om và tôi chính là nguyên do tại sao tôi có Quả Cầu Ánh Sáng là bạn đồng hành của mình. Bằng một cách mà tôi không hoàn toàn hiểu được nhưng lại cảm thấy chắc chắn, Quả Cầu Ánh Sáng là một kiểu “thông dịch viên” giữa tôi và sự hiện hữu phi thường đang bao trùm xung quanh mình. Như thể tôi đang được sinh vào một thế giới rộng lớn hơn, và vũ trụ giống như một cái tử cung vĩ đại, bao la, và Quả Cầu Ánh Sáng (thứ mà bằng cách nào đó vẫn còn kết nối với Cô Gái Trên Cánh Bướm - thật ra chính là cô ấy) đang dẫn lối cho tôi đi xuyên suốt quá trình này. Về sau, khi quay lại thế giới này, tôi đã tìm thấy một câu trích dẫn của một nhà thơ Thiên Chúa giáo sống ở thế kỷ 17, Henry Vaughan, miêu tả khá đúng về nơi đó - phần cốt lõi bao la, đen như mực, chính thật là nhà của Đấng Thiêng Liêng. “Người ta nói, nơi ở bên trong Chúa là bóng tối sâu thẳm nhưng sáng lòa...” Chính xác là nó: một bóng tối đen như mực nhưng cũng lại đầy ắp ánh sáng. Những câu hỏi và câu trả lời cứ nối đuôi nhau. Dù không hiện ra ở dạng ngôn ngữ như cách mà chúng ta biết,“giọng nói” của Đấng Thiêng Liêng này vẫn ấm áp và - dù nghe có vẻ kỳ quặc, tôi biết - mang tính cá nhân. Giọng nói đó hiểu rõ loài người và mang những phẩm chất mà con người chúng ta sở hữu, chỉ là theo một chuẩn mực đo lường lớn hơn vô kể. Giọng nói đó hiểu tôi sâu sắc và chứa đựng vô vàn những phẩm chất mà cả cuộc đời mình, tôi đã luôn gán cho loài người, và chỉ loài người mà thôi, đó là: sự ấm áp, lòng từ bi, lòng trắc ẩn... thậm chí cả khả năng châm biếm và óc hài hước. g Thông qua Quả Cầu Ánh Sáng, Om nói với tôi rằng không chỉ có một mà có nhiều vũ trụ - thật ra là nhiều hơn tôi có thể hình dung - nhưng tình yêu thương mà chúng ta nói đến nằm ở trung tâm của tất cả các vũ trụ. Cái ác cũng tồn tại ở tất cả mọi vũ trụ khác nữa, nhưng chỉ với một lượng vô cùng nhỏ. Cái ác là cần thiết bởi nếu không có nó thì ý chí tự do không tồn tại, và nếu không có ý chí tự do thì sẽ không có sự phát triển - không có sự dịch chuyển về phía trước, không có cơ hội để chúng ta trở thành điều mà Chúa mong mỏi đối với chúng ta. Đôi khi cái ác trở nên kinh khủng và dường như chiến thắng tất cả trong một thế giới như thế giới của chúng ta, nhưng nhìn tổng thể thì tình yêu vẫn chiếm ưu thế, và cuối cùng tình yêu sẽ luôn chiến thắng. Tôi đã thấy được sự phong phú của sự sống qua hằng hà sa số vũ trụ, bao gồm cả những vũ trụ nơi trí tuệ đã vượt xa trí tuệ của loài người. Tôi đã thấy được rằng có vô số những chiều không gian ở tầng cao hơn, nhưng cách duy nhất để biết được những chiều không gian này là tự mình bước vào và trực tiếp trải nghiệm. Không thể biết, hay hiểu được một không gian ở tầng cao từ một không gian ở tầng thấp hơn. Nhân và quả tồn tại trong những cõi giới cao hơn này, nhưng nằm ngoài ý niệm của con người trên trái đất. Thế giới của thời gian và không gian trên trái đất mà chúng ta đang sống này được đan xen một cách chặt chẽ và tinh vi bên trong những thế giới cao hơn ấy. Nói cách khác, những thế giới đó không hoàn toàn tách biệt khỏi thế giới của chúng ta, bởi mọi thế giới đều là một phần của cùng một Thực Tại Thiêng Liêng bao trùm tất cả. Từ những thế giới cao hơn này, một thực thể nào đó có thể tiếp cận bất kỳ thời gian hay không gian nào trong thế giới của chúng ta. Tôi sẽ phải mất cả phần đời còn lại của mình, và thêm một vài kiếp sống nữa, mới lĩnh hội hết những gì tôi đã học được ở nơi đó. Lượng kiến thức đó không được “truyền dạy” cho tôi theo cách mà người ta dạy một bài học lịch sử hay một định lý toán học. Từng sự khai mở nhận thức xảy đến với tôi trực tiếp thay vì phải đi qua bước thuyết giảng hay tiếp thu. Kiến thức được tích lũy ngay lập tức và vĩnh viễn mà không cần ghi nhớ. Chúng không phai nhòa đi như những thông tin thông thường được lưu giữ trong trí