🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Mật Mã Tây Tạng – Tập 3 - Hà Mã
Ebooks
Nhóm Zalo
Vượt hiểm nguy trở về đất Phật, cạm bẫy trùng trùng lại hiện ra...
Từ rừng rậm nguyên sinh châu Mỹ vô cùng bí hiểm rơi xuống mê cung tầng tầng địa ngục, cuộc hành trình của đoàn thám hiểm theo dấu Tử Kỳ Lân và Bạc Ba La thần miếu càng lúc càng gian nan, nguy khó, nhưng cũng thật bất ngờ với những phỏng đoán kỳ lạ về nguồn gốc của nền văn minh châu Mỹ xa xưa.
Tưởng như đã tan tác kẻ mất người còn, Trác Mộc Cường Ba và những người bạn đồng cam cộng khổ giờ lại tập hợp nơi xuất phát, thu nhận những kiến thức mới về các vương triều cổ đại cùng những bí mật hóc hiểm của môn cạm bẫy học rồi hối hả lên đường. Theo chỉ dẫn của tấm bản đồ từ châu Mỹ, vùng đất Bạc Ba La đã ở phía trước...
Hà Mã quê tại Tứ Xuyên, đã sống mười năm ở Tây Tạng, là người ưu thích thám hiểm, từng một mình vượt qua Khả Khả Tây Lý và rừng nguyên sinh Xishuangbanna. Năm 2006 anh bắt đầu viết Mật mã Tây Tạng. Năm 2008 cuốn sách ra mắt công chúng, lập tức làm dấy nên một cuộc chiến đua tranh bản quyền của hơn một trăm nhà xuất bản trên thế giới. Hà Mã đã trở thành nhà văn bestseller nóng nhất Trung Quốc hiện nay.
“Không có cuốn truyền kỳ hiện đại nào về Tây Tạng huyền hoặc hơn Mật mã Tây Tạng.”
– Châu Ái Minh,
Tiến sĩ văn hóa dân tộc Tạng
“Mật mã Tây Tạng là bộ kỳ thư, đi tìm những bí mật lịch sử của vùng đất thiêng bằng góc nhìn thám hiểm. Ở đó, Phật giáo Tạng truyền, ngao Tạng, các truyền thuyết dân gian, các kỳ quan trên đất Tạng đều tụ hội thật hoàn mỹ.”
– Ba Châu,
Sở trưởng Sở du lịch Tây Tạng
Dịch từ nguyên tác tiếng Trung: 藏 地 密 码 来你注定要做我的拉客西米了 Xuất bản theo hợp đồng chuyển nhượng bản quyền giữa BEIJING DOOK PUBLISHING CO.LTD. và Nhã Nam, 2008.
Copyright©2008 by DOOK&BOOK. All rights reserved.
Bản quyền bản tiếng Việt © Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam, 2010.
Chương 15:
MÊ CUNG MAYA
Đây là cung điện dưới lòng đất hùng vĩ nhất, lộng lẫy nhất, đống thời cũng ghê rợn nhất và đẫm mùi máu tanh nhất tôi từng thấy. Hệ thống máy móc điều hành vô cùng phức tạp, các cạm bẫy vô cùng đáng sợ, khắp nơi đều ngập trong bầu không khí thần bí và mù mờ không thể đoán biết, mỗi bước chân đều ẩn chửas nguy cơ mất mạng. Và cả nghi thức tôn giáo cũng như các lễ tế văn minh này nữa, đều khiến tôi không thể nào chấp nhận được. Tôi không dám tin, những người sở hữu một nền văn minh phát triển bạc cao như vậy, sao lại phạm phải những tội ác của loài ma quỷ ấy…
Ký hiệu mật mã
Giáo sư Phương Tân hét lên mấy tiếng vào miệng hố, không nghe thấy hồi âm, liền lo lắng nói: “Cường Ba cũng lỗ mãng quá, vẫn cứ nóng nảy như vậy, chẳng có chút tố chất của người làm khảo sát khoa học gì cả.”
