🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Mê Tông Chi Quốc Tập 2: Ma Vực Lâu Lan Ebooks Nhóm Zalo Mục lục • CHƯƠNG 1: NHIỄU ĐỘNG TRỜI TRONG • Chương 1.1: Tá Thanh Hoàn Hồn • Chương 1.2: Tín Hiệu Đứt Đoạn • Chương 1.3: Đào thoát khỏi núi Dã Nhân • Chương 1.4: Viêm não • Chương 1.5: Ma Trống • Chương 1.6: Da chuột bách niên • Chương 1.7: Máy bay Ilyushin • Chương 1.8: Đáp xuống sa mạc Kumtag • Chương 2: CÁT LÚN BỐC HƠI • Chương 2.1: Nông trường khai hoang số 34 • Chương 2.2: Đèn Cacbua • Chương 2.3: Hoang mạc • Chương 2.4: Bích họa • Chương 2.5: Vương lăng • Chương 2.6: Phân đội khoan thăm dò Karamay mất tích • Chương 2.7: Phân rã • Chương 2.8: Hắc Môn • Chương 2.9: Mũ bấc Pith Helmet • CHƯƠNG 3: VẬT CHẤT HẮC ÁM • Chương 3.1: Cửa sổ núi • Chương 3.2: Bảo cốt • Chương 3.3: Địa áp • Chương 3.4: Đáy Hàn Sơn dưới âm tuyền • Chương 3.5: Bạch tạng • Chương 3.6: Long ấn • Chương 3.7: Dòng sông không có điểm tận cùng • Chương 3.8: Điện thoại từ thạch Aφ53 • CHƯƠNG 4: LIÊN XÔ CHẾ TẠO • Chương 4.1: Rừng rậm than đá • Chương 4.2: Nhân tố ngẫu nhiên • Chương 4.3: Viễn thám tầng sâu • Chương 4.4: Trạm thám trắc trung tâm • Chương 4.5: Liên lạc với ma • Chương 4.6: Đường dây màu trắng • Chương 4.7: Sự hi sinh vĩ đại vì mục đích vĩ đại • Chương 4.8: Thời gian trước đây • Chương 4.9: Cơn ác mộng không động • CHƯƠNG 5 – CÁCH VỎ TRÁI ĐẤT MƯỜI NGÀN MÉT • Chương 5.1: Kình thép • Chương 5.2: Minh cổ • Chương 5.3: Xuyên qua tầng không • Chương 5.4: Lạc trong biển cát • Chương 5.5: Cổ tịch biệt bảo • Chương 5.6: Viên xà từ • Chương 5.7: Người sắt • Chương 5.8: Kalabulan • Chương 5.9: Chết đi sống lại • CHƯƠNG 6: CHIẾC HỘP THỜI GIAN • Chương 6.1: Bí mật trong chiếc hộp • Chương 6.2: Hải Âu ngủ yên • Chương 6.3: Hành trình đến địa ngục sau một giây • Chương 6.4: Vòng tuần hoàn chết • Chương 6.5: Máy phát sóng ngắn • Chương 6.6: Kẻ đứng đầu tiên bên trái hàng thứ hai • Chương 6.7: Bóng ma trong tấm ảnh • Chương 6.8: Bồn địa Turpan • Chương 6.9: Phát hiện động trời • Phụ lục: Lịch thời gian trong Mê Tông Chi Quốc Tên ebook: Ma Vực Lâu Lan (full prc, pdf, epub) Bộ sách: Mê Tông Chi Quốc Nguyên tác: 雾隐占婆 Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng Thể Loại: Kinh Dị, Trộm Mộ, Văn học phương Đông Dịch giả: Vũ Như Lê Nhà xuất bản: Văn Hóa Thông Tin Công ty phát hành: Tân Việt Trọng lượng vận chuyển: 590 grams Kích thước: 14.5 x 20.5 cm Số trang: 698 Ngày xuất bản: 01/2012 Edit và Beta: Xú Ngư, Tiểu Diệp Tạo prc: Vanlydocnhan Nguồn: hoatanhoano.wordpress.com Ebook: http://www.dtv-ebook.com Giới Thiệu: Mê Tông Chi Quốc là bộ tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm dài kỳ gồm 4 tập, kể về những chuyến đi đầy mạo hiểm của một đoàn thám hiểm gồm những kẻ trộm mộ chuyên nghiệp, những chiến sĩ chạy trốn sự truy đuổi của kẻ thù và những nhà khảo cổ dạn dày kinh nghiệm, họ bắt đầu hành trình với những nhiệm vụ khác nhau nhưng lại gặp nhau giữa rừng hoang núi thẳm và cùng chiến đấu để chống lại hiểm nguy, giành giật sự sống. Chuyến đi của họ là hành trình sinh tử đầy ly kỳ và mạo hiểm, vượt thời gian, vượt không gian với những khám phá kinh hoàng về một vương triều cổ đại, một đất nước bị lãng quên dưới lòng đất và những điều bí ẩn chưa ai từng biết đến. Một tổ chức thần bí, một nhiệm vụ bất khả thi. Kinh hoàng: Con đường U Linh bí ẩn trong lịch sử một lần nữa hiện ra trước mắt. Kỳ quái: Máy bay không người lái bay lượn trong khe núi sâu. Hung hiểm: Đỉa ăn thịt người bao vây thảm sát cả đoàn người. Trong rừng rậm bí ẩn, bạn làm cách nào để chiến thắng nỗi sợ hãi và xoay chuyển vận mệnh? Sự thật chôn vùi dưới lòng đất sâu, lời giải ẩn kín trong lớp sương mù. Rút cục ai là kẻ cận kề Thiên quốc nhất? Thiên Hạ Bá Xướng tên thật là Trương Mục Dã, sinh năm 1978, người Thiên Tân, Trung Quốc. Anh là tác giả của “Ma thổi đèn” - bộ tiểu thuyết được truyền bá rộng rãi nhất ở Trung Quốc, chỉ sau những tác phẩm võ hiệp của Kim Dung. Trong những cuốn tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, điều tác giả quan tâm là những suy nghĩ và hành động của con người trong những hoàn cảnh kỳ lạ chưa bao giờ được biết đến. Bằng những câu chuyện tràn đầy sóng gió bão táp với những bí kíp cổ xưa, những di tích thần bí, bằng tình bạn cảm động giữa những người đồng đội sẵn sàng sống chết vì nhau và sự cảm nhận sinh tử vô thường, bằng ngôn ngữ hài hước tinh tế, những kiến thức dân gian phong phú nhiều màu sắc, Thiên Hạ Bá Xướng đã tự xây dựng cho mình một cõi “giang hồ” riêng biệt. Bộ Mê Tông Chi Quốc gồm 4 tập: Tập 1: Mê Tông Chi Quốc- Chăm Pa ẩn sương Tập 2: Mê Tông Chi Quốc- Ma vực Lâu Lan Tập 3: Mê Tông Chi Quốc- Đại Thần Nông Giá Tập 4: Mê Tông Chi Quốc- Cửu tuyền u minh Mời các bạn đón đọc tập 2 Ma Vực Lâu Lan trong bộ Mê Tông Chi Quốc của tác giả Thiên Hạ Bá Xướng. Xem thêm các ebook khác của Thiên Hạ Bá Xướng: http://www.dtv ebook.com/search/label/Thiên Hạ Bá Xướng CHƯƠNG 1: NHIỄU ĐỘNG TRỜI TRONG Chương 1.1: Tá Thanh Hoàn Hồn (1) Xuồng cao su luẩn quẩn lượn trong sương mù mấy vòng, nhiên liệu của động cơ dần dần cạn kiệt, nhưng tứ bề vẫn mênh mông nước, mặt nước đen ngòm im lìm không chút động tĩnh, màn sương khí sâu hun hút dường như trải dài vô tận. Trong dải sương lạnh mênh mang ấy, bốn người ngồi trên xuồng nhưng không thể nhìn thấy gương mặt đối phương mặc dù ở ngay sát cạnh. Cảm giác mất phương hướng khiến mọi người đều sợ tái mặt, đang định nghĩ cách thoát hiểm, thì Tuyệt đột nhiên nói: “Ở đây cơ bản không hề tồn tại phương hướng, bởi vì bản thân sương mù đã là điểm cuối.” Tư Mã Khôi hiểu điểm cuối mà Tuyệt muốn ám chỉ, có lẽ mang hàm ý cái chết, nhưng sao cô lại nói vậy? Hay nơi sâu trong đám sương mù rộng không bờ bến này, chính là vương quốc của thần chết mà các truyền thuyết Chăm Pa đã nhiều lần nhắc đến? Tuyệt đưa cho Tư Mã Khôi chiếc máy điện đàm không dây đang cầm trong tay, rồi nói: “Từ lúc xuồng bắt đầu đi vào sương mù, cái máy bộ đàm này lại thu được loạt tín hiệu lai lịch không rõ ràng.” Tư Mã Khôi cầm lầy chiếc máy từ tay Tuyệt, vừa nghe cô kể lại chuyện xảy ra lúc trước, mới biết trong lúc mọi người bổ sung trang thiết bị lần thứ nhất, Ngọc Phi Yến tìm thấy một máy bộ đàm chiến thuật không dây hiệu PRS 25/77 do Mỹ sản xuất trong chiếc Rắn đen II của đội thám hiểm Anh. Tuy ở sâu trong huyệt động cách biệt với thế giới bên ngoài, thì vật này không có chút tác dụng gì, nhưng Ngọc Phi Yến lại sợ sau khi thoát khỏi núi Dã Nhân, giữa biển cây rừng ngút ngàn mênh mông, nếu không có phương liên lạc xin cứu viện, thì e rằng cả hội cũng khó lòng đi qua nổi. Bởi vậy, bất kể hoàn cảnh gian nan đến đâu, cô vẫn cương quyết giữ chiếc máy bên mình. Có điều lúc khí mêtan bốc cháy, vỏ hộp ngoài cũng bị hư hỏng khá nặng, nên nó luôn ở trong trạng thái mở và không tắt được, chẳng biết pin còn có thể duy trì được bao lâu. Mãi đến khi mọi người trèo lên xuồng cao su, Ngọc Phi Yến mới dỡ xuống đặt bên cạnh mình. Tuyệt nghe thấy có tiếng phát ra từ chiếc máy điện đàm, hơn nữa bất kể thay đổi tần số thế nào, cũng chỉ thu được những tạp âm như thể nó được phát ra từ thế giới bên kia. Có lẽ chiếc máy điện đàm này trước đây đã bị người ta cố ý cải tiến chức năng, nó không được sử dụng để thu phát những tín hiệu thông thường, mà chỉ đặc biệt thu nhận một tần số duy nhất – tần số u hồn. Tuyệt nhớ lại lúc mọi người bị trượt xuống đáy khe núi, bất ngờ bị sương mù dày đặc bủa vây hoàn toàn, đúng lúc nguy cấp đó thì Nấm mồ xanh dùng sóng điện và tín hiệu pháo sáng dẫn đường cho mọi người đi vào đường hầm bụng rắn, nhờ vậy cả hội mới tạm thời thoát hiểm. Nhưng khi hội Tư Mã Khôi chạm trán Nấm mồ xanh, thì phát hiện đối phương không hề mang theo máy điện đàm, hơn nữa hắn ta cũng nói rõ chỉ sử dụng tín hiệu pháo sáng để liên lạc, giờ nghĩ lại mới thấy tình hình hiện tại vô cùng bất thường. Tư Mã Khôi đặt ống nghe áp sát tai, chỉ nghe thấy trong đó phát ra những tạp âm “xè xè xè”, lẫn cả những tiếng nói không rõ ràng, như thể giọng của linh hồn đen tối đang lởn vởn trong sương lạnh tự lẩm bẩm một mình. Tư Mã Khôi cảm thấy vô cùng khó hiểu, liền hỏi Tuyệt: “Cô có nghe được họ nói gì trong đó không?” Tuyệt lo lắng bảo: “Tôi cũng không hiểu lắm, hình như đối phương muốn nói với chúng ta, trong sương mù không có phương hướng…”, cô nhíu mày nghĩ một lát, rồi nói tiếp: “Lúc không có sương mù, thì tín hiệu hoàn toàn rơi vào trạng thái tĩnh lặng, nhưng chỉ cần xung quanh xuất hiện sương khí, thì sóng điện mang tạp âm lại dần dần trở nên rõ ràng hơn, không hiểu sao lại như vậy được?” Hải ngọng nói chen vào: “Cái máy rách này theo chân chúng ta lúc rơi lúc đập, bị hành hạ đến khổ, không chừng ốc vít hỏng hết cả, cũng có thể là do một âm hồn mất đầu nào đấy không thể siêu thoát nổi ám vào nó, dù sao nó đã muốn kêu thì cứ mặc cho nó kêu đi, chúng ta để ý làm gì. Chỉ cần trong lòng ta tự coi mình là ông nội, thì vạn sự chỉ là lũ cháu chắt cả thôi.” Tư Mã Khôi cho rằng tuy lai lịch của tín hiệu này rất quái dị, nhưng chắc không phải do Nấm mồ xanh phát ra, bỏi vì hắn ta không mang theo máy điện đàm trên người, ngoài ra, nếu hắn có thể liên lạc với mọi người thông qua sóng điện thì chắc chắn sẽ không mạo hiểm lộ diện và phơi bày thân thế của mình. Có thể trong sương mù còn tồn tại một vật gì khác nữa, vả lại tín hiệu chưa hẳn đã phát ra từ một chiếc máy điện đàm khác. Tư Mã Khôi không dám khinh suất. Anh bảo Hải ngọng tập trung tinh thần giương súng cảnh giới, giữ chặt đèn trước xuồng, chú ý động tĩnh xung quanh, sau đó cùng Tuyệt cẩn thận nghe lại giọng nói phát ra từ chiếc máy điện đàm thêm một lần nữa. Ngọc Phi Yến đứng bên cạnh hỏi Tư Mã Khôi: “Anh bảo trong sương mù còn tồn tại một vật khác, nhưng Udumbara sản sinh ra sương mù dưới lòng đất đã bị khí mêtan thiêu cháy hoàn toàn, vả lại ở nơi có nước chăc chắn sẽ không có sương mù, vậy tại sao sương khí gân đây càng lúc lại càng dày đặc hơn? Và sóng điện trong sương mù phát ra từ đâu vậy?” Tư Mã Khôi suy đoán: “Đây là khí ẩm phát sinh do nước tù trong lòng hồ ngầm quá sâu tạo nên, có lẽ nó không giống với sương mù do Udumbara sản sinh.” Trước đây, Tư Mã Khôi từng nghe anh Thiết Đông kể lại một vài chuyện liên quan đến thông tin liên lạc, anh lại nói với Ngọc Phi Yến: “Tôi chỉ biết, trong chiến tranh Việt Nam, quân Mỹ có sử dụng một loại máy điện đàm không dây có tính năng rất ưu việt, công suất cực cao, có thể mang theo bên mình, đồng thời còn lắp đặt hệ thống cộng hưởng băng tần kép, sử dụng được ở cả những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất; sau khi cải tiến ống nghe, nó không chỉ thu được tất cả tần số như địa sóng, thiên sóng, thậm chí trong một vài điều kiện đặc thù, nó còn có thể thu được… những giọng nói vốn dĩ không thuộc về thế giới này.” Ngọc Phi Yến không xa lạ với thông tin vừa được nghe, bởi vì lòng đất có khả năng hấp thụ sóng điện từ rất mạnh, cho nên ngay từ đầu những năm năm mươi, các nhà khoa học Mỹ đã lợi dụng địa sóng để tiến hành liên lạc với vong hồn những người đã khuất, có điều sau đó có thành công hay không thì cô không được biết. Lẽ nào tạp âm mà chiếc máy điện đàm không dây thu được, lại đúng là lời thì thầm của những vong hồn trong sương mù? Tòa thành Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa có phải là con đường dẫn đến vương quốc của tử thần không? Chẳng lẽ màn sương đen mênh mông này chính là chiếc bóng của đôi cánh thần chết hay sao? Tư Mã Khôi biết vương quốc thần chết trong truyền thuyết Chăm Pa, đại khái cũng giống với thành hàm oan trong quan niệm của người Trung Quốc, nhưng chẳng ai rõ cõi u minh đó rốt cục có tồn tại hay không. Bởi vậy, nhất thời anh cũng khó lòng phán đoán tình hình hiện tại cả hội đang gặp phải là gì, chỉ có thể đặt ra giả thiết: “Nếu tín hiệu thần bí mà chiếc máy bộ đàm không dây thu nhận được, quả thực là u hồn trong sương mù mượn âm hoàn hồn, thì giờ đây chúng ta cũng chỉ còn cách tìm hiểu xem đối phương muốn truyền đạt thông tin gì, sau đó mới biết chính xác mình đang đổi đầu với ai.” Bụng Hải ngọng rỗng tuếch khiến đầu óc anh càng thêm phần hoang mang, anh vừa soi đèn vào sâu trong đám sương mù quan sát, vừa lầu bầu khiến nước bọt bắn tung tóe cả lên: “Cái nơi khỉ ho cò gáy này, nước lặng sóng, người lặng tiếng, ngay cả hồn ma chết tiệt trong rừng sâu núi thẳm cũng ôm đầy một bụng oán hờn muốn tìm người giãi bày tâm sự. Nghĩ đến hoàn cảnh trước mắt, tôi phải nói vài câu mới được, người ta sống trên cõi đời, người sống chẳng phải chỉ nhiều hơn kẻ chết một hơi thở thôi sao? Chết thì đã chết rồi, có gì còn phải sợ nữa chứ? Dù sao vật chất không bao giờ mất đi, lúc đầu khi ở Miến Điện, chúng ta cũng đâu có dự định còn sống trở về. Nhưng ta đã bao nhiêu ngày nay chưa có gì bỏ vào bụng rồi hả? Ngay cả gà vịt thịt cá trông thế nào tôi cũng quên mẹ nó rồi, nếu phải chết thật thì cũng không thể để bụng rỗng thế này mà chết chứ?” Tư Mã Khôi lắc đầu bảo, thức ăn thì không đào đâu ra, nhưng tôi có cách chữa đói rất hiệu nghiệm, ở Quan Đông người ta có câu nói thế này: “Đời người như cái cối xay, lăn ra nằm ngủ hết ngay đói thèm.” Hải ngọng uể oải đáp: “Thế thì cậu mau tìm cho tôi một cái giường. Từ khi chạy sang Miến Điện đánh nhau đến giờ, không ngày nào được ngủ một giấc cho thật đẫy, đúng lúc tôi đang buồn ngủ rũ mắt ra đây. Người xưa nói quá chuẩn “Mất mẹ từ thuở lên ba, vẫn hơn canh bốn phải ra khỏi giường…” Lúc này, Tuyệt “suỵt” một tiếng ra dấu cho mọi người chớ ồn ào, cô áp ống nghe vào tai rồi nói: “Âm thanh phát ra từ chiếc máy điện đàm càng lúc càng rõ hơn rồi đây này…” Ngọc Phi Yến nhắc nhở Tuyệt: “Cô phải hỏi xem đối phương là ai trước đã, vị trí cụ thể bây giờ ở đâu?” Tuyệt đang định liên lạc với đối phương theo ý Ngọc Phi Yến, nhưng đột nhiên Tuyệt nghe thấy động tĩnh đáng sợ gì đó phát ra từ ống nghe, mặt cô lộ rõ vẻ sợ hãi, rồi cô quẳng vội ống nghe đi như thể bị điện giật. Tuyệt kinh hoàng thì thầm: “Đúng là có ma thật đấy! Nó đang ở trên xuồng, mọi lời nói của chúng ta nó đều nghe thấy hết”. Nghe Tuyệt nói mà mọi người bủn rủn toàn thân. Trên xuồng cao su làm gì có ai ngoài mấy kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm? Xem ra trong sương mù quả thực tồn tại vật gì không sạch sẽ rồi đây, nhưng nó lại vô hình vô ảnh, chỉ khi sử dụng máy điện đàm mới bắt được tần số u hồn đó, nếu không, cho dù vong hồn đứng lù lù ngay trước mắt, cả hội cũng không thể nào phát hiện ra. Tư Mã Khôi ra hiệu cho Tuyệt đừng quá sợ hãi, trước tiên phải nghe hết toàn bộ nội dung của sóng điện u hồn, sau đó mới xác định được trên xuồng có ma hay không. “Yêu ma do người tạo ra, trong đại đa số trường hợp, những việc quái dị đều do con người tự nhào nặn mà thành. Nếu cô không tin, thì nó tự khắc không còn vẻ đáng sợ nữa.” Tuy Tuyệt là người ngoài nhu trong cương, nhưng cô lại sợ ma nhất trên đời, có điều nhìn thấy Tư Mã Khôi vẫn ung dung điềm tĩnh, hơn nữa còn có ba người ngồi ngay cạnh bên, nên cũng vững dạ hơn vài phần. Cô hít sâu một hơi, nhặt chiếc ống nghe lên, cố gắng phân biệt giọng nói trong mớ tạp âm rối loạn. “U hồn” vô hình vô ảnh, chỉ xuất hiện thông qua tạp âm sóng điện, dường như nó muốn kể cho mọi người đầu đuôi câu chuyện: Thời kỳ thực dân Anh đặt ách thống trị ở Miến Điện, bọn họ đã bỏ mấy chục năm trời để tìm kiếm tòa thành Nhện Vàng, mãi đến những năm bốn mươi, mới dần dần lần mò được chút manh mối, đồng thời phát hiện thêm một thông tin quan trọng: Dưới lòng đất có sương mù dày dặc do Udumbara tạo ra, chỉ có rắn bay mới vào được bên trong. Cùng lúc ấy, Miến Điện tuyên bố độc lập, quân Anh bắt đầu lũ lượt rút quân ra khỏi lãnh địa Miến Điện, tất cả tin tình báo có liên quan đến tòa thành Nhện Vàng đều rơi vào tay Nấm mồ xanh – kẻ có quan hệ rất mật thiết với quân đội Anh. Nấm mồ xanh liền cử người lái chiếc tiêm kích vận tải do không quân Hoàng gia Anh cung cấp, chở bom địa chấn hạng nặng chứa đầy chất độc màu da cam, mạo hiếm bay vào khe sâu núi Dã Nhân trong điều kiện khí hậu vô cùng khắc nghiệt. Bọn họ hy vọng lần ra tay này có thế hủy diệt hệ thực vật rậm rạp sinh sống trong khe núi, nhưng do chuẩn bị không kỹ lưỡng, nên chuyển hành động đó cuối cùng phải hạ màn thất bại. Nấm mồ xanh vẫn không nản lòng, hắn lại giở thủ đoạn mềm nắn rắn buông, lợi dụng và uy hiếp, giăng lưới thâu tóm một số chuyên gia khảo cổ và sinh vật có tiếng trong giới, tổ chức thành một đội thám hiểm khoa học, nằm vùng trường kỳ ở ngoại vi đề điều tra bức màn bí mật nằm sâu trong lòng khe sâu núi Dã Nhân, cuối cùng các ẩn số cũng dần dần được hé mở. Khoảng hơn một ngàn năm trước, quần thể núi Dã Nhân đã đứng nguy nga, sừng sững ở đó, chỉ thỉnh thoảng có con đại bàng khổng lồ xé mây lượn qua đỉnh núi, khiến màn sương tản ra, khi ấy mới có thể chiêm ngưỡng toàn bộ diện mạo tòa thành Nhện Vàng. Mãi đến khi lòng núi sụt lún, vua Chăm Pa phát hiện ở dưới khe sâu có một khối núi đá đen xì, cấu tạo bên trong chẳng khác nào địa cung của loài kiến, bề ngoài trông rất giống với con nhện tám chân. Trong truyền thuyết cổ đại của người Chăm Pa, vương quốc dưới lòng đất của tử thần có kết cấu hình tháp, chân tháp có một con rắn khổng lồ bốn tay bốn chân quấn thành vòng tròn. Sau khi người ta chết đi, thể xác bị nó nuốt chửng, còn vong hồn sẽ đi xuyên qua đường hầm bụng rắn để luân hồi sang kiếp khác, bởi vậy tô tem tháp cổ có mãng xà quấn quanh mang hàm ý rất đáng sợ, nó đại diện cho sự kết thúc và cái chết. Trong lòng tòa núi đá dưới lòng đất còn lưu lại vêt tích cư trú của con người, niên đại tồn tại còn cổ xưa hơn vương triều Chăm Pa rất nhiều, nhưng lịch sử lại không hề có bất kỳ ghi chép nào liên quan đến điều này, nên chỉ có thể suy đoán: có lẽ đại hồng thủy tràn xuống lòng đất là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự diệt vong cuối cùng của bộ lạc. Theo quan niệm cổ xưa của người Chăm Pa: “Thành quách ỉún xuống lòng đất là hiện tượng khí âm nuốt khí dương, là trời muốn diệt người”, bởi vậy họ tin rằng lòng núi sụt lún là điềm báo chẳng lành, cộng thêm trong màn sương mù kỳ dị như thể ảo ảnh thành phố, vua Chăm Pa tận mắt chứng kiến cảnh mình bị chết ngay trước cửa động chứa thi hài cổ xưa, nên ông ta cho nhân giống Udumbara trồng rộng khắp thành cổ, định dùng sương mù dày đặc khó lòng xuyên qua, để chôn giấu hoàn toàn bí mật khủng khiếp kia. Udumbara là loài thực vật ngàn năm mới xuất hiện một lần, sương mù mà nó tạo ra, được hình thành do hàng triệu triệu vi sinh vật tự thân tồn tại trong đó tụ hợp lại. Bình thường, người ta chỉ thấy nó trong trạng thái bị khô hóa, nhưng Udumbara trong tòa thành Nhện Vàng lại có thể đâm chồi nảy lộc hết năm này qua năm khác mà không hề ngừng nghỉ. Nguyên nhân có thể là do địa cung vua Chăm Pa phát hiện thấy không phải là một tòa núi đá bình thường, mà là một loại vật chất đặc biệt còn sót lại dưới lòng đất từ thời hậu kỷ Devon(2) cách đây hơn bốn trăm triệu năm. Nó vừa là khoáng vật vừa là sinh vật, sở hữu nguồn