nhớ và cho đến hôm nay, những kiến thức đó vẫn là nhận thức của tôi, vẫn sáng rõ hơn nhiều so với những thông tin mà tôi đã tích lũy trong suốt quãng đời đi học của mình. Nói như vậy không có nghĩa là tôi có thể cứ thế tiếp cận được với những kiến thức ấy. Bởi vì bây giờ, khi đã trở lại với thế giới này, tôi phải xử lý chúng thông qua bộ não và thân thể vật lý hữu hạn của mình. Nhưng những nhận thức đó luôn ở đó. Tôi luôn cảm thấy nó, luôn hiện hữu ở ngay bên trong tôi. Đối với một người như tôi, dành cả cuộc đời mình để tích lũy kiến thức và học hỏi theo cách thức truyền thống, chỉ riêng việc khám phá ra sự tồn tại của một tầng hiểu biết cao hơn cũng đã cung cấp cho tôi một nguồn “thức ăn cho tư duy” đủ dùng trong nhiều niên kỷ tới... Thật không may là đối với gia đình và các bác sĩ của tôi ở trái đất, tình cảnh của tôi hoàn toàn không khả quan như vậy. 10 Điều thật sự quan trọng H olley nhận thấy ngay rằng các bác sĩ đã tỏ ra đặc biệt quan tâm khi cô ấy đề cập đến chuyến đi đến Israel của tôi. Nhưng dĩ nhiên, cô ấy không hiểu tại sao chuyện đó lại quan trọng đến thế. Nghĩ lại, thật may là cô ấy đã không biết tại sao. Chỉ riêng việc phải đối mặt với khả năng rằng tôi có thể không qua khỏi đã là một gánh nặng rồi, nói gì đến khả năng rằng tôi có thể trở thành ca đầu tiên được ghi nhận mắc phải một loại bệnh truyền nhiễm của thế kỷ 21, tương đương với bệnh dịch hạch đã gây ra Cái chết Đen. Trong lúc đó, những cuộc gọi báo tin cho bạn bè và người thân vẫn tiếp tục. Bao gồm cả những người thân ruột thịt của tôi. Khi còn là một cậu bé, tôi tôn thờ cha mình. Ông là người quản lý của Trung tâm Y tế Wake Forest của Hội thánh Báp-tít ở Winston-Salem trong hai mươi năm. Tôi chọn theo ngành giải phẫu thần kinh theo hướng học thuật vì muốn đi theo con đường mà cha mình đã đi, học hỏi ở ông nhiều nhất có thể, dù tôi biết rằng mình sẽ chẳng bao giờ có thể được như ông. Cha tôi là một người có đời sống tâm linh sâu sắc. Ông phục vụ trong Lực lượng Không quân với vai trò một bác sĩ giải phẫu tại những khu rừng rậm ở New Guinea và Philippines trong Thế chiến thứ hai. Ông đã chứng kiến sự tàn bạo và những nỗi đau, và bản thân ông cũng trải qua nhiều đau đớn. Ông kể cho tôi nghe về những đêm thức trắng để mổ cho những người lính bị thương trong những căn lều xiêu vẹo dưới cơn mưa gió mùa, về những ngày cực kỳ oi bức và ẩm ướt ngột ngạt, đến nỗi các bác sĩ giải phẫu phải cởi bỏ quần áo, chỉ chừa lại đồ lót mới có thể chịu đựng được. Cha đã cưới tình yêu đích thực của đời mình (là con gái của vị sĩ quan chỉ huy của ông), Betty, vào tháng Mười năm 1942, khi ông đang tham gia một khóa huấn luyện ở Mặt trận Thái Bình Dương. Ở giai đoạn cuối của cuộc chiến, ông ở trong lực lượng tiên phong của quân Đồng minh chiếm đóng Nhật Bản sau khi Hoa Kỳ thả bom hạt nhân xuống Hiroshima và Nagasaki. Là bác sĩ giải phẫu thần kinh duy nhất trong quân đội Mỹ ở Tokyo, một cách nghiễm nhiên, ông trở thành một người không thể thiếu. Ông được công nhận là bác sĩ giải phẫu cả ba chuyên khoa - tai, mũi, và họng. Tất cả những năng lực được công nhận này đảm bảo rằng ông sẽ chẳng thể đi được bất kỳ đâu trong một thời gian dài. Vị sĩ quan chỉ huy mới của ông sẽ không cho phép ông quay về Mỹ cho đến khi tình hình “ổn định hơn”. Vài tháng sau khi người Nhật chính thức đầu hàng trên chiến hạm Missouri ở Vịnh Tokyo, cuối cùng cha tôi cũng nhận được quân lệnh cho phép ông được về nhà. Tuy nhiên, ông biết rằng vị sĩ quan chỉ huy trực tiếp thể nào cũng sẽ bãi bỏ quân lệnh này nếu ông ta nhìn thấy nó. Vì vậy, cha tôi đợi đến cuối tuần, khi vị sĩ quan chỉ huy đi nghỉ phép ở ngoài doanh trại, để đưa quân lệnh này cho người sĩ quan chỉ huy tạm quyền duyệt. Cuối cùng, ông cũng đáp được chuyến tàu về nhà vào tháng Mười Hai năm 1945, rất lâu sau khi những