Lạt ma Á La thò đầu sâu vào miệng hố, nói: “Cậu ấy không chỉ biết có mạo hiểm thôi đâu, bên trong có gió.”
Có gió, đồng nghĩa với cái hố này còn có lối thông ra nơi khác nữa, thông gió có thể thổi tan khí độc, giữ cho không khí bên dưới lưu thông. Điểm này Trác Mộc Cường Ba đã học được ở chỗ đội khảo sát hoa học Khả Khả Tây Lý, hơn nữa xét theo tốc độ trượt xuống của ba lô, vì vậy, gã mới không hề do dự nhảy luôn xuống theo. Nhưng gã không thể ngờ, tốc độ trượt xuống của mình cao hơn tốc độ của cái ba lô rất nhiều. Đường hầm hình vuông đều tăm tắp phủ dày cát, làm tăng tốc độ trượt xuống của gã giống như dầu bôi trơn vậy. Chưa đến mười giây, đã nghe “vù” một tiếng, Trác Mộc Cường Ba chỉ thấy thân thể mình lơ lửng trên không, đầu va mạnh vào tường đá, kế đó cả người lại tiếp tục trượt xuống theo hướng ngược lại; chưa đầy mười giây sau, phần lưng gã đã áp tới bờ tường, va chạm một cú rõ mạnh, rồi lại đổi phương hướng. Cứ như vậy đập đi đập lại, không biết đã va đập bao nhiêu lần, rồi gã cũng đuổi kịp cái ba lô đã dùng chân đẩy xuống lúc đầu.
Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy các tiếng động khác đi, rồi cả người gã văng ra khoảng không, trước tiên nghe tiếng ba lô rơi xuống nước, kế đó là tiếng thân thể gã “hạ thủy”. Trong lúc hoảng loạn, chân tay cứ vung bừa tứ phía, kết quả vừa đạp 1 cái, đã thấy thân mình đứng vọt lên mặt nước. Hồ nước không sâu lắm, Trác Mộc Cường Ba đứng lên vừa hay để lộ ra cái đầu. Gã dợm bước vài bước, chỗ sâu nhất thì phải bơi qua mới được. Trác Mộc Cường Ba vừa bơi vừa tóm lấy ba lô, chẳng mấy chốc chân đã chạn đất. Trong bóng tối vang lên tiếng “soạt soạt soạt”, nghe như có cái
gì đang lùi về sau. Trác Mộc Cường Ba cả mừng kêu lên: “Mẫn Mẫn! Em phải không? Trả lời anh đi?”
Không thấy trả lời, chỉ nghe “oa” một tiếng, rồi có người rống lên. Trác Mộc Cường Ba vội nói: “Đừng sợ, đừng sợ, anh đến đây, em ở đâu?” Vừa nói gã vừa lần bước về phía tiếng khóc. Trong bóng tối vang lên giọng thổn thức: “Hức…hức, hức, em sợ quá…em sợ quá…em cứ tưởng không bao giờ gặp lại anh nữa, ức…” Trác Mộc Cường Ba đeo ba lô trên lưng, rời khỏi hồ nước, giơ hai tay lần mò về phía phát ra âm thanh, cuối cùng cũng bắt được một bàn tay mềm mại lạnh buốt. Hai người ôm chầm lấy nhau trong bóng tối.
Trác Mộc Cường Ba nhỏ nhẹ an ủi: “Đừng khóc nữa, đừng khóc, anh ở đây. Không sao rồi, anh ở đây rồi này.” Đường Mẫn rúc đầu sâu vào ngực Trác Mộc Cường Ba, hai vai run rẩy, khóc thút thít đến đau lòng, nói câu được câu mất: “Trong thành… hức… em nghe thấy tiếng anh… em gọi tên anh…hức hức… anh không nghe thấy em gọi anh à? Em… hức…chạy về phía anh… hức… kết quả… kết quả…rơi xuống chỗ này, hức… chỗ này không có đường, lại không nhìn thấy gì, hức…”
Trác Mộc Cường Ba chỉ biết tiếp tục an ủi cô: “Được rồi, khóc nhiều quá thì không xinh nữa đâu. Anh mang theo ba lô của em xuống đây này, bên trong có thứ gì chiếu sáng được không? Ở đây tối om om chẳng nhìn thấy gì cả.”