từ tính nhiệt thừa sinh vật cực mạnh, nguồn lực từ này xung đột với lực hút Trái Đất, khiến những vùng xung quanh hình thành rất nhiều “vũng mù” lớn nhỏ khác nhau. Những vũng mù giống như cạm bẫy tử thần, nó không phải dòng sông ngầm không có lối ra, như định nghĩa địa chất học thông thường, mà là hố xoáy sinh ra do xung đột cực từ, tác động mạnh mẽ đến cơ thể con người. Một khi đã bước vào vũng mù, thì la bàn, kim chỉ nam và các thiết bị định vị điện tử đều bị nhiễu sóng nghiêm trọng, cảm giác phương hướng và trực giác của con người cũng trở nên hỗn loạn, giống như người ta bị bịt kín hai mắt, nên không thể đi theo một đường thẳng, vậy chỉ khi có thể bố trí một tuyến chỉ hướng đủ dài, mới có thể đảm bảo cho nhà thám hiểm đi xuyên qua vũng mù an toàn. Đội thám hiểm khoa học gọi địa cung trong lòng tòa thành Nhện Vàng là “di vật kỷ Devon”, đồng thời trong quá trình điều tra tình hình khe núi cho Nâm mô xanh, các chuyên gia vô tình phát hiện mục đích thật sự của tổ chức này, bọn họ căn bản không hề muốn đi tìm kho báu đã bị thất lạc tung tích của vua Chăm Pa. Nếu theo truyền thuyết cổ xưa, thì tòa thành Nhện Vàng được hình dung như một con đường nối liền giữa hiện thực và hư vô, người sống tồn tại ở cõi thực, kẻ chết rơi xuống vùng hư vô. Như vậy bí mật đích thực mà Nâm mồ xanh tham vọng chạm đén, chính là vong hồn của vị thánh tăng đã bị vua Chăm Pa giết hại lúc sinh thời, và trầm luân trong vực thẳm hư vô hàng ngàn năm về trước. (1) Tá thanh hoàn hồn: mượn âm thanh để hoàn hồn, người chết không nhìn thấy xác mà chỉ có âm thanh vọng tới người sống. (2)Kỷ Devon: là một kỷ địa chất trong đại cổ Sinh. Kỷ Devon kéo dài từ khi kết thúc kỷ Silur vào khoảng 416,0 ± 2,8 triệu năm trước cho đến khi bắt đầu kỷ Than Đá, khoảng 359,2 ± 2,5 triệu năm trước. Chương 1.2: Tín Hiệu Đứt Đoạn Sau khi tòa thành Nhện Vàng bị Udumbara che phủ, xung quanh nó xuất hiện rất nhiều hố xoáy điện từ, kẻ nào bất hạnh phải chết ở đó, linh hồn sẽ vĩnh viễn bị nhốt chặt trong vũng mù. Năm ấy, vua Chăm Pa phát hiện thấy mật thất dưới địa cung được khắc đầy những ký tự cổ thần bí hình chân chim mai rùa, xung quanh bao bọc bởi vòng tròn tỏa sáng như sao Khuê, ông ta liền bắt vị thánh tăng làm tù binh, rồi ép xuống dưới giải mã. Sau cùng để diệt khẩu, ông ta nhốt vị thánh tăng vào mật thất và chôn sống dưới vực thẳm cùng tòa thành cổ, giờ đây thi thể ông có lẽ đã sớm tiêu hủy, nhưng vong hồn hắc ám thì mãi bị giam cầm trong mật thất như cũ. Những ký tự cổ xưa chôn vùi nơi sâu nhất dưới đáy khe núi, đã tiết lộ chủ nhân thực sự của di vật kỷ Devon và bí mật con đường dẫn đến vương quốc thần chết. Những ẩn số này cho đến tận bây giờ, không một ai trên thế giới biết được, ngoài quốc vương Chăm Pa đã chết hàng ngàn năm trước, thì chỉ có u hồn của vị lão tăng kia mới biết rõ ràng những chân tướng chôn vùi dưới thành cổ mà thôi. Nấm mồ xanh cũng muốn tìm vong hồn bị nhốt dưới mật thất trong suốt thời gian đằng đẵng mấy ngàn năm ấy. Đội khảo sát khoa học tuy không thể nào tìm cách chứng thực được rốt cục ai là kẻ đã bước chân vào địa cung đầu tiên, trước khi vua Chăm Pa phát hiện ra di vật kỷ Devon. Nhưng vì phía sau tổ chức Nấm mồ xanh còn có sự trợ giúp ngầm của các thế lực chiến tranh lạnh phương Tây, nên thành viên đội khảo sát không muốn mình trở thành con rối và vật hi sinh dưới sự xung đột của các hình thái ý thức đó, bởi vậy, họ đã lập kế hoạch cướp thời cơ hành động trước Nấm mồ xanh một bước, cả đoàn dự định sẽ tiến vào khe sâu khổng lồ trong núi Dã Nhân, phá hủy hoàn toàn tòa thành Nhện Vàng – con đường duy nhất nối liền với vương quốc Thần Chết, khiến những ẩn số đáng sợ chôn sâu dưới lòng đất kia vĩnh viễn biến mất. Có lẽ chỉ làm như vậy, họ mới có thể ngăn chặn Nấm mồ xanh chạm tay đến bí mật cổ xưa và khủng khiếp kia. Thế là đội khảo sát khoa học không màng đến sự sống chết cá nhân, mạo hiểm tiến vào núi Dã Nhân trong điều kiện chưa thể loại bỏ hết những hiểm nguy rình rập dưới khe núi. Nhưng điều họ không thể lường trước được là trong hàng ngũ thành viên lại có tai mắt của Nấm mồ xanh trà trộn làm nội gián, nên kết quả là cả đoàn bị cắt đứt sợi dây chỉ hướng khi mới đi được nửa chặng đường và lạc lối giữa nơi sâu trong vũng mù hỗn loạn cực từ… Tuyệt nghe đến đây, thì tạp âm truyền đến đột nhiên mất tín hiệu. Tất cả lại chìm vào sự im lặng đáng sợ, chiếc máy điện đàm không dây PRS25/77 bị hỏng nặng, thêm vào đó là môi trường ẩm ướt âm u cực độ, đã khiến pin bị hao kiệt rất nhanh, cuối cùng nó không thể tiếp tục trạng thái hoạt động bình thường được nữa. Tư Mã Khôi nghe xong, chau mày nói: “Thông tin vừa nhận được chắc chắn không phải do thành viên đội vận tải bổ xung quân Mỹ rơi xuống gần khu vực thành cổ phát ra, mà do một phân đội khảo sát khoa học nào đó, không biết những người này đã chết thật chưa nhỉ?” Ngọc Phi Yến khẽ thở dài một tiếng: “Bọn họ quá coi nhẹ những nguy hiểm trong núi Dã Nhân, nên đã khó tránh khỏi gặp phải tai nạn bất trắc, cũng giống như những con thiêu thân đâm đầu vào lửa. Cho dù bọn họ không bị đỉa Campuchia hại chết, thì cũng không thể thoát thân khỏi không gian hỗn độn không tồn tại phương hướng này được”. Hải ngọng kinh ngạc hỏi: “Có đúng là vong hồn của các thành viên đội khảo sát đó đang ở trên xuồng chúng ta không hả?” Tư Mã Khôi suy ngẫm lại đoạn thông tin vừa truyền đến từ tần sóng u hồn, bất giác rợn hết tóc gáy: “Xem ra trong núi Dã Nhân có ma thật đấy. Đội khảo sát bỏ mạng dưới thủy động sâu hút năm đó, cùng quân đoàn vận tải của quân Mỹ mất tích gần thành cổ, và cả lão tăng bị vây khốn dưới mật thất, tất cả vong hồn của họ đều tồn tại và lởn vởn quanh khu vực lúc họ chết. Đội khảo sát gọi khu vực đó là “vũng mù”. Còn chiếc máy điện đàm mà đội thám hiểm Anh mang theo, căn bản không thể dùng để liên lạc với con người, mà chỉ chuyên dùng để thu nhận tàn sóng ma phát ra dưới lòng đất. Tôi nghĩ thời gian chúng ta quanh quẩn trong khe núi đã khá dài, nếu không nhanh chóng tìm cách thoát thân, thì chỉ e cũng sắp biến thành những u hồn vĩnh viễn bị nhốt chặt trong không gian chết chóc này đến nơi rồi.” Ngọc Phi Yến nói: “Kỳ thực u hồn xuất hiện trong máy điện đàm đã kể cho chúng ta mọi chuyện quá rõ ràng rồi còn gì. Trong núi Dã Nhân, ngoại trừ địa từ, còn tồn tại một loại sinh vật tò vô cùng mạnh mẽ. Đây chính là điểm đáng sợ của vũng mù. Trên thế giới, cho đến ngày nay, chỉ có một vũng mù được tạo thành bởi hai hố xoáy điện từ kép, là tam giác Bermuda, nhưng ngoại trừ địa từ ra, loại lực từ còn lại ở tam giác quỷ Bermuda rốt cục là gì, thì vẫn chưa có nhà khoa học nào xác định được chính xác. Sóng điện u hồn mà chiếc máy bộ đàm quân dụng thu nhận được, có nhắc đến việc tòa thành Nhện Vàng bị lún sâu xuống dưới khe núi, phần bên trong của nó là một tòa nham thạch màu đen, được các nhà khảo sát gọi là di vật kỷ Devon, bên trong nó chứa một lực từ sinh học, cộng thêm sóng điện từ do sương mù Udumbara phóng ra, khiển động sâu dưới lòng đất tích tụ và phân giải một lượng lớn vật chất tương tự như Feo03, từ đó tạo ra rất nhiều hố xoáy vũng mù lớn nhỏ khác nhau. Trong cơ thể con người cũng tồn tại một hàm lượng nguyên tố sắt khá lớn, bởi vậy chỉ cần đi vào vũng mù, thì các giác quan sẽ dần dần trở nên tê liệt, trì trệ, cuối cùng tất cả quá trình trao đổi chất trong cơ thể đều ngưng lại, cơ thể bắt đầu rữa nát phân hủy từ trong ra ngoài, chỉ có ý thức sóng não là mãi mãi lưu giữ và giam cầm trong không gian lúc chết. Nói một cách khác, giọng nói mà máy bộ đàm thu sóng được, chỉ là một đoạn ký ức còn sót lại xung quanh tòa thành Nhện Vàng mà thôi. Nếu bảo nó là u hồn thì cũng chẳng sai, có điều, những u hồn tá thanh hoàn hồn này không hề có bất kỳ ý thức chủ quan nào, nó chỉ đon thuần không ngừng lặp đi lặp lại những trí nhớ quan trọng còn lưu lại trong vỏ não.” Tư Mã Khôi nghe Ngọc Phi Yến giải thích sự tình, tuy không thể hiểu tường tận tất cả, nhưng cũng có thể nôm na lý giải hiện tượng này. Đại khái là, sau khi cơ thể con người chết đi, ký ức của họ bị hố xoáy từ trường hút cạn, và vĩnh viễn bị niêm phong trong không gian của vũng mù. Anh hồi tưởng lại tất cả cảnh ngộ cả đoàn gặp phải từ khi bước chân vào núi Dã Nhân đến nay, rồi phỏng đoán chiếc bóng máy bay của đội thám hiểm Anh bất ngờ nhìn thấy trên bàu trời, hay thứ anh chạm trán khi bước vào tàn tích chiếc tiêm kích vận tải, ngay cả sóng điện liên lạc của quân Mỹ – mà mọi người nhận được lúc ở gần thành cổ, tất cả đều có thể liệt vào hiện tượng này. Hơn nữa, không chỉ đối với cơ thể con người, mà chỉ cần những thực tế đã xảy ra, sẽ đều bị vũng mù nuốt chửng và biến thành từng đoạn từng đoạn ký ức u hồn, nằm trong di vật kỷ Devon. Những khu vực sương khí chứa sinh vật điện từ càng mạnh, thì những di ảnh cảm nhận được càng chân thật, thậm chí chúng còn có hình có chất. Nói tóm lại, chỉ có máy điện đàm mới có thể tiếp nhận giọng nói của người chết. Nấm mồ xanh tự mình mạo hiểm xâm nhập tòa thành Nhện Vàng, cũng chính vì muốn bắt sóng một đoạn ký ức u hồn còn tồn lưu trong mật thất, đoạn ký ức đó là của vị thánh tăng đã bị quốc vương Chăm Pa chôn sống dưới thành cổ. Tư Mã Khôi nhớ lại sau lưng Nấm mồ xanh có một cái ba lô, xem ra trong đó chắc chắn đựng mấy quả mìn chống bộ binh, và có thể còn có thiết bị cảm ứng đặc biệt nào đó, thiết bị này sẽ thu nhận sóng điện u hồn trong mật thất- Có điều, vì sao sau khi khí mêtan bùng cháy dưới lòng đất, Nấm mồ xanh lại có thể biến mất trong mật thất như không khí bay hơi được nhỉ? Khi đó, nhiệt độ do hỗn họp chất phốt pho và mêtan bốc cháy phải cao đến 5000°C, đủ sức thiêu cháy tất cả sinh vật trên đời, lẽ nào người tính không bằng trời tính, hắn đã bị ngọn lửa dữ dội thiêu thành tro bụi trong mật thất rồi sao? Cũng có thể Nấm mồ xanh không hề biến mất trong mật thất, mà hắn đã đi vào thông đạo thực sự. Nếu tòa thành Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa quả thực là một thông đạo nối liền giữa hiện thực và hư vô, thì rốt cục điểm cuối của con đường ấy sẽ dẫn đến đâu? Trên đời này không thể tồn tại vương quốc của thần chết, vương quốc đó chỉ là một khái niệm trừu tượng nào đó trong hệ thống truyền thuyết của người Chăm Pa. Có lẽ, chỉ u hồn của vị thánh tăng bị giam cầm trong mật thất và Nấm mồ xanh – kẻ tung tích bất minh kia, mới biết rõ chân tướng của câu đố mà thôi. Giờ đây, hội Tư Mã Khôi tự biết ngay cả an toàn của bản thân cũng khó lòng đảm bảo, càng lực bất tòng tâm hơn nữa trước chuỗi sự việc kỳ lạ đang diễn ra, nên đành phải tạm thời gạt nó sang một bên. Tuyệt thấy Ngọc Phi Yến giải thích cặn kẽ nội dung truyền tải của sóng điện u hồn, liền hỏi: “Theo cô bây giờ nên làm thế nào? Chúng ta có cơ hội thoát ra khỏi vũng địa ngục này không?” Ngọc Phi Yến mặt cắt không còn giọt máu, tuyệt vọng trả lời: “Cơ sự đến nước này, cô bảo tôi phải làm thế nào mới phải đây? Chỉ e chúng ta phải tính đến nước xấu nhất có thể xảy ra rồi đấy!” Hải ngọng vẫn điềm nhiên như không: “Vận may đen đủi nhất cũng chính là cục diện ổn định nhất, vậy nên cô không cần lo lắng nó có thể diễn biến tồi tệ hơn nữa, Tôi thấy chúng ta đã sa chân đến bước này rồi, thì còn tính toán đến nước xấu nhất có thể xảy ra làm gì?” Ngọc Phi Yến chán chường giải thích: “Chẳng cần lâu nữa đâu, anh sẽ cảm thấy toàn bộ máu trong cơ thể ngưng trệ, quá trình trao đổi chất dần dần ngừng lại, thân thể bắt đầu phân hủy từ trong ra ngoài, rồi sau cùng ngay cả cái xương mủn cũng không chừa lại. Nhưng điều đáng sợ nhất là trong toàn bộ quá trình cơ thể anh bị tiêu hủy, thì ý thức của anh từ đầu chí cuối vẫn luôn duy trì trong trạng thái tỉnh táo sáng suốt”. Tư Mã Khôi cảm thấy thực sự không thể tiếp tục nghe thêm nữa, liền bảo Ngọc Phi Yến: “Thủ lĩnh này, tuy tôi chưa từng gia nhập nghề hối tử, nhưng cũng am hiểu chút ít về quy tắc thời xưa, từ cổ chí kim, bất kể là đội sơn lâm trộm mộ, hay đội thám hiểm tìm kiếm kho báu cũng vậy, kỳ thực bọn họ đều chẳng khác các đơn vị quân đội tác chiến độc lập là mấy, người chỉ huy đội ngũ phải là người có quyền uy tối thượng, anh ta bắt buộc phải thông suốt mọi chuyện, tinh tường mọi nghề. Nể mặt mười tám cụ tổ La Hán, cô tuyệt đối đừng thốt ra mấy từ: “không biết phải làm gì” trước mặt thuộc hạ của mình. Cô có biết lực sát thương tâm lý của nó đối với mọi người lớn đến mức nào không, phải ngang ngửa với sức phá nổ của trái bom địa chấn đấy!” Mấy câu nói của Tư Mã Khôi khiến Ngọc Phi Yến giận tái mặt, mặt cô ta chuyển sắc lúc xanh lúc trắng: “Tư Mã Khôi! Lưỡi anh đúng là sắc bén còn hơn cả lưỡi dao đấy! Chúng ta bị cô lập trong vũng mù, không có ai đến cứu viện, lại không chuẩn bị trước vật chỉ hướng, xung quanh cũng chẳng có vật tham chiếu nào, không bó tay chịu chết thì còn biết làm gì? Vả lại… vả lại ba người các anh có lúc nào thực sự coi tôi là thủ lĩnh không hả? Từ trước đến nay mọi lời tồi nói, các anh đều đế ngoài tai, toàn tự mình muốn làm gì thì làm đấy chứ!” Hải ngọng gật đầu cho là phải: “Cô nói quá chuẩn! Cô tự coi mình là cọng hành, thì còn ai muốn coi cô là tương chấm hành nữa”. Tuyệt nhỏ giọng bảo Hải ngọng: “Anh bớt nói mấy câu đi không được sao? Lần nào cũng toàn đổ thêm dầu vào lửa!”. Tư Mã Khôi không muốn để mọi người tiếp tục cãi nhau vì mấy việc không đâu, nên đành giải thích với Ngọc Phi Yến: “Khi nãy tôi cũng không có ý gì khác, chẳng qua chỉ muốn nhắc nhở để cô chú ý hơn thôi”. Tư Mã Khôi vừa nói vừa tiến sát lại gần chỗ Ngọc Phi Yến đang ngồi ở phía sau đuôi xuồng, dường như anh phát hiện ra điều gì đó trên cơ thể cô. Ngọc Phi Yến không hề lĩnh hội thiện chí của anh mà lạnh lùng đáp trả: “Chẳng lẽ tôi còn phải cảm ơn anh nữa sao?”, rồi cô phát hiện Tư Mã Khôi dường như bị chạm dây thần kinh nào rồi thì phải, nên hai mắt cứ nhìn chằm chằm vào cơ thể cô và từ từ bò sát lại gần. Không gian trên xuồng chật chội, không có chỗ xoay chuyển hay quay đầu, muốn trốn cũng không có nơi trốn, tim bất giác đập thình thịch, cô lo lắng hỏi: “Anh định làm gì vậy?”, rồi cứ nghĩ Tư Mã Khôi định giở trò sàm sỡ với mình, nên cô không kìm được liền thẹn quá hóa giận, giơ tay định cho anh một cái bạt tai, nhưng chưa kịp đáp xuống má thì đã bị Tư Mã Khôi giữ chặt lấy cánh tay rồi gạt sang một bên. Thì ra, thứ mà Tư Mã Khôi muốn xem là vết máu dài loang lổ dính sau đuôi xuồng. Đó là vết máu của con cá sấu bị xương voi đâm thủng bụng khi nãy để lại, xác cá sấu đã sớm bị dòng nước cuốn trôi, nhưng đoạn xương bị gãy mắc vào đuôi xuồng thì vẫn còn dính rất nhiều máu, nó bám rất chắc vào túi khí phía sau. Hải ngọng thấy vậy liền tỉnh ngộ, vội hỏi: “Tớ nghe nói thịt cá sấu chế thành thuốc có thể trị ho long đờm, chữa khó thở, nó… có ăn được không hả?” Tư Mã Khôi lắc đầu bảo: “Không phải vấn đề có ăn được hay không, tớ đang nghĩ, trong lòng khe núi Dã Nhân có rất nhiều đỉa Campuchia, mãng xà Miến Điện, rồng Komodo và cả rắn bay tụ tập trong sương mù. Tất cả bọn chúng đều có thể sinh sống ở đây, vậy tại sao con người lại không thể sinh tồn được? Việc này nói lên điều gì?” Đầu óc Ngọc Phi Yến rất nhanh nhạy, cô lập tức hiểu ra ý tứ của Tư Mã Khôi: “Anh muốn nói động vật bò sát máu lạnh không bị sinh vật từ trường dưới lòng đất làm nhiễu loạn có phải không? Nếu có thể tìm thấy những con vật thuộc họ thằn lằn, thì chúng ta có thế xác định được phương hướng sao? Nhưng nước ở đây im lìm bất động, ngay cả cá còn không thể tồn tại được nữa là”. Bí kíp “Kim bất hoán” gia truyền của Tư Mã Khôi lấy tướng vật làm chính yếu, nội dung bao hàm cả âm dương tam cung ngũ ý, thông tỏ mọi thuật Tuần Giáp, Lục Nhâm, Bộ Đẩu, trên nối tới trời, dưới thông vô đáy, phân biệt được tạo hóa vi diệu của vạn vật, giống như có mắt thần. Tuy anh không hiểu rõ nguyên nhân hình thành nên vũng mù dưới lòng đất, nhưng lại có cách quan sát tính tương khắc âm dương của chất nước, liền hỏi Ngọc Phi Yến xem cô có nhận ra địa hình ở đây không? Ngọc Phi Yến nói: “Tình hình thế này thì có lẽ tương ứng với địa thế khe sâu cuốn núi, còn gọi là bàn hách, là một vùng đất trũng bị xâm thực với quy mô lớn, nằm sâu trong lòng quần thể núi. Nước ngầm dưới lòng đất trào lên từ khe cốc, chảy về đây thông qua các khe núi, rồi tiếp tục đổ xuống dưới, thông qua các huyệt đá, tạo ra mạch ngầm chảy xuyên suốt thủy động. Năm đó, đội khảo sát có thể từ bên ngoài vào đây, thì nơi này chắc chắn tồn tại lối ra, nhưng do nước hồ dưới lòng đất quá rộng và sâu, nên khoảng cách giữa lối nước vào và lối nước thoát cách nhau tương đối xa, vì thế chúng ta cũng khó lòng phát hiện được bất kỳ động tĩnh nào nổi trên mặt nước; thêm vào đó, nơi đây lại chịu sự hạn chế của môi trường và địa hình, nên không thể nghe thấy tiếng nước chảy ở phía xa; nếu năm giác quan đều tê liệt hết, thì đến chết chúng ta vẫn mãi quanh quẩn ở chỗ cũ mà thôi.” Tư Mã Khôi nghe xong liền gật đầu. Trước đây, anh cứ nghĩ bí kíp tổ tông truyền lại không có chút giá trị nào, nhưng sau khi trải qua một loạt sự kiện gần đây, anh không thể không đánh giá lại giá trị quan và thế giới quan của bản thân, Tư Mã Khôi nói với mọi người: “Thế thì mọi việc về cơ bản gần giống với phán đoán của tôi, nếu điêm cuôi sô mệnh của chúng ta không phải ở núi Dã Nhân này, thì chúng ta chắc chắn sẽ có cơ hội thoát hiểm.” Tư Mã Khôi lại tiếp: “Khó hay dễ đều do con người tạo ra, kẻ thấy khó sẽ không nghĩ ra cách, người nghĩ ra cách sẽ không thấy khó. Có câu: ‘núi tĩnh nước động’, núi hay nước đều phân thành hai cực, nước chảy vào thuộc cực dương, nước chảy ra thuộc cực âm. Trong lòng núi không thể tồn tại nước tĩnh tuyệt đối, bởi vậy nơi dòng nước trầm lặng, nhất định là nơi đổ ra hướng cửa thoát”. Nói đoạn, anh liền đốt pháo sáng, dùng dao cắt một miếng thịt cá sấu, thả xuống nước, cúi đầu chăm chú phân biệt chính xác hướng hòa tan của máu và nước. Do máu động vật bò sát không chịu sự ảnh hưởng của lực từ sinh vật, nên hướng chảy của máu sẽ là hướng lối ra. Dưới ánh sáng của pháo tín hiệu, anh thấy máu hòa tan vào nước giống như một làn khói đen khuếch tán giữa không khí. Tư Mã Khôi định vị hướng nơi máu lan tỏa, cũng chính là cửa động và lấy nó làm vật tham chiếu, đồng thời cùng ba người còn lại dốc hết sức khua mái chèo, đẩy chiếc xuống tiến dần về khoảng không sâu hút phía trước. Cả hội chẳng đi được bao lâu, thì máu thịt cá sấu dính trên túi hơi đã hết sạch, vậy mà màn sương mù lạnh lẽo vẫn không nhìn thấy điểm tận cùng, mọi người bắt đầu cảm thấv tay chân, đầu óc dần dần mụ mị tê buốt, ý thức cũng theo đó mà trở nên mơ hồ chấp chới. Chương 1.3: Đào thoát khỏi núi Dã Nhân Tư Mã Khôi cắn rách đầu lưỡi buộc mình phải tỉnh táo, anh gắng sức áp chế cảm giác tuyệt vọng đang lan khắp cơ thể, chăm chú quan sát động tĩnh trên mặt nước. phát hiện thấy dưới đáy hồ sâu, dường như trôi nổi vật gì đó giống loài cá vược. Đó là loài cá hai mắt bị thoái hóa gần như mù hẳn, sống dựa vào hợp chất ở vùng nước sâu, thân hình to có nhỏ có, con nhỏ có khi chỉ bé bằng con giun, con to thậm chí có