đồng đội của ông đã về với gia đình họ. Sau khi trở về Mỹ vào đầu năm 1946, cha tôi tiếp tục hoàn tất chương trình huấn luyện về giải phẫu thần kinh của mình cùng với một người bạn, đồng thời cũng là bạn cùng lớp với ông ở Trường Y khoa Harvard, Donald Matson, người đã phục vụ ở Mặt trận châu Âu. Họ trải qua thời gian huấn luyện tại Bệnh viện Peter Bent Brigham và Bệnh viện Nhi ở Boston (những bệnh viện hàng đầu của Trường Y khoa Harvard) dưới sự hướng dẫn của tiến sĩ Franc D. Ingraham, một trong những bác sĩ nội trú cuối cùng được đào tạo bởi tiến sĩ Harvey Cushing, người được biết đến trên toàn thế giới với vai trò là cha đẻ của bộ môn giải phẫu thần kinh hiện đại. Vào những thập niên 1950 và 1960, toàn bộ đội ngũ bác sĩ giải phẫu thần kinh “3131C” (theo cách phân loại chính thức của Lực lượng Không quân), những người đã mài giũa tay nghề của mình trên các mặt trận ở châu Âu và Thái Bình Dương, đã đặt ra chuẩn mực mới cho các bác sĩ giải phẫu thần kinh trong nửa thế kỷ tiếp theo, bao gồm cả những người thuộc thế hệ của tôi. Cha mẹ tôi lớn lên trong Thời kỳ Suy thoái và buộc phải làm việc vất vả. Cha tôi luôn về nhà vừa kịp giờ cơm tối vào lúc bảy giờ. Ông thường dùng cơm tối khi vẫn còn đang mặc bộ đồ vest và thắt cà vạt, đôi khi ông còn mặc nguyên bộ đồ phẫu thuật. Rồi ông quay lại bệnh viện, và thường cho một trong chúng tôi đi theo, ngồi làm bài tập về nhà trong văn phòng của ông trong khi ông đi thăm bệnh nhân. Đối với cha tôi, cuộc sống và công việc về cơ bản là như nhau, và ông cũng nuôi dạy chúng tôi theo cách này. Ông thường bắt mấy chị em tôi làm việc ngoài vườn vào những ngày Chủ nhật. Nếu chúng tôi nói với ông rằng chúng tôi muốn đi xem phim, ông sẽ đáp: “Nếu các con đi xem phim thì ai đó khác sẽ phải làm việc thay các con”. Ông cũng là một người có tính ganh đua quyết liệt. Khi ở trên sân bóng quần, ông xem mỗi trận đấu như một “trận tử chiến”, và ngay cả khi đã ngoài tám mươi, ông vẫn luôn tìm kiếm những đối thủ mới, nhiều khi trẻ hơn ông mấy chục tuổi. Ông là một người cha luôn yêu cầu cao nhưng là một người cha tuyệt vời. Ông đối xử với mỗi người ông gặp với thái độ tôn trọng và luôn mang theo trong túi áo choàng trắng của mình một chiếc tuốc-nơ-vít để có thể siết lại những chiếc đinh ốc mà ông thấy bị lỏng trong khi đi thăm bệnh nhân trong bệnh viện. Các bệnh nhân của ông, các bác sĩ đồng nghiệp, y tá và toàn bộ nhân viên bệnh viện đều quý mến ông. Dù cho đó là việc giải phẫu cho bệnh nhân, giúp đỡ ý kiến để phát triển việc nghiên cứu, huấn luyện bác sĩ giải phẫu thần kinh (niềm đam mê đặc biệt của ông), hay biên tập tạp chí Thần kinh học giải phẫu (công việc mà ông làm trong nhiều năm), cha tôi luôn nhìn nhận rõ ràng vị trí của những công việc đó trên lộ trình mà ông đang đi trong cuộc đời mình. Ngay cả khi ông đã bảy mươi mốt tuổi, không còn ở độ tuổi có thể thực hiện những cuộc giải phẫu nữa, ông vẫn tiếp tục cập nhật những phát triển mới nhất trong lĩnh vực của mình. Sau khi ông mất vào năm 2004, cộng sự lâu năm của ông, tiến sĩ David L. Kelly, đã ghi lại dòng lưu niệm: “Tiến sĩ Alexander sẽ luôn luôn được nhớ đến bởi lòng nhiệt huyết và tài năng, sự bền bỉ, tỉ mỉ, lòng trắc ẩn, tính trung thực, và sự xuất sắc trong tất cả những việc ông làm”. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi, cũng như bao nhiêu người khác, tôi tôn thờ ông. Cách nay đã rất lâu, lâu đến nỗi tôi không nhớ được là khi nào, cha mẹ tôi đã nói với tôi rằng tôi là con nuôi (hay, như cách cha mẹ nói để trấn an tôi, tôi “được chọn”, bởi vì ngay lúc nhìn thấy tôi, họ đã biết tôi chính là con của họ). Họ không phải là cha mẹ ruột của tôi, nhưng họ thương yêu tôi vô cùng, như thể tôi là máu mủ của họ. Từ nhỏ, tôi đã biết rằng mình được nhận nuôi vào tháng Tư năm 1954, lúc bốn tháng tuổi, và mẹ ruột của tôi lúc đó mười sáu tuổi - là một học sinh năm thứ hai ở trường trung học - và chưa kết hôn khi bà sinh ra tôi vào năm 1953. Bạn trai của bà là một học sinh năm cuối và tương lai trước mắt không cho thấy triển vọng là có khả năng nuôi nấng một đứa con, nên dù không muốn nhưng ông cũng đồng ý cho tôi làm con nuôi. Tôi sớm được biết những việc này nên nó đơn thuần là một phần của chính tôi. Tôi chấp nhận và không hề thắc mắc, cũng như về việc tóc của tôi màu đen tuyền và tôi thích ăn bánh mì kẹp thịt chứ không thích ăn súp lơ. Tôi yêu cha mẹ nuôi như cha mẹ ruột của mình, và rõ ràng họ cũng thương yêu tôi như vậy. Jean, chị của tôi, cũng được nhận nuôi, nhưng năm tháng sau khi tôi được nhận nuôi, mẹ lại có khả năng thụ thai. Bà sinh một bé gái - là em gái Betsy của tôi - và năm năm sau, em gái út Phyllis ra đời. Chúng tôi là anh chị em một cách trọn vẹn, với mọi ý nghĩa và mục đích. Tôi biết rằng dù tôi có xuất thân từ đâu đi chăng nữa, tôi luôn là anh-em trai của họ và họ luôn là chị-em gái của tôi. Tôi lớn lên trong một gia đình không chỉ thương yêu tôi, mà còn tin tưởng và ủng hộ tôi thực hiện những ước mơ của mình. Trong đó có cả giấc mơ mà tôi đã ôm ấp từ khi học trường trung học và tôi chưa bao giờ có ý định từ bỏ cho đến khi ước mơ đó biến thành sự thật: trở thành một bác sĩ giải phẫu thần kinh giống như cha tôi. Tôi không nghĩ gì về việc tôi được nhận nuôi trong suốt những năm ở trường đại học và trường y - ít nhất là trong suy nghĩ thoáng qua. Tôi có một vài lần tìm đến Hiệp hội Mái nhà cho trẻ (Children’s Home Society) của bang Bắc Carolina để tìm hiểu xem liệu mẹ ruột của tôi có chút mong muốn nào về việc đoàn tụ với tôi không. Nhưng Bắc Carolina có những luật lệ nghiêm ngặt nhất nước Mỹ về việc bảo vệ bí mật danh tính của những người được nhận nuôi và cha mẹ ruột của họ, dù họ có tha thiết mong muốn liên lạc lại với cha mẹ mình đến đâu đi nữa. Khi sắp bước vào độ tuổi ba mươi, tôi ngày càng ít khi nghĩ về việc này. Rồi khi tôi gặp Holley và chúng tôi bắt đầu xây dựng gia đình riêng của mình, thắc mắc của tôi về việc này lại càng trôi xa khỏi tôi. Hay việc đi sâu hơn vào bên trong. Năm 1999, khi chúng tôi vẫn đang sống ở Massachusetts và Eben IV được mười hai tuổi, thằng bé tham gia vào một dự án nhỏ về dòng dõi gia đình ở trường Charles River, nơi nó đang học lớp sáu. Thằng bé biết tôi được nhận nuôi, và như vậy là nó có những người họ hàng cùng huyết thống sống trên trái đất này mà nó chưa từng gặp mặt, hoặc thậm chí là không biết tên. Dự án này khơi dậy điều gì đó ở bên trong Eben IV - một sự tò mò sâu sắc mà cho đến thời điểm đó, thằng bé không hề biết là nó luôn có ở bên trong mình. Eben IV hỏi tôi rằng liệu chúng tôi có thể tìm cha mẹ đẻ của tôi không. Tôi nói với con rằng trong suốt những năm qua, tôi vẫn thỉnh thoảng nghĩ đến việc này, liên lạc với Hiệp hội Mái nhà cho trẻ ở Bắc Carolina và dò hỏi xem liệu họ có tin tức gì không. Nếu cha hay mẹ ruột của tôi có ý muốn liên lạc, hiệp hội sẽ biết. Nhưng tôi chưa từng nghe được tin tức gì cả. Tôi không buồn vì điều đó. “Trong hoàn cảnh như thế này thì đây là việc hoàn toàn bình thường”, tôi nói với Eben. “Điều này không có nghĩa là mẹ ruột của cha không yêu thương cha, không có nghĩa là bà sẽ không yêu thương con nếu nhìn thấy con đâu. Nhưng bà không muốn, rất có thể vì bà cảm thấy rằng cha con mình đã có gia đình riêng của mình và bà không muốn xen vào.” Dù vậy, Eben vẫn không chịu từ bỏ, nên cuối cùng tôi nghĩ mình nên giúp con. Tôi viết một lá thư cho một nhà hoạt động xã hội tên là Betty ở Hiệp hội Mái nhà cho trẻ, người đã từng giúp tôi giải đáp những yêu cầu và thắc mắc của tôi trước đây. Vài tuần sau, một buổi chiều thứ Sáu tuyết rơi vào tháng Hai năm 2000, khi tôi và Eben IV đang chạy xe từ Boston đến Maine để