🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Mê Tông Chi Quốc Tập 1: Chăm Pa Ẩn Sương Ebooks Nhóm Zalo Mê Tông Chi Quốc I - Chăm Pa Ẩn Sương Thiên Hạ Bá Xướng Thông tin ebook: Tên sách: Chăm Pa Ẩn Sương Nguyên tác: 雾隐占婆 Bộ: Mê Tông Chi Quốc | 谜踪之国 Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng | 天下霸唱 Dịch giả: Vũ Như Lê Nhà xuất bản: Văn Hóa Thông Tin Công ty phát hành: Tân Việt Số trang: 736 Bìa: Mềm Năm phát hành: 2012 Kích thước: 14 x 20.5 cm Trọng lượng: 726 g Giá bìa: 150.000 *** Thực hiện ebook: Hoàng Liêm Ngày hoàn thành: 06/09/2013 http://e-thuvien.com/forums/ Ebook không mang tính chất thương mại, để chia sẻ tới các bạn yêu sách ở xa, hoặc không có điều kiện mua sách giấy. Trong điều kiện có thể bạn hãy mua sách để ủng hộ và tôn trọng nhà xuất bản. Giới thiệu nội dung: Mê Tông Chi Quốc là bộ tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm dài kỳ gồm 4 tập, kể về những chuyến đi đầy mạo hiểm của một đoàn thám hiểm gồm những kẻ trộm mộ chuyên nghiệp, những chiến sĩ chạy trốn sự truy đuổi của kẻ thù và những nhà khảo cổ dạn dày kinh nghiệm, họ bắt đầu hành trình với những nhiệm vụ khác nhau nhưng lại gặp nhau giữa rừng hoang núi thẳm và cùng chiến đấu để chống lại hiểm nguy, giành giật sự sống. Chuyến đi của họ là hành trình sinh tử đầy ly kỳ và mạo hiểm, vượt thời gian, vượt không gian với những khám phá kinh hoàng về một vương triều cổ đại, một đất nước bị lãng quên dưới lòng đất và những điều bí ẩn chưa ai từng biết đến. Một tổ chức thần bí, một nhiệm vụ bất khả thi. Kinh hoàng: Con đường U Linh bí ẩn trong lịch sử một lần nữa hiện ra trước mắt. Kỳ quái: Máy bay không người lái bay lượn trong khe núi sâu. Hung hiểm: Đỉa ăn thịt người bao vây thảm sát cả đoàn người. Trong rừng rậm bí ẩn, bạn làm cách nào để chiến thắng nỗi sợ hãi và xoay chuyển vận mệnh? Sự thật chôn vùi dưới lòng đất sâu, lời giải ẩn kín trong lớp sương mù. Rút cục ai là kẻ cận kề Thiên quốc nhất? Giới thiệu tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng tên thật là Trương Mục Dã, sinh năm 1978, người Thiên Tân. Anh được ca ngợi là nhà văn có trí tưởng tượng phong phú bậc nhất trong dòng văn học thám hiểm, kinh dị Trung Quốc. Anh là tác giả của bộ truyện “Ma Thổi Đèn” - bộ tiểu thuyết được truyền bá rộng rãi nhất ở Trung Quốc sau những tác phẩm võ hiệp của Kim Dung. Tác phẩm của Thiên Hạ Bá Xướng đã kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố thần bí trong văn hóa phương Đông và những khái niệm văn hóa hiện đại của nhiều nơi trên thế giới, từ đó in đậm dấu ấn của tiểu thuyết Trung Quốc trên văn đàn thế giới. Trong những cuốn tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, điều tác giả quan tâm là những suy nghĩ và hành động của con người trong những hoàn cảnh kỳ lạ chưa bao giờ được biết đến. Bằng những câu chuyện tràn đầy sóng gió bão táp với những bí kíp cổ xưa, những di tích thần bí, bằng tình bạn cảm động giữa những người đồng đội sẵn sàng sống chết vì nhau và sự cảm nhận sinh tử vô thường, bằng ngôn ngữ hài hước tinh tế, những kiến thức dân gian phong phú nhiều màu sắc, Thiên Hạ Bá Xướng đã tự xây dựng cho mình một cõi “giang hồ” riêng biệt. Mục Lục Chương 1 Bảo vật trong Hắc Ốc Hồi thứ nhất Hắc Ốc Hồi thứ hai Biệt bảo Hồi thứ ba Cầu La Sư Hồi thứ tư Hẻm ma ám Hồi thứ năm Đom đóm Hồi thứ sáu Bọ cạp đảo đầu bò tường Chương 2 Máy bay tiêm kích Hồi thứ nhất Núi Dã Nhân Hồi thứ hai Karaweik Hồi thứ ba Con đường U Linh bị lãng quên Hồi thứ tư A - B Hồi thứ năm Đáy biển Hồi thứ sáu Máy bay tiêm kích Hồi thứ bảy Tháp thông thiên Hồi thứ tám Rắn thiêng hiện thân Chương 3 Bão nhiệt đới Buddha Hồi thứ nhất Xẻ bụng Hồi thứ hai Đỉa Campuchia ăn thịt người Hồi thứ ba Bùa ngải Hồi thứ tư Cuồng phong giông tố Hồi thứ năm Stupa Hồi thứ sáu Ánh sáng chói lóa Hồi thứ bảy Lao xuống Hồi thứ tám Hẻm núi khổng lồ Hồi thứ chín Giọng nói Chương 4 Động không đáy kinh hoàng Hồi thứ nhất Súng săn Hồi thứ hai Kế hoạch kính viễn vọng địa cầu Hồi thứ ba Hàng nguy hiểm Hồi thứ tư Bom địa chấn Hồi thứ năm Con mắt ngoài khoang lái Hồi thứ sáu Kinh hoàng Hồi thứ bảy Kén Hồi thứ tám Sụt lở Chương 5 Thành Nhện Vàng Hồi thứ nhất Tòa thành bốn triệu bảo tháp Hồi thứ hai Sóng điện trong động tối Hồi thứ ba Mũ sắt Hồi thứ tư Khoảnh khắc ngàn năm Hồi thứ năm Lời giải không phải lời giải Hồi thứ sáu Sương mù Hồi thứ bảy Hơi thở Hồi thứ tám Kẻ may mắn sống sót Hồi thứ chín Đường hầm chết Chương 6 Kẻ cận kề Thiên quốc Hồi thứ nhất Đáp án thứ chín Hồi thứ hai Nấm mồ xanh Hồi thứ ba Quốc vương Chăm Pa Hồi thứ tư Chân tướng Hồi thứ năm Kỳ tích Hồi thứ sáu Lời nguyền Hồi thứ bảy Biến mất trong mật thất Hồi thứ tám Sự thực chưa xảy ra Hồi thứ chín Không trung ngụt lửa PHẦN MỞ ĐẦU Giai đoạn cuối đời nhà Thanh là những năm tháng thời thế thay đổi loạn lạc, đầy biến động, cương thường bại hoại, luật pháp lỏng lẻo, trộm cắp cướp giật nhiều không kể xiết. Chỉ riêng hai thành phố Bắc Kinh và Thiên Tân đã xuất hiện bốn tên đạo tặc lừng danh, bọn chúng là hung thủ thực hiện bao vụ trọng án kinh thiên động địa, gây hiểm họa kinh hoàng cho dân chúng. Câu chuyện được lưu truyền trong dân gian đều không tránh khỏi có chút thay hình đổi dạng, thêm thắt ít nhiều. Truyền kỳ về bốn tên đạo tặc tài ba có lẽ cũng vậy, chúng trở thành đề tài nóng hổi để bàn dân thiên hạ mang ra bàn luận khắp nơi, từ thôn cùng ngõ hẻm đến các tửu lầu, trà quán; thậm chí người ta còn sáng tác rất nhiều khúc hát, lời vè, truyện truyền miệng về chúng, các bài báo lá cải cũng liên tiếp đăng tải vô số chương hồi giật gân về những hành động mới nhất của bốn tên gian tặc này. Những chuyện về chúng được đồn đại rộng rãi đến nỗi người người đều tỏ, ngõ ngõ đều tường. Nhưng trên thực tế, cuộc đời của bốn tên đạo tặc đó không nhuốm đầy màu sắc thần bí như trong truyền thuyết, chỉ có điều để được nhân gian đồn thổi ghê gớm như vậy chắc hẳn chúng cũng phải có chút bản lĩnh ưu việt, có ý chí không chịu an phận thủ thường, có những tài năng mà người thường không thể so bì. Tên gian tặc đầu tiên, cũng là kẻ thành danh sớm nhất, phải kể đến Khang Tiểu Bát. Khang Bát Gia kỳ thực không thể coi là bậc đạo tặc kỳ tài, tên này nhà rất nghèo, bản thân là kẻ vô lại, ăn không ngồi rồi, sống ở phía đông kinh thành, trong khu doanh gia họ Khang. Trong một lần tình cờ, hắn đánh cắp được khẩu súng lục trên người viên công sứ Anh, từ đó hắn ngông cuồng đến mức quên cả mình là ai, đi đến đâu cũng giết người cướp của. Khang Tiểu Bát tâm địa đen tối, ra tay tàn độc, hễ thấy ai không thuận mắt là hắn lập tức bóp cò nổ súng, trên lưng hắn không biết đã cõng bao nhiêu mạng người. Đơn cử có một lần, Khang Tiểu Bát đi cắt tóc, đang cắt dở chừng hắn quay lại hỏi người thợ: “Ngươi đã nghe tiếng Khang Tiểu Bát bao giờ chưa?” Anh thợ cắt tóc thực thà thuận miệng đáp: “Biết chứ, tên tiểu tử đó chẳng phải thứ gì hay ho.” Khang Tiểu Bát trong lòng ức lắm nhưng không nói ra, lại hỏi: “Sao lại chẳng phải thứ gì hay ho? Ngươi quen hắn à?” Anh thợ lại bảo: “Không quen, nghe thiên hạ nói hắn chỉ giỏi làm những chuyện xằng bậy.” Nghe tới đó, Khang Tiểu Bát quay người lạnh lùng thả từng tiếng: “Được, vậy hôm nay ta sẽ cho ngươi biết ông đây là ai!” Lời chưa dứt, hắn đã rút súng ra, sáu tiếng nổ đanh sắc vang lên, anh thợ cắt tóc lăn ra chết tại chỗ. Khang Tiểu Bát giết người như giết rận, tội ác chất chồng như núi. Tuy tâm địa tàn ác nhưng hắn lại là kẻ vô cùng nhát gan, càng giết nhiều người hắn càng hay sinh nghi, lúc nào cũng lo sợ có người đang ngầm tìm cách báo thù. Một mình đi trong đêm tối, chỉ cần nghe thấy tiếng bước chân đằng sau, không thèm hỏi là ai, hắn lập tức quay đầu rút súng. Khang Tiểu Bát làm mưa làm gió suốt một thời gian dài, cuối cùng cũng bị tuần bổ tóm sống và xử tử, đầu của hắn bị treo trên cổng chợ cho thiên hạ bêu riếu. Thời Dân quốc có không ít kẻ ngồi rỗi hóng chuyện, thích loan tin giật gân để kích thích lòng hiếu kỳ của dân chúng, đã cố tình liệt Khang Tiểu Bát vào danh sách những hảo hán lục lâm[1], rồi viết hẳn thành một kịch bản mới cho hắn. Trong nhiều cuốn tiểu thuyết truyền kỳ hạng ba hoặc tiểu thuyết chốn trà lầu, thư trường cũng có nói đến hắn. Không ngờ trong lời hát, lời kể, hắn đã được miêu tả thành một hiệp khách trộm đạo võ nghệ cao cường, sánh ngang với các bậc hào kiệt lục lâm như Triệu Tư Hổ, Đậu Nhĩ Đôn... Kẻ xếp thứ hai trong tứ đại gian tặc thời bấy giờ là Tống Tích Bằng. Thời điểm tên này thành danh cũng gần kề với thời điểm Khang Bát Gia náo loạn Bắc Kinh. Có điều, Tống Tích Bằng không phải người Bắc Kinh chính gốc, tổ tiên tám đời nhà hắn sống gần chùa Vệ Nam ở Thiên Tân. Từ nhỏ, Tống Tích Bằng đã theo một bậc lão nhân người Hồi ngày ngày luyện võ. Hắn được trời phú cho sức khỏe hơn người, có thể dễ dàng nâng được tảng đá nặng mấy chục cân bằng một tay, rồi đủng đỉnh dạo quanh sân một vòng mà mặt không hề biến sắc. Hắn có một cơ thể rắn như thép, nội công thâm hậu, trên người hắn hằn lên một vết sẹo trắng do dao chém, một nốt chấm trắng do súng bắn. Mọi người tặng hắn biệt hiệu “Thạch Phật Tống”. Tống Tích Bằng từng làm tiêu sư trong tiêu cục một vài năm. Sau này, khi Sơn Đông gặp loạn Nghĩa Hòa Đoàn, dân luyện võ mọi ngả đều tập trung lại giơ cao ngọn cờ “phục Thanh diệt ngoại xâm” hừng hực khí thế Bắc tiến vào kinh, Thạch Phật Tống cũng tham gia hoạt động, rồi nhờ vào chút võ nghệ hơn người nên hắn trở thành đại sư huynh. Năm Canh Tý, cuộc nổi loạn bị dập tắt, Nghĩa Hòa Đoàn bị trấn áp tàn khốc, nhiều người bị quan phủ bắt giữ chém đầu. Tống Tích Bằng may mắn chạy thoát và trở thành thảo khấu thổ phỉ. Hắn tập hợp được một nhóm thủy tặc, đến Thiên Tân cướp thuyền Diêm đạo[2], bên trong chất đầy quan ngân. Loại bạc này thời xưa gọi là “hoàng cống”, mỗi thỏi một trăm lượng, mười thỏi đựng vào một ống. Tống Tích Bằng tinh thông phi tiêu, bách phát bách trúng. Hắn vung tay phi tiêu mấy phát, liền hạ gục năm vị quan quân, rồi cướp đi ba mươi vạn lượng “hoàng cống”. Tống Tích Bằng tự biết mình gây ra đại họa tày trời, nên sau khi phân chia số bạc cướp được cho đồng bọn, liền vội vàng chạy trốn đến Thương Châu mai danh ẩn tích. Một năm sau, Tống Tích Bằng nghĩ sóng gió đã qua, mọi người đã quên chuyện cũ liền âm thầm trở lại Thiên Tân tìm người thân. Nào ngờ, hắn vừa lộ mặt lập tức bị người của cục tra xét để mắt tới. Lần này, hắn muốn cao chạy xa bay cũng chẳng còn đường thoát thân, nên đành phải liều mạng ra tay giao đấu nhưng ít không địch nổi nhiều nên hắn nhanh chóng bị tuần cục vật ngửa ra đất, bắt sống giải về phủ xử tội. Vụ án Tống Tích Bằng làm kinh động đến cả triều đình, khiến Từ Hy thái hậu trong Tử Cấm Thành ngồi không cũng phải cảm thấy khó chịu. Nghe nói chòi canh Thiên Tân đã bắt được tên đại tặc, thái hậu liền muốn ra xem rốt cục hắn là anh hùng hảo hán phương nào. Lý tổng quản lệnh cho thị vệ ngự tiền áp giải Tống Tích Bằng, tay bị khóa còng, chân đeo xích, đến trước đại điện diện kiến Lão Phật Gia thái hậu. Nhưng cứ thử tưởng tượng xem, tù nhân mà mắc phải trọng tội như thế, nay bị rơi vào bước đường này thì tinh thần làm sao còn ngùn ngụt khí thế như trước được? Vì vậy, Từ Hy thái hậu sau khi xem mặt hắn xong thì cảm thấy vô cùng thất vọng, người chỉ lạnh nhạt nói một câu: “Kẻ to gan gây họa tày đình chẳng qua chỉ thế này thôi sao?” Mấy hôm sau, Tống Tích Bằng bị tuyên xử trảm, quân lính giải hắn đến pháp trường chém đầu thị uy dân chúng, rồi treo trên cổng thành suốt hai tháng ròng. Đệ tam gian tặc là kẻ gây náo loạn Bắc Bình vào những năm đầu thời kỳ Dân quốc, tên hắn là Yến Tử Lý Tam. Nghe nói Lý Tam Gia thuở nhỏ bần hàn, từng gọt đầu xuất gia làm tiểu hòa thượng nương nhờ cửa Phật. Sau này thành nghệ, hắn mới hoàn tục trở lại. Bình sinh Lý Tam Gia rất giỏi khinh công, có thể thi triển tuyệt kỹ bí truyền “Đăng bình độ thủy”, đạp bèo qua sông như người ta đi trên đất bằng, hắn đi trên tường, bay qua mái nhà, thi triển khinh công ra vào cổng thành mà không để lại dấu tích, dễ dàng chẳng khác nào chủ nhân ra vào bằng cổng chính. Trình độ khinh công của Lý Tam Gia thậm chí ngang ngửa với thần trộm Giang Nam Triệu Hoa Dương. Chỉ trong một đêm, hắn có thể liền tay trộm đồ trong tám cửa hiệu lớn, trước khi bỏ đi còn để lại phi tiêu “Yến Tử” làm hiệu. Trong một thời gian ngắn, tiếng tăm của hắn vang khắp Bắc Bình. Trên thực tế, Yến Tử Lý Tam không hẳn thần thông được như đồn đại, có điều hắn quả thực có một vài bản lĩnh đáng nể. Tên trộm này rất giỏi trèo tường, đi lại trên mái nhà vô cùng nhanh nhẹn. Khi hành sự, hắn thường đeo năm sáu đôi tất để di chuyển nhẹ nhàng và không bị trơn trượt, để lúc đáp xuống đất cũng không gây tiếng động. Không những thế, Yến Tử Lý Tam còn là người có tố chất làm kẻ trộm, khôn ngoan, nhanh nhẹn hơn người. Nhiều lần quan phủ tiến hành vây bắt, nhưng chưa lần nào tóm được hắn. Đáng tiếc thay, Lý Tam Gia lại bị nghiện nặng, ngày nào cũng phải hít hết một chầu “Cao Phù Dung”[3]thượng hạng thì mới có tinh thần hành sự. Một lần coi như hắn gặp vận xui, khi trong lòng nghĩ: “nơi nguy hiểm nhất chính là nơi an toàn nhất”, nên hắn cả gan trốn trên nóc nhà phòng xử án đội tuần tra nằm nghỉ, không ngờ đúng lúc này cơn nghiện tự dưng phát tác. Không thể nhịn được, hắn liền bật lửa châm điếu thuốc đang giắt trong mình. Kết quả không may là hắn bị một nhóm tuần tra đang đi tuần phát hiện, khi viên đội trưởng nhìn thấy trên nóc nhà có một đốm sáng bỗng nhiên lóe lên giữa màn đêm đen dày đặc. Lòng cảm thấy bất thường, viên đội trưởng đoán định chắc hẳn có gian tặc đang ẩn mình bên trên, nên lập tức lặng lẽ bố trí quân lính bao vây tứ phía ngôi nhà, quyết tâm bắt bằng được ếch trong chum, Yến Tử Lý Tam lại không biết bay như chim yến, nên đành bó tay chịu trói. Trời vừa hửng sáng, đội tuần tra liền áp giải phạm nhân vào nhà lao Nam Thành. Quan phủ lo sợ ngộ nhỡ Lý Tam lại giở chiêu “Thoát cốt pháp” co xương để đào tẩu, nên sau khi đánh gẫy hai chân hắn, liền rút hai sợi gân bên trong ra rồi dùng xích sắt xuyên qua hai xương bánh chè khiến hắn trở thành người tàn phế. Lý Tam Gia vừa chịu đau đớn về thể xác, vừa bị cơn nghiện dày vò nên không kịp đợi đến lúc hành hình, hắn đã về âm tào địa phủ gặp Diêm Vương trước một bước. Tên giặc cỏ cuối cùng trong bộ tứ gian tặc, kỳ thực là bộ đôi anh em song sinh, huynh trưởng tên Điền Hóa Tinh còn được mệnh danh là “Địa Lôi Cổn”, nhị đệ Điền Hóa Phong, mệnh danh “Tọa Địa Pháo”. Thời điểm huynh đệ họ Điền nổi danh cũng chính là thời điểm mà đội quân phiệt huy động một lực lượng lớn đi khai quật lăng mộ các vua chúa ngày xưa. Khi đội quân đào phá đến Cảnh Lăng cung của hoàng đế Khang Hy, cửa mộ vừa bị phá nổ, nào ngờ một dòng nước màu đen âm u lạnh buốt từ dưới lòng đất ùng ục trào lên, mặc