thể nuốt chửng một người sống, chúng bị mùi máu tanh thu hút nổi trên mặt nước. Tư Mã Khôi cầm giáo mỏ vịt đâm xuyên táo mấy con vứt lên nền xuồng. Thế là mọi người lại có máu cá để phân biệt phương hướng. Không biết chiếc xuồng đã bơi được bao xa trong đêm tối, chỉ biết người nào người nấy đều mệt mỏi rã rời, lưng vai đau nhừ, đói hoa cả mắt. Đột nhiên, màn sương mù phía trước mỏng đi đáng kể, phía xa xa lộ một dải màu trắng ngoằn ngoèo, mảnh như sợi chỉ, dường như đó là một vệt ánh sáng vô cùng yếu ớt, lay động giữa khe núi thâm u, đối lập hoàn toàn với bóng tối vô bờ bến đang bao trùm bốn phía xung quanh. Cái lạnh do cảm giác đè nén tạo ra thực sự khiến người ta tê buốt tận xương tủy. Mọi người nhìn thấy phía trước dập dềnh ẩn hiện một vạch kẻ màu trắng, dường như là đốm bụi ánh sáng, thì biết có lẽ họ đã thoát khỏi vũng mù nhiễu loạn phương hướng. Lúc này, từ cõi chết trở về, trái tim bốn người dường như nóng bừng cả lên, nhưng khi còn chưa kịp định thần nhìn rõ, thì nghe thấy tiếng nước chảy xiết ầm ầm vang dội, chiếc xuồng không nghe theo điều khiển, xoay tròn trên mặt nước và không ngừng trôi về phía trước. Sau cơn giông tố, mấy chục dòng nước ngầm phun trào mãnh liệt trong lòng núi sâu. Mỗi dòng nước cuồn cuộn như một con bạch long khổng lồ treo mình trên vách núi cheo nứt vỡ, thế nước rung chuyển dữ dội. Dòng ngân hà giữa không trung tuôn ra từ khe núi, bị rừng rậm nguyên sinh um tùm che phủ, trông hùng dũng như rồng cuộn, nghe vang rền như sấm dậy, tiếng thác đổ vọng lại giữa bầu không gian nơi thâm cốc gầm gào không dứt. Hội Tư Mã Khôi đều không thể ngờ, chỉ cách một quãng ngắn mà thế nước lại khác biệt đến thế, cửa thoát là một thác nước khổng lồ, nhất thời chẳng ai kịp trở tay. Chiếc xuồng chưa kịp giảm tốc độ, thì đã bị dòng nước xiết cuốn phăng về phía trước, thuận thế lao mình từ trên cao xuống khe sâu phía dưới. Tư Mã Khôi cảm thấy cơ thể bay ra khỏi xuồng, trong tích tắc thời gian trời đất quay cuồng, cũng chẳng rõ đầu hay đít chúc xuống dưới, càng không dám quan sát sự hùng vĩ thần bí của quần thể dòng thác. Anh không thể xác định dưới chân thác là nước sâu hay đá nhọn, chỉ biết cố gắng bảo vệ mạng sống trước đôi cánh đang dang rộng của tử thần, hai khuỷu tay khép lại, hai chân thu trước ngực, tay ôm gióng chân, trán gục chấm gối, toàn thân co tròn thành một khối, nhào theo đà rơi. Dưới chân thác toàn là những phiến đá trắng cứng đanh, nhưng do bị dòng nước xâm thực đục đẽo lâu ngày, khiến những phiến đá đó đều trở nên rỗng ruột. Vì bề mặt bên trên của đá đã mất đi lực đỡ từ dưới, cộng thêm nó không ngừng bị sụt lún trong suốt bao nhiêu năm qua, nên những phiến đá bị võng xuống thành một khe núi lõm sâu hình bán nguyệt. Dòng nước từ độ cao cách biệt hơn năm trăm mét đổ như bay xuống dưới, thật chẳng khác nào vạn mã phi nước đại, phát ra những âm thanh ầm ầm đến chấn động tâm kinh. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ Sau khi bốn người bị rơi xuống nước, do sự tác động của xung lực, người nào cũng không tránh khỏi uống no bụng nước. Nhưng sau đó chưa kịp chạm tới đáy, thì họ đã bị lực nổi mạnh khiếp người của dòng nước kéo ngược trở lên, ngước mắt nhìn chỉ thấy rất nhiều dòng thác vắt mình nằm giữa các vách núi cao đang trút đổ từ giữa không trung xuống. Thế nước mạnh mẽ, khiến bọt nước trắng xóa bắn tung tóe khắp nơi, hơi nước tạo thành quầng sương mù mịt bao phủ khắp khu vực xung quanh, hai bên vách núi mọc um tùm những cây cổ thụ tán lá rợp trời, những phiến đá to nhỏ với đủ hình thù quái dị nằm rải rác giữa các lối đi, rễ cây và dây leo kết bện chằng chịt, thảm thực vật rậm rạp che phủ gần như hoàn toàn diện tích mặt nước. Mọi người vừa thoát khỏi lưỡi hái của thần chết, vội giãy đạp trèo lên những chiếc rễ cây nổi dưới đáy hồ, lần bò vào bờ, sau khi nôn liền ra mấy ngụm nước, mới cảm thấy đầu óc dần đần trở lại bình thường. Tư Mã Khôi thở gấp trong giây lát, chợt thấy Hải ngọng đi lại khó khăn, liền gọi Tuyệt đến xem vết thương thế nào. Nơi núi cao rừng sâu này không bị cơn bão nhiệt đới Buddha ảnh hưởng nghiêm trọng lắm. Lúc này mưa lớn đã bắt đầu ngưng hạt, ngẩng đầu lên chỉ thấy trời xanh mây trắng, ánh nắng chan hòa. Tuyệt mở lớp băng cuốn quanh vết thương của Hải ngọng, thấy miệng vết thương chảy ra vệt máu đen, cô liền bất giác cau mày lo lắng, nếulà vỡ nội tạng thì phải tiến hành phẫu thuật ngay mới kịp, bằng không sẽ không thể nào cầm máu được. Hải ngọng chỉ cần chưa chết thì không bao giờ chịu để miệng nghỉ ngơi, nhưng lúc này anh cũng lờ mờ cảm thấy không ổn. Trong lúc đèn gần cạn dầu, toàn thân cảm thấy lạnh giá như rơi xuống động băng, anh cứng miệng phều phào chửi rủa mấy tiếng: “Mả bà nó, sao cái núi quỷ tha ma bắt này lại lạnh teo teo thế nhỉ? Thực ra, loại linh dược hiệu nghiệm nhất bây giờ là mau đi tìm cho tôi một bát cháo nóng…”. Nói xong, anh cúi xuống nhìn vết thương của mình, nhưng dường như trông nó còn nghiêm trọng hơn dự liệu rất nhiều, trong lòng không khỏi giật thót mình. Hải ngọng gắng gượng hỏi Tuyệt: “Sao hả? Liệu tôi có qua nổi hôm nay không?” Tuyệt cúi đầu không đáp, Tư Mã Khôi đành phải trả lời thay: “Có lẽ nó không đến nỗi… tệ như cậu thấy đâu.” Hải ngọng lắc đầu bảo: “Cậu không cần cho tớ uống thuốc an thần làm gì, tớ có mù đâu cơ chứ, miệng vết thương chảy ra toàn máu đen, đấy là máu chảy ra từ ruột. Mẹ cha nhà nó! Sao số mình đen đủi như cứt chó thế này nhỉ, xem ra ông trời bắt phải chết trong rừng sâu núi thẳm rôi, vùi thân dưới ba thước đất, khéo ngay cả mảnh ván mỏng che mặt cũng chẳng tìm ra, chứ nói gì đến bia mộ. Đây là cái số mệnh gì thế không biết?” Tư Mã Khôi nghiến răng nói: “Chúng ta khó khăn lắm mới thoát ra được bên ngoài, cậu đừng có mà, mẹ nó chứ, lải nhải mấy lời nhụt chí ấy nữa, dẫu có phải vác, tớ cũng sẽ vác cậu trở về”. Tư Mã Khôi muốn mau chóng tìm lối chạy về hướng bắc, liền hỏi Ngọc Phi Yen còn muốn tiếp tục đồng hành cùng mọi người nữa hay không? Bây giờ đã thoát khỏi khe sâu, rốt cục con đường hai bên khác biệt, chi bằng cứ chia tay nhau ở đây thì hơn. Ngọc Phi Yến giận dữ mắng Tư Mã Khôi: “Cái đồ chết bầm, sao lúc nào anh cũng muốn xua tôi đi thế hả? Bây giờ chúng ta đều sức cùng lực kiệt, hai chân chẳng lê nổi thân, trên mình cũng không còn vũ khí, điện đàm, thuốc men, thức ăn, bản đồ gì cả. Trong hoàn cảnh lương cạn đạn kiệt, liệu ai có thể tự mình ra khỏi núi Dã Nhân được hả? Có điều, cho dù phải bỏ mạng trong rừng sâu, bị dã thú gặm trơ xương, thì cũng vẫn còn hơn bị nhốt sống dưới huyệt động dưới lòng đất chẳng bao giờ nhìn thấy mặt trời.” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ Đúng lúc mọi người đang bàn bạc, thì mé chếch mỏm núi phía trái sơn khe, một đàn chim đột nhiên xáo xác bay loạn xạ, Tư Mã Khôi xuất thân từ giang hồ, tai thính mắt tinh, anh biết rừng sâu không có người, vậy mà chim lại bay hoảng loạn, chắc chắn phía xa đã xảy ra sự cố bất thường gì đó. Anh vội ngẩng đầu nghe ngóng, thì phát hiện thấy trên núi có vài bóng người hòa lẫn với đám cây rừng um tùm thành một màu, số lượng đông đúc có lẽ không dưới trăm người, tất cả đều mặc quân phục và trang bị vũ khí đầy đủ, chỉ có điều vì họ ở cách một khoảng hơi xa, nên tạm thời vẫn chưa thể biết rõ rốt cục là quân đội phe nào. Tư Mã Khôi phát giác tình hình có biến, liền vội vàng ra hiệu cho Ngọc Phi Yến và Tuyệt, ba người khênh Hải ngọng nấp mình vào sau một lùm cây rậm. Nhưng nhóm người Miến Điện dường như đã nhìn thấy có người trong khe núi, một loạt đạn bắn ra từ khẩu súng hạng nặng lập tức bay tới tấp như mưa sa, thân cây to bằng cổ tay không thể đỡ được luồng đạn, liền bị tróc mất một mảnh lớn, bọn họ lại từ trên cao bắn dội xuống, triển khai đội hình bao vây, nhóm quân xuyên qua rừng rậm nhanh chóng áp sát lại gần.Hội Tư Mã Khôi bị hỏa lực dày đặc áp chế đến nỗi không thể ngẩng đầu lên, chỉ cần hơi nhổm người dậy lập tức sẽ bị đạn nã lỗ chỗ như tổ ong. Thấy tiếng súng và tiếng hò hét càng lúc càng tới gần, mọi người đều ngầm than khô: “Đúng là mẹ kiếp, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Trong núi Dã Nhân mọc đâu ra lắm quân đội thế không biết?” Lúc này, Tư Mã Khôi đã nghe rõ tiếng hò hét của đội quân vũ trang và nhận diện được phương thức nã bắn cũng như loại vũ khí, anh cảm thấy có vẻ quen tai, không giống với đội quân của chính phủ hay thổ phỉ, trong lòng bất giác reo lên: “Đám người này chẳng phải quân bang Wa thì là gì?” – Anh ra hiệu cho Ngọc Phi Yến và Tuyệt không được bắn trả, rồi nấp sau thân cây hét lớn: “Méo duây pao pua! Méo duây pao pua!” Trong tiếng Miến Điện, câu đó có nghĩa là “Người anh em thân thiết”, nói đơn giản thì nó ám chỉ “người mình cả mà”. Dường như tất cả người Trung Quốc vượt biên gia nhập quân đội Cộng sản Miến Điện năm đó đều học câu tiếng Miến này đầu tiên. Nhóm vũ trang đang khép vòng vây, nghe tiếng hô của Tư Mã Khôi, quả nhiên lục tục ngừng bắn. Thấy đối phương tạm dừng hỏa lực, Tư Mã Khôi liền giơ cao hai tay biểu thị mình không có vũ khí, sau đó mới chậm rãi bước ra khỏi lùm cây đi đến trước mặt họ. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ Toán người xuất hiện ở mé chếch mỏm núi quả thực là quân đội bang Wa, những người này đều là dân binh dân tộc Wa sống tập trung ở biên giới Miến Trung, bất kể già trẻ gái trai, người nào da cũng đen thùi lùi, lại rất dũng cảm thiện chiến. Tuy bọn họn không biết chữ, nhưng đại bộ phận đều biết nói thồ ngữ dân tộc Wa và khẩu ngữ Vân Nam. Quân đội bang Wa là một lực lượng vũ trang địa phương rất có uy thế, thủ lĩnh của họ từng tiếp kiến lãnh đạo tối cao Trung Hoa thời kỳ đầu Cách mạng Văn hóa, thậm chí còn tự nhận mình là hồng vệ binh bang Wa của Mao Chủ tịch, mấy năm trước cũng từng tham gia phối hợp tác chiến với quân đội Cộng sản Miến Điện.Lúc đầu, thủ lĩnh quân đội bang Wa bị quân chính phủ bắt làm tù binh ở Lashio, khi chuẩn bị áp giải mang đi xử tử cũng là vừa lúc quân đội Cộng sản giành thăng lợi trong cuộc phản công chọc thủng sào huyệt kiên cô của địch, bộ đội kéo quân vào tận Lashio, kịp thời giải cứu vị thủ lĩnh thoát khỏi họng súng của quân chính phủ. Bởi vậy hai bên đã dùng máu để gắn kết tình bạn vững bền, mỗi lần gặp nhau đều có thể gọi nhau bằng cái tên “Méo duây pao pua”. Tư Mã Khôi còn nhớ quân bang Wa đều cư trú ở dải biên giới Miến Trung, nơi đó cách núi Dã Nhân một đoạn khá xa, sao họ lại xuất hiện giữa rừng rậm nguyên sinh cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài vậy nhỉ? Trong khi đó, toán quân bang Wa cũng cảm thấy khó hiểu về sự gặp gỡ bất ngờ với những kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm ở nơi rừng hoang heo hút này, nhưng đôi bên cùng là “méo duây pao pua” thì chắc chắn không thể nào sai được. Người cầm đầu toán quân Wa thấy tình hình của Hải ngọng có vẻ nguy cấp, liền ra lệnh cho bác sĩ quân y trong đoàn băng bó lại vết thương cho hội Tư Mã Khôi. Khi vào núi tác chiến, họ đều chuẩn bị đầy đủ các loại thuốc men dược phẩm cấp cứu và các dụng cụ phẫu thuật, có điều ông bác sĩ quân y trong đoàn cũng chỉ là ông lang vườn người bản địa, tay nghề không được cao siêu cho lắm. May mà y thuật của Tuyệt rất điêu luyện, cô lập tức dựng bệnh viện dã chiến đon giản để trị thương. Sau khi truyền máu xong, thì cái mạng của Hải ngọng cuối cùng cũng tạm thời được giữ lại. Sau đó, hai bên liền kể cho nhau nghe đầu đuôi câu chuyện của mình. Thì ra vùng này thuộc về địa phận sườn đông nam của núi Dã Nhân, đội quân bang Wa ở sườn bắc phát hiện có vài thành phần vũ trang lai lịch bất minh, bọn người này tiến hành hoạt động trinh sát trong núi Dã Nhân lúc thời tiết khắc nghiệt, người bang Wa lại cho rằng quân chính phủ phái quân bao vây, thế là họ liền điều một đoàn quân đi theo đường vòng tiến vào núi, chuẩn bị mai phục đánh quân địch. Hội Tư Mã Khôi trao đổi tin tình báo với người cầm đầu toán quân bang Wa, tiết lộ cho họ biết: gần đây các phần tử vũ trang và máy bay hoạt động ở vùng núi có khả năng đều là thuộc hạ của Nấm mồ xanh, mục đích của bọn chúng là truy lùng tung tích chiếc máy bay tiêm kích vận tải của không quân Hoàng gia Anh mất tích mấy chụcnăm về trước ở núi Dã Nhân. Xem dấu tích để lại thì có vẻ bọn chúng sẽ không gây ra bất kỳ uy hiếp gì đối với quân đội bang Wa đang chiếm cứ vùng phía bắc, trong khi đó quân đội chính phủ đang tập kết ở phía nam dãy núi cũng không có động thái muốn tiến ra bắc. Tư Mã Khôi nói bốn người các anh đều là thành viên đội du kích Cộng sản Miến Điện bị đánh tan rã, nhiệm vụ lần này của cả nhóm là phải về Bắc Kinh gấp để hồi báo trực tiếp rất nhiều tin tức tình báo quân sự quan trọng cho Mao Chủ tịch. Thủ lĩnh toán quân bang Wa nghe Tư Mã Khôi nói có đầu có cuối, vả lại cũng vô tình trùng khớp với một vài thông tin lính trinh sát thu thập được, nên liền tin là thật. Ông chỉ để một vài người ở lại trong núi tiếp tục theo dõi tình hình quân địch, số còn lại đều rút cả về căn cứ. Toán quân bang Wa từ biên giới Miến Lào lui về phía bắc, đoạn đường khá xa lại vất vả nên không tránh khỏi việc vượt núi băng rừng ngày đi đêm nghỉ, suốt mấy ngày liền ròng rã mới đến được vùng biên giới Miến Trung. Hội Tư Mã Khôi nghỉ ngơi mấy ngày ở căn cứ địa bang Wa, vết thương trên người La Đại Hải được điều dưỡng nên cũng dần dần có chuyển biến tốt. Bầu trời lúc này có chút u ám, cái bóng nguy nga sừng sững của ngọn núi tuyết Gao Li Gong bị tầng mây đen nặng trĩu bao phủ. Những kẻ may mắn sống sót của đội thám hiểm tuy đã đào thoát thành công khỏi núi Dã Nhân, nhưng trên mình mỗi người đều mang vết bỏng do chất độc màu da cam đốt cháy, hậu họa của nó để lại thật khôn lường, họ sẽ phải đón nhận kết cục gì trong tương lai. Chẳng cần nghĩ, trong lòng ai nấy cũng thầm biết rõ, bởi vậy mọi người bàn bạc xem sau này sẽ đi đâu về đâu, mỗi người đều có dự định riêng. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ Ở bang Wa đang thiêu một bác sĩ chuyên môn đúng nghĩa, người bản địa thấy y thuật của Tuyệt rất giỏi, hơn nữa tính tình cô hiền hòa, dễ gần, bèn xin cô ở lại giúp họ chữa bệnh. Tuyệt thấy ở đây có rất nhiều bệnh nhân không được điều trị hiệu quả, nên cô thật lòng không nhẫn tâm bỏ đi. Hơn nữa, gia đình Tuyệt bị liệt vào hàng phần tử bất hảo, nếu cô trở về Trung Quốc, chắc chắn sẽ làm liên lụy đến cả nhà, bởi việc năm xưa bỏ trốn khỏi Vân Nam chạy sang Miến Điện. Vì vậy, cô quyết định ở lại bang Wa giúp người dân chữa bệnh trị thương. Tư Mã Khôi cũng đồng tình với số mệnh mà cô lựa chọn cho mình. Anh xét thấy cứ điểm của bang Wa nằm giáp biên giới Miến Trung, nên quân đội chính phủ cũng không dám khinh suất mà khởi binh vây bắt. Ở đây nơi nào cũng là vùng núi hoang vắng, tất cả các trại đều chỉ có người dân tộc Wa thuần nhất sinh sống, người ngoài không dễ gì trà trộn vào được, Tuyệt chỉ cần mai danh ẩn tích, hóa trang thành nữ binh người Wa, cố gắng không tiếp xúc với thế giới bên ngoài, thì có lẽ ẩn trốn an toàn mấy năm ở đây cũng không có vấn đề gì. Thế là, anh không khuyên can cô nữa, chỉ dặn Tuyệt phải biết tự chăm sóc lấy mình, mọi việc đều cần thận trọng mới được. Riêng Tư Mã Khôi, mong muốn quay lại cố hương vẫn luôn nung nấu trong đầu anh, vì đội du kích Miến Điện còn có một nhiệm vụ cuối cùng, đó là những người sốt sót phải gắng sức trở về tổ quốc, tìm cách báo tin cho những người thân của những đồng chí đã bỏ thân nằm lại nơi chiến trường đất khách. Giờ đây, nhiệm vụ quan trọng và cao cả đó được đặt lên vai Tư Mã Khôi. Ngọc Phi Yến lại cho rằng: “Tuy tổ chức ngầm Nấm mồ xanh không hề có động tĩnh gì từ sau sự kiện núi Dã Nhân, như thể bọn chúng hoàn toàn bốc hơi theo mây khói vậy, nhưng trước khi chưa giải mã được mọi ẩn số bị chôn vùi dưới thành cổ Nhện Vàng, thì mọi người phải tuyệt đối cẩn thận, không thể yên tâm cho rằng mình đã bình an vô sự, nếu không sớm muộn gì tai họa cũng gõ cửa tìm đến, có trốn đến chân trời góc bể nào cũng không thể thoát khỏi sự truy sát của số mệnh. Để diệt trừ tận gốc hậu họa, chúng ta nên tìm cách quay trở lại thành Nhện Vàng, đoạt lấy đoạn sóng điện u hồn tồn tại ngàn năm trong mật thất mới được”. Chương 1.4: Viêm não Tòa thành Nhện Vàng còn lưu giữ một vong linh ngàn năm lởn vởn trong mật thất, nói chính xác hơn thì nó là một đoạn văn bản mật, một đoạn sóng điện cần sử dụng loại thiết bị cảm ứng đặc biệt mới có thể thu nhận được. Nấm mồ xanh đã chuẩn bị kế hoạch suốt mấy chục năm, cũng chỉ vì muốn đoạt được đoạn sóng điện u hồn bị vùi sâu dưới lòng đất đó. Tư Mã Khôi không phải không hiểu chỉ cần đoạt được sóng điện u hồn trong mật thất, thì nhất định có thể giải mã được mọi bí mật của kẻ cầm đầu tổ chức Nấm mồ xanh. Nhưng việc này quả thật quá gai góc, chẳng khác gì hổ con vồ nhím chúa, bắt được mà không biết há miệng đớp vào chỗ nào. Gương mặt thật sự của Nấm mồ xanh cũng như cách hắn lẩn trốn trước mặt đội thám hiểm, đều bị che đậy kín bưng như trong thùng tôn; vả lại thành cổ vương triều Chăm Pa giờ đã chìm nghỉm xuống đầm lầy, hiện tại chẳng còn bất kỳ manh mối nào mà lần dấu vết. Tư Mã Khôi cân nhắc nặng nhẹ, thấy rằng trước tiên vẫn nên trở về tổ quốc, hoàn thành nghĩa vụ với những đồng đội đã bỏ mình nơi chiến trận. Đối với anh, giờ đây không việc gì cấp thiết hơn trách nhiệm này. Còn Ngọc Phi Yến, tất cả thuộc hạ của cô trong Sơn lâm đội thiếu lão đoàn đều mất mạng trong núi Dã Nhân, hiện tại cô chẳng biết phải đi đâu, nhưng do sự ảnh hưởng của cục diện chính trị, nên cô cũng không thể theo hội Tư Mã Khôi cùng vượt biên trốn về Trung Quốc được. Tư Mã Khôi gợi ý cho Ngọc Phi Yến, mấy ngày nay, anh cùng toán quân bang Wa có nghe ngóng được một số tin tức trong nước, được biết vài năm gần đây những chiến hữu từ đội quân Cộng sản Miến Điện trốn về nước, đầu tiên đều bị nhốt cách ly chờ thẩm tra, mục đích chủ yếu là để đề phòng người được huấn luyện nghiệp vụ mật thám ở nước ngoài điều về nước làm nội gián, sau đó do số người phải điều tra quá nhiều, nên các quy trình cũng dần nới lỏng đáng kể. Có điều, trước khi vấn đề được điều tra rõ ràng thì không ai được phép trở về đất nước, mà phải tập trung xuống vùng nông thôn chịu quản thúc, hậu quả cũng không đến mức nghiêm trọng như ban đầu mọi người vẫn tưởng. Tư Mã Khôi còn nhớ: trước đây trong đội quân Cộng sản Miến Điện có một nữ chiến sĩ, trông hao hao giống Tuyệt, cũng xấp xỉ tuổi Ngọc Phi Yến, dung mạo khá tương đồng, lí lịch của cô ấy giống với hội Tư Mã Khôi, đều là con em thành phần hữu khuynh chạy trốn ra nước ngoài, song thân sớm đã không còn, trong nước cũng chẳng có ai thân thích. Năm ngoái, cô ấy cùng bộ đội hành quân trong rừng rậm. Đầm lầy ở khe núi là nơi cư ngụ của lũ ve hút máu, chỉ cần gặp người sống là chúng ùa đến “nhiệt liệt đón chào”, chúng chui vào da thịt nhanh như cắt, rồi luồn vào não hút máu, loại ve này tuy không đáng sợ bằng đỉa Campuchia ăn thịt người, nhưng trên mình chúng lại mang mầm bệnh “viêm màng não mủ”, xác suất truyền nhiễm sang người là một phần trăm, người nào bị