trượt tuyết cuối tuần thì tôi chợt nhớ ra là tôi phải gọi điện cho Betty để hỏi xem mọi chuyện tiến triển đến đâu. Tôi gọi di động cho Betty và cô ấy nhấc máy. “Ừm, thật ra”, Betty nói, “đúng là tôi có vài tin cho anh. Anh có đang ngồi ở đâu đó không?” Đúng là tôi đang ngồi, vì vậy tôi trả lời là có mà không nói đến việc tôi đang lái xe qua một cơn bão tuyết. “Tiến sĩ Alexander ạ, hóa ra là cha mẹ ruột của anh thật ra đã kết hôn với nhau.” Tim tôi đập mạnh trong lồng ngực, và con đường trước mặt bỗng nhiên trở nên hư ảo và xa vời vợi. Dù đã biết rằng cha mẹ ruột của tôi yêu nhau, từ trước đến nay tôi vẫn nghĩ rằng khi họ quyết định cho tôi đi thì cuộc sống của họ cũng chia hai ngả. Ngay lập tức trong đầu tôi hiện ra một hình ảnh. Hình ảnh cha mẹ ruột của tôi và một mái nhà mà họ đã cùng dựng nên ở đâu đó. Một mái nhà mà tôi đã không hề biết tới. Một mái nhà - nơi mà tôi không thuộc về. Betty cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi. “Tiến sĩ Alexander?” “Vâng”, tôi nói chậm rãi, “tôi đây.” “Còn nữa.” Trước sự ngạc nhiên của Eben, tôi dừng xe lại bên lề đường và nói Betty hãy tiếp tục. “Cha mẹ anh có thêm ba người con nữa: hai gái và một trai. Tôi đã liên lạc với người chị và cô ấy nói rằng em gái của cô ấy đã mất cách đây hai năm. Cha mẹ anh vẫn còn đau khổ về mất mát ấy.” “Vậy có nghĩa là...?”. Tôi hỏi sau một hồi lâu im lặng, vẫn sững sờ, tiếp nhận mọi thông tin mà không thật sự tiếp thu được gì. “Tôi lấy làm tiếc, tiến sĩ Alexander, nhưng đúng là như vậy - có nghĩa là họ từ chối yêu cầu liên lạc của anh.” Eben di chuyển ở băng ghế sau lưng tôi; thằng bé biết chắc có chuyện gì đó quan trọng vừa xảy ra nhưng không đoán được là chuyện gì. “Chuyện gì vậy cha?”, thằng bé hỏi sau khi tôi cúp máy. “Cũng không có gì”, tôi đáp. “Họ vẫn không biết gì nhiều, nhưng họ đang cố gắng. Có thể phải đợi thêm một thời gian nữa. Có lẽ vậy...” Nhưng giọng tôi nhỏ dần. Bên ngoài, cơn bão đang mạnh lên rõ rệt. Tầm nhìn của tôi chỉ còn trong khoảng chín mươi mét ở phía trước, nơi cánh rừng cây thấp tuyết phủ trắng xóa trải ra xung quanh chúng tôi. Tôi gài số, nheo mắt nhìn thật kỹ vào kính chiếu hậu và lui xe trở lại đường chính. Trong khoảnh khắc, cái nhìn của tôi về chính mình đã hoàn toàn thay đổi. Sau cuộc nói chuyện điện thoại đó, dĩ nhiên, tôi vẫn là mình trước đây trong mọi mặt: vẫn là một nhà khoa học, một bác sĩ, một người cha, một người chồng. Nhưng, lần đầu tiên trong đời, tôi cũng thấy mình là một đứa trẻ mồ côi nữa. Một người đã bị cho đi. Một người hoàn toàn không được mong muốn. Trước cuộc điện thoại đó, tôi chưa khi nào từng nghĩ về mình theo cách đó - là một người bị cắt lìa khỏi nguồn cội của mình. Tôi chưa từng bao giờ định nghĩa mình trong một bối cảnh mà tôi là người mất đi một thứ mà không có cách nào lấy lại được. Nhưng đột nhiên, nó lại là điều duy nhất mà tôi có thể nhìn thấy về bản thân mình. Trong vài tháng sau đó, trong tôi luôn tràn ngập một nỗi buồn: nỗi buồn như một con sóng lớn luôn đe dọa sẽ ào tới, nhấn chìm tất cả những gì tôi đã nỗ lực hết sức để gầy dựng cả cuộc đời mình cho đến thời điểm đó. Tình huống này của tôi càng tệ hơn khi tôi cảm thấy bất lực vì không thể hiểu được tường tận nguyên do của điều này. Bản thân tôi trước đây cũng từng đối mặt với những vấn đề - những khiếm khuyết, như cách tôi nhìn nhận - và tôi đã sửa chữa chúng. Ví dụ như khi ở trường y và trong thời gian đầu khi mới trở thành bác sĩ giải phẫu, tôi đã từng theo truyền thống đạo đức khi cho rằng dù trong những hoàn cảnh thích đáng thì uống rượu vẫn là hành vi đáng bị chê cười. Nhưng vào năm 1991, tôi bắt đầu nhận ra rằng tôi thường trông ngóng đến ngày nghỉ để có dịp uống vài ly, và mong muốn đó có phần thôi thúc. Tôi quyết định rằng đã đến lúc tôi phải ngừng hẳn việc uống rượu. Việc này chưa