🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Mật Mã Tây Tạng – Tập 7 - Hà Mã Ebooks Nhóm Zalo Trác Mộc Cường Ba và đoàn thám hiểm đã ký vào di chúc, lần nữa quyết theo dấu cổ nhân hướng về Thánh địa. Họ đã đi trong bóng đêm mịt mùng của dòng U Minh hà hung dữ khôn lường, vượt đại dương cổ mênh mông tiến vào vùng đất cách biệt hoàn toàn với thế giới, tưởng chừng chỉ tồn tại trong thần thoại lưu truyền từ thời tối cổ: Shangri-la. Shangri-la - Thánh địa, Shangri-la diễm lệ lẩn khuất trong mây, Shangri-la - nơi thời-không dừng lại. Và ở nơi đây, cuộc đối đầu nào mới là tàn khốc nhất? Hà Mã sinh ra người Tứ Xuyên, đã từng sống 10 năm ở Tây Tạng. Anh là người thích thích thám hiểm, từng một mình vượt qua Khả Khả Tây Lý, rừng rậm nguyên thủy Xi Xuang Ba Na – là những khu vực hoang vu và hiểm nguy chết người tại Tây Tạng. Kiến thức, kinh nghiệm và những ký ức anh thu được từ những chuyến đi đó cùng với lòng say mê thám hiểm và khám phá văn hóa, một tài năng hư cấu xuất sắc đã giúp Hà Mã sáng tác nên bộ sách Mật mã Tây Tạng . “Không có cuốn truyền kỳ hiện đại nào về Tây Tạng huyền hoặc hơn Mật mã Tây Tạng.” – Châu Ái Minh, Tiến sĩ văn hóa dân tộc Tạng “Mật mã Tây Tạng là bộ kỳ thư, đi tìm những bí mật lịch sử của vùng đất thiêng bằng góc nhìn thám hiểm. Ở đó, Phật giáo Tạng truyền, ngao Tạng, các truyền thuyết dân gian, các kỳ quan trên đất Tạng đều tụ hội thật hoàn mỹ.” – Ba Châu, Sở trưởng Sở du lịch Tây Tạng CHƯƠNG 46: Đại Thiên Luân kinh: Pháp điển tối cao của Mật tông Tây Tạng Pháp sư Á La điềm đạm nói: “Bộ kinh văn tập hợp các đại thành tựu của Mật tông này kể từ ngày đầu tiên xuất hiện trên thế gian, đã toát lên một sự thần bí rồi . Nhân vật đại diện cho giai đoạn Hậu Hoằng kỳ của Tạng truyền Phật giáo, A Để Hiệp Đại sư vào Tây Tạng lập đàn giảng kinh, ngay khi bắt đầu giảng về Đại Thiên Luân kinh đã không ngừng nhấn mạnh, đây là một bộ kinh thư được truyền ra từ Tây Tạng, ngài chẳng qua chỉ là người mang bộ kinh văn này trở về mà thôi. Thế nhưng, không có ai biết bộ kinh thư này là tác phẩm của ai, được viết từ thời kỳ nào. Đồng thời , nội dung bao la vạn tượng trong kinh thư càng khiến người ta không sao đoán nổi, phải là một con người như thế nào mới có đại trí tuệ, có học thức uyên tâm như vậy. Giờ đây, nghĩ kỹ lại, e rằng cũng chỉ có bọn họ mới có năng lực ấy mà thôi!” Số trang trên bản đồ Giáo sư Phương Tân nói: “Sao lại không thể? Cậu có biết tổ chức xã hội của loài sói như thế nào không? Một con sói con, ngay sau khi dứt sữa mẹ đã được học cách hợp tác với bầy đàn săn bắt con mồi, học cách nhận biết đẳng cấp và địa vị của mình trong đoàn thể, học cách phân biệt tình trạng sức khỏe của vật săn, bảo vệ lãnh địa của mình... Ai dạy chúng? Chẳng phải là sói già dạy sói con hay sao. Theo cách nói trong văn bản này, chắc là có khoảng trăm con ngao cùng sống chung một chỗ, bọn chúng chỉ cần coi những kỹ năng ấy là các kỹ xảo tối cần thiết để sinh tồn và săn bắn, truyền lại cho đời sau là được rồi. Bởi vậy, ngao có thể huấn luyện ngao, ngao có thể dạy dỗ ngao, không cần con người can thiệp vào làm gì. Vấn đề là tại sao quân Đức lại thu thập những tư liệu này? Lẽ nào, trong Thế chiến II quân Đức cũng có ý định phát triển thú chiến hay sao?” Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Chuyện này...” Giáo sư Phương Tân tiếp: “Chuyện này cứ tạm thời gác lại đã. Nào, kể tôi nghe lần này đến thôn Công Bố mọi người phát hiện được điều gì. Đã tìm được lối vào chưa?” Trương Lập nói: “Nào chỉ có vậy, chúng tôi còn nghiệm chứng được bản đồ, lại tìm thấy cả con thuyền để đi dưới sông ngầm nữa cơ!” “Thuyền gì?” giáo sư Phương Tân hỏi. Nhạc Dương liền miêu tả vắn tắt về con thuyền da trâu họ trông thấy cho giáo sư Phương Tân nghe, rồi lấy ảnh trong máy tính ra cho ông xem. Giáo sư xem xong, nghiêm mặt gật đầu nói: “Xem ra là vậy rồi, đây không phải là thuyền da trâu đâu.” “Hả?” Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc. “Chẳng phải Tây Tạng chúng ta chỉ có thuyền da trâu thôi sao?” Giáo sư Phương Tân lắc đầu: “Cậu coi thường kỹ thuật của Tây Tạng quá, Cường Ba à. Có điều, cũng khó trách cậu, đến tận ngày nay, rất nhiều thành tựu của văn minh Tây Tạng cổ còn chưa được phát hiện. Vì sông trên cao nguyên chảy rất xiết, hai bờ toàn núi cao chót vót, nên chỉ có thuyền da trâu là truyền lại được thôi. Loại thuyền lớn như các cậu miêu tả, kỳ thực cũng có chép trong lịch sử Thổ Phồn rồi, người xưa gọi là thuyền rắn. Thời cổ đại, ở Tây Tạng có hai loại thuyền thường được sử dụng, một là loại thuyền lớn bằng gỗ, gọi là thuyền đầu ngựa, trước sau đã trải qua ba thời kỳ là thuyền đáy hình vuông, đáy nhọn và đáy hình thang, chở được từ hai mươi đến năm mươi người. Tương truyền, năm xưa Liên Hoa Sinh đại sư đã ngồi chính loại thuyền đầu ngựa này để tới Tây Tạng; một loại nữa là thuyền da trâu vẫn còn được sử dụng đến tận bây giờ, ban đầu, đáy thuyền da trâu vốn hình tròn, rất giống với loại thuyền đụng chúng ta vẫn hay thấy trong các công viên nước ngày nay, về sau mới phát triển thành hình thang như bây giờ. Ngoài hai loại thuyền được sử dụng nhiều nhất này ra, còn có thuyền độc mộc, thuyền máng, tùy theo từng khu vực khác nhau, từng hoàn cảnh địa lý khác nhau mà có chút sửa đổi hình dáng cho thích hợp. Có điều, những loại thuyền này ít nhiều đều có một số khiếm khuyết.” Giáo sư Phương Tân vẽ lên mặt bàn một con thuyền hình vuông, nói: “Lấy thuyền đầu ngựa làm ví dụ nhé, tải trọng thuyền lớn, chở được nhiều người, thích hợp với hành trình dài, nhưng sông ngòi ở hầu hết các khu vực thuộc Tây Tạng hẹp, độ dốc cao, thuyền đầu ngựa rất dễ va phải đá ngầm mà đắm thuyền; còn thuyền da trâu thì sao, nhẹ nhàng lại chịu lực tốt, không sợ va chạm, dẫu có gặp phải dòng nước xiết mấy cũng vượt qua được, vì vậy đến ngày nay vẫn còn được sử dụng, nhưng lòng thuyền quá nhỏ, thông thường chỉ chứa được ba tới năm người, hơn nữa lại bất lợi khi di chuyển ở cự ly dài, cùng lắm chỉ có thể dùng để qua sông mà thôi. Vì thế, về sau người Tạng đã phát minh ra loại thuyền kết hợp ưu điểm của cả thuyền đầu ngựa và thuyền da trâu, vừa nhẹ nhàng linh hoạt, chịu lực tốt lại có thể chở được nhiều người, gọi là thuyền rắn. Khung thuyền kết cấu rẻ quạt, liên kết bằng các mấu, rất giống cột sống của động vật có xương sống. Thân thuyền hình thoi, hẹp dài mà linh động, cả con thuyền trông giống như một con mãng xà khổng lồ, vì vậy mới có tên là thuyền rắn, hay thuyền hình rắn, hoặc cũng có nơi gọi là thuyền rồng, nhưng so với thuyền rồng trong nội địa thì khác biệt rất nhiều.” Nhạc Dương kinh ngạc nói: “Giáo sư, bác nghiên cứu về thuyền kỹ lưỡng như thế từ lúc nào vậy?” Giáo sư Phương Tân điềm đạm mỉm cười, nói: “Từ sau khi ở Đảo Huyền Không tự trở về, nghe Cường Ba nhắc tới những bức bích họa đó, tôi đã bắt đầu lưu ý đến các loại thuyền lớn từng xuất hiện ở Tây Tạng thời xưa, cũng đã tra ra được một ít tài liệu.” Ông ngưng lại giây lát, đoạn tiếp: “Có điều, các tư liệu về thuyền rắn lại là của pháp sư Tháp Tây cung cấp, trong các tư liệu lịch sử hầu như không thấy nhắc đến. Hơn nữa, lúc đó tôi đã từng ngờ vực, lấy đâu ra một tấm da lớn như thế để chế tạo con thuyền dài tới mức đó, tư liệu mọi người mang về đã cho tôi chứng cứ xác thực về điều đó rồi.” Pháp sư Á La và Trương Lập lấy các tư liệu ra, Nhạc Dương chỉ tay vào con thuyền hình rắn nói: “Giờ đã giải quyết một phần vấn đề rồi, nhưng lại nảy sinh ra vấn đề mới.” Giáo sư Phương Tân liền hỏi: “Vấn đề mới gì?” Nhạc Dương nói: “Vấn đề chủ yếu bây giờ là con thuyền đó đã ở dưới lòng đất hơn ba năm, không biết có còn dùng được hay không nữa. Ngoài ra, còn một vấn đề mà tôi nghĩ mãi cũng không sao hiểu nổi, người điên đó làm sao có thể một mình điều khiển cả con thuyền lớn như thế từ trong bóng đêm trở về thế giới bên ngoài được. Nếu bảo là có khoảng chục người, cộng với đầy đủ thức ăn nước uống thì còn có lý.” Giáo sư Phương Tân nói: “Cũng có khả năng là có mười mấy người, chỉ có điều, đến cuối cùng chỉ còn một mình anh ta sống sót.” Nhạc Dương lại nói: “Vậy còn thức ăn thì sao? Cả mười mấy con người thì cũng phải để lại chút dấu vết gì đó trên thuyền chứ?” Giáo sư Phương Tân nói: “Dưới sông ngầm đó có các vi sinh vật, đã ba năm trôi qua, đầu mối gì thì cũng bị các vi sinh vật trong nước phân giải hết cả rồi. Nhưng tại sao con thuyền ấy lại không bị mục nát gì cả?” Nhạc Dương lấy mẫu da và vụn gỗ họ thu thập trên thuyền cho giáo sư xem. Giáo sư Phương Tân mỉm cười, xem ra lần này lại phải đi làm phiền đến mấy ông bạn cũ chuyên nghiên cứu hệ thực vật và động vật rồi. Pháp sư Á La và Trương Lập đã chuyển hết các tư liệu thu thập được vào máy tính. Giáo sư xem xét rất kỹ lưỡng một lượt, đột nhiên nói: “Ừm, tôi có thể nhờ anh Châu xem giúp, anh ta chuyên nghiên cứu các hang động. Đợi chút nhé...” Nói đoạn, ông gọi một cú điện thoại, rồi kết nối máy tính vào mạng, gửi hình ảnh qua cho người bạn họ Châu. Chẳng bao lâu sau, hình ảnh webcam của người bạn đã hiện lên trên màn hình máy tính. Chỉ thấy một ông già chừng trên dưới sáu mươi tuổi đang kích động thốt lên: “Phương Tân, anh kiếm ở đâu ra những đoạn phim tài liệu này thế?” Giáo sư Phương Tân đáp: “Chuyện này để sau hãy nói, giờ tôi đang muốn biết tình hình đại thể của loại hang động này. Theo những gì anh quan sát được, bên trong hang động kiểu thế này sẽ như thế nào, cố gắng nói cho đơn giản một chút thôi nhé, anh biết là tôi không nghiên cứu món này rồi mà.” Ông già họ Châu đáp: “Được rồi, trước mắt vẫn chưa thể phán đoán đây rốt cuộc là một hang động nguyên sinh cỡ siêu lớn hay là một động nham thạch hình thành do nước bào mòn xâm thực. Nếu là hang động nguyên sinh, bên trong chính là đường hầm hình thành từ dung nham. Nếu tạm thời phán đoán sơ bộ rằng đây là một loại đá biến chất nào đó, vậy thì đoạn phim này có lẽ là được quay ở một khu vực đã từng xảy ra các hoạt động tạo sơn. Lối vào nhìn có vẻ rất kỳ quái, tuyệt đối không phải do hang động sụt lở tạo ra, mà giống đường hầm nhân tạo hơn. Nhưng bất kể nói thế nào, đây chắc chắn là một hang động dạng phễu nước, không thể sai được. Chúng ta không thể coi đoạn đường hầm dẫn vào này là mạch nước ngầm được, vì nó có cả mặt nước, bên dưới là sông ngầm. Kỳ lạ lắm phải không? Tại sao tôi lại cho rằng nó là hang động nguyên sinh, ấy là bởi tôi không nhìn thấy vết tích nước chảy trong hang, cũng không phát hiện ra có đá chảy(1) ở đỉnh động hay trên tường...” “Thôi được rồi,” giáo sư Phương Tân ngắt lời, “Lão Châu ơi là lão Châu... anh nói gì mà tôi nghe chẳng hiểu câu nào hết cả vậy. Thế này đi, tôi muốn hỏi anh mấy vấn đề, anh có thể dùng kiến thức chuyên môn của mình nhưng trả lời một cách đơn giản thôi, được không?” Ông già họ Chu kia ngạc nhiên hỏi: “Hả? Tôi nói vậy vẫn còn chưa đơn giản hay sao?” Giáo sư Phương Tân lắc đầu: “Ừm, có lẽ anh cảm thấy vậy là đơn giản lắm rồi, hiềm nỗi có rất nhiều từ chúng tôi nghe chẳng hiểu gì cả, tôi chỉ muốn tìm hiểu một chút, ở loại hang động như thế này, có khả năng có một hệ thống nước ngầm rất lớn dưới lòng đất hay không?” Ông lão họ Chu gật đầu: “Có chứ, rất có khả năng ấy! Nhưng không nên gọi là hệ thống nước ngầm, mà phải gọi là hệ thống hang động dưới nước. Nếu là hang động nguyên sinh, về sau mới bị dòng nước chảy vào, thì hoàn toàn có khả năng đó là một hang động dưới nước vô cùng lớn, thậm chí quy mô có thể vượt qua cả hang Mammoth(2) ở Mỹ hoặc cái động gì mà gần đây mới phát hiện ở Mexico ấy.” Giáo sư Phương Tân lại nói: “Vậy nham thể ở đó có thể xuất hiện sụt lún hay gì gì đó tương tự không?” Ông già họ Chu nói: “Phải xem độ cao của nham tầng(3) đã, nếu nham tầng cao chừng hai ba chục mét thì về cơ bản không cần phải lo mấy vấn đề ấy, vì nếu là đá núi lửa biến chất, độ cứng của nó thực sự là vượt ngoài tầm tưởng tượng của anh đấy.” Giáo sư Phương Tân nói: “Tôi biết hệ thống nước ngầm thường có phân tầng, anh xem thử coi hệ thống hang động dưới nước này có khả năng xuất hiện thác ngầm hoặc là khoảng đứt gãy gì không?” Ông già họ Chu do dự giây lát, như đang xem lại đoạn phim tài liệu, sau đó mới trả lời: “Tôi không dám khẳng định, còn phải hỏi một số đồng nghiệp, và tra cứu thêm rất nhiều tài liệu khác nữa mới có thể cho anh một câu trả lời chắc chắn được. Có điều, nhìn đường hầm này thì chắc khả năng đột nhiên xuất hiện đoạn đứt gãy không lớn lắm. Song các khe hẹp hình thành bởi các đường dốc đứng thì có thể có. Ngoài ra, những bình đài dạng bậc thang chênh nhau hai ba mét cũng có khả năng xuất hiện. Dòng nước này cũng thuộc loại chảy xiết, có thể nói là cực kỳ nguy hiểm đấy. Phương Tân, anh hỏi tôi những điều này, lẽ nào là có người định đi sâu nữa vào trong hang động này để thăm dò?” Giáo sư Phương Tân chỉ cười không đáp. Ông già họ Chu biến sắc mặt thốt lên: “Người nào mà táo gan thế hả? Có điều, nói đi cũng phải nói lại, cách họ đặt nguồn sáng ở các điểm chốt dưới nước rất là chuyên nghiệp! Phương Tân, chuyện này mà làm thì nhất định phải gọi tôi đấy nhé!” Giáo sư Phương Tân không trả lời thẳng, chỉ mỉm cười nói: “Có cơ hội, chắc chắn là có cơ hội mà.” Kết thúc cuộc đối thoại với ông bạn già họ Chu của mình, giáo sư Phương Tân quay sang nhìn những người còn lại nói: “Những gì chuyên gia về hang động nói, mọi người đã nghe cả rồi đấy. Trên dòng sông ngầm này có lẽ sẽ không xuất hiện thác nước, nhưng đoạn nước xiết mà mọi người đã có trải nghiệm thì chắc chắn là sẽ còn nữa, mà không chỉ một hai chỗ thôi đâu.” Pháp sư Á La nói: “Nếu tỉ lệ thời gian chính xác, chúng ta cần ba ngày mới có thể hoàn thành được quãng đường lênh đênh ở dòng sông ngầm ấy, các thành viên cũ như chúng ta chắc là kiên trì cầm cự được, có điều, những đội viên mới...” Nhạc Dương nói: “Cần phải lập tức báo với giáo quan, cô ấy có thể soạn một số bài huấn luyện định hướng đặc biệt. Còn nhớ năm đó, phải đi chấp hành nhiệm vụ trinh sát thuộc một lĩnh vực xưa nay chúng tôi chưa bao giờ biết đến, giáo quan đã dựa vào tình hình cụ thể mà xây dựng một kế hoạch, chỉ mất một tuần, đã huấn luyện đám tân binh chúng tôi đủ năng lực thực hiệm nhiệm vụ lần đó. Tôi sẽ lập tức đi liên lạc với cô ấy luôn đây.” Giáo sư Phương Tân gật đầu nói: “Vậy thì tốt, vừa hay tôi cũng cần một ít thời gian để tìm kiếm chuyên gia, nghiên cứu mấy thứ vỏ cây, tằm ngọc mà mọi người mang về nữa.” Trương Lập nói: “Tôi cũng cần thời gian xem các trang bị mới có chỗ nào cần điều chỉnh gì không, ngoài ra còn phải kiểm tra con thuyền đó nữa.” Giáo sư Phương Tân lại nói tiếp: “Vậy thì tốt, mọi người cố gắng tranh thủ khoảng thời gian cuối cùng xử lý hết các công việc đang còn tồn đọng. Chỉ có chuẩn bị thật tốt, thật đầy đủ, mới có thể đảm bảo cho lần hành động này được thành công!” Nói đoạn, ông ngoảnh mặt sang nhìn Trác Mộc Cường Ba, hỏi: “Cường Ba à, sức khỏe cậu ra sao rồi? Khoảng thời gian này có cảm giác gì khác thường không?” Trác Mộc Cường Ba lắc đầu đáp: “Không có, tất cả đều rất ổn.” Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Vậy thì tốt, lần này cậu đi thôn Công Bố, tôi vẫn hơi lo sẽ xảy ra tình trạng giống như ở bên Nga vậy.” “Hả?” pháp sư Á La hỏi, “chuyện là thế nào? Cường Ba thiếu gia có thể kể lại được không?” Trác Mộc Cường Ba liền kể lại việc thân thể đột nhiên tràn trề sức lực, rồi sau đó lại đột nhiên không thể nhúc nhích cho pháp sư nghe, cuối cùng gã bảo, đã đem chuyện này đi hỏi Lữ Cánh Nam, và cả pháp sư Tháp Tây cũng đã khám qua rồi. Nghe xong, pháp sư Á La khẽ gật gật đầu như đang suy tư gì đó, rồi không nói thêm gì nữa. Trác Mộc Cường Ba hỏi xin giáo sư Phương Tân bản dịch văn bản bằng tiếng Bát Tư Ba của Mông Cổ kia, định nghiên cứu kỹ hơn nữa, đặc biệt là đoạn nhắc đến Thao thú sư Tang Kiệt huấn luyện và nuôi dưỡng chiến ngao, gã cứ có cảm giác hết sức thân thuộc mà không hiểu vì sao. Không ngờ, ngay đêm từ Mặc Thoát trở về, Trác Mộc Cường Ba vừa đi ngủ thì Lữ Cánh Nam gọi điện tới. Cô hỏi gã: “Cường Ba thiếu gia, anh... anh không có cảm giác dị thường gì chứ?” Trác Mộc Cường Ba không ngờ Lữ Cánh Nam lại đột nhiên hỏi một vấn đề riêng tư như vậy, bên má áp vào chiếc điện thoại di động không khỏi nóng bừng lên. Chỉ nghe gã ấp úng đáp: “Không... không có cảm giác gì cả.” Lữ Cánh Nam ở đầu bên kia nói: “Kỳ lạ thật, Hải Để luân là luân xa thấp nhất trong bảy đại luân xa, dựa theo phương pháp hô hấp đó, trong vòng từ hai đến ba tháng là sẽ cảm thấy Hải Để luân hơi nóng lên, đồng thời xuất hiện các dấu hiệu chứng tỏ Hải Để luân sắp khai mở, sao anh lại không có phản ứng gì vậy nhỉ, Cường Ba thiếu gia?” Trác Mộc Cường Ba đỏ mặt nói: “Có... có thể là vì bình thường tôi không chú ý lắm, sau, sau này tôi sẽ chú ý hơn. Được rồi, cám ơn cô đã cho tôi biết nhiều điều như vậy, chỉ cần hiểu được nguyên nhân tại sao cơ thể tôi lại xuất hiện tình trạng đó là được rồi. Tôi cũng không sao đâu, tạm biệt nhé.” Mẫn Mẫn dựa vào bờ vai Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Giáo quan Lữ Cánh Nam gọi điện à?” Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, đột nhiên sực nhớ ra: “Hình như pháp sư Tháp Tây đã từng nói, luân xa của mình không thể mở ra được nữa mà! Sao lại chóng quên thế không biết!” Mẫn Mẫn liền hờn dỗi dẩu môi lên: “Sao muộn vậy rồi mà còn gọi điện làm gì chứ?” Trác Mộc Cường Ba giải thích: “Không phải anh đã nói rồi sao, lúc ở bên Nga, thân thể anh tự dưng không nhúc nhích nổi nữa, sau khi trở về, anh đã nhờ Lữ Cánh Nam kiểm tra xem nguyên nhân là sao, kỳ thực...” Gã chợt nhớ ra chuyện mình đã hứa với Lữ Cánh Nam, vội đổi giọng nói: “Kỳ thực cũng không có gì cả đâu.” Ánh mắt Đường Mẫn tối hẳn đi, thầm nhủ: “Em mới là bác sĩ cơ mà, sao không hỏi em chứ?” Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng cô cũng không gặng hỏi thêm, chỉ ôm thật chặt cánh tay Trác Mộc Cường Ba. Ngày hôm sau, Trác Mộc Cường Ba tập trung vào nghiên cứu bản dịch văn bản tiếng Bát Tư Ba từ năm 1287, hy vọng có thể phát hiện được điều gì liên quan đến Bạc Ba La thần miếu. Nếu như có phát hiện, thì sẽ bù đắp được khoảng trống năm trăm năm trong lịch sử về vùng đất thần bí này. Đáng tiếc, gã đã đối chiếu từng chữ một trong bản dịch, nhưng không tìm ra bất cứ mối liên hệ nào với Bạc Ba La thần miếu cả. Vấn đề giáo sư Phương Tân đặt ra vì vậy cứ vẩn vơ trong tâm trí gã, không sao gạt đi được, tại sao quân Đức lại kẹp văn kiện này trong tập tài liệu về Bạc Ba La thần miếu? Liệu có phải là tay người Nga kia làm bừa, thu thập hết tất cả tài liệu đã giải mật mà y tìm được rồi bán cho họ? Nhưng dù là như thế, thì người Đức cần một văn bản tiếng Mông Cổ như vậy để làm gì? Thực sự họ muốn phát triển thú chiến hay sao? Nhưng những miêu tả về thú chiến trong cả văn bản này không hề tường tận rõ ràng, chỉ có chiến ngao được nhắc đến nhiều hơn một chút, lẽ nào quân Đức cũng có hứng thú đối với chiến ngao hay sao? Gã mường tượng ra các động tác và cách phát âm của Thao thú sư, rồi dựa theo lý giải của mình để mô phỏng lại. Đang càng lúc càng cảm thấy hết sức thuần thục thì pháp sư Á La gõ cửa bước vào, nhìn Trác Mộc Cường Ba nói: “Cường Ba thiếu gia, còn nhớ cậu từng hỏi tôi về ý nghĩa của các ký hiệu ở góc phải phía dưới tấm bản đồ da sói đó hay không?” “Đương nhiên.” Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát mới đáp. Pháp sư Á La đang nói đến những hình vẽ giống như hình ấn chương do các đường ngang và dọc tổ hợp thành ở rìa cả hai tấm bản đồ da sói. Hai người đi tìm giáo sư Phương Tân, nhờ ông bật tấm bản đồ ấy trên máy tính ra xem. Pháp sư Á La nói: “Các bậc tiền bối làu thông nhiều kinh văn trong giáo phái của tôi đã tìm được ký hiệu giống như vậy trong một trang kinh văn rách nát còn sót lại.” Vừa nói, ông vừa chỉ tay vào góc dưới tấm bản đồ trên màn hình máy tính, nói: “Chúng tôi cũng đã làm rõ được ý nghĩa của nó, đây là một con số.” Pháp sư chỉ ngón tay, đọc từng hàng một từ trên xuống dưới: “3, 2, 5.” Trác Mộc Cường Ba không nhịn được buột miệng hỏi: “Con số này có ý nghĩa gì? Những con số giống vậy được phát hiện ra trong trang kinh văn nào vậy?” Pháp sư Á La không trả lời, mà ấn vài nút trên bàn phím, mở tấm bản đồ da sói còn lại ra, rồi lại đọc từng hàng một từ trên xuống dưới: “3, 2, 4.” Giáo sư Phương Tân đột nhiên sực hiểu, thốt lên: “Những số này là số trang! Thật đần độn quá đi, vậy mà chúng ta cũng không nghĩ đến khả năng nó là con số.” Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc nói: “Số trang? Số trang! Lẽ nào...” Pháp sư Á La gật gật đầu: “Hai tấm bản đồ một thật một giả này, là hai trang trong một bộ kinh văn nào đó, tín vật mà sứ giả giao cho Cổ Cách vương là một bộ kinh dày dặn đầy đủ, cũng giống như viên hồng bảo thạch và Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu vậy, kinh văn và bản đồ cũng bị chia tách, để ở hai phương trời khác nhau.” Mẫn Mẫn bị tiếng kêu kinh ngạc của Trác Mộc Cường Ba gây chú ý, lên tiếng hỏi: “Có chuyện gì vậy ạ?” Trác Mộc Cường Ba nhắc lại phát hiện của pháp sư Á La. Mẫn Mẫn nghe xong, nhìn lại tấm bản đồ, rồi thốt lên: “Ôi chao, thật đúng là... Chẳng phải các con số của người Maya cũng được biểu thị như thế này sao, thế mà chúng ta từ đầu chí cuối cũng không hề nghĩ đến mới lạ chứ.” Giáo sư Phương Tân lắc đầu nói: “Không, con số của người Maya được biểu thị bằng chấm, gạch và vòng tròn, còn con số này lại biểu thị bằng nét sổ và nét ngang. Đây không phải là chữ số Maya, mà là cách biểu thị con số theo kiểu đếm thẻ của Trung Quốc cổ đại, về cơ bản nó cũng giống như phương thức biểu đạt con số của người Maya, chỉ khác là một dấu chấm được thay bằng một nét sổ mà thôi.” “Vậy, bộ kinh văn kia là thế nào vậy?” Trác Mộc Cường Ba lại hỏi thêm lần nữa. Pháp sư Á La liền nhấn giọng đáp từng chữ một: “Đại... Thiên... Luân... kinh!” Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân cùng ngớ người ra. Đường Mẫn kinh ngạc đưa tay bụm chặt miệng. Không ai ngờ được rằng, tấm bản đồ da sói mà họ trước nay vẫn luôn cho rằng chính là tín vật thứ hai, hóa ra lại chỉ là một phần của tín vật. Còn món tín vật thứ hai thực sự ấy, không ngờ lại chính là pháp điển tối cao của Phật giáo Tạng truyền... Đại Thiên Luân Kinh!” Pháp sư Á La điềm đạm nói: “Bộ kinh văn tập hợp các đại thành tựu của Mật tông này kể từ ngày đầu tiên xuất hiện trên thế gian, đã toát lên một sự thần bí rồi. Nhân vật đại diện cho giai đoạn Hậu Hoằng kỳ của Tạng truyền Phật giáo, A Để Hiệp đại sư vào Tây Tạng lập đàn giảng kinh, ngay khi bắt đầu giảng về Đại Thiên Luân Kinh đã không ngừng nhấn mạnh, đây là một bộ kinh thư được truyền ra từ Tây Tạng, ngài chẳng qua chỉ là người mang bộ kinh văn này trở về mà thôi. Thế nhưng, không có ai biết bộ kinh thư này là tác phẩm của ai, được viết từ thời kỳ nào. Đồng thời, nội dung bao la vạn tượng trong kinh thư càng khiến người ta không sao đoán nổi, phải là một con người như thế nào mới có đại trí tuệ, có học thức uyên tâm như vậy. Giờ đây, nghĩ kỹ lại, e rằng cũng chỉ có bọn họ mới có năng lực ấy mà thôi!” Trác Mộc Cường Ba chấn động thốt lên: “Đạo quân Ánh Sáng!” Giáo sư Phương Tân gật đầu nói: “Đạo quân Ánh sáng là người bảo vệ trông nom Tứ Phương miếu, mà Tứ Phương miếu lại chính là nơi cất giữ toàn bộ kinh văn của Tạng truyền Phật giáo trong thời kỳ đỉnh cao nhất. Không chỉ như vậy, trong đó còn bao gồm cả kinh văn của Bản giáo, và cả các tông giáo từ Ấn Độ và Đại Đường du nhập vào Tây Tạng thời bấy giờ nữa.” Pháp sư Á La nói: “Vì vậy mới có cách nói, đọc hiểu được Đại Thiên Luân Kinh, tất sẽ đọc hiểu tất cả các kinh văn khác, bởi vì bản thân bộ kinh thư này, chính là tinh túy được đúc rút ra từ tư tưởng của các tông giáo khác nhau.” “Ồ!” Đường Mẫn thốt lên khe khẽ, Trác Mộc Cường Ba vội nói: “Gì thế Mẫn Mẫn? Em nghĩ ra điều gì rồi à?” Đường Mẫn nói: “Em nhớ lúc trước tìm tài liệu về Shangri-la, có đọc được một thuyết nói rằng bộ Đại Thiên Luân Kinh này vốn có một vạn hai nghìn bài tụng, nhưng A Để Hiệp đại sư chỉ mang trở về Tây Tạng được có một nghìn hai trăm bài tụng thôi, chín phần mười nội dung còn lại đã thất truyền cả rồi!” Pháp sư Á La nói: “Đúng vậy, là như thế đó, hơn nữa đây cũng là điều A Để Hiệp đại sư đích thân nói ra. Khi khai đàn giảng về Đại Thiên Luân Kinh, ngài đã nói rất rõ ràng, bộ kinh thư này vốn phải có một vạn hai nghìn bài tụng, nhưng trải qua nhiều trắc trở mất mát, đến được tay ông thì nội dung chỉ còn một phần mười mà thôi.” Đường Mẫn nói: “Mọi người còn nhớ bản dịch của Cổ Cách kim thư như thế nào không? Lúc sứ giả đến Trác Bất Nhượng, đã thay đổi chủ ý, muốn đem Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu mang đến một nơi xa xôi ở chân trời, đồng thời còn yêu cầu Cổ Cách vương phải bảo quản một món tín vật khác. Ngoài ra, trong bản dịch chúng ta đọc được, cũng có đoạn nói đến Cổ Cách vương đã bí mật đưa tín vật đi, đồng thời lại có đoạn nói tín vật là một tấm bản đồ. Vậy là Cổ Cách vương đã giữ tín vật lại bên mình! Bản thân vị sứ giả kia cũng đã để lại viên hồng bảo thạch trong Cánh cửa Sinh mệnh, rồi đem Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu đưa tới tận châu Mỹ, nếu tham chiếu cách làm của ông ta...” Giáo sư Phương Tân vỗ lên tay vịn ghế đánh “chát” một tiếng, tiếp lời: “Vậy thì bản dịch không còn mâu thuẫn nữa, đích thực là Cổ Cách vương đã lưu lại một phần tín vật, đồng thời cũng bí mật đưa một phần khác đi xa. Bản đồ da sói và Đại Thiên Luân Kinh bổ trợ cho nhau, chỉ có bản đồ mà không có được đoạn miêu tả trong Đại Thiên Luân Kinh, thì căn bản không biết làm thế nào để đi bước đầu tiên; nhưng nếu chỉ có đoạn miêu tả trong Đại Thiên Luân Kinh mà không có bản đồ, thì cũng không thể nào tìm thấy Shangri-la được!” Trác Mộc Cường Ba vỗ mạnh tay, hào hứng nói: “Như vậy là chúng ta có thể nhìn rõ được tuyến đường họ đi rồi: một người đi hướng Đông, băng qua Thái Bình Dương; còn người còn lại, đi hướng Tây, đưa kinh văn đến Ấn Độ, hoặc thậm chí là nơi nào đó còn xa hơn cả Ấn Độ về phía Tây. Đây chính là ước định năm đó giữa sứ giả và quốc vương Cổ Cách, tách rời các tín vật ra, đưa tới chân trời góc biển, vĩnh viễn không để chúng gặp lại nhau nữa!” Giáo sư Phương Tân trầm ngâm suy nghĩ: “Cổ Cách vương không thể nào tự mình mang kinh văn đi được, có lẽ là ông ta phái người...” Mẫn Mẫn lập tức nói ngay: “Ông ta có phái người đi mà, Cổ Cách vương từng phái đi hai mươi mốt người thông huệ nhất đi về phía Tây cầu pháp!” Giáo sư Phương Tân và pháp sư Á La đưa mắt nhìn nhau. Trác Mộc Cường Ba lại vỗ đùi nói: “Đúng rồi, kinh thư không giống như tấm gương đồng, bọn họ có thể chia thành nhiều phần mang đi, nếu mỗi người trong hai mốt vị đệ tử đó đều mang đi một phần...” Pháp sư Á La tiếp lời ngay: “Đại dịch sư Nhân Khâm Tang Bố và Tiểu dịch sư Nga Lôi Tất Hỉ Nhiêu đều bái A Để Hiệp đại sư làm thầy. Nếu đúng là Đại Thiên Luân Kinh bị chia thành hai mươi mốt phần, vậy thì phần A Để Hiệp đại sư có được chính là gần được một phần mười nội dung, vậy nên ngài mới có thể khẳng định rằng, Đại Thiên Luân Kinh được truyền đi từ Tây Tạng, đồng thời bản hoàn chỉnh của bộ kinh thư này tổng cộng có một vạn hai nghìn bài tụng!” Mẫn Mẫn trợn tròn mắt lên nói: “Chuyện... chuyện này trùng hợp quá!” Giáo sư Phương Tân cũng vỗ mạnh tay lên bàn: “Lịch sử và truyền thuyết, quả đã khớp với nhau ở một mức độ nào đó rồi!” Pháp sư Á La lắc đầu: “Không! Lịch sử rất ít khi xuất hiện sự trùng hợp, tất cả những gì xảy ra đều có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Cổ Cách vương hướng về Phật pháp, chuyện này không hề sai, nhưng không người nào có thể giải thích được, tại sao Y Tây Ốc Bá lại thành kính đến độ từ bỏ cả vương vị, tại sao ông ta lại đột nhiên nảy ra ý định phái hai mươi mốt đệ tử đến Ấn Độ, về sau lại còn bất chấp tất cả để mời bằng được A Để Hiệp đại sư đến Cổ Cách hoằng dương Phật pháp nữa.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Đúng đó, nếu nói Cổ Cách vương đã sai người đưa Đại Thiên Luân Kinh đi, để bộ kinh thư ấy phân tán khắp nơi trên vùng đất phía Tây, vậy tại sao đến những năm cuối đời, ông ta lại kiên trì mời bằng được A Để Hiệp đại sư, thậm chí còn bất chấp cả tính mạng của mình, đây chẳng phải mâu thuẫn lắm hay sao?” Giáo sư Phương Tân nói: “Mọi người có cảm thấy, hành vi của Cổ Cách vương rất giống với một người khác hay không, cũng là ban đầu giữ thái độ bài xích, đến những năm cuối đời, lại đột nhiên trở nên cuồng nhiệt theo đuổi, như là bị ma nhập vào vậy.” Trác Mộc Cường Ba ngập ngừng: “Người thầy nói đến là...” ___________ Chú thích: 1. Thuật ngữ địa lý, chỉ các trầm tích calcium carbonate hình thành do nước chảy trong các hang động. 2. Hệ thống hang động dài nhất thế giới được biết đến cho tới thời điểm này, nằm ở trung tâm bang Kentucky, nước Mỹ. 3. Thuật ngữ địa lý, chỉ các tầng nham thạch trong vỏ trái đất. Những bước chuẩn bị cuối cùng Giáo sư Phương Tân nói: “Landa, người đã hủy hoại cả nền văn minh Maya, song đến cuối đời, lại trở thành người khai thác và sưu tầm các di vật của nền văn minh ấy.” Pháp sư Á La lắc đầu nói: “Không, thái độ của Cổ Cách vương và Landa vẫn khác nhau rất rõ rệt. Từ bản dịch có thể nhận ra, ngay từ đầu vị Cổ Cách vương này đã có thái độ hết sức sùng kính với sứ giả và tín vật của ông ta mang tới, có lẽ, trước yêu cầu của vị sứ giả kia, quốc vương bất đắc dĩ mới phải chia tách bản kinh văn hoàn chỉnh ra, rồi sai người mang đi. Khi sứ giả rời đi hoặc từ trần, quốc vương lại bất chấp tất cả muốn tìm kiếm kinh văn trở về, ấy là bởi ông ta biết, bộ kinh văn này là do người Tạng chúng ta tự biên soạn ra, là một kho báu văn hóa! Nếu Đại Thiên Luân Kinh đúng là tinh hoa văn hiến của Tứ Phương miếu, hoặc là mục lục để tra cứu, vậy thì nó cũng bao hàm cả các thư tịch về tôn giáo, văn hóa, nông nghiệp, thương nghiệp, khoa học kỹ thuật...Hoặc giả, có thể nói rằng, Đại Thiên Luân Kinh hoàn chỉnh thực sự, chính là một bộ đại bách khoa toàn thư bao hàm tất cả các phương diện của Thổ Phồn, Đại Đường và Ấn Độ vào thời kỳ toàn thịnh nhất!” Mẫn Mẫn hoan hô nhảy cẫng lên: “Tốt quá rồi, vậy bộ kinh thư đó ở đâu ạ? Nói không chừng còn tìm được trong đó nhiều thông tin liên quan đến Bạc Ba La thần miếu nữa ấy chứ!” Pháp sư Á La cười cười nói: “Khoảng thời gian trước mọi người tra tìm tư liệu về Bạc Ba La thần miếu, chẳng phải là đã xem qua rồi hay sao?” Mẫn Mẫn ấp úng: “Đó... nhưng cháu chỉ xem bản in thôi, còn nguyên văn...” Pháp sư Á La lắc đầu nói: “Lấy đâu ra bản thảo gốc của Đại Thiên Luân Kinh nữa chứ! Kể từ khi A Để Hiệp đại sư khai đàn giảng Đại Thiên Luân Kinh, bộ kinh văn này đã trở thành tư tưởng hạt nhân của rất nhiều giáo phái trong Hậu hoằng kỳ của Phật giáo Tây Tạng, đại để địa vị cũng giống như sách Luận Ngữ đối với Nho gia vậy. Tư tưởng của Khổng Tử được kế thừa tiếp nối, nhưng còn văn tự năm xưa Khổng Tử đích thân viết ra thì còn ai tìm được nữa đâu? Mà dù là chúng ta có tìm được bản gốc của Đại Thiên Luân Kinh chăng nữa, phần được lưu truyền lại đó cũng chỉ đề cập đến phương diện tôn giáo mà thôi, dù sao thì cũng chỉ có một phần mười nội dung.” Mẫn Mẫn nói: “Thế nhưng, không phải pháp sư đã nói, trong giáo của ông có bậc tiền bối đã nhìn thấy, nhìn thấy cái hình vẽ đó sao? Hình vẽ ấy không phải ở trong Đại Thiên Luân Kinh ạ?” Pháp sư Á La lắc đầu cải chính: “Là một mảnh còn sót lại của Đại Thiên Luân Kinh. Đúng thế, ở chỗ chúng tôi có bản gốc của Đại Thiên Luân Kinh, nhưng là một trang kinh văn rách bươm, đại khái chỉ có một phần bảy của trang sách thôi. Mà thứ đó cũng đang được vị trưởng lão có trí huệ và Phật tính cao nhất bảo quản, với thân phận như của chúng ta...” Pháp sư Á La lại lắc lắc đầu. Giáo sư Phương Tân nói: “Chúng ta đã tìm được đủ các thông tin trong bộ Đại Thiên Luân Kinh được lưu truyền đến ngày nay rồi, dù có được xem cả bộ Đại Thiên Luân Kinh hoàn chỉnh cũng chưa chắc có thu hoạch gì hơn đâu. Thêm nữa, biết đâu còn có những bộ kinh văn khác cũng sử dụng phương thức giống như vậy để biểu thị số trang? Tấm bản đồ da sói ấy chưa chắc đã là một phần của Đại Thiên Luân Kinh, tất cả chỉ là phán đoán của chúng ta mà thôi. Tốt hơn hết hãy tập trung tinh lực vào các tài liệu lịch sử và những gì mới thu thập được lần này đi.” Giáo sư Phương Tân vuốt món tóc bạc trước trán. Lúc này, ông tuyệt đối không thể nào nghĩ ra được, từ Đại Thiên Luân Kinh đến đế quốc Mông Cổ, đến đảng Quốc Xã ở Đức, lại có hàng trăm hàng ngàn mối dây liên hệ gắn bó. Khoảng thời gian tiếp sau đó, các công việc chuẩn bị được tiến hành nhanh chóng và trật tự. Thông qua nhiều kênh khác nhau, Giáo sư Phương Tân đã gửi mẫu da bọn Trác Mộc Cường Ba thu thập được và kết cấu khung thuyền đến chuyên gia trong những ngành hữu quan, đều là bạn bè của giáo sư, hoặc là bạn của bạn. Đương nhiên, bọn họ cũng chẳng ngồi không đợi chờ kết quả, mà đống tài liệu lịch sử đã bị lật đi lật lại đến nát nhừ kia lại được đặt lên mặt bàn. Ngoài ra mọi người còn được bổ túc cấp tốc các kiến thức liên quan tới núi lửa. Trác Mộc Cường Ba thì tập trung vào việc huấn luyện chó ngao trong suy tưởng. Tựa hồ như gã đã trở lại với thời kỳ đầu khi tập đoàn Thiên Sư mới thành lập, một đám chó ngao vây quanh. Gã nghiền ngẫm nghiên cứu đi nghiên cứu lại từng động tác, từng âm thanh nhỏ nhặt của vị Thao thú sư thời cổ đại, có lúc đang ngủ say cũng bỗng nhiên quát lên ra lệnh cho chó ngao, bị Mẫn Mẫn cằn nhằn cho mấy lần. Đồng thời, Trác Mộc Cường Ba cũng đang dần dần thích ứng với cương vị đội trưởng. Quan hệ trong tập thể của họ lúc này hết sức vi diệu tế nhị, Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và pháp sư Tháp Tây tỏ ra gần gũi hơn một chút, lẽ đương nhiên, thời gian đội trưởng Hồ Dương và những đồng đội cũ của anh ở với nhau cũng tương đối nhiều, tuy Trương Lập và Nhạc Dương ai cũng có việc riêng của mình, nhưng người trẻ tuổi xưa nay vẫn thích tụ tập với nhau. Ba Tang vẫn giữ vai sĩ quan huấn luyện lạnh lùng khắc nghiệt, Sean thì giỏi giao tiếp, nên nói chung cũng khá thoải mái với mọi người. Vương Hựu hơi độc lập một chút, gần giống với pháp sư Á La lúc ông mới gia nhập nhóm. Trong cái nhóm nhỏ này của bọn họ, Mẫn Mẫn và Lữ Cánh Nam hễ chạm trán nhau là liền có một cảm giác đối địch ngấm ngầm, còn Lữ Cánh Nam thì lúc nào cũng nhắc nhở Trác Mộc Cường Ba chú ý, phải biết lựa chọn thông tin mà nói với tất cả mọi người. Nhóm Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La, pháp sư Tháp Tây hình như đều ngầm phản đối những người mới gia nhập về sau, từ đầu chí cuối luôn giữ một khoảng cách với các thành viên mới, đặc biệt là Sean và Vương Hựu, kể cả Ba Tang nữa. Trong khi đó, Nhạc Dương, Trương Lập, và Sean lại thích chỗ đông người, chỗ nào cũng không thể thiếu mặt bọn họ được. Trác Mộc Cường Ba cần phải để các bên dung hòa, khiến đội ngũ này trở thành một thể hoàn chỉnh thống nhất, chứ không vì một vài mâu thuẫn xung đột nhỏ mà dẫn đến rạn nứt tình cảm. Trương Lập kiểm tra xong thiết bị máy móc, chuẩn bị mang theo một số dụng cụ mới trở lại U Minh hà. Về mặt trợ thủ, ngoài pháp sư Á La ra, Lữ Cánh Nam giới thiệu thêm pháp sư Tháp Tây. Nghĩ phía tôn giáo cũng cần phải tìm hiểu một cách toàn diện về Cánh cửa Địa ngục, Trác Mộc Cường Ba liền gật đầu đồng ý. Lần này bọn Trương Lập còn mang theo một số thiết bị định vị, Lữ Cánh Nam nói có thể sử dụng máy bay trực thăng, thả đồ đạc cần thiết xuống khu vực gần Cánh cửa Địa ngục. Như vậy thì dù máy bay trực thăng có bị vệ tinh theo dõi giám sát, đối phương cũng không thể nào tìm ra vị trí cụ thể của Cánh cửa Địa ngục. Mẫu vật giáo sư Phương Tân nhờ các chuyên gia kiểm nghiệm cũng đã có thông tin phản hồi. Thứ đầu tiên có kết quả là con tằm ngọc. Một chuyên gia giám thưởng châu báu vừa nhìn đã nhận ra ngay đó không phải tằm ngọc bình thường, mà là một con côn trùng sống hóa thạch. Thông thường, loại đá quý này thuộc dòng đá opa(l), tuổi ước chừng cũng phải trên trăm triệu năm. Trải qua những biến thiên địa chất đặc thù, dưới áp suất cao và nhiệt độ thấp, tinh thể silic dần dần thay thế hình thái sinh học vốn có của động hoặc thực vật, chuyển hóa thành loại bảo thạch có độ cứng từ 6.5 đến 7.01, thường thấy nhiều trong những khu rừng nguyên sinh ở Việt Nam, Myanmar. Loại tinh thể hóa thạch được gọi là “thụ hóa ngọc” này được liệt vào danh mục những bảo thạch cực phẩm cũng mới chỉ một hai chục năm gần đây mà thôi. Hai ngày sau, báo cáo chất lượng không khí được gửi đến. Chất lượng mẫu không khí bọn Trác Mộc Cường Ba mang về rất tốt, thậm chí có thể nói là còn hơn cả tốt, hoàn toàn thích hợp để con người hít thở, không hề có bất cứ tạp chất độc hại nào. Lại hai ngày nữa, báo cáo hóa nghiệm về thành phần nước cũng đã có, sắc độ, độ cứng, tổng số quần thể vi sinh vật, các loại nguyên tố hóa học... Tổng cộng mấy chục nội dung hoàn toàn phù hợp với tiêu chuẩn nước uống được, hơn nữa hàm lượng ozone trong nước còn cao hơn cả nước khoáng thiên nhiên được tăng thêm oxy hoạt tính; khả năng điện giải cao hơn nước ion rất nhiều; hoạt tính của phân tử nước cũng cao hơn nước nhiễm từ ở trạng thái tĩnh, hơn nữa thành phần còn tương đối ổn định, có thể giữ được một thời gian dài không bị ảnh hưởng bởi môi trường bên ngoài. Nghe giáo sư nói, nghiên cứu viên kiểm tra mẫu nước ngầm đó sau khi kiểm định còn nêu đề xuất lập kế hoạch hợp tác khai thác bán làm nước uống đóng chai, bảo rằng loại nước này còn tốt hơn vô số các loại nước khoáng, nước tinh khiết, nước sinh thái gì đó hiện đang bán trên thị trường không biết bao nhiêu lần. Một tuần sau, giáo sư Phương Tân nhận được báo cáo hóa nghiệm của mẫu nham thạch. Theo các phân tích, đó là khoáng chất rhyolite, xác định tuổi đá phải phân tích đồng vị tinh thể zirconium cụ thể. Nhưng tuổi của mẫu vật ít nhất cũng phải mấy trăm triệu năm rồi, nói không chừng còn vượt qua cả vách đá hoa cương phiến ma(2) ở khu vực phía Đông tỉnh Hà Bắc Trung Quốc để trở thành loại đá có tuổi đời xa xưa nhất của Trung Quốc. Độ cứng theo thang Knoop là 23, độ cứng theo thang Mohs là 7.8, chẳng trách hôm đó Trương Lập phải rất vất vả mới đục ra được; tỷ trọng 4.6 - 4.71, tỉ lệ chiết xạ 1.93 đến 2.01, nhiệt độ nóng chảy 2550 độ celcius. Nước bóng màu mỡ, mật độ 5.8/ cm2, có chứa các chất hóa học như zirconium, titanium, silicon... Lại thêm mấy ngày nữa, kết quả phân tích thứ cát mịn Nhạc Dương lấy trong khoang thuyền cũng được gửi về. Theo báo cáo hiển thị, thành phần tách ra gồm có cát, đất sét, xác vi sinh vật. Trong đó, chất cát rất mịn, đường kính hạt cát chỉ từ 0.15 đến 0.25mm, thành phần chủ yếu vẫn là silicon dioxide, chỉ có điều hàm lượng clo và các tạp chất khác tương đối nhiều. Chất đất chủ yếu là đất sét, đã được gửi tới tổ nghiên cứu trường Đại học Địa chất Trung Quốc để phân tích, thành phần cụ thể phải đợi thêm một thời gian nữa mới biết được. Mấy người bọn Trương Lập cũng đã trở về. Từ báo cáo hàng ngày của họ, Trác Mộc Cường Ba đã biết tính năng chống va chạm, phòng chấn động của con thuyền này thực sự là không thể nào tốt hơn được nữa. Dù với trình độ khoa học kỹ thuật của ngày nay, cũng chưa chắc đã có thể làm ra được một con thuyền bền chắc như vậy. Nhờ cố gắng của Trương Lập, rất nhiều trang thiết bị hạng nặng đã được lắp đặt cố định xong xuôi, chỉ cần đợi các thành viên mới kết thúc đợt huấn luyện đặc biệt là có thể xuất phát được. Nhưng còn một điểm khiến mọi người phân vân, đó là về vật liệu làm thuyền... Khung thuyền và lớp da bọc là gì - từ đó đến giờ vẫn chưa có kết quả. Giáo sư Phương Tân đã mấy lần liên lạc thúc giục, nhưng câu trả lời chỉ là: “Đang phân tích, đừng nôn nóng.” Trác Mộc Cường Ba vẫn muốn đợi thêm một thời gian nữa, nhưng tình thế đã không cho phép gã làm vậy. Các thành viên còn lại còn nôn nóng hơn cả gã. Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La và pháp sư Tháp Tây đều lo lắng để lâu sẽ phát sinh biến cố, giờ đây người đông miệng lắm, nếu tin tức bị lộ ra ngoài, đối thủ của họ rất có khả năng sẽ vượt lên đến Shangri-la trước một bước. Bọn Vương Hựu và Sean cũng hết sức nôn nóng, giống hệt như Trác Mộc Cường Ba lúc vừa hoàn thành đợt huấn luyện đặc biệt chuẩn bị lên đường sang châu Mỹ vậy. Ai nấy đều cho rằng mình đã đạt tới trình độ xưa nay chưa từng có, trong lòng tràn đầy tự tin muốn thử xem thân thủ mình thế nào một phen. Trương Lập và Nhạc Dương cũng đã hoàn thành công tác lắp đặt và cải tạo trang thiết bị cần dùng. Tuy Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn chưa có tiến triển gì mang tính đột phá trong nghiên cứu tư liệu lịch sử, nhưng dường như trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, tất cả những việc cần chuẩn bị đã hoàn tất, chỉ còn đợi ngày xuất phát nữa mà thôi. Cuối cùng, một vấn đề tương đối nghiêm trọng đã nảy sinh. Thân thể Trác Mộc Cường Ba xuất hiện hiện tượng dị thường. Đường Mẫn phát hiện ra đầu tiên. Lưng Trác Mộc Cường Ba xuất hiện những chấm đỏ như đầu mũi kim. Mới đầu Đường Mẫn không hề chú ý, nhưng về sau các chấm đỏ li ti mỗi lúc một dày đặc, mỗi lúc một rõ hơn, hứa hẹn sẽ biến thành từng mảng da lốm đốm. Nhưng Trác Mộc Cường Ba không cảm thấy có gì khác lạ. Đường Mẫn vội báo chuyện này với pháp sư Á La. Pháp sư Á La và pháp sư Tháp Tây liền vội tới xem xét bệnh tình của gã. Cuối cùng, hai vị pháp sư nhất trí cho rằng, không thể chần chừ thêm được nữa, cần phải lập tức lên đường ngay. Đề nghị này được 75% đội viên tán thành. Vậy là, trước khi nhận được báo cáo về chất liệu làm thân và khung thuyền, bọn họ đã chuẩn bị xuất phát. Thời gian khởi hành tới Mặc Thoát đã được ấn định. Trước đó một hôm, Trác Mộc Cường Ba tập trung toàn bộ thành viên của đội về sân tập. Đưa mắt nhìn những gương mặt không hề quen thuộc ấy, gã chợt thấy nhói đau trong lòng: “Những người này, có thể nói là hoàn toàn không hề có quan hệ gì với mình, rốt cuộc là sức mạnh gì đã khiến họ không sợ cái chết, ngang nhiên khiêu chiến với Tử thần như thế?” Gã hạ giọng hỏi Nhạc Dương: “Họ thực sự có thể xuất phát rồi chứ? Không có vấn đề gì chứ?” Nhạc Dương gật đầu nói: “Yên tâm đi Cường Ba thiếu gia, họ đều được huấn luyện đặc biệt rồi mà.” Trác Mộc Cường Ba đứng trên một bệ đá lớn, hỏi mọi người một lần cuối cùng: “Ngày mai, chúng ta sẽ xuất phát! Bây giờ, tôi sẽ nhắc lại với mọi người một lần cuối cùng, chúng ta không phải đi mạo hiểm, bởi vì hai chữ “mạo hiểm” này thực sự quá nhẹ để hình dung những gì chúng ta sắp phải đối mặt trong thời gian tới đây. Chúng ta đang tuyên chiến với Tử thần, chúng ta phải hoàn thành một nhiệm vụ không thể hoàn thành, chúng ta khiêu chiến với cực hạn trong những cực hạn. Hơn nữa, một khi đã bắt đầu cuộc chiến này, ngoại trừ cái chết ra, sau này còn gặp phải gì nữa, không ai có thể khẳng định được. Có điều, cái chết, chắc chắn là điều chúng ta sẽ phải đối mặt. Tôi không thể đảm bảo gì với mọi người, vì vậy, tôi hy vọng mọi người có thể nghĩ cho thật cẩn trọng kỹ càng. Chúng ta không có đường nào để lui nữa đâu, một khi con thuyền tiến vào trong bóng đêm, chúng ta sẽ phải trực tiếp đối diện với Tử thần. Vì vậy, mong rằng mọi người hãy đặt cuộc sống sau này của mình, và niềm khao khát hướng về thánh địa lên bàn cân để lựa chọn đi! Có lẽ, đây sẽ là lần lựa chọn cuối cùng trong đời các bạn đó! Các bạn, tôi vô cùng cảm ơn sự giúp đỡ vô tư không vụ lợi của mọi người, đồng thời cũng khâm phục tự đáy lòng trước sự kiên trì và cố chấp của các bạn. Không phải tôi đang dọa nạt gì các bạn, tôi chỉ không hy vọng nhìn thấy những sự hy sinh vô vị, nếu mọi người vẫn còn một chút gì đó lưu luyến với cuộc đời này, vì người nhà, vì bạn bè của mình, xin hãy từ bỏ đi, đây là cơ hội cuối cùng của các bạn đó.” Phía dưới chìm vào tĩnh lặng, cơn gió trong nắng không ngờ vẫn hơi lành lạnh. Vương Hựu lớn tiếng hồi đáp: “Từ ngày đầu tiên đặt chân đến nơi đây, tôi đã có lựa chọn của mình rồi, bất kể là quá khứ, hiện tại hay tương lai, đây cũng là lựa chọn mà tôi không hề hối hận!” Lời anh ta vừa dứt, những người khác cũng nhao nhao hưởng ứng, đều cùng một điệu bộ khẳng khái vì nghĩa, ý chí sục sôi. Mạnh Hạo Nhiên bỗng nổi thi hứng, ngâm luôn một bài thơ: “Tôi không muốn sống mãi ở bình nguyên cuộc đời/ dẫu rằng bình nguyên rất bằng phẳng và không hiểm nguy/ nhưng lại không có niềm kích động khi trèo lên núi cao/ tôi không muốn dật dờ mãi trong vũng nước tù của cuộc sống/ dẫu rằng nước tù rất bình lặng lại chẳng có đá ngầm/ nhưng thiếu đi niềm hăng say lúc chinh phục biển khơi/ ngày ngày giờ giờ/ tôi mãi luôn trốn chạy/ trốn chạy tình yêu bình thường lặng lẽ/ trốn chạy hạnh phúc giả tạo lặp đi lặp lại/ trốn chạy vòng tay ấm áp đầy cạm bẫy/ trốn chạy những ánh mắt thương hại hiểm trá khôn lường/ để trốn chạy, tôi khát vọng và theo đuổi/ khát vọng vượt qua dãy núi cao trong thẳm tâm hồn/ đi xem phong thái của người bên kia rặng núi/ để trốn chạy, tôi khát vọng và theo đuổi/ theo đuổi giấc mơ vượt qua hải dương mộng tưởng/ để xem những cánh buồm mây dập dờn bờ bên kia/ để thực hiện lời thề của bản năng/ để đời tôi từ đây trở nên chân thực/ tôi thực sự cảm nhận được đớn đau/ vì ngọn lửa thần thánh nơi xa xăm đang đốt cháy/ tôi thực sự cảm thấy hụt hẫng/ vì những gì trước mắt không như trong tưởng tượng/ nhưng tôi không muốn ngoảnh đầu/ bởi vì tôi đã được nếm trải/ niềm vui của con sói bị thương liếm lên vết thương tanh máu của mình.” Nghe xong bài thơ, Trác Mộc Cường Ba cũng không khỏi cảm thấy khâm phục nhà nhiếp ảnh kiêm thám hiểm hào hoa phong nhã này, bèn cất tiếng hỏi: “Cậu viết à?” Mạnh Hạo Nhiên đưa tay đẩy gọng kính trên sống mũi, lắc đầu nói: “Hình như là của một ông hiệu trưởng trường nào đấy viết.” Lúc này, Lữ Cánh Nam giao cho Trác Mộc Cường Ba một xấp hồ sơ, nói: “Cái này anh giữ đi.” “Gì vậy?” Lữ Cánh Nam nói: “Xấp hồ sơ này là giấy miễn trách nhiệm, tất cả mọi người đã ký tên vào rồi. Trong các phong bì này đều là di chúc cả đấy.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Trước đây chúng ta có làm vậy đâu?” Đội trưởng Hồ Dương nói: “Vương Hựu đề nghị đấy, rất chuyên nghiệp, tôi kiến nghị cậu cũng nên ký một cái đi. Không sợ nhất vạn, chỉ sợ vạn nhất, nếu thực sự xảy ra chuyện gì thì cũng dễ ăn nói hơn mà. Thứ này giao cho người nào không đi bảo quản, trước đây tôi ký suốt rồi, đây đã là tờ di chúc thứ bảy của tôi rồi đấy.” Trác Mộc Cường Ba cầm túi hồ sơ, hỏi: “Mọi người viết cả rồi à?” Gã nhìn qua cái túi nylon, rồi ngạc nhiên nói tiếp: “Ủa? Mẫn Mẫn cũng viết à? Viết lúc nào thế?” Đường Mẫn vội cuống lên nói: “Không được xem!” Trác Mộc Cường Ba cười cười: “Được rồi, trở về rồi xem sau vậy.” Đường Mẫn lại nói: “Về cũng không được xem!” Trác Mộc Cường Ba hơi ngập ngừng, Đường Mẫn đã nắm lấy bàn tay gã, nói với giọng khẩn cầu: “Đừng xem, có được không?” Đến như vậy, Trác Mộc Cường Ba chỉ còn nước gật đầu đáp ứng. Lữ Cánh Nam nói: “Anh cũng ký một tờ đi.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi không ký, chúng ta nhất định sẽ trở về bình an, mấy thứ này giao cả cho thầy giáo bảo quản thôi nhỉ.” Nghĩ tới giáo sư Phương Tân, thần sắc gã không khỏi có đôi phần ảm đạm. Nhạc Dương và Trương Lập ở bên cạnh nói: “Ủng hộ Cường Ba thiếu gia, chúng tôi cũng không viết!” “Tại sao các cậu không viết?” Nhạc Dương nói: “Chúng ta nhất định trở về được.” Gương mặt trẻ trung của anh đón ánh mặt trời, hiện lên một nụ cười rạng rỡ. Trương Lập nói: “Cả cậu ta còn không viết, tôi viết làm gì chứ.” Triệu Trang Sinh và Lý Hồng cười hì hì vỗ vỗ lên đầu Nhạc Dương, nói: “Nhìn cậu kìa, vẫn tự tin hệt như hồi xưa.” Nhạc Dương nói: “Đi đi đi, đừng tưởng các cậu tham gia huấn luyện được mấy ngày là đã đạt được trình độ như tôi rồi đấy nhé, vẫn còn kém xa lắm...” “Ôi chà chà, nói phét vừa vừa thôi...” “Không tin hả? Không tin chúng ta so tài xem?” “So tài thì so tài, ai sợ ai chứ?” “So thế nào đây?” “Ra đây, ra đây, ra bên kia.” ... Tối hôm ấy, Trác Mộc Cường Ba không sao ngủ được. Mẫn Mẫn lấy ngón tay vạch những đường tròn trên ngực gã. Trác Mộc Cường Ba khẽ thở dài nói: “Mẫn Mẫn, sao em vẫn chưa ngủ?” Đường Mẫn đáp: “Làm sao ngủ được, chẳng phải anh cũng chưa ngủ đấy sao?” Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừ, tuy đã trải qua bao nhiêu chuyện, nhưng hễ nghĩ đến ngày mai sẽ xuất phát là lại không sao ngủ được. Lần này, chúng ta nhất định có thể tìm được Bạc Ba La thần miếu, anh có một dự cảm rất mạnh mẽ.” Đường Mẫn ép người sát vào ngực Trác Mộc Cường Ba, nói: “Ưm, chúng ta chữa khỏi vết thương trên mình anh, rồi sẽ đi Croatia.” Trác Mộc Cường Ba cố ý làm bộ quên mất: “Đi Croatia à? Đi làm gì nhỉ?” Đường Mẫn vùng vằng nói: “Anh đã hứa với người ta là sẽ đến đó mua một hòn đảo mà? Hứ, anh chẳng nhớ gì hết cả, chỉ dụ cho em vui lúc ấy thôi đúng không?” Trác Mộc Cường Ba cười cười: “Sao lại quên được. Chúng ta đi chuyến này, không chỉ là để tìm Bạc Ba La thần miếu, mà quan trọng hơn, chúng ta nhất định sẽ tìm được Tử kỳ lân. Mẫn Mẫn, em nói xem, trên thế gian này phải chăng thực sự có cái gọi là duyên phận? Chuyện anh nhìn thấy tấm ảnh Tử kỳ lân ấy, cơ hồ vừa mới xảy ra hôm qua thôi vậy. Thoắt cái đã hai năm rồi, nếu không có tấm ảnh đó, làm sao anh quen được em chứ.” “Ưm.” Đường Mẫn dường như cũng đang nhớ lại những kỷ niệm ngọt ngào thuở hai người mới quen nhau, vùi đầu thật sâu vào bờ ngực rộng rãi của Trác Mộc Cường Ba. ___________ Chú thích: 1. Thang độ cứng Mohs đặc trưng cho tính chất chống lại vết trầy xước trên những khoáng vật khác nhau: khoáng vật có độ cứng cao hơn sẽ làm trầy khoáng vật có độ cứng thấp hơn. Thang độ cứng Mohs do nhà khoáng vật học người Đức Friedrich Mohs đề xuất vào năm 1812. Độ cứng của kim cương là 10. 2. Gơnai hay đá phiến ma là loại đá phổ biến và phân bố rộng trong vỏ Trái Đất, hình thành bởi các quá trình biến chất khu vực ở mức cao từ các thành hệ đã tồn tại trước đó, nguyên thủy là đá lửa hay đá trầm tích. Đá gơnai thông thường là loại đá tạo phiến từ trung bình tới thô, chủ yếu là tái kết tinh nhưng không chứa một lượng lớn mica, clorit hay các khoáng vật dạng phiến dẹt khác. Biệt ly Sáng hôm sau, một buổi sớm rực rỡ ánh mặt trời tươi đẹp, đám đội viên cũ như Trác Mộc Cường Ba, Đường Mẫn, đội trưởng Hồ Dương, pháp sư Á La, Lữ Cánh Nam, Trương Lập, Nhạc Dương, Ba Tang tụ tập cả trong phòng giáo sư Phương Tân, chào tạm biệt ông trước khi lên đường. Một vạt nắng chiếu qua cửa sổ, làm phòng khách sáng bừng lên lạ thường. Giáo sư nắm chặt tay từng người một, nhất thời cả gian phòng chìm trong tĩnh lặng, không ai biết nên nói gì cho thích hợp. Mọi người đã từng cùng nhau trải qua sinh tử, nếu không phải tình trạng sức khỏe của giáo sư Phương Tân thực sự không thể mạo hiểm được nữa, hay vì tính mạng của Trác Mộc Cường Ba chỉ còn đếm được từng ngày, cả đội nhất định sẽ đợi đến khi vết thương nơi chân giáo sư lành hẳn rồi cùng xuất phát lên đường. Trong đội ngũ này, ai ai cũng biết, khi mọi người đã chìm vào giấc ngủ, người duy nhất vẫn miệt mài tra tìm tư liệu, sắp xếp chỉnh lý dưới ánh đèn chẳng phải ai khác, mà chính là vị giáo sư già cao tuổi nhất đội này; khi tất cả đều ngơi nghỉ, người duy nhất vẫn bận bịu trao đổi với các chuyên gia, không ngừng lên mạng, không ngừng nói chuyện, chẳng phải ai khác mà chính là vị giáo sư có mái tóc bạc trắng ấy; khi đường tiến lên gặp phải hố sâu không thể vượt qua, hay gặp vấn đề hóc búa không thể giải quyết, người chỉ điểm bến mê, vén mây thấy mặt trời, cũng chính là vị giáo sư bác học đa tài ấy. Ai nấy đều biết kiến thức quảng bác của giáo sư từ đâu mà có, đều thực lòng khâm phục giáo sư, cảm kích giáo sư, đặc biệt là Trác Mộc Cường Ba. Khi những người này còn chưa biết nhau, thầy giáo của gã đã ra công gắng sức để tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu rồi. Con người thầy giáo gã là như vậy, một khi đã làm chuyện gì, thì nhất định sẽ dồn hết trăm phần trăm tâm sức vào đó, cho dù gãy cả chân phải ngồi xe lăn, ông cũng chưa từng ngừng công việc lại. Nếu nói thầy giáo gã là người trả giá nhiều nhất cho chuyến đi tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu này, đảm bảo không một ai ở đây dám lên tiếng phủ nhận. Thế nhưng, giờ đây, khi thực sự xuất phát lên đường, giáo sư Phương Tân lại chỉ có thể ngồi trên xe lăn như một bậc trưởng bối hiền từ, nhìn đám trẻ sắp phải lên đường đi xa của mình, mỉm cười với từng thành viên một. Nhạc Dương là người đầu tiên bước lên. Anh nắm tay giáo sư nói: “Giáo sư, cám ơn bác.” “Hả? Cám ơn gì tôi?” Giáo sư Phương Tân mỉm cười hỏi. Nhạc Dương nói: “Bác đã dạy cháu rất nhiều điều, những điều mà cả đời này cháu cũng không dùng hết, vì vậy, cám ơn bác...” Nói tới đây, giọng anh cũng không khỏi hơi nghèn nghẹn. Trương Lập ngắt lời: “Được rồi, có phải trẻ con đâu, nói một hai câu từ biệt cũng không nói được nữa, mà chúng ta có đi lâu lắc gì đâu, nói không chừng một hai tuần là đã xong xuôi rồi, loáng cái là về ngay thôi ấy mà. Bác nói có phải không ạ, giáo sư?” Giáo sư Phương Tân mỉm cười, nói: “Tất nhiên rồi, hy vọng mọi người mã đáo thành công.” Trương Lập lại nói: “Còn nữa, việc ấy... sau khi chúng cháu xuất phát, giáo sư giúp cháu lưu ý một chút.” Giáo sư Phương Tân ngập ngừng nói: “Cậu nói chuyện gì? À... tôi biết rồi!” Trương Lập ghé miệng sát tai giáo sư Phương Tân thì thầm: “Giáo sư cũng biết mà, đi chung với Cường Ba thiếu gia, lúc nào cũng cô đơn lẻ bóng, bác xem...” Giáo sư Phương Tân cười hì hì nói: “Hiểu rồi, hiểu rồi. Chuyện ấy thì cứ để giáo sư này giúp cậu tham khảo xem sao. Có điều, tôi chỉ nghiên cứu chó thôi, về phương diện thẩm mỹ đã lạc hậu nhiều lắm rồi, đến lúc đó nếu không được như kỳ vọng của cậu thì đừng trách tôi đấy nhé, ha ha.” Giáo sư Phương Tân ngưng cười, vỗ vỗ lên cánh tay Trương Lập, gật đầu nói: “Anh bạn trẻ, nên suy nghĩ đi, coi như là vì mẹ cậu...” Nhắc đến mẹ, Trương Lập liền nhớ đến lúc rời nhà, mẹ anh đứng trước cửa, chỉnh lại cổ áo cho anh, đích thân cầm ba lô đeo lên lưng cho anh, rồi xoa xoa đầu, phủi đám bụi bám trên vạt áo trên tay áo, rồi sau đó mới hài lòng nhìn đứa con trai cao lớn đứng trước mặt bà... Tất cả hệt như hồi anh còn nhỏ. “Mẹ ơi, con đi đây.” Mẹ anh gật gật đầu, nụ cười mãn ý hiền hòa ấy, vĩnh viễn là nụ cười đẹp nhất trong lòng Trương Lập. Anh đếm số bước chân, khi tới bước thứ hai mươi, tiếng gọi quen thuộc của mẹ lại vang lên sau lưng: “Con à, đi sớm về sớm nhé!” Chính là tiếng gọi này, đã cùng anh lớn lên từ thuở ấu thơ, bất kể là trong thời điểm nào, cũng khiến lòng anh ngập tràn trong ấm áp. Hai mươi bước, xưa nay chưa bao giờ hơn cũng chưa bao giờ kém một bước. Lần nào anh cũng có chút mong chờ, lại cũng có chút không nỡ nghe thấy tiếng gọi đó, để rồi lập tức cao giọng đáp lời: “Con biết rồi mẹ!” Trong lòng đã thầm tự thề với lòng: “Mẹ ơi, lần này là lần cuối cùng, sau này con sẽ không bao giờ rời xa mẹ nữa, con trai mẹ nhất định sẽ tìm được một cô dâu tốt, chúng ta mua một căn nhà lớn trong thành phố...” Nghĩ tới đây, Trương Lập ngước lên, nhìn thấy nụ cười hiền hòa của giáo sư Phương Tân, chợt có cảm giác như nhìn thấy mẹ mình, sống mũi cay cay, không tự chủ được mà ngoảnh đầu bước đi, tới đứng bên cạnh Nhạc Dương. Ba Tang là người thứ ba bắt tay giáo sư Phương Tân. Anh ta nhìn ông một hồi thật lâu, nét mặt từ từ giãn ra một chút: “Ông là một dũng sĩ, giáo sư ạ.” Giáo sư Phương Tân cũng bóp tay thật chặt, nhìn chằm chằm vào Ba Tang, nói: “Anh, phải bảo vệ cho bọn họ!” Ba Tang thoáng ngần ngừ, rồi gật đầu nhận lời. Anh ta nhận ra, bàn tay ông già này vì dùng sức quá độ đã khe khẽ run lên, ông đang khẩn cầu, hay là đang cảnh cáo vậy? Giáo sư Phương Tân đã thu ánh mắt lại, nhưng bàn tay vẫn nắm chặt lấy tay Ba Tang, nhìn thẳng vào vạt áo anh ta, nói: “Đừng quên những gì cậu đã hứa với anh trai mình!” Ba Tang hơi run run trong thoáng chốc, rồi mau chóng gật đầu trịnh trọng. Khi ấy giáo sư mới gật đầu buông tay ra. Ba Tang quay người vỗ mạnh lên vai Trác Mộc Cường Ba, không nói tiếng nào. Đường Mẫn hai mắt đỏ lựng bước đến trước mặt giáo sư Phương Tân. Chỉ thấy ông nở một nụ cười thân thiết nói: “Lần này lên đường, cháu phải chăm sóc Cường Ba cho tốt đấy, cậu ấy tính tình thô lỗ, làm chuyện gì cũng không tỉ mỉ tinh tế, rất dễ bị thương, nhưng có nhân viên y tế như cháu đi theo thì bác yên tâm nhiều rồi.” Đường Mẫn vòng tay ôm lấy cổ giáo sư, nghẹn ngào nức nở. Giáo sư khẽ vỗ nhè nhẹ lên lưng cô, nói: “Cháu mãi vẫn không sửa được cái tật xấu nhỏ này, không được khóc, mà nào có phải là đi lâu gì đâu, lúc về còn nhớ đến đây thăm bác là được rồi.” Từng giọt từng giọt nước mắt lớn lăn trên gò má, Đường Mẫn nói: “Đều tại cháu không tốt, nếu không phải hồi trước vừa mới gặp đã nói sức khỏe bác không tốt, giáo sư... giáo sư cũng không... hu hu hu.” Giáo sư Phương Tân nhớ lại hồi đầu khi mình và Đường Mẫn tranh chấp chuyện ai với ai đi tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, không khỏi nở một nụ cười thoải mái, nói: “Con bé ngốc này, cháu còn nhớ chuyện ấy cơ à? Ha ha.” Đội trưởng Hồ Dương nói: “Lão Phương này, chúng ta già rồi, không cần phải ôm ôm ấp ấp làm gì. Tôi chỉ hy vọng lúc chúng tôi trở về, anh đã bình phục khỏe mạnh, tới lúc ấy cả bọn lại đi leo núi tuyết thêm chuyến nữa.” Giáo sư Phương Tân cười hà hà nói: “Được thôi!” Nói đoạn, ông lại nắm tay đội trưởng Hồ Dương nói: “Kinh nghiệm dã ngoại của anh rất phong phú, có anh là tôi yên tâm lắm rồi.” Đội trưởng Hồ Dương cười phá lên, đôi bàn tay kiên định mà mạnh mẽ. Pháp sư Á La không bắt tay với giáo sư, chỉ chắp hai bàn tay trước ngực niệm một câu kệ: “Vạn pháp do duyên sinh, tùy duyên tức là phúc.” Giáo sư Phương Tân hân hoan lĩnh ngộ, đột nhiên thấp giọng hỏi: “Tôi biết, tòa thần miếu này có ý nghĩa hết sức to lớn đối với người thuộc giới tôn giáo các vị, nhưng tôi vẫn phải hỏi pháp sư một câu. Các vị dốc toàn lực vào cuộc tìm kiếm này, thực sự chỉ vì tín ngưỡng tôn giáo thôi sao? Hay là...” Pháp sư Á La cúi người xuống, nói thì thầm bên tai giáo sư Phương Tân bằng giọng còn nhỏ hơn lúc nãy. Giáo sư sắc mặt dần trở nên nghiêm túc, ngước lên nhìn pháp sư Á La hỏi: “Thật không vậy?” Pháp sư Á La nghiêm nghị gật đầu. Giáo sư Phương Tân khi ấy mới dãn hai hàng lông mày ra, mỉm cười nói: “Tốt, vậy thì tốt lắm.” Giọng pháp sư Á La rất khẽ, đến Nhạc Dương vểnh cả tai lên mà cũng không nghe thấy gì. Sau đó anh chàng đã rất nhiều lần hỏi dò pháp sư Á La xem rốt cuộc ông đã nói gì với giáo sư, nhưng pháp sư trước sau vẫn không trả lời. Lữ Cánh Nam cũng không bắt tay giáo sư, mà đứng chụm hai chân vào nhau, thực hiện nghi thức chào theo đúng kiểu nhà binh. Giáo sư Phương Tân nói: “Cô là sĩ quan huấn luyện của họ, có cô ở trong nhóm, đội ngũ này mới có kỷ luật được. Còn mấy thành phần gàn bướng cá biệt, đành phiền cô tốn công tốn sức thêm nữa vậy.” Nói đoạn, ông đánh mắt liếc sang phía Trác Mộc Cường Ba, khe khẽ lắc đầu. Lữ Cánh Nam nói: “Hai năm nay tôi đã nghe theo đề nghị của giáo sư mà tiến hành quản lý tùy theo tính tình từng người, làm gì còn kỷ luật gì nữa chứ. Muốn nói đến kỷ luật, thì phải xem vị tân đội trưởng của chúng ta quản lý thế nào thôi.” Nói đoạn, cô liếc nhìn Trác Mộc Cường Ba một cái đầy thâm ý. Tất cả mọi người đã đứng cạnh cửa, chỉ còn lại mình Trác Mộc Cường Ba. Gã vẫn đờ ra, lẳng lặng nhìn thật kỹ ông già ấy, bậc tiền bối ấy. Vầng trán ông đã hằn lên đầy những nếp nhăn, gọng kính để lại một vết hằn sâu trên sống mũi, hốc mắt hõm sâu vào khiến đôi mắt ông trở nên nhỏ và hẹp dài. Đôi mắt ấy, đôi mắt ấy cũng đã bị một tầng mờ đục phủ lên, dường như không còn được sáng rực đầy thần thái như xưa nữa. Đây chính là thầy giáo của gã, người thầy đã nắm tay chỉ bảo cho gã hiểu biết về động vật họ chó, người thầy đã thay đổi cả cuộc đời gã. Có lúc Trác Mộc Cường Ba cũng không thể phân biệt rõ ràng, đây rốt cuộc là thầy giáo hay là cha mình nữa. Chỉ khi gã thực sự bình tâm lại, dùng trái tim mình để quan sát trong khoảnh khắc biệt ly này, gã mới đột nhiên phát hiện ra, ông, đã già rồi. Giáo sư Phương Tân vẫy tay gọi Trác Mộc Cường Ba bước tới bên cạnh mình. Gã lê bước tới trước mặt ông, quỳ một chân xuống như các kỵ sĩ thời Trung cổ, hơi ngẩng đầu lên để giáo sư Phương Tân có thể nhìn thẳng mình. “Thầy giáo...” Nhìn gương mặt từ ái mà bình tĩnh của giáo sư, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên không biết nói gì nữa. Chỉ nghe giáo sư Phương Tân nói: “Tâm ý của cậu tôi đều hiểu cả. Giữa hai chúng ta không cần phải nói gì nhiều nữa. Chỉ có điều, tôi muốn cậu biết một điều này.” “Ừm, thầy giáo, thầy nói đi, tôi nghe đây.” Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu nhìn giáo sư. Giáo sư Phương Tân khẽ đặt bàn tay lên đầu Trác Mộc Cường Ba, nghiêm nghị nói: “Cường Ba ạ, nhớ cho kỹ, cậu là đội trưởng, cậu phải gánh vác được trách nhiệm của một người đội trưởng, tính mạng của tất cả các thành viên trong đội nằm cả trong tay cậu đấy, mà lần này, đường đi phía trước rốt cuộc thế nào, chúng ta đều đã lường được. Tôi hy vọng, mọi người không những có thể bình an tìm thấy Bạc Ba La thần miếu, mà quan trọng hơn nữa là, tất cả đều có thể bình an trở về!” Giáo sư đưa mắt nhìn tất cả mọi người, rồi tiếp tục nói thêm: “Đặc biệt là, những người trong căn phòng này, cậu hiểu không? Bọn họ không chỉ là những thành viên trong đội của cậu, họ đã cùng nhau vượt qua lằn ranh của cái chết, đó là nhờ vào sự tin tưởng lẫn nhau và tinh thần hợp tác, có vậy mới thoát khỏi nanh vuốt của Tử thần được. Hơn hai năm nay, họ luôn là những chiến hữu thân thiết nhất của cậu, thậm chí có thể nói, cậu và họ là những người trong một gia đình không chung họ cũng không sai chút nào đâu!” “Nhớ kỹ!” Giáo sư Phương Tân nhấn giọng nói: “Người một nhà, có nghĩa là không một người nào có thể bị bỏ rơi, không một người nào có thể bị quên lãng! Cậu hiểu không?” Trác Mộc Cường Ba cảm nhận được một cách rõ rệt lúc giáo sư Phương Tân nói câu này, lực từ cánh tay truyền xuống đầu gã. Đó là một thứ áp lực, hoặc giả, là một thứ trách nhiệm. Gã kiên định trả lời: “Thầy giáo, tôi hiểu rồi.” Giáo sư Phương Tân buông tay, thở phào nhẹ nhõm như thể vừa trút được một gánh nặng. Sau đó, ông lấy ra một chùm chìa khóa, tháo con dao Thụy Sĩ bằng thép ròng, trịnh trọng trao cho Trác Mộc Cường Ba: “Lần này tôi không thể cùng đi với cậu, thứ này cậu hãy mang theo bên mình đi, đừng coi thường nó cũ kỹ, lúc nào đấy có khi lại dùng được cũng không chừng đó.” Trác Mộc Cường Ba đưa hai tay nhận lấy món quà. Gã biết, địa vị của con dao gấp Thụy Sĩ này trong lòng giáo sư Phương Tân cũng chẳng khác nào thanh kiếm đồng bảo vật gia truyền nhà gã là mấy. Đây là món quà quý giá nhất mà cha giáo sư đã tặng cho khi ông còn nhỏ. Hơn năm mươi năm nay, nó vẫn luôn là vật bất ly thân của ông. Trong những câu chuyện của ông, giáo sư đã không biết bao nhiêu lần nhờ vào con dao nhỏ ấy mà sống sót trong những cảnh ngộ tột cùng nguy hiểm. Hiện giờ, ông đã giao con dao nhỏ ấy cho gã. Trác Mộc Cường Ba ý thức được một cách rõ ràng, thầy giáo không chỉ trao cho gã một con dao gấp nhỏ của Thụy Sĩ, mà ông còn hy vọng, qua con dao nhỏ ấy, có thể truyền cho gã tinh thần tìm tòi cùng với dũng khí của mình nữa. Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba sáng bừng lên nhìn chằm chằm vào giáo sư Phương Tân. Giáo sư Phương Tân cũng nhìn gã, mỉm cười, những nếp nhăn hằn sâu bởi năm tháng chất đầy lên gương mặt già nua, nét sương điểm trên mái tóc dần lan từ hai bên tai ra khắp đầu. Ông già này cũng hiểu rất rõ, thời gian sẽ mang đi tất cả, dẫu rằng vết thương ở chân mình có hoàn toàn hồi phục, ông cũng không thể nào leo núi tuyết, băng qua sa mạc, qua thảo nguyên như trước đây được nữa. Nhưng hành trình mạo hiểm thì vẫn phải tiếp tục. Cường Ba à, nhờ cậu mang theo ánh mắt của tôi đi ngắm nhìn, đi quan sát thế giới lạ lẫm hoàn toàn mới mẻ ấy, cặp mắt giáo sư như truyền tới Trác Mộc Cường Ba một thông điệp như thế. Trác Mộc Cường Ba cố nén tâm trạng kích động, cầm tập hồ sơ lên đặt vào tay giáo sư Phương Tân, nói: “Thầy giáo, đây là giấy cam kết miễn trừ trách nhiệm và di chúc của mọi người, tạm thời nhờ thầy bảo quản giúp.” Giáo sư Phương Tân mỉm cười nói: “Được, tôi mong sẽ không bao giờ phải mở nó ra.” Ông ngước nhìn ra ngoài cửa sổ, từ đây đã có thể nhìn thấy dáng vẻ hùng vĩ của ngọn núi tuyết xa xa. Đỉnh núi trắng xóa lặng lẽ cúi nhìn chúng sinh trên mặt đất. Chỉ nghe giáo sư lại nói: “Thiết tưởng, khi hoa sen tuyết nở, chắc mọi người cũng trở về rồi nhỉ?” Trác Mộc Cường Ba gật đầu nói: “Đúng vậy, khi hoa sen tuyết nở, chúng tôi nhất định sẽ trở về.” Hai người cùng mỉm cười, họ đã có một lời ước định. Giáo sư nói: “Được rồi, mau đi đi, xe đang đợi mọi người đấy!” Trác Mộc Cường Ba đứng lên, nhìn chăm chú thầy giáo của mình một lần cuối cùng. Cố nén cảm giác chua xót đang dâng trào lên trong tâm khảm, gã nói: “Vậy thì, chúng tôi đi đây, thầy giáo.” Nói đoạn, gã liền sải chân bước những bước dài, kiên định, đầy quyết tâm, đầu không ngoảnh lại. “Chúng tôi đi đây, giáo sư.” “Đi đây, lão Phương, đợi tin tức tốt lành của bọn tôi nhé.” “Chúng tôi sẽ trở về ngay thôi...” “Cháu đi đây, giáo sư...” “Cháu đi nhé, giáo sư...” Chiếc xe để lại trên mặt đường một làn khói bụi nhè nhẹ, thoắt cái đã đi rất xa. Trác Mộc Cường Ba quay đầu lại, vẫn lờ mờ trông thấy giáo sư Phương Tân vẫy tay trước cửa. Khoảng cách càng xa, thân hình gầy gò trên chiếc xe lăn ấy dường như lại càng hiện rõ lên trong tâm thức gã. Dọc đường, Trác Mộc Cường Ba không ngừng mân mê con dao nhỏ bằng thép. Mỗi vết xước hằn trên thân dao đều như đang kể lại những cuộc hành trình thời trai trẻ của giáo sư Phương Tân. Hoặc giả, đến một ngày nào đó, khi gã cũng già nua đến độ không thể bước đi được nữa, con dao này sẽ được nắm trong tay một người trẻ tuổi khác, để chứng kiến một cuộc hành trình đầy những kỳ tích khác. “Con đường chúng ta đi, không ai hay biết, những chuyện chúng ta làm, không người ghi chép, nhưng con dao nhỏ này, chắc là nó có thể cảm nhận được.” Gã trầm ngâm nghĩ vậy, đến nỗi không để ý cả đến Đường Mẫn cứ xuýt xoa rủ gã cùng ngắm cảnh hai bên đường. Khi xe đến Bài Hương, phía trước đã không còn đường nữa, cả đoàn phải xuống xe. Đám khách ba lô ấy lại đeo hành trang trĩu nặng của mình, theo đuổi hy vọng tự do, tiến về vùng hoang nguyên mà nền văn minh hiện đại không thể vươn cánh tay đến. Phía trước có quá nhiều điều chưa biết đang đợi chờ bọn họ, thậm chí có những điều bắt họ phải trả giá bằng cả tính mạng mình, nhưng tất cả đều đang cười hân hoan, tiến lên không chút do dự, bởi vì họ mang theo hy vọng và khát khao, vẻ đẹp trước mắt sớm đã làm lu mờ, khuất lấp nỗi sợ đối với nguy hiểm hay thậm chí là cái chết. Ngày đầu tiên, các thành viên trong đội đi một mạch không ngừng nghỉ, băng đèo vượt núi đến bên bờ sông Nhã Lỗ Tạng Bố. Nhìn con rồng trắng ngoằn ngoèo uốn khúc, những người mới lần đầu tiên trông thấy sông Nhã Lỗ Tạng Bố không khỏi bồi hồi kích động, gối lên tiếng sóng ầm ầm chìm sâu vào giấc mộng, sóng lòng cuồn cuộn dâng cao tựa dòng sông bên cạnh. Ngày thứ hai, đoàn bắt đầu tiến vào con đường nhỏ cheo leo trên vách núi sát bờ sông, những thành viên mới chưa từng đi qua con đường trên vách núi dựng đứng như thế này, đương nhiên là không được thuận lợi cho lắm, mỗi lần đi đến chỗ nào hiểm yếu đều không khỏi giật mình thảng thốt mất một lúc. Để bảo đảm an toàn, cả đoàn đi chậm lại một chút, nhưng trước khi trời tối cũng đến được chỗ hõm vào đầu tiên để nghỉ ngơi. Ba ngày tiếp sau đó trôi qua trong những tiếng kêu kinh hãi của các thành viên mới, tuy nhiên cũng không ai gặp phải chuyện gì nguy hiểm. Ngày thứ tư, họ bắt đầu tiến vào đoạn nước chảy xiết nguy hiểm nhất trên dòng sông Nhã Lỗ Tạng Bố, xưa nay chưa từng có người vượt qua được. Nhạc Dương thu hồi lại các thiết bị giám sát đặt dọc đường từ lần trước, đồng thời tiến hành phân tích sơ qua các băng ghi hình. Tối ngày hôm đó, toàn thể đội viên đều an toàn qua được Đại lưu tố(1), bắt đầu đặt chân vào phạm vi thôn Công Bố. Trác Mộc Cường Ba và mấy thành viên kỳ cựu bàn bạc một hồi rồi quyết định, vì khoảng cách quá xa, trời cũng đã tối, cả đoàn sẽ không đến thôn Công Bố nghỉ qua đêm nữa, mà cắm trại luôn ngoài trời, ngày hôm sau sẽ đến thẳng Cánh cửa Địa ngục. Lửa trại cháy hừng hực, hắt lên đỏ hồng gương mặt các thành viên. Đội trưởng Hồ Dương và pháp sư Á La, pháp sư Tháp Tây ngồi bệt dưới đất, dường như đang thương nghị chuyện gì đó. Lữ Cánh Nam đứng bên cạnh lắng nghe. Nhạc Dương thì đang tập trung sắp xếp lại các dữ liệu số bọn họ thu thập được, hai đồng đội cũ của anh cứ chốc chốc lại ra quấy quả làm phiền một lúc, nhưng cả hai anh chàng quấy rối đã nhanh chóng bị miệng lưỡi dẻo quẹo kể những sự việc thần bí lúc họ tới thôn Công Bố lần đầu tiên của Trương Lập thu hút. Tuy chuyện đã nghe không biết bao nhiêu lần từ hồi ở trại huấn luyện rồi, nhưng lúc này, ở giữa khung cảnh ấy, nghe lại Trương Lập mồm năm miệng mười, cố ý làm ra vẻ huyền hoặc như thế, cảm tưởng cũng khác hơn nhiều; cả mấy người bọn Vương Hựu, Lý Hồng, Trương Kiện mê mẩn lắng nghe. Sean ngồi giữa hai nhóm người, lúc thì nghe Trương Lập kể chuyện, lúc lại quay sang nghe mấy người nhóm đội trưởng Hồ Dương thảo luận. Ba Tang không nói lời nào ngồi xổm ở một góc, thỉnh thoảng lại cười khẩy một cái. Trương Lập thi thoảng dè dặt liếc Ba Tang một cái, như thể chỉ sợ Ba Tang sẽ lật tẩy mình đang nói phét. Sự thực thì người hay pha trò trêu chọc Trương Lập không phải ai khác mà chính là Mẫn Mẫn. Gương mặt nhỏ nhắn của cô có ánh lửa chiếu lên đỏ hây hây, miệng nhoẻn cười tươi như hoa nở, thi thoảng lại xen vào một hai câu bóc mẽ Trương Lập, làm anh chàng hết sức luống cuống bị động. Mạnh Hạo Nhiên thì hầu như chỉ loay hoay hí hoáy với cái máy ảnh, nếu không thì cũng kê vật cứng lên, cắm cúi ghi chép. Mấy ngày đi bộ bên sông Nhã Lỗ Tạng Bố đã khiến thi hứng của nhà thơ trẻ này dâng lên ngùn ngụt, tối nào cũng phải ngâm thơ làm phú một hồi chán chê mới chịu thôi. Trác Mộc Cường Ba ngồi bên cạnh Mẫn Mẫn, nhưng gã không hề để tâm đến Trương Lập đang ba hoa xích tốc, ánh mắt ngước nhìn dãy núi ở phía xa, trong lòng cứ trăn trở mãi về những câu đố đến giờ vẫn chưa thể tìm ra lời giải đáp. Gã hiểu rất rõ, những câu đố ấy, rất có thể sẽ trở thành chướng ngại lớn nhất trong hành trình lần này của bọn gã. Ngày nào còn chưa tìm hiểu rõ ràng, ngày ấy gã vẫn chưa thể yên tâm được. “Cường Ba thiếu gia, anh lại đây xem này.” Nhạc Dương vẫy tay gọi gã. ____________ Chú thích: 1. Sợi xích sắt bắc qua sông, đã nhắc đến ở tập 3 Mật mã Tây Tạng. (ND) Hành trình mờ mịt Trác Mộc Cường Ba bước tới chỗ Nhạc Dương. Nhạc Dương chỉ vào màn hình máy tính xách tay của giáo sư Phương Tân nói: “Anh xem, đây là phân tích mô phỏng của máy tính dựa trên số liệu thu thập được từ các thiết bị chúng ta lắp đặt trên đường, nhìn khoảng thời gian này mà xem, đường thẳng chỉ lượng nước cao nhất.” “Ừm?” Trác Mộc Cường Ba nói. “Nói vậy thì mực nước dòng sông Nhã Lỗ Tạng Bố này cứ đến tối là sẽ dâng cao à?” Nhạc Dương nói: “Tôi không nghĩ vậy đâu. Anh xem đi, Cường Ba thiếu gia, đây là số liệu của thiết bị giám sát số một, đây là số hai. Từ số một đến số năm, kết quả đều hiển thị mực nước có dâng lên rõ rệt. Thế nhưng, anh hãy xem kỹ những số liệu thô này đi, mực nước dâng lên ở mỗi điểm lại khác nhau, chẳng những vậy còn có xu thế giảm dần nữa, đến cái số sáu, thì mực nước đo được gần như hoàn toàn tương đương với mực nước bình thường rồi, tiếp theo đó, từ điểm đặt thiết bị số bảy đến số mười ba, đều là mực nước bình thường, nhưng đến điểm thứ mười bốn, anh xem...” Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên: “Cao như vậy cơ à!” Nhạc Dương gật đầu: “Đúng vậy, lưu lượng nước và tốc độ dòng chảy tăng rõ rệt, gấp đôi bình thường. Từ điểm số mười bốn đến điểm số hai mươi bốn, mực nước lại có xu thế dần dần hạ xuống, đến điểm thứ hai mươi lăm thì đã trở lại bình thường, chuyện này thật bất hợp lý.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Không sai, mực nước đột nhiên tăng theo từng đoạn. Sao có thể như vậy được chứ?” Nhạc Dương nói: “Sau khi máy tính suy diễn nhiều lần, chỉ có một tình huống có thể tạo ra hiện tượng này.” “Tình huống nào?” “Lượng nước tăng lên không phải do sông Nhã Lỗ Tạng Bố, mà là nước từ nơi khác chảy ra, thông qua thông đạo kiểu như Cánh cửa Địa ngục chảy ngược vào dòng sông, vì các cửa ra phân bố không đồng đều, dẫn đến hiện tượng sông Nhã Lỗ Tạng Bố đột nhiên dâng cao từng quãng về đêm.” Trác Mộc Cường Ba nghe mà không khỏi chau mày: “Sao lại như vậy được?” Nhạc Dương nói: “Tuy chúng ta vẫn chưa rõ nguyên nhân, nhưng Cường Ba thiếu gia, anh thử nhớ lại con thuyền da trâu đó mà xem, nó bị kẹt cứng ở trên cao như thế, nếu mực nước của dòng sông ngầm ấy dâng lên đến độ cao đó thật, nhất định là cao hơn mực nước sông Nhã Lỗ Tạng Bố nhiều lắm, nên nước sông ngầm chảy ngược ra sông Nhã Lỗ Tạng Bố cũng không phải chuyện kỳ quái gì. Chỉ lạ một điều là tại sao mực nước sông ngầm lại có thể dâng lên cao đến thế mà thôi. À!” Nhạc Dương đột nhiên sực tỉnh ngộ, nói: “Chẳng trách chúng ta không tìm thấy vết tích bị nước xâm thực trong hang ngầm. Nếu nước có thể dâng lên tận chỗ chiếc thuyền da, thì gần như đã ngập đầy cả hang ngầm rồi, tự nhiên là không thể nhìn thấy ngấn nước rồi.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Nếu nói nước từ trong sông ngầm chảy ngược ra, thì nước trong sông ngầm từ đâu đến? Chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi đã gần như ngập kín cả đường hầm, trong tự nhiên có hiện tượng như vậy hay sao?” Nhạc Dương lắc đầu: “Tôi không biết, nhưng tôi lại có một cách có thể phán đoán sơ qua xem suy luận của chúng ta có chính xác hay không.” Trác Mộc Cường Ba vọi nói: “Vậy hả? Cách gì thế?” Nhạc Dương chỉ vào máy tính nói: “Anh xem này, nếu không phải tự thân mực nước của sông Nhã Lỗ Tạng Bố dâng lên, mà là sông ngầm đổ ngược nước vào thông qua những cửa thoát nước giống như Cánh cửa Địa ngục, ở gần điểm đặt thiết bị giám sát số mười bốn này chắc là còn có một thông đạo tương tự như lối vào Cánh cửa Địa ngục. Chỉ cần dẫn theo mấy người đi kiểm tra một chút, là có thể xác nhận được suy luận của chúng ta rồi.” Thấy Trác Mộc Cường Ba không trả lời ngay, Nhạc Dương lại nói: “Tôi chỉ cần Trương Lập và anh Ba Tang đi chung là được rồi. Sáng sớm mai xuất phát, thăm dò xong xuôi chúng tôi sẽ lập tức trở về đội ngay.” Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, đoạn gật đầu nói: “Được rồi, nhớ giữ liên lạc, chú ý an toàn đấy.” Nhạc Dương vui vẻ đứng lên, tìm Trương Lập và Ba Tang bàn bạc. Trác Mộc Cường Ba lại gọi điện cho giáo sư Phương Tân, báo tin. Trong cả hành trình, ngày nào gã cũng liên lạc với giáo sư để trao đổi tin tức, càng đến gần Cánh cửa Địa ngục, thời gian hai người nói chuyện càng dài. Dường như ai cũng ngầm hiểu đi chuyến này không biết bao giờ mới gặp lại. Một dòng U Minh hà chia cách âm dương, chẳng biết ngày nào trở về. Ngày hôm sau, Nhạc Dương và Trương Lập, Ba Tang rẽ xuống phía Nam, còn Trác Mộc Cường Ba thì dẫn theo các thành viên còn lại tiếp tục tiến lên phía Bắc. Đi được nửa đường, gã nhận được điện thoại của Nhạc Dương. Chỉ nghe anh chàng vui vẻ nói: “Cường Ba thiếu gia, suy luận được chứng thực rồi.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Cậu nói gì? Ở đó quả nhiên cũng có thông đạo hả?” Nhạc Dương đáp: “Đúng vậy, nhưng không được đánh dấu trên bản đồ, vì đây là thông đạo hình cái sàng, mỗi lỗ chỉ nhỏ bằng nắm tay thôi, nhưng số lượng rất nhiều. Chúng tôi dùng máy quay thò vào thăm dò, phát hiện thấy thông đạo bên trong cũng nhỏ hẹp như vậy. Đợi lát nữa trở lại sẽ nói kỹ hơn với anh, đằng nào thì lối vào này cũng không thể dùng được.” Đứng trên bình đài phía trên Cánh cửa Địa ngục, Mạnh Hạo Nhiên ngẩn mặt nhìn trời cao, ngâm nga: “Phi lưu trực hạ tam thiên xích, nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên...(1)” Ai nấy đều bị vẻ tráng lệ của thiên nhiên mê hoặc. Trước mắt đẹp như tiên cảnh trong tranh, lại tựa như thế giới hư ảo trong giấc mộng. Dải lụa bạc kia dường như đã lớn hơn một chút so với lần trước họ tới đây, khí thế càng thêm hào hùng gấp bội. Bọt nước bắn tung dưới vách núi như ngàn vạn con ngựa tung vó dồn dập lớp trước tiếp nối lớp sau, thực khiến người ta trào dâng cảm khái, chỉ muốn thốt lên “Hoàng hà chi thủy thiên thượng lai, bôn lưu đáo hải bất phục hồi.(2)” Lý Hồng dè dặt hỏi pháp sư Á La lần trước đã tới qua nơi này: “Sao không thấy cửa nào vậy ạ?” Pháp sư Á La nhìn chằm chằm xuống dòng nước cuộn sóng dưới chân, đáp: “Ở dưới nước đó.” “Hả?” Lý Hồng nhìn xuống bên dưới vách đá, xoáy nước nổi lên hết đợt này đến đợt khác, chỉ nhìn xuống thôi cũng đủ đầu váng mắt hoa rồi. Nước chảy xiết như vậy, dẫu có ném một con trâu sắt xuống thì cũng lập tức bị cuốn trôi đi mất tăm mất tích chứ chẳng chơi. Lê Định Minh nhân lúc Mạnh Hạo Nhiên nổi thi hứng, liền lấy chiếc máy ảnh SRL của anh ta đi chụp lia lịa. Mẫn Mẫn cũng không phải lần đầu tiên đến đây. Một con bướm rất đẹp đậu trên vai Lê Định Minh thu hút khiến cô thấy lạ. Hai cánh bướm cứ chầm chậm khép mở dưới ánh mặt trời rực rỡ, nhưng mấy cái chân nhỏ lại bám chặt trên bờ vai Lê Định Minh, nó không bay đi lúc anh ta rung rung cánh tay để chụp ảnh. Đường Mẫn tò mò hỏi: “Anh Định Minh, con bướm này bay tới lúc nào vậy? Sao nó chẳng chịu bay đi gì cả thế.” Lê Định Minh ngoái lại nhìn, mỉm cười nói: “Tôi cũng không hiểu tại sao. Từ nhỏ tôi đã rất hút bướm, cứ mỗi lần đi vào rừng là đều có một đàn bướm bám theo bên cạnh. Con gái tôi cũng vậy, lũ bạn con bé đều gọi đùa nó là công chúa bươm bướm đấy. Lần này, trước khi đi tôi đã hứa sẽ mang về cho nó một con bướm đẹp nhất xưa nay chưa từng thấy.” Lúc Lê Định Minh và Đường Mẫn nói chuyện, pháp sư Á La và pháp sư Tháp Tây nửa như vô tình nửa như hữu ý liếc anh ta một cái. “Người khế ước” - trong đầu cả hai vị pháp sư cùng lúc lóe lên ý nghĩ ấy. Mọi người nghỉ ngơi trên bình đài được một lát thì mấy người bọn Nhạc Dương thở hồng hộc chạy đến nơi. Xem xong những hình ảnh họ quay được, Trác Mộc Cường Ba báo ngay thông tin về cho giáo sư Phương Tân. Giáo sư Phương Tân nói: “Hôm qua tôi đã thức cả đêm trưng cầu ý kiến một số vị chuyên gia. Họ có đưa ra lời giải thích là, nếu đường hầm nối giữa một cái hồ nào đó ở giữa vùng núi và sông ngầm đột nhiên thông ra, tùy theo diện tích và dung lượng nước của hồ có thể khiến nước sông ngầm dâng lên đột ngột, nhưng có lẽ thỉnh thoảng mới xảy ra một lần, không thể liên tục hằng đêm như vậy được. Nếu thiết bị giám sát của Nhạc Dương đã ghi lại gần nửa tháng nay mực nước vẫn duy trì dâng cao về đêm như thế, chỉ còn cách tìm nguyên nhân khác thôi. Không làm rõ được vấn đề này mà mạo hiểm tiến vào sông ngầm, mức độ nguy hiểm sẽ rất cao đấy.