cho đội quân ra sức hút vẫn không thể hút cạn. Đội khai quật không thể xâm nhập vào bên trong, cuối cùng đành tạm thời từ bỏ. Nào ngờ sự việc này lọt đến tai đám sơn tặc, kẻ cầm đầu chính là Điền Hóa Tinh. Hắn là người tộc Kỳ, đã luyện thành chân truyền “Thập Tam Tiết thảng địa tiên”[4], tự cho mình gan dạ anh hùng hơn người, thế gian không có chuyện gì hắn không dám làm. Có lẽ bị mê muội bởi những khúc kịch, xướng, thư, thuyết thời cổ do dân gian truyền lại, nên Điền Hóa Tinh luôn đinh ninh câu chuyện “Dương Hương Vũ ba lần ăn trộm chén Cửu Long” là có thật. Theo truyền thuyết, hoàng đế Khang Hy có một bảo vật vô giá tên gọi là “Cửu Long Bôi”. Đó là chiếc chén ngọc vô cùng lung linh huyền ảo, chạm khắc vô cùng tinh xảo, công phu không gì sánh nổi, chỉ cần đổ đầy mỹ tửu, đáy chén sẽ tức khắc hiện ra chín con rồng thiêng bay lượn uốn mình bội phần sinh động, sống động như hiển hiện ra trước mắt, càng nhìn càng giống thật, nên thế nhân gọi cảnh tượng ly kỳ này là “Chín rồng quậy biển”. Điền Hóa Tinh nghe các bậc nguyên lão trong tộc kể lại, chiếc chén ngọc ngoài đời không ly kỳ như trong truyền thuyết, nhưng quả thực chất ngọc vô cùng trong sáng, mịn màng, tỏa ánh lung linh, kỹ nghệ trau chuốt tinh tế phi phàm khiến người xem không thể rời mắt. “Cửu Long Bôi” tuyệt đối xứng danh là báu vật hoàng gia hiếm có trên đời. Không những vậy, chén ngọc quả thực được chôn theo chủ nhân ở Cảnh Lăng. Điền Hóa Tinh nghe chuyện lòng tham trỗi dậy, hắn đem chuyện trộm mộ bàn luận với đám thuộc hạ rồi nói: “Cơ hội trước mắt đúng là thời cơ giúp ta phát tài, tuyệt đối không thể để lỡ, mất rồi không thể tìm lại. Nếu huynh đệ chúng ta trộm được những bảo vật quý giá ở Cảnh Lăng, tất cả những thứ khác mỗ không cần, mỗ chỉ cần chiếc chén Cửu Long chôn cạnh thi thể vua Khang Hy, còn lại anh em huynh đệ muốn chia nhau thế nào thì tùy ý.” Mọi người đều đồng lòng nhất trí. Tối hôm đó trăng sáng sao thưa, đội trộm mộ đem theo các loại dụng cụ xâm nhập khu lăng mộ. Hội Điền Hóa Tinh thông thạo địa hình ở đây hơn đội quân phiệt nhiều. Không tốn bao nhiêu công sức, bọn họ đã tìm thấy vị trí ngôi mộ, chặn đứng mạch nước, rồi mạo hiểm xông vào bên trong lăng tẩm. Bọn Điền Hóa Tinh định cậy nắp từng chiếc quan tài của hoàng đế và các phi tần ra để tìm kiếm bảo vật, ai ngờ khi Điền Hóa Tinh vừa bật một nắp quan tài lên, ghé đèn vào bên trong nhìn thì thấy người chết nằm trong quan tài trừng trừng nhìn hắn ngoác miệng cười. Có câu: “Kẻ trộm chột dạ, kẻ đào mộ sợ ma” nên cũng có thể do Điền Hóa Tinh tự mình dọa mình, nhưng trong ánh nến chập chờn lúc ấy, không ai rõ rốt cục đã xảy ra chuyện gì, chỉ biết sau cú hoảng hồn đó, Điền Hóa Tinh sợ đến nỗi hai chân mềm nhũn quỳ gục trên đất, sắc mặt tái nhợt, hai hàm răng va vào nhau lập cập, run rẩy đến rúm ró, canh ba thì được đồng bọn khênh về nhà, muốn cậy miệng hắn để đút một thìa canh nóng cũng không được, chưa đến năm ngày sau thì hắn rũ áo chầu trời. Tuy Điền Hóa Tinh chân đã bước vào địa phủ, nhưng nhị đệ của hắn là Điền Hóa Phong vẫn coi nhẹ sống chết, đêm hôm sau lại lần mò vào địa cung Cảnh Lăng. Cuối cùng, hắn cũng trộm được “Cửu Long Bôi”, nhưng khi mở nắp quan tài, đột nhiên một ngọn lửa màu xanh từ bên trong vụt phun ra, thiêu mù một con mắt của Điền Hóa Phong, và dung mạo của hắn cũng bị hủy hoại một nửa. Từ đó, hắn bị mọi người đặt cho biệt danh “Mặt quỷ”. Chưa đầy nửa năm, bọn đạo tặc, trong đó có cả “Mặt quỷ” Điền Hóa Phong đều bị quan phủ tóm sống ở Bảo Định, Hà Bắc rồi bị xử bắn, tất cả châu báu ăn trộm đều bị tịch thu. Nhưng số báu vật lấy được ở Cảnh Lăng để trong quan khố cũng không cánh mà bay, tới giờ vẫn không ai rõ tung tích, để lại một mớ nghi vấn. Bốn tên đại tặc vừa kể trên tuy cũng xuất thân lục lâm, cũng gây ra những vụ án kinh thiên động địa, nhưng nếu luận về bản lĩnh và kinh nghiệm thì cùng lắm chúng cũng chỉ thuộc hàng vai phụ, mà chẳng qua những câu chuyện lưu truyền rộng rãi về chúng đã được dân gian thêu hoa dệt gấm, thêm thắt nhiều yếu tố ly kỳ, nên chúng mới trở thành những anh hùng thảo khấu hiệp nghĩa. Thủ thuật lục lâm phân chia thành nhiều đẳng cấp cao thấp khác nhau, kẻ cao siêu ăn trộm bảo vật trong nội phủ, kẻ trung đẳng thì chôm chỉa vật báu trong đại viện, kẻ cấp thấp thì ăn cắp vặt của nả của thường dân. Nhân vật thực sự có bản lĩnh, tài năng thường bị mai một giữa đồng cỏ trần ai, không cần lịch sử lưu lại tông tích. Trước đây, ở khu vực hồ Động Đình thuộc tỉnh Hồ Nam, có một nhóm đạo tặc tên là “Nhạn đoàn”, bắt đầu hành hiệp giang hồ vào những năm cuối triều đại Thanh, dưới quyền một thủ lĩnh họ Trương. Người này có biệt danh là “Tặc ma”, trước đây từng làm quan trong quân đội. Nghe nói người họ Trương này võ thuật cao siêu, quỷ thần khó lường, sánh ngang tầm với những nhân vật lừng danh thời cổ đại như: Bạch Viên Công, Hồng Tuyến Nữ, Côn Luân Nô. Thời Dân quốc, gia tộc họ Trương truyền đến đời Trương Hồ Lô. Do tiền nhân nhiều đời trước tích cóp được nhiều của cải, gia tộc có nền móng khá vững vàng, nên họ Trương sớm đã rửa tay gác kiếm, không muốn sử dụng những tuyệt kỹ gia truyền nữa mà trở về cố hương, mở mấy cửa tiệm ở Bắc Bình, Thiên Tân làm ăn buôn bán như những người bình thường khác. Trước đây, những hộ giàu có trong nhà thường dựng miếu thờ “trạch tiên”[5]. Trạch tiên có rất nhiều loại, tùy phong tục tập quán từng nơi khác nhau mà phụng thờ, có nơi thờ thần Ngũ Thông, có nơi thờ vàng bạc, châu báu, ngọc quý, còn gia tộc họ Trương chỉ thờ một “Đồng Miêu”. Đó là tượng con mèo làm bằng đồng linh thiêng dị thường. Nào ngờ khi Trương Hồ Lô chuyển nhà lại vô tình đánh mất “trạch tiên”, kết quả cả nhà không tránh khỏi tai họa giáng đầu, gia đình từ đó dần dần suy vong. Người xưa có câu rất hay: “Cùng nghề là oan gia”, lúc bấy giờ ở Bắc Bình tiệm Thịnh Nguyên là cửa tiệm lớn nhất trong thành. Chủ tiệm này họ Mục, tính tham lam vô độ, lại còn câu kết với quan phủ. Họ Mục vốn đố kỵ với nhà họ Trương nên từ lâu đã coi Trương Hồ Lô là cái gai trong mắt. Không những thế, hắn còn vô tình biết được trong nhà kho gia đình họ Trương có rất nhiều đồ cổ quý hiếm, tất cả đều là những báu vật kỳ lạ hiếm có trên đời, được ăn cắp từ mộ cổ, lăng tẩm trong núi sâu hoặc trong đại viện hoàng cung. Thế là hắn liền nổi lòng tham, lập mưu chiếm phần sản nghiệp này. Hắn đã nghĩ trăm phương ngàn kế để hãm hại liền mấy mạng người nhà họ Trương. Hai nhà kể từ đó nuôi thù kết oán rất sâu sắc. Khi ấy Trương Hồ Lô còn là một thanh niên sung sức, tính khí nóng nảy, không chịu được cảnh bị kẻ khác bắt nạt, liền nhân một đêm gió cao trăng mờ quyết định trở thành “kẻ ám sát”. Ông ta lẩn vào nhà họ Mục, liền một mạch giết sạch mười một mạng người, gồm cả già trẻ gái trai. Tất cả xác chết đều bị Trương Hồ Lô cắt phăng thủ cấp. Lúc đi ngang qua đồn cảnh sát, họ Trương cũng tiện tay chặt phăng luôn cái đầu của viên cảnh sát trưởng, rồi thi triển tuyệt kỹ “Bọ cạp đảo đầu” leo tường thành rồi xuyên tim mười hai cái thủ cấp đang ròng ròng máu tươi thành một xiên, treo lủng lẳng trên gác mái lầu canh ở cổng thành. Cuối cùng, Trương Hồ Lô còn cảm thấy vẫn chưa hả giận, liền phóng hỏa thiêu rụi luôn tiệm Thịnh Nguyên thành tro mới chịu dừng tay. Vụ án Trương Hồ Lô đã gây chấn động khắp vùng, và họ Trương tự biết gầm trời này không còn chỗ dung thân. Theo thông lệ lục lâm từ trước đến nay, nếu ai chẳng may gây nên đại họa, thì chỉ còn cách cao chạy xa bay mới tránh khỏi lệnh truy nã vượt đại dương của quan phủ, nên những kẻ rơi vào tình thế ngặt nghèo như Trương Hồ Lô chỉ có mấy con đường để chọn, hoặc là “xuống Nam Dương”, hoặc là “đi Tây Khẩu”, nếu không phải “vào Quan Đông”. Trương Hồ Lô đành cam tâm bỏ lại tất cả gia sản, chỉ vội vã cõng mẹ già chạy thẳng một mạch đến Sơn Đông, rồi vượt biển trốn ra quan ngoại. Từ đó, ông ta mai danh ẩn tích, đổi họ thành “Tư Mã” theo họ mẹ. Vì kế sinh nhai, Trương Hồ Lô lên núi làm sơn tặc nối nghiệp tổ tông ngày trước. Sau này, cả nhà họ Trương chuyển đến vùng Đông Bắc, thực hiện theo chính sách cải cách ruộng đất. Khi liên quân Dân chủ tiến hành chiến dịch tiễu phỉ, Trương Hồ Lô và đồng bọn liền bỏ vũ khí quy hàng và được bộ đội thu nạp vào tổ chức tham gia chiến dịch xuống Giang Nam bảo vệ Lâm Giang, cùng đại quân từ bắc tiến vào nam, đánh chiếm hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây. Trong suốt thời gian đó, tuy Trương Hồ Lô không lập được công trạng lớn lao, nhưng cũng trải qua muôn vàn gian khổ. Có điều họ Trương xuất thân từ lục lâm, lý lịch không trong sạch nên cuối cùng vẫn không được trọng dụng. Sau giải phóng, họ Trương được điều động đến Trường Sa làm việc, từ đó an cư lạc nghiệp, lấy vợ sinh con, đến năm 1953 thì đẻ được một đứa con trai. Trương Hồ Lô không dám nhắc lại chuyện cũ, sợ rằng nếu nói ra sẽ liên lụy đến cả nhà, gây nên những phiền phức không cần thiết, vì thế khi đặt tên cho con, ông liền viết vào sổ hộ khẩu ba chữ: “Tư Mã Khôi”. Những kẻ xuất thân lục lâm, đại bộ phận đều làm những nghề phạm vào lệnh cấm của quan phủ, quanh năm lăn lộn nơi đầu súng ngọn giáo, chẳng biết khi nào phải đền cả tính mạng. Trương Hồ Lô vô cùng tin tưởng và bái phục “Kim Điểm tiên sinh”, một vị thầy tướng số có tài suy đoán hung cát họa phúc rất chính xác. Vì thế, Trương Hồ Lô đã đích thân về tận quê cũ mời thầy Kim Điển đến xem tướng cho con trai. Theo cách nói của người xưa, mệnh đứng im còn vận thì luôn luôn chuyển động, cái tên là biệt hiệu suốt đời của một người, nên tên tất phải hợp với bố cục trong mệnh thì mới có thể đem đến vận may. Tuy rằng hậu bối nhà họ Trương từ nay phải mai danh ẩn tích, nhưng vẫn nên xem xét cẩn thận mới được. Lúc bấy giờ tuy là thời đại mới, nhưng Trương Hồ Lô suy cho cùng vẫn là kẻ xuất thân từ tầng lớp thấp, quan niệm còn khá cổ hủ nên tuyệt đối tin tưởng vào thầy tướng Kim Điển tiên sinh; hơn nữa lòng tin đó vô cùng kiên cố, ăn sâu vào tận xương tận tủy, nên mặc cho vật đổi sao dời, lòng tin vẫn khó lòng dịch chuyển. Chỉ thấy thầy Kim Điển lắc lư đầu mấy cái rồi bấm đốt ngón tay hồi lâu, cuối cùng tính ra số mệnh của đứa bé này là thổ, tức mệnh Thổ. Theo cách nói trong Thiên Can tám chữ, đứa bé mệnh “Trung ương mậu dĩ thổ” vừa vặn liệt vào hàng thứ tám, nếu sắp xếp thứ tự theo ngôi vị tám con vật thần thánh, thì vị trí thứ tám chính là khôi gia, tức con chuột. Trước đây, các đoàn kịch thường thờ cúng “Khôi bát gia”, để đề phòng ông chuột gặm nhấm hết trang phục đạo cụ diễn xuất của họ. Dân gian tục truyền “Khôi bát gia mệnh thổ”, vì thế Kim Điển tiên sinh liền đặt tên cho đứa bé là Tư Mã Khôi. Trương Hồ Lô nghe xong kính phục đến nỗi không hạ nổi lưỡi xuống, cứ há miệng khen tên hay. Người nào lần đầu nghe tên này thì lại tưởng chữ Khôi trong từ Tư Mã Khôi có nghĩa khôi ngô, sáng láng; ai ngờ chữ Khôi này lại mang ý khôi cốt, than tro, hắc ám. Tóm lại, chữ Khôi đó đúng là đặt rất chuẩn xác, những mong rằng tương lai đứa bé này phải làm nên công trạng gì to lớn mới hay. Trương Hồ Lô rốt cuộc vẫn là kẻ xuất thân từ lục lâm, nên ông cho rằng những thứ được dạy trong trường học thời đại mới chẳng có mấy tác dụng thực tế, hơn nữa, lại không muốn bí kíp tuyệt kỹ của tổ tông để lại bị thất truyền, nên vài năm sau ông liền gửi Tư Mã Khôi đến Bắc Kinh theo một vị ẩn sĩ tên là “Văn Võ tiên sinh” để học nghệ. Từ đó Tư Mã Khôi bắt đầu khổ công học hành, canh năm tỉnh giấc, nửa đêm bò dậy, thức thông đêm qua hai lần thay dầu đèn, cuối cùng cũng học được một chút chân truyền. Khi Tư Mã Khôi mười ba tuổi thì sư phụ cưỡi gió quy tiên, thi thể chôn ở núi Bạch Mã ngoại ô Bắc Kinh, đến lúc này cuộc đời cậu bắt đầu chuyển sang ngã rẽ khác. Tập I “Chăm Pa Ẩn Sương” của bộ truyện “Mê Tông Chi Quốc” kể về những trải nghiệm ly kỳ của Tư Mã Khôi khi chạy trốn kẻ địch đã vô tình tham gia một đoàn thám hiểm bí ẩn và thoát khỏi bàn tay tử thần từ khu rừng rậm nguyên sinh huyền bí. Có câu: “Người mất đầu khó chạy, câu mất đầu khó thông”; về việc Tư Mã Khôi vì sao lại gia nhập đoàn thám hiểm thì phải bắt đầu kể từ đây. Mở đầu có phần chi tiết như vậy cốt là để độc giả hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện. Chương 1 BẢO VẬT TRONG HẮC ỐC Hồi thứ nhất HẮC ỐC Đúng như Tư Mã Khôi vẫn thường nói: “Vận xui là một loại vận vĩnh viễn không bao giờ tránh được”. Năm mười lăm tuổi, cha mẹ của Tư Mã Khôi đều bị buộc tội hữu khuynh[6], rồi kẻ trước người sau lần lượt nhắm mắt xuôi tay vì bạo bệnh ngay trong lớp cải tạo. Song thân ra đi vội vã đến nỗi chẳng kịp trăng trối lại cho cậu con trai câu gì. Khi đó không có ai nói cho Tư Mã Khôi biết cậu nên đi đâu học, đến đâu ăn, và cũng chẳng người nào thèm để mắt xem cậu sống hay chết. Đợi khi tất cả của cải trong nhà đều bị đem bán sạch trơn, đến mức từ trong ra ngoài chẳng có thứ gì đáng giá, thì lúc ấy cậu mới tỉnh ngộ là từ nay về sau chỉ còn biết dựa vào chính mình mà thôi. Để tìm một con đường sống, cậu đành phải chạy đến Hắc Ốc, nơi mà trước đây ngay cả nằm mơ cậu cũng không dám mơ đến, để mưu sinh qua ngày. Hắc Ốc không phải là một tòa nhà màu đen, mà đó là biệt danh của một xóm nhỏ ở vùng ngoại ô heo hút, nằm kẹp ngay giữa hai dải núi trọc, quanh năm mưa không thuận, gió không hòa, đất xấu dân nghèo, vô cùng xa xôi hẻo lánh. Thời chiến tranh, nơi đây từng bị máy bay oanh tạc dữ dội, sau đó xảy ra một trận hỏa hoạn rất lớn, nhà cửa bị thiêu rụi, khắp nơi hoang tàn, khói lửa dày đặc hun tất cả những bức tường vỡ nát còn sót lại thành một màu đen kịt, vì thế người dân ở đây gọi nơi này là Hắc Ốc. Suốt mười năm loạn lạc, khu vực Hắc Ốc vẫn chưa từng được chính phủ trùng tu; rồi bao nhiêu năm nay không hề có người dân gốc gác nào cửa xóm này quay lại cố hương sinh sống. Nhưng ngay trong lòng thôn xóm hoang tàn đó lại có một con đường sắt xuyên qua, và hàng ngày rất nhiều chuyến tàu chuyên chở hàng hóa chạy đi chạy lại, đã thu hút một số lượng lớn những người ăn theo đường sắt đến đây trú ngụ. Ngày qua tháng lại, nơi đây dần dần trở thành cứ địa tụ tập của những dân nghèo thuộc tầng đáy xã hội. Đương nhiên ở đây không tránh khỏi việc vàng thau lẫn lộn, cát bùn trộn cả vào nhau. Trong xóm có rất nhiều thành phần, từ trẻ mồ côi không nhà không cửa đến những kẻ nhặt rác lưu lạc tứ xứ, những nông dân từ quê chạy lên thành phố kiếm sống, những người nhặt than vụn rơi trên đường sắt, phu khuân vác ở bến thuyền, kẻ bán khoai lang dạo, thậm chí có cả những thanh niên trí thức không chịu được công việc lao động chân tay gian khổ nơi hoang vu hẻo lánh nên một mình chạy trốn về đây ẩn náu. Bọn họ chia bè kết phái sống ở Hắc Ốc, đa số đều mưu sinh nhờ vào việc buôn bán lặt vặt trái phép hoặc đào hầm lấp hố, bởi chẳng người nào có công việc tử tế để làm. Đương nhiên trong số đó