lây truyền đều vô phương cứu chữa, chỉ còn cách chờ chết. Khi đó, cô ấy không may bị ve hút máu truyền bệnh, không có cách gì chữa trị được, cuối cùng đã chết, chính tay Tuyệt còn đào đất chôn cất cô ấy. Tư Mã Khôi bảo Ngọc Phi Yến giả mạo người nữ chiến sĩ đó, dù sao sau khi về Trung Quốc cũng bị đẩy xuống một vùng nông thôn hoang vắng nào đó, chỉ cần nhớ kỹ thân phận mới của mình, cố gắng học thuộc “ba bài ca” của Mao Chủ tịch(1), cán bộ ủy ban Cách mạng phụ trách quản giáo ở địa phương toàn là nông dân, trong mắt họ, con em thành phần hữu khuynh từ mặt khí chất cho đến dung mạo đều chẳng khác thanh niên trí thức là mấy. Làm gì có ai nhận ra cô? Cách này được gọi là “mưu cầu sinh tồn trước hiểm nguy” tuy không phải cách gì hay ho lắm, nhưng cũng không hẳn không phải một con đường sống. Ngọc Phi Yến nghĩ đến cảnh ngộ đường cùng của mình, chỉ còn biết nghiến răng nuốt hận: “Đi thì đi, chỉ có điều lão quỷ nhà anh hãy nhớ cho kỹ: nếu chẳng may tôi gặp phải chuyện gì bất trắc, thì việc đầu tiên tôi làm là khai ra anh chính là kẻ chủ mưu đấy!” Tuyệt cũng thấy kế hoạch này không khả thi, cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, làm sao che giấu mãi được, huống hồ nếu cứ làm theo cái cách hồ đồ này của anh Khôi thì chắc không qua nổi cửa thẩm tra đầu tiên, vạn nhất người ta lôi hồ sơ trong thành phố ra so sánh, thì sẽ lộ chân tướng ngay, lúc ấy có mồm năm miệng mười giải thích cũng không ai tin, mà đâu chỉ một mình Phi Yến phải chịu tội, có khi cả anh Khôi cũng không tránh khỏi liên lụy ấy chứ. Sau khi bàn bạc, Ngọc Phi Yến đành quyết định cao chạy xa bay đến Luân Đôn, cô dặn Tư Mã Khôi: “Ở Trung Quốc, tôi có một người chú họ chưa từng gặp mặt bao giờ, tên chú ấy là Thắng Thiên Viễn. Tuy cũng được học nghệ, nhưng con đường chú ấy lựa chọn không hề giống với bố tôi, chú ấv không hành nghề hối tử, mà đi du học ở Anh và Pháp, từng là viện sĩ trẻ tuổi nhất từ trước đến giờ ở Học viện khảo cố bảo tàng Pháp, đảm nhiệm chức vụ đội trưởng đội khảo cổ của Pháp – thường trú tại Ấn Độ, quanh năm lăn lộn ở những vùng có nhiều di tích lịch sử và giàu giá trị khảo cổ như Miến Điện, Campuchia, Việt Nam… Nghe bố tôi nói, khoảng đầu những năm năm mươi, chú ấy từng bị tổ chức Nấm mồ xanh lợi dụng, đã giải mã được một phần bí mật văn vật cổ đại, nhưng sau khi biết được âm mưu thực sự của tổ chức, chú ấy liền tìm cách trốn về Trung Quốc dưới danh nghĩa Hoa kiều, đồng thời đảm nhiệm một chức vụ quan trọng nào đó ở Bắc Kinh, từ đó đến nay chúng tôi hoàn toàn mất liên lạc. Chuyến này các anh trở về Trung Quốc hãy tìm cách đi gặp chú tôi, nếu chú ấy còn sống, có lẽ sẽ biết được chân tướng chôn vùi dưới tòa thành Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa. Có điều các anh phải tuyệt đối cẩn trọng, chúng ta sống thêm được ngày nào hay ngày đó, đừng có mang tính mạng của mình ra làm trò đùa nữa.” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ Tư Mã Khôi gật đầu đồng ý: “Chú cô đã là chuyên gia trong lĩnh vực khảo cổ học, hơn nữa lại chức cao vọng trọng, sau khi về nước chắc hẳn không thể nào từ bỏ sự nghiệp dở dang được, có điều từ sau khi Cách mạng Văn hóa bắt đầu, phần tử trí thức của các đơn vị đa số đều bị đẩy xuống vùng nông thôn. Ở Bắc Kinh, tôi cũng có một vài mối quan hệ, sau khi trở về sẽ nhờ người giúp dò hỏi xem sao, biết đâu lại tìm ra tung tích chú ấy”. Thế là Tư Mã Khôi bắt đầu thu xếp hành lý, thực ra ngoài hai bàn tay trắng ra thì anh cũng không còn gì nhiều mà sắp xếp, sau khi chuẩn bị qua loa, anh định khởi hành một mình. Ai dè Hải ngọng biết được việc này, tuy vết thương vẫn chưa khỏi hẳn, nhưng anh không chịu ở lại dưỡng thương, một mực đòi theo Tư Mã Khôi về nước. Anh bảo đã chán ngấy cái đất Miến Điện này rồi, vả lại cũng rất nhớ ông bố La Vạn Sơn đang ngồi nhà đá của mình, nên một ngày anh cũng không thể ở lại thêm được nữa. Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng đã xuống đất đi lại được, thì quay sang hỏi ý kiến của Tuyệt. Nhận được câu trả lời khẳng định từ cô, anh bèn đồng ý dẫn theo Hải ngọng về nước. Ở ngã tư con đường số mệnh, mỗi người đều có lựa chọn riêng cho mình, nhưng mỗi ngả đường đều chứa đầy biến cố và vô tri, giống như bị ngọn núi tuyết Gao Li Gong sừng sững đứng chặn trước mặt vậy. Bốn người rốt cục đã cùng nhau trải qua những giờ khắc sinh tử hoạn nạn, lại biết rõ con đường phía trước của mình tràn đầy biến động và hiểm nguy, nói không chừng, lần chia tay này sẽ là lần chia tay vĩnh viễn, trong lúc sắp biệt ly, ai nấy đều nặng trĩu tâm sự, mọi người im lặng, chẳng ai nói với ai câu gì, hoàn cảnh hiện tại thật đúng với câu nói của người xưa “Điều duy nhất khiến ta lặng lẽ, thẫn thờ, chỉ có chia ly mà thôi”. Tư Mã Khôi không muốn thấy mọi người thối chí, cảm nhận được bầu không khí nặng nề, anh bèn lay lay vai mọi người: “Thôi, các cậu đừng ủ rũ như gà mắc mưa thế nữa, chẳng phải chúng ta vẫn còn sống đây sao? Mai sau thiếu gì cơ hội gặp lại, nghĩ thế sẽ thấy tâm trạng vui vẻ hơn đấy”. Nói xong liền vẫy tay gọi Hải ngọng lên đường, rời khỏi bang Wa, cắm đầu đi một mạch về hướng biên giới Miến Trung. Giống với số phận của đa số những người rời khỏi Miến Điện trốn về nước, Tư Mã Khôi và Hải ngọng – ngoài việc bị kiểm tra sức khỏe, còn phải trải qua rất nhiều cuộc thẩm tra khác nữa, may mà vụ án Hạ Thiết Đông đã khép lại khá lâu, nên người ta không còn truy cứu nhiều về các vấn đề có liên quan. Nhưng tiếng tăm của Tư Mã Khôi và Hải ngọng khi còn vùng vẫy ở Miến Điện quả cũng không tầm thường, thậm chí ở trong nước người ta cũng phong thanh biết được, bởi vậy hai người họ không chỉ đơn giản bị đẩy xuống vùng nông thôn cải tạo lao động như dự liệu ban đầu, mà còn bị tống vào một xưởng sản xuất gạch ngói ở vùng ngoại ô heo hút thuộc Trường Sa để quản thúc. Ban ngày thì lao động chân tay, tối đến họ lại phải ngồi viết tường trình ở lóp học cải tạo, ghi chép tường tận, chân thực, nguyên văn tất tần tật mọi việc lớn nhỏ từng tham gia ở Miến Điện, còn về việc sau này sẽ tiếp tục bị nhốt hay được thả, đều phải do các ban ngành có liên quan thẩm tra chứng thực trước đã, đợi sau khi có kết luận mới định tội được. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ Tư Mã Khôi không ngờ quá trình thẩm tra lại diễn ra nghiêm ngặt đến thế, thậm chí ngay cả viết thư cho gia đình cũng bị hạn chế, về cơ bản hoàn cảnh của hai người gần giống với trạng thái cách ly, hoàn toàn không được liên lạc với anh em bên ngoài, hiện tại người duy nhất dược phép đến thăm nom hai người chỉ có mỗi mình Hạ Cần – cô bạn học cùng lớp ngày xưa. Mấy năm nay, bố của Hạ cần đã thăng quan làm tới chức phó tư lệnh. Sau khi cô gia nhập quân đội, thì được điều đến làm việc tại Viện y học tổng quân khu. Sau ngần ấy năm xa cách với Tư Mã Khôi và Hải ngọng, giờ đây tướng mạo ba người đều thay đổi rất nhiều, nhưng tình bạn ngày xưa thì vẫn vậy. Lúc này gặp mặt, ba người họ vừa vui mừng vừa ngạc nhiên, thật là trăm mối tơ lòng lẫn lộn. Hạ Cần gạt nước mắt, trách cứ bạn: “Các cậu nổi tiếng quá rồi còn gì. Khi đó lấy đâu ra dũng khí mà gan to thế hả? Dám chạy đến Việt Nam, bị người ta bắt lại vẫn còn không chừa, tiếp tục trốn khỏi nông trường sang Miến Điện. Ra ngoài náo loạn bao nhiêu năm, bây giờ lại biết đường mà quay trở về cơ đấy?” Giờ đây trở về Trung Quốc, đại Cách mạng Văn hóa giai cấp vô sản rầm rộ vẫn chưa kết thúc, Tư Mã Khôi và Hải ngọng cũng đành phải đổi giọng với cô nàng, không dám ba hoa khoác lác nữa, mà chỉ ngậm ngùi cảm thán: “Cậu đừng nhắc đến mấy việc đấy nữa, hồi đó tuổi trẻ nông nổi chưa hiểu chuyện ấy mà, nên mới phạm phải sai lầm chủ nghĩa manh động, gây ra tổn thất cho cách mạng thế giới, bây giờ bọn tớ thực sự có hối cũng không kịp nữa. May mà ngựa vẫn còn dừng được cương trước bờ vực, bọn tớ biết mình sai lầm trầm trọng rồi, bây giờ có nằm mơ cũng muốn được lao vào vòng tay ấm áp của nhân dân tổ quốc, vì thế cậu mau về nói với bố cậu, thử tìm xem có cách nào kéo bọn tớ ra khỏi chỗ này không nhé!” Hạ Cần nói: “Các cậu ấy à, trước tiên cứ ngoan ngoãn chịu nhốt trong này cái đã. Nếu không thì cứ việc dỡ ngói mà chui ra”. Đoạn cô nàng nhắc đến ông bố phó tổng tư lệnh của mình cứ mãi canh cánh trong lòng về tin tức của anh Thiết Đông, định sẽ dò la chỗ Tư Mã Khôi và Hải ngọng. Năm đó, anh Thiết Đông bị người ta vu oan cho là muốn hành thích Thủ tướng Chu(2). Bây giờ mọi việc đã được minh oan, nhưng gia đình vẫn không thể nào liên lạc được với anh ấy. Nghe đến chuyện này, Tư Mã Khôi và Hải ngọng chững người lại một hồi lâu, lòng như bị ai dùng dao cắt vậy, nhưng cũng không dám giấu giếm sự thực, đành phải nói thật với Hạ cần, duy việc anh Thiết Đông bị quân chính phủ chôn sống thì giấu nhẹm, mà nói chệch đi thành anh bị quân mai phục bắn chết, lúc tử trận rất đột ngột nên cũng không cảm thấy đau đớn gì. Khi mới hay tin, Hạ cần kinh ngạc tột độ, cô đau khổ khóc không thành tiếng. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ Tư Mã Khôi nhờ Hạ cần giúp đỡ hai người hai việc, thứ nhất là thông báo tin tức cho người nhà những chiến hữu đã ngã xuống nơi đất khách quê người, tiếp đó là đi tìm xem gia đình Tuyệt có còn ai nữa không, bây giờ họ sống thế nào. Vốn dĩ Tư Mã Khôi và Hải ngọng cũng không ôm bao nhiêu hy vọng vào việc này. Sau khi Hạ cần đi, Hải ngọng lại biết ông La Vạn Sơn đã nhắm mắt xuôi tay hai năm trước vì mắc bệnh nặng, hai người lại càng thêm buồn rầu, nhưng cũng chẳng biết làm gì khác ngoài việc tiếp tục khổ sở chịu đựng những ngày tháng dài lê thê trong xưởng gạch ngói buồn tẻ này. Bản tường trình không biết đã viết mấy trăm ngàn chữ, hai người càng lúc càng sốt ruột, mà thực sự chẳng thể nghĩ ra nổi chiêu nào, đành quyết định không màng đến hậu quả, tìm thời cơ chạy trốn ra khỏi xưởng làm gạch. Xưởng gạch ngói nằm ở nơi đất hoang người hiếm, phía trong chỉ có mấy căn phòng vừa nhỏ vừa thấp, dùng làm lớp học cải tạo và quản thúc, mái nhà lợp bằng vài tấm gỗ gá vào nhau, để thông hai đầu bắc nam, đủ rộng cho mấy chục người chung sống. Phần lớn những người này đều là thành phần bị quy là hữu khuynh và thành phần tư sản, đang tiếp nhận quá trình thẩm tra, nên phạm vi hoạt động của họ tương đối tự do, buổi tối không có cảnh vệ cai quản, chỉ có một vị ủy viên cách mạng là phó chủ nhiệm Mã thỉnh thoảng soi đèn pin loang loáng đi thị sát và đôn đốc mọi người học thuộc tài liệu tuyển tập của Mao Chủ tịch. Cường độ lao động ban ngày ở xưởng gạch ngói rất cực nhọc, mỗi ngày phải dậy từ sáng sớm tinh mơ. Phạm nhân cải tạo lao động đều được xe tải đưa từ ngoài vào nông trường cạnh đó, rồi bị nhốt làm việc ở bên trong. Tư Mã Khôi phải cùng những người này tham gia lao động, anh quan sát thấy lúc đó có một vài chiến sĩ cầm súng tuần tra đứng xung quanh. Hải ngọng vì đang bị thương, nên được phép nghỉ trong phòng ngồi viết tường trình, không cần đi lao động, nhimg mấy hôm trước, vết thương đã gỡ đến những mối chỉ cuối cùng, áng chừng chẳng bao lâu sau cũng không thể tiếp tục hưởng thụ đãi ngộ này nữa, bởi vậy anh không dằn lòng nổi, nếu quả thực phải sống cả đời trong cái nhà lao này, thì chẳng thà quay lại Miến Điện gia nhập quân đội bang Wa cho xong. Hải ngọng lầu bầu giục Tư Mã Khôi mau tìm cách trốn ra ngoài. Đúng lúc hai người đang bàn kế cho lần trinh sát ban đêm kế tiếp, trước tiên phải tường tận tình hình bố trí xung quanh, sau đó mới tính tiếp, thì phó chủ nhiệm Mã đột ngột đẩy cửa bước vào, ông ta lớn giọng phê bình: “Làm gì thầm thì như buôn bạc giả thế hả? Hôm nay hai anh viết bản tường trình đến đâu rồi?” Tư Mã Khôi lập tức nhăn mặt kêu oan: “Chủ nhiệm ơi, em viết mòn mấy cái ngòi bút rồi đấy, không biết bao giờ tổ chức mới có kết luận về việc của bọn em thế? Bây giờ đang là thời khắc nước sôi lửa bỏng để giành lấy thăng lợi toàn diện của đại Cách mạng Văn hóa giai cấp vô sản, thế mà tổ chức cứ bắt bọn em lãng phí thời giờ quý báu vào mấy việc vô giá trị này, điều ấy có thể hiện được đầy đủ chính sách mở lối thoát của Đảng và nhân dân không ạ?” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ Phó chủ nhiệm Mã nghe xong liền thấy lo thay cho hai thanh niên trẻ tuổi, tư tưởng ý thức của họ quả thực có vấn đề lớn, bởi vậy lần nào gặp cũng phải giáo huấn một tràng dài lê thê. Lần này cũng không ngoại lệ, ông nghiêm mặt lên giọng cấp trên chỉ dạy: “Anh Khôi này, anh đừng có suốt ngày phàn nàn thế, cũng không nên đế tinh thần sa sút, ruột anh trông thế nào, tôi đều rõ cả, khúc nào mà chẳng trơn nhuồi như bôi mỡ, viết tường trình mà sai lỗi chính tả chi chít, câu trước không ăn nhập gì với câu sau. Tôi thấy chẳng ai trong lớp cải tạo nhiều lời quỷ quái bằng anh. Tôi khuyên anh nên kiên nhẫn hơn nữa, tổ chức đã sớm bắt tay điều tra vụ việc của hai anh, nhưng việc này còn can hệ đến nhiều mặt khác, không thể hoàn thành trong một sớm một chiều được. Tuy rằng thành phần gia đình hai anh không được tốt lắm, vấn đề cũng tương đối phức tạp, nhưng Mao Chủ tịch đã chủ trương rõ ràng, xà chính không thẳng, xà phụ sẽ vênh, các anh không được để mình bị tiêm nhiễm những luận điệu của bọn phản động xấu xa. Cái này nói lên điều gì hả? Nói lên rằng Đảng và nhân dân không bao giờ bỏ rơi các anh cả, vì thế các anh hãy trung thực giải trình mọi việc, nghiêm khắc tự kiểm điểm tất cả lỗi lầm đã mắc phải, kiên quyết đứng về bên chiến tuyến cách mạng vĩ đại của Mao Chủ tịch, trân trọng lối thoát mà Đảng và nhân dân khoan hồng mở ra cho các anh, không nên phụ lòng Đảng và nhân dân đã ra tay cứu giúp…” Phó chủ nhiệm Mã thấy hai người nghe một cách lơ đễnh, nên cụt cả hứng, bèn chốt hạ nốt câu cuối cùng: “Trong mấy ngày còn lại, các anh cố tranh thủ thời gian mà thu xếp cho xong xuôi, đến cuối tháng là phải lên đường rồi đấy!” Hải ngọng nghe xong chết điếng cả người, nhảy dựng lên hỏi: “Cuối tháng là lên đường ạ? Bây giờ mới là tháng mấy? Chẳng phải bình thường đều qua mùa thu mới bắt đầu hành quyết sao?” Tư Mã Khôi nghe tin cũng cảm thấy toàn bộ khí huyết như bị dồn ngược lên đỉnh đầu: “Hành quyết sau mùa thu là lịch vạn niên từ thời tiền Thanh, hơn nữa nhà nước xử tử kẻ phản đồ, từ trước đến nay có bao giờ câu nệ ngày giờ đâu, hai đứa bọn mình chắc chắn bị chụp mũ hàng địch phản quốc rồi”. Phó chủ nhiệm Mã ngao ngán lắc đầu bảo: “Chỉ giỏi suy diễn linh tinh, ai bảo đem các anh ra xử bắn hả? Tôi thấy chắc cũng chỉ vài hôm nữa là có kết luận về vụ việc của các anh, đến lúc đấy còn muốn ở lì trong này không đi hả? Có điều trước khi đến lúc ấy, các anh cứ giám sát lẫn nhau đi đã, tích cực tự giác kiểm điểm, cố gắng đào thải hêt mọi chất độc chảy trong tư tưởng, tinh thần và trong huyết quản ra cho tôi”. Tư Mã Khôi nghe ý của phó chủ nhiệm Mã dường như là hai người được thả, anh cảm thấy có chút bất ngờ, trong lòng thầm mắng lão già họ Mã, hai chữ “lên đường” mà dám mang ra sử dụng tùy tiện thế hả? Làm ông đây chết mất bao nhiêu tế bào não dùng để suy ngẫm cuộc đời. Hai người lại dò hỏi tình hình cụ thể, thì ra việc hôm trước Tư Mã Khôi nhờ vả Hạ cần, đã được cô nàng thực hiện chu đáo, phó tổng tư lệnh Hạ đồng ý giúp đỡ. Hơn nữa, trước giải phóng, khi còn đánh nhau ở Quan ngoại, bố của Tư Mã Khôi và bố của Hải ngọng cùng phó tổng tư lệnh Hạ từng chung một đại đội, đôi bên cũng có ít nhiều mối giao tình. Đến bây giờ, sau bao nhiêu năm tháng, ninh lâu xương lợn còn phải nhừ, được người giúp đỡ thì nạn gì mà chẳng qua, vả lại kỳ thực vụ việc của hai người cũng không phải vấn đề gì to tát lắm, họ lại là con cháu của những người làm cách mạng, chỉ cần thủ trưởng nói thêm vào đôi câu, thì quá trình thẩm tra của Tư Mã Khôi và Hải ngọng liền mau chóng chấm dứt. Quả nhiên, chẳng bao lâu sau, hai người không bị quản thúc nữa, nhưng sau khi ra khỏi trại cải tạo, trên người không còn một xu dính túi, chẳng thà cứ ở lại xưởng gạch ngói lao động khổ cực vẫn hơn, chí ít ở đó không cần lo lắng một ngày ba bữa. Lúc này, hai người phải nghĩ cách giải quyết vấn đề sinh tồn, nên đành gia nhập binh đoàn sản xuất xây dựng, đến vùng hoang vắng ở Hắc Long Giang cực kỳ thưa thớt dân cư để xây dựng tổ quốc. (1) ‘‘Ba bài ca” của Mao Chủ tịch: là ba bài văn ngắn của Mao Trạch Đông, phát biêu trước khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập, lần lượt là “Vì nhân dân phục vụ”, ‘Tưởng niệm đồng chí Henry Norman Bethune” (Henry Norman Bethune 1890 -1939, bác sĩ người Canada, chiến sĩ hòa bình sang giúp Giải phóng quân Trung Quốc trong những năm 1938-1939) và “Ngu Công dời núi”, ba bài phát biểu này đều nhằm nhấn mạnh tư tưởng của đảng Cộng sản là vì nhân dân phục vụ, không màng lợi ích cá nhân và gian khổ phấn đấu. (2) Thủ tướng Chu: Chu Ân Lai (1898 – 1976), là nhà lãnh đạo xuất chúng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thủ tướng đầu tiên Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Chương 1.5: Ma Trống Hai người hợp sức nghĩ cách, tục ngữ nói rất hay: “Cứu người gặp nạn chứ không cứu kẻ khốn cùng”, chúng ta đều là trang nam tử hán vai năm tấc rộng thân mười tấc cao, không thể ngồi đây mà chờ Hạ Cần người ta đến cứu tế, phải nhanh chóng tìm ra cách để an cư lạc nghiệp mới được. Có điều, cứ theo tình hình thực tế mà xét, trong khi đại Cách mạng Văn hóa vẫn chưa kết thúc, thành phần công nông binh về cơ bản vẫn làm việc theo lối mòn suy nghĩ: một cái hố trồng một củ cải, thì không thể tìm nổi công việc nào cho ra hồn mà làm; thêm nữa Tư Mã Khôi và La Đại Hải lại lăn lộn bao nhiêu năm trong quân đội Cộng sản Miến Điện, từ trước đến nay nào hay biết pháp luật kỷ cương là thứ gì, khắp mình rặt mùi khí du kích, làm sao cam tâm đến tận Hắc Long Giang heo hút kia khai khẩn đất hoang. Chẳng còn cách nào hơn, họ đành chạy về khu Hắc Ốc sống tạm bợ qua ngày. Vùng ngoại ô Hắc Ốc vốn dĩ là nơi tập kết của những thành phần nhàn rỗi lêu lổng dưới đáy xã hội, nó đồng thời cũng là danh từ thay thế cho thế giới ngầm bản địa. Không biết bao nhiêu lần sở công an và ủy ban cách mạng tìm cách xóa sổ ổ nhóm này, nhưng mãi đến tận bây giờ vẫn không thể triệt tiêu hoàn toàn được. Năm đó, Tư Mã Khôi từng một thời tung hoành ngang dọc nơi đây, bây giờ vẫn còn rất nhiều người quen. Ở Trung Quổc, mối quan hệ là nguồn tài sản quan trọng nhất, nếu muốn dấn thân vào xã hội, quen người tất sẽ thông đường, như vậy mới có cơ hội kiếm miếng ăn, rốt cục ai sống mà chẳng phải ăn, sinh tồn là tiền đề cho mọi hành vi xã hội, nếu không có cái ăn thì đừng nói đến kế hoạch này nọ làm gì cho mệt. Khi đó, khu Hắc Ốc chủ yếu sống nhờ vào con đường sắt, hàng tuần đều có một chuyến tàu vận chuyển lơn sống từ Hồ Nam đến thẳng Quảng Châu, sau đó dỡ hàng xuống xếp lên xe chở đến Hồng Kông. Cả đi lẫn về tuốt tuột hết sáu ngày, trên toa tàu cần người phụ trách quét dọn và cho lợn ăn, những công việc này vừa vất vả vừa mệt mỏi, lại còn vô cùng bẩn thỉu, mà nếu lỡ gặp vận rủi, lũ lợn sống chết quyêt tâm chạy trốn, thì những người chăm sóc nó phải chịu trách nhiệm liên quan. Những công việc này từ trước đến nay chỉ thuê nhân công thời vụ, nhưng thù lao thì tương đối khá khẩm, một chuyến đi như vậy được hai mươi tệ. Khu Hắc Ốc có rất nhiều lao động tự do tranh cướp công việc này. Tư Mã Khôi và Hải ngọng nhờ người quen mách đường, đút lót cho ông quản lý đường sắt một tút thuốc thơm thượng hạng, nhờ vậy mới giành được công việc này. Nhưng ngay từ lần đầu tiên lên tàu làm việc, cả hai đã trợn mắt há mồm, tuy mặt đã bịt đến hai lượt khẩu trang nhưng cái mùi hôi thối nhức mũi vẫn sộc vào tận óc, tởm lợm đến nỗi tới bữa không nuốt nổi cơm, vả lại lúc vác thùng nước gạo vào toa nuôi lợn, thì trời ơi, còn khủng khiếp hơn cả bị quân chính phủ bao vây ở Miến Điện. Lũ lợn đói vừa nhìn thấy thức ăn liền sầm sập lao đến, bất luận hò hét thế nào chúng cũng không chịu dừng lại, nếu Tư Mã Khôi không nhanh chân lẹ tay thì chắc đã bị chúng xông lên giẫm chết tại chỗ rồi. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ Hôm đó, hai người vất vả lắm mới cho lợn ăn xong, mệt đứt cả hơi, bò lên nóc tàu ngồi hút thuốc, Hải ngọng đột nhiên hỏi Tư Mã Khôi: “Cậu còn nhớ Mã trọc không?” Tư Mã Khôi nói: “Đương nhiên là nhớ, có lúc tớ còn nằm mơ thấy bộ dạng ngồi trên nóc tàu hỏa của cậu ta nữa kia. Bố mẹ Mã trọc chỉ có mỗi mình cậu ta là con trai độc đinh, bên trên có sáu chị gái, gia đình cung phụng cậu quý tử như bảo vệ con ngươi chính mình, từ nhỏ chẳng để cậu ta phải làm việc gì vất vả, ngay cả đi học cũng do các chị lần lượt đưa đi đón về. Năm diễn ra phong trào Hồng vệ binh của học sinh sinh viên, nghe đồn Mao Chủ tịch sẽ đến núi Cảnh Cương thị sát, mấy triệu hồng vệ binh trên toàn quốc đều ‘rồ lên’ kéo nhau đổ về đó. Tàu hỏa chật cứng người, chẳng tìm nổi chỗ mà đặt chân. Khi ấy, Mã trọc cũng muốn đi. Bố cậu ta vừa nghe con trai nói đi gặp Mao Chủ tịch, thì thấy vinh dự quá còn gì, tưởng như cả mồ mả tổ tiên nhà họ Mã cũng sắp phun khói xanh tới nơi, nghĩ thế ông liền đồng ý cho cậu ta đi cùng hội mình. Trước khi đi còn dặn dò đủ thứ, lại cho hẳn một cặp sách trứng gà mang theo. Hội mình không len chân vào trong toa được đành phải bò lên nóc tàu ngồi. Mã trọc từ nhỏ chưa bao giờ bước chân ra khỏi cửa, càng chưa bao giờ được ngồi tàu hỏa, không biết rằng tàu còn phải đi xuyên qua lòng núi, khi đoàn tàu vừa chạy vào đường hầm, xung quanh lập tức tối thui như mực, cậu ta sợ hết hồn hết vía, quên mất mình đang ngồi trên nóc tàu lao nhanh, liền vụt đứng dậy định chạy trốn; kết quả đầu đập phải thành đường hầm. Cái chết quả là quá thảm khốc. Sau khi xuống tàu, hội mình liền quay trở lại đường hầm tìm thi thể cậu ta, cảnh tượng não óc vương vãi khắp mặt đất, có lẽ đến khi chết tớ cũng không thể nào quên được”. Hải ngọng cũng thở dài nói: “Sau này mọi người mới vỡ lẽ, thì ra tin Mao Chủ tich đến thi sát ở núi Cảnh Cương chỉ là tin vịt, làm cậu Mã trọc chết, đúng là mẹ nó chứ, không đáng tẹo nào, cái thằng oắt đấy và tớ hồi nhỏ chơi khá thân với nhau, dính như hình với bóng, tớ toàn chăm sóc cậu ta”. Tư Mã Khôi ngạc nhiên hỏi: “Cậu đang tưởng chuyện trong mơ là sự thật đấy à? Sao tớ lại nhớ hồi đó cậu chuyên gia đi bắt nạt trẻ con nhỉ, cái cặp sách đựng đầy trứng gà mà Mã trọc mang theo, lúc tàu còn chưa kịp chuyển bánh, thì đã bị cậu oanh tạc mất một nửa. Rốt cục thì cậu thân thiết với Mã trọc hay thân thiết với mấy quả trứng gà nhà cậu ta hả?” Hải ngọng vội phản ứng: “Tiên sư nhà cậu, cậu nghĩ thế thì còn nói làm chó gì nữa, chẳng phải bây giờ tớ đang ngồi trên nóc tàu hỏa buồn nẫu ruột tưởng nhớ đến thằng bạn cũ đây sao?” – Nói đoạn, anh trầm ngâm một lát rồi tiếp: “Bọn mình chịu đựng khổ cực thế này thực ra cũng chẳng thấm tháp vào đâu, nhưng cái chính là làm xong việc chỉ biết ngồi đờ đẫn trên nóc tàu, thật nghĩ mà nản, vả lại cả ngày bận tối mắt tối mũi cố kiếm chút tiền xương máu mà cũng chỉ đủ làm no cái bụng, bọn mình phải chịu cảnh này đến mùa quýt nào mới có ngày nở mày nở mặt ra được hả?” Tư Mã Khôi gật đầu bảo: “Cái công việc tệ hại, bám theo xe lửa nuôi lợn cho anh em thuộc địa thực dân kia, tớ cũng chẳng muốn làm tí nào, tội nợ này đâu phải để con người chịu đựng. Tớ định sẽ đến Bắc Kinh để dò hỏi tung tích của ông Thắng Thiên Viễn, nhân tiện đi kiếm tí tiền, giải quyết vấn đề cơm áo trước mắt cái đã”. Hải ngọng nghe đến tiền thì lập tức hào hứng hẳn lên: “Cậu có nơi nào kiếm ra tiền ở Bắc Kinh à?” Tư Mã Khôi nói: “Năm xưa, chiếc áo khoác da chuột xích long tuấn mã mà Triệu Lão Biệt mang ra đổi chác với bọn mình, là một vật vô cùng hiếm có, suốt thời gian đi Miến Điện, tớ vẫn nhờ Hạ Cần giữ hộ, Bắc Kinh là thành phổ lớn, chắc sẽ dễ tìm thấy người mua nó.” Nói là làm ngay, khi chuyến tàu vừa trở về Trường Sa là họ lập tức bỏ việc đến Bắc Kinh. Nhờ vào các mối quan hệ trước đây, hai người vừa dò la tin tức của ông Thắng Thiên Viễn, vừa tìm một số người thích sưu tầm bảo vật có thể mua chiếc áo lông chuột. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ Năm ấy, đại Cách mạng Văn hóa tuy vẫn chưa kết thúc hẳn, nhưng Bắc Kinh vốn nổi tiếng là nơi “thế giới đa hệ”, con người trong thiên hạ có trăm phương ngàn kế mưu sinh khác nhau, kiểu gì mà chẳng tìm ra những kẻ chuyên mua bán đổi chác bảo vật nhân thời kỳ bài trừ tứ cựu(1), những người này rất am hiểu cái gì là xã hội, bọn họ không ai không tỏ tường cái lẽ: triều đại nào mà chẳng có khi biến động? Nếu cuộc sống lúc nào cũng thanh bình ấm no, thì đồ cổ cũng không thể lưu lạc xuống tận hang cùng ngõ hẻm, bị người ta trao đi đổi lại với cái giá bèo bọt chẳng khác gì mớ rau ngoài chợ. Có điều, thời thế chính trị biến động đến mấy thì sớm muộn gì cũng phải có ngày kết thúc, tới lúc ấy, mấy thứ cổ lỗ sĩ sẽ lập tức quay ngoắt tăng giá vùn vụt, có khi lãi gấp trăm gấp ngàn, lợi nhuận khổng lồ đến dễ dàng, chẳng khác gì từ trên trời tự dưng rơi vào mồm. Thời xưa, người ta gọi những kẻ chuyên thu mua đồ cũ là kẻ “đánh trống con”, vì họ thường đeo một cái túi vải lớn trên lưng để đựng tiền, tay gõ vào mặt trống tròn dẹt to cỡ lòng bàn tay, vừa đánh trống vừa sục sạo khắp các ngõ ngách, phạm vi thu mua rất rộng, đồ đắt có khi là đồ cổ vàng ngọc, trang sức, tranh chữ… đồ rẻ tiền có khi chỉ là mấy cái nồi sứt bát mẻ, lông gà lông vịt vụn vặt. Nói tóm lại, chắng có thứ gì bọn họ không thu mua. Trong năm nghề tám nghiệp lưu hành ở Bắc Kinh cổ xưa, nghề này ỉuôn chiếm một phương, vì thế cho đến tận bây giờ những kẻ hành nghề thu mua vẫn rất hãnh diện với tên gọi cũ. Chỉ có điều, thời kỳ diễn ra đại Cách mạng Văn hóa họ chuyển sang hoạt động bí mật, không dễ gì lộ mặt ra ngoài, cho dù là người rất thông đường thuộc nẻo muốn tìm bọn họ cũng còn khó nữa là. Gia thế của Tư Mã Khôi khác với người thường, cả thành Bắc Kinh có tên thu mua nào không biết anh là hậu duệ của gia tộc họ Trương, gốc gác đâu phải hạng xoàng. Muốn bán đồ tốt, bao giờ chủ nhân cũng phải kể tường tận ngọn nguồn gốc gác của nó, bởi vì mấy món này không phải từ trên trời tự dưng rơi xuống, càng không phải từ dưới đất bỗng chốc mọc ra. Nếu như tổ tiên ba đời nhà anh đều là phu khuân vác ở bến tàu, rồi một ngày anh đột nhiên mang một món đồ cổ có giá trị cực lớn đem đi bán, thì chẳng cần liếc, cũng có thể khẳng định chắc chắn nó là hàng nhái. Nhưng một người xuất thân từ gia đình giàu có danh giá thì lại khác, cho dù bây giờ người ta đã khuynh gia bại sản, nhưng không chừng, họ vẫn có thể moi móc được món đồ tốt từ một xó xỉnh ngóc ngách nào đó cũng nên, rồi mang ra chợ bán thì giá trị của nó đúng là thôi rồi. Đúng như dự đoán, quả nhiên có mấy vị “đánh trống con” sau khi biết tin liền mời Tư Mã Khôi vào trong một ngôi nhà ở gần đầu phố bán đèn để xem hàng, một trong những vị đó có một lão sư phụ họ Lưu, tên thật là Lưu Hoài Thủy, người quen đều gọi chệch tên lão là Lưu Hoại Thủy, do lão có con mắt tinh tường thần khóc quỷ sầu nên còn được người ta đặt biệt hiệu Thủy ma trống. Tổ tiên sáu đời nhà lão Lưu Hoại Thủy đều xuất thân từ nghề đánh trổng con, thông tin này là có chứng cứ hẳn hoi, thậm chí có người còn đồn ngay từ thời Tống, nhà lão đã bắt đầu cai quản trường sinh khố(2), và chẳng ai ở đây có kinh nghiệm “đánh trống” dày dạn như lão. Thủy ma trống đeo cặp kính lão, ăn mặc giản dị xuề xòa, chân đi giày vải, tay xách chiếc túi giả da kiểu cũ, trông chẳng lộ chút tông tích gì, nếu không phải người trong nghề thì ai nhìn cũng nghĩ lão đại khái là viên kế toán của một cơ quan nhà nước nào đấy. Người này từ trước đã đi lại khá thân mật với nhà họ Trương, còn những người mua khác đều do lão ta dắt mối đến, vừa nhìn thấy Tư Mã Khôi và La Đại Hải, bọn họ vội đến thỉnh an theo đúng quy tắc cũ, đã vậy cứ mở miệng là gọi Tư Mã Khôi một điều bát lão gia, hai điều bát lão gia. Tư Mã Khôi biết đây chỉ là mấy lời khách sáo xã giao, chứ xã hội ngày nay làm gì còn ai coi ai là lão gia nữa, nhưng anh vẫn khiêm tốn từ chối: “Lưu sư phụ! Tôi không dám nhận cái danh này đâu, ông bác làm tôi tổn thọ rồi đấy!” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ Lão Lưu Hoại Thủy cười cầu hòa đáp lời: “Từ thời ông nội tôi đã bắt đầu làm bậc tôi tớ cho nhà họ Trương, tuy xét về tuổi tác thì tôi có lớn hơn thật, nhưng xét về địa vì thì tôi ở hàng dưới, nhìn thấy lão gia không gọi bát lãogia thì còn biết gọi là gì? Thứ tự trên dưới trước sau không thể tùy tiện sắp đặt được. Chẳng hay chuyến này Bát lão gia về Bắc Kinh có mang theo món gì hay ho từ nhà ra không vậy? Nếu có thì mau bày ra cho bọn tôi được mở rộng tầm mắt”. Vì muốn kiểm thêm tí tiền, Tư Mã Khôi đã cùng La Đại Hải bịa sẵn một câu chuyện từ trước. Lúc này nghe lão Lưu Hoại Thủy hỏi, liền ra vẻ khó xử nói: “Chút sản nghiệp tổ tông nhà tôi để lại đã sớm tiêu tán từ lâu rồi, bây giờ ngay cả túp lều che nắng che mưa cũng chẳng còn, thì lấy đâu ra món gia truyền nào nữa. Có điều gia đình nhà trại chủ La Đại Hải đây lại có một món đồ lót đáy hòm đấy, các vị có nhã hứng thì cứ thử thưởng thức xem sao!” Lão Lưu Hoại Thủy đeo cặp kính lão liếc mắt thầm đánh giá Hải ngọng, lão ta nhìn người rất tinh tường, vừa thấy khí chất và trang phục La Đại Hải vận trên người, liền khẳng định tên tiểu tử này ắt không phải hạng xoàng, có lẽ là cậu ấm con nhà quan chức nào đó, nhưng chắc chắn không phải hậu duệ của một danh gia vọng tộc thời xưa, mà cán bộ bây giờ phần lớn đều xuất thân tò thành phân công nông binh, làm gì có nổi món đồ gia truyền nào chứ? Nhưng chưa biết chừng đó là món đồ cướp được khi bài trừ tứ cựu cũng nên, nghĩ vậy lão bèn cất giọng dò hỏi: Chẳng hay Hải trại chủ đây, kiếm ăn ở núi nào?”. La Đại Hải xua tay bảo: “Trại chủ với đầu lĩnh cái gì, hàng chục năm trước đã không còn ma nào xưng hô như vậy nữa, ông bác chỉ cần gọi tôi Hải ngọng là được rồi”, sau đó anh liền móc một viên ngọc trong túi quần ra, rồi tua lại nguyên văn lời thoại đã học thuộc lòng từ trước: “Ông bác đừng thấy bố tôi chỉ là ông nông dân chân lấm tay bùn vác súng khởi nghĩa làm cách mạng, tổ tiên tám đời chẳng có nổi bữa cơm dằn bụng mà coi thường, nói về chơi đồ cổ ấy à, chẳng dám so sánh với bậc chuyên gia lọc lõi như ông bác, nếu ông bác là phi công lái máy bay thì nhà tôi cùng lắm cũng chỉ là thằng trẻ ranh chơi thả diều. Nhưng tổ tông họ La nhà tôi, đời nào cũng toàn thiện nam tín nữ, tích cả tám đời ân đức, thì làm gì có chuyện không đế lại một hai món bảo bối trấn tà giữ nhà được chứ? Bây giờ món đồ đó truyền đến đời tôi, trong nhà quả đúng cũng chỉ có mỗi mình nó là đáng đồng tiền bát gạo mà thôi, tôi vốn dĩ cũng định di chúc lại cho con cháu đời sau, nhưng biết làm sao được, ai bảo tôi và bác có duyên với nhau làm gì, nếu bác ngắm ưng mắt thì cứ cho đại một cái giá, coi như món quà ra mắt để lấy chỗ đi lại, tôi cũng cam lòng nhịn đau mà chia sẻ nó cho bác”. Lão Lưu Hoại Thủy lại hỏi: “Viên ngọc này của anh còn có truyền kỳ gì nữa không?”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ La Đại Hải nói: “Đương nhiên có chứ, viên ngọc này lai lịch vô cùng phi phàm đấy, nếu kể hết đầu đuôi câu chuyện cũng đủ khiến người ta phải sụt sùi rơi lệ. Năm đó khi ông bà già nhà tôi hãy còn trẻ, vẫn chưa tham gia cách mạng, cả hai chỉ là nông dân trồng lúa ở nông thôn, suốt ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời, cả đời chẳng mưu cầu điều gì ngoài việc tu nhân tích đức làm việc thiện. Có một lần, hai ông bà nhìn thấy một bà lão ăn mày từ ngoại tỉnh đến, hai tay ôm một cái gối hoa. Ông bà già tôi thấy bà lão tội nghiệp chẳng còn người thân nào trên đời, không nơi nương tựa liền động lòng trắc ẩn, quyết định đưa bà lão về nhà phụng dưỡng, hiếu kính chẳng khác gì mẹ đẻ. Có điều bà lão ăn mày từ đầu chí cuối không bao giờ tiết lộ cho ai biết mình từ đâu đến, trên người cũng không có vật gì khác ngoài chiếc gối luôn giữ khư khư bên minh như hình với bóng. Rồi bọn giặc quỷ đánh vào Trung Nguyên, ông già nhà tôi vứt bỏ cuốc cày tham gia Bát lộ quân, sau giải phóng thì cả gia đình tôi vào thành phố sinh sống, tất nhiên đưa theo cả bà lão ăn mày. Trước lúc lâm chung, bà lão trăng trối lại đôi ba câu với hai ông bà già nhà tôi rằng, các con nuôi dưỡng già bao nhiêu năm như thế, kiếp này chắc không còn cơ hội báo đáp nữa rồi, chỉ có mỗi một món trước đây già giấu kỹ trong gối, giờ để lại cho hai con mà thôi, các con phải cất giữ thật cấn thận, tuyệt đối không được làm mất đấy. Nói xong, bà lão liền từ biệt cõi đời. Ông bà già nhà tôi rất lấy làm rầu rĩ, vì người ta cho dù chẳng bị ai giám sát, nhưng làm việc gì cũng không được trái với lương tâm, không được thấy lợi mà quên nghĩa, bởi vì bất kỳ việc gì đều có trời chúng giám; như gia tộc họ La nhà tôi là gia đình tích đức, làm việc tốt không bao giờ chờ người ta trả ơn, sao bà lão ấy lại cứ nhất nhất phải để lại cho chúng tôi cái gối đó chứ? Sau khi tiễn bà lão về đất Phật, tối hôm ấy, ông bà già nhà tôi mới về nhà mở ruột gối ra xem, thì thấy bên trong lớp vỏ gấm thêu hoa kia, ngoài đống vỏ lúa mạch, thì chỉ có một viên ngọc tròn vành vạnh, cầm lên xem thì thấy nó tỏa sáng khắp cả nhà, lúc ấy mới hay viên ngọc đúng là một bảo bối, nhưng chẳng ai biết rõ lai lịch của nó. Mãi sau này ông bà già nhà tôi mới có cơ hội, mang viên ngọc đến viện bảo tàng cố Cung, nhờ một chuyên gia giám định, cuổi cùng cũng biết rõ nguồn gốc xuất xứ của nó. Khi quân liên minh tám nước tràn vào Bắc Kinh, Từ Hy thái hậu chạy trốn ra ngoài. Lão Phật gia phái sứ thần đi trước nghị hòa với bọn giặc Tây, nhưng bọn người Tây lại không dễ dàng thừa nhận viên sứ thần kia có thể đại diện cho lão Phật gia. Trong sổ chỉ huy quân liên minh có một tướng lĩnh từng diện kiến Từ Hy thái hậu, hắn ta vẫn nhớ trên đầu lão Phật gia có đội một chiếc mũ ngọc, trên đó gắn hai mươi bốn viên dạ minh châu, viên nào viên nấy tròn vành vạnh, đều như khuôn đúc, được gọi là nhị thập tứ kiều minh nguyệt. Thế là bọn chúng liền đưa ra yêu cầu cho triều đình nhà Thanh, bảo viên sứ thần đến nghị hòa phải mang theo một viên dạ minh châu làm tín vật. Từ Hy thái hậu không dám chậm trễ, lập tức gỡ một viên trên mũ xuống, lệnh cho một cung nữ thân cận bên mình mang đi, rồi sai ngự tiền thị vệ hỏa tốc cầm tín vật đến kinh thành, kết quả cô cung nữ đi được nửa đường thì chạy trốn, trà trộn vào nhân gian, từ đó lặn mất tăm mất tích. Sau việc này, Từ Hy thái hậu vô cùng tức giận, liền lệnh cho người truy bắt khắp nơi, nhưng thế nào cũng không tìm thấy viên ngọc đó nữa, “nhị thập tứ kiều minh nguyệt” cũng từ đấy khuyết mất một viên. Mãi cho đến những năm Dân quốc, lãnh chúa quân phiệt Tôn Điện Anh tiến hành vụ đào trộm mộ tai tiếng tại Đông Lăng của các hoàng đế Mãn Thanh, những lăng mộ bị xâm phạm có cả mộ Từ Hy thái hậu. Trong cỗ quan tài bằng gỗ kim tơ nam(3), móc ra được hai mươi ba viên dạ minh châu. Sau khi được rất nhiều chuyên gia kiểm định khảo chứng, ông bà già nhà tôi phán đoán: bà lão đã phụng dưỡng năm xưa, rất có khả năng là tiểu cung nữ chạy trốn khỏi cung, mang theo một viên dạ minh châu. Đáng tiếc là ông bà già nhà tôi thiếu hiểu biết, thêm vào đó môi trường bảo quản không được tốt, nên viên ngọc dần dần trở nên mờ tối, không còn hào quang như xưa, nên cũng chẳng còn mặt mũi nào mà đem hiến tặng cho tổ quốc, nhờ thế mới truyền đến được tay tôi. Tuy người ta vẫn nói, người sợ già, ngọc sợ ố, nhưng chí ít giá trị lai lịch của nó thì vẫn sờ sờ ra đấy, nó chính là một trong hai mươi bốn viên dạ minh châu mà nữ ma đầu Từ Hy thái hậu đã đội trên đầu năm xưa. Nếu ông bác thực sự có lòng muốn sở hữu nó, thì tôi cũng liều cắt da cắt thịt mà đem nó tặng cho bác vậy…” Sau khi mọi người nghe xong, đều liên tiếp lắc đầu, chẳng ai buồn để mắt đến viên ngọc trên tay Hải ngọng, lão Lưu Hoại Thủy tỏ vẻ không hài lòng lắm, nói với Tư Mã Khôi: “Bát lão gia! Lão gia định đùa bọn tôi đấy à? Câu chuyện về hai mươi bốn viên dạ minh châu trước giải phóng đã bị người ta đồn ầm ĩ cả lên, nhưng đến tận bây giờ làm gì có ai tận mắt nhìn thấy viên nào đâu, nếu như nó thực sự tồn tại trên đời, thì chắc chắn cũng không thể có đoạn truyền kỳ giống như anh bạn của lão gia vừa kể”. Tư Mã Khôi vốn chỉ có ý định bảo La Đại Hải kể câu chuyện này đế dò xem nước nông sâu thể nào, xem tình hình thì mấy vị đến coi hàng hôm nay có vẻ đều là những người trong nghề, không thể tùy tiện bịa đặt lung tung với họ được, thế là anh bèn lôi chiếc áo da chuột trong túi ra, trải lên bàn cho mọi người cùng chiêm ngưỡng: “Chỗ tôi còn một vật này nữa, có điều món đồ này hơi hiếm người biết đến, không rõ mấy bác có am hiểu xuất xứ của nó không?” Lão Thủy ma trống vừa nghe chỗ Tư Mã Khôi còn một vật khác nữa, bèn hào hứng trở lại, lão cười hì hì: “Ít người biết thì càng hay chứ sao, nhóm đánh trống con chúng tôi còn có biệt danh kho không đáy, trên trời dưới đất không thứ gì chúng tôi không thu mua, lão gia cứ cho tôi xem kỹ trước đã…” Hội Lưu Hoại Thủy thoạt nhìn chiếc áo da chuột thì đều thấy lạ, thầm nghĩ nếu muốn bán áo da thì phải đi tìm hàng bán quần áo chứ, huống hồ chiếc áo này lại được làm thủ công, đường kim mũi chỉ cũng chẳng mấy tinh xảo, tuyệt đối không phải thứ có trong nhà giàu, nhưng bọn họ càng nhìn càng kinh ngạc. Lão Lưu Hoại Thủy cầm áo trong tay, lật đi lật lại quan sát kỹ mười mấy lượt, mới nói với Tư Mã Khôi: “Bát lão gia, hàng này đúng là quá đỉnh, lão gia định bán giá bao nhiêu?” (1) Bài trừ tứ cựu: là chủ trương được đề ra trong đại Cách mạng Văn hóa của Trung Quốc, trong đó bốn cái cũ cần bài trừ la: tư tưởng cũ, văn hóa cũ, phong tục cũ và tập quán cũ. (2) Trường sinh khố: thời Tống còn gọi là chất khố, gần giống với hiệu cầm đồ ngày nay. (3) Kim tơ nam: một loại gỗ quý, thuộc nhóm gỗ trinh nam, họ nguyệt quê, có vân gỗ màu vàng, bóng đẹp, thời xưa thường sử dụng làm đô đạc cho vua chúa. Chương 1.6: Da chuột bách niên Lão Thủy ma trống biết chiếc áo khoác da chuột là một vật không hề tầm thường, lão ta hỏi Tư Mã Khôi: ‘Đây là chiếc áo da chuột bách niên trong rừng sâu núi thẳm, không biết Bát lão gia định giá bao nhiêu?” Tư Mã Khôi định lùi một