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi hiểu rồi, tối hôm nay tôi sẽ quan sát, nhưng bất luận thế nào, sáng sớm ngày mai chúng tôi cũng sẽ xuất phát?” Giáo sư Phương Tân nói: “Tôi biết, mọi người phải hết sức cẩn thận đấy.” Lúc mọi người đến được bình đài thì đã chập tối. Theo kế hoạch, cả bọn sẽ ở tạm dừng chân nghỉ một đêm cho tinh thần sung mãn, sáng sớm hôm sau đi tiếp. Trác Mộc Cường Ba tiện thể quan sát đoạn sông Nhã Lỗ Tạng Bố xem có đúng là nước dâng lên về đêm hay không. Các thành viên trong đội chia nhau dựng lều bạt, Nhạc Dương, Ba Tang dẫn theo ba người mới đi săn, một lúc sau đã khải hoàn trở về. Mấy người lại lụi hụi kê giá trên bình đài, mùi thịt nướng lan tỏa khắp nơi. Gió mát phất phơ, bầu trời đầy sao, dải lụa bạc dưới ánh sao tựa như khảm đầy những viên trân châu bảo thạch, sáng bừng lên lấp lánh; dòng sông cuồn cuộn chảy, tựa như muôn ngàn tiếng trống cùng thúc lên một lượt, ầm ầm như sấm động nơi chân trời. Đây đích thực là một nơi rất tốt để cắm trại. Cả nhóm ngồi vây quanh đống lửa, tay xé thịt nướng, hết sức cao hứng, chốc chốc lại có tiếng cười đùa vui vẻ vang lên trong sơn cốc. Mạnh Hạo Nhiên lại không kìm được thi hứng trong lòng: “Nhân gian trên trời, mây tía cố hương, nâng ly đón gió, thấu động tâm hồn, mặt trời sắp lặn, tôi sẽ dùng đôi mắt mình, khắc... khắc cảnh đẹp nhân gian vào tâm khảm. Đã bao giờ... đã bao giờ... điên dại như vậy! Rồng bạc trên trời chảy dưới chân tôi, gió mát trong khe núi cùng tôi hát xướng. A! Tôi muốn nhảy múa, tôi đã cuồng điên. Đến đây đi các bạn, cùng khoan khoái nhảy lên khúc oa trang(3), tận tình thỏa sức vui tươi. A! Thiên đường chốn nhân gian, một nơi thật kỳ diệu! A!...” Triệu Trang Sinh nhét một miếng thịt vào miệng anh ta, chặn cứng phần phía sau tiếng “A!” ấy trong họng Mạnh Hạo Nhiên, đoạn nói: “Đừng có ở đó mà ‘a’ mãi nữa, ảnh hưởng đến tâm trạng ăn uống của tôi.” Mọi người được một phen cười ồ lên. Trác Mộc Cường Ba nghe Trương Lập kể mấy câu chuyện cười rồi lẳng lặng đứng lên, đến bên mép bình đài. Ở đây, Ba Tang đã bị làn bụi nước mờ mờ từ thác nước bắn tóe lên thấm ướt cả nửa người. “Cường Ba thiếu gia.” Ba Tang nhìn chằm chằm ngọn thác phía trước, không ngoảnh đầu lại gọi một tiếng. Chỗ anh ta đang đứng đã là mép vách đá dựng đứng, chỉ cần hơi trượt chân một chút là sẽ rơi xuống vực sâu mấy trăm mét ngay lập tức, và dòng sông chảy xiết dưới kia có thể cuốn trôi anh ta đi không còn tăm tích chỉ trong một cái chớp mắt, nhưng Ba Tang vẫn đút hai tay vào túi quần, đứng yên bất động, như đã mọc rễ ở bên bờ vực sâu. “Ừm.” Trác Mộc Cường Ba bước lên trước, đứng song song với Ba Tang, thậm chí còn đứng sát mép vực hơn Ba Tang một chút, nửa mũi giày đã giẫm lên khoảng không, nhưng vẫn vững như bàn thạch. Gã hơi ngẩng đầu, ánh mắt vượt qua dòng thác, tầm nhìn vươn thẳng đến những vì sao lấp lánh ở tít chốn xa xăm. “Anh vẫn không thích ở chung với nhiều người sao? Anh xem, mọi người đều rất vui vẻ.” Ba Tang cười khẩy: “Ừm, ngày mai sống hay chết còn chưa biết, có gì đáng để vui?” Trác Mộc Cường Ba thở hắt ra một tiếng, vỗ vỗ lên vai Ba Tang nói: “Ngày mai sống hay chết, đó là chuyện của ngày mai, ít nhất là hiện giờ bọn họ đều rất vui vẻ. Có lẽ, ở đó có hạnh phúc mà anh vẫn luôn muốn đi tìm đấy, tại sao anh không thử thể nghiệm một chút đi?” Ba Tang ngẩng đầu, chỉ thấy vầng trăng vằng vặc trên cao bỗng có mấy phần u ám, cách vầng trăng một quãng xa, mấy ngôi sao lưa thưa ẩn hiện. Anh ta lẩm bẩm tự nói với mình: “Trăng mờ sao ít, không phải điềm tốt đâu.” Trác Mộc Cường Ba kéo Ba Tang trở về ngồi quanh đống lửa. Đêm hôm đó, mọi người đều thỏa sức hát ca nhảy múa, Ba Tang cũng có mấy lần nở ra nụ cười không còn lạnh lẽo nữa. Đêm khuya, mọi người đã ngủ, Trác Mộc Cường Ba vẫn ngồi chờ bên mép bình đài. Nhạc Dương ở bên cạnh gã, hai người đang đợi nước sông bên dưới dâng lên. Gió đêm mạnh dần, càng về khuya đêm càng lạnh lẽo. Nhạc Dương xốc lại cổ áo, nói: “Cường Ba thiếu gia, hay là anh đi nghỉ trước đi, ngày mai còn phải dẫn mọi người chèo thuyền nữa đấy. Tôi quan sát, nếu có thay đổi sẽ quay phim lại, sáng sớm mai anh cũng xem được mà.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Không cần, tận mắt nhìn vẫn tốt hơn, quay phim thì chỉ quay được một góc, biết đâu lại bỏ sót chỗ nào cũng không chừng. Vả lại, nếu không làm rõ được vấn đề này, ngày mai làm sao tôi dám dẫn theo bao nhiêu người mới như vậy xuống nước chứ, cậu bảo tôi làm sao mà ngủ được.” Nhạc Dương gật đầu: “Cũng phải...” Một lúc sau, Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Nhạc Dương, giờ cậu không phải đang chấp hành nhiệm vụ nữa, đi thế này, người nhà không lo lắng à?” Nhạc Dương cười đáp: “Có gì mà họ phải lo lắng chứ, trên tôi còn có rất nhiều anh chị, mà tôi thì từ nhỏ đã quen hoang đàng tự do rồi. Hồi nhỏ chẳng chịu cố gắng học hành, hay đánh nhau, thường bỏ nhà ra đi, trăm phần trăm là thuộc loại khiến gia đình xấu mặt. Tôi nghĩ, việc để tôi đi bộ đội cũng là vì người nhà hết cách với tôi rồi thôi.” Trác Mộc Cường Ba nhìn Nhạc Dương một lượt từ trên xuống dưới, cười cười nói: “Thật không nhìn ra đấy.” Nhạc Dương cố tình tỏ ra nghiêm túc nói: “Thật vậy sao?” Anh chàng nghĩ ngợi giây lát, rồi lại ngước nhìn lên bầu trời sao, cất giọng rầu rầu: “Thực ra Trương Lập mới là người không nên đi chuyến này, cha anh ấy mất sớm, anh ấy được mẹ một tay nuôi lớn, lại là con một, có điều...” anh lắc lắc đầu: “Khuyên thế nào anh ấy cũng không chịu trở về đâu, Trương Lập kiên quyết lắm.” Trác Mộc Cường Ba chợt thoáng động lòng. Từ trước đến giờ, gã không có ý đi thăm dò hoàn cảnh gia đình của những người này, thậm chí còn hơi né tránh hỏi đến. Gã cũng không hiểu tại sao, trước nay vẫn ngấm ngầm tự giải thích bằng câu “dùng người không nghi, đã nghi không dùng.” Nhưng gã cũng biết, không phải hoàn toàn như vậy. Đúng lúc ấy, một âm thanh kỳ dị làm kinh động hai người, dường như là phát ra từ vách núi sừng sững phía đối diện, ầm ầm như sấm động hay tiếng một loài dã thú khổng lồ gầm gừ, nghe như rất xa, nhưng lại cũng rất gần. Trác Mộc Cường Ba lập tức nói: “Bật đèn pha lên, chiếu xuống dưới.” Dưới ánh sáng đèn cực mạnh, hai người ngạc nhiên nhận ra, cả dòng Nhã Lỗ Tạng Bố bên dưới bình đài như sôi lên sùng sục, bên dưới những lớp sóng cuồn cuộn tuôn trào, bọt khí nổi lên ùng ục, có điều, tiếng nước ầm ầm đã hoàn toàn nhấn chìm tiếng bọt khí vỡ tung, nếu không cố ý chờ đợi thì chắc chắn không thể nào phát hiện ra hiện tượng kỳ dị này được. Nhạc Dương nói: “Cường Ba thiếu gia, anh xem kìa! Xem chỗ đánh dấu ấy!” Nhờ ánh sáng từ ngọn đèn chiếu, có thể thấy dấu vết bằng sơn đỏ Nhạc Dương quệt hồi chiều trên vách núi đối diện đang bị nước sông dâng lên che lấp, nhưng ở phía trên Cánh cửa Địa ngục thì chỗ đánh dấu vẫn y nguyên. Càng xuống phía dưới, nước lại càng dâng cao hơn. Toàn bộ quá trình chỉ kéo dài khoảng hơn mười phút, kế đó mực nước giữ ở trạng thái cân bằng nhất định, rồi lại bắt đầu chầm chậm hạ xuống. Trác Mộc Cường Ba không nén nổi kinh hãi thốt lên: “Như vậy là mực nước ở dưới sông ngầm không phải từ từ dâng lên, mà là dâng đầy trong nháy mắt. Đây... đây rốt cuộc là hiện tượng gì chứ?” Nhạc Dương cũng lắc đầu không hiểu. Đột nhiên, cả hai người không hẹn mà cùng im bặt. Trác Mộc Cường Ba lặng lẽ hướng về phía Nhạc Dương ra hiệu bằng tay: “Có người theo dõi, chỉ có một tên, tạm thời không làm kinh động mọi người, cậu đi hướng Đông, tôi vòng qua phía Tây.” Hai người ngầm hẹn, xoay người, như thể đang trở lại lều của mình, nhưng chỉ mượn lều trại che khuất thân hình, trong chớp mắt đã biến mất vào bóng đêm. Thoáng sau, Trác Mộc Cường Ba đã xuất hiện bên cạnh một gốc cây ở mép bình đài, Nhạc Dương cũng đang nấp rất kín ở một chỗ khác trong tầm mắt gã. Người mới đến này hiển nhiên không hề có chút kinh nghiệm theo dõi, bước chân hoảng hốt, gây tiếng động rất lớn. Trác Mộc Cường Ba đột nhiên hiện thân, lật tay một cái đã khống chế được người đó, đồng thời thấp giọng quát hỏi: “Ai?” Người mới đến hoảng hốt lại yếu ớt nhỏ bé, bị Trác Mộc Cường Ba quát cho một tiếng, ngược lại còn không nói được gì, cũng không dám hét lên kinh hãi, chỉ nghe y thở hổn hển một hồi lâu. Trác Mộc Cường Ba cũng cảm thấy cái cổ tay mình chụp lấy hết sức mềm mại nhỏ bé, không giống như cánh tay đàn ông. Dưới ánh sáng mờ mờ của trăng sao, gã trông thấy một đôi mắt to tròn đang toát lên vẻ kinh hoàng sợ hãi. “Ca Ca!” Trác Mộc Cường Ba buông tay ra, ngạc nhiên thốt lên, “Sao cô lại đến đây?” Ca Ca cũng đã định thần lại sau cơn kinh hoảng, dần dần nhận ra được vẻ ngoài của Trác Mộc Cường Ba, lại nghe ra giọng gã, rụt rè lắp bắp: “Thánh... Thánh sứ đại nhân!” Nhạc Dương chạy tới nơi, vừa thấy Ca Ca cũng lấy làm kinh ngạc: “Ca Ca!” “Sao cô tìm đến đây vậy?” Trác Mộc Cường Ba vừa hỏi, vừa dắt Ca Ca tới bên cạnh đống lửa, chỉ thấy cô bé quần áo nhàu nhĩ rách rưới, mặt mũi lấm lem bùn đất, mu bàn tay, trên mặt đều có mấy chỗ bị cào rách, không nén nổi buột miệng hỏi: “Sao lại ra nông nỗi này?” Ca Ca chưa nói gì đã khóc òa, mếu máo nói: “Cuối cùng cũng tìm được mọi người rồi, Thánh sứ đại nhân. Đây là...” Nói đoạn, cô cho hai tay vào bọc, lấy ra miếng Thiên châu Trác Mộc Cường Ba đã thay Đa Cát giao cho mình, mân mê một hồi thật lâu, rồi rốt cuộc cũng đưa ra, nói: “Đây là của Đa Cát để lại, xin Thánh sứ đại nhân hãy mang nó đến Shangri-la. Tâm nguyện lớn nhất trong đời của Đa Cát chính là được theo Thánh sứ đi tìm thánh địa đó mà...” Hai tay cô bé run rẩy nâng miếng Thiên châu. Đây có lẽ chính là thứ duy nhất của Đa Cát để lại, nên giữ nó lại bên mình hay là để Thánh sứ mang đến Shangri-la, rõ ràng cô đã phải đấu tranh nội tâm rất lâu mới đưa ra được quyết định. “Chỉ vì chuyện này mà cô băng đèo vượt núi tìm đến tận đây ư...” Giọng Trác Mộc Cường Ba không giấu nổi ý quở trách. “Ưm!” Không ngờ ánh mắt Ca Ca vẫn nhìn thẳng vào gã một cách kiên định. Rõ ràng, đối với cô, đây là một việc vô cùng quan trọng. Trác Mộc Cường Ba nói: “Đã khuya như vậy rồi, một mình cô thân con gái con đứa ở trong núi sâu, không sợ bị thú hoang bắt đi ăn thịt à? Anh trai cô có biết hay không? Cô... cô thật là bừa bãi quá rồi.” Nhạc Dương lấy một ít đồ ăn tới, hỏi: “Cô ăn gì chưa, có đói không?” Ca Ca cảm ơn, rồi đón lấy ăn luôn, hiển nhiên là cô bé đã đói lắm rồi. Ca Ca nói: “Sau khi Thánh sứ đại nhân đi, anh Trương Lập lại mang theo rất nhiều đồ đạc đến, tôi biết, Thánh sứ đại nhân nhất định sẽ trở lại. Lần này, ngài sẽ xuất phát lên đường thật, tôi sợ không kịp gặp, nên mấy ngày nay đều ở đây tìm mọi người...” Ca Ca vừa ăn vừa kể. Thì ra, từ khi quyết định nhờ Thánh sứ đại nhân mang Thiên châu của Đa Cát đến Shangri-la, cô đã bắt đầu đi tìm Cánh cửa Địa ngục rồi, nhưng lúc đó bọn Trương Lập đã đi mất. Tuy Cánh cửa Địa ngục là thánh địa mà thôn Công Bố canh giữ, nhưng không phải người nào cũng biết nó ở đâu. Ca Ca tự biết anh trai sẽ không nói cho cô biết lối vào Cánh cửa Địa ngục ở đâu. Cô nghĩ, nếu Thánh sứ đại nhân đã quan tâm đến anh chàng mình gặp ba năm trước như thế, thì Cánh cửa Địa ngục chắc chắn sẽ không ở xa nơi cô phát hiện người đó cho lắm, vì vậy cô cứ quanh quẩn ở đó tìm kiếm, chờ đợi. Hôm nay phát hiện phía bên kia núi có ánh lửa, Ca Ca liền chạy đến ngay. Nghe Ca Ca kể xong, lại nhìn cô bé đầy mình lấm lem bùn đất, Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương đưa mắt nhìn nhau, không nói một lời. Lúc này mà đưa cô bé trở về thì quá nguy hiểm. Ca Ca nói không cần, buổi sáng cô sẽ tự biết tìm đường trở về thôn làng. Trác Mộc Cường Ba liền để Ca Ca ngủ chung lều với Lữ Cánh Nam. Sắp xếp xong xuôi, gã và Nhạc Dương cũng chia nhau về lều nghỉ ngơi. Sáng sớm hôm sau, Trác Mộc Cường Ba hỏi Ca Ca có cần bọn họ đưa trở về hay không, nhưng cô bé quật cường ấy đã mềm mỏng từ chối. Cô muốn chờ đến khi Thánh sứ đại nhân xuất phát, tận mắt nhìn thấy Thánh sứ đại nhân tiến vào Cánh cửa Địa ngục rồi mới trở về. Trác Mộc Cường Ba liên lạc với thầy giáo lần nữa. Hai người mải thảo luận về những câu đố vẫn chưa có lời giải đáp kia, hầu như không ai nhắc đến chuyện biệt ly, giáo sư Phương Tân vẫn dặn dò đủ chuyện và ân cần hỏi han. Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba cũng cất tiếng: “Thầy giáo, tôi phải gác máy đây, mọi người đang đợi tôi rồi.” Cuối cùng, Giáo sư Phương Tân nói: “Vậy tôi cũng không nói nhiều nữa, nhớ cho kỹ! Người nhà, có nghĩa là không ai bị bỏ rơi, không ai bị quên lãng!” Trác Mộc Cường Ba đồng thanh nói theo ông: “Người nhà, có nghĩa là không ai bị bỏ rơi, không ai bị quên lãng.” Gập điện thoại di động, Trác Mộc Cường Ba kéo khóa phéc mơ tuya bộ đồ lặn trên người, bám dây thừng leo xuống. Nhạc Dương và đội trưởng Hồ Dương ở lại sau cùng, phụ trách xử lý dấu vết. Trác Mộc Cường Ba nổi dập dềnh trên mặt nước, ngẩng mặt nhìn trời xanh mây trắng. Chỉ trong chốc lát đây thôi, ta sẽ chỉ còn có thể đánh bạn với bóng đêm thăm thẳm, gã thầm nhủ. Lúc này trên bờ chợt vang lên tiếng hát trong vắt du dương của Ca Ca, âm thanh văng vẳng êm ái, át cả tiếng thác ầm ầm, vang đến tận tai mỗi người trong đoàn thám hiểm. Chư Nghiêm chưa từng học qua tiếng Tạng cổ, không nén nổi tò mò hỏi: “Hát gì vậy, hình như là rất bi thương thì phải?” Trác Mộc Cường Ba điềm đạm đáp: “Là một bài ca tống biệt.” Dứt lời, gã hít sâu một hơi, thân thể chìm xuống dưới, bên tai ngoài tiếng nước mông lung mờ mịt thì không còn âm thanh nào khác. Trên bình đài trong khoảnh khắc đã trở thành một vùng tĩnh lặng thâm u, chỉ còn tiếng hát là vẫn vẩn vít vang vọng: “Trên dòng U Minh, vong hồn vang tiếng, bờ kia nở hoa, bờ này buồn thương...” __________ Chú thích: 1. Câu trong bài Vọng Lư sơn bộc bố của Lý Bạch: Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây. (Tương Như dịch thơ.) 2. Câu trong bài Tương tiến tửu của Lý Bạch: Sông Hoàng Hà ngọn nước tại lưng trời tuôn đến bể khôn vời lại được. (Bản dịch Khuyết danh.) 3. Tên một vũ điệu dân gian của dân tộc Tạng. CHƯƠNG 47: TIẾN VỀ SHANGRI-LA Trác Mộc Cường Ba lấy dây thừng quấn nhanh một vòng,rồi vận sức vung một cái, quăng dây thừng lên trên, đầu kia buộc vào khúc gồ ra trên đầu mũi thuyền , Trương Lập và Nhạc Dương bắn dây thừng quấn xung quanh trụ đá một vòng, rồi nhanh chóng thắt nút thật chặt. Sau khi hoàn thành mọi chuyện, tiếng “ong ong ong” đó đã chuyển thành “ầm ầm ầm”, chẳng những mặt sông rung lên dữ dội, mà những người trên thuyền còn cảm nhận được rõ rệt, cả hang động đang rung động, như lở núi động đất vậy, nhất thời ai nấy đều hoảng loạn trong lòng, sự bất an lan dần trong tâm trạng mỗi thành viên. Ngày thứ nhất Trang bị của tất cả mọi người được chia vào các bao chất dẻo nhỏ chống nước, đưa xuống sông ngầm. Các thành viên trong đoàn cũng lần lượt bám vào dây thừng dưới nước, len qua thông đạo nhỏ hẹp cuồn cuộn nước xiết. Trương Lập và pháp sư Á La ở đầu nguồn dòng sông ngầm... cũng chính là phía cuối thông đạo để tiếp ứng. “Ùm”, như một bao hàng từ trên cao rơi xuống nước, Trác Mộc Cường Ba đứng thẳng người lên. Mực nước lúc này gần tương đương với mực nước khi lần đầu tiên gã đến U Minh hà, chỉ khác một điều là giờ đây hai bên bờ đứng đầy những vị tráng sĩ và cân quắc anh thư chuẩn bị xuất phát tiến về Shangri-la mà thôi. Trương Lập trông thấy Trác Mộc Cường Ba, lập tức vẫy tay chỉ vào một bọc đồ trên bờ nói: “Cường Ba thiếu gia, bọc đồ này của anh đấy.” Trác Mộc Cường Ba bước lên bờ, nhìn về phía có ánh đèn lấp lóa, mọi người đang sắp xếp lại hành trang trong các túi chất dẻo đã được đánh dấu từ trước. Gã liền cao giọng nói: “Mọi người,” gã chỉ tay vào sợi dây thừng ở cửa thông đạo, “sau khi hai người cuối cùng vào đây, sợi dây này sẽ bị cắt đứt, chúng ta chỉ có thể tiến lên, không còn đường nào lui nữa. Giờ đây mọi người đã nhìn rõ môi trường nơi này rồi, đây là lần quyết định cuối cùng, bất kể mọi người lựa chọn như thế nào, Trác Mộc Cường Ba tôi, cũng đều thực lòng cảm ơn mọi người, xin cảm ơn tất cả mọi người!” Kết quả không cần phải nói cũng rõ, tất cả hết sức hào hứng nhìn về phía đầu bên kia hang động tối như mực, khí thế hừng hực, đeo lên những chiếc ba lô to tướng, chuẩn bị chờ xuất phát. Sau khi Nhạc Dương và đội trưởng Hồ Dương tiến vào hang động, sợi dây thừng ngâm trong nước bị cắt thành những đoạn nhỏ trôi theo dòng nước. Trái tim Trác Mộc Cường Ba hơi chùng xuống, gã biết rõ, kể từ giờ khắc này, bọn họ đã cắt đứt tất cả liên hệ với thế giới bên ngoài, tiếp sau đây, bọn họ sẽ đến một nơi không thấy ánh mặt trời, chỉ có bóng tối vô cùng vô tận làm bầu bạn. Cùng với tiếng hô “Xuất phát!” của Trác Mộc Cường Ba, hai hàng người đi dọc theo hai bên bờ U Minh hà, hướng về phía bóng tối âm u, đặt bước chân đầu tiên trong hành trình tuyên chiến với tử thần. Bóng đêm dường như kéo dài vô tận. Âm vọng trong hang động phóng to lên vô số lần tiếng bước chân, tiếng thở, tiếng nước nhỏ giọt, chỉ không nghe thấy tiếng dòng U Minh hà đen kìn kịt như mực tuôn chảy như thế nào. Mực nước trong động lần này so với lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương xuống thì thấp hơn khá nhiều, bờ sông cao, nổi rộng rãi rõ rệt, những tảng đá kỳ hình quái trạng bên dưới bờ sông cũng lộ ra bộ mặt nhe nanh múa vuốt. Dưới ánh sáng của vô số ngọn đèn chiếu, cảnh tượng ly kỳ của dòng sông ngầm hiện lên không sót ngóc ngách nào. Ai cũng thầm kinh ngạc trong lòng, nhưng không ai thốt lên dù chỉ một tiếng, chỉ lầm lũi đi theo cả đội, như thể sợ làm phá vỡ mất sự tĩnh lặng thần bí nơi đây. Ba người bọn Trương Lập đi trước dẫn đường, Trác Mộc Cường Ba không nói tiếng nào, Nhạc Dương cũng chợt có một thứ cảm giác bất an không thể nói được thành lời. Mực nước càng thấp, có phải chứng tỏ rằng đã sắp đến điểm mực nước thấp nhất rồi, đến lúc ấy, mực nước này rốt cuộc làm thế nào mà dâng lên được? Trong chớp mắt đã lấp đầy cả đường hầm này hay sao? Đi bộ chừng hai tiếng đồng hồ, cuối cùng họ cũng đến được chỗ con thuyền lớn đã được bọn Trương Lập kiểm định và thử nghiệm. Tuy mọi người đã chuẩn bị tâm lý, nhưng đột nhiên trông thấy một con thuyền lớn như vậy trong không gian tối tăm u ám, không ít người vẫn phải kêu thốt lên kinh ngạc. Tiếng kêu ấy, bị hang động đẩy đi xa tít tắp, cuối cùng nghe như tiếng quỷ khóc ma gào. Chiếc thuyền rắn được cột vào một trụ đá lớn trên đỉnh hang động bằng sợi dây thừng to tướng, giờ đang lặng lẽ nổi dập dềnh trên mặt nước, mũi thuyền cao cao ngẩng lên kiêu hãnh, tạo hình kỳ dị, cùng với thể tích khổng lồ và lớp da kỳ quái, khiến mọi người phải kinh ngạc thốt lên. Trương Lập chỉ tay vào con thuyền lớn, nói: “Các vị, hoan nghênh lên tàu Noah số 1, bắt đầu chuyến du hành vào bóng đêm thôi.” Anh ấn chốt xuống, ba ngọn đèn pha đã được lắp sẵn trên thuyền cùng lúc sáng bừng lên, chiếu cả một đoạn sông ngầm tối tăm sáng rỡ như ban ngày. Trương Lập vẫn giữ nguyên sự linh động của hình dáng thuyền rắn, chỉ lắp đặt thêm một số trang thiết bị điện tử hiện đại. Con thuyền rắn lúc này, có thể nói đã tập trung cả trí tuệ thời cổ đại và khoa học kỹ thuật thời hiện đại vào một thể. Nghiêm Dũng không nói không rằng, ném luôn cái ba lô nặng nề trên lưng lên thuyền, kế đó nhún người nhảy vào trong, con thuyền không ngờ chẳng hề dao động một chút nào, lực nổi thực mạnh đến độ khiến người ta phải lắc đầu lè lưỡi thán phục. Đợi sau khi tất cả đã lên thuyền, Trương Lập tháo dây thừng ra, nói: “Mọi người nhìn xem, con thuyền này được thiết kế rất đặc biệt, gần như có thể nói nó được làm ra chỉ để đi lại trong hang động này. Thân thuyền hẹp mà dài, gần như dài hơn cả chỗ rộng nhất của hang động này, còn khung thuyền lại sử dụng kết cấu xương sống kỳ dị, thành thử gần như không thể xoay ngang, cũng không thể lùi ngược lại. Ngoài ra, khung thuyền hình xương sống này lại khiến thân thuyền có thể uốn éo linh hoạt tiến lên như là rắn vậy, dù là khúc quanh gấp chín mươi độ mà các thuyền nhỏ thông thường không thể rẽ ngoặt, nó cũng có thể dễ dàng vòng qua được. Xét về một mặt nào đó, có thể nói đây chính là một con cá, thoải mái bơi lội được trong hang động này, mà vây và đuôi của con cá ấy, chính là mái chèo trong tay chúng ta. Đi thôi, để con cá ấy bơi đi nào.” Các thành viên trong đội chia ra ngồi hai bên mạn thuyền, ba lô đặt ngay chỗ trống bên cạnh, người nào người nấy mặc áo phao cứu sinh, tay cầm mái chèo sắt, phía trước mũi thuyền có gắn một ngọn đèn pha công suất lớn, phía đuôi thuyền gắn hai đèn, đảm bảo mỗi người chèo thuyền đều có thể nhìn rõ tình hình bên cạnh và phía trước trong bóng tối. Người điều khiển đèn là Nhạc Dương và pháp sư Tháp Tây. Hai người đã đến U Minh hà thăm dò lần trước là Trương Lập và Trác Mộc Cường Ba ngồi ngay sau lưng Nhạc Dương, một là có thể nhìn rõ phương hướng, hai là có thể kịp thời nhắc nhở mọi người. Sau một tiếng hạ lệnh của Trác Mộc Cường Ba, con thuyền kỳ dị ấy liền như mũi tên rời dây cung, lao vút đi... Giáo sư Phương Tân vừa ngồi xuống liền nhận được một cú điện thoại. Giọng nói già nua ở đầu dây bên kia hỏi dồn dập: “Lão Phương, cái thứ anh đưa chúng tôi xem ấy lấy ở đâu ra thế?” Giáo sư Phương Tân nói: “À, lão Bành đấy hả, anh nói mảnh vảy đó chứ gì? Thế nào, đã tra ra gì rồi à? Lẽ nào đúng là thứ ấy có thuộc tính động vật?” Người họ Bành ở đầu dây bên kia hình như rất kích động, nói: “Không thể tin nổi ấy chứ, chúng tôi đã cân nhắc đắn đo mãi rồi, cũng đã kiểm nghiệm đi kiểm nghiệm lại vô số lần, đây đích thực là một miếng vảy da của một loài động vật nào đó. Tuy rằng nó có chút khác biệt với da của động vật hiện đại, có thể khẳng định trăm phần trăm đó là da động vật, có lớp biểu bì, lại có cả lớp nền nữa.” Giáo sư Phương Tân liền hỏi: “Đó là loài động vật gì vậy? Có đầu mối gì không?” Người họ Bành đáp: “Không. Nhưng kết cấu biểu bì này khác hẳn với biểu bì của đại đa số các loài động vật mà tôi biết, có điều chỉ nghiên cứu qua kết cấu tế bào thì ít đầu mối quá. Tóm lại... tóm lại... là cảm giác hết sức kỳ quái. Thứ này khiến tôi thấy tò mò rồi đấy, nếu có được một mảnh nhỏ thì tốt quá, không biết có thể liên hệ được với người mang thứ này đến cho anh nữa không vậy?” Giáo sư Phương Tân cười khổ đáp: “Vậy à? Giờ tôi cũng không biết bọn họ đã đi đâu nữa rồi...” Mới xuất phát, tốc độ con thuyền rất nhanh, khiến Trác Mộc Cường Ba bội phần hoan hỉ, nếu cứ giữ được tốc độ thế này, kế hoạch băng qua dòng U Minh hà trong vòng ba ngày của bọn họ có thể hoàn thành trước thời hạn. Thế nhưng, cùng lúc ấy, gã cũng có một dự cảm bất tường. Trong bóng đêm, cơ hồ luôn có một mối nguy hiểm nào đó đang chờ đợi bọn họ. Tất cả các thành viên trong đoàn vung những cánh tay mạnh mẽ lên, việc đi thuyền trong hoàn cảnh tối tăm mịt mùng như vậy không khiến họ sợ hãi mấy, ngược lại còn cảm thấy có chút kích thích, vì dẫu sao đây cũng là lần đầu tiên họ chèo một con thuyền như vậy, trong một hoàn cảnh như vậy. Mấy người kích động nhất phải kể đến Trương Kiện, Lý Hồng..., còn các thành viên đã có nhiều kinh nghiệm thám hiểm như Nghiêm Dũng, Chư Nghiêm thì tỏ ra thận trọng hơn. Quả nhiên, cảm giác hưng phấn ấy không kéo dài được lâu. Để mọi người có một nhận thức rõ ràng về dòng sông ngầm này cho sớm, sau khi được Trác Mộc Cường Ba đồng ý, Nhạc Dương dẫn các thành viên đến đoạn sông dốc đứng mà lần đầu tiên tới đây bọn họ đã đi qua. Dòng nước xiết chảy dựng đứng, trong khoảnh khắc đã khiến dây thần kinh của chừng ấy con người căng hết ra. Có điều, nhờ thế mà ưu thế của thuyền rắn cũng được bộc lộ. Thân thuyền ngâm nước mềm ra, cùng với xương sống có thể tự do uốn lượn một cách linh động, khiến thuyền rắn bám chặt lên mặt nước. Từng cặp xương sườn và xương sống nối liền chia con thuyền rắn thành từng đốt từng đốt một, người ngồi trên thuyền như đang ngồi tàu lượn siêu tốc trong công viên vậy, lúc thì đột nhiên nhao xuống, lúc lại thoắt nghiêng sang trái, thoắt nghiêng sang phải né tránh đá ngầm. Có lúc con thuyền va chạm phải vách hang động hoặc cây trụ đá nào đó, thân thuyền đàn hồi rất tốt liền bật tung ra như quả bóng cao su, rồi lại va sang phía bên kia, các đội viên phải đồng lòng dốc sức phối hợp mới miễn cưỡng có thể khống chế được phương hướng. Sau khi vượt qua mười mấy phút ở đoạn nước sụt xuống bất ngờ ấy, những người đang cao hứng phấn khởi kia không còn hoan hô ầm ĩ được nữa. Bàn tay bám vào mạn thuyền của Lý Hồng và Triệu Trang Sinh đã hơi tái nhợt đi. Vừa nãy có hai đợt thuyền tròng trành nghiêng ngả mạnh, suýt chút nữa đã hất văng cả bọn họ xuống nước. Những người khác cũng bị nước lạnh bắn lên mặt ướt đầm đìa. Chỉ có Chư Nghiêm đã từng tham gia bơi thuyền trên sông Nhã Lỗ Tạng Bố là còn cười được. So với sông Nhã Lỗ Tạng Bố, nước xiết thế này vẫn còn chấp nhận được, anh ta thầm nhủ. Nhưng vẻ mặt Trác Mộc Cường Ba thì hoàn toàn không có chút hân hoan. Đây mới chỉ là một sự khởi đầu, trong bóng tối mịt mùng phía trước vẫn còn không biết bao nhiêu đoạn sông giống như thế này nữa, mà bọn họ ít nhất cũng phải lặp đi lặp lại quá trình này, kiên trì trong bóng tối suốt ba ngày... ba ngày dài đằng đẵng! Lúc vòng qua bình đài hình thang, Trác Mộc Cường Ba đối chiếu địa hình với bản đồ, cùng Nhạc Dương bàn thảo, rồi quyết định không chọn con đường thẳng. Đường vòng kia tuy có hơi xa hơn một chút, nhưng dọc đường ký hiệu các bình đài lại nhiều nhất. Không hiểu tại sao, hai người đều lờ mờ cảm thấy nếu đi như vậy thì sẽ an toàn hơn. Ngay từ đầu các thành viên đã được chia làm ba tổ, mỗi tổ sáu người, lúc chèo thuyền thì luân phiên nhau, mỗi tổ phụ trách một đoạn đường đi trong mười phút. Như vậy vừa có thể đảm bảo mọi người đều có đủ thời gian nghỉ ngơi, không chỉ vậy, những người đang ngồi nghỉ vẫn không ngừng nói chuyện còn có thể làm giảm đi nỗi sợ bóng đêm mịt mờ. Chỉ là nếu gặp phải đoạn nước chảy xiết nguy hiểm, thì toàn thể thành viên trong đội đều phải xắn tay vào hành động. Càng đi, mực nước sông ngầm càng xuống thấp hơn, những đoạn nước xiết nguy hiểm cũng mỗi lúc một nhiều, tình hình hết sức không lạc quan, về sau không ngờ có hẳn hơn hai tiếng đồng hồ liên tục toàn đi trong những đoạn gập ghềnh. Qua được đoạn sông dài nhất ấy, Trương Lập đã hơi tái mặt, lẩm bẩm nói: “Không ngờ lại như thế này.” Trác Mộc Cường Ba vẫn trầm ngâm không nói tiếng nào. Gã biết, tất cả đây mới chỉ là một sự khởi đầu... Vì khúc sông phía trước rất nông, nước tràn cả sang hai bên nên không có bờ sông, muốn dừng thuyền nghỉ ngơi cũng không thể được. Nhạc Dương phát hiện ra chỉ có những bình đài được đánh dấu trên bản đồ mới có thể neo thuyền được, chúng hoặc đột nhiên nhô ra hoặc có cột đá thẳng đứng để buộc thừng neo đậu, còn những nơi khác đa phần hầu hết đều là vách đá phẳng nhẵn, nếu không thì cũng là những đoạn nước xiết nguy hiểm nhất, ở những chỗ đó, dẫu là có nhìn thấy cột trụ gì thì cũng lướt vèo qua một cái, căn bản không thể nào dừng thuyền lại được. Cuối cùng Nhạc Dương tìm thấy một chỗ dừng thuyền đánh dấu trên bản đồ, liền cho thuyền neo lại để mọi người ăn uống nghỉ ngơi, phục hồi thể lực. Trác Mộc Cường Ba đi tìm Chư Nghiêm, Lữ Cánh Nam, đội trưởng Hồ Dương, Nhạc Dương để bàn bạc, phân chia lại công việc, ở những đoạn sông phẳng lặng thì vẫn chia làm ba tổ chèo thuyền như trước, nhưng hễ gặp phải đoạn nào có nước xiết hay địa hình hiểm trở, số người khống chế thuyền sẽ tăng lên chín người. Cần phải đảm bảo một nửa số người còn lại có thời gian nghỉ ngơi, bằng không nếu liên tiếp gặp phải nhiều đoạn nước xiết, thể lực của tất cả mọi người sẽ không thể nào giữ được. Lúc nghỉ ngơi, Mạnh Hạo Nhiên không ăn gì. Anh ta nói dạ dày đang quặn lên rất dữ dội, không nuốt nổi. Chư Nghiêm nói: “Tôi đã bảo với cậu từ trước rồi, lên núi được chưa chắc đã xuống sông được, ngồi thuyền trên dòng nước xiết và leo vách núi là những cảm giác hoàn toàn khác nhau. Giờ cậu đã biết lợi hại chưa, được huấn luyện đặc biệt rồi mà vẫn vậy.” Mạnh Hạo Nhiên nói: “Ngồi thuyền với ngồi xe đúng là khác nhau thật, giờ chân tôi giẫm xuống đất cứ mềm nhũn ra, mà con thuyền này thì cứ lao xuống phía dưới suốt, tôi có cảm giác như thể vài món nội tạng của mình tụt luôn nó xuống dưới rồi ấy, lúc huấn luyện thì cũng là một lên một xuống thôi chứ.” Nghỉ ngơi được giây lát, rốt cuộc anh ta cũng ăn được một chút. Không hiểu trong miệng Lê Định Minh đang nhai nhồm nhoàm sô cô la hay bánh khô ép, chỉ nghe anh ta hỏi: “Anh Chư, anh từng tham gia hoạt động đi thuyền trên sông Nhã Lỗ Tạng Bố, cảm giác dòng sông ngầm này với sông Nhã Lỗ Tạng Bố, nơi nào khó nhằn hơn vậy?” Chư Nghiêm nói: “Thuyền chúng tôi dùng khi đi trên sông Nhã Lỗ Tạng Bố là thuyền cao su nhỏ, hoặc ca nô cao su, cùng lắm cũng chỉ ngồi được bảy tám người, nếu chỗ nào dốc quá, chúng tôi có thể chui vào trong thuyền bít kín lại. So với dòng sông ngầm này, có thể nói là mỗi nơi mỗi hung hiểm. Nếu không xét đến môi trường xung quanh, những đoạn hiểm yếu ở sông Nhã Lỗ Tạng Bố tuyệt đối đáng sợ hơn dòng sông ngầm này nhiều. Đâu đâu cũng có những tảng đá lớn hai bên vách núi rơi xuống chắn giữa lòng sông, hơn nữa còn có những thác nước cao mấy mét, thậm chí mấy chục đến cả trăm mét. Tuy nói rằng chúng tôi đã đi thuyền dọc toàn bộ sông Nhã Lỗ Tạng Bố, nhưng kỳ thực thì không hẳn là vậy. Có nhiều đoạn thực sự là quá nguy hiểm, căn bản không thể nào dùng thuyền được, chúng tôi đành mang theo công cụ lên bờ đi vòng qua. Nhưng hoàn cảnh xung quanh dòng sông ngầm này lại nguy hiểm hơn sông Nhã Lỗ Tạng Bố nhiều, đầu tiên là không có ánh sáng, nếu chẳng phải có mấy chiếc đèn pha công suất lớn này, chúng ta e rằng muốn tiến lên một bước cũng hết sức khó khăn rồi; kế đó là không có nơi nào để dừng lại lên bờ, ba ngày ba đêm này chúng ta đều phải ở trên thuyền cả hai mươi tư tiếng đồng hồ, suốt bảy mươi hai tiếng đồng hồ chung quanh tối om như mực, suốt bảy mươi hai tiếng đồng hồ ở trên một con thuyền không thể đi đâu, chỉ riêng hai điểm này thôi, e rằng đã có nhiều người không thể làm nổi rồi. Nhưng cho đến hiện giờ, theo những gì tôi quan sát được, dốc nghiêng thế này cũng chưa phải lớn lắm, chỗ sụt nhiều nhất cũng chỉ khoảng một mét. Đối với loại thuyền dài gần chục mét thế này, độ cao ấy chưa đáng là gì cả. Có điều, con thuyền này cũng chỉ có thể đi được trong hang động này thôi, nếu ra bên ngoài kia, vướng phải nham thạch thì chẳng khác nào con rắn chết cả.” Lý Hồng nghi hoặc hỏi: “Nói như anh Chư thế thì đi thuyền ở sông ngầm này dễ hơn trên sông Nhã Lỗ Tạng Bố rồi đúng không?” Chư Nghiêm còn chưa đáp lời, Ba Tang đã cười gằn một tiếng, Nghiêm Dũng thì điềm đạm cất tiếng: “Không thể nói vậy được, anh Chư đã đi thuyền dọc cả sông Nhã Lỗ Tạng Bố, rồi mới lấy con sông đó ra so với dòng U Minh hà này, nhưng chúng ta chỉ vừa mới đi được có nửa ngày, tình hình những đoạn sông phía sau chúng ta vẫn còn chưa biết như thế nào.” Nghỉ ngơi xong xuôi, tổ thứ ba lại bắt đầu chèo thuyền. Sau khi qua chỗ ngoặt đầu tiên được một lát, một tia sợ hãi khó nhận ra chợt le lói lên trong đầu, khiến Trác Mộc Cường Ba sực cảnh giác. “Đợi chút đã.” Nhạc Dương lên tiếng trước. “Dừng!” Sau mệnh lệnh của Trác Mộc Cường Ba, tất cả các thành viên trong đội thu mái chèo lại, như các tuyển thủ môn đua thuyền trong đại hội thể thao. “Mọi người nghe xem có âm thanh gì không?” Nhạc Dương nhắc nhở. Cả bọn không cần tập trung lắm, vừa dừng tay chèo là lập tức nghe thấy những âm thanh “vo ve vù vù” vẩn vít bên tai... Hang động này có thể phóng to bất cứ âm thanh nào bên trong nó lên gấp mấy lần. Lê Định Minh liên tưởng đến chuyên ngành của mình đầu tiên, buột miệng thốt lên: “Là côn trùng đấy.” Quả thực là có chút giống tiếng ruồi muỗi vo ve. Bọn Chư Nghiêm liền nói: “Hừ, côn trùng thì có gì đâu, thế mà cũng phải dừng lại.” Nói đoạn liền cầm mái chèo lên, chuẩn bị tiếp tục lên đường. Nhưng những người đã trở về từ rừng rậm Amazon và Đảo Huyền Không tự như Trác Mộc Cường Ba lại hiểu rất rõ, có một số loài côn trùng còn đáng sợ hơn những gì người ta có thể tưởng tượng ra rất nhiều. Huống hồ, lần đầu tiên bọn họ xuống dòng sông ngầm này có phát hiện ra côn trùng gì đâu? “Không phải côn trùng, mọi người nhìn mặt nước mà xem!” Nhạc Dương lại có phát hiện mới. Dưới ánh đèn pha, mọi người để ý nhìn xuống dòng sông, mặt nước đen ngòm vốn trơn phẳng như kính, giờ đã thành hình lưới đánh cá, lăn tăn gợn sóng, nước sông đang lăn tăn gợn sóng. Những người trên thuyền đều có kinh nghiệm ở vùng hoang dã, biết khi mặt nước có gợn sóng lăn tăn thế này, chắc chắn là chỉ có rung động ở tốc độ cao mới gây ra được. Nhưng lúc này mặt nước và hai bên bờ hoàn toàn không có một vật gì, thuyền của họ cũng xuôi theo dòng nước, thứ gì đã làm gợn lên những đợt sóng lăn tăn ấy? Chỉ có thể là... cả hang động này đang rung lên! Những người đang cầm mái chèo liền cho thuyền tiến vào sát bờ bên phải, mấy người đưa tay ra rờ thử lên vách đá, rồi lập tức rụt về. Quả nhiên, cảm giác rung động như bị giật điện ấy chứng tỏ rằng cả đường hầm đang chấn động với tốc độ cực cao, âm thanh vo ve như muỗi kêu ấy chính là do vách đá phát ra. Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Chuyện gì vậy? Nhạc Dương?” Nhạc Dương nhíu mày, rõ ràng là cũng lấy làm nghi hoặc. Thứ gì có thể khiến vách đá trong cả hang động này bị chấn động rung lên như thế? Đột nhiên, dường như anh đã sực hiểu ra điều gì đó, vội hỏi: “Mấy giờ rồi?” Trương Lập cúi xuống nhìn chiếc đồng hồ nguyên tử, đáp: “Mười một giờ hai mươi mốt phút đêm.” Nhạc Dương lại hỏi: “Cường Ba thiếu gia, bản đồ đâu? Xem xem thời gian chú thích trên bình đài đầu tiên gần đây nhất là bao giờ.” Kế đó anh lại nói: “Bảo mọi người tiếp tục chèo thuyền tiến về phía trước, hy vọng là tôi đoán sai.” Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại nói: “Mọi người tiếp tục tiến lên. Trương Lập, cậu phối hợp với mọi người đi.” Bật máy tính rồi mở bản đồ ra, Trác Mộc Cường Ba xem xét tỉ mỉ, cuối cùng nói: “Theo ghi chú trong bản đồ, thì chắc khoảng mười một giờ rưỡi đến mười hai giờ gì đó. Sao hả, cậu nghĩ ra được gì vậy, Nhạc Dương?” Nhạc Dương nói: “Tuy tôi vẫn chưa biết sẽ xảy ra chuyện gì, nhưng tôi nghĩ, trước mười một rưỡi, chúng ta cần phải đến được chỗ bình đài tiếp theo. Chuyện này hết sức quan trọng.” Trương Lập hét lên ra hiệu, tất cả mái chèo lập tức đều đặn vung lên hạ xuống mạnh mẽ. Cả Nhạc Dương và Trác Mộc Cường Ba cũng cùng chèo thuyền. Tuy không biết tại sao, nhưng bản năng họ cảm nhận được, cần phải đến được địa điểm chỉ định trước thời gian đánh dấu trên bản đồ. Càng tiến lên phía trước, tiếng “ong ong ong” càng lớn. Khi đến được bình đài tiếp theo, Nhạc Dương đưa mắt nhìn con thuyền đang ngồi, rồi lại nhìn cây trụ đá to bằng mấy người ôm trên bình đài, đột nhiên nói: “Cường Ba thiếu gia, chúng ta vẫn đang phỏng đoán xem cây cột này dùng để làm gì phải không? Nếu tôi đoán không lầm, thì là dùng để buộc thuyền đó!” “Hả? Buộc thuyền? Tại sao?” Trương Lập nói. Chỉ nghe tiếng “ong ong ong” mỗi lúc một lớn, Nhạc Dương vội nói: “Không kịp giải thích nữa đâu, buộc thuyền lại trước đã, Cường Ba thiếu gia!” Các thành viên mới tuy cũng đã có thể sử dụng dây móc ở các mức độ khác nhau, nhưng không sao bì kịp những người cũ gần như đã coi dây móc như một bộ phận thân thể kéo dài. Nhạc Dương và Trương Lập vung tay lên, dây móc trong chớp mắt đã bắn vào vách đá, hai người liền như hai con khỉ thoăn thoắt leo lên trên. Trác Mộc Cường Ba lấy dây thừng quấn nhanh một vòng, rồi vận sức vung một cái, quăng dây thừng lên trên, đầu kia buộc vào khúc gồ ra trên đầu mũi thuyền, Trương Lập và Nhạc Dương bắn dây thừng quấn xung quanh trụ đá một vòng, rồi nhanh chóng thắt nút thật chặt. Sau khi hoàn thành mọi chuyện, tiếng “ong ong ong” đó đã chuyển thành “ầm ầm ầm”, chẳng những mặt sông rung lên dữ dội, mà những người trên thuyền còn cảm nhận được rõ rệt, cả hang động đang rung động, như lở núi động đất vậy, nhất thời ai nấy đều hoảng loạn trong lòng, sự bất an lan dần trong tâm trạng mỗi thành viên. “Nhìn kìa! Đó là gì vậy?” Cũng ngồi ở đầu mũi thuyền, Triệu Trang Sinh ở phía sau Trương Lập đột nhiên kêu lên. Ngọn đèn pha vẫn chiếu về phía trước, chỉ có điều cả một vùng hang động lẽ ra vẫn tối om như mực đột nhiên xuất hiện thứ gì đó, khúc xạ ánh sáng đèn pha, ùn ùn lao tới. Vật ấy ập tới rất nhanh, âm thanh đinh tai nhức óc. Tốc độ của thứ đó cực nhanh, khiến cả hang động rung lên bần bật. Khi nó vào đến phạm vi ánh đèn, mọi người chỉ kịp thấy một bức tường màu trắng bạc, tựa như vô vàn con côn trùng màu bạc ầm ập ào tới. Là nước! Nước lũ! Chỉ khi nào mở đập xả lũ người ta mới có thể thấy con nước mãnh liệt như thế này! Trong bóng đêm, từ khoảng cách ngoài nghìn mét nó đã lộ ra vẻ nanh ác dữ tợn, như thể một con rồng bạc khổng lồ đang giương nanh múa vuốt xông thẳng tới, chừng như muốn nghiền nát tất thảy mọi thứ cản trên đường. Tiếng nước cuồn cuộn vẳng đi vẳng lại bên trong, cuối cùng tạo thành một tiếng rú khủng khiếp, khiến cả hang động chấn động rung lên dữ dội. “Trời...” không biết ai kêu lên một tiếng kinh hãi, kế đó, sự trầm mặc bao trùm khắp không gian, mỗi người đều bắt đầu cảm thấy khó thở. Duy chỉ có mình Trác Mộc Cường Ba vẫn giữ được bình tĩnh, gã nói: “Tất cả mọi người, đeo chặt ba lô, bám vào mạn thuyền, cúi thấp đầu xuống, chuẩn bị nín thở, đến rồi!” “Ầm” một tiếng, một con sóng hững hờ ập xuống đầu con thuyền rắn, như thể một con côn trùng nhỏ bay thẳng vào miệng con rồng bạc khổng lồ, hoàn toàn không hề khiến nó chú ý, để rồi sau đó, con rồng bạc ấy lại mang theo ngạo khí ngút trời, bay vút lên phía trước. Giây lát sau, Trương Lập và Nhạc Dương căng thẳng nhìn sợi dây thừng bị kéo thẳng băng, đầu dây thừng chìm dưới nước kêu “pưng pưng”, con thuyền rắn lại nổi lên trên, chỉ có điều, vị trí của nó lúc này đã cao hơn lúc nãy đến sáu bảy mét. Mũi thuyền vểnh cao lên có tác dụng như một tấm chắn, dù sóng lớn như vậy nhưng nước hầu như không vào lòng thuyền, mà chảy xuôi theo mũi thuyền, làm con