không thiếu những kẻ phá khóa trộm đồ, bò vào xe lửa ăn cắp, còn có cả bọn lưu manh vô lại chuyên đâm thuê giết mướn, bọn chao chác ăn tiền. Những kẻ rập rình ẩn hiện ở khu vực Hắc Ốc hầu như đều là thành phần đã bị bài trừ ra khỏi hệ thống xã hội, bởi những việc chính phủ nghiêm cấm thì chúng đều nhúng tay làm cả. Nhưng, trong khi thế giới bên ngoài đang hừng hực đấu tranh chính trị một mất một còn giữa các đảng phái, thì ở đây dường như lại đoạn tuyệt hoàn toàn với thị phi tranh chấp, ngay cả những tờ báo chữ to[7]dán khắp nơi cũng không lọt đến được nơi này. Mỗi lần có “cớm” vào xóm truy quét lùng sục, bang Hắc Ốc chỉ cần đánh động vài tiếng là cả hội đã rút gọn không còn vết tích, đợi khi sóng yên bể lặng lại kéo nhau trở về tụ tập. Tất cả các thế lực trong chính phủ dường như đều bất lực chẳng làm gì được chúng, nên đành mắt nhắm mắt mở lờ đi. Hơn nữa, chỉ cần bọn họ đừng gây ra trọng án kinh thiên động địa thì ai thèm để ý đến lũ “cặn bã của xã hội” sống ở khu ven thành phố bị bỏ hoang phế đó nữa. Băng đảng của Tư Mã Khôi là một nhóm gồm toàn những đứa trẻ chừng mười bốn mười lăm tuổi, trong đó có cả nam và nữ, đa số bọn chúng đều là con cái trong những gia đình có bố mẹ bị quy chụp thành phần cánh hữu. Chúng lại chưa đến tuổi nhập ngũ để tham gia quân đội nên đành phải phiêu dạt nay đây mai đó, trôi nổi giữa xã hội, chúng không có việc làm cũng không được đi học, càng chẳng có bà con thân thích nào có thể nương tựa. Tóm lại, bọn chúng đúng là những kẻ “bà không yêu, cậu không chiều, thím nhìn thấy muốn đá cho ba cái, ngay đến chó cũng nguýt dài quay mặt”. Trong đám choai choai này, tuy có một vài đứa cũng được nhận mấy đồng trợ cấp sinh hoạt, nhưng số tiền ít ỏi đó chẳng thấm vào đâu, nên bản năng sinh tồn buộc chúng phải tập hợp lại thành băng nhóm tranh giành cơm áo với xã hội. Khi đó thường thịnh hành khẩu hiệu “Tư tưởng Mao Trạch Đông như luồng gió xuân thổi đến muôn nơi” nên hội Tư Mã Khôi quyết định đặt tên cho nhóm là “Nhóm chiến đấu Xuân Phong” và còn nghiêm trang tuyên thệ trước tượng đài Mao chủ tịch: “Từ nay cả nhóm phải đoàn kết, đồng cam cộng khổ làm cách mạng.” Trên thực tế, khẩu hiệu này chỉ là cái cớ để chúng làm loạn, gây họa khắp nơi, quấy nhiễu an ninh khiến chó cắn gà kêu không ngày nào yên ổn. Dân chúng cách mạng trong thành không người nào nhìn thấy chúng mà không muốn chửi mắng cho thỏa giận. Tính chất của “Nhóm chiến đấu Xuân Phong” có vài phần tương tự với nhóm “Đồng Đảng” trong lịch sử từng nhiễu nhương thành phố sương mù Luân Đôn ở Anh. Tuổi đời các thành viên trong nhóm đều rất trẻ, hoạt động của nhóm có tính chất nguy hại nhất định đối với xã hội. Chẳng bao lâu sau, “Nhóm chiến đấu Xuân Phong” tự thấy rằng thành phố không phải nơi dễ kiếm cơm nên đành rút lui về khu vực gần Hắc Ốc. Hội Tư Mã Khôi đánh mấy trận sống mái với bọn lưu manh bản địa, tuy chịu không ít thiệt thòi nhưng “không đánh nhau không nhận anh em”, cuối cùng hai bên đã hóa giải được hận thù và đạt được nhận thức chung một cách không ngờ. Qua nhiều cuộc thương thuyết kéo dài, hai bên đã phân định ranh giới địa bàn của mỗi bên rất rạch ròi, cục diện hỗn loạn từ đó mới tạm thời ổn định. Trong “Nhóm chiến đấu Xuân Phong”, Tư Mã Khôi có một người bạn thân tên là La Đại Hải. La Đại Hải khí chất hào hiệp lại rất dũng cảm, cha cậu ta là La Vạn Sơn từng là bộ đội chuyển ngành làm cán bộ trong tòa án địa phương, sau này do bị điều động công tác nên cả gia đình từ Đông Bắc phải chuyển xuống Hồ Nam. Trong chiến dịch bài trừ hàng ngũ cán bộ suy đồi, ông La Vạn Sơn bị áp giải vào trại cải tạo lao động, còn lại một mình La Đại Hải tứ cố vô thân đành phải phiêu dạt đầu đường xó chợ. Cậu trai này trông khá khôi ngô tuấn tú, tướng mạo đường hoàng, chiều cao và thể lực đều hơn hẳn các bạn cùng trang lứa. Cậu ta lại rất thích ngồi rỗi lo chuyện thiên hạ, hay ra tay dẹp chuyện bất bình, vì thế rất có uy với bọn trẻ khác trong nhóm. Chỉ có điều, khi còn nhỏ ở Đông Bắc, La Đại Hải bị rét đến nỗi đóng băng hỏng cả lưỡi nên từ đó lưỡi cậu ta bị tật, phát âm không rõ ràng, lại thêm cái tật nói nhiều, vì vậy bị mọi người ở đây đặt cho biệt danh “Hải ngọng”. Vì từ nhỏ Tư Mã Khôi đã bái “Văn Võ tiên sinh” làm thầy nên cũng thủ thân được chút ít bản lĩnh lục lâm, cậu ta không chỉ thân thủ nhanh nhẹn, ra tay gọn gàng, gan to hơn người, mà còn rất giỏi ăn nói, lại hiểu được các quy tắc của giới giang hồ trước giải phóng, biết rõ: “Hành bang các phái, coi nghĩa khí làm trọng”. Trong những kẻ chiếm cứ khu Hắc Ốc có không ít tên xuất thân từ xã hội cũ, mà chỉ có Tư Mã Khôi mới giao lưu được với chúng. Bởi vậy, Tư Mã Khôi và La Đại Hải tự dưng trở thành thủ lĩnh của nhóm “Xuân Phong”, cầm đầu cả hơn trăm thiếu niên nam nữ, suốt ngày náo loạn con đường sắt hoang phế, thoắt ẩn thoắt hiện, di chuyển nhanh như lốc cuốn. “Xuân Phong đoàn” tuy đã giao kèo được vấn đề lãnh thổ với “Hắc Ốc bang”, rằng lấy đường sắt làm ranh giới phân định, nhưng vấn đề sinh tồn của hội Tư Mã Khôi vẫn chưa được giải quyết. Cứ theo thành phần xuất thân mà xét, bọn họ tuyệt đối không cam tâm đi nhặt than rơi trên đường sắt hoặc làm các công việc lao động chân tay thấp hèn. May mà Tư Mã Khôi có nhiều tai mắt, lại nhanh trí, nên cuối cũng cũng nghĩ ra một kế mưu sinh thượng sách. Cậu bảo các thành viên trong nhóm khuân tất cả đồ đạc còn sót lại trong nhà, chuyển đến lều trại dựng tạm ở đây để xây dựng cứ điểm hoạt động, đồng thời sai đám con nít nhỏ tuổi, lợi dụng hoàn cảnh gia đình bi thảm, tìm đến nhà bếp cơ quan nơi bố mẹ chúng đã làm trước đây để thó trộm thức ăn. Kế sách này được gọi là “Khổ nhục kế”. Kế hay ở chỗ cho dù lỡ bị người ta phát hiện cũng không sao, bởi vì thành viên được phái đi thực hiện nhiệm vụ chỉ là bọn nhóc con trên dưới mười tuổi. Hơn nữa, các nhân viên làm trong nhà bếp đa phần lại là đồng nghiệp cũ, quen biết với cha mẹ chúng, chẳng ai nỡ lòng nào tóm cổ chúng giao nộp cho chính quyền, ngược lại, phần lớn họ đều lấy cơm thừa canh cặn trong nhà bếp mang ra chia cho chúng. Thử nghiệm được vài ngày, quả nhiên các nhà bếp đều tình nguyện để lại cơm thừa cho bọn trẻ. Tư Mã Khôi thấy kế này khả thi liền cho bắc mấy cái bếp ở chân tường đổ nát, rồi đi trộm vài chiếc nồi to. Khi thức ăn kiếm về không đủ, liền thả thêm vào đó mấy cọng rau nát, đồ khô thì mang lên hấp, đồ có nước thì cho vào nồi nấu thành một thứ thức ăn hỗn hợp. Vì đây là những đồ ăn thừa ở các nhà bếp khác nhau, nên khẩu vị mỗi món một khác, sau khi đổ lẫn vào nhau nấu lên, mùi vị lại hấp dẫn khác thường, mùi thơm tỏa ra khắp nơi. Cả nhóm đắc chí đặt tên cho nó mỹ danh: “Quán cơm Lục Quốc”. Có điều, hội Tư Mã Khôi không thèm ăn mấy đồ đó mà bán lại cho bọn “Hắc Ốc bang” ở bên kia đường sắt. Đám người đó đều là dân lao động chân tay, cả năm quần quật làm những công việc nặng, bụng lúc nào cũng rỗng tuếch, và hơn nữa, cả đời chưa bao giờ được thưởng thức các món ăn ở nhà bếp cơ quan, chính phủ. Bọn họ nhìn đồ ăn trong nồi của “Quán cơm Lục Quốc” vô cùng phong phú, lại láng một lớp mỡ bóng lộn ở bên trên, đã thấy ngon hơn hẳn đồ ăn thường ngày của mình, nên người nào người nấy lần lượt móc tiền trong hầu bao ra mua từng bát lớn. Họ đút cả cơm lẫn cháo vào miệng nuốt ngon lành. Những kẻ không có tiền thì dùng vật để trao đổi. “Quán cơm Lục Quốc” do Tư Mã Khôi phát minh ra, ngày nào cũng cháy hàng, nồi niêu sạch trơn, cung không đủ cầu. Hành động lần này của hội Tư Mã Khôi đã nhiều phần hóa giải được ánh mắt thù địch lẫn nhau giữa hai bang phái bên đường sắt, hơn nữa, lại mang đến khoản lợi nhuận không nhỏ giúp cả hội duy trì những nhu cầu của cuộc sống. Cứ như vậy qua hết mùa xuân, chớp mắt đã bước vào mùa hè oi bức, ban ngày càng lúc càng dài. Những ngày này chẳng thấy bóng dáng của một giọt mưa, trời hanh vật khô, nóng rang như trên chảo lửa. Lúc sắp trưa cũng là thời khắc khu Hắc Ốc yên tĩnh nhất trong ngày, mọi người đều tản ra các ngả lao động kiếm cơm, chỉ có mấy đứa con gái ở nhà lo chuyện bếp núc, chuẩn bị nấu thức ăn thừa từ ngày hôm trước, để phần cho những người ở lại ăn. Buổi sáng ngày hôm đó, La Đại Hải đặt bẫy ở khu đất hoang và tròng cổ được một con lợn rừng nhỡ, liền mang về Hắc Ốc giết thịt, mổ bụng lột da, xử lý hết nội tạng rồi ngoắc cả tảng thịt tiết rỏ ròng ròng lên móc câu, thuận tay vứt luôn cái đầu lợn vừa cắt ra khi nãy lên tấm gỗ để ngay bên cạnh, chuẩn bị nổi lửa nấu nồi thịt, cải thiện bữa tối cho cả nhóm. Đợi đến buổi trưa mới xong việc, cậu ta liền phệt mông xuống tấm đá xanh đặt trước cửa trại, nhàn nhã hóng mát. Lúc này, Hải ngọng nóng bức đến nỗi mồ hôi ướt đầm lưng áo, nhưng trên đầu vẫn đội khư khư chiếc mũ quân nhân rách nát chôm được từ đời thuở nào, miệng phì phèo điếu thuốc, vừa hút vừa thao thao bất tuyệt nói chuyện với Tư Mã Khôi, chủ đề vẫn quanh quẩn mấy chuyện như đợi khi nào bố cậu ta phục chức trở lại làm việc như trước, cậu ta sẽ xử lý hết bọn rác rưởi dám đăng tin việc nhà cậu lên báo, lúc đó cứ chống mắt lên mà xem cậu ta trả thù như thế nào. Tư Mã Khôi tuy ít tuổi, nhưng lại trải nghiệm không ít những gập ghềnh trên đường đời, điều đó đã khiến tâm lí phản nghịch xã hội của cậu trở nên vô cùng nghiêm trọng. Dường như cậu đã sớm dập tắt hết mọi hi vọng trong lòng, nên nghe Hải ngọng nói vậy, cậu chỉ ậm ừ đáp bừa vài câu lấy lệ. Đúng lúc này, cậu chợt nhìn thấy một lão già đi vào trong ngõ. Tư Mã Khôi vô cùng thính tai tinh mắt, nên bất kể gió lay cỏ động khẽ khàng thế nào cũng không lọt khỏi tầm mắt cậu. Chững lại ngẫm nghĩ giây lát, cậu cảm thấy kẻ mới đến có chút gì đó kì quặc. Quay đầu nhìn kỹ, chỉ thấy lão già đó ăn mặc rách rưới, quê cục, hơn nữa trông mặt rất lạ, chắc chắn không phải là người sống ở bên khu Hắc Ốc hoang phế này. Lão già tầm ngoài năm mươi tuổi, dáng người nhỏ thó, mắt la mày lém, hai bên mép còn để hai chòm râu chó, cổ đeo chuỗi “bánh đả cẩu”, đầu đội chiếc mũ chóp cao rách nát, tay cầm cái bồ cào loại chuyên cào phân, vai cõng một túi vải đay phồng to cồm cộm, trên người mặc chiếc áo khoác bằng da cũ kĩ, trước ngực áo còn có một hàng khóa, quần chùng áo dài, chân đi đôi giày đen đế dày cộp tới nỗi đá bò bò chết, mũi giày há toác miệng lòi ra góc tất trắng bên trong. Hôm ấy đúng là ngày hạ chí, trời nóng như đổ lửa, nhưng nhìn cách ăn mặc đông không ra đông, hè không ra hè của lão già, khiến ai nhìn vào cũng không khỏi cảm thấy quái gở. Lão già lạ mặt đó dùng cặp mắt cú vọ ngó đông nhìn tây một hồi, một lúc sau mới đi đến trước cửa cái lán gỗ của Tư Mã Khôi, rồi đột nhiên lão ta dừng lại, giả bộ quỳ xuống xách giày, đồng thời thò đầu vào trong lán ngó nghiêng dò xét. Cử chỉ này của lão có thể che mắt mọi người, nhưng không thể che mắt Tư Mã Khôi. Tư Mã Khôi quan sát hành động và cách ăn vận của người này, mà trong lòng cảm thấy vô cùng khó hiểu nên lập tức đề cao tinh thần cảnh giác, đồng thời mở miệng dò hỏi một câu: “Xem ra lão gia không quen mặt, chẳng biết từ đâu đến thế?” Lão già nghe hỏi lập tức đứng thẳng người dậy, đưa mắt quét quanh một lượt, liền nhận ra Tư Mã Khôi và La Đại Hải chính là chủ nhân chiếc lán hoang phế này, nên lập tức ngoác miệng cố nặn ra một nụ cười trên khuôn mặt già nua. Lão ta nói với hai người: “Đâu dám nhận là lão gia, mỗ đây họ Triệu, quê ở Quan Đông, từ trước đến nay không có biệt hiệu gì, những người quen biết đều gọi mỗ là Triệu Lão Biệt. Trước giải phóng mỗ đã lưu lạc đến đây, mấy năm nay phiêu dạt khắp trong thành ngoài thành, dựa vào công việc đan làn cỏ, nhặt phế liệu sống qua ngày. Hôm nay đến vùng đất quý này là muốn đổi một số vật phẩm thiết yếu trong cuộc sống.” Tư Mã Khôi nghe lão trình bày khá rõ ràng, trong lòng đã bớt đôi chút cảm giác đề phòng, tiếp tục hỏi Triệu Lão Biệt: “Sao Triệu sư phụ lại ăn mặc như vậy? Trời hè oi bức, lão không sợ ủ thối người ra à?” Triệu Lão Biệt nhoẻn miệng cười, trả lời ngay: “Bậc hậu sinh các cậu không hiểu đấy thôi, chiếc áo mỗ đây mặc được gọi là áo khoác anh hùng như ý, tứ bề thông thoáng, rất thoát gió đấy!” Tư Mã Khôi nghe thấy mấy lời lão già nói, cũng có vài phần giống tiếng lóng trong giới giang hồ, mà người thời nay làm gì còn ai nói năng như vậy nữa, nên càng cảm thấy kỳ quái hơn. Cậu bèn gặng hỏi: “Xem lão nói năng không phải hạng phàm tục, chân tay lại khá nhanh nhẹn, nhưng sao đi vào nơi ngói vỡ gạch nát hoang tàn này, không sợ bị què chân, lạc đường ư?” Triệu Lão Biệt hiểu ngay ẩn ý trong lời lẽ của Tư Mã Khôi, nhưng dường như không thể tin những lời ấy lại phát ra từ miệng một tên nhãi ranh như cậu, nên liền nảy ý thăm dò lại. Lão ta bước lên một bước, chân trước chân sau đứng chéo nhau, không ra hình chữ đinh, cũng không ra hình chữ bát, rồi nói: “Mỗ đây chân cứng, đế dày, đi chắc, đứng vững, cất bước khoan thai đĩnh đạc.” Đoạn đối đáp của hai người toàn bộ là ám ngữ của thế giới ngầm trong “Đáy biển giang hồ”, Hải ngọng đứng bên cạnh nghe chẳng hiểu gì, ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm, nhưng Triệu Lão Biệt và Tư Mã Khôi thì ngấm ngầm hiểu đối phương không phải hạng tầm thường, nên tuyệt đối không dám khinh suất. Triệu Lão Biệt dường như không có ý định bỏ đi ngay, lão nói trời nắng chang chang, trên đường đi vừa mệt vừa khát, nên muốn xin hai vị “đầu lĩnh” cho trú chân nghỉ ngơi giây lát uống ngụm nước chè. Miệng chưa nói xong, không đợi chủ nhà đồng ý, lão đã tự ý ngồi sụp xuống ngay trước lán. Tư Mã Khôi cũng muốn xem rốt cục người này muốn gì cho nên chẳng xua đuổi làm gì, mà ngược lại còn mang cho lão một chiếc bát, bên trong là nước trà “Lão Âm” vừa mới hãm ban sáng. Triệu Lão Biệt chỉ “cảm ơn” hai tiếng rồi giơ tay đón lấy bát nước uống ực một hơi, cạn đến tận đáy, xong mới ngẩng mặt lên khen: “Loại trà Lão Âm có sâu trà quả đúng là thức uống giải khát bậc nhất.” Nói đoạn, lão liền móc ra một tẩu thuốc, dốc ngược đáy xuống gõ “cạch, cạch” mấy cái lên bàn, rồi nhét đầy sợi thuốc lá vào trong, châm lửa đầu tẩu thuốc, tí ta tí tách hút liền mấy hơi, vừa hút vừa chuyện trò mấy câu vô bổ cùng Tư Mã Khôi và La Đại Hải. Lòng vòng một hồi lâu, cuối cùng lão cũng chịu đi vào chuyện chính. Lão già Triệu Lão Biệt này tự nhận mình bước chân vào giang hồ mưu sinh từ rất sớm, thông thạo nhân tình thế thái. Bây giờ lão đã có mối quan hệ rất tốt với một số đường dây đặc biệt trong thành, không những có thể hối lộ, mà còn có thể lấy được rất nhiều đồ tốt trong thế giới ngầm. Cuộc nói chuyện khi nãy với Tư Mã Khôi đã khiến lão nhận thấy cậu tuy trẻ tuổi, nhưng khá thông hiểu các quy tắc ngầm, chắc hẳn phải xuất thân từ một gia đình thế tộc, gốc gác không phải hạng vừa. Tục ngữ nói rất hay: “Trọc đầu thì vào chùa, đội mũ thì làm quan”, nay người cao tay lại gặp bậc kỳ tài, thật đúng là duyên trời sắp đặt, vì thế