bước để tiến hai bước liền nói: “Lưu sư phụ, coi như tôi phục ông bác rồi đấy, ông bác quả là có nhãn lực hơn người, không ngờ lại nhận ra nó được làm bằng da chuột bách niên. Tôi vốn định nói nó là da của con xích long tuấn mã, nhưng xem ra không thể nào múa rìu qua mắt thợ được nữa. Thế ông bác thấy nó đáng giá bao nhiêu tiền?” Lưu Hoại Thủy gật đầu bảo: “Nhìn lông và da của nó thì có lẽ nó là loại chuột lửa chuyên sống trong hang núi ở Quan Ngoại, chí ít cũng phải sống trên một trăm năm, nếu không thì không thể lột được nguyên miếng da to thế này. Trước đây vua Khang Hy ra ngoài đi săn vào mùa đông, đều phải đeo đôi găng tay da chuột lửa do sứ thần Triều Tiên Cống nạp, nên cho dù là những ngày giá tháng rét nhất trong năm thì tay vẫn ướt đẫm mồ hôi như thường, nhưng đôi găng tay ấy cũng chỉ to bằng nửa mảnh da chuột của lão gia mà thôi”. Lão ta không vội bàn luận đến giá tiền, chỉ hỏi Tư Mã Khôi: “Chiếc áo da chuột này chắc hẳn phải có truyền kỳ gì đó chứ? Chẳng lẽ nó là vật tổ tiên nhà Bát lão gia để lại?” Tư Mã Khôi biết rõ thị trường ở đây, nếu nói thẳng là vật do Triệu Lão Biệt trao đổi, thì cho dù chiếc áo khoác da chuột bách niên này có quý hiếm đến đâu, cũng vẫn chỉ là món hàng trong dân gian, không thể sánh với đôi găng tay da chuột lửa mà vua Khang Hy từng đeo. Lúc này, anh đành thuận miệng ba hoa khoác lác luôn một bài: “Lưu sư phụ à! Ông bác cũng biết rõ gốc gác gia đình tôi rồi đấy, chẳng giấu gì ông bác, chiếc áo khoác da chuột này đúng là cũng có chút lai lịch, nếu hôm nay không gặp được bác, thì cho dù người ta có mang long bào đai ngọc ra đổi, tôi cũng nhất quyết không bằng lòng. Nghĩ lại năm đó, thái tổ Cao hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích thời tiền Thanh lấy bảy đại hận tế trời, thu thập bộ hạ, lấy mười ba bộ áo giáp của cha để lại trang bị khởi nghĩa để chống nhà Minh, xông pha trăm ngàn trận mạc, cung tên vô tình, binh đao loạn lạc, không biết trải qua bao nhiêu trận chiến, nào là lấy Đồ Luân, diệt Ha Đạt, thôn tính Huy Phát, chinh phục Ô La, bình Diệp Hách, chém đầu tướng Ni Kham Ngoại Lan, tiêu diệt sạch liên minh chín bộ tộc Hải Tây Nữ Chân. Đó quả đúng là…” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ Lão Lưu Hoại Thủy nghe đến đây thì nói chen ngang: “Khoan đã, Bát lão gia! Tôi phải chặn lời lão gia một tiếng, có phải lão gia định kể chiếc áo da chuột này là do thái tổ hoàng đế vô tình đi săn được trong núi, từ đó trấn hưng Quan Ngoại, nhưng cũng chính bởi người quên mặc chiếc áo này, nên mới bị đại bác của tên binh lược phó sứ, hữu tham chính nhà Minh là Viên Sùng Hoán bắn trọng thương ở dưới chân thành Ninh Viễn không? Lão gia chớ quên: chúng ta đều là người quen biết rõ gốc gác của nhau, mấy lời vờ vĩnh ấy miễn được thì xin miễn cho, theo như quan sát của tôi thì bộ lông da này được lột cách đây lâu nhất cũng không thể xa hơn thời Dân quốc được”. Tư Mã Khôi chửi thầm trong bụng: “Tiên sư thằng cha này, gian gì mà gian từ xương gian đi, mắt còn tinh hơn cả cú vọ”. Anh biết không thể vòng vo tam quốc thêm nữa, bèn nói tuột ra sự thật: “Nó là vật được lấy từ miếu sơn thần trong lâm trường vùng Quan Ngoại, nói thế nào thì nói đây đúng là da chuột bách niên thứ thiệt đấy. Ông bác cứ xem thoải mái rồi cho một cái giá, nếu thấy thích hợp thì thôi tôi cũng thí cho ông bác, còn như không được giá thì tôi thà mang nó về làm ga trải giường cho xong”. Lão Lưu Hoại Thủy là con cáo già lọc lõi. Từ trước giải phóng, lão ta đã bắt đầu sống nhờ vào bát cơm này, nên lão đã sớm nhận ra Tư Mã Khôi và Hải ngọng đang cần tiền gấp, lão chẳng lo chiếc áo khoác da chuột này lọt khỏi tay mình, bèn nói thẳng: “Chuột lửa sổng trong rừng sâu núi thẳm vốn dĩ đã là loài động vật vồ cùng quý hiếm, chúng rất thích gặm nến sáp dầu thông, thông thường tuổi thọ có khi lên đến mười mấy năm. Nếu vị vương gia bối lạc thời tiền Thanh nào trong phủ có mảnh da chuột – chỉ cần to bằng bàn tay, thì cũng đã mang đi giấu kỹ như bảo bối rồi. Chỉ có những con chuột lửa sống ẩn giật thành tinh cả trăm năm, mới có thể lột được một tấm da lớn và hoàn chỉnh thế này. Chiếc áo khoác của lão gia quả thực vô cùng quý giá. Nhưng không phải Thủy ma trống tôi ưa mượn gió bẻ măng, ăn chặn lúc người khác gặp khó khăn. Lão gia xin chớ quên bây giờ là thời thế nào, cho dù lão gia có mang cây đàn tì bà mà nàng Dương Quý Phi khi xưa vẫn ôm trong lòng, hay chiếc gối hình hổ phục của Tông thái tổ Triệu Khuông Dan đi nữa, nhưng lão gia cứ thử đi dò hỏi khắp Tứ Cửu thành này mà xem, ở đâu cũng chỉ tiên đồng cá con cả thôi, chẳng đắt hơn đám đồng nhôm sắt vụn là mấy. Món đồ này tuy rằng tốt thật, nhưng lại ít người biết đến nên rất khó bán được giá, người bình thường hầu như không hiểu giá trị của nó, người hiểu giá trị của nó lại chưa chắc có tiền để mua. Hai nhà chúng ta tuy rằng có mối thâm tình lâu năm, nhưng bây giờ chúng ta gặp nhau lại không đúng thời điểm. Trong cái xã hội này tình cảm đáng giá bao nhiêu tiền một cân chứ? Bởi thế nên cùng lắm tôi cũng chỉ có thể trả cho lão gia bấy nhiêu thôi…”, nói đoạn, lão ta xòe ra ba ngón tay ra, nói như đinh đóng cột: “Ba trăm đồng chẵn, không thể trả thêm, nửa cắc cũng không thêm, nếu lão gia đồng ý thí nó cho tôi, thì chúng ta cứ tiền tươi thóc thật mà trao ngay tại chỗ.” Lúc bấy giờ, lương tháng của một công nhân bình thường chỉ có mấy chục đồng, như tiền công theo tàu hỏa nuôi lợn suốt chặng đường dài từ Trường Sa đến Quảng Đông cả đi lẫn về mới có hai mươi đồng, vì vậy ba trăm đồng nói nhiều cũng không nhiều, nhưng bảo ít cũng không hề ít. Tư Mã Khôi biết rõ chiếc áo da chuột bách niên này chắc chắn còn đáng giá hơn thế nhiều, nhưng bây giờ muốn được việc của mình nên đành phải nhịn đau để cho lão già Lưu Hoại Thủy chém một nhát, số tiền đó chí ít cũng đổi được dăm quả cà ba củ khoai vớ vẩn. Vả lại, nước xa không cứu được lửa gần, chiếc áo da chuột quý giá thì quý giá thật, nhưng đâu thể giải quyết được cơn đói trước mắt, trong tình hình này mà phải đi tìm những người mua khác thì cũng rất phiền phức. Thế là anh đành đồng ý nhượng lại chiếc áo khoác da chuột bách niên cho lão già Lưu Hoại Thủy, hai bên tiền trao cháo múc một cách chóng vánh. Lão Lưu Hoại Thủy ngoác rộng cái mồm cười sung sướng như bắt được vàng, lão ta bảo người khác tản đi trước, rồi mới hỏi thăm xem mấy năm nay sau khi rời Bắc Kinh Tư Mã Khôi đi đâu, cuối cùng lão xem đồng hồ rồi thảng thốt: “Ái chà! đã chiều rồi cơ à, hai vị lão gia đã dùng bữa ở đâu chưa? Nếu chưa, thì hôm nay lão Lưu tôi xin được mời cơm, chúng ta đến quán Thiên Hứng làm đĩa gan xào nhé!” Hải ngọng gạt ngang: “Mấy cái thứ nội tạng ấy thì có gì ngon cơ chứ? Ông già nhà tôi trước đây hay đi họp ở Bắc Kinh, lúc về nhà kể rằng trình độ nấu nướng của mấy tay đầu bếp trong khách sạn Kinh Tây khá ổn, ăn cũng vừa miệng. Tôi cứ tơ tưởng mãi chuyện này, đâu phải chỉ một hai ngày, bây giờ khó khăn lắm mới đặt chân được tới đât Bắc Kinh, hay là Lưu sư phụ dẫn anh em tôi đến đó một chuyến cho mở mang tầm mắt?”. Lão già họ Lưu chần chừ đáp: “Khách sạn Kinh Tây là nơi để tiếp đãi các bộ trưởng đến họp hành, dân thường chúng ta ăn cơm chẳng phải chỉ để cho no cái bụng thôi sao? Cần gì đến tiêu chuẩn cao thế, vả lại ăn gan xào và an nội tạng là hai việc khác nhau, nếu lão gia không đến quán Thiên Hứng ăn thử món gan xào, thì cũng coi như uổng phí chuvến đi đến Bắc Kinh này đấy!” Tư Mã Khôi còn đang nóng lòng muốn dò hỏi một số chuyện tò Lưu Hoại Thủy, vừa hay lại có thể trò chuyện nhân lúc ăn uống, bèn nói: “Thôi, đi Thiên Hứng làm gì cho xa xôi, tôi thấy ngay ở đầu ngõ có một quán xào thập cẩm, chúng ta cứ đến đó ăn để ứng phó chốc lát với cái dạ dày là được rồi.” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ Thế là ba người liền kéo nhau ra đầu ngõ, vào một tiệm ăn nhỏ ở ven đường, gọi hơn một cân dạ dày xào, lão Lưu Hoại Thủy vẫn mơ tưởng đến việc tìm hiểu xem Tư Mã Khôi có còn báu vật gia truyền nào nữa hay không, bèn vừa ăn vừa dò hỏi, nhưng Tư Mã Khôi không để ý đến, mà hỏi ngược lại: “Lưu sư phụ, nghe nói sau giải phóng, ông bác vẫn nhúng tay làm mấy vụ cạo đỉnh cho người ta, có thật vậy không hả?” Lão Lưu Hoại Thủy cười hì hì đáp: “Bát lão gia nắm bắt thông tin cũng nhanh nhạv thật đấy, nói thế cũng phải…” Hải ngọng nghe không hiểu đầu cua tai nheo, bèn hỏi: “Cạo đỉnh gì thế? Lưu sư phụ! Ông bác mang quả kính lão to tổ bố này… đi cắt tóc cho con người ta ấy à?” Lão Lưu Hoại Thủy vừa nói vừa kéo tay áo, rồi làm động tác như đang lấy xẻng cào đất: “Cạo đầu thì cạo chứ sao, có điều cái tôi cạo không phải là đầu người, đội khai quật khảo cổ chuyên môn đi cạo đầu cho mồ mả, tôi làm chân thợ xẻng cho các bậc chuyên gia đó, cũng coi là một tay bay có tiếng đấy!” Tư Mã Khôi thấy đã hỏi đúng người đúng việc, bèn tiếp tục dò la: “Thế ông bác có biết một vị Hoa kiều mới từ Pháp về, tên là Thắng Thiên Viễn không? Ông ta là chuyên gia khảo cổ sa mạc và điền hoang. Sau khi về nước, có lẽ ông ta….” Nào ngờ, Tư Mã Khôi mới hỏi được một nửa, thì lão Lưu Hoại Thủy đã bảo: “Ông chủ Viễn à? Tôi quen quá đi chứ, ông ấy không phải người tầm thường đâu, nói thế nào nhỉ….cái nắm xương già này của tôi cũng do ông ấy cứu về đấy!” Thì ra hội lão Lưu Hoại Thủy đều là những bậc cao thủ độc môn do tổ tông truyền lại, có kẻ giỏi làm hàng giả, có kẻ giỏi trộm mộ, giám định đồ cổ – cũng là một cái tài. Bọn họ hiểu sơn kinh, tường thủy pháp, nhờ vào kinh nghiệm phong phú, họ chỉ cần đi lòng vòng trên đồng hoang, đứng lại nhìn mấy cái, bốc nắm đất lên hít vài hơi là có thể phán đoán dưới đất có cổ mộ hav không, ngay cả xẻng Lạc Dương(1) cũng không cần dùng đến. Sau giải phóng, nhóm người này đương nhiên khó lòng lọt lưới pháp luật, tất cả đều bị cơ quan công an tóm cổ nhốt vào nhà đá chờ định tội, một số tên phạm tội nghiêm trọng đều bị chính phủ xử bắn. Năm 1953, giáo sư Thắng Thiên Viễn về nước, ông liên tiếp chủ trì một số hoạt động khai quật khảo cổ, nhưng trợ thủ có kinh nghiệm lại quá ít ỏi, không tiện điều động xử lý công việc. Ông bèn viết báo cáo xin phóng thích một số phạm nhân có tình tiết phạm tội tương đối nhẹ, cho họ cơ hội lấy công chuộc tội, phục vụ nhân dân. Thế là hội lão Lưu Hoại Thủy liền được thả ra khỏi trại giam, bọn họ luôn đi theo giáo sư Thắng Thiên Viễn làm trợ thủ và công nhân thời vụ. Sau này, rất nhiều nơi học theo chính sách này, mời một loạt các cao nhân thời cũ vào đội khảo cổ trợ giúp công tác khai quật, nhưng theo quy định có liên quan, những người này không được phép chuyển đổi thành nhân viên chính thức, tất cả đều do Cục lao động nhất loạt quản lý và được trả công theo chế độ đãi ngộ như nhân viên tạp vụ lo trà nước điếu đóm. Khi đại Cách mạng Văn hóa của giai cấp vô sản bùng nổ toàn diện, tuyệt đại đa số cán bộ và thành phần trí thức làm việc trong các bảo tàng và vụ viện đều bị đẩy xuống vùng nông thôn cải tạo tư tưởng, chỉ có những công chức bệnh tật già yếu mới được giữ lại đơn vị cũ. Hội lão Lưu Hoại Thủy vì thuộc thành phần giai cấp công nhân, toàn bộ hồ sơ trước đây đều bị hỏa hoạn thiêu cháy, nhờ vậy mới thoát nạn, đồng thời được sắp xếp làm công tác quét dọn nhà vệ sinh trong thành phố. Bọn lão che giấu thân phận thật sự, cúp đuôi làm người, lén lút mua bán đồ cổ. Chính bởi vậy, lão Thủy ma trống mới không quên ân nghĩa sâu nặng của giáo sư Thắng Thiên Viễn. Theo lời kể của lão, giáo sư Thắng Thiên Viễn là người có tư tưởng phóng khoáng, hòa đồng với mọi người, tuy thân là bậc lãnh đạo, lại từng đến Việt Nam, Ai Cập. Là chuyên gia khảo cổ tầm cỡ quốc gia, nhưng ông không bao giờ tỏ ra hống hách với cấp dưới. Nhiếp ảnh, khiêu vũ, sưu tầm, cưỡi ngựa, săn bắn… thú vui nào ông cũng yêu thích, chơi cái gì cũng kiệt xuất, làm cái gì ra cái nấy, lại không đạo đức giả như những bậc trí thức bình thường khác, cũng không ưa mặc đồ tây, đeo đồng hồ đắt tiền, phong thái lúc nào cũng nho nhã ung dung, bởi vậy hội lão vẫn ngầm gọi giáo sư là ông chủ Viễn. Nhưng lúc ông chủ Viên cùng đội khảo cổ ra hiện trường làm việc, thì lão Lưu tận mắt chứng kiến giáo sư phăng phăng vượt núi băng rừng bằng chân đất, mùa hè không gạt mồ hôi, mùa mưa không giương ô che, bất luận điều kiện làm việc gian khổ thê nào, ông cũng không hề nhíu mày lấy một cái, nên không ai là không kính phục ông. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ Có điều, năm 1963 thì ông chủ Viễn không còn nữa. Đôi lúc nghĩ đến việc này, trong lòng lão lại thấy rầu rầu, muốn tìm chỗ không người gạt trộm nước mắt. Tư Mã Khôi nghe lão Lưu Hoại Thủy nói rất khó hiểu, cái gọi là “không còn nữa” là ám chỉ đã chết hay là mất tích? Người đang sống sờ sờ sao tự nhiên lại không còn nữa? Anh bèn hỏi: “Ông bác có biết tường tận những chuyện liên quan đến ông chủ Viễn không?” Lão Lưu Hoại Thủy nhớ lại đoạn ký ức đáng sợ, gương mặt phút chốc trầm hẳn xuống. Lão ra quầy phục vụ gọi thêm chai Nhị Oa Đầu và hai cốc bia. Sau khi uống ừng ực vào bụng, khuôn mặt già nua của lão liền đỏ phừng phừng, lúc này mới bắt đầu bật loa rè: “Năm đó ông chủ Viễn đã căn dặn việc này là bí mật quốc gia, lẽ ra tôi không được phép tiết lộ, nhưng Bát lão gia đâu phải người ngoài, giữa chúng ta làm gì có chuyện nào không thế nói được? Lão gia xem ma trống tôi sống đến ngần này tuổi đầu, lúc trẻ gan dạ liều mạng, thường xuyên chui xuống hầm mộ lật nắp quan tài, cả đời làm bạn với đống xương người, có chuyện quái lạ nào tôi chưa từng gặp? Nhưng chuyện xảy ra năm 1963 thực sự quá sức tà mị, đến tận bây giờ thỉnh thoảng hồi tưởng lại, cho dù giữa ngày hạ chí cũng vẫn lạnh toát mình mẩy…” Tài nghệ và nhãn lực của lão Lưu Hoại Thủy quả thực có điểm hơn người, không những thế lại có tuyệt kỹ phác họa cha truyền con nối. Cái gọi là phác họa, tức là dùng giấy bút phác thảo sơ qua các bức bích họa hay phù điêu cổ, thông thường những kẻ giỏi làm đồ giả cổ đều biết kỹ thuật này, vẽ làm sao phải toát ra được cả hình dáng và thần thái của vật, đủ làm người khác nghĩ giả là thật, đôi lúc các bức bích họa trong địa cung huyệt mộ hoặc các bức họa màu trên nắp quan tài, sau khi đột ngột tiếp xúc với không khí sẽ nhanh chóng chuyển từ nét tươi tắn rõ ràng sang mờ mịt ảm đạm. Lão Lưu Hoại Thủy có bản lĩnh phục hồi nguyên dạng những bức họa mờ mịt đường nét trên giấy vẽ. Cũng chính bởi tài năng đó nên giáo sư Thắng Thiên Viễn vô cùng xem trọng lão. Mỗi lúc ra ngoài làm việc, giáo sư thường dẫn lão theo làm trợ lý cho mình. Cuối hè năm ấy, đúng lúc thời tiết nóng bức đỉnh điểm, lão Lưu Hoại Thủy cùng đội khai quật khảo cổ – do giáo sư Thắng Thiên Viễn dẫn đầu, đang làm việc trong động đá ở núi Mạch Tích thuộc tỉnh Cam Túc thì đột ngột nhận được lệnh của cấp trên, yêu cầu giáo sư Thắng Thiên Viễn cùng mọt trợ lý lên xe quân sự rời khỏi vị trí, không được phép hỏi đi đâu cũng không được phép hỏi đi làm việc gì, lúc ra đến cửa đã thấy xe chờ sẵn ở bên ngoài. Giáo sư Thắng Thiên Viên liền gọi Lưu Hoại Thủy đi cùng, hai người vội vàng mang theo những vật dụng càn thiết, lên chiếc xe Zeep quân dụng mà quân đội cử đến đón. Đoạn đường xe băng qua toàn là đường hầm và đường núi quanh co, càng đi càng thấy hoang vu hơn, cuối cùng xe đi vào bên trong một ngọn núi lớn, ven đường không còn nhìn thấy nửa bóng người nào nữa. (1)Xẻng Lạc Dương: là loại xẻng đặc dụng, một loại công cụ khao cô học, phần đầu là một đoạn sắt hình lòng máng, cạnh sac bén, dưới có cán cầm, cán có thể nối dài, dùng để đào giếng hoặc đào sâu lấy mẫu đất. Chương 1.7: Máy bay Ilyushin Giáo sư Thắng Thiên Viễn phát hiện hai bên đường giăng đầy biểu ngữ, khẩu hiệu của quân giải phóng. lúc ấy mới biết đây là con đường quân sự chuyên biệt. Điều khiến người ta bất ngờ hơn là, điểm tận cùng của con đường không dừng lại ở chân núi, mà dừng lại trong lòng một ngọn núi cách mực nước biển chừng hai ngàn mét bên trong có vài hầm phòng không cỡ lớn. Sau khi xuống xe. hai người được sắp xếp nghỉ ngơi tại một hầm phòng không, đồng thời ngồi đợi những thành viên khác của đội khai quật khảo cổ đến đông đủ. xung quanh chỗ nào cùng là khu vực giới nghiêm quân sự, canh phòng hết sức cẩn mật, không đuợc phép tùy tiện đi lại. Giáo sư Thắng Thiên Viễn đành ờ lại trong hầm, không thể quan sát tình hình bên ngoài, ông chỉ biết thầm đoán mò: “Hay bộ đội công trình đào được ngôi cổ mộ nào đó khi thông đường hầm? Nhưng sao trước đây không hề nghe thấy tin tức gì về vụ này nhỉ?” Chừng một ngày trôi qua, những thành viên còn lại lần lượt tề tựu đông đủ, phần lớn các thành viên đều bị điều động bất thường từ các cơ quan đơn vị khác nhau, giữa họ không hề có mối quan hệ ràng buộc nào, cũng không ai hay nội tình chi tiết của nhiệm vụ lần này, người nào người nấy đều lộ sắc mặt hồ nghi, khó hiểu. Trước tiên, mọi người phải để lại toàn bộ đồ đạc tùy thân ở hầm phòng không, đồng thời đăng ký lĩnh các trang thiết bị và công cụ cần thiết, sau đó tất cả được dẫn ra khỏi hầm. Vừa ra khỏi hầm, họ đã thấy trong núi sâu không hề có ngôi mộ cổ nào, mà chỉ có một sân bay quân sự chuyên dụng được xây dựng trên đỉnh núi, đường bay và kho máy bay đều ngụy trang kín đáo, quy trình cất cánh và hạ cánh được thực hiện ngay trên núi. Vừa lúc này, mọi người nhìn thấy một chiếc máy bay vận tải chiến thuật không quân – do Liên Xô chế tạo của hãng Ilyushin, đang đỗ trên đường bay đợi lệnh, xem ra mục tiêu mà đội khai quật khảo cổ cần đến rõ ràng cách đây rất xa. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư Lão Lưu Hoại Thủy trong lòng luôn cảm thấy bất an. Trước đây có lần lão được nghe giáo sư Thắng Thiên Viễn kể lại, mỗi lần động binh trên không, chí ít phải có hai chỉ huy quân khu cùng ký cam kết thực hiện mệnh lệnh, thì máy bay mới được xuất phát. Không biết lần này đội khảo cổ rốt cục bị điều đến nơi nào? Sẽ phải đối mặt với nhiệm vụ đặc biệt gì? Có điều, cơ sự đã đến nước này, lão cũng không thể nghĩ nhiều hơn, đành theo đoàn lên máy bay. Gương mặt tất cả hành khách ngồi trong khoang đều toát lên vẻ căng thẳng, lo âu, không ai to nhỏ với ai câu nào, cả máy bay lặng phắc như tờ. Trước đây, lão Lưu Hoại Thủy chưa bao giờ ngồi máy bay, nên khó tránh khỏi cảm giác thắc thỏm, lão bèn hỏi giáo sư: “Ông chủ Viễn này, nghĩ khi Bắc Kinh vẫn còn gọi là Bắc Bình ấy mà, có một chiến đấu cơ của bọn Nhật rơi xuống ngay gần cầu Lô Câu. Anh em bọn tôi cứ thấy chỗ nào náo nhiệt là sà đến, nên nghe tin một cái liền vội vàng đua nhau chạy ra xem sự lạ, và cũng vì chuyện này mà bị bọn hiến binh Nhật quát cho một trận nên thân, suýt chút nữa còn bị bọn chúng tóm cổ mang đi xử bắn. Khi ấy, tôi còn tận mắt chứng kiến, mấy tên tiểu quỷ trong bụng máy bay bị ngã nát bét chẳng còn hình dạng gì cả. Con chim sắt đang chở chúng ta bây giờ đúng là to hơn chiên đâu cơ của bọn Nhật nhiều, nhưng liệu nó có mang nổi ngần này người không vậy? Ngộ nhỡ đang bay trên cao mà đột nhiên động cơ chết máy, thì chẳng phải cả lũ đều bị rơi xuống hết à?” Trước khi lên máy bay vài ngày, giáo sư Thắng Thiên Viễn được triệu tập tham gia một cuộc họp bí mật, như ông đã biết mục tiêu hành động của đội khai quật khảo cổ lần này, nên quay sang an ủi lão Lưu Hoại Thủy, ông bảo: “Ở Trung Quốc có rất nhiều điều cấm kỵ ví dụ điều húy kỵ của dân đi biển là không được nói từ chìm khi đang trên tàu, kỳ thực ở nước ngoài người ta cũng thế, đi máy bay cũng kiêng không nói đến hai từ rơi xuống, còn mãi tận bây giờ ngành hàng hải nước Anh vẫn không dám nhắc đến con tàu Titanic, vì e sợ nói nhiều sẽ gặp phải thảm họa tương tự như con tàu đó. Tất cả những điều này đều xuất phát từ ám thị cá nhân sản sinh do tác động tâm lý. Tuy rằng trên thế giới không tồn tại nơi nào tuyệt đối an toàn, nhưng chỉ cần suy nghĩ của anh hướng đến mặt tốt đẹp của vấn đề, thì sẽ không thấy lo lắng nữa. Loại máy bay này do Liên Xô chế tạo, nó là máy bay vận tải hai động cơ với một cấu trúc kim loại, một tầng cánh, một bộ phận đuôi thông thường, cơ cấu ba bánh đáp. Nó cho phép đạt tầm nhìn tốt hơn khi chạy trên đất và hạ cánh, trang bị hai động cơ diesel ACh-31, vì thế xác xuất xảy ra sự cố là rất thấp. Máy bay có hai động cơ, nên nếu bị hỏng một chiếc thì chiếc còn lại vẫn có thể tiếp tục hoạt động bình thường, vả lại khi nãy tôi có gặp anh phi công lái máy bay. Vị cơ trưởng của chiếc Ilyushin này là một phi hành gia lão luyện, từng tham gia cuộc chiến tranh viện trợ Triều Tiên chống Mỹ, kinh nghiệm bay rất dày dạn, hơn nữa điều kiện thời tiết hôm nay cũng rất tốt, trời trong nắng ấm, chiếc Ilyushin-12 này lại được kiểm duyệt rất nghiêm ngặt trước khi cất cánh, tuyệt đối không thể xảy ra sai sót gì đâu.” Thế là, không lâu sau, chiếc Ilyushin-12 nhận lệnh cất cánh, động cơ diesel hai kỳ lao vùn vụt khỏi đường bay rồi hòa mình vào không trung. Lúc này, lão Lưu Hoại Thủy mới nghe được một tin, cũng không rõ có chính xác hay không, đại khái là có phân đội trắc họa nào đó nhận lệnh tìm kiếm một dòng sông cổ đã mất tích nhiều năm về trước, nằm trong địa phận viền tây nam của sa mạc Lopnor, đồng thời phải trắc họa bản đồ quân sự một cách tuyệt đối chuẩn xác, vì khu vực đó vô cùng phức tạp, đến giờ vẫn chưa được đo vẽ trên bản đồ, có thể nói nó là vùng mù trên bản đồ địa lý. Giáo sư Thắng Thiên Viễn rất am hiêu lịch sử Tây Vực cũng như địa lý cổ đại, bởi vậy ông cũng bị điều đi tham gia lần hành động này. Ngoài ra ông còn có nhiệm vụ theo đoàn đánh giá các di tích lịch sử dọc đường đi, nếu cần thiết còn phải áp dụng những biện pháp khai quật mang tính giải cứu kịp thời. Thời gian gần đây, các thế lực phản động trong và ngoài nước hoành hành dữ dội, ngay gần khu vực cấm địa quân sự mặt phía bắc sa mạc, phát hiện một số phần tử khả nghi hoạt động khá thường xuyên. Để giữ bí mật với thế giới bên ngoài, đồng thời cũng nghĩ đến sự an toàn của các thành viên trong đội, nên cấp trên mới quyết định sử dụng máy bay đưa đội khảo cổ đến nơi quy định. Lão Lưu Hoại Thủy phấp phỏng không yên, mỗi lần máy bay rùng lên một nhịp, toàn thân lão lại đầm đìa mồ hôi lạnh, lão gắng kiềm chế cảm giác choáng váng đưa mắt nhìn ra tầng không qua ô cửa sổ nhỏ. Chiếc Ilyushin-12 đang bay với tốc độ 340km/h, xuyên qua Ngọc Môn Quan, Cam Túc, hướng sang phía tây bắt đầu đi vào không vực của sa mạc Kumtag, Tân Cương. Qua ô cửa sổ máy bay, chỉ nhìn thấy bầu trời xanh trong như ngọc, mặt đất trải dài những cồn cát vàng miên man đến vô tận, đụn cát nhấp nhô như những vạt sóng, tầng tầng lớp lớp nếp gấp ánh lên màu vảng kim chói lóa dưới cái nắng gay gắt phản chiếu của mặt trời. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư Có lẽ đúng là ghét của nào trời trao của ấy thật, chuyện phải xảy ra, sớm muộn gì cũng sẽ xảy ra, chiếc Ilyushin-12 đang bay trên bầu trời đột nhiên rung chuyên dữ đội, thân máy bay bắt đầu nghiêng sang một bên, không ngừng lắc lư chao đảo, đèn cảnh báo màu đỏ trong khoang máy bay liên tục nhấp nháy, như một điềm báo chẳng lành, rồi một loạt âm thanh rền vang như sấm dội ầm ầm truyền đến, nó tiếp xúc với phần trên của máy bay tạo ra tiếng va chạm “két két két”. Mọi người đều đang thắt chặt dây an toàn, nhờ vậy mới không ngã gãy cổ, giáo sư Thắng Thiên Viễn thấy tình hình không ổn, bèn vội vàng hỏi viên phi công: “Máy bay xảy ra chuyện gì thế hả anh?” Viên cơ phó Dương Tam Hỉ cho biết: “Ilyushin – 12 đang bay trên không trung thì gặp phải sự cố bất ngờ, hiện tại đã hoàn toàn mất kiểm soát, có khả năng chúng ta sẽ bị rơi xuống bất cứ lúc nào.” Mọi người đều phát hiện thấy tình hình bất ổn, phía trên máy bay lại phát ra những âm thanh ầm ầm, nghe như tiếng sấm vần vũ, nhưng lúc này bầu trời vẫn trong xanh như mới được gột rửa, không trung thăm thẳm tựa ngọc bích, thì sao có thể xuất hiện sấm lớn? Bên ngoài khoang vẫn không dứt vang lên những âm thanh giống tiếng rạn nứt của kim loại, dường như giữa trời cao có một vật gì rất to lớn rơi trúng nóc máy bay và đang tìm cách xé rách lớp vỏ thép để chui vào trong. Các thành viên trên máy bay run lẩy bẩy. Tuy thỉnh thoảng cũng có những chiếc máy bay đen đủi vì đâm phải đàn chim trời mà bị rớt xuống đất; nhưng vị trí hiện tại cua Ilyushin-12 đang ở vùng trên không cách rất xa mặt đất, không khí tương đối loãng, nên đừng nói những loại chim thông thường mà ngay cả loài chim ưng tuyết, một mãnh điêu vô cùng to lớn sống ở Himalaya, cũng không dám liều mình đâm sầm vào con chim sắt quân sự ở giữa bầu trời này được; còn nếu quả thật tồn tại một thứ gì đó thì rốt cục nó là quái vật phương nào mà có sức khỏe phi thường như thế? Ilyushin-12 cũng được trang bị dù để đề phòng tình huống xấu xảy ra, trong khoang máy có lắp đặt ba lô dù bộ binh chuyên dụng, nhưng lúc này không ai dám liều mạng mở dù nhảy ra khỏi cửa thoát hiểm. Mọi người đành phải ở nguyên vị trí và nghe theo số trời định đoạt. Chiếc Ilyushin-12 mất kiểm soát, giống như con thuyền chấp chới trước sóng dữ bị nước đánh lúc dềnh lên lúc chìm xuống, những cú rung lắc dữ dội khiến cơ thể ai nấy đều vật vã nghiêng ngả, đầu óc quay cuồng choáng váng, chân tay mềm nhũn, lục phủ ngũ tạng lộn tùng phèo, có người không chịu được liền nôn mửa từng hồi, người khác khắc chế nổi nỗi sợ hãi bằng cách nhắm nghiền hai mắt, hai hàm răng va vào nhau lập cập như xả súng. Cuối cùng, trong tiếng ầm ầm sắc nhọn kích thích mạnh mẽ đến vỏ não, tất cả hành khách trên máy bay đều ngất xỉu. Nhưng khoảnh khắc sự việc diễn ra rất ngắn ngủi, dường như chỉ một vài giây thậm chí còn ngắn hơn, rất nhanh sau đó, mọi người đều lần lượt tỉnh lại. Lúc này, chiếc Ilyushin bắt đầu rơi tự do; không biết từ lúc nào cánh quạt bên trái máy bay bén cháy, cột khói đen bốc cao ngùn ngụt. Lúc này, trời đã chuyển sang trưa, mặt đất khô rang không một giọt nước, nhiệt độ lên đến bốn mươi năm mươi độ C; từ trên cao nhìn xuống chỉ thấy sa mạc Kumtag bao la bát ngát, dải cát vàng chuyển màu đỏ quạch dưới ánh mặt trời chói chang. Chiếc máy bay mất kiểm soát đang xuyên qua những lớp sóng nóng bỏng, lao vùn vụt xuống sa mạc. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư Cơ trưởng họ Đinh, tên đầy đủ là Đinh Đắc Căn, ông nguyên là học viên khóa III của Học viện không quân Đông Bắc, hiện là sư đoàn phó Sư đoàn vận tải độc lập không quân, thời kỳ tiếp viện Triều Tiên kháng chiến chống Mỹ, ông từng lái chiếc chiến đấu cơ MiG-15, nhiều lần trực tiếp giao chiến với bọn lính dù Mỹ trong đại chiến thứ thế giới thứ hai. Ông không chỉ có kinh nghiệm bay dày dạn, mà tố chất tâm lý cũng rất vững vàng. Cơ trưởng Đinh Đắc Căn phát hiện động cơ diesel của cánh quạt và bộ phận cất cánh bên trái bị hỏng, không thể tiêp tục bay lên cao được nữa, nên độ cao càng lúc càng hạ thấp. Ông lập tức quyết định mạo hiểm hạ cánh xuống sa mạc. Lúc này, máy bay đã vượt qua một dải núi cát lơn, tận cùng tầm nhìn lộ ra lòng sông cổ nhuốm màu đỏ cam, từ trên không nhìn xuống, phàng phất giống một vết rạn nhỏ chạy ngoằn ngoèo bất quy tắc, nổi lên trên biển cát vàng mênh mông. Do thảm thực vật sinh tồn ở đây khá đông đúc, vả lại xung quanh lại có vô số cồn cát trải dài nhấp nhô tương đối kiên cố, nên dòng sông thủy chung chưa bị dòng cát vàng di động che lấp hẳn. Trước khi mạch nước hoàn toàn cạn kiệt, có thể nó đã từng là ốc đảo chuyển tiếp giữa sa mạc và hồ muối, cũng có thể là di chỉ của một dòng chảy cổ đại nào đó; nhưng đến ngày nay, tất cả những gì còn sót lại chỉ là những triền cát vàng hoang lương ngút ngàn tầm mắt, và không còn chút ý nghĩa nào đối với các lữ khách lầm đường lạc bước trên sa mạc, và cũng có thể chỉ trên bản đồ quân sự có kích thước siêu lớn mới nhìn thấy sự tồn tại của nó. Trong khi cơ trưởng Đinh Đắc Căn và cơ phó Dương Tam Hỷ chưa kịp quan sát kỹ, thì chiếc Ilyushin-12 đã mang theo cột khói đen sì chúi đầu xuống lòng chảo sông khô cạn, với độ cao và tốc độ khiến các phi hành gia không thể làm gì hơn với bàn lái, thậm chí còn không kịp tiến hành điều chỉnh động cơ, chỉ biết cố gắng giảm tốc độ lại một cách tối đa. Chiếc máy bay chao đảo nghiêng ngả, rồi đâm sầm xuống lòng sông cổ. Cát vàng, cỏ khô um tùm cùng với những vết rạn khô nẻ trên lòng chảo, vô tình trở thành lực ma sát khiến tốc độ trượt của máy bay được cản lại đáng kể, chỉ có điều động cơ cánh quạt và bộ phận cất cánh đều bị cát mắc vào. Theo quán tính, thân máy bay vẫn lao mạnh vê phía trước, tạo thành một rãnh trượt dài sâu hoắm trên lòng sông. Đồng chí đoàn trưởng điều khiển hạ cánh vô cùng chuẩn xác, thao tác hợp lý, nên tuy tiếp đất có hơi nặng nhưng máy bay không hề bị bốc lửa hay cháy nổ, chiếc Ilyushin-12 hoàn toàn bình an vô sự. Những thành viên may mắn sống sót, lũ lượt dìu nhau chui ra ngoài khoang. Lúc này, ánh mặt trời gay gắt ban ngày đã dịu nhạt hơn, khắp nơi chỉ còn những quầng nhiệt lay lắt sót lại. Lòng chảo sông khô cạn và dải cát sa mạc chạy dài hai bên không hề tồn tại bất kỳ dấu tích nào của sự sống. Nền trời trong vắt xanh thẳm, bầu không trung không có một sợi gió, không gian tĩnh lặng tràn ngập sự chết chóc và cái nóng như thiêu như đốt khiến người ta tưởng chừng không thể chịu đựng nổi. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư Lão Lưu Hoại Thủy đến tận bây giờ vẫn còn cảm thấy khiêp sợ khi nghĩ đến tình cảnh lúc đó, cũng may cơ trưởng lúc đó là ông Căn nên cả đoàn mới giữ được tính mạng. Sau này, nghe người ta nói lại, lão mới biết loại bay Ilyushin-12 do Liên Xô chế tạo, có hai nhược điểm chí mạng về mặt thiết kế, một trong số đó là thùng chứa nhiên liệu chính được bố trí ở phần đáy bụng máy bay, đồng thời không thể tiến hành bơm xăng trên không, và trong sa mạc cũng không thể kỳ vọng vào bộ bánh hạ cánh, khi máy bay phải bắt buộc hạ cánh, nên chắc chắn sẽ xảy ra hiện tượng cọ sát dữ dội do tiếp xúc với đất cát. Bất luận có thể tiếp đất bình an hay không, chỉ cần thùng xăng bị hư hỏng một chút, đồng thời ma sát tạo ra tia lửa nhỏ thôi, cũng đủ đế toàn bộ chiếc máy bay bốc cháy rồi phát nổ. Chỉ những người có trình độ kỹ thuật và lòng dũng cảm xuất chúng, mới có thể phản ứng một cách thần tốc và mạo hiểm trước tình hình gấp gáp và phức tạp như thế, chứ người thường thì làm sao có thể bình tĩnh xử lý được biến cố chết người đó. Chiếc Ilyushin-12 buộc phải hạ cánh gấp, tuy chưa bị bốc cháy, phát nổ, nhưng quá trình va chạm khiến các thành viên trên máy bay không tránh khỏi chết chóc, thương vong. Viên cơ phó không may đã hi sinh khi làm nhiệm vụ, lúc đó nhân viên liên lạc thử dùng máy bộ đàm quang học không dây phát tín hiệu bắt liên lạc với bộ chỉ huy, hy vọng có thể tìm được viện trợ từ bộ đội giải phóng đồn trú ở khu vực gần đây, do máy bay vừa mới bay vào địa phận sa mạc Kumtag, Tân Cương, nên có lẽ vị trí hiện tại cách Ngọc Môn Quan không xa lắm. Nhưng sau khi nhân viên trắc họa đi theo đoàn định vị lại, mới phát hiện tọa độ hạ cánh chẳng ngờ lại là 40 độ 52 phút 29 giây vĩ bắc, 91 độ 55 phút 22 giây kinh đông. Anh nhân viên trắc họa kinh ngạc ngẩn người, bởi vi tọa độ không thể nào sai sót, mà căn cứ vào số liệu thì điểm Ilyushin-12 hạ cánh đang nằm ở khu vực không có người sinh sống giữa sa mạc Kumtag và sa mạc Lopnor, cách vị trí dự tính ban đầu đến cả trăm cây số. Điều đó cũng có nghĩa là: trong khoảnh khắc ngắn ngủi mà mọi người mất đi ý thức, chiếc Ilyushin-12 đã bay xuyên qua sa mạc Kumtag theo hướng từ đông sang tây. Biến cố xảy ra vào lúc chính ngọ, tức là khoảng 12 giờ 30 phút, tất cả những ai đeo đồng hồ, đều phát hiện thời gian trên đồng hồ của mình vĩnh viễn dừng lại ở giây khắc đó. Chương 1.8: Đáp xuống sa mạc Kumtag Do đồng hồ và các thiết bị đo thời gian đều bị hỏng, nên mọi người hoàn toàn mất căn cứ đế phán đoán thời gian một cách chuẩn xác, chỉ có thể dựa vào đồng hồ sinh học cơ thể con người để phân tích tình hình. Sau khi nối liên lạc được với bộ chỉ huy, mới biết thời gian chiếc máy bay bị mất tích trên không vực sa mạc chí ít cũng phải kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ. Ilyushin-12 rốt cục đã xảy ra sự cố gì trong quá trình bay? Nó gặp phải vật gì giữa tầng cao muôn trượng ấy? Trong thế giới quan của chủ nghĩa duy vật, không một luận cứ khoa học tuyệt đối nào có thể giải thích hoàn toàn thỏa đáng cho một hiện tượng. Sự cố hàng không quái dị năm đó, mãi sau này người ta vẫn không thể suy đoán được nguyên nhân thực sự của nó, mà chỉ có thể tạm thời loại trừ nhân tố thời gian. Trong các báo cáo, các nhà khoa học đã đưa ra một dự đoán mang tính khả năng: Năm 1949, có một chiếc máy bay đi từ Trùng Khánh đến Urumqi, bị mất tích trên hành trình bay; khoảng mười năm sau, có người thấy xác nó xuất hiên ở phía đông sa mạc Lopnor, toàn bộ nhân viên và hành khách trên chuyến bay đều chết hết, chiếc máy bay này cũng đột ngột thay đổi lộ trình và bị rơi xuống khu vực mà nó căn bản không thể nào đi qua. Những sự cố tương tự như vậy còn xảy ra vài lần nữa và chính vì vậy mà các nhà khoa học suy đoán lúc chiếc Ilyushin-12 gặp phải sự cố trên không, cũng là lúc trời trong vạn dặm, đồng thời xuất hiện chuỗi âm thanh giống như tiếng sấm rền, điều đó có nghĩa là dòng không khí nhiễu động đã va chạm vào nhau hình thành các huyệt khí, còn gọi là nhiễu động khí hay nhiễu động trời trong . Nhiễu động khí xuất hiện do các luồng không khí nhiễu động đâm vào nhau tạo nên các vũng xoáy dao động cực lớn. Nó không tồn tại dưới dạng vật chất, cũng không có hình dạng hữu hình, nên không thể nào tiên liệu trước được, các phi hành gia càng không thể dùng mắt thường mà phán đoán sự xuất hiện của nó một cách chính xác được. Có thể ở trên không vực rộng lớn khoáng đạt, như vùng sa mạc Kumtag, sa mạc Lopnor hay sa mạc Taklamakan, đều tôn tại vùng nhiễu động khí, và các thành viên trên máy bay đều cảm thấy khoảnh khắc mình bị mất ý thức, dường như chỉ kéo dài trong tích tắc ngắn ngủi, nhưng có khả năng cảm nhận đó chỉ là ảo giác, còn trên thực tế, khoảng thời gian ấy đủ để không khí trên cao đẩy chiếc Ilyushin-12 dạt xa đến tận vùng cực tây của sa mạc Kumtag. Giáo sư Thắng Thiên Viễn có kinh nghiệm rất phong phú về thám hiểm sa mạc, ông là chỉ huy trưởng đội khai quật khảo cổ. Ông nhận định điểm hạ cánh hiện tại cách viền tây nam của sa mạc Lopnor không xa lắm, nhờ vào các thiết bị và bản đồ mang theo, nên vẫn có thể đi bộ đến khu vực dự định và tiếp tục chấp hành nhiệm vụ. Bởi thế, ông hạ lệnh: chỉ những thành viên bị thương và tổ lái ở nguyên vị trí chờ cứu viện, còn lại những thành viên khác vẫn tiếp tục lên đường. Lãnh đạo cấp trên trả lời điện báo bằng chỉ thị: “Về cơ bản, các đồng chí đánh giá tình hình hiện tại tương đối chính xác, quyền chủ động vẫn nằm trong tay các đông chí, trong sa mạc có rất nhiều khó khăn và nguy hiểm, tổ chức mong các đồng chí tự tìm cách khắc phục”. Sau khi giáo sư xác nhận mệnh lệnh của cấp trên, ông bố trí cho các thành viên bị thương ở lại đợi, rồi khoác trang thiết bị dẫn đoàn tiến vào sa mạc mênh mông, nhưng khi xuyên qua vùng Đại Sa Bản, họ gặp phải thời tiết khắc nghiệt khiến chuyến hành động này buộc phải dừng lai giữa chừng. Giáo sư Thắng Thiên Viễn cũng không may mắc bệnh nặng ngay trên sa mạc, nên trở về Bắc Kinh không lâu thì qua đời. Chuỗi sự việc đó phải chăng chỉ là sự ngẫu nhiên? Hay là điều tất yếu? Tất cả còn phải xem anh đứng ở góc độ nào để lý giải nó, có thể trong cõi u minh quả thực tồn tại một sức mạnh vô hình đáng sợ nào đó đang muốn ngăn cản con người làm rõ lại quãng quá khứ đã sớm biến mất dưới lớp cát sa mạc hàng ngàn năm về trước. Còn lão Lưu Hoại Thủy, do bị gãy xương sườn khi chiếc Ilyushin-12 tiếp đất, nên không thể cùng đoàn tiếp tục hành động, bây giờ nghĩ lại vẫn thấy số mình hên vô cùng. Lão nói với Tư Mã Khôi và Hải ngọng: “Xem ra kiếp này lão Lưu tôi không có phước được ngồi máy bay rồi. Từ nay về sau, cho dù có người kề súng vào sau gáy ra lệnh, tôi cũng không dám ngồi lên con chim sắt đó thêm lần nào nữa đâu.” Lão Lưu Hoại Thủy cũng nhận ra tâm sự của Tư Mã Khôi, bèn nói: “Bát lão gia, tôi thấy hình như nhị vị lão gia rất quan tâm đến chuyện của ông chủ Viễn, giữa các vị có mối giao tình gì à? Nếu thật thế, thì tôi đây cũng vừa hay có một con đường đi được đấy!” Dưới sự quan tâm của các vị lãnh đạo cấp quốc gia, năm trước ngành khảo cổ đã tổ chức thành công công tác khai quật khu mộ Tiểu Hà. Khu mộ này nằm trong sa mạc Lopnor, cách vùng hạ lưu sông Khổng Tước chừng 60km về phía Nam. Các nhà khảo cổ đã khai quật được một lượng lớn văn vật quý giá, cùng một thi thể phụ nữ từ thời Hán được bảo toàn nguyên vẹn. Phát hiện về xác ướp hai ngàn năm trước đã gây chấn động đến cả thể giới. Các hãng báo lớn như nhật báo Nhân dân, nhật báo Quang Minh, báo Giải phóng quân… đều giật tít chữ thật to ngay trên trang nhất, cùng với bức ảnh chụp xác ướp. Yì thế ngay từ khi khai xuân năm nay, người ta lại tiếp tục phóng thích hàng loạt thành phần có quyền lực trong giới học thuật phản động, đồng thời tạm thời phục hồi chức vị cho họ, chỉ có điều tội danh trước đây vẫn không được xóa bỏ, một trong số họ có nhà khảo cổ kiêm địa chất học Tống Tuyển Nông. Trước đây, giáo sư Tống Tuyển Nông là đồng nghiệp với giáo sư Thắng Thiên Viễn, ngoài đời hai người còn là bạn rất thân, nhưng giờ đây không có ai gọi giáo sư Tống Tuyển Nông theo hàm hiệu học vị, mà vì ông bị hói đầu, nên mọi người đều gọi ông bằng biệt hiệu bác Nông địa cầu. Bên mình giáo sư Thắng Thiên Viễn có một cuốn sổ công tác, luôn được cất giữ bí mật, không cho ai biết, bên trong ghi chép toàn bộ các sự kiện trọng yếu trong cuộc đời hoạt động thám hiểm và khảo cổ của mình. Trước lúc nhắm mắt xuôi tay, giáo sư đã mang cuốn sổ được niêm phong kín trong túi hồ sơ đặt trên giường bệnh, đưa cho Lưu Hoại Thủy, và bảo lão hãy trao nó lại cho ông Nông địa cầu, đồng thời giáo sư còn dặn dò lão tuyệt đối không được mở ra xem trộm. Lúc đó, bác Nông địa cầu lại đi công tác ở Cam Túc, khi trở về thì người bạn thân đã từ giã cõi đời. Sau này, Lưu Hoại Thủy đem cuốn sổ ghi chép giao tận tay bác Nông địa cầu, lúc giáo sư giở trang đầu tiên, lão