bao giờ là dễ dàng - tôi đã trở nên lệ thuộc vào cảm giác thoải mái mà những giờ phút nghỉ ngơi đó mang lại, nhiều hơn tôi biết - và tôi chỉ có thể vượt qua được tình trạng nghiện đó khi chưa quá muộn nhờ vào sự hỗ trợ của gia đình mình. Vậy nên, tình huống tôi đang gặp cũng là một vấn đề, rõ ràng là tôi phải chịu trách nhiệm. Nếu chọn cách nhờ vả, tôi có thể được giúp đỡ. Tại sao tôi lại không giải quyết nó ngay từ đầu? Thật vô lý khi chỉ một mẩu thông tin về quá khứ của mình - một mẩu thông tin mà tôi hoàn toàn không thể kiểm soát - lại có thể khiến tôi lạc lối cả trong cảm xúc và sự nghiệp đến vậy. Thế là tôi bắt đầu cố gắng tìm lối thoát. Tôi quan sát và không ngờ rằng vai trò bác sĩ, người cha, người chồng của tôi lại có lúc trở nên khó hoàn thành đến thế. Thấy tôi đang trên đà xuống dốc, Holley thu xếp để chúng tôi tham gia vào một khóa tư vấn dành cho các cặp đôi. Dù chỉ phần nào hiểu được nguyên nhân của chuyện này, cô ấy vẫn tha thứ cho việc tôi để mình rơi vào hố sâu tuyệt vọng và làm tất cả những gì có thể để kéo tôi ra khỏi nó. Tình trạng trầm cảm của tôi ảnh hưởng tới công việc. Tất nhiên là cha mẹ tôi cũng nhận thấy sự thay đổi này, và dù tôi biết rằng họ sẽ bỏ qua chuyện đó, nhưng điều đau lòng nhất với tôi là sự nghiệp của tôi trong ngành giải phẫu thần kinh học thuật đang tụt dốc - và tất cả những gì họ có thể làm là chỉ đứng ngoài quan sát. Nếu tôi không chủ động vượt ra khỏi hoàn cảnh của mình, gia đình tôi dù muốn giúp tôi cũng đành bất lực. Và cuối cùng, tôi quan sát khi nỗi buồn mới này phơi bày rồi lại cuốn phăng đi một thứ khác: niềm hy vọng cuối cùng của tôi, niềm hy vọng mà tôi không hoàn toàn thừa nhận, về sự tồn tại của một yếu tố riêng tư, gần gũi nào đó trong vũ trụ này - một sức mạnh nào đó vượt lên trên những sức mạnh khoa học đã biết mà tôi đã dành hàng năm trời để nghiên cứu. Nếu nói theo một cách không quá học thuật và khô khan thì nỗi buồn này đã cuốn phăng đi niềm tin cuối cùng của tôi rằng, ở ngoài kia có thể có một Hữu Thể nào đó thật sự yêu thương và quan tâm đến tôi - và rằng những lời cầu nguyện của tôi sẽ được nghe thấy, và thậm chí được hồi đáp. Sau cuộc điện thoại trong trận bão tuyết đó, một ý niệm hằng có trong tôi hoàn toàn tan biến; ý niệm về một Đức Chúa gần gũi, đầy tình yêu thương - ở một mức độ nào đó, vốn dĩ là đặc quyền khi sinh ra đời của tôi, một giáo dân ngoan đạo và theo truyền thống một lòng tôn kính Chúa. Liệu có một sức mạnh hay trí tuệ nào đó đang dõi theo tất cả chúng ta, quan tâm đến chúng ta bằng một tình yêu thật sự? Thật kinh ngạc khi cuối cùng phải thừa nhận rằng mặc cho mọi nền tảng đào tạo và kinh nghiệm y khoa của mình, rõ ràng là tôi vẫn quan tâm sâu sắc đến câu hỏi này, dù chỉ ngấm ngầm, y như tôi đã từng ngấm ngầm tò mò về cha mẹ ruột của mình, hơn rất nhiều so với những gì tôi biểu hiện ra. Thật không may, câu trả lời cho cả hai câu hỏi, về sự tồn tại của một Hữu Thể yêu thương hay liệu cha mẹ ruột của tôi có thể nào mở rộng cuộc đời và trái tim của họ ra cho tôi một lần nữa không. Câu trả lời là không. 11 Kết thúc vòng xoáy đi xuống T rong suốt bảy năm tiếp theo, cả sự nghiệp và cuộc sống gia đình của tôi tiếp tục chịu nhiều hệ lụy. Suốt một thời gian dài, những người quanh tôi - kể cả những người gần gũi tôi nhất - vẫn không rõ được nguyên nhân vấn đề của tôi là gì. Nhưng dần dà, qua những câu nói bất chợt của tôi, Holley và các chị em gái của tôi cũng liên kết lại và nghiệm ra được. Cuối cùng, trong một dịp cả gia đình đi nghỉ vào tháng Bảy năm 2007, trong một buổi đi dạo sớm đón bình minh trên một bờ biển ở bang Nam Carolina, Betsy và Phyllis đề cập đến chuyện này. “Anh có nghĩ rằng nên viết thêm một lá thư nữa cho gia đình ruột thịt của mình không?”, Phyllis hỏi. “Đúng đó”, Betsy góp thêm vào. “Có khi mọi chuyện bây giờ đã khác trước, anh không biết được đâu.” Gần đây, Betsy có chia sẻ với chúng tôi rằng cô ấy cũng muốn nhận nuôi một đứa trẻ, vì vậy tôi cũng không quá ngạc nhiên khi chủ đề này được khơi ra. Tuy vậy, phản ứng tức thời của tôi, chỉ trong đầu chứ không nói ra, là: Ôi, lại nữa rồi! Tôi còn nhớ bảy năm trước, khi tôi đối mặt với sự chối bỏ ấy, mặt đất dưới chân tôi như nứt gãy, lộ ra một vực thẳm sâu hun hút. Nhưng tôi biết Betsy và Phyllis đều có ý tốt. Họ biết tôi đang đau khổ; rốt cuộc họ cũng thấy ra được nguyên nhân tại sao và họ mong muốn, một mong muốn chính đáng, rằng tôi phải bước lên trước và tìm cách giải quyết vấn đề. Họ trấn an tôi rằng họ sẽ ở cạnh tôi trên chặng đường khó khăn này, rằng tôi sẽ không phải chịu đựng một mình, như đã từng trước đây. Chúng tôi là một đội. Vì vậy, vào đầu tháng Tám năm 2007, tôi viết một lá thư không để tên người gửi cho cô em ruột của mình, người đóng vai trò then chốt trong vấn đề này, và nhờ Betty ở Hiệp hội Mái nhà cho trẻ của bang Bắc Carolina chuyển hộ: Em gái thân mến, Anh mong có thể liên lạc với em, em trai và cha mẹ của chúng ta. Sau một cuộc nói chuyện dài với các chị em và mẹ nuôi của anh, sự ủng hộ và nhiệt tâm của họ khơi dậy lại trong anh niềm mong mỏi được biết nhiều hơn về gia đình ruột thịt của mình. Hai con trai của anh, một đứa chín tuổi và một đứa mười chín tuổi, cũng muốn được biết về cội nguồn của chúng. Cả ba cha con anh và chị dâu của em sẽ rất biết ơn em nếu em cảm thấy đủ thoải mái để chia sẻ bất kỳ thông tin nào về gia đình mình với anh. Về phần mình, những điều anh muốn biết là về cha mẹ ruột của mình, về cuộc sống của họ từ thời còn trẻ cho đến bây giờ. Anh cũng muốn biết về mọi người trong gia đình, tính cách và sở thích mỗi người ra sao. Vì tất cả chúng ta đều đang già đi, hy vọng của anh là sớm được gặp mặt mọi người. Việc gặp mặt có thể được sắp xếp theo sự đồng thuận của tất cả mọi người. Anh muốn em biết rằng anh vô cùng tôn trọng mức độ riêng tư mà mọi người muốn giữ gìn. Anh đã có một gia đình với cha mẹ nuôi tuyệt vời và anh biết ơn quyết định của cha mẹ ruột của mình khi họ còn trẻ. Mong ước của anh là chân thành và anh sẽ thuận theo bất cứ giới hạn nào mà cha mẹ và các em cho là cần thiết. Anh vô cùng biết ơn sự cân nhắc của em về vấn đề này. Chân thành, Anh trai của em Vài tuần sau đó, tôi nhận được một lá thư từ Hiệp hội Mái nhà cho trẻ từ em gái ruột của tôi. “Vâng, cả nhà đều rất muốn gặp anh”, cô ấy viết. Luật của bang Bắc Carolina cấm cô ấy tiết lộ bất kỳ thông tin nào khiến tôi có thể xác định danh tính của cô, nhưng bằng cách khéo léo để không vi phạm những tham số, cô ấy đã cho tôi những manh mối thật sự đầu tiên về gia đình ruột thịt mà tôi chưa từng gặp mặt của mình. Khi cô ấy nói với tôi rằng cha ruột của tôi từng là một phi công hải quân ở Việt Nam, tôi gần như choáng váng: hèn gì mà tôi đã luôn yêu thích môn nhảy dù và lái tàu lượn. Tôi càng sửng sốt hơn nữa khi biết rằng cha ruột của tôi cũng là một phi hành gia được NASA đào tạo trong giai đoạn thực hiện các sứ mệnh Apollo vào giữa thập niên 1960 (bản thân tôi cũng từng cân nhắc việc tham gia khóa huấn luyện chuyên gia cho hành trình tàu con thoi vào năm 1983). Sau này, cha ruột của tôi làm phi công cho hai hãng hàng không Pan Am và Delta. Vào tháng Mười năm 2007, cuối cùng tôi cũng gặp được cha mẹ ruột của mình, Ann và Richard, và các em ruột, Kathy và David. Mẹ ruột Ann kể cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện vào năm 1953, khi bà trải qua ba tháng tại Mái ấm Florence Crittenden dành cho các bà mẹ chưa kết hôn, ở kế bên Bệnh viện Tưởng niệm Charlotte. Tất cả các cô gái ở đó đều có mật danh, và vì yêu thích lịch sử nước Mỹ nên bà chọn tên Virginia Dare - là tên gọi của đứa trẻ đầu tiên được sinh ra ở Tân Thế Giới bởi