lão tình nguyện để Tư Mã Thiên và La Đại Hải đi theo mình cùng hưởng phúc. Giống như biết phép thần thông biến hóa vậy, lời nói vừa dứt lão đã lôi ngay từ trong túi vải đay rách nát của mình ra ba tút thuốc lá thơm hảo hạng, cười tít mắt rồi bày cả lên mặt đất. Gia thế nhà La Đại Hải cũng thuộc hạng có gốc gác, cậu ta lại là người khá trải đời, nên vừa nhìn thấy liền biết loại thuốc lá này chỉ cung cấp hạn chế cho các cán bộ cấp cao, chứ bách tính thường dân hầu như chẳng bao giờ được nhìn thấy, cho dù ở chợ đen cũng khó lòng tìm ra, có tiền cũng không mua được. Lão già này xuất chiêu độc thật, một phát rút ra liền ba tút, khiến Hải ngọng hai mắt vụt sáng, vội vã thò tay ra lấy, miệng còn nói: “Hôm nay, chúng ta coi như bèo nước tương phùng, lần đầu gặp mặt mà lão đã rộng rãi như thế, khiến anh em bọn tôi thấy xấu hổ vô cùng. Thế lão ở đơn vị nào? Lần sau anh em bọn tôi nhất định sẽ viết bức thư biểu dương, tỏ lòng cảm tạ sự giúp đỡ vô tư và khẳng khái này của lão.” Triệu Lão Biệt cũng nhanh tay không kém, liền giơ tay ngăn không cho La Đại Hải rờ vào mấy tút thuốc: “Người anh em xin đừng vội, thứ này mỗ đâu dễ kiếm, nhưng bất kể nói thế nào thì chúng ta gặp được nhau đúng là có duyên, hôm nay kết giao thành bằng hữu, hai bên xem như không còn vấn đề gì khúc mắc nữa. Hai vị đầu lĩnh thử xem, mỗ có thể dùng ba tút thuốc lá hảo hạng này để đổi lấy một... một vật trong lán của hai cậu không?” La Đại Hải cười to: “Lão Triệu ơi lão Triệu, chẳng giấu gì lão, anh em bọn tôi đúng là những kẻ ‘Sói vàng bị cắt mất đuôi, trên người chẳng còn nửa cọng lông đáng tiền’, chỉ cần lão không chê mấy đồ giẻ rách trong lán của chúng tôi, thì nhìn thấy vật gì thích hợp, lão cứ thỏa sức mà lấy.” Tư Mã Khôi nhìn thấy tình hình như vậy, trong lòng không khỏi ngầm cảm thấy kỳ lạ, tuy cậu cũng muốn giữ ba tút thuốc lá thơm nhưng đầu óc vẫn khá tỉnh táo, nên liền tiến đến cạnh ngăn Triệu Lão Biệt rồi nói; “Khoan đã! Cuộc trao đổi này e rằng chưa xong, trước hết lão phải nói rõ xem rốt cục muốn đổi lấy vật gì trong đây đã.” Triệu Lão Biệt dường như không thể nhẫn nại thêm nữa, đảo con ngươi một vòng rồi thò tay vào túi vải đay lấy ra một hộp tai lợn kho tàu, bốn ống thịt bò hộp, chất cả lên mặt đất, đoạn nói: “Muốn đổi lấy vật gì, thì phải vào lán chọn xem mới biết được. Nhưng Triệu Lão Biệt mỗ cũng nói trước, trong hai thứ đồ ăn và thuốc lá, các cậu chỉ được đổi lấy một món, tuyệt đối không được lấy hơn.” Tư Mã Khôi nhận thấy Triệu Lão Biệt dường như rất quyết tâm lấy bằng được vật đó nên dù chưa đâu vào đâu, lão đã chủ động nâng giá. Có câu: “Càng mời càng không mua, càng hối càng không bán, nếu hối thúc quá đáng, mua bán cũng bất thành”, nên khi lão đã không tiếc mang ra bao nhiêu đồ quý hiếm để đổi lấy thứ có trong lán thì thứ đó chắc hẳn cũng không phải loại tầm thường, vậy làm sao Tư Mã Khôi có thể chấp nhận trao đổi dễ dàng như vậy. Hơn nữa, Tư Mã Khôi còn nhớ lại một việc, trước đây khi cậu còn ở miền Bắc, từng nghe người ta kể về truyền thuyết “Man tử biệt bảo”, trong đó nói những nơi phong thủy tốt đều chôn giấu báu vật; không những vậy báu vật ấy lại vô cùng quý giá bởi do trời đất tạo ra, được thần quỷ ngầm bảo vệ. Nếu ai tự tiện sờ vào thì khó tránh khỏi rước họa vào thân, nên muốn đoạt được tất phải dùng những bí thuật kỳ môn cổ xưa mới xong. Bởi vậy, họ không thể nói với người ngoài mình là kẻ quật táng, trộm ngọc mà nói lóng thành “biệt bảo”[8]. Nghe nói bí thuật “biệt bảo” khởi nguồn từ khu vực Giang Tây, muốn học món bản lĩnh này tất phải luyện tập từ nhỏ. Người ta mang đứa trẻ vừa mới sinh nhốt vào mật thất kín mít không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, đợi đến ngày thứ 100 mới ẵm nó ra ngoài, từ đó nhãn lực của đứa bé trở nên khác biệt với mọi người, có thể phân biệt được mọi báu vật trên đời, họ gọi khả năng này là “Khai địa nhãn”. Những loại truyền thuyết kiểu này là thật hay giả, người ngoài khó lòng biết được. Tư Mã Khôi thấy cách ăn vận và cử chỉ của Triệu Lão Biệt vô cùng kỳ quái, rõ ràng là thần bí khó lường, không biết có trùng hợp với mấy truyền thuyết đó không? Nhưng xem ra lão ta chắc hẳn là bậc kỳ tài hiểu biết về dị thuật biệt bảo. Chỉ có điều, trong cái lán tạm mà mình đang ở chỉ rặt đũa gẫy, bát sứt, bàn ghế chẳng cái nào còn nguyên lành, hoàn toàn không giống với dáng vẻ ngôi nhà để người ta sinh sống. Quả đúng như lời La Đại Hải vừa nói, trong lán ngay cả chiếc bát uống trà tử tế cũng chẳng tìm thấy, thì làm gì có bảo vật gì đáng giá? Không biết thứ mà Triệu Lão Biệt muốn lấy rốt cục là thứ gì? Hơn nữa, lão ta lại vừa chân ướt chân ráo đến đây, làm sao phát hiện ra nơi này có giấu bảo vật dị thường được? Trong khi Tư Mã Khôi còn đang suy đoán mông lung thì Triệu Lão Biệt sớm đã thò đầu vào trong lán dò xét, ánh mắt nhìn chằm chằm vào một trụ gỗ lớn, đó chính là chiếc bàn dài cổ xưa, dùng để giết mổ gia súc. Nó đã bị mục nát nhiều phần, ngày thường vẫn dùng để thái thịt, băm rau, nên mặt bàn nhớt nhát bẩn thỉu, bốc mùi tanh hôi, không hề bắt mắt. Ai ngờ thứ mà Triệu Lão Biệt nhìn trúng ý lại là vật này, ánh mắt thèm thuồng của lão cứ dán chặt vào chiếc bàn, không chịu rời sang chỗ khác. Hồi thứ hai BIỆT BẢO Tư Mã Khôi thấy cách hành xử của Triệu Lão Biệt khác hẳn với dự liệu; chẳng ngờ lão chịu mang thuốc lá hảo hạng và đồ hộp đáng giá để đổi lấy chiếc bàn mổ thịt mục nát, càng nghĩ càng thấy sự việc này rất kỳ lạ. Trong đống đổ nát ở Hắc Ốc chỗ nào cũng có vật vô chủ, ai nhặt được thì của người ấy. Cái bàn này vốn là một trụ gỗ mục nát rỗng ruột, to bằng một vòng ôm, xung quanh buộc ba vòng dây thừng gai, quanh năm bị máu tiết dầu mỡ bám nhằng nhợ, màu sắc đã phai nhạt biến đổi từ lâu. Sau khi nhặt về, nó chủ yếu được dùng làm thớt thái rau, chẳng ai biết rõ lai lịch cụ thể của nó, và xem ra ngoài việc thấy nó có niên đại sử dụng từ khá lâu thì chẳng thấy có điểm gì khác thường. Nay không hiểu sao vô duyên vô cớ lại có người quan tâm đến nó? Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Cái bàn chặt thịt chắc chắn là một bảo vật, nếu bây giờ mình động lòng vì miếng lợi nhỏ mà dễ dàng trao đổi với Triệu Lão Biệt, thì bất kể lão già đó giơ ra vật gì mình cũng vẫn bị thiệt. Vậy nên trước tiên mình phải kiếm cớ để lão ấy thấy cái bàn này đúng là đồ quý cái đã.” Thế là cậu thuận miệng khua môi múa mép một hồi: “Triệu lão sư phụ này, lão không biết đấy thôi, thực ra gia đình mấy đời nhà tôi đều mở cửa hàng bán thịt dê ở Bắc Kinh để mưu sinh, chiếc bàn mục này tuy rằng nhìn có vẻ bình thường, nhưng lại là vật gia truyền mấy đời nhà tôi để lại, tôi không chỉ dùng nó quen tay mà còn ‘nhìn cương nhớ ngựa, nhìn vật nhớ người’. Bởi mỗi khi nhìn thấy nó, là tôi như nhìn thấy liệt tổ liệt tông đã quy tiên nhà mình. Cái bàn này đã cùng gia đình tôi trải qua những năm tháng dưới thời Quang Tự, rồi tới Nghĩa Hòa Đoàn bao vây tấn công khu đại sứ quán Đông Giao Dân Cảng, khiến liên quân tám nước tràn vào thành Bắc Kinh. Đám quỷ tây này rặt là bọn man di từ nước ngoài dẫn xác đến, lũ bợm đó chẳng có nửa tên tốt đẹp, đến Trung Quốc chúng ngang nhiên đốt nhà giết người cướp của, chẳng tội ác nào không dám làm, đánh đập người mù, mắng nhiếc kẻ điếc, rồi cuối cùng chúng nó cũng ào vào nhà tôi. Mấy tên lính tây ngắm thấy con mèo tam thể nhà tôi nuôi rất đẹp liền định cướp về, mang dâng tặng cho nữ hoàng điện hạ nhà chúng nó, ông tổ nhà tôi liền nổi giận lôi đình mắng chúng: ‘Ngày xưa lão phật gia Từ Hy thái hậu rất ưng ý con mèo này, định mang Thập Tam cách cách ra đổi lấy nó mà ông đây còn tiếc không nỡ đem đổi. Tiên sư chúng mày chứ, chúng mày là thứ tép riu gì mà dám cướp trắng của ông hả?!’ Trong cơn thịnh nộ, cụ lao thẳng ra phố tham gia phong trào phục Thanh diệt ngoại xâm, trước lúc đi còn ôm theo chiếc bàn này, gặp tên giặc tây nào là lấy bàn đập chết tên ấy, nên không biết dưới gầm bàn đã chôn bao nhiêu mạng tướng tây lính tây. Sau đó chiếc bàn truyền đến đời ông nội tôi, nó lại cùng ông lưu lạc đến Giang Tây tham gia hồng quân công nông, cứ thế được mấy đời nhà tôi giữ gìn cho đến tận bây giờ. Có thể trong mắt người khác, khúc gỗ này chẳng đáng cái đinh gỉ, nhưng đối với tôi nó chính là vật chứng chứng kiến cả gia đình tôi đã trải qua cách mạng cận đại Trung Quốc, là kỷ niệm không thể xa lìa, ngày nào tôi cũng phải bày nó ra trước mặt, sáng thỉnh an, tối hồi báo. Nếu ngày nào không nhìn thấy nó, tinh thần tự nhiên trở nên hoảng loạn, đến nỗi ngay cả hướng bắc ở đâu cũng không biết; một ngày không gặp cách tựa ba thu, nếu lỡ ba ngày không gặp có khi lo lắng đến tẩu hỏa nhập ma vẫn là nhẹ. Lời tôi nói đây câu nào cũng là thật, nếu lão không tin thì cứ tìm một miếng đậu phụ về đây, tôi sẽ đập đầu vào đấy cho lão xem.” Hải ngọng đứng bên cạnh nghe, không nhịn nổi cười thầm trong bụng, cậu ta cũng nhân cơ hội để nâng giá cái bàn, bảo ít ra Triệu Lão Biệt cũng phải thò ra thêm ba tút thuốc lá nữa thì mới đồng ý đổi. Triệu Lão Biệt nghe hai người bọn họ kẻ tung người hứng mà trợn mắt á khẩu. Lão còn cho rằng có khi mình nhìn lầm, liền quay lại đăm đăm ngắm nghía cái bàn một hồi lâu, sau đó lắc đầu tỏ ý không tin, đồng thời mở toang cái túi vải đay ra cho hai người nhìn, bên trong chẳng còn thứ gì đáng giá, đoạn lão nói: “Mỗ không thể trả giá thêm cho hai cậu được.” Tư Mã Khôi thấy việc đã đến nước này thì cứ nói thẳng toẹt cho xong: “Bọn tôi và lão là kẻ cắp gặp bà già, cóc cần sử dụng mấy chiêu thụt thò như bơi chó. Chẳng thà đừng ai giở trò với ai nữa. Mấy bài của lão bọn tôi biết tỏng từ khuya, trước đây cũng gặp nhiều rồi, nói chuyện cũng không cần vòng vo tam quốc, giấu giấu giếm giếm làm gì. Bọn tôi đã sớm nhìn ra Triệu Lão Biệt lão đích thị là tên biệt bảo, nếu không, chẳng người nào đang sống nhe nhởn lại quàng trên cổ chuỗi bánh đả cẩu như lão.” Cái thứ “bánh đả cẩu” này thực ra là một loại bánh thuốc, dùng để xua đuổi chó mèo. Thời xưa, ở vùng nông thôn, mỗi khi trong nhà có người chết, lúc đặt thi thể vào quan tài thường đeo lên cổ xác chết chuỗi vòng này để đề phòng bị lũ chó đói gặm nát thủ cấp hoặc bị mèo hoang nhảy qua khiến người chết nhập tràng sống dậy. Những kẻ biệt bảo thường xuất hiện ở những nơi rừng già núi thẳm hoặc mộ hoang, đất dữ, để tránh rắn độc, dã thú, họ cũng có thói quen đeo “bánh đả cẩu”. Triệu Lão Biệt cũng nhận thấy cậu Tư Mã Khôi này tuy chỉ mới mười lăm mười sáu tuổi đầu nhưng vô cùng tinh quái, hiểu biết rất nhiều chuyện và không dễ bị bắt nạt. Thế nhưng tuyệt đối lão không thể tưởng tượng tên tiểu tử ấy lại có thể nhìn xuyên thấu hành tung của mình, nên trong lòng không tránh khỏi thất kinh một phen, liền bội phần khâm phục nói: “Vị đầu lĩnh này đúng là nhãn lực hơn người, không ngờ thời thế này vẫn còn có người biết đến nghề biệt bảo của bọn mỗ.” Việc đến nước này, Triệu Lão Biệt chỉ còn cách thẳng thắn thừa nhận mình quả thực là một tay biệt bảo, hôm nay gặp vận may lớn, khi vô tình đi ngang qua khu Hắc Ốc hoang phế, liền phát hiện ra chiếc bàn chặt thịt, đúng là “Đi mòn gót giày tìm chẳng thấy, đứng lại ngồi nhìn ở ngay đây”. Cuối cùng lão đã nói với bọn Tư Mã Khôi và La Đại Hải: “Lão mỗ đây chẳng nói sai với người ngay thẳng, có gì nói nấy, cái bàn gỗ dùng để chặt thịt của hai cậu đích thị là một vật vô cùng quý hiếm, nhưng chỉ sợ trên đời này, ngoại trừ Triệu Lão Biệt mỗ ra thì chẳng còn người thứ hai hiểu được giá trị của nó. Hôm nay trời đã muộn, chúng ta tạm thời cáo biệt ở đây, hai người các cậu cứ bàn bạc kỹ xem. Lời đã nói thẳng như vậy thì mỗ cũng chẳng để hai cậu phải chịu thiệt thòi quá đáng. Trong thành mỗ còn giấu một vật rất tốt, ngày mai sẽ mang đến đây. Nếu lúc đó các cậu vẫn khăng khăng không chịu đổi hàng, mỗ sẽ không nói đến câu thứ hai, cất bước đi luôn, đã đi là không quay trở lại, có câu nói xưa mỗ thấy rất hay ‘Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông’, đến lúc đó hai cậu đừng có hối hận.” Tư Mã Khôi và La Đại Hải gật đầu đồng ý, hai người nhìn Triệu Lão Biệt đi khỏi Hắc Ốc liền lập tức trở lại lán, khêu to ngọn đèn dầu cho sáng, khênh chiếc bàn nhớt nhát cáu bẩn dầu mỡ đặt lên mặt đất, lật đi lật lại hồi lâu, nhưng cả hai xem tới xem lui mãi mà vẫn không phát hiện ra Tý Sửu Dần Mão gì ẩn chứa bên trong chiếc bàn nên đầy bụng nghi hoặc. Đêm hôm đó, cả hai suy đi tính lại, nghĩ trước nghĩ sau, trằn trọc mất ngủ cả đêm. Sáng sớm hôm sau, Triệu Lão Biệt quả nhiên lại tìm đến, lần này trong túi vải đay của lão có thêm chiếc áo lông da trơn bóng, mềm mại, lớp lông da màu đen pha lẫn ánh đỏ, có vài phần khá giống với da báo nhưng rất nhẹ và mỏng. Có điều Tư Mã Khôi và La Đại Hải thì đừng nói da báo, mà ngay cả lông chồn Đại Liên cũng chưa bao giờ nhìn thấy nửa cọng, nên hai người đành giả vờ am hiểu hỏi Triệu Lão Biệt: “Đây là da con gì vậy? Trông lớp da bóng láng, sáng sủa cũng không tệ, là da xịn hả?” Triệu Lão Biệt nghe xong càng thêm đắc ý, lão liền khoe khoang: “Lai lịch chiếc áo lông da này của mỗ đúng là bất phàm.” Sau đó lão kể lại lai lịch của nó cho hai người nghe. Lão bảo trước giải phóng thường đến núi Trường Bạch để đào nhân sâm, đêm đến tá túc ở một lâm trường bỏ hoang. Trong lâm trường có một con mèo già, lông vằn vện như lông hổ, to béo mập mạp, lại vô cùng linh hoạt nhanh nhẹn, lên cây bắt được chim, xuống đất vồ được chuột. Triệu Lão Biệt ở trong lâm trường lâu dần cũng trở nên quen thuộc với nó, bởi thường cho con mèo ăn thức ăn của mình, về sau, một buổi sáng trước khi vào núi, lão nhìn thấy con mèo nằm rạp trên cành cây, thở hổn hển, trông có vẻ sức cùng lực kiệt, ngay cả đuôi cũng chẳng buồn động đậy, suốt nhiều ngày trời nó đều ở trong tình trạng như vậy. Triệu Lão Biệt thầm thấy lạ. Với con mắt cú vọ của kẻ biệt bảo, lão vừa nhìn là biết ngay con mèo này chắc chắn đã gặp kỳ ngộ gì đây, liền nảy ra ý định phải tìm hiểu cho rõ ngọn ngành. Thế là lão âm thầm quan sát theo dõi, phát hiện chỉ cần màn đêm vừa buông xuống, con mèo già liền chạy vào miếu Sơn Thần, nó luồn vào khe cửa rồi náu mình trong bóng tối nơi góc tường, ở đó án binh bất động. Đợi đến lúc đêm đã về khuya, cả không gian tĩnh lặng, thì trên chiếc kèo gỗ của miếu Sơn Thần bất ngờ phát ra một tiếng động nhỏ, trông lên chỉ thấy một con chuột khổng lồ to như con chó, hai mắt sáng quắc như đèn pha, đang bò từ trên kèo nhà xuống trước mặt các vị thần. Đến nơi, nó dùng đuôi ngoáy vào trong chiếc đèn dầu, ăn trộm dầu đèn mà người ta dâng cúng cho Sơn Thần, đồng thời ôm ngọn nến mỡ bò gặm nham nhở, phát ra âm thanh nghe “lọt cọt lọt cọt”. Lúc này con mèo già đột ngột từ trên góc tường nhảy vọt ra, quyết sống mái với con chuột. Con chuột tuy to xác nhưng không hề đù đờ, chẳng những vậy nó còn vô cùng hung tàn hiểm ác và dường như không