có liếc mắt nhìn trộm, chỉ thấy bên trong viết bốn chữ “Yêu nhĩ Lâu Lan”, cũng không rõ bốn chữ đó ngầm ám chỉ điều gì, chỉ thấy giáo sư Nông địa cầu biểu lộ nét mặt rất đỗi kinh ngạc: “Cái ông Viễn này, đúng là gan to coi trời bằng vung…”, nói đoạn ông vội vàng lướt mắt từ đầu đến cuối một lượt, đọc xong liền châm lửa xé từng trang ra đốt ngay trước mặt lão, cả cuốn sổ cháy thành tro bụi. Sau này, vì tò mò nên Lưu Hoại Thủy có vài lần dò hỏi về nội dung cuốn sổ, nhưng bác Nông địa cầu miệng kín như bưng, không tiết lộ nửa lời, đã thế lần nào giáo sư cũng cảnh cáo lão: “Việc này thuộc phạm trù cần bảo mật tuyệt đối, những việc không nên hỏi thì tốt nhất anh chớ hỏi nhiều, những việc không nên nhìn thì hãy tránh nhìn, càng biêt nhiều thì anh càng gặp nhiều nguy hiểm hơn thôi.” Lưu Hoại Thủy không muốn chuốc họa vào thân, nên đành dập tắt ý định đó, từ đó trở đi, lão không tìm hiểu sâu thêm về việc này nữa. Sau khi đại Cách mạng Văn hóa bùng nổ, bác Nông địa cầu cũng không thể thoát tội, giáo sư bị đẩy xuống vùng nông thôn tham gia cải tạo lao động, mãi đến mùa hè năm nay mới được trả về và bố trí vào một đội trắc họa để chủ trì công việc. Nhiệm vụ chủ yếu của phân đội này là tìm kiếm các quặng vàng ở Tân Cương, suốt dải chiều dài từ cực tây sa mạc Lopnor đến vùng Đại Sa Bản trên sa mạc Kumtag, trước đây từng là sông Sa Bản huyền bí. Trong lịch sử có hai dòng Sa Bản chảy ở hai đầu nam bắc, một dòng quấn quanh thành cổ Lâu Lan, ven sông là những hồ muối đan cài hình xương cá và địa mạo Nhã Đan(1) với đủ hình thù kỳ quái, còn dòng thứ hai bắt nguồn từ núi A-erh-chin, nó là dòng sông ngầm đi xuyên qua núi cát. Trong nhiều tài liệu địa lý miêu tả mạch núi thế sông, các học giả cho rằng sông Sa Bản ở hai đầu nam bắc là một dòng sông chảy thông suốt, nhưng trên thực tế, đó là hai dòng sông tách biệt không hề liên quan với nhau. Do điều kiện thời tiết khắc nghiệt, hạn hán ngày càng trở nên trầm trọng, nên dòng sông ngầm cũng dần dần bị dòng cát cuồng loạn chạy trên sa mạc nuốt chửng. Theo các ghi chép địa lý cổ, lòng chảo sông Sa Bản lắng đọng bụi vàng, dưới lòng đất thậm chí còn có một mỏ vàng rất lớn, nhưng nơi này lại thuộc khu vực trắng trên bản đồ, một năm bốn mùa gió cát lũng đoạn không dứt. Do điều kiện vô cùng khắc nghiệt, vì thế có muốn tiến hành công tác trắc họa từ trên không cũng không được, mà chỉ những chuyên gia tinh thông địa lý thời tiền Tần thì mới có thể dẫn đội quân trắc họa tìm kiếm mỏ vàng đã bỗng dưng biến mất từ nhiều năm trước. Trước mắt, mọi người phải xác định được vị trí tương đối, xác định các thông số đo lường có liên quan như kinh độ, vĩ độ, địa hình cụ thể, độ cao so với mực nước biển của sông Sa Bản; sau đó các phân đội khác nhau như địa lý thăm dò, vật lý thăm dò, khoan thăm dò mới có thể đi sâu tìm hiểu các thông số chi tiết. Giáo sư Nông địa cầu là chuyên gia có kiến thức rât uyên bác và rộng lớn trên nhiều lĩnh vực. Trước Cách mạng Văn hóa, giáo sư kiêm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng khác nhau, ông không chỉ am hiểu lịch sử Tây Vực cổ, mà còn là chuyên gia về lĩnh vực địa chất, sinh vật và hoa học. Tuy nhiên phần lớn hiểu biết đó chỉ dừng lại ở nhưng nghiên cứu trên sách vở, nói suông thì còn được chứ khi phải thực chiến trên trận địa, bước chân vào sa mạc Gobi giữa gió cát vần vũ, thì ông cũng cảm thấy ớn người. Nghe nói, phân đội mà giáo sư Thắng Thiên Viễn phụ trách năm 1963, cũng từng dự định tiến vào vùng ven sông Sa Bản, bây giờ giáo sư Nông địa cầu phải tiếp tục thực hiện nốt nhiệm vụ vẫn chưa hoàn thành khi đó. Trước giải phóng, lão Lưu Hoại Thủy từng nhiều lần vào sâu trong đại sa mạc Hồi Cương, giúp các nhà thám hiểm Anh tìm kiếm thành cổ Viên Sa(2), làm bao nhiêu chuyện thất đức, thậm chí còn bán đứng bảo vật quốc gia, sau khi bác Nông biết chuyện, liền bảo lão làm trợ thủ cho mình, cùng ông đến sa mạc Lopnor. Tuy hiện giờ lão Lưu Hoại Thủy cũng chỉ nhận được đãi ngộ của nhân viên tạp vụ, nhưng với lão, lương lậu bao nhiêu có quan trọng gì đâu, lão cũng không kỳ vọng vào hai mươi mấy đồng bèo bọt ấy. Dưới khẩu hiệu: “công nông binh lãnh đạo tất cả”, thì cái mác giai cấp công nhân vô tình trở thành chiếc ô che chắn vô cùng an toàn cho lão, giúp lão nẫng được không ít món hời. Lão từng đổi được một chiếc bình gốm hoa quý giá thời Nguyên Thanh bằng một xe ba bánh rau cải thảo, ban đêm ngủ mơ vẫn còn thấy sướng, thế thì lão tội gì mà lao đầu vào sa mạc Gobi chịu khổ. Thông qua một số kênh nội bộ, lão biết được một tin trong thời gian cải tạo lao động, bác Nông địa cầu vẫn không ngừng viết báo cáo gửi cho cấp trên, mà nguyên nhân khiến giáo sư viết đơn đề nghị cấp trên cho phép dẫn đoàn tiến vào sa mạc Gobi thì lại có liên quan đến cuốn sổ công tác của giáo sư Thắng Thiên Viễn, mà ông từng đọc trước đây. Bởi vậy, lão Lưu Hoại Thủy phỏng đoán lần hành động này tuyệt đối không chỉ đơn giản là trắc họa sông Sa Bận, nhưng nội tình cụ thể thế nào thì lão chưa dò hỏi sâu sát được. Có điều, lão cũng không dám đắc tội quá đáng với giáo sư Nông địa cầu. Vì trong thời điểm này, ai cũng sợ xanh mặt nếu bị vạch trần hoặc kiểm điểm, ngộ nhỡ giáo sư lại khai tuốt tuột mọi hành vi phản quốc từ trước đến giờ của lão, thì cho dù không đủ chứng cứ cũng vẫn khiến lão vào nhà đá như chơi, thậm chí nếu hành vi đó còn hệ lụy đến các vấn đề khác, thì có khi đến mười cái đầu cũng phải chuyển nhà ấy chứ. Bởi thế nên lão cứ kiếm cớ lần lữa hết ngày này sang ngày khác, dền dứ mãi không chịu lên đường. Hôm nay, lão gặp được Tư Mã Khôi liền thanh minh minh đã có tuổi, chỉ sợ cái thân già này nếu phải chui vào sa mạc thì chắc chẳng có ngày lê nổi chân ra, trong khi đó Tư Mã Khôi lại là chân truyền Kim Điển, tinh thông cổ thuật tướng vật, có thể đảm nhiệm phần công việc này. Nên chỉ cần là người mà lão đứng ra đảm bảo, thì giáo sư Nông chắc chắn sẽ lác mắt kinh ngạc. Vả lại, theo quy định quốc gia, mỗi ngày đi công tác ở bên ngoài đều được lĩnh một đồng tiền trợ cấp, như thế một tháng đã có ba mươi đồng, cộng thêm với lương hàng tháng hai mươi tám đồng, số tiền đó đối với người bình thường thì cũng không phải ít ỏi gì. Lão Lưu Hoại Thủy còn hứa hẹn, nếu Tư Mã Khôi và Hải ngọng chấp nhận đi thay lão chuyến này, thì cá nhân lão sẽ tình nguyện trả thêm ba trăm đồng nữa để biểu thị lòng cảm ơn. Tư Mã Khôi không thể xác định trong cuốn sổ ghi chép – mà giáo sư Thắng Thiên Viễn để lại, có manh mối gì liên quan đến Nấm mồ xanh hay không, nhưng bây giờ người duy nhất có thể lý giải nội tình, e rằng chỉ có một mình giáo sư Nông mà thôi. Thế nhưng theo lời lão Thủy ma trống thì do việc này can hệ đến một số điều lệnh bảo mật, nên chắc chắn rất khó moi được thông tin từ cái miệng kín như bưng của giáo sư địa cầu, xem ra việc này đúng là dục tốc bất đạt. Vả lại, Tư Mã Khôi và Hải ngọng cũng cảm thấy tiếp tục sống những ngày lang thang tạm bợ ở khu Hắc Ốc cũng chẳng có ý nghĩa gì, nên nhân cơ hội này có thể ngắm nhìn phong cảnh đại sa mạc Gobi cũng không phải ý tồi. Tư Mã Khôi cũng đọc vị được lão Thủy ma trống dường như rất nóng lòng muốn tìm người thay mình chịu trận chứ không lão đã chẳng chìa ngay tiền ra cửa miệng, trước mắt đúng là cơ hội thấy gió thì phải bẻ măng, lúc này không đá đít lão cáo già ấy một cú, thì còn đợi lúc nào nữa? Thế là anh bèn ra điều kiện: “Lưu sư phụ ạ, tôi cũng niệm tình hai gia đình chúng ta tòng qua lại thân thiết bao nhiêu đời nay, nên sao có thể ngồi yên không giúp ông bác việc này được? Nhưng cái giá khi nãy ông bác vừa đưa ra không được thỏa đáng lắm. Bởi vì lời ngoài ý trong của ông bác, tôi đọc vị được hết rồi. Cái chuyến công tác mà ông bác vừa nói đấy, chỉ cần sơ sẩy một chút thôi là cái mạng nhỏ của tôi sẽ chu du đến Quỷ Môn Quan ngay tức khắc, và nếu thế thì món tiền ba trăm bạc của ông bác cũng chẳng đến được tay bọn tôi. Bây giờ thế này, tôi và Hải ngọng mỗi người ba trăm đồng, ngoài ra, còn phải cộng thêm chiếc áo khoác da chuột bách niên mà tôi vừa bán cho ông bác lúc nãy. Nấu ông bác không chấp nhận coi như tôi chưa nói gì, vì dù sao thì chỗ tôi chẳng bao giờ hét hai giá, thiếu một đồng cũng không xong. Thời thế bây giờ tìm ếch ba chân mới khó, chứ có cả đống hai chân ngồi đầy đường mặc cho ông bác tha hồ lựa chọn, bác nghĩa thấy ai vừa mắt thì cứ việc đến mà thương lượng với họ.” Lão Lưu Hoại Thủy nghe xong thì răng hàm nghiến vào nhau ken két, nói: “Bát lão gia, phen này đến lượt tôi bái phục lão gia sát đất, chiêu lột da ngược này của lão gia cũng độc thật đấy!” Tư Mã Khôi đáp lời: “Lưu sư phụ đánh giá tôi cao quá rồi, vả lại, cái từ lột da ngược nghe cũng không được nhã nhặn cho lắm. Tôi gọi chiêu này là vỏ quýt dày có móng tay nhọn, cao nhân hữu tắc cao nhân trị. Tôi và bác sau này còn phải học hỏi nhau nhiều, chúng ta cùng cố gắng tiến bộ nhé!” Hải ngọng ngồi một bên mặt mày hớn ha hớn hở nói: “Lưu sư phụ, chúng tôi đâu nỡ ép uổng người già? Nhưng thời thế này, tình cảm đáng giá bao nhiêu tiền một cân chứ? Đến tận hôm nay, Hải ngọng tôi mới biết, mẹ nhà nó, thế nào gọi là cháy nhà hôi của, nên được hay không thì ông bác cứ nói một câu cho thật thống khoái xem nào. Mấy cái đĩa xào này coi như tôi mời ông bác. Chúng ta mua bán không thành thì vẫn còn tình cảm, coi như kêt bạn với nhau ấy mà. Nếu bây giờ ông bác có việc gấp phải đi thì cứ mau đi đi, đợi sau khi ông bác đi khuất, chúng tôi sẽ tìm một cái bốt điện thoại nào đấy, đến lúc đó, tôi sẽ nhấc điện thoại lên và nói: “À lố, có phải sở công an đó không? Tôi muốn báo án, có một phần tử xấu tên là Lưu Hoài Thủy. Người này nhân cơ hội bài trừ tứ cựu để hành nghề đánh trống con trên phố, lấy một xe ba bánh cải thảo để đối lấy văn vật. Rõ ràng là hắn ta ôm nỗi bất bình với chế độ chủ nghĩa xã hội, mầm mống phản động quá rõ rệt, lại còn trà trộn vào đội khảo cổ làm công nhân thời vụ. Nếu như các anh không tin, thì có thể bắt hẳn trước để thẩm vấn, sau đó vào nhà hắn lục soát. Nếu quả thực có việc như vậy, thì nên chém cứ chém, nên bắn cứ bắn, không cần phải nhẹ tay với hắn làm gì, nguyên tắc làm việc của các đồng chí chẳng phải tuyệt đối không xử oan người tốt, cũng tuyệt đối không được lọt kẻ xấu hay sao?” Lão Lưu Hoại Thủy vừa nghe đã sợ tái mặt, không dám ho he thêm câu gì; hơn thế nữa, lão cũng không thể tìm đâu ra người nào phù hợp với nhiệm vụ lần này hơn Tư Mã Khôi, nếu thay bằng người khác, có khi ngay cả cửa giáo sư Nông cũng không qua nổi. Vì thế lão đành nén đau thương chấp nhận điều kiện của Tư Mã Khôi, rồi đích thân dẫn hai người đi tìm giáo sư Nông địa cầu. Giáo sư Nông là người có gương mặt tròn trịa, toát lên vẻ hiền từ, cộng thêm cái đầu hói quá nửa, trông không khác gì quả địa cầu mô hình. Ông đeo cặp kích cận, gọng bị gãy được chắp nối bằng vài vòng dây chun quấn qua loa. Ông vừa bị đấu tố ở Đại học Bắc Kinh, nhà cửa vẫn còn niêm phong, nhưng vừa về đến đơn vị đã vội bắt tay vào công việc không dám chậm trễ. Giáo sư đang bận bịu sắp xếp các vật dụng cần thiết cho chuyến đi sắp tới, thấy mọi người đến, ông vội ra mở cửa chào đón rồi nghe lão Lưu Hoại Thủy giới thiệu sơ qua tình hình. Lưu Hoại Thủy mạo nhận Tư Mã Khôi và Hải ngọng là đồ đệ của mình, lúc này sư phụ đang ra sức ca tụng học trò, ngoại trừ giới thiệu hai người đã được học qua những kỹ nghệ gì, đặc biệt còn gán thêm một loạt phẩm chất đạo đức cao đẹp cho họ, nào là quang minh chính trực, thật thà ngay thẳng, nào là cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, trọng lễ hiểu nghĩa, không vụ lợi… Giáo sư Nông địa cầu nhìn Tư Mã Khôi và Hải ngọng một lượt từ đầu đến chân như thầm đánh giá. ỏng tỏ ra hoài nghi hỏi lại: “Cổ lý tướng vật là một lĩnh vực vô cùng uyên thâm, về tác dụng thực tế, nó còn hữu dụng hơn sơn kinh thủy pháp rất nhiều, chỉ có điều lai lịch của nó thật ít giả nhiều, tôi chưa bao giờ tiếp xúc với môn này, vì thế cậu nói các cậu am hiểu, tôi cũng không có cách gì phán đoán thật giả. Nhưng tôi từng nghiên cứu vê đáy biển giang hồ sử dụng trong xã hội cũ: người xưa có nói Kim Điến là tương, lục lâm là tướng, tương tướng gọi chung là văn võ, hai thứ này không bao giờ tách bạch hẳn ra. Cậu đã tự nhận mình là chân truyền của Văn Võ tiên sinh, thì nhất định rất thông thạo đáy biển, vậy trước tiên tôi hỏi cậu, thế nào là giang hồ? Tính danh của giang hồ tự hiệu là gì? Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Đúng là nhìn bề ngoài không thể ngờ lão hói này lại hiểu về “Mắt đáy biển giang hồ” đến vậy, thì ra trong giới quyền lực học thuật phản động bị quần chúng cách mạng lật đổ, cũng có vài nhân vật ra hồn đấy chứ”. Nửa bộ Kinh Kim Cương – Ngũ Hồ Tứ Hải này, Tư Mã Khôi có ngủ mơ mà đọc ngược từ dưới lên thì cũng vẫn trôi chảy như thường, thể là anh bèn ứng đáp: “Nhãn là giang, khẩu là hồ, họ Giang tên Long tự Nguyên Trực là dòng chính, họ Hồ tên Trường tự Ưu Long là dòng nhánh”. Bác Nông địa cầu lại hỏi tiếp: “Họ Nhật Nguyệt tên là gì?” Tư Mã Khôi lại đáp: “Họ Nhật tên Tôn, tự Khai là bậc tử chân, họ Nguyệt tên Đường, tự Vệ là bậc đại hiền”. Anh nghe thì biết giáo sư dường như biết không nhiều lắm, trong lòng thầm nghĩ: không cần đợi ông bác hỏi, hôm nay tôi sẽ cho nhà ông mở rộng tầm mắt, để biết thế nào gọi là “đáy biển” đích thực. Nghĩ vậy, anh bèn đọc tuột ra một lèo: “Giang hồ nhật nguyệt là cửu châu, bát đại thần tiên vượt cửu châu, trong cửu châu đều là anh em huynh đệ, trên dưới tam đẳng đều là chốn bạn bè, Nam Kinh chìm tôi không sợ, Bắc Kinh hạn tôi không lo, anh có Kim Ngân chồng Bắc Đẩu, tôi có ngón nghề vượt xuân thu, ban ngày không lo quân tử mượn, ban đêm không sợ tiểu nhân dòm, ngón nghề của tôi độc chiếm ngao đầu lưỡng đóa kim hoa, tam nguyên cập đệ, tứ quý phát tài ngũ tử đăng khoa, lục họp đồng xuân, thất tinh củng chiếu, bát bảo hoàng lương tản, cửu căn kim ngọc đới, thập toàn phú quý. Muốn hỏi ngón nghề này nặng bao nhiêu, hai cân mười ba lượng năm tiền bốn phân rưỡi.. .”(3) (3) Hai cân mười ba lượng năm tiền bốn phân rưỡi: trong đáy biển giang hồ, số hai tượng trưng cho nhật nguyệt hoặc đất trời; mười ba là chỉ mười ba tỉnh của Trung Quốc, bao gồm phía nam bảy tỉnh, phía bắc sáu tỉnh; năm tiền bốn phân rưỡi chỉ trong bốn biển năm hồ chỉ lấy một nửa. Giáo sư Nông địa cầu xưa nay là người có con mắt rất tinh tường, nhìn người khá chuẩn, thấy mấy câu trong nghề không làm khó được Tư Mã Khôi, bèn hỏi tiếp vài câu về phong vật trong đại sa mạc cổ Tây Vực. Tổ tiên Tư Mã Khôi từng tòng quân dẹp loạn Tân Cương thời mạt Thanh, lập công hiển hách với triều đình; thêm nữa, anh cũng nghe Văn Võ tiên sinh nói qua không ít những chuyện gia môn thời cũ, nên ứng đáp tự nhiên, làu làu như cháo chảy. Giáo sư Nông địa cầu vui mừng hớn hở ra mặt nói: “Cậu quỷ ma lanh này khá lắm, tôi nhận!”, rồi quay sang hỏi Hải ngọng: “Còn cậu cao to lực lưỡng này… có bản lĩnh hoặc sở trường gì không? Tôi thấy cậu có khí chất anh dũng, cơ thể lại cường tráng hơn người, chẳng khác nào lạc đà trên sa mạc, đúng là nòi cầm súng làm lính đây, nếu cõng thiết bị máy móc cho đội khảo cổ chúng ta, chắc chắn không thành vấn đề đâu nhỉ, thôi thì thu nhận cả hai cậu nhé!”. Từ khi bắt đầu bước chân vào cửa, Hải ngọng đã ngang nhiên kéo ghế ra ngồi, nhìn thấy trên bàn có thuốc lá anh cũng không khách sáo, móc luôn một điếu ra châm lửa hút. Lúc này nghe thấy bác Nông địa cầu nói vậy thì lấy làm không hài lòng lắm, anh vừa phì phèo nhả một ngụm khói thuốc, vừa nói: “Sở trường hả? Còn phải xem lão đồng chí bác muốn chỉ về mặt nào đã, tôi thấy cơ thể cao to không thể coi là sở trường được, rốt cục nó chỉ là thứ do cha mẹ sinh ra, chẳng có gì đáng gọi là kỹ thuật. Nếu nói về sở trường mang tính kỹ thuật, thì tôi đây quả thật cũng có vài món, có điều bình thường không muốn tiêt lộ ra ngoài, ví dụ như chuyện hút thuốc này chẳng hạn, Hải ngọng tôi rất khoái hút thuốc, từ loại thuốc rẻ tiên hai xu một bao cho đến loại thuốc Bạch Kim Long nổi tiếng Nam Dương, chưa loại nào tôi không hút qua. Hơn nữa, tôi có thể nhả liền tám ngụm khói thành hình tròn, luồn vòng tròn nhỏ vào trong vòng tròn lớn. Ngoài ra, tôi còn luyện được cả tuyệt kỹ châm thuốc, bất luận điều kiện hoàn cảnh thế nào dù mưa rơi hay đạn xả, đi ngựa, đất rung hay núi lở, vượt núi hay xuyên rừng, đều không hề ảnh hưởng đến mức độ hoàn hảo của tuyệt kỹ, tôi có thể hút thuốc bất kỳ lúc nào nơi nào, cũng có thể châm thuốc bất kỳ lúc nào nơi nào, mà từ trước đến giờ chỉ cần một que diêm châm thuốc, bất kể mưa to gió lớn đến đâu, chỉ cần châm là cháy, tuyệt đối không bao giờ phải sử dụng đến que thứ hai. Ông bác cảm thấy món sở trường này của tôi thế nào hả?” Giáo sư Nông địa cầu không thích những bậc hậu sinh thật thà như đếm, gọi dạ bảo vâng, vì nếu một người chỉ biết ở nhà vâng lời mẹ cha, đi học vâng lời thầy cô, ra công tác vâng lời lãnh đạo, thì sẽ không biết cách ứng phó linh hoạt, không có chủ kiến riêng, mất tính sáng tạo và sự dũng cảm dám độc lập đối đầu với khó khăn. Xã hội phức tạp như thế, ai nói tiền bối, lãnh đạo, thầy cô lúc nào cũng chính xác tuyệt đối? Làm sao có thể kỳ vọng những loại người này sẽ tạo ra thành tựu kỳ diệu gì cho tương lai? Bởi thế ông không hề ghét bỏ những ngôn từ cử chỉ ngạo mạn của Tư Mã Khôi và Hải ngọng, ngược lại còn đánh giá họ rất cao. Giáo sư nói ngay trước mặt Lưu sư phụ: “Hai thằng ranh lêu lổng này chắc không dễ quản đâu, nhưng tôi thu nhận hết, bây giờ cái chúng ta thiểu thốn nhất chính là nhân lực, chỉ cần họ nhiệt huyết với công việc khảo cổ, theo đuổi lịch sử, thì việc điều tra lí lịch và tiếp nhận đều không thành vấn đề gì cả”. Lưu Hoại Thủy tìm được Tư Mã Khôi và Hải ngọng đi thay mình, thì coi như đã bàn giao xong nhiệm vụ, lão như thể trút bỏ được gánh nặng, vội vàng quay người cáo từ. Giáo sư tiễn lão Thủy ma trống một quãng, khi trở về phòng liền trịnh trọng căn dặn hai người: “Từ hôm nay trở đi tôi sẽ là lãnh đạo trực tiếp của hai cậu, các cậu là trợ thủ và cũng là học trò của tôi, nhất định phải nghe lời tôi phục tùng theo sự sắp xếp của tôi, cố gắng học hỏi các kiến thức nghiệp vụ, đã hiểu chưa?” Hải ngọng trợn mắt nói: “Ái chà! Vừa mới đây thôi mà đã lên mặt rồi đấy à? Ông bác mắc bệnh chủ nghĩa quan liêu hay chứng nghiện làm lãnh đạo thế hả? Có điều từ nay bọn tôi là người có tổ chức, có lãnh đạo hẳn hoi, thì đương nhiên ăn phải có quy củ, nói cũng phải có quy củ, làm việc càng phải có quy củ hơn, có đúng thế không? Nhưng tôi nói thế này bác Nông ạ, nghe bên ngoài đồn đại, người ta bảo ông bác là cựu cán bộ hành chính bậc mười ba, tuy bị chụp mũ và chịu mấy lần đấu tố, nhưng sau khi trở về thì vẫn ngồi văn phòng ỉàm việc như cũ, đi đâu cũng có xe hơi đưa đón, đít xe còn nhả phè phè khói trắng. Thế những người làm việc dưới trướng của ông bác, chí ít cũng phải hưởng tí đãi ngộ cấp chính quy, hưởng lương bậc mười bảy chứ nhỉ? Nếu không thì quá là bôi nhọ tổ quốc chủ nghĩa xã hội của chúng ta, và cái mặt làm lãnh đạo của ông bác rồi còn gì?”