những người định cư đến từ Anh. Hầu hết các cô gái khác chỉ gọi bà là Dare. Khi đó bà chỉ mới mười sáu tuổi và là cô gái nhỏ tuổi nhất ở đó. Bà kể cho tôi nghe rằng cha của bà sẵn lòng làm bất cứ điều gì để giúp đỡ bà, khi ông biết về “vấn đề nan giải” của bà. Ông sẵn lòng đưa cả gia đình chuyển đi nơi khác sống nếu cần thiết. Ông đã thất nghiệp một thời gian, nên việc mang một đứa trẻ về nhà nuôi nấng sẽ là một gánh nặng lớn về tài chính, chưa kể vô số vấn đề khác nữa. Một người bạn thân của ông thậm chí còn gợi ý một bác sĩ mà ông ấy biết ở Dillon, bang Nam Carolina, người có thể “xử lý mọi chuyện”. Nhưng mẹ của bà không muốn nghe về cách đó. Ann kể cho tôi nghe rằng bà từng ngước nhìn lên những vì sao nhấp nháy đến hoa cả mắt trong những cơn gió mạnh của đợt không khí lạnh mới ùa về vào cái đêm tháng Mười Hai giá rét năm 1953 ấy, rằng bà đã đi bộ qua bao nhiêu con phố vắng bên dưới những đám mây thấp rải rác đang lướt băng băng qua. Trong giờ phút đó, bà chỉ muốn được ở một mình, với mặt trăng và những vì sao, và với đứa con sắp sửa chào đời của bà - là tôi. “Vầng trăng khuyết vẫn còn lơ lửng ở phía tây bầu trời. Sao Mộc chỉ vừa ló lên, sáng rực và dõi theo chúng ta suốt đêm. Richard yêu khoa học và thiên văn học, và sau này ông ấy nói với mẹ rằng sao Mộc ở vị trí xung đối vào đêm đó, và phải gần chín năm sau, nó mới lại chiếu sáng rực. Trong suốt chín năm đó, nhiều việc đã xảy đến trong cuộc đời của cha mẹ, trong đó có sự ra đời của hai đứa trẻ nữa. “Nhưng trong giờ phút đó, mẹ chỉ nhìn lên bầu trời và nghĩ rằng Vua Của Các Hành Tinh hiện ra đẹp đẽ và rực rỡ làm sao, và đang dõi theo chúng ta từ bên trên.” Khi bà bước vào tiền sảnh của bệnh viện, một ý nghĩ kỳ diệu chợt nảy ra trong trí bà. Các cô gái thường ở lại Mái ấm Crittenden hai tuần sau khi sinh em bé, rồi sau đó sẽ trở về nhà để tiếp tục cuộc sống của mình như trước kia. Nếu quả thật bà sẽ hạ sinh tôi vào đêm hôm ấy, bà và tôi sẽ về nhà vào dịp Giáng sinh - nếu họ thật sự để cho bà về sau hai tuần. Sẽ là một điều kỳ diệu nếu mọi chuyện diễn ra đúng như vậy: bà được mang tôi về nhà đúng vào ngày Giáng sinh. “Bác sĩ Crawford chỉ vừa mới đỡ đẻ xong cho một ca nên trông ông mệt mỏi kinh khủng”, Ann kể với tôi. Ông ấy đặt lên mặt bà một miếng gạc thấm ête để gây tê nhưng vẫn giữ cho bà tỉnh táo và cuối cùng, vào lúc 2 giờ 42 phút sáng, bà đã hạ sinh đứa con đầu lòng sau đợt rặn cuối cùng. Ann kể với tôi rằng bà đã tha thiết muốn được ôm ấp và âu yếm tôi đến thế nào, và bà sẽ không bao giờ quên rằng bà đã nghe tiếng khóc của tôi cho đến khi cơn mệt mỏi cùng với tác dụng của thuốc gây mê cuối cùng cũng làm bà lịm đi. Trong bốn giờ tiếp theo đó, đầu tiên là sao Hỏa, rồi sao Thổ, sao Thủy, và cuối cùng là sao Kim sáng rực, lần lượt mọc lên ở phía đông bầu trời, chào đón tôi đến với thế giới này. Trong lúc đó, Ann đã có một giấc ngủ thật sâu, giấc ngủ sâu nhất bà có được trong nhiều tháng. Cô y tá đánh thức bà dậy trước khi mặt trời mọc. “Có một người mà tôi muốn cô gặp”, cô ấy nói rất hào hứng rồi đưa tôi, lúc đó được quấn trong chiếc chăn màu xanh da trời, cho bà ngắm. “Tất cả các y tá đều đồng ý rằng con là đứa trẻ xinh đẹp nhất bệnh viện. Mẹ vô cùng sung sướng và hãnh diện.” Dù rất muốn được giữ tôi bên mình, nhưng bà nhanh chóng phải đối diện với thực tế phũ phàng. Richard luôn mơ được đi học đại học, nhưng để nuôi dưỡng được những giấc mơ đó, họ sẽ không thể nào nuôi nổi tôi. Có lẽ vì cảm nhận được nỗi đau của Ann nên tôi bỏ ăn. Khi được mười một ngày tuổi, tôi phải nhập viện với chẩn đoán “không tăng trưởng”, và tôi phải trải qua Giáng sinh đầu tiên của mình và chín ngày tiếp theo trong bệnh viện ở Charlotte. Sau khi tôi nhập viện, Ann bắt chuyến xe buýt hai tiếng về phía bắc để về nhà mình ở một thị trấn nhỏ. Bà đón Giáng sinh cùng