hề sợ sệt kẻ địch. Con mèo già di chuyển nhanh thoăn thoắt mà vẫn không làm gì được nó, hai con quái thú quần nhau huỳnh huỵch, đánh nhau không biết mệt mỏi, đúng là quyết chiến sống chết một phen, bởi con nào cũng thần thông, nên khó phân định cao thấp. Nhờ vào ánh trăng, Triệu Lão Biệt có thể nhìn rõ sự việc và hiểu được chân tướng. Thì ra đêm nào con mèo cũng phải đến đây quyết đấu với con chuột cho nên khi trời sáng nó mới mệt đến nỗi không lết nổi thân. Lão nhìn trộm trận ác chiến giữa hai kẻ địch, mải mê đến độ quên hết mọi thứ xung quanh, toàn thân căng thẳng theo nhịp độ của trận đấu, rồi vô tình lão chạm vào một cánh cửa bị hỏng khiến nó đổ rầm xuống đất. Con chuột khổng lồ đang toàn tâm toàn ý tập trung vào trận ác đấu với con mèo già, đột nhiên nghe thấy âm thanh lạ từ đằng sau vọng đến liền giật nảy mình và chỉ cần mấy giây mất tập trung cũng khiến nó lộ ra yếu điểm để con mèo già quật ngã, cắn đứt cổ họng. Phút chốc máu nó trào ra như suối, nhuộm đỏ cả gạch ngói vương trên mặt đất miếu thần. Nó giãy giụa một hồi rồi cuối cùng cũng trợn ngược mắt, thở hắt ra mà chết. Đây đúng là: “Tranh hùng quyết sống mái, phút cuối phân thắng bại”. Triệu Lão Biệt là tay sành sỏi trong nghề, vừa nhìn đã biết con chuột này đã nhiều năm ăn dầu đèn, gặm sáp nến, chắc chắn đã thành tinh, đạo hành cũng không ít, nên liền lấy dao lột da nó, mang về đem đi thuê người làm thành một chiếc áo khoác da thú. Vào những ngày tháng chạp băng giá, ở quan ngoại nước nhỏ thành băng, nhưng chỉ cần khoác chiếc áo da chuột trên người, thì cho dù bên trong để mình trần, trán vẫn đổ mồ hôi như thường. Chỉ có điều, lão ta chưa bao giờ tiết lộ cho người ngoài biết đây là chiếc áo da chuột trăm năm, mà chỉ gọi nó là “Hỏa long tuấn mã”. Triệu Lão Biệt lại bảo Tư Mã Khôi và La Đại Hải: “Đừng thấy bây giờ là mùa hè nóng bức mà cho rằng chiếc áo này vô dụng. Hãy đợi khi mùa thu đến, lá trên cây ngả sang màu vàng, hàng đàn chim ưng kêu ‘quang quác’ bay về phương nam tránh rét; đến lúc ấy nếu các cậu vẫn sống trong cái lán rách khu Hắc Ốc này, chắc khó lòng chống chọi nổi với cái lạnh căm căm và không khí ẩm ướt, chẳng chóng thì chày cũng nhuốm bệnh vào thân. Lúc đó hai cậu không thể rời xa chiếc áo da ‘Hỏa long tuấn mã’ của mỗ đây một bước đâu.” Tư Mã Khôi trong lòng tự biết chiếc áo khoác da này chắc chắn là cái giá cuối cùng mà Triệu Lão Biệt đồng ý trả; và dù sao dựa vào nhãn lực và kiến thức của mình, cậu cũng không thể nhìn ra cái bàn chặt thịt mục nát đó rốt cục là bảo vật phương nào, chi bằng cứ đổi quách đi cho xong, nên chấp nhận điều kiện trao đổi. Thế nhưng cậu vẫn giao kèo với Triệu Lão Biệt: “Vụ làm ăn này giữa bọn tôi và lão chắc không có vấn đề gì, nhưng xin lão sư phụ không ngại chỉ dạy cho, đừng để chúng tôi chịu thiệt một cách mù mờ. Lão hãy nói cho bọn tôi biết rõ toàn bộ ngọn nguồn lai lịch của chiếc bàn chặt thịt, đồng thời nói luôn rốt cục lão làm cách nào để phát hiện ra nó có điểm khác thường, và mang nó đi để dùng vào việc gì? Nếu có chỗ nào giải thích không rõ ràng, Tư Mã Khôi tôi đây thà chẻ nó ra làm củi đun chứ tuyệt đối không chịu để cho lão hưởng lợi dễ dàng như thế đâu.” Triệu Lão Biệt vô cùng khó xử, nhăn mặt nói: “Tư Mã đầu lĩnh, cái lý của cậu có phần không đúng cho lắm, người xưa đã có câu: ‘Khăn thêu uyên ương, mặc người thưởng ngoạn. Kỹ nghệ kim chỉ, một mình mình hay’. Hai bên chúng ta tiến hành giao dịch lấy vật đổi vật, mỗ lại không để cậu thiệt thòi chút nào, sao nhất định phải ép mỗ nói ra gốc gác của nó?” Tuy rằng Tư Mã Khôi và La Đại Hải phiêu bạt giang hồ đã nhiều năm, nhưng rốt cục vẫn không thoát khỏi tâm lý hiếu kỳ của trẻ con, mọi chuyện đều muốn biết rõ chân tướng mới thỏa mãn, nếu trắng đen mập mờ, cả đêm ngủ cũng không ngon giấc. Vậy nên hai người kẻ đánh người xoa, nằng nặc đòi Triệu Lão Biệt giải thích bằng được, lại còn thề thốt sau này tuyệt đối không hối hận mà thay đổi quyết định, cũng không trở thành kẻ phản đồ tiết lộ bí mật cho người khác. Triệu Lão Biệt gặp phải hai hòn đá tảng cứng đầu đành tự nhận mình đen đủi, buộc phải tiết lộ vài phần sự thực. Thế gian đều nói bọn man tử biệt bảo mắt sắc như dao, sự thực quả đúng như vậy. Trưa hôm qua, khi đi ngang khu Hắc Ốc hoang phế, Triệu Lão Biệt đảo mắt một cái liền phát hiện trong lán có điểm khác thường. Nhãn lực nhận biết bảo vật là một môn công phu hơn nữa còn là kinh nghiệm được tích lũy nhiều năm, nói sao được nhỉ? Kỳ thực phải nói trắng ra thế này, khả năng ấy không hề tà ma như dân gian vẫn truyền miệng, cũng không phải cái gì xa xôi giống như kiểu nhìn thấy ánh hào quang lấp lánh tỏa ra từ cái lán gỗ, mà chỉ đơn giản là người làm nghề biệt bảo rất giỏi quan sát, họ có thể phát hiện ra những chi tiết nhỏ bé mà người thường dễ dàng bỏ qua. Triệu Lão Biệt liền đi đến cái lán thì phát hiện gần khu vực đó có rất nhiều hiện tượng khác thường. Theo lẽ tự nhiên, thời tiết oi bức thế này, khu vực Hắc Ốc rác rưởi chồng chất như núi, La Đại Hải lại vừa mới cắt chiếc thủ lợn vứt quay lơ trên mặt bàn, khiến khắp nơi đều nhuốm mùi máu tanh, thì xung quanh lẽ ra phải có rất nhiều ruồi nhặng bay lượn vo ve không ngớt mới đúng. Thế nhưng xung quanh cái lán phía đằng sau Tư Mã Khôi và La Đại Hải lại tịnh không thấy bóng dáng nửa con ruồi, đó chẳng phải chuyện rất lạ hay sao? Triệu Lão Biệt đoán chắc gần đây có giấu bảo vật, liền lập tức dừng bước, giả bộ xin bát nước chè, rồi nhân cơ hội này ngồi luôn xuống trước cửa lán, nhìn quanh bốn phía cẩn thận dò xét, cuối cùng ánh mắt dừng lại ở chiếc bàn mục nát dùng để chặt thịt. Chiếc bàn chặt thịt là phần bên trên của một thân trụ gỗ, bốn phía buộc dây thừng gai, trên mặt bàn còn đặt một chiếc đầu lợn mắt trợn trừng không chịu nhắm, máu tươi nhỏ ròng ròng xuống, nhưng lạ một điều là không nhìn thấy giọt máu nào chảy ra ngoài mà từ từ thấm ngược vào trong thân gỗ. Triệu Lão Biệt liếc mắt một cái, liền đoán định ra bên trong chiếc bàn gỗ nhuốm đầy dầu mỡ này hẳn phải có một kỳ vật. Khúc gỗ để làm chiếc bàn chắc chắn được trong thân nó có lỗ hổng do sâu đục, vừa vặn để một con rết cỡ nhỏ chui lọt. Con rết ở trong thân cây lâu ngày, cơ thể dần phình to, khó lòng chui ra ngoài thoát thân, đành chịu bị nhốt ở bên trong. Gỗ mang tính âm, lại tiết ra dịch thông qua thớ gỗ, nuôi con rết nhiều năm không chết. Sau này, cây cổ thụ bị đốn xuống làm nguyên liệu, khúc gỗ được bào thành chiếc bàn cắt tiết chặt thịt gia súc lại chính là khúc gỗ có con rết trốn bên trong. Con rết liên tục được hút tiết lợn, qua năm dài tháng rộng, lâu dần cơ thể nó tiết ra một viên “Ngọc Định Phong”. Nghe nói vì viên ngọc có thể chữa trị bệnh thống phong nên người ta mới đặt cho nó tên ấy, chứ không phải đó là viên ngọc mà Tôn Ngộ Không năm xưa được Tiên Ông ban cho để chiến đấu mượn được quạt Ba Tiêu của Bà La Sát trên đường đi Tây Thiên thỉnh kinh, về sau, chiếc bàn gỗ chặt thịt bị chủ hàng vứt bỏ, không biết lưu lạc thế nào lại đến được khu Hắc Ốc hoang phế, con rết già nằm bên trong đã bị chết đói từ lâu, nhưng viên ngọc thì vẫn còn. Viên “Ngọc Định Phong” này là loại linh đơn được kết tụ bởi rất nhiều âm tà huyết khí, nên lũ ruồi muỗi mới không dám bén mảng đến gần. Vật mà Triệu Lão Biệt muốn có, chính là viên ngọc quý này. Lúc ấy, Tư Mã Khôi không thể tin nổi, làm gì có chuyện chuẩn xác đến thế? Cậu lập tức đi tìm cái rìu bổ củi, bổ toang cái bàn chặt thịt ra làm mấy mảnh, và trong đó quả nhiên có một con rết lớn, toàn thân đỏ au au nằm cuộn tròn người. Bị rìu chặt ra làm hai đoạn, tuy nó đã chết nhưng trông vẫn sinh động như đang sống, còn trong miệng con rết ngậm một viên ngọc trắng phơn phớt, tròn vành vạnh, không hề tỏa ánh sáng bóng, mà nhìn giống như một cái mắt cá màu đùng đục. Tư Mã Khôi và La Đại Hải nhìn chằm chằm không rời, và đến lúc này mới coi như thực sự tâm phục khẩu phục, có trách thì chỉ trách bản thân mắt mờ, ở bên cạnh bảo vật bao lâu nhưng không hề nhìn thấy, sau này muốn hối hận cũng không kịp, tối nay cứ việc nằm đợi mà nuôi muỗi. Triệu Lão Biệt cười hì hì, trong lòng vô cùng đắc ý nhưng vẫn giả bộ khuyên giải hai người: “Có câu nói xưa thế nào nhỉ... ‘Số mệnh ba thước, khó cầu một trượng’. Hai vị đầu lĩnh tuổi trẻ xuất anh hùng, tuy rằng vô duyên với viên ngọc này, nhưng ngày dài tháng rộng, hơn nữa còn đổi được chiếc áo da, thuốc thơm và nhiều đồ nhai sướng miệng nữa, thì cũng nên biết thỏa mãn. Hai bên chúng ta đều có được vật mà mình muốn có, chẳng ai thiệt thòi cả, núi không chuyển thì sông chuyển, sau này chắc chắn còn có cơ hội gặp mặt.” Nói đoạn, lão nắm chặt viên “Ngọc Định Phong” trong tay, quay người định đi. Tư Mã Khôi và La Đại Hải đang lúc hưng phấn, làm gì có chuyện buông tay bỏ qua dễ dàng như thế, hai người liền vội vàng ngăn Triệu Lão Biệt lại: “Lão vẫn chưa nói rõ hết mọi chuyện, sao nói đi là đi ngay được? Viên ngọc trông giống cái mắt cá này rốt cục có công dụng gì? Lão mang nó đi định dùng vào việc gì?” Triệu Lão Biệt có vẻ hơi ngần ngừ một chút. Lão vốn không định nói thêm nữa, nhưng thấy Tư Mã Khôi và La Đại Hải gan to ngang trời, ngông cuồng chẳng biết sợ thần quỷ gì cả, mà bây giờ một mình lão vào núi biệt bảo lại đang cần trợ thủ, nếu được hai thiếu niên trẻ tuổi ở bên cạnh giúp sức thì chẳng phải công việc sẽ thêm phần suôn sẻ hơn sao? Nghĩ đến đây, Triệu Lão Biệt liền nheo mắt nhìn trời rồi thấp giọng bảo: “Xem ra cái thị trấn cổ trong Hắc Ốc này địa hình không phải hạng xoàng, vốn là mảnh đất vàng, phong thủy thuận chiều ‘Phượng hoàng sải cánh, tung ngọc rải vàng’, nhưng bao năm nay không biết vì lý do gì mà đất đai trở nên cằn cỗi, người vật cùng kiệt?” Tư Mã Khôi và La Đại Hải cảm thấy không thể lý giải nổi, liền hỏi: “Mấy cái thuật phong thủy địa lý cổ xưa, anh em bọn tôi cóc hiểu lắm, nhưng nghe nói Hắc Ốc từ trước đến nay đều nghèo xơ xác thế này, cỏ dại mọc um tùm, đất đai nứt nẻ, trồng cây gì chết cây đấy, thì làm sao có thể gọi là mảnh đất vàng được?” Triệu Lão Biệt nói: “Lúc trước mỗ đã nói gì nhỉ, có trách thì chính là trách điều này, nơi đây tuy rằng địa lý rất tốt nhưng lại nằm ở giữa hai dải núi, thiếu mất nguồn linh khí mà những mảnh đất vàng phong thủy khác vẫn có, vì thế mỗ đây dám phỏng đoán rằng bên trong ngọn núi hoang vu phía tận cùng mạch đất, nơi con người chưa hề đặt chân tới, chắc chắn có chôn giấu một cổ vật ngàn năm mang âm khí rất nặng nề, chính vật này đã hút cạn tinh hoa của trời đất, ám hại thổ nhưỡng sông ngòi nơi này. Nhưng vẫn có câu ‘Phải nhìn tận mắt mới hay thật giả’, rốt cục trong lòng núi cất giấu vật gì, bây giờ mỗ cũng không dám đoán bừa.” Triệu Lão Biệt tự nhận mình phải dùng trăm phương ngàn kế mới lấy được viên “Ngọc Định Phong” trong chiếc bàn chặt thịt mục nát. Lão muốn mượn vật này để đi đào bảo vật chôn giấu dưới lòng núi. Trước khi đi, lão ta còn nhắn nhủ: “Này hai vị đầu lĩnh! Nếu hai cậu có gan thì giờ Tý đêm nay đến chân cầu La Sư phía sau khu Hắc Ốc đợi mỗ, tới lúc đó mỗ sẽ cho hai cậu mở rộng tầm mắt. Có điều hai cậu phải tuyệt đối nhớ kỹ, việc này không được tiết lộ với bất kỳ ai.” Hồi thứ ba CẦU LA SƯ Triệu Lão Biệt dặn dò xong xuôi, hẹn đúng mười hai giờ đêm nay hai người đợi lão ở chân cầu La Sư cùng đi biệt bảo, sau đó liền nhét viên “Ngọc Định Phong” vào trong người, vội vàng bỏ đi mất dạng. Tư Mã Khôi và La Đại Hải từ lúc đó đứng ngồi không yên, hai người vô cùng ngứa ngáy chân tay, linh tính mách bảo chuyện tối nay chắc hẳn vừa mạo hiểm vừa hấp dẫn, nói không chừng còn được chia không ít đồ tốt, thế là liền vội vàng chuẩn bị mọi việc. Trước tiên, hai người phân phát thuốc lá và đồ hộp cho mọi người trong nhóm, sau đó tìm một ngọn đèn dầu còn dùng được, lại lo lỡ đâu gặp phải bất trắc bên ngoài, nên mỗi người đều thủ trong mình một con dao díp ba khía. Loại dao díp này có ba mặt lưỡi, rãnh sâu khoét trên khe, nếu xuyên vào gan tụy người nào thì vết thương không thể khép miệng, cho dù được đưa đến bệnh viện kịp thời vẫn không thể tránh khỏi cái chết do mất quá nhiều máu. Trong khu vực Hắc Ốc không thiếu loại hung khí kiểu này. Hai người thu xếp gọn gàng đâu vào đấy, chỉ chờ màn đêm buông xuống là lập tức đến chân cầu La Sư tìm gặp Triệu Lão Biệt. Đợi mãi mặt trời mới xuống núi, hai người liền đứng dậy chuẩn bị xuất phát. Ai ngờ đúng lúc này, một cô gái tên là Hạ Cần lại đến tìm gặp. Trước khi nghỉ học ở trường, Hạ Cần từng là bạn cùng lớp với Tư Mã Khôi và La Đại Hải, tuy rằng cô nàng không phải hạng xinh gái nhưng thân hình cân đối, khuôn mặt dễ nhìn, thành tích học tập cũng khá, mà quan trọng hơn là điều kiện chính trị của gia đình rất tốt, sớm muộn cô nàng cũng tham gia quân đội, con đường tương lai có thể nói là vô cùng xán lạn. Từ trước đến nay, Hạ Cần rất ít khi kiếm chuyện thị phi với đám người La Đại Hải, thế mà hôm nay đột nhiên đến đây tìm gặp, khiến Tư Mã Khôi và La Đại Hải cảm thấy vô cùng ngạc nhiên. Hạ Cần không đội mũ, hàng tóc mái hỉ nhi lòa xòa trước trán, đằng sau kết thành hai bím dài và nhỏ, trên người mặc bộ quân phục loại đắt tiền, quần kaki màu xanh da trời, ngực cài huy hiệu Mao chủ tịch. Cô nàng vội vàng từ thành phố chạy đến đây, quần áo ướt đẫm mồ hôi, dường như có chuyện gì quan trọng lắm muốn thông báo cho hội Tư Mã Khôi biết, nhưng khi nhìn thấy bộ dạng ngang ngược, vô lại, bất cần đời của hai người bọn họ, cô cảm thấy vô cùng thất vọng. Hạ Cần thở dài bất lực, lời nói vốn dĩ sắp vọt ra khỏi miệng lập tức bị nuốt ngược vào trong, thay vào đó cô nàng đã không ngừng trách mắng bọn họ một thôi một hồi, nói họ không nên cam tâm buông thả bản thân như vậy mà phải tìm cơ hội học tập nhiều thêm một ít, nếu không sẽ lãng phí mất tuổi thanh xuân quý giá. Tư Mã Khôi ghét nhất phải nghe người khác lên mặt dạy đời, nên trong lòng thầm nghĩ: “Cái con nhóc này sao lắm chuyện thế không biết, bây giờ là thời đại nào rồi mà còn học tập?” Tuy nghĩ vậy nhưng miệng cậu ta vẫn điềm nhiên lấp liếm: “Cậu nghĩ bọn tôi muốn thế này à? Vì sao người ta phải học tập hử? Đương nhiên là vì muốn thể hiện giá trị cái tôi của bản thân. Nhưng tôi lại nghe có một nhà hiền triết nói thế này, người ta sinh ra trên đời nhất thiết phải lần lượt đi theo các tiêu chí: trước tiên là sinh tồn, tiếp đến là cảm giác an toàn, thứ ba là tình yêu, gia đình, thứ tư là sự tôn trọng, xếp hàng thứ năm mới là thể hiện cái tôi. Bây giờ bọn tôi ăn bữa sáng lo bữa tối, cuộc sống có hôm nay mà không có ngày mai, ngay cả tiêu chí đầu tiên cũng chẳng đạt được thì làm gì còn tâm trí mà nghĩ đến việc học hành nữa.” Hạ Cần tự biết miệng lưỡi mình không thể thắng nổi Tư Mã Khôi, bởi chỉ có quỷ mới biết nhà hiền triết nào đã nói với cậu ta mấy triết lý đó, hay chính cậu ta thuận miệng nói nhăng nói cuội? Cô nàng đành nói: “Bạn Khôi ạ! Chúng mình