thuyền nghiêng đi một góc bốn mươi lăm độ, khiến chỉ những thành viên nào áp mặt sát mạn thuyền mới bị nước ập vào ướt sũng hết cả mặt. Con sóng qua đi, người trong thuyền lần lượt ngẩng lên, lắc mạnh đầu rũ nước ướt đẫm mặt, há miệng thở hồng hộc. Có người vuốt sạch nước lạnh buốt trên mặt xong thì nhìn thấy Trương Lập và Nhạc Dương lúc nãy còn bám ở tít trên cao, giờ chỉ còn cách mình có mấy mét, lại thêm một phen kinh hãi nữa. Không ngờ mới đi thuyền có mấy tiếng đồng hồ đã gặp phải tình huống nguy hiểm như vậy, bọn Lý Hồng, Triệu Trang Sinh lúc nãy còn hưng phấn là thế, giờ đã sợ tái mặt, không rõ trong lòng bọn họ cảm tưởng thế nào. Mọi người cùng hợp sức, chầm chậm đưa thuyền lại gần chỗ Trương Lập và Nhạc Dương. Đợt sóng lớn này vẫn chưa hết dư chấn, cũng không biết liệu có trào dâng lên lần nữa hay không. Mọi người vừa lấy lại bình tĩnh, vừa chờ đợi dòng sông ngầm phẳng lặng trở lại sau một phen đảo chiều. Trác Mộc Cường Ba quệt tay lau vệt nước chảy xuống trên trán, hỏi Nhạc Dương: “Sao cậu biết phải buộc thuyền lên trên?” Nhạc Dương nhún vai, nhảy vào thuyền, nói: “Về dòng sông ngầm này, chúng ta chỉ có mấy điểm vẫn chưa làm rõ được: thứ nhất, về đêm nước sông Nhã Lỗ Tạng Bố lại dâng cao, hơn nữa còn là nước từ sông ngầm đổ ra, tại sao lại như vậy? Thứ hai, các thông đạo, bình đài đánh dấu trên bản đồ đều đã được chứng thực, nhưng thời gian chú thích bên cạnh bình đài là để làm gì? Nếu chúng không chỉ thời gian cần thiết để đi hết đoạn đường ấy, vậy thì ám chỉ điều gì? Thứ ba, ở hai chỗ bình đài đều lưu lại dấu hằn của dây buộc thuyền, phải biết rằng, phải mất một thời gian dài mới có thể để lại vết hằn như vậy, buộc thuyền một hai lần thì không thể nào khiến thứ đá kiên cố như ở đây hằn lên được đâu. Thứ tư, người Qua Ba điên đó làm sao có thể điều khiển một con thuyền lớn thế này đi ngược dòng? Cuối cùng, làm sao có thể chui qua được đường hầm ấy?” Nhạc Dương giữ ngọn đèn pha, chiếu xuống mặt nước vẫn chưa lặng sóng của dòng U Minh hà, quay đầu lại nói: “Kỳ thực, tôi đã tìm ra đáp án trong những vấn đề này đó.” Trương Lập ngồi chồm hổm bên vách đá, hỏi: “Cậu liên hệ chúng với nhau thế nào vậy?” Nhạc Dương nói: “Còn nhớ không, tôi từng nói rồi, vết hằn trên trụ đá này không phải một sớm một chiều mà có, mà phải buộc dây thừng ở đây rất nhiều lần mới để lại được. Vách đá này người đứng còn chẳng đủ chỗ, người xưa nhiều lần buộc thuyền ở chỗ này, chắc chắn không phải là để nghỉ ngơi, mà là vì nguyên nhân nào đó khác, khiến họ không thể không buộc thuyền ở đây. Hơn nữa, phạm vi thời gian được ghi trong bản đồ không phải là khoảng thời gian cần thiết để đi từ điểm này tới một điểm khác, điều này đã được chúng ta chứng thực rồi. Tôi cũng đột nhiên liên tưởng đến thời gian về đêm lúc sông Nhã Lỗ Tạng Bố đột nhiên dâng nước mà chúng ta đã chứng kiến, lượng nước bỗng nhiên tăng đột ngột, chứng tỏ rằng hang ngầm này đã từng bị nước lấp đầy chỉ trong chớp mắt. Nếu đúng là như vậy, thì dường như đã giải thích được động cơ tại sao người xưa lại buộc thuyền ở đây rồi. Phải vậy không hả Cường Ba thiếu gia?” Trác Mộc Cường Ba gật đầu nói: “Không sai. Nghỉ ngơi giây lát, rồi tiếp tục lên đường thôi.” Bóng đêm, bóng đêm vô cùng vô tận. Ngọn đèn pha dập dềnh đung đưa theo con thuyền, vách đá ở phía xa xa lờ mờ ẩn hiện hình bóng của loài quái thú, một đám người mệt mỏi rã rời nằm vật ra trên thuyền. Thật không ngờ chỉ hai mươi bốn tiếng đồng hồ đầu tiên đã khiến họ gần như sức cùng lực kiệt. Mức độ và thời gian phải vật lộn giữa dòng nước xiết đã vượt quá khả năng chịu đựng của người bình thường rất xa. Mặc dù mệt rũ người, nhưng không ai thấy buồn ngủ, vì ba ngọn đèn pha công suất lớn sáng rực treo ngay trên đầu. Ánh sáng này tuyệt đối không thể nào tắt đi được. Mấy người bọn Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La, Chư Nghiêm cùng tranh thủ thời gian nghỉ ngơi. Mỗi lần gặp phải đoạn nước chảy xiết, Nhạc Dương đều quá kích động, hét đến khản cả cổ, nên giờ anh chàng chỉ có thể ngồi yên không nói không rằng. Bọn Trương Lập và Lý Hồng tuổi trẻ dồi dào sức lực, vẫn đang ba hoa bốc phét huyên thuyên. Trác Mộc Cường Ba ngồi quan sát từng người một. Thấy Trương Kiện lại đang cầu nguyện, gã bèn bước tới, chỉ thấy cuốn Kinh thánh trên đùi anh ta đang mở ra trang đầu tiên, viết rằng: Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. Thiên Chúa phán: "Phải có ánh sáng." Liền có ánh sáng. Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối. Thiên Chúa gọi ánh sáng là "ngày", bóng tối là "đêm". Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất. Ngày thứ hai Trác Mộc Cường Ba bước tới bên cạnh Mạnh Hạo Nhiên trước. Đường Mẫn đang khám cho anh ta. Pháp sư Tháp Tây lặng lẽ đợi một bên. Sắc mặt nhà nhiếp ảnh kiêm nhà thơ không sợ núi tuyết này có lúc đã tái nhợt đi. Anh ta hơi có vẻ mệt mỏi nói: “Tôi không sao, chỉ là dạ dày khó chịu một chút thôi, nghỉ ngơi giây lát là khỏi ngay ấy mà. Có thể là tối qua ăn nhiều thịt rừng quá, hôm nay tiêu hóa không được ổn cho lắm.” Đường Mẫn vẫn cẩn thận hỏi: “Ở đây có đau không? Có buồn nôn không?” Bàn tay pháp sư Tháp Tây đã đặt trên cổ tay Mạnh Hạo Nhiên bắt mạch. Trác Mộc Cường Ba hiểu rõ, vừa mới bắt đầu mà thân thể đã xuất hiện triệu chứng khó chịu, đây tuyệt đối không phải là chuyện hay ho gì, tình trạng tới đây của bọn họ không thể nào lạc quan được. Gã cũng biết rất rõ, dòng sông ngầm này chỉ có thể tiến lên, muốn trở lại là điều tuyệt đối không được. Pháp sư Tháp Tây nói: “Tỳ vị không được điều hòa, chắc là do khí huyết âm hư mà sinh ra, tạm thời chỉ cần điều hòa tỳ vị, lấy thứ gì ấm nóng bù lại là không sao đâu.” Đường Mẫn cũng nói: “Chắc là anh bị lạnh nên hệ tiêu hóa có vấn đề, đi thuyền lại tròng trành lắc lư sinh ra buồn nôn, uống một liều Maxolon (thuốc dạ dày) xem thế nào đã.” Trác Mộc Cường Ba nghe vậy mới bớt phần nào lo lắng. Gã dặn dò Mạnh Hạo Nhiên để ý đến sức khỏe, rồi tiếp tục bước xuống phía đuôi thuyền, tới trước mặt Sean. Đây là người nước ngoài tóc trắng mắt xanh duy nhất trong đoàn mạo hiểm này bọn họ. Sean không nói được nhiều tiếng Trung lắm, nhưng có thể nghe hiểu được một phần, nhiều lúc Trương Lập kể chuyện cười, anh ta cũng ở bên cạnh tập trung tinh thần lắng nghe. Lúc Trác Mộc Cường Ba bước tới, Sean đang nói chuyện với Lê Định Minh bằng tiếng Anh, dường như rất vui vẻ. “Ừm, Sean, Định Minh.” Trác Mộc Cường Ba cất tiếng chào. Sean cười cười nói: “Johnson, cuối cùng thì anh cũng có thời gian nghỉ ngơi giây lát rồi. Đội ngũ này cũng khó lãnh đạo thật đấy.” Trác Mộc Cường Ba gượng cười: “Cũng không có gì khó cả, mọi người đều đã có kinh nghiệm thám hiểm nơi hoang dã, gần như là không có mâu thuẫn, nói chung cũng chẳng khó gì để điều hòa quan hệ giữa mọi người với nhau. Tôi chỉ hơi lo cho anh một chút thôi, dẫu sao thì đây cũng là lần đầu tiên anh đến Tây Tạng. Thế nào hả, có quen không?” Sean chĩa hai ngón tay ra nói: “Quen chứ. Anh xem, Trương Lập, Nhạc Dương, Ba Tang, anh, Mẫn Mẫn, anh Lê, Trương Kiện, pháp sư Á La, giáo quan... gần như hơn một nửa mọi người đều biết nói tiếng Anh, tôi có gì mà không quen chứ, hơn nữa tôi cũng biết tiếng Trung cơ mà.” Nói đoạn, anh ta liền dùng thứ tiếng Trung ngọng nghịu của mình nói: “Nế hảo!” Trác Mộc Cường Ba khẽ bật cười. Lê Định Minh lại nói: “Anh Sean có nghiên cứu rất sâu đối với ngành sinh vật học, vừa nãy chúng tôi đang nói chuyện về mấy loài sinh vật thần kỳ trong rừng Amazon...” Trác Mộc Cường Ba liền nói: “Ồ, suýt nữa thì tôi quên mất, Định Minh cũng là nhà động vật học mà.” Lê Định Minh bổ sung thêm: “Loại lưỡng thê.” Ba người nói chuyện thêm một lát, tới khi Lữ Cánh Nam gọi Trác Mộc Cường Ba mới thôi. Giờ đây, Lữ Cánh Nam, đội trưởng Hồ Dương, Trác Mộc Cường Ba và Nghiêm Dũng là những người quyết sách của đội ngũ này, rất nhiều sự việc đều do bốn người này thảo luận rồi đưa ra quyết định. Những thành viên khác trong đội gọi họ sau lưng là Bốn kẻ đầu sỏ. Bốn người lại thương thảo một hồi xem có nên điều chỉnh vị trí ngồi của các thành viên hay không, ngoài ra còn lập kế hoạch cho các chi tiết như hành trình và thời gian nghỉ ngơi của ngày mai. Xong xuôi mọi việc, Trác Mộc Cường Ba mới trở lại chỗ mũi thuyền nói chuyện với Đường Mẫn một lát. Đường Mẫn đã thấm mệt, liền gối đầu lên đùi gã mà ngủ. Nhìn Đường Mẫn ngủ say, Trác Mộc Cường Ba lại đưa mắt ngước lên nhìn bọn Trương Lập vẫn đang nói chuyện, trong lòng thầm nhủ: cuối cùng cũng qua được hai mươi bốn tiếng đầu tiên rồi. Nhưng gian nan thực sự mới chỉ bắt đầu. Trong hai mươi bốn tiếng đầu tiên này, đồng hồ sinh học của con người vẫn còn tương đối rõ ràng chính xác, thế nhưng, từ tiếng thứ hai lăm, đồng hồ sinh học sẽ bắt đầu loạn nhịp, lúc lẽ ra phải ngủ lại không cảm thấy buồn ngủ, tới giờ ăn cơm mà không có cảm giác đói, tất cả đều sẽ rối loạn. Tới lúc ấy, có bao nhiêu người có thể vượt qua được, gã hoàn toàn không biết. Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba cũng lặng lẽ thiếp đi. Trong mơ hồ, dường như gã lại nghe thấy giọng nói thân quen của cha mình: “Con à, ta biết con chán ghét tôn giáo, cũng không tin vào thần Phật, thế nhưng, có những sự việc lại không thể phủ định được. Kỳ thực, trong lòng mỗi người đều có tín ngưỡng của riêng mình, bất luận là con có bối cảnh tôn giáo hay không, bất luận là con có phải kẻ theo thuyết vô thần luận hay không. Thứ tín ngưỡng ấy, cũng là một sự theo đuổi, một thứ sức mạnh khiến cho con người ta tiếp tục sống. Sinh tồn, là dục vọng bản năng về vật chất của con người và tất cả mọi sinh vật khác, kể từ lúc bắt đầu, sinh mệnh đã được định sẵn là sẽ phải không ngừng nỗ lực vùng vẫy để có thể tiếp tục sống; còn tín ngưỡng, lại là dục vọng bản năng về tinh thần mà chỉ riêng con người mới có. Có những lúc, thậm chí nó có thể vượt lên trên bản năng dục vọng vật chất của nhục thể, khiến con người ta hoàn thành được những việc không thể hoàn thành. Thế nhưng con người rất yếu ớt, không chỉ là nhục thể yếu ớt, mà tâm linh của con người cũng yếu ớt như vậy. Nhân loại thời viễn cổ chính vì thân thể yếu ớt và tri thức kém cỏi lạc hậu, nên từ khi sinh ra đã cảm thấy sợ hãi tất cả những gì mình không biết, sợ hãi trước những sự vật lạ lẫm, sợ hãi những sức mạnh lạ lẫm với mình. Cổ nhân hệt như những đứa trẻ sơ sinh vậy, đối với tất cả mọi thứ đều hết sức hiếu kỳ và sợ hãi. Con người dẫu thế nào cũng sẽ gặp phải những vấn đề khó khăn không thể giải quyết, những nỗi sợ không thể khắc phục, tới lúc đó, thế giới tinh thần của họ sẽ cần đến một nơi để gửi gắm, họ mong có một thứ gì đó sẽ giúp đỡ mình trong lúc khó khăn hoạn nạn, mang đến hy vọng trong lúc mình tuyệt vọng, mang ánh sáng đến từ bóng tối âm u, xua đuổi nỗi sợ và sự tà ác nơi sâu thẳm nội tâm mình. Vì thế, mới có thần...” “Cường Ba thiếu gia, dậy đi...” Trác Mộc Cường Ba cảm giác mình vừa ngủ được một lát, đã nghe thấy tiếng gọi của Nhạc Dương. Gã mở mắt ra, nghe Nhạc Dương nói tiếp: “Chắc là đợt sóng thứ hai sắp tới rồi đó.” “Cái gì hả? Nhanh vậy sao?” Trác Mộc Cường Ba giật bắn mình, hoàn toàn tỉnh ngủ, vội đứng bật dậy, dồn dập hỏi Nhạc Dương: “Cậu chắc chắn chứ?” Nhạc Dương bật máy tính lên, nói: “Cường Ba thiếu gia, anh xem, đây là một điểm nữa mà chúng ta chưa hoàn toàn lý giải được. Tại sao hình vẽ chú thích thời gian lại trừu tượng như vậy, đến nỗi cả pháp sư Á La và mấy người trong tôn giáo của ông ấy cũng không thể nhận ra. Tôi đã quan sát rất kỹ những ký hiệu ấy, cuối cùng phát hiện ra rằng những hình này không vẽ một loài động vật hoàn chỉnh, mà là hai loại động vật khác nhau tổ hợp lại mà thành. Anh xem hình này đi, đầu bò đuôi gà, còn cả cái này nữa, mặt hổ thân khỉ, vì vậy mới thành ra khó lý giải. Sau đó tôi lại sực nhớ ra bài thơ ở thôn Công Bố, bài thơ ấy nói rằng, các vị dũng sĩ mỗi ngày chỉ nghỉ ngơi hai lần, tại sao lại nghỉ ngơi hai lần chứ? Nếu nói rằng không chỉ có một loại động vật đại biểu cho thời gian, mà là hai loại, vậy thì... còn nữa, thời gian ghi lại ở những điểm quan trắc của chúng ta hiển thị rất rõ ràng, mỗi ngày nước sông Nhã Lỗ Tạng Bố cũng dâng trào lên hai lần, chỉ là một lần nhiều và một lần ít mà thôi. Nếu hoàn nguyên hai phần của ký hiệu này, vậy thì, chúng ta cũng có một khoảng thời gian rồi.” Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Mấy giờ rồi?” Nhạc Dương đáp: “Năm giờ sáng.” Trác Mộc Cường Ba giật mình hỏi: “Tôi ngủ lâu vậy cơ à?” Nhạc Dương nói: “Cường Ba thiếu gia, anh xem có nên gọi mọi người dậy không...” Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Được, gọi hết mọi người dậy đi, chuyện này không thể sơ xuất được.” Mọi người đang say giấc nồng thì bị đánh thức, mấy người còn làu bàu vừa mới ngủ xong, cũng có người hình như chưa hề ngủ chút nào. Trác Mộc Cường Ba lo lắng nhìn bọn họ. “Nào, mọi người phấn chấn lên!” Gã cất tiếng khích lệ, “Nghe đây, đợt sóng thứ hai sắp ập đến rồi, nếu không muốn vừa mới bắt đầu đã bị rơi khỏi đội ngũ thì hãy tập trung tinh thần, bám chắc vào mạn thuyền.” “Gì hả?” “Lại nữa à?” “Muốn lấy mạng người ta chắc!” Các thành viên mới mồm năm miệng mười kêu toáng lên. Thế nhưng, một âm thanh khác đã nhanh chóng làm bọn họ yên tĩnh lại. “Ù ù...” “Ù ù...” nước bên mạn thuyền lại nổi gợn sóng lăn tăn lần nữa. Phán đoán của Nhạc Dương hoàn toàn chính xác, đây chính là tín hiệu cảnh báo, khiến mọi người đều khắc khoải âu lo. Ầm ầm lao đến, rồi lại gầm thét lao đi, con rồng khổng lồ màu bạc tựa như kẻ quét đường ở vương quốc dưới lòng đất, cách một quãng thời gian lại xuất hiện, làm sạch hang động một lượt - sức mạnh vô địch thực khiến người ta phải run sợ. Lần này con nước ập tới còn lớn hơn, mạnh mẽ hơn, cả con thuyền lớn tựa như chiếc ca nô lướt sóng, mấy lần bị hất văng lên khỏi mặt nước, bọt nước bắn tóe nơi mũi thuyền khiến toàn bộ đoàn thám hiểm ướt nhẹp. Bàn tay nắm chặt lấy mạn thuyền của mỗi người trắng nhợt vì dùng sức quá độ, ai cũng hiểu rằng, chỉ cần lỏng tay một chút, ắt sẽ bị rơi khỏi đội ngũ như Trác Mộc Cường Ba đã cảnh báo. Phía sau kia là bóng tối vô tận mịt mùng, không ai biết mình sẽ bị dòng nước xiết khủng khiếp cuốn trôi đi tới tận đâu, cũng không biết mình có thể cầm cự được bao lâu giữa dòng nước ấy. Nhạc Dương hai tay ôm chắc mũi thuyền, nhưng vẫn cảnh giác nhìn chằm chằm sợi dây thừng vốn đã bị kéo căng như dây đàn, chịu áp lực tấn công dữ dội của dòng nước càng thít chặt, nghiến vào khung thuyền “ken két”. Quả tim Nhạc Dương cũng dần dần thắt lại như chỗ bị dây thừng thít chặt. Anh hiểu rất rõ, một khi dây thừng không chịu nổi lực kéo quá mạnh của con sóng dữ mà đứt, cả con thuyền bị trôi về vị trí xuất phát thì vẫn còn là may, nếu thuyền bị kẹt ở đâu đó hoặc va đập mạnh mà đắm hoặc thủng, kết cục chắc trăm phần trăm sẽ không ai sống sót ra khỏi hang ngầm này được. Anh đã hạ quyết tâm, nếu cầm cự qua được đợt sóng này, lần sau ít nhất cũng phải dùng hai sợi dây thừng trở lên để buộc thuyền cho chắc. “Xoảng xoảng!” Nhạc Dương chỉ thấy trước mắt đột nhiên tối đen. Ánh sáng từ phía sau chiếu tới, thì ra, lực va đập khủng khiếp đã hất cả con thuyền lên cao, ngọn đèn pha lắp trên mũi thuyền vừa khéo đập mạnh vào một nhũ đá buông xuống, lập tức tắt ngóm. Kế đó nghe một tiếng “ôi chao”, cũng không hiểu là ai đang kêu lên nữa. Trác Mộc Cường Ba quát lên chỉ huy: “Cẩn thận! Cẩn thận nhũ đá trên đầu! Bám chắc vào mạn thuyền, rạp người xuống, mau rạp xuống!” Một bóng đen lướt qua đỉnh đầu, Triệu Trang Sinh nhìn thấy rất rõ ràng, còn thò tay lên chụp bắt. Đúng lúc ấy, con nước đột nhiên hụt xuống, rồi bỗng nhiên lại dâng lên, đoạn cuối thuyền rắn bất ngờ vểnh lên, Lê Định Minh và Triệu Trang Sinh gần như cùng lúc trượt tay, thân thể bị hất văng giữa không trung, tưởng như sắp bị hất ra khỏi thuyền. Ba Tang và pháp sư Á La ngồi sau lưng họ vội vươn tay ra tóm lấy, giữ chặt cổ chân hai người. Pháp sư Á La hét lên với Triệu Trang Sinh: “Bắt được cậu rồi!” Nhưng Triệu Trang Sinh lại cũng hét lên: “Thả tôi ra!” Pháp sư Á La ngồi yên tụng niệm kinh văn, mặc cho Triệu Trang Sinh vùng vẫy thế nào cũng không giằng thoát ra được. Triệu Trang Sinh vừa vùng vẫy vừa hét lớn: “Lý Hồng! Lý Hồng rơi xuống rồi!” Nhạc Dương ở mũi thuyền nghe thấy, trái tim đau thắt lại! Còn Lê Định Minh thì bị Ba Tang quật mạnh trở lại thuyền, kế đó cả con thuyền lại nghiêng ngả một phen. Ba Tang hét lớn: “Bám chặt vào ba lô!” Lúc này con thuyền hình rắn trông chẳng khác nào một chiếc xe hơi đang lao hết tốc lực trên bãi đá lởm chởm, liên tục bị giật tung lên theo dòng nước lên lên xuống xuống. Cả quá trình ấy kéo dài suốt mấy phút đồng hồ, rồi con sóng ập tới đó mới từ từ dịu đi. Trong đoàn thám hiểm, chỉ có các thành viên đã từng đến châu Mỹ mới từng trải nghiệm một cách sâu sắc thứ sức mạnh cuộn trào mãnh liệt và không thể kháng cự ấy. Trong hồi ức của họ, cả cơn lũ đó là một quá trình giật lắc điên cuồng kéo dài vô tận, xương cốt toàn thân lỏng lẻo như rời cả ra, thậm chí cả ý thức và tư duy cũng trở nên mơ hồ, chỉ còn một chút tỉnh táo cuối cùng để giữ cho các ngón tay bám chặt lấy bất cứ thứ gì, chỉ biết bám cho thật chặt, còn lại tất cả đều không quan trọng nữa. Giờ đây tình hình cũng gần như thế, bàn tay bám chắc mạn thuyền của họ cơ hồ đã ngưng tụ hết sức mạnh toàn thân, còn những bộ phận khác trên cơ thể đã mất đi cảm giác tri giác. Sau đó, dù đã sóng yên gió lặng, nhưng ai nấy đều phải nằm yên tại chỗ một lúc thật lâu thì cơ bắp mới dần dần ngưng tụ được sức mạnh. Mạnh Hạo Nhiên không hiểu nguyên tắc này, vừa đứng lên đã ngã lộn nhào một cú. Anh ta quỳ trên thuyền, hai tay ôm chặt ba lô; lúc ấy mới phát hiện ra, cánh tay mình khẽ run run, ngoảnh đầu nhìn lại, thấy hóa ra không chỉ mình mình như thế, Lê Định Minh còn đang run dữ dội hơn. Mấy phút sau, trong ánh mắt kinh ngạc của mọi người, pháp sư Tháp Tây đứng dậy trước nhất, vững vàng bước lên mấy bước đến bên cạnh Trương Kiện hỏi: “Cậu không sao chứ?” Ông nhìn thấy rất rõ, một cột nhũ đá lớn đã cọ mạnh vào lưng anh ta, tiếng “ôi chao” trong lúc hỗn loạn ấy, chính là do Trương Kiện phát ra. Vầng trán Trương Kiện lấm tấm mồ hôi, gương mặt nhợt nhạt. Anh ta mỉm cười nói: “Không sao cả, chỉ va chạm một chút thôi, á!” Pháp sư Á La nhẹ nhàng gỡ mảnh áo sau lưng anh ta. Mồ hôi Trương Kiện túa ra, chảy xuống tong tỏng. Đường Mẫn ở phía sau nhìn thấy rất rõ, cả một mảng da thịt lớn sau lưng Trương Kiện đã tróc, máu thịt bầy nhầy. Chỉ nghe cô kinh hoảng thốt lên: “Á, á!” Pháp sư Á La quay sang nói với Đường Mẫn: “Tôi nghĩ, cần thứ gì đó để cầm máu.” Đường Mẫn vội buông tay đang bám vào mạn thuyền, run rẩy kéo khóa ba lô, nhưng kéo đi kéo lại mấy lần cũng không sao mở ra được. Pháp sư Tháp Tây thấy vậy liền bước tới giúp. Đường Mẫn nói: “Gạc ở ngăn thứ hai, bên dưới là băng, thuốc sát trùng ở ngăn thứ ba bên trái.” Lữ Cánh Nam cũng đứng dậy đi tới giúp một tay. Nhạc Dương bóp bóp nắm tay, tay chân cũng đã hoạt động trở lại được. Anh nghiêng người bấu lấy tay Trương Lập, nói: “Mau đi xem cái đèn kia, hình như hỏng mất rồi.” Chư Nghiêm ở bên cạnh lên tiếng: “Có lẽ hỏng rồi, tôi thấy cột đá đó đập thẳng vào vỏ đèn.” Trác Mộc Cường Ba đứng lên, nói với Nghiêm Dũng và đội trưởng Hồ Dương: “Hai anh không sao chứ?” Cả hai lắc lắc đầu, đồng thời quay đầu lại nhìn Trương Kiện đang bị thương. Nghiêm Dũng nói: “Hừm, cuối cùng cũng sống sót.” Nói đoạn, toan đứng dậy, chẳng ngờ bắp chân bỗng nhiên mềm nhũn ra, cả người bổ nhào về phía trước, may mà tay chụp được cái ba lô của Trương Lập mới không ngã lăn ra. Lúc ấy, anh ta bỗng nhận thấy vị trí bên phải mình bỏ trống, liền buột miệng hỏi: “Lý Hồng đâu?” “Lý Hồng rơi xuống rồi!” Triệu Trang Sinh rống lên một tiếng, nhân lúc pháp sư Á La hơi lỏng tay, liền giật mạnh người lao xuống dòng U Minh hà. Ba Tang quát lớn: “Điên à! Đừng có mà tự lao đầu vào chỗ chết!” “Lý Hồng rơi xuống rồi à?” Trác Mộc Cường Ba cũng giật mình kinh hãi. Lý Hồng ngồi phía sau gã, bị tuột tay mà không hề thốt lên tiếng nào. Lúc đó tất cả mọi người đều cúi gằm đầu xuống, thành thử cũng không ai phát hiện ra Lý Hồng bị nước cuốn bay qua đầu họ. Con sóng cao gần mười mét đột nhiên ập đến, nếu như bị cuốn đi trong lúc đó, giờ làm sao mà tìm thấy được nữa chứ? Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đến đuôi thuyền, chiếu đèn pha xuống mặt nước, cố tìm kiếm bóng hình Triệu Trang Sinh. Giây lát sau, anh ta nhô đầu lên khỏi dòng nước tối đen như mực, phẫn nộ đập tay xuống mặt nước làm bắn tung tóe, tức giận hét lên: “Lý Hồng rơi xuống rồi, tại sao các người không chụp lấy cậu ấy? Các người tài giỏi thế cơ mà! Khụ! Khụ khụ... khụ khụ...” Ho khù khụ một tràng, rồi anh ta lại chìm xuống... Nhạc Dương ở đuôi thuyền kêu lên: “Còm ơi, mau lên đây! Phía sau còn con sóng nhỏ nữa, cậu sẽ bị cuốn đi mất đấy!” Nhưng Triệu Trang Sinh không trả lời, hai tay cứ vùng vẫy múa may, dường như có gì đó không ổn. Trác Mộc Cường Ba không kịp cởi áo đã nhảy luôn xuống nước, kéo Triệu Trang Sinh trở lại, lớn tiếng quát: “Lý Hồng bị cuốn đi, chúng ta ai cũng hết sức đau lòng, nhưng cậu làm như vậy, có phải là muốn chúng tôi lại mất thêm một người đồng đội nữa hay không?” Triệu Trang Sinh được kéo trở lại thuyền, Trác Mộc Cường Ba cũng leo lên, nước sông lạnh buốt làm gã không khỏi rùng mình mấy lượt. Triệu Trang Sinh cuốn mình trong chăn, đờ đẫn ngồi thẫn thờ ra đó, miệng lẩm bẩm: “Tối qua cậu ấy còn nói với tôi, sau chuyến này trở về bọn tôi sẽ cùng leo lên đỉnh Khawakarpo...(1)” Anh ta cũng hiểu rõ, lúc đó Lý Hồng bị hất bay lên cách mặt thuyền đến ba bốn mét, chẳng người nào có thể kéo lại được, chính bản thân anh ta cũng chỉ hơi nhổm người lên mà đã bị quăng đi, suýt chút nữa thì cùng chung số phận với Lý Hồng rồi. Khóe miệng Nhạc Dương run run, sắc mặt tái nhợt. Anh bước đến trước mặt Triệu Trang Sinh. Hai người đờ đẫn nhìn nhau, đều nhận ra sự bi thương đau đớn trong ánh mắt đối phương. Nhạc Dương không thể ngờ, Lý Hồng lại ra đi nhanh như vậy, đột ngột như vậy. Sau cơn lũ càn quét, mặt sông đen ngòm lại trở về trạng thái phẳng lặng, không còn nhìn thấy bất cứ thứ gì nữa. “Lý Hồng...” Nhạc Dương đột nhiên hướng về phía bóng đêm hét toáng lên. “Lý Hồng... Lý Hồng... Lý Hồng...” Trong hang động vẳng lại vô số tiếng vọng, có thể nghe rõ được tiếng kêu của Nhạc Dương đang đi xa dần xa dần trong hang động. “Nhất định phải sống đấy...” “Nhất định phải sống đấy... nhất định phải sống đấy... nhất định phải sống đấy...” Triệu Trang Sinh cũng hét lên theo, tiếng hét của hai người tựa như hai con giao long quấn chặt lấy nhau, lan đi xa theo dòng nước xiết cuồn cuộn, để lại vô số gợn sóng lăn tăn tan biến trong chớp mắt. Tất cả đều hiểu rõ, trong dòng nước xiết thế này, tỉ lệ sống sót gần như bằng không, nhưng có lẽ Lý Hồng lại bị cuốn tới một bình đài nào đấy, hoặc ôm được một cây trụ đá ở đâu đó. Không chừng... không chừng anh ta lại có thể lội nước qua bóng đêm, trở về thôn Công Bố rồi. Nhạc Dương và Triệu Trang Sinh đều nghĩ như vậy để tự an ủi mình, cố nén nỗi đau trong lòng và lệ nóng nơi khóe mắt, im lặng nhìn đăm đăm vào bóng đêm mịt mùng. Gương mặt Lữ Cánh Nam không hiện lên bất cứ cảm xúc nào. Cô nhìn Nhạc Dương nói: “Đừng quên, cậu là quân nhân, nếu cậu không muốn mất thêm nhiều người nữa thì lập tức trở về vị trí ngay.” Sean ngoảnh đầu lại nhìn Vương Hựu. Lúc huấn luyện, hai người trước đây từng tham gia đoàn phượt đến châu Mỹ này nói chuyện không nhiều, mà giữ khoảng cách nhất định, lúc này thành ra lại hòa nhập với các thành viên mới. “Sao hả? Còn kích thích hơn hồi ở châu Mỹ đúng không?” Sean hỏi, khóe miệng như cười. Vương Hựu tay vẫn đang bám cứng đờ ở mạn thuyền, hờ hững nói: “Thế này có đáng gì chứ.” Ở cuối thuyền, Ba Tang cũng đã đứng lên, nhìn dòng nước chảy bên mạn thuyền, rồi vỗ vỗ lên vai Lê Định Minh lúc ấy vẫn chưa kịp định thần, đoạn quay đầu nhìn pháp sư Á La. Pháp sư vẫn ngồi vững như núi, lúc con nước ập đến, pháp sư Á La không hề bám vào mạn thuyền, nhưng thân thể lại vẫn dính chặt vào thuyền, không hề nhúc nhích di động, tới giờ ông vẫn giữ nguyên tư thế ấy, dường như còn đang nhập định chưa tỉnh vậy. Ba Tang bất giác đưa tay lên vuốt vuốt hàm râu, anh ta càng lúc càng không thể nhìn thấu được vị pháp sư già nhìn bề ngoài có vẻ hết sức gầy gò yếu đuối này. Còn pháp sư Tháp Tây nữa, rồi cả Lữ Cánh Nam, Cường Ba thiếu gia, và gã ngoại quốc Sean kia nữa, cao thủ lợi hại trên con thuyền này quả thực nhiều ngoài sức tưởng tượng. Vết thương trên lưng Trương Kiện được tiêu độc bằng oxy già rồi đắp một lớp gạc, băng bó cẩn thận, không còn quá đau đớn nữa. Mọi người còn lại cũng dần dần hồi phục. Duy chỉ có Lê Định Minh là vẫn túm chặt lấy ba lô của mình, sắc mặt lúc xám xịt lúc trắng nhợt, hai môi xanh ngoét, chốc chốc khoé miệng lại giật giật một hồi. Mọi người đều hiểu, anh ta đã quá sợ hãi. Đúng vậy, đối với một người bình thường mà nói, trải nghiệm đi sướt qua bên cạnh Tử thần như vậy, cả đời chỉ cần một lần cũng đã quá đủ rồi, càng huống hồ trong hai ngày tiếp theo đây, bọn họ vẫn phải liên tục gặp phải tình cảnh như vậy nữa. Không ai trách cứ Lê Định Minh cả, ngược lại mọi người còn quây lại an ủi anh ta nữa. Rốt cuộc Lê Định Minh cũng dần dần bình tĩnh phần nào. Đội trưởng Hồ Dương chủ động yêu cầu đổi vị trí với anh ta. Vậy là Lê Định Minh ngồi giữa, đội trưởng Hồ Dương ngồi ở cuối thuyền. Đèn pha ở mũi thuyền đã hỏng, Trương Lập thay một ngọn mới. Họ sớm đã có chuẩn bị để đối phó với tình huống này, trong hành trang mang theo có tới mấy chiếc đèn dự phòng. Điều duy nhất chưa kịp chuẩn bị, chính là không ai ngờ dòng nước lại dữ dội tới nhường ấy. Trương Lập nghĩ ngợi giây lát, rồi đề xuất dùng dây thừng buộc vào các thanh ngang của khung thuyền, sau đó mỗi người sẽ dùng khóa móc buộc mình với thân thuyền, như vậy thì sẽ không sợ bị hất văng khỏi thuyền lúc tròng trành nữa. Nói làm là làm luôn, Trương Lập thay một ngọn đèn mới, kế đó bắt tay vào cải tạo con thuyền. Chẳng mấy chốc, con thuyền hình rắn ấy lại tiếp tục khởi hành. __________ Chú thích: 1. Đây là đỉnh chính của Mai Lý tuyết sơn (hay còn gọi là Thái Tử tuyết sơn hoặc núi tuyết Khawakarpo), nằm ở địa giới tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Xoáy nước đen Nhạc Dương nhìn chằm chặp vào màn hình máy tính, cẩn thận phân biệt từng đoạn đường, đồng thời sử dụng các thiết bị đo đạc tuyến đường họ đã đi qua. Sau khi đoàn người xuôi dòng được 211 kilomet, Nhạc Dương nói với Trác Mộc Cường Ba: “Cường Ba thiếu gia, bảo mọi người chú ý khống chế tốc độ, đoạn phía trước đi chậm một chút thôi, chúng ta bắt đầu tiến vào khu vực có nhiều lối rẽ nhánh nhất rồi đấy, sơ sẩy một chút là lạc đường ngay.” Trác Mộc Cường Ba lớn tiếng nói: “Tổ ba ngừng chèo thuyền. Nghiêm Dũng, Sean và pháp sư Tháp Tây giảm tốc độ lại.” Sợ Sean không hiểu, gã nói lại một lượt nữa bằng tiếng Anh. Nhạc Dương chăm chú quan sát phía trước, thấy mặt nước đen kịt lại xuất hiện những gợn sóng nhỏ lăn tăn, anh vội nói “Cường Ba thiếu gia, vào khu vực nước xiết rồi đấy, lại nước xiết nữa!” Trác Mộc Cường Ba nói: “Vào vùng nước xiết rồi, mọi người chuẩn bị!” Cả đoàn đều cầm sẵn mái chèo trên tay. Vừa chuẩn bị xong, chợt nghe Nhạc Dương khàn giọng hét lên: “Thác nước ngầm!” Con thuyền bỗng thụp xuống, bắt đầu từ mũi thuyền, cảm giác như ngồi trên tàu lượn siêu tốc trong công viên vậy. Con thuyền rắn bám sát vào mặt nước, như một con côn trùng nhuyễn thể khổng lồ trượt xuống thác nước, thân thuyền còn chưa ổn định, mũi thuyền đã lại hụt bẫng một cái. Hóa ra là gặp một thác nước khác, liên tiếp năm thác nước ngầm nối liền nhau. Lần này cũng nhờ mấy cái khóa móc dùng khi leo núi của Nhạc Dương, mọi người mới không bị hất văng ra khỏi thuyền. Tuy nhiên liên tiếp rơi tự do như thế, so ra thì cũng chẳng khác gì liên tiếp nhảy xuống năm lần từ độ cao năm mét là bao. Cả bọn Trác Mộc Cường Ba tái mét hết cả mặt mày, dạ dày quặn lên muốn nôn ọe. Vậy vẫn còn chưa hết, sau khi rơi xuống thác nước thứ năm, Nhạc Dương lại kêu lên: “Dòng chính sông ngầm, cảnh báo cấp ba.” Chư Nghiêm không kiềm chế được, mới ngoác miệng ra chửi: “Mẹ nó chứ!” con thuyền rắn đã rơi mạnh xuống giữa dòng sông. Dòng chính của con sông ngầm này rộng đến gần hai chục mét, chảy ầm ầm từ Đông sang Tây, sóng dâng cuồn cuộn cao tới ba bốn mét. Sau khi rơi xuống, con thuyền rắn như thể bị đẩy ra từ một lỗ nhỏ khuất nẻo nào đó, thân thuyền liền xoay ngang ra, ánh đèn pha không ngừng vạch những quầng sáng loang loáng lên vách đá ven sông. Nhạc Dương bất chấp cổ họng đau rát, lớn tiếng hét ầm lên: “Phương hướng, giữ vững phương hướng, người nào ở bên trái thu mái chèo lại! Bên phải chèo ngược mau! Tôi nói là chèo ngược cơ mà! Đừng chèo thuận dòng nữa! Đổi hướng, đổi hướng mau lên!” “Hai trăm mét phía trước có chỗ rẽ, mọi người cố lên... không kịp mất rồi!” “Nghe đây! Lúc nào tôi nói ‘trái’ một tiếng, những người bên trái dốc hết sức mà chèo, những người ngồi bên phải đồng thời cũng chèo ngược lại, như vậy thì có thể khống chế được phương hướng rồi! Nếu tôi nói ‘phải’ thì làm ngược lại nhé; tôi nói ‘tiến’, thì tất cả chèo về phía trước; tôi nói ‘lùi’, cả đội lại chèo ngược về sau. Mọi người hiểu hết chưa!” “Chú ý, trái!” “Qua mất rồi, phía trước còn năm chỗ rẽ cho chúng ta lựa chọn. Phải! Phải! Phải!” “Nhất định phải ổn định được thân thuyền đã! Tiếp theo nào, phải!” “Phải!” “Phải!” “Không được, thuyền không giữ được phương hướng thì không thể nào tiến vào hang động đã định trước, xem ra chúng ta chỉ còn cách để thuyền đi thẳng về phía trước thôi vậy. Đoạn phía trước cũng có lối rẽ, nhưng nhìn màu sắc trên bản đồ thì không dễ đi cho lắm đâu.” Con thuyền hình rắn to lớn cứ vậy mà xoay tròn giữa dòng sông ngầm rộng lớn, lúc thì đụng vào vách đá bên trái, chốc sau đập vào vách đá bên phải, kế đó lại bắt đầu xoay tròn theo hướng ngược lại. Mỗi lần va chạm đều bật mạnh, thân thuyền chắc chắn dường như không vấn đề gì, nhưng những người ngồi trên thuyền, đặc biệt là các thành viên mới, thì đều bắt đầu cảm thấy không chịu đựng nổi. Chỉ riêng lực ly tâm do con thuyền xoay tròn đã đủ khiến người ta đầu váng mắt hoa rồi, càng không nói gì đến chấn động sau mỗi lần va chạm, cảm giác như thể cả lục phủ ngũ tạng đều muốn bung ra khỏi lồng ngực. Có lúc nhìn con thuyền lao nhanh đập mạnh vào vách đá, những người không kịp thu mái chèo đều bị chấn động tê rần cả cổ tay. Cũng may là mái chèo của họ đều làm bằng thép nhựa, dù bị va đập mạnh thế nào cũng chỉ cong vênh biến hình chứ không đến nỗi gãy đôi. Nhưng con thuyền cứ xoay mòng mòng như vậy khiến người bên trên không thể nào ngồi vững được, liên tục có người va đập vào nhau, mặt mũi, thân thể nếu không bị thúc cùi chỏ hay đạp chân vào thì cũng bị mái chèo “thơm” cho một phát, da thịt mảng thì tím bầm, mảng thì tấy đỏ. Nhạc Dương đen đủi nhất. Anh chàng ngồi ngay phía trước Trác Mộc Cường Ba, mà xương cốt của gã Cường Ba thiếu gia này thì vừa thô vừa cứng, tuy không cố ý, nhưng Nhạc Dương cũng bị dần cho một trận nhừ tử, tay chân mềm nhũn bủn rủn. Mỗi lần Nhạc Dương có va đập ngoài ý muốn với Trác Mộc Cường Ba, là người ta lại nghe thấy tiếng kêu la thảm thiết của anh chàng vang lên. “Cẩn thận!” “Anh đụng phải tôi rồi!” “Ôi chao ôi, cái lưng của tôi!” “Ngồi vững vào, ngồi vững vào!” “Mái chèo của anh kìa!” “Ôi cái mông tôi!” Ánh đèn pha loang loáng càng làm tăng thêm cảm giác chóng mặt choáng váng. Chẳng được bao lâu, Vương Hựu bỗng cảm thấy mặt mình nóng sực, nhớt nhớt nhầy nhầy không hiểu là thứ gì. Ngoảnh đầu nhìn, hóa ra là Mạnh Hạo Nhiên không thể chịu nổi được nữa, bao nhiêu đồ ăn thức uống đều phun ra sạch sẽ cả. Dạ dày Vương Hựu vốn cũng đã xóc lên xóc xuống mấy bận, bị Mạnh Hạo Nhiên ọe ra đầy cả người, anh ta đột nhiên cũng cảm thấy một cơn buồn nôn khó tả dâng trào lên, vội dựa vào mạn thuyền, há miệng ra, rồi cũng ăn bao nhiêu ọe ra hết bấy nhiêu. Triệu Trang Sinh ngồi phía sau Mạnh Hạo Nhiên cũng kêu toáng lên: “Nôn đầy ra người tôi rồi!” Trác Mộc Cường Ba hét lớn: “Đừng cãi nhau nữa! Nắm chắc dây thừng, thu hết mái chèo lại! Đoạn sông này không ngắn đâu, còn phải xoay tròn thêm một hồi nữa đấy, tất cả gắng lên cho tôi! Nếu buồn nôn thì nhoài người ra mạn thuyền mà nôn, đừng nhìn chằm chằm vào chỗ ánh đèn pha nữa!” Tất cả đều như ngồi trên bánh xe, bị quay cho xây xẩm mặt mày, không còn phân biệt được phương hướng đâu vào đâu nữa. Sóng cao từ ba tới năm mét, liên tiếp ập xuống, nếu là con thuyền khác thì e rằng sớm đã lật úp từ đầu, không biết còn bị vô số những dòng xoáy ngầm kia kéo xuống tận đáy nước nào nữa. Nhưng dù có con thuyền hình rắn đặc biệt ấy, tình hình lúc này của bọn Trác Mộc Cường Ba cũng không thể lạc quan được. Khả năng linh động uốn cong thân thuyền của thuyền rắn giữa dòng nước cuộn sóng cao ngất này ngược lại đã trở thành một tính năng nguy hiểm. Khi mũi thuyền bắt đầu leo lên vượt qua con sóng lớn đang ập đến, thân thuyền vẫn ở khoảng không giữa hai ngọn sóng, cả con thuyền liền bị gấp thành hình chữ “U”, người ở mũi thuyền và đuôi thuyền rạp cả vào giữa; lúc leo lên được đỉnh con sóng, thuyền rắn lại như bị gãy xương sống, cả con thuyền gập xuống hai bên, tạo ra một chữ “U” ngược, những người ngồi giữa lại đổ ngược sang hai bên, trong cả quá trình ấy, con thuyền vẫn không ngừng xoay tròn. Lúc này, con thuyền rắn của họ tựa hồ như con bươm bướm đang đi đến giai đoạn cuối cùng của cuộc đời ngắn ngủi, mũi thuyền và đuôi thuyền là hai cánh bướm. Con bướm chốc chốc lại giãy giụa đập mạnh đôi cánh, nhưng vẫn không thể làm gì được hơn là thả mình đảo tròn rơi xuống. Nếu không phải các thành viên trong đoàn đều đã dùng dây thừng buộc mình vào khung thuyền, chẳng rõ có bao nhiêu người bị hất văng ra rồi. Trên đỉnh một ngọn sóng, Trác Mộc Cường Ba đè lên ba lô của Nhạc Dương. Cả hai cùng bị quán tính của con thuyền hất văng sang bên trái, tựa như hai quả tạ lớn treo trên dây đu. Trác Mộc Cường Ba lớn tiếng hét hỏi: “Đã lỡ qua mất bao nhiêu lối rẽ rồi?” Chỉ khoảnh khắc sau đó, Nhạc Dương đã đè ngược lên ngực Trác Mộc Cường Ba. Hai người cùng văng sang bên phải. Nhạc Dương cũng dồn hết sức khản giọng hét lên đáp: “Không biết! Không có ánh sáng, tôi chẳng nhìn thấy gì cả!” Đúng vậy, đèn pha nếu không chiếu thẳng lên trần thì cũng cắm đầu vào lòng nước, không thể nào nhìn rõ kịp tình hình hai bên vách. Nhạc Dương lại lớn tiếng nói: “Trương Lập! Có thể giữ cho ngọn đèn pha không lắc qua lắc lại thế kia không?” Trương Lập hét toáng lên: “Hả? Cậu nói cái gì?” Lại một con sóng lớn nữa ập tới, mọi âm thanh đều bị nhấn chìm. Hai đầu thuyền lại bật vào nhau, xoay một vòng thuận chiều kim đồng hồ, cả Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương cùng lúc đè về phía Trương Lập, nửa thân người của Chư Nghiêm đã bị văng ra ngoài thuyền. Anh ta chỉ còn biết bám chặt hai tay vào dây thừng bảo hiểm, lớn tiếng hét: “Trương Lập, cậu đá vào mặt tôi rồi!” Trương Lập đang bị Nhạc Dương và Trác Mộc Cường Ba đè cho bẹp dí như đòn bánh tét, đành gắng gượng rặn ra một nụ cười: “Thật là ngại quá.” Lời còn chưa dứt, con thuyền rắn lại đập mạnh vào vách đá, cũng chẳng rõ là vách bên trái hay vách bên phải nữa, chỉ thấy đập mạnh rồi bật ra, kế đó cả con thuyền lại xoay theo hướng ngược lại. Lần va chạm này áp lực quá lớn, khiến những người ngồi ở mạn thuyền bên phải bị hất văng hết ra ngoài, chỉ còn nhờ sợi dây an toàn khóa chặt vào với con thuyền. Kể cả những người trong thuyền cũng bị tốc độ xoay chuyển quá nhanh làm văng lên không, hai chân rời khỏi mặt đất, dưới ánh đèn pha loang loáng, trông cứ như một chuỗi lạp xường đung đưa trong trận cuồng phong mãnh liệt. Trác Mộc Cường Ba lại lớn tiếng nói với những người phía sau: “Ai ở phía sau, có nhìn rõ chúng ta đã bỏ lỡ mấy lối rẽ rồi hay không?” Không người nào trả lời, thông thường khi Nhạc Dương đã không thể quan sát được, thì những người khác cũng không khá khẩm gì hơn, huống hồ tình hình lúc này lại còn tồi tệ như vậy, vừa mới đỡ được cả bãi thực phẩm đang tiêu hóa dở dang chua lòm tanh loét không biết của ai phun tới, sau lưng lại bị người khác vừa đấm vừa đạp, ai nấy đều không tự chủ được, hết nghiêng bên này lại rạp sang bên kia. Thuyền rắn như thể một con bò mộng đang lên cơn cuồng nộ, toan hất văng lũ trẻ chăn bò cưỡi trên lưng mình xuống đất. Trong tình trạng xoay mòng mòng lại dập dềnh lên xuống liên tục như thế, cả bọn Trác Mộc Cường Ba chỉ có vài người là kiềm chế được cảm giác nhộn nhạo trong lồng ngực, không ọe ra. Giữa lúc con thuyền xoay nhanh vù vù, ánh mắt Trác Mộc Cường Ba chợt lóe lên, chỉ thấy ở phía ánh đèn pha rọi tới hình như có mấy cửa hang tối om. Xem ra đoạn sông chính này đã đến tận cùng, chẳng mấy nữa cả bọn sẽ tiến vào nhánh rẽ. Gã hét lớn: “Nhạc Dương, phía trước có mấy lối rẽ đấy, chú ý quan sát, chúng ta vào hang thứ mấy đây!” Lời vừa mới dứt, bỗng nghe “vù”, một cái ba lô to tướng tựa như ngọn núi nhỏ bay vèo về phía Trác Mộc Cường Ba. Lúc này gã đang cùng cả con thuyền xoay về phía bên phải, hai chân quýnh vào nhau như người đánh Túy quyền. Trong lúc luống cuống, gã vội vung tay hất đi. Quả núi nhỏ đập mạnh vào sau gáy Nhạc Dương một cú, kế đó lướt ra khỏi con thuyền, chìm xuống dòng nước tối om, không còn thấy bóng dáng đâu nữa. Kế đó phía sau lại có một chiếc ba lô khác không rõ của ai bay “vù” lên, suýt chút nữa thì hất văng cả Nghiêm Dũng ra ngoài! Toàn thân Trương Lập lơ lửng trên không, anh nghiêng đầu tránh cái chân vung tới của Nghiêm Dũng, rồi hét lên: “Ba lô của ai rơi đấy! Mọi người giữ chặt ba lô vào! Đừng để văng ra ngoài thuyền!” Thì ra, các điểm chốt cố định của Trương Lập thiết kế là dựa trên cường độ dòng nước của lần đầu tiên bọn họ tiến vào U Minh hà, không ngờ lại gặp phải dòng nước xiết đáng sợ đến nhường này, quai đeo của ba lô không thể chịu được lực ly tâm quá mạnh, đã tự đứt lìa ra bay vút đi. Gần như cả quá trình ấy chỉ diễn ra trong một cái chớp mắt, cú đập làm Nhạc Dương đau đến nổ đom đóm mắt, chỉ nghe anh hét ầm lên: “Tôi không thấy gì, Cường Ba thiếu gia, tôi không thấy gì hết!” Đợi khi Nhạc Dương hồi phục được thị lực, thì con thuyền hình rắn của họ đã xoay mòng mòng trong một nhánh sông nhỏ hơn. Dưới ánh đèn, hai vách đá hai bên gần sát sạt với thân thuyền, Nhạc Dương lẩm bẩm nói: “Chúng ta, chúng ta đã vào nhánh rẽ rồi sao?” Trác Mộc Cường Ba gật đầu đáp: “Ừm, cẩn thận!” Con thuyền rắn lại va phải vách đá, lắc lư chao đảo một hồi, những người bị hất văng lên không trung đột nhiên cảm thấy lực kéo kỳ dị kia biến mất, lập tức rơi lộp bộp xuống thuyền, rồi lăn lông lốc trong thuyền như người ta lắc thẻ xin xăm. Liền sau đó, thuyền rắn uốn mình vòng qua một chỗ ngoặt hình chữ “S”, cơ hồ lại vào một hang động rẽ nhánh khác, nhưng lúc này mọi người đều đã nằm vật cả ra khoang thuyền, chẳng ai còn hơi sức đâu bò dậy được nữa.