dù sao cũng là bạn cùng lớp với nhau, tớ nói thế chẳng qua là muốn tốt cho các cậu mà thôi!” Thấy điệu bộ Tư Mã Khôi và La Đại Hải có vẻ như muốn kết thúc câu chuyện ở đây, hai người bọn họ, tay cầm chiếc đèn dầu, thắt lưng giắt theo hung khí, Hạ Cần lại tưởng hai tên này chuẩn bị ra ngoài đánh lộn với người ta, liền vội vàng hỏi họ định đi đâu? Đầu óc La Đại Hải không thể nhanh nhạy như Tư Mã Khôi nên nghe hỏi liền thuận miệng trả lời ngay: “Bọn tôi đến cầu La Sư…” Nói được nửa câu, cậu ta tự biết mình lỡ lời, lập tức lấy tay bịt mồm lại. Hạ Cần từng nghe nói đến cầu La Sư ở vùng ngoại ô hẻo lánh, đó là chiếc cầu bằng đá cổ xưa đã bị bỏ hoang từ lâu, đi qua cầu là rừng sâu núi thẳm và khu nghĩa địa rộng lớn; ở đó tịnh không có bóng người qua lại, không hiểu hai người bọn họ đến đó làm gì vào đêm hôm khuya khoắt thế này? Cô nàng không khỏi sinh nghi, trong lòng chắc mẩm bọn họ đến đó chỉ để gây họa mà thôi. Tư Mã Khôi vội vàng giải thích, bọn họ đến đó tuyệt đối không phải để đánh nhau mà là... mà là để bắt chim cút. Khu vực gần cầu La Sư cỏ hoang mọc rậm rạp, cao ngút ngang thắt lưng, trong bụi cỏ có rất nhiều tổ chim cút. Cậu ta nói vậy cũng không hoàn toàn sai sự thật, vì người ngoài mới vào khu Hắc Ốc, muốn chắc chân ở đây thì buộc phải đánh nhau với bọn lưu manh vô lại bản địa. Trừ phương pháp hai bên mang quân lính đánh nhau lộn tùng bậy ra, cách tốt nhất chính là “chọi chim cút”. “Chọi chim cút” là một hình thức cá độ, bắt nguồn từ cuối thời Minh và được lưu hành rộng rãi trong dân gian, cũng giống như các trò chọi chim, đấu chó, chọi dế khác. Lúc đầu, khi mới đến đây, vì Tư Mã Khôi tìm được một con chim cút mỏ sắt, lông vũ tím biếc, rồi trong vòng ba ngày nó liên tiếp hạ gục mười lăm con chim cút khác của bang Hắc Ốc nên cục diện mới được thay đổi, và hội Tư Mã Khôi mới giành được chỗ dung thân. Sau sự việc ấy, mỗi lần hai bên có tranh chấp gì đều lấy phương thức “chọi chim cút” để giải quyết; nhưng chim cút không nuôi bộ được lâu nên Tư Mã Khôi phải tìm trăm phương nghìn kế ra bãi cỏ hoang bắt chim. Có điều, nửa đêm nửa hôm thế này thì không thể bắt nổi, giờ lấy lý do đó quả thực chỉ là miễn cưỡng viện cớ mà thôi. Hạ Cần nghe giải thích mà bán tín bán nghi, khăng khăng đòi đi theo bằng được mới chịu tin. Tư Mã Khôi khuyên giải thế nào cũng không được, nhìn lên thấy sắc trời đã nhá nhem tối, bây giờ cũng không thể đuổi cô nàng về thành phố nên đành phải chấp nhận cho bám đuôi. Đêm hôm đó, vòm trời chi chít sao nhưng lại không có trăng, không gian chẳng có lấy một ngọn gió mát mà oi bức ngột ngạt đến khó thở. Ba người xách theo ngọn đèn dầu lặng lẽ rời khỏi khu Hắc Ốc, bước thấp bước cao đi rất lâu trong khu đất vắng vẻ, cuối cùng cũng nhìn thấy chiếc cầu đá đã bị sập mất một nửa, bắc ngang qua lòng sông khô cạn. Đây chính là cầu La Sư. Đối diện với cầu La Sư là một vùng hoang vu, gò đồi nhấp nhô lượn sóng, trong đó là đồng cỏ mênh mông không biết đâu là bờ, và khu nghĩa địa cổ rộng lớn có từ ngàn năm trước, mộ phần chôn cất lộn xộn chẳng có lớp lang gì cả, phần lớn là mộ vô chủ, người bị chôn dưới đất đều là người nghèo, thậm chí còn có những mộ tận mấy người chôn cùng một hố. Nghe nói ở đây ma quỷ hoành hành rất dữ nên ít người dám qua lại sau khi trời tối. Trời vào hạ, lòng sông phía dưới gầm cầu tích đầy bùn cát, cỏ dại mọc um tùm, phía sâu bên trong lùm cây ếch nhái không ngừng cất tiếng kêu ộp ộp, bọ gậy nhung nhúc từng bầy bơi lội trong mấy vũng nước tù, những con dơi to hơn cả chim thỉnh thoảng lại liệng vèo qua trước mặt, khiến người ta sợ đến vã mồ hôi hột. Có điều, Tư Mã Khôi và La Đại Hải sống ở nơi hoang vu này đã quen rồi nên vẫn điềm nhiên như chẳng nhìn thấy gì. Xem chừng vẫn còn sớm, mấy người bọn họ liền ngồi bừa xuống một bãi đất dưới chân cầu, tắt đèn dầu, vừa hút thuốc vừa chờ đợi. Tư Mã Khôi thấy cơ sự đã đến nước này, sợ rằng không thể giấu giếm thêm được nữa, liền thuật lại việc gặp Triệu Lão Biệt cho Hạ Cần nghe một hồi, rồi bắt cô nàng hứa khi về tuyệt đối không được hé môi kể với bất kỳ ai. Hạ Cần thấp giọng đồng ý: “Cậu cứ yên tâm, tớ nhất định không bao giờ thành kẻ phản bội đâu, nhưng hai người các cậu cứ làm mấy việc thị phi này, chẳng sớm thì muộn cũng rước họa vào thân. Mấy hôm trước, tớ nghe bố tớ nói, cục cảnh sát đã quyết định bài trừ tận gốc bang Hắc Ốc đấy. Nếu các cậu không muốn bị nhốt vào tù thì phải sớm trở về thành phố mới được.” Tư Mã Khôi nghe tin ấy, trong lòng cảm thấy hơi khó chịu. Thông qua sự tiếp xúc trong những ngày ở đây, cậu phát hiện cái gọi là “Bang Hắc Ốc” thực ra là những con người rất thuần phác, họ chỉ là những người đẩy xe bán khoai lang, bánh hành dạo, nếu không thì là những kẻ lưu lạc không nhà không cửa. Tất cả bọn họ đều sống nhờ vào con đường sắt, chẳng gây ra tội ác tày trời nào cả; nếu quả thực bắt họ phải rời khỏi túp lều hoang tàn này thì họ phải đi đâu để tìm chốn dung thân? Trái lại, La Đại Hải chẳng buồn để tâm, cậu ta nói nếu như không thể sống trong Hắc Ốc thì sẽ dẫn Tư Mã Khôi đi Đông Bắc. Ông già cậu ta trước đây có gốc rễ sâu trong quân đội đến tận đâu đấy chứ, muốn quan hệ có quan hệ, muốn đường đi có đường đi, không chừng đợi khi cậu đủ tuổi còn được sắp xếp vào trong quân đội, việc gì phải cố sống cố chết bám trụ ở đây mà chịu uất ức. Hạ Cần nói: “Đông Bắc thì có gì hay cơ chứ, đến mùa đông lạnh chết đi được, chẳng phải lưỡi của cậu khi nhỏ bị đông cứng nên giờ mới thế này sao?” La Đại Hải bĩu môi tỏ ý khinh thường: “Cậu thì hiểu gì? Đồ con gái tóc dài, óc ngắn!” Đoạn cậu quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Khôi này, bố cậu sau này cũng đến Quan Ngoại phải không? Cậu bảo cái vùng ấy như thế nào nhỉ?” Tuy rằng Tư Mã Khôi mơ hồ cảm thấy cái thằng như mình đây tiền đồ mờ mịt, số phận khó đoán, nhưng từ trước đến nay đều tự hóa nguy thành an, nên sớm đã chẳng buồn quan tâm đến điều này nữa, bây giờ nghe La Đại Hải gợi lại chuyện Quan Ngoại, liền nói: “Tớ chưa bao giờ đến vùng Đông Bắc, trước đây chỉ nghe ông già kể, ở đó vào mùa đông đúng là tuyết bay ngập trời, khắp nơi đóng băng đông cứng, vạn vật đều chìm vào giấc ngủ, có người còn bị đóng băng cả mũi. Thế nhưng trong rừng già núi sâu, những việc quái lạ nhiều vô cùng, nên chỉ cần ngồi trong lâm trường nghe người già kể chuyện cổ xưa, nghe suốt cả mùa đông cũng vẫn không hết.” Để giết thời gian, Tư Mã Khôi liền kể cho La Đại Hải và Hạ Cần nghe câu chuyện ly kỳ mà ông bố Trương Hồ Lô từng gặp ở Quan Ngoại. Ông bảo ở ngôi miếu hoang trong núi sâu vùng Quan Ngoại, một hôm bỗng nhiên có lão đạo sĩ đến; lão ta thu nạp một đồ đệ ở dưới núi làm đạo đồng, đồng thời xây một tòa điện để thờ sư tổ. Hai thầy trò cùng nhau ở trong đó tháng nọ tiếp tháng kia. Trước cửa điện um tùm rậm rạp, bất kể ở đây chỉ toàn cỏ dại cây hoang, nhưng hôm nào cũng nhìn thấy hai đứa trẻ hồn nhiên nô đùa ở ngoài hang núi. Mỗi ngày lão đạo sĩ gặp chúng, đều thuận tay đưa cho hai đứa bé khi thì viên kẹo, khi thì cái bánh. Thời gian lâu dần, hai bên trở nên khá thân thiết, nhưng hai đứa trẻ đó tuyệt đối không dám lại gần cửa điện một bước. Cứ như vậy nhiều năm trôi qua, tất cả đều bình an vô sự, mãi cho đến một ngày, lão đạo sĩ từ dưới núi mang về mấy quả đào tươi ngon, trên cuống còn dính mấy chiếc lá, quả nào quả nấy căng mọng mỡ màng. Lão mang đào bày lên hương án trong điện thờ, dâng lên sư tổ. Lão đạo sĩ đi suốt một ngày đường, vừa mệt lại vừa buồn ngủ, thần thái lờ đờ, cứ thế ngồi trong điện, ôm hương án, dần dần thiếp đi. Lúc này, một trong hai đứa trẻ đứng thập thò ở ngoài, rồi bò lên bậu cửa nhòm vào bên trong. Nó nhìn thấy mấy trái đào tươi mọng, không nhịn nổi liền len lén lẻn vào trong điện ăn trộm. Ai ngờ lão đạo sĩ đột nhiên hèm lên một tiếng, nhảy bật người dậy, giơ tay tóm lấy đứa trẻ, chẳng nói chẳng rằng kẹp mạnh nó vào dưới nách, ba chân bốn cẳng xông thẳng vào lò đốt hương phía sau điện, chân tay cuống quýt lột sạch quần áo của đứa trẻ, dùng nước tắm rửa sạch sẽ rồi vứt sống nó vào một nồi nước to, lấy nắp gỗ nắp chặt lại, rồi dùng tảng đá to chèn lên trên. Lão đạo sĩ lại gọi tiểu đạo sĩ đồ đệ đến, ra lệnh cho hắn chất thêm củi vào lò, tuyệt đối không được bớt lửa, cũng không được mở nắp vung xem bên trong là thứ gì, sau đó lão ta chạy đi tắm rửa thay quần áo, tế bái thần linh. Tiểu đạo sĩ trong lòng thầm nghĩ, người xuất gia nên lấy thiện làm gốc mới phải, sao lại ăn thịt người tàn nhẫn như thế? Chỉ e rằng sư phụ đang muốn tu luyện môn công phu tà đạo nào đó. Tai hắn đã nghe thấy đứa trẻ bên trong nồi khóc thét giẫy giụa, nên cảm thấy không nhẫn tâm, định mở vung nồi phóng sinh cho nó. Thế nhưng lại sợ lỡ đâu sư phụ chẳng ăn được thịt người, sẽ lấy dao mổ thịt hắn, thế nên hắn lại không dám kháng lệnh. Lửa càng cháy càng đượm, tiếng kêu thét càng lúc càng nhỏ, rồi dần dần trở nên u tịch vô thanh, khiến tiểu đạo sĩ nghĩ rằng đứa trẻ chắc đã bị đun chết. Hắn lại lo nước trong nồi bị cạn nên nhè nhẹ hé mở nắp vung, đang định nghé mắt vào xem, đột nhiên nghe thấy “bùm” một tiếng, đứa bé từ bên trong nhanh thoăn thoắt chui ra ngoài trốn mất dạng. Vừa lúc đó, lão đạo sĩ đang ôm hộp thuốc chạy tới, trông thấy sự tình, vội vàng giục đồ đệ chạy ra ngoài cửa tìm kiếm, kết quả tìm khắp nơi mà đứa bé vẫn biệt vô âm tín. Lão đạo sĩ đành gạt nước mắt than dài: “Đồ nhi ngu ngốc, mi làm hỏng việc lớn của ta rồi! Ta ở bao nhiêu năm trong chốn rừng sâu núi thẳm này cũng chỉ vì quả nhân sâm ngàn năm đó thôi. Nếu nấu nó thành nước uống cùng với thuốc, có thể trường sinh bất lão. Xem ra ta không đủ phúc phận, ước nguyện thành tiên cũng vô vọng rồi. May mà nước canh trong nồi và quần áo của đứa trẻ vẫn còn giữ lại, đem luyện thành linh đơn uống cũng được thượng thọ, miễn nhiễm bách bệnh.” Nói xong, hai thầy trò liền gấp gáp quay trở vào trong điện. Nhưng khi bọn họ trở về tìm kiếm quần áo thì phát hiện không biết chúng đã biến mất từ lúc nào, chẳng những thế nước trong nồi cũng bị một con chó hoang trụi lông uống cạn, một giọt cũng không còn. Lão đạo sĩ thất vọng quá tới mức đổ bệnh, mấy tháng sau thì âu sầu lìa đời, còn con chó hoang, nghe nói về sau lông đen mọc kín toàn thân, óng mượt tuyệt trần, từ đó nó bỏ vào rừng sâu không bao giờ quay trở lại nữa. Trên núi chỉ còn sót lại vị tiểu đạo sĩ, một mình ngồi giữ điện sư tổ trống toang hoang, sau này hắn rơi vào tình cảnh cùng quẫn, không kế sinh nhai, đành buộc phải phá giới thành cướp, theo chân ông Trương Hồ Lô làm thổ phỉ. Câu chuyện này do chính miệng hắn kể lại cho ông Trương Hồ Lô nghe. La Đại Hải và Hạ Cần nghe Tư Mã Khôi kể với giọng rất quả quyết, như thể thực tế đúng là đã từng xảy ra việc ấy, trong lòng cảm thấy rất mơ hồ, không thể phân biệt nổi câu chuyện này là sự thực hay do Tư Mã Khôi bịa ra. Tư Mã Khôi giải thích: “Đã là truyền thuyết thì đừng thắc mắc nó thật hay giả, nhưng các cậu có biết vì sao tớ kể chuyện này ra không? Là vì tớ cứ cảm thấy cái lão già Triệu Lão Biệt đi lùng bảo vật kia, hao hao giống với tên đạo sĩ đi lùng bắt nhân sâm thành tinh.” La Đại Hải cũng gật đầu đồng ý: “Mẹ kiếp! Mấy lũ bợm đó chẳng đứa nào ra gì! Cậu xem bây giờ là mấy giờ rồi mà lão già chết tiệt ấy còn chưa đến? Tớ thấy, chắc quá nửa là bọn mình bị lão cho leo cây rồi.” Tư Mã Khôi gật gật đầu, lớn giọng sang sảng: “Là con người, ai chẳng có tính xã hội, mà xã hội lại là cái quần thể tạp nham đầy tính mâu thuẫn. Mấy năm kinh nghiệm đã mách bảo cho chúng ta rằng, bất luận thế nào cũng đều phải tin câu này: trên thế giới, loại khốn nạn nào cũng có.” Cậu ta nói xong liền nhổm người đứng dậy, định bụng nhìn quanh xem Triệu Lão Biệt đã đến chưa, không ngờ vừa ngẩng đầu trông ra phía xa thì đã giật nảy người. Dường như không tin vào cảnh tượng mình đang nhìn thấy, cậu ta vội vàng đưa tay dụi mắt rồi nhìn lại. Lúc bấy giờ, mây đen u ám, che phủ mọi vì sao vốn chi chít trên nền trời, bóng tối bao trùm bủa vây khắp không gian, chỉ duy phía đối diện với cầu La Sư, nơi tận cùng đầu bên kia của cánh đồng hoang là lung linh ánh đèn. Và, không thể ngờ ở đó lại có một thành trì trải rộng hàng trăm dặm, có sức chứa trên dưới vạn người, quy mô quả thực không nhỏ. Có điều, do màn đêm mịt mùng, tầm nhìn bị mộ phần và cỏ hoang che lấp, lại thêm khói bay sương phủ la đà, nên khi nhìn qua đó chỉ thấy khung cảnh chập chờn lúc mờ lúc tỏ bất định. Trong thành đó hiện rõ ma khí vô cùng nặng nề, khiến người ta không khỏi dựng tóc gáy sợ hãi. La Đại Hải và Hạ Cần cũng phát hiện ra cảnh tượng dị thường đó, và ba người đều cảm thấy da gà nổi lên từng đợt. Chưa bao giờ bọn họ nghe nói trong khu nghĩa địa bỏ hoang này lại có sơn thôn, thị trấn. Nơi đây tuy rất hiếm dấu tích của con người, nhưng ban ngày thỉnh thoảng vẫn có kẻ qua lại trên đường, có điều chưa ai từng nhìn thấy người sống trong khu nghĩa địa, nên chẳng hiểu sao tự nhiên hôm nay lại nổi lên một tòa thành lớn như vậy? Nhìn tòa thành đó âm hiểm dị thường, lẽ nào đó là ma thành dưới âm phủ? Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều không tin vào mấy chuyện ma quỷ nên hai người mau chóng định thần, thắp đèn dầu, rút con dao díp ba khía ra, lăm lăm trong tay, hướng thẳng vào bức thành trì chập chờn mờ tỏ như ma trơi rồi tiến từng bước đến đó. Bọn họ định nhìn xem rốt cục là thứ gì đang tác oai tác quái. Hạ Cần tuy rằng không muốn đi, nhưng cô nàng càng không muốn ở lại một mình dưới chân cầu, nên đành níu áo Tư Mã Khôi theo sát phía sau. Ba người hướng tầm mắt nhìn về phía tòa thành ma, lần mò từng bước trong nghĩa địa, vừa đi vừa phạt cỏ tiến lên. Tuy rằng cả bọn đi rất lâu trong bóng tối, nhưng dường như càng đi càng cảm thấy chột dạ, vì bất luận đã đi được khá xa nhưng trước sau vẫn cảm thấy như không thể đến gần tòa thành ẩn hiện ánh đèn nến ấy. La Đại Hải trong lòng không tránh khỏi cảm giác rờn rợn, liền khuyên Tư Mã Khôi: “Tớ thấy bọn mình nên rút đã, hảo hán sợ gì cái thiệt trước mắt, nếu tiếp tục đi không khéo lại lạc đường mất!” Tư Mã Khôi nhìn thấy sắc trời đúng là tối quá, trong lòng cũng thầm cảm thấy lực bất tòng tâm, nên đành quyết định rút lui rồi tính tiếp. Ba người bèn quay đầu về phía sau, ai ngờ cánh đồng cỏ hoang rộng mênh mông, đêm đen bao trùm mịt mùng, chút ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn dầu chỉ đủ soi rõ trong phạm vi ba bước. Ánh sáng lói của ngọn đèn hiện lên giữa khu nghĩa địa hoang vắng này chẳng khác nào ánh lửa ma trơi. Tất cả những gì có thể nhìn thấy bây giờ chỉ là những nấm mồ nối tiếp nấm mồ. Ba người bọn họ đi không biết bao lâu, nhưng vẫn không thể quay về lòng sông khô cạn dưới chân cầu La Sư, còn ngoái đầu nhìn lại, thấy khoảng cách giữa họ và tòa thành trì ẩn hiện ánh sáng ma quỷ đằng kia dường như vẫn không hề thay đổi. Trên trời giờ đã không nhìn thấy bóng dáng nửa ngôi sao, nên cũng chẳng thể phân biệt đâu là hướng nam, đâu là hướng bắc. Mất vật tham chiếu, cảm giác không gian càng bồng bềnh như không tồn tại. Trong đêm hè oi bức, thời gian phảng phất như dừng lại, ngưng tụ tại một điểm. Trán La Đại Hải đầm đìa mồ hôi lạnh, cậu ta không nhịn được lẩm bẩm thành tiếng: “Thế này chẳng phải đang gặp ma à? Nghe người ta đồn những hồn ma bị chết oan khuất thường xuất hiện trên đường vào ban đêm để dẫn lối cho lữ khách, bắt họ đi vòng vo một hồi rồi quay trở lại điểm xuất phát, cuối cùng khiến họ cùng quẫn mà chết. Tục truyền con đường đó gọi là ‘Hẻm ma ám’. Chẳng lẽ hôm nay anh em bọn mình lại đâm vào con hẻm ma?” Tư Mã Khôi vẫn bình tĩnh hơn cả: “Cùng lắm thì lãng phí một đêm ở đây, sáng ngày mai đợi khi chim kêu trời sáng thì cô hồn, dạ quỷ gì cũng phải tiêu tan.” Cậu lại vung dao huơ huơ trước mặt: “Có thứ giết người này trong tay, bất kể trong nghĩa địa có vật gì không thanh sạch, ông đây cũng phanh thây chúng ra thành ba mảnh.” Tuy mạnh miệng như vậy nhưng thời khắc này dường như cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, mỗi giây mỗi phút đều kéo dài đằng đẵng tựa ngàn thu, bởi hoàn toàn không thể cảm nhận được sự trôi chảy của thời gian, nên ba người khó lòng át chế được sự phát tác của chủ nghĩa duy tâm. Họ lo rằng bọn họ thực sự đang bị sa vào con hẻm ma ám, đường ma đi, người không thể đi, ngộ nhỡ lạc bước vào trong đó, chỉ e vĩnh viễn không thể đợi đến thời khắc chim kêu trời sáng. Hải ngọng đột nhiên nhớ ra một việc, cậu ta kể với Tư Mã Khôi và Hạ Cần rằng theo cách nói lưu truyền của dân gian vùng Đông Bắc, nếu một người đi lạc trong núi, thì thường lỡ bước vào nhầm thành cổ, trong thành chắc chắn chẳng có ai là người sống, chỉ có một lão già gầy đét như thanh củi khô, da dẻ nhăn nheo, đầu đội mũ chóp nhọn, khi nhìn thấy người thì tự nhận: “Đầu đội mũ hoàng kim, mình mặc áo lưu ly, bản quan là đại vương trong mộ, cưỡi thỏ ngọc đi tuần”. Nếu gặp phải tình huống như vậy thì lão già đó tuyệt đối không phải là người, mà là con chồn tinh, còn gọi là “Hoàng đại tiên” từ trong núi chui ra, nếu ai còn muốn sống sót thoát ra khỏi hẻm ma ám, thì phải lập tức dập đầu cúi lạy và cầu xin nó dẫn đường. Hồi thứ tư HẺM MA ÁM Nửa đêm canh khuya, hội ba người Tư Mã Khôi đi lạc trong khu nghĩa địa bỏ hoang, rồi càng lúc càng hoảng loạn, loanh quanh một hồi, trong lòng cảm thấy rùng rợn đến nỗi không còn phân biệt nổi phương hướng nữa. Bình thường La Đại Hải là tay vô cùng gan dạ, chẳng biết sợ sệt gì sất, nhưng cũng phải tùy việc, nếu luận đến việc đánh nhau, gây vạ, cậu ta có thể dùng que chọc thủng trời, ngưu ma, xà thần gì cũng chẳng phải đối thủ. Có điều khi còn nhỏ, cậu ta từng leo lên cây ăn trộm trứng trong tổ chim, không ngờ vừa lúc đó một con chồn hoa cũng luồn vào, đẩy cậu ta ra rồi cắn chết chim mẹ ngay tại trận. Lúc ấy quanh miệng con chồn dính toàn máu chim, còn hai mắt thì đỏ ngầu, nhìn cảnh tượng ấy La Đại Hải sợ mất vía. Kể từ đó trở đi sự việc này đã trở thành chiếc bóng u tối ám ảnh tâm lý cậu ta một cách nặng nề, mà mãi đến tận bây giờ vẫn không thể phai mờ. Bởi vậy, thứ duy nhất trên đời này khiến cậu ta khiếp đảm có lẽ chính là con chồn. Trước đây cậu ta thường tỏ ra không hề gì, thực ra chỉ là cố tình giả bộ, còn bây giờ gặp phải tình cảnh kinh dị, vượt qua cả phạm vi nhận thức của con người, nên trong lòng cậu ta khó tránh khỏi việc liên tưởng đến chuyện cũ. Lúc này cậu ta quả đúng là gan nhỏ hơn cả gan thỏ. Khi ở Đông Bắc, Hải ngọng đã từng nghe kể rất nhiều truyền thuyết dân gian với thể loại tương tự như vậy, nên giờ cậu cứ một mực quả quyết rằng mấy người bọn họ đang bị chồn tinh nằm dưới mộ huyệt mê hoặc. Nghĩ đến đây cậu ta cảm thấy dường như có một luồng khí lạnh xuyên thẳng vào đáy tim làm bắp chân tự nhiên co cứng như bị chuột rút. Hạ Cần nghe cậu ta nói có chồn tinh trong thành ma, nên chỉ cần nghĩ thôi mà da gà đã nổi hết cả lên, cô nàng không thể tự kiềm chế được nỗi sợ hãi đang dần trào dâng trong lòng, sắc mặt trở nên tái nhợt. Tư Mã Khôi hoàn toàn không tin vào mấy thuyết pháp tà ma kiểu đó. Cậu biết khu vực Đông Bắc rất sùng bái “Hoàng tiên”, nhưng trước thời Mãn Thanh, những người dân mê tín chuyện này ở Quan Nội tồn tại không nhiều lắm, thậm chí có thể nói là gần như không còn, mãi cho đến sau khi chế độ thiết giáp bát kỳ[9]tràn vào Quan Nội, hai nền văn hóa Hán Mãn bị ảnh hưởng lẫn nhau, Quan Nội mới dần bắt đầu nảy sinh tập tục thờ Hoàng tiên, về nguyên nhân hình thành “Hẻm ma ám” cũng có rất nhiều cách giải thích, mấy thuyết pháp dân gian kia tuy chưa hẳn là sự thật, khu mộ hoang này cũng chưa hẳn bị bọn chồn hoang quấy nhiễu, chỉ là tình hình đang gặp trước mắt quả thực quá sức quái dị, nhưng thật khó có thể dùng lý lẽ thông thường để phán đoán. Cho dù Tư Mã Khôi lý trí cứng rắn, lại giỏi tùy cơ ứng biến, nhưng rốt cục cậu ta tuổi vẫn còn trẻ, kiến thức còn nông cạn nên lúc này khó tránh khỏi cảm giác bất lực. Lúc này, Tư Mã Khôi lại thấy ánh sáng của chiếc đèn dầu đang cầm trên tay mỗi lúc một trở nên yếu ớt, như báo hiệu sắp sửa tắt hẳn, trong lòng cậu chợt dội lên cảm giác không lành. Cậu nói với La Đại Hải và Hạ Cần: “Chắc chắn chúng ta bị lạc đường rồi, chỉ sợ không dễ thoát ra khỏi nơi này, dầu trong đèn cũng chẳng còn lại là bao, xem chừng không thể duy trì được lâu nữa. Người xưa thường nói ‘đèn tắt ma tìm đến’, nếu chúng ta muốn bảo toàn mạng sống, bắt buộc phải nhanh chóng tìm ra cách thoát khỏi đây. Nếu không đợi thêm chút nữa, khi ánh đèn hoàn toàn tắt hẳn, trước mắt tối thui thui, thì càng chẳng có cơ hội thoát thân đâu.” La Đại Hải bất lực đáp: “Tớ coi như hết sạch chiêu rồi, thường ngày toàn thằng ôn con nhà cậu nghĩ ra bao nhiêu quỷ kế, theo cậu bây giờ chúng ta nên làm thế nào?” Tư Mã Khôi vắt óc nghĩ ngợi hồi lâu. Khi còn ở Bắc Kinh theo “Văn Võ tiên sinh” học nghệ, cậu cũng biết đến một vài điển cố lục lâm. Cái từ “ngựa vang”[10]vốn chuyên dùng để chỉ: “Trên đường Sơn Đông, nếu nhìn thấy kẻ cưỡi ngựa đeo chuông, thì ngầm hiểu đó chính là ám hiệu của đạo tặc lục lâm, bọn họ coi trọng khí chất nghĩa hiệp, chúng ta khó lòng biết thực ra họ là kẻ xấu hay người tốt, khó phân biệt điều họ làm là sai hay đúng; họ bí mật cướp của, tàng hình giết người”. Tiếng lóng này sau đó được phát triển rộng ra đến mức bất luận là “râu xồm” ở Sơn Đông, “giặc cướp ngựa” ở Quan Tây, “chim nhạn” ở Giang Nam hay “bang thuyền” ở Hồ Bắc và Hồ Nam, phàm là những tên cướp tự cho mình là “cướp của người giàu chia cho người ngoài, thay trời hành đạo”, đồng thời cũng bái mười tám vị la hán làm sư tổ thì đều được quy vào hàng ngũ “ngựa vang”. Trước đây, “ngựa vang” thường phải chạy vào sâu trong khe núi để trốn khỏi sự truy đuổi của quan quân. Nơi đó là cánh rừng rậm nguyên thủy, quanh năm không trông thấy mặt trời, cỏ mọc còn cao hơn đầu người, đưa mắt nhìn quanh chỉ thấy bốn bề cỏ hoang mọc bạt ngàn. Những người không thông thổ lỡ chân lạc bước vào đây sẽ lập tức bị “biển muỗi” hút sạch máu và trở thành xác khô. Ngoài rừng rậm ra thì đầm lầy, sơn cốc băng tuyết, khe vực đều là những cứ địa vàng để “ngựa vang” nương thân tránh họa và thoát khỏi vòng vây truy sát của quân lính. Bọn họ và quan quân chỉ giao đấu vài hiệp rồi lập tức tản ra, chạy vào khu rừng già, nơi không có dấu chân người qua lại để ẩn thân, đợi khi sóng gió qua đi mới tụ tập trở lại. Chính vì vậy, người đời mới nói “ngựa vang rất giỏi tìm đường”, cho dù chạy vào nơi sơn cùng thủy tận, địa hình phức tạp, khi bị lạc đường, họ vẫn có thể xác định được phương hướng dựa vào việc quan sát vị trí của chòm sao Bắc đẩu. Vào những ngày trời âm u, không có sao, họ sẽ đi tìm mạch nước nguồn, chỉ cần xuôi theo hướng nước chảy là nhất định sẽ tìm được lối ra. Thế nhưng tình hình trước mắt bây giờ vừa không có sao, lại không có sông suối gì cả, thì làm gì còn phương pháp nào mà nghĩ? Cuối cùng Tư Mã Khôi đã nhớ lại “thuật thôi môn” được ghi chép trong “Lục Lâm truyền kỳ”, trong đó nói: người ta có thể thông qua phương thức mê tín để suy đoán cánh cửa sinh tồn; đây là một bí thuật trong “Thuật âm dương bát quái”, mà thông thường chỉ có bọn quân sư vớ vẩn mới sử dụng thủ thuật này. Tư Mã Khôi không biết cái món bí thuật này có tác dụng thật hay không, và cũng chưa bao giờ thực hành cụ thể, nhưng vì phải giành giật sự sống khỏi bàn tay thần chết nên quyết định liều một phen. Cậu đành nhìn mèo vẽ hổ, nhìn bầu vẽ dưa để bắt chước phương pháp cổ xưa mà tiền nhân truyền lại, lấy ba hòn đá vun đống trước mộ, xếp thành hình án thờ sư tổ, sau đó đắp đất thành lò đốt hương, cuối cùng cắm lên đó mấy cọng cỏ dại làm nhang. Lúc này lẽ ra cậu phải ngồi niệm “Thôi môn lệnh” nhưng Tư Mã Khôi đã quên béng bài chú này từ đời nào, nên đành tạm thời chắp vá mấy câu khác để thay thế, chỉ thấy miệng cậu ta tụng niệm một hồi dài, nghe cũng rất ra văn ra vẻ: “Con xin thỉnh quan phu tử giáng đàn, Lý lão quân hạ thế, mời các vị sư tổ, Ngọc hoàng thượng đế, quan âm bồ tát, tổng tư lệnh, ba vị nguyên lão, bốn vị thiếu gia trên trời, mau mau hiện thân đến cứu đệ tử khỏi vòng hiểm nguy...” Nói xong, cậu liền giơ tay giật chiếc mũ La Đại Hải đang đội trên đầu, vứt vèo một cái vào không trung, rồi đưa mắt nhìn xem chiếc mũ rơi xuống chỗ nào, chỗ rơi xuống chính là cửa sinh, chỉ cần đi theo hướng đó sẽ tìm thấy con đường sống. La Đại Hải hoàn toàn mù tịt mấy món này, cậu ta chỉ tiếc đứt ruột chiếc mũ quân nhân, bèn hét to: “Thằng điên này! Sao lại mù quáng đi tin mấy chuyện quỷ thần mê tín dị đoan thời phong kiến thế hả?” Nói xong, cậu liền chạy bổ đi tìm chiếc mũ rơi trên mặt đất, nhưng trong nghĩa địa, chỗ nào cũng tối mù mù, cỏ lại mọc cao quá đầu gối, chiếc mũ bay từ trên trời rơi xuống đồng cỏ hoang rồi biến mất dạng, biết tìm ở đâu bây giờ? La Đại Hải cuống đến nỗi nước mũi chảy cả xuống miệng, không kiềm chế được liền mở miệng trách móc Tư Mã Khôi. Bất ngờ, từ nơi xa xăm nào đó trong đám cỏ vang lên những tiếng “soạt soạt”, cậu ta cứ nghĩ chồn tinh đang từ dưới mộ huyệt chui lên, bất giác sợ đứng tim, mồm há hốc, phệt đít ngã lăn xuống đất. Tư Mã Khôi không ngờ chiêu vứt mũ ấy lại có hiệu quả thật, trong lòng cũng cảm thấy kinh dị, miệng lầm bầm: “Lẽ nào sư tổ hiển linh chỉ đường cho mình thật?” Cậu kéo Hạ Cần ra phía sau lưng, giơ cao ngọn đèn dầu với ánh sáng bé bằng hạt đậu soi về phía phát ra tiếng động, thì nhìn thấy trong đám cỏ hoang bị sương đêm bủa vây, có một người đang đi đến. Người đó tay xách đèn kéo quân, miệng lẩm bẩm rất khẽ bài đồng dao mà ngày thường trẻ nhỏ vẫn hát: “Hôm nay thần tài giáng phàm trần, thiên hạ người người đều nhanh chân, tiền sạch cá độ Triệu thái gia, tiền bẩn cá cho Thập Bát gia, ngàn núi vạn sông một bông hoa, tiền sạch tiền bẩn đều là tiền, anh phát tài tôi xin hưởng chút, tôi ăn thịt chia nước cho anh...” Giọng hát vừa sai lời vừa sai nhạc, lệch cả nhịp điệu cứ vang lên càng ngày càng rõ trong đêm tối, mãi cho đến khi người đó đi tới gần, Tư Mã Khôi mới nhìn rõ, kẻ mới đến chính là Triệu Lão Biệt. Thì ra Triệu Lão Biệt đến chân cầu La Sư đúng giờ như đã hẹn, nhưng không thấy bóng dáng của Tư Mã Khôi và La Đại Hải đâu, lại phát hiện có ánh đèn lay động trong nghĩa địa, chẳng cần hỏi cũng đoán được chuyện gì đã xảy ra. Thế là lão vội vàng mò xuống tìm. Vừa gặp hội ba người Tư Mã Khôi, lão ta liền nói: “Đã bảo các cậu giờ Tý đợi mỗ ở dưới chân cầu La Sư, thế mà dám cả gan tự tiện xông vào khu nghĩa địa này, lại còn dẫn theo một ả nha đầu nữa. Các cậu muốn bỏ mạng à? Ngộ nhỡ rơi vào hố sâu trong mộ huyệt, bị bọn hồ ly lôi đi, thì cho dù các cậu có bản lĩnh tài giỏi thế nào đi nữa cùng đừng mơ trèo lên được!” Vị cứu tinh mà La Đại Hải đang mong chờ cuối cùng cũng xuất hiện, cậu ta mừng rỡ ra mặt, nhưng vẫn giả bộ cứng giọng: “Lão Triệu, ngay từ đầu sao lão chẳng bảo bọn tôi không được vào khu nghĩa địa này, đến bây giờ thì chớ giở cái giọng Tiểu Gia Cát Lượng lột khố, khai sáng cho mọi người nữa.” Triệu Lão Biệt chẳng thèm bận tâm đến mấy lời nhăng cuội của La Đại Hải, lão chỉ vào Hạ Cần rồi hỏi Tư Mã Khôi: “Con nhỏ này là đứa nào vậy?” Tư Mã Khôi nhìn thấy trên chiếc áo sơ mi mà Triệu Lão Biệt đang mặc có mấy mụn vá, phía sau lưng cũng có chiếc bóng đổ dài dưới ánh đèn, liền biết lão là người chứ không phải ma. Cậu bèn đem việc của Hạ Cần kể qua cho lão ta nghe một lượt. Lúc này, Hạ Cần đã biết Triệu Lão Biệt là bạn của Tư Mã Khôi và La Đại Hải, tuy rằng nhất thời chưa thể hoàn hồn nhưng vẫn giữ thái độ lịch sự cần có, cô nàng bước đến phía trước giơ tay ra bắt rồi chào hỏi: “Cháu chào Triệu lão sư phụ!” Triệu Lão Biệt không hề ỏ ê đến cô nàng, quay mặt sang Tư Mã Khôi cau mày tỏ ý khó chịu: “Mỗ đã nói trước không được dẫn theo người ngoài đến rồi mà, các cậu quên sao?” Tư Mã Khôi lái câu chuyện sang hướng khác: “Việc này để sau tính cũng chưa muộn.” Nói đoạn, cậu kể vắn tắt tình hình trước mắt cho lão ta nghe. Nơi này đúng là cửa tà, nếu có người đứng ở bờ sông khêu đèn lên tiếp ứng thì tốt biết mấy, nhưng bây giờ tất cả bốn người đều ở trong nghĩa địa này rồi, e rằng nếu không đợi đến khi trời sáng hoặc khi mây tan trăng sáng thì rất khó thoát thân. Triệu Lão Biệt nheo cặp mắt nhỏ ti hí nhìn bốn xung quanh rồi thấp giọng nói: “Thực ra, nếu phải đi gấp trong đêm ở nơi núi sâu rừng thẳm thì khó tránh khỏi sa vào hẻm ma ám, nhưng chỉ cần đừng để cô hồn dạ quỷ bám theo mình, thì chẳng có gì đáng ngại nữa cả. Có điều, đi đêm tuyệt đối không được im lặng, mà hãy làm theo cách người xưa truyền lại, đi trong hẻm ma thì phải hát hý văn, như vậy sẽ trấn áp được bách tà. Chúng ta vừa hát vừa hét để xông ra khỏi chỗ này nhé!” Hội Tư Mã Khôi nghe mấy câu này đều thấy mù mờ chẳng hiểu gì: “Chuyện này bọn tôi mới nghe nói đến lần đầu, đi lạc trong hẻm ma ám phải hát hý văn thật sao? Là vở ‘Đèn lồng đỏ’ hay vở ‘Núi Đỗ Quyên’? Triệu sư phụ có biết hát không?” Triệu Lão Biệt không lên tiếng trả lời mà chỉ dặn dò mấy câu: “Các cậu chỉ cần đi theo sau mỗ là được rồi, có điều phải nhớ tuyệt đối không được quay đầu nhìn lại đằng sau, phía thành trì đèn nến lập lòe đó, nếu không đừng mong thoát khỏi chỗ này.” Tư Mã Khôi không hiểu ý lão muốn ám chỉ điều gì, liền hỏi: “Sao lão lại nói vậy?” Triệu Lão Biệt nói: “Tòa thành đó trông giống như ánh lửa ma trơi, ẩn ẩn hiện hiện giữa đám cỏ úa khói tàn trong rừng cây tạp chủng. Nhìn nó như gần như xa, biến đổi quái dị khó lường, càng nhìn càng cảm thấy mơ hồ, bất luận thế nào chúng ta cũng không thể xác định phương hướng dựa vào vị trí của nó được, ngộ nhỡ bị sa chân vào bên trong, thì chỉ có mà vạn kiếp không thể siêu sinh.” Thì ra khúc hát lão đang ngâm nga trong miệng là bài “Điệu khúc ngâm” đã bị thất truyền từ lâu trong dân gian, tuy rằng tiếng hát khàn đục nhưng lại vang lên giữa đêm khuya, khiến nó càng mang âm hưởng hùng tâm tráng chí, hiên ngang khí phách. Không biết có phải bài hát ảnh hưởng đến tâm lý hay không, mà khi Triệu Lão Biệt vừa hắng giọng ngân nga mấy câu, cả hội Tư Mã Khôi đã không còn cảm thấy rùng rợn nữa, vội vàng lên dây cót tinh thần, vùi đầu nhắm thẳng về phía trước. Không ngờ, một lát sau cả hội đã thoát khỏi nghĩa địa và quay trở về chỗ chiếc cầu La Sư vỡ nát bị bỏ hoang. Thấy cuối cùng cũng thoát được ra ngoài, ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm. Đến lúc này, Tư Mã Khôi càng thêm khẳng định Triệu Lão Biệt chắc chắn là một kỳ nhân bí ẩn khó lường, đừng thấy lão ta ăn mặc lôi thôi quê mùa mà coi thường. Lão già này quả ứng với câu: “Nhìn mặt khó bắt hình dong, nước biển khó lòng đo đếm”. Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi liền bám theo xin thỉnh giáo là vừa rồi rốt cục đã xảy xa chuyện gì? Vì sao khi bị sa vào hẻm ma ám, chỉ cần hát hý văn là có thể tìm đường đi ra được? Triệu Lão Biệt dường như khi nãy đi gấp quá nên giờ ngồi phệt xuống đất nghỉ ngơi. Lão ta rút tẩu thuốc châm lửa hút, nhắm nghiền mắt tham lam rít hai hơi thật sâu vào phổi. Sau khi khoan khoái nhả từng ngụm khói lên trời, lão mới từ từ trả lời: “Vì sao ấy hả? Chỉ vì, đi đêm vạn dặm đều là họ Hổ!” Câu này có nghĩa là gì? Thì ra họ “Hổ” trong câu “đi đêm vạn dặm đều là họ Hổ” muốn ngầm ám chỉ đến sơn thần, khi lạc đường trong núi tất nhiên phải hát “Ngâm khúc qua núi”. La Đại Hải cũng chạy đến bên hỏi Triệu Lão Biệt là tòa thành trì rực rỡ ánh đèn nến ở phía xa rốt cục là nơi nào? Trong đó có chồn tinh không? Triệu Lão Biệt bảo nơi đó là “Thành hàm oan”, bên trong có hai loại ma “hàm oan” và “uẩn khuất”, ngoài ra còn có năm ngàn âm binh đầu trâu mặt ngựa đứng bên ngoài canh gác, người sống khó lòng tiếp cận. Sau đó, lão móc viên “Ngọc Định Phong” trong người ra, rồi nói chỉ cần có vật này trong tay, thì ta có thể liều chết mà xông vào thành thăm dò một chuyến. Các cậu có gan dám đi cùng mỗ không? Hải ngọng nghe nói trong đó không có chồn tinh liền lập tức hứng khởi trở lại, cậu ta nhướng nhướng mày, quệt ngang nước mũi dính trên mặt rồi nói: “Tôi chả bao giờ tin mấy cái món này. Chúng ta đều là người có hai chân, hai tay, lão cũng chẳng phải kẻ mọc nhiều hơn tôi một cái đầu, chỉ cần Triệu Lão Biệt lão dám đi thì cớ gì La Đại Hải tôi đây lại không dám hử?” Tuy rằng Triệu Lão Biệt quả thực có một vài bản lĩnh nhưng lão lại là kẻ bụng dạ hẹp hòi, nhìn thấy La Đại Hải phát ngôn ngông cuồng, thì chỉ cười nhạt, giơ tay trái ra nói: “Thực ra trong mắt mỗ, các cậu chẳng qua chỉ là đám trẻ ranh mới lớn, vì thế các cậu hãy khoan khoác lác! Cậu xem bàn tay trái của mỗ có mấy ngón? Chẳng phải nhiều hơn cậu một ngón tay hay sao? Nếu có bản lĩnh cậu thử mọc thêm một ngón nữa cho mỗ đây được mở rộng tầm mắt!” La Đại Hải thấy Triệu Lão Biệt đúng là có sáu ngón tay thật, đành cãi bừa: “Cái này thì có gì đáng phải đem ra khoe khoang! Lão đừng quên núi cao còn có núi cao hơn. Lão có sáu ngón tay thì không còn biết trời cao đất dày nữa phỏng? Thực chẳng dám giấu, La Đại Hải tôi đây lúc mới sinh cũng có đến ba cánh tay lận, nhưng ông già tôi hưởng ứng khẩu hiệu vĩ đại của Mao chủ tịch, cần kiệm liêm chính làm cách mạng, ông không muốn lãng phí vải vóc để may thêm một cánh tay áo nữa cho tôi, bèn đè tôi ra lấy dao thái rau chặt phéng đi một cánh, bây giờ cánh tay đó vẫn để ngâm muối ở trong vại dưa nhà tôi đấy, không tin lão cứ theo tôi về nhà mà xem.” Lúc này Triệu Lão Biệt mới phát hiện là loại người như Hải ngọng chẳng thể nói bằng lý được, đành phải ngậm miệng không tiếp lời. Lão ta quay đầu sang nhìn Tư Mã Khôi và Hạ Cần, hỏi hai người bây giờ định thế nào. Cũng giống như Hải ngọng, Tư Mã Khôi không tin vào mấy chuyện ma quỷ rùng rợn của Triệu Lão Biệt, trên thế giới này làm gì có chuyện tồn tại “Thành hàm oan”, nên cậu cũng quyết định phải vào đó một chuyến để nhìn xem rốt cục nó là cái gì. Hạ Cần thì vì không dám ở lại đây một mình, nên một lần nữa cũng đành phải lựa chọn đi theo bọn họ. Bốn người từ lòng sông đi vòng qua khu nghĩa địa rộng lớn, rồi lại quanh co mấy vòng rất xa. Nói ra cũng lạ, lần này cùng với sự di chuyển của bước chân, tòa thành trì lập lòe ánh lửa ma quỷ cách họ càng lúc càng gần. Đợi khi đến thật gần, Triệu Lão Biệt đột nhiên dừng lại, thổi tắt đèn kéo quân và lấy tay ra dấu, bảo hội Tư Mã Khôi quỳ xuống, phủ phục trong ổ cỏ, lặng lẽ nhìn về phía trước. Tư Mã Khôi dụi dụi mắt, định thần nhìn kỹ lại, chỉ thấy trong đám mộ hoang cỏ dại có từng quầng lửa liên tục nhấp nháy lập lòe, thì ra đó là đom đóm, số lượng nhiều không kể xiết, chúng lập bầy lập đàn bay lượn giữa cánh đồng hoang, nhung nhúc kết bè với nhau tạo thành bức bình phong tường thành, chỉ thấy ánh sáng xanh ngập trời, biến hóa khôn lường, từ đằng xa nhìn lại quả đúng là một kỳ quan độc nhất vô nhị. Có thể nói không ngoa rằng nó chẳng khác nào một tòa thành lửa di động. Hồi thứ năm ĐOM ĐÓM Bầy đom đóm kết bầy kết đàn bay lượn đầy trời, ánh sáng mờ ảo tụ hợp lại, khiến “Thành hàm oan” bị chôn sâu dưới lòng đất, một lần nữa được tái hiện giữa nhân gian. Ba người nấp sau lưng Triệu Lão Biệt cứ tròn mắt nhìn mãi cho đến khi hoa hết cả mắt lên, lúc này cả hội mới biết “thành đom đóm” mà lúc trước họ nhìn thấy từ đằng xa chỗ bãi cỏ hoang, hóa ra lại là hàng triệu con đom đóm tập hợp lại mà thành. Nếu không phải đêm nay tất cả đều được tận mắt chứng kiến, thì cũng khó lòng tưởng tượng được trên thế gian này lại có kì quan độc đáo như vậy. Tư Mã Khôi nhớ lại việc từng nghe người ta nói câu “cỏ mục hóa sâu”, đom đóm chắc cũng là loài vật được hóa thân từ cỏ dại mục nát. Nếu chúng tập hợp lại thành đàn lớn ở chỗ nào thì chỗ đó âm khí ngưng tụ dày đặc, bọn chúng hễ ngửi thấy mùi dương khí tỏa ra từ người sống thì lập tức rút lui, và “thành đom đóm” cũng theo đó mà từ từ di chuyển. Lúc trước vì ba người hội Tư Mã Khôi lấy ánh sáng đom đóm phía xa làm vật tham chiếu, nên họ mới bị lạc đường trong nghĩa địa. Bất luận bạn đi nhanh hay đi chậm, tiến hay lui, sớm muộn gì cũng sẽ bị mất cảm giác phương hướng, càng đi càng như sa vào mê cung chẳng khác nào bước chân vào “hẻm ma ám”. Nhưng vì sao bây giờ bọn họ lại có thể ở cách “thành đom đóm” gần đến thế? Tư Mã Khôi thầm băn khoăn một lúc, rồi cuối cùng cũng hiểu ra nguyên nhân. Chắc chắn là do âm khí tỏa ra từ viên “Ngọc Định Phong” rất nặng, nó đủ sức che lấp và lấn át sinh khí toát ra từ cơ thể bốn người sống. Có điều, đến lúc này cậu vẫn không thể lý giải nổi vì sao Triệu Lão Biệt phải tìm đủ mọi cách để tiếp cận “thành đóm đóm”. Đúng lúc đó chợt thấy Triệu Lão Biệt cố tình hạ giọng thật thấp, thì thầm với ba người Tư Mã Khôi: “Bọn đom đóm giống như ánh lửa ma trơi kia đều từ xác chết thối rữa hoặc cỏ khô mục nát hóa thành. Mỗ trộm nghĩ, thành trì được tạo ra bởi vô số con đom đóm như thế này hẳn không phải là cảnh tượng mà người ở trần gian có thể nhìn thấy. Chuyện này đủ sức chứng minh phía dưới lòng đất chắc chắn có chôn giấu một vật mà âm khí nặng nề khồng thể tưởng tượng được, chỉ có nó mới đủ sức khiến lũ đom đóm kết bầy kết đàn tụ tập lại với số lượng lớn khủng khiếp như vậy. Hơn nữa, lũ đó chỉ bay thêm vào chứ chẳng thấy con nào bay đi. Cả đời Triệu Lão Biệt mỗ đây bắt đầu đi tìm từ Quan Đông tìm tới Quan Trung, rồi lại tìm suốt mấy tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây. Gót chân lão đã in khắp nửa vùng trời, hao tổn không biết bao nhiêu thời gian và tâm huyết, cũng chính là để tìm kiếm vật này đây. Tiếc thay một bàn tay chẳng thể phát ra tiếng, bây giờ được các cậu sát cánh tương trợ như thế này thì còn gì bằng. Sau khi xong việc, mỗ nhất định sẽ báo đáp hậu hĩnh.” Thì ra Triệu Lão Biệt là kẻ vô cùng tinh thông cổ thuật, ngoài bản lĩnh biệt bảo ra, lão còn được kỳ nhân truyền thụ cho Liễu Trang tướng pháp[11]vô cùng thâm hậu. Những bí thuật như bát quái ngũ hành, kỳ môn tuần giáp... lão đều thuộc làu như lòng bàn tay. Thường ngày, lão vẫn đi khắp thôn cùng ngõ tận để tìm kiếm bảo vật quý hiếm, vô tình được biết ở gần mộ địa dưới chân cầu La Sư có “thành đom đóm”, tòa thành này biến hóa khôn lường, và chỉ xuất hiện giữa đêm hạ chí vào những năm đặc biệt. Nghe nói những con đom đóm này đều được hóa thân từ lửa ma trơi hoặc lân quang trong “thành hàm oan”. Tòa thành lửa như bóng ma ấy ẩn hiện bất định, không phải lúc nào cũng có thể nhìn thấy, mà chỉ trong những năm liên tiếp xảy ra trộm cướp, thiên tai, khi cánh cửa âm tào địa phủ mở rộng ra để thu nạp người vào bên trong thì nó mới xuất hiện; hơn nữa sự xuất hiện của nó chẳng mang theo bất kỳ điềm báo tốt lành nào. Triệu Lão Biệt suy đoán ở gần “thành đom đóm” nhất định có chôn giấu một vật gì đó rất kỳ dị; không những thế vật đó còn hút cạn cả tinh hoa nhật nguyệt, linh khí trời đất, khiến cả dải long mạch đều trở nên khô cằn. Vật đó chắc chắn phải là vật vô cùng khác thường. Chỉ có cách kiếm cơ hội dò tìm tông tích, làm rõ xem căn nguyên của “thành đom đóm” rốt cục nằm ở chỗ nào, bởi như vậy mới có thể sử dụng bí thuật biệt bảo. Thành phố Trường Sa diện tích lên đến cả trăm dặm, chỗ nào cũng là đất phong thủy “Chín rồng hội tụ”, ở đây tất cả có chín dải long mạch, chín dải đó hình thành nên nhiều loại địa thế khác nhau, độ tốt xấu cũng không nơi nào giống nơi nào. Dải đất quanh khu vực này mộ cổ đặc biệt nhiều, mộ cũ có thể có từ thời Xuân Thu chiến quốc, mộ mới cũng phải bắt đầu từ thời Minh, thời Thanh, ở đó mai táng vô số bậc vương hầu tướng quân và những người quyền cao chức trọng. Thông qua địa hình nơi phát hiện ra mộ cổ, ta có thể đại khái phán đoán: những người được chôn ở nơi có địa thế bằng phẳng, mộ phần thường sơ sài qua loa, ngược lại những người được chôn ở nơi sơn cùng thủy tận, thì mộ phận lại vô cùng nguy nga, tráng lệ. Có điều Triệu Lão Biệt không phải dân trộm mộ, thứ mà lão muốn tìm là dải long mạch nghèo nàn, cũng chính là dải đất kéo dài từ Hắc Ốc hoang phế cho đến nghĩa địa La Sư, bởi “thành đom đóm” chỉ xuất hiện ở xung quanh khu vực này. Từ trước đến giờ, lão đã tiến hành thăm dò, khảo sát rất nhiều lần, cuối cùng cũng đã phát hiện ra nghĩa địa La Sư là vùng đất hoang có vô số mộ phần nằm san sát liền kề nhau, trong đó có rất nhiều ngôi mộ cổ, tất cả là những mộ huyệt chôn người chết từ những năm trước thời Dân quốc, mà đa số mộ phần ở đây đều không có bia mộ, địa hình nhấp nhô bị cây dại cỏ hoang cao ngút ngàn che phủ. Chồn hoang rất thích náu mình bên dưới mộ huyệt âm u lạnh lẽo, vì thế phía dưới mộ cỏ, đâu đâu cũng toàn là hang hốc do chồn hoang đào bới. Những hang ổ và hố mộ này có độ nông sâu rất khác nhau, giăng mắc chi chít như bàn cờ, bên ngoài lại bị cỏ hoang che khuất, nên dường như chẳng ai phát hiện ra hiểm họa ở ngầm sâu dưới lòng đất. Nếu ai đó đi ngang qua, lỡ rủi thụt chân xuống hố, cho dù may mắn không bị gãy chân, nhưng đợi đến khi khó khăn lắm mới rút được ra ngoài thì chuột đồng, chồn hoang ẩn trốn trong hang cũng đã gặm hết sạch da thịt, giơ cẳng lên nhìn, chỉ thấy lòng bàn chân trơ lại đoạn xương trăng trắng, lấp ló lộ ra giữa đám máu nhầy nhụa. Nơi này cho dù đi giữa thanh thiên bạch nhật cũng rất dễ bị lạc đường, nói chi đến “thành đom đóm” lại chỉ hiện hình vào giữa đêm khuya. Không những vậy, chỉ cần người sống tiến đến gần, nó lập tức di chuyển sang chỗ khác, vì thế muốn truy tìm tông tích của nó cũng đâu phải chuyện dễ dàng. Nếu ai mù quáng đi đào bới lung tung giữa khu nghĩa địa thì chẳng khác nào mò kim đáy bể. Trên đời này vạn việc thành bại đều nằm ở chữ duyên, duyên chính là cơ hội, vì thế còn gọi là “cơ duyên”. Cơ duyên là thứ mà chỉ có thể gặp, chứ không thể cầu. Triệu Lão Biệt tìm kiếm khắp nơi trong nhiều năm ròng, vắt kiệt tâm trí, cuối cùng cũng tìm thấy viên “Ngọc Định Phong” trong chiếc bàn mục ở Hắc Ốc. Có thể nói, lão ta đã chuẩn bị mọi sự đầy đủ, chỉ còn chờ thời cơ. Bây giờ, điều lão đang chờ đợi chính là thời cơ tiếp cận “thành đom đóm”. Triệu Lão Biệt dự đoán vật mà mình đang muốn tìm hẳn là một vật khá lớn, muốn vận chuyển nó từ mộ huyệt dưới lòng đất về thành phố ắt không phải điều dễ. Bởi vậy, lão liền tìm cách lôi kéo hội Tư Mã Khôi đến giúp sức, đồng thời còn hứa thưởng lớn cho bọn họ. Nhưng chiếu theo lệ cũ, trước khi sự việc thành công thì tuyệt đối không cho những người đi theo giúp đỡ được biết những chi tiết cụ thể. Tư Mã Khôi và La Đại Hải vốn dĩ chỉ định đi theo để tìm hiểu rõ ngọn ngành, giờ tự dưng lại nhìn thấy cái lợi trước mắt, đương nhiên đều nhận lời. Hạ Cần biết rõ cái cậu Tư Mã Khôi này một khi đã quyết định làm việc gì, thì cho dù Lão Thiên Vương có muốn ngăn cản cũng không thể ngàn nổi. Việc đã đến nước chỉ có tiến mà không có lùi, nên cô nàng đành đồng ý đi theo giúp sức. Triệu Lão Biệt vẫn có đôi chút chưa yên tâm, liền nhỏ giọng nói với Tư Mã Khôi: “Chúng ta cứ mất lòng trước được lòng sau mà đánh bài ngửa với nhau thì hơn, sau khi sự việc thành công, chỉ cần những thứ Triệu Lão Biệt mỗ đây có, cái gì cũng đều có thể cho các cậu, nhưng chỉ duy vật mà đêm nay mỗ tìm thấy thì không thể được.” Tư Mã Khôi đáp giọng bất cần: “Lão phải nhìn xem Tư Mã Khôi này là ai chứ hả, chí ít tôi cũng là kẻ xuất thân từ lục lâm. Ngày trước trong gia phủ nhà tôi, có loại ngọc quý, bảo vật nào mà không có hả? Ngay đến sợi dây thừng buộc lừa ở chuồng gia súc phía sau vườn cũng là sợi dây thừng gai mà Dương Quý Phi dùng để treo cổ tự vẫn ở dốc Mã Ngôi, còn giấy dán tường đều là bản đồ địa lý càn khôn của Bắc Tống. Lão tưởng tôi thèm cái của lão đào được ở nơi rừng hoang núi thẳm này chắc?” Triệu Lão Biệt không chỉ mắt híp mà tâm địa càng nhỏ hẹp hơn. Lão ta lại thường lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử, từ bụng ta mà suy ra bụng người, nên khi nghe xong mấy lời của Tư Mã Khôi, lão vẫn chưa dám tin, liền gặng hỏi lại: “Lời này có thật không vậy?” Tư Mã Khôi chửi thầm trong bụng: “Ông mày là hạng người nào mà lời nói ra còn không đáng tin hử?” nghĩ vậy xong liền cất lời thề độc: “Triều đình có vương pháp, giang hồ có luật lệ, kẻ vô lại làm chuyện trái với lương tâm, khó tìm chốn dung thân trong thiên hạ. Có mười tám vị la hán sư tổ ở trên trời chứng giám, nếu như tôi nói nửa lời gian dối, sẽ chết không có chỗ chôn thây.” Triệu Lão Biệt nghe xong liền gật đầu: “Lời thề như thế là đủ trọng lượng rồi, xem ra Tư Mã đầu lĩnh quả nhiên không phải là người chỉ biết nói suông. Bây giờ thời gian không còn sớm nữa, chúng ta phải mau chóng bắt tay hành sự mới kịp.” Nói xong, lão liền dẫn ba người Tư Mã Khôi mai phục trong lùm cỏ, khẽ khàng áp sát “thành đom đóm” đang không ngừng di chuyển giữa cánh đồng cỏ hoang.