“Có”. Đường Mẫn đã thôi không khóc to, nhưng vẫn cứ nức nở thổn thức, đón lấy ba lô lục lọi. Chỉ thoáng sau, đèn đã sáng lên, Trác Mộc Cường Ba chỉ thấy gương mặt xinh xắn của Đường Mẫn đã bị đôi tay lấm lem bùn đất xoa lên trong như tranh sơn dầu treo tường phái ấn tượng, mắt đỏ mọng vì khóc, nước mắt vẫn không ngừng trào ra, lại làm nhòa đi những vết bùn trên đôi má phấn, trông như hoa lê đẫm mưa, hoa hồng đẫm sương vậy. Gã vừa tức vừa buồn cười, miệng hơi nhếch lên tủm tỉm. Đường Mẫn nín khóc, ngây ngây nhìn Trác Mộc Cường Ba, rồi hỏi: “Có phải xấu xí lắm không?” Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, cô lại “oa” một tiếng rồi tiếp tục khóc lóc. Trác Mộc Cường Ba yêu chiều nâng gương mặt nhỏ nhắn ấy lên, cười cười bảo: “Được rồi, rửa một chút là sạch sẽ ngay thôi. Em có bị thương không?” Bản thân gã cũng bị đập vào người vào tường không biết bao nhiêu lần, giờ từ đầu đến chân đều ê ẩm cả.
Bên ngoài giếng Thánh, lạt ma Á La nói: “Quân du kích lại lui xuống rồi, xem ra đám ăn thịt người đã chiếm phần lợi thế. Chúng ta ở đây cũng không thoát nổi đâu, may ra bên trong này còn tìm được đường thoát nào khác.”
Giáo sư Phương Tân trợn trừng mắt nhìn lạt ma Á La, hoảng hốt kêu lên: “không phải ngài cũng muốn… ngài đã nghĩ kỹ chưa đại sư.”
Lạt ma Á La chắp tay trước ngực nói: “Hoạt Phật sẽ chỉ đường dẫn hướng cho chúng ta.” Dứt lời, ông liền chui vào trong giếng theo tư thế ngồi kiết già. Giáo sư Phương Tân há hốc mồm nhìn con người cuồng tín trước mặt, rồi lại nhìn đám phần tử vũ trang đang hò hét xông tới, cuối cùng thở dài một tiếng, ném ba lô xuống miệng giếng, rồi nhảy vào theo.
Đường Mẫn bảo nước trong giếng Thánh này toàn ngâm xác người chết, nói thế nào cũng không chịu đi rửa mặt. Trác Mộc Cường Ba phải khuyên giải mãi, bảo nước hồ này là nước nguồn, thông với mạch nước ngầm dưới lòng đất, rồi lại chiếu sáng cho cô nhìn rõ hồ nước trong thấy cả đáy. Bấy giờ Đường Mẫn mới miễn cưỡng đi rửa mặt. Trác Mộc Cường Ba cầm nguồn sáng đó lên ngắm nghía. Trước đây gã chưa từng thấy thứ này bao giờ, nguồn sáng chính là một cái mũ, nhưng lại không giống mũ có đèn pha của công nhân khai khoáng hay đội, mà chỏm mũ có một cái trụ thẳng, giống như gắn cây nến trên đỉnh đầu vậy. Đường Mẫn nói: “Đây là mũ chiếu sáng, dành riêng cho các chuyên gia thám hiểm khảo cổ sử dụng. Tại vì trong môi trường hoàn toàn xa lạ, đèn pha chỉ chiếu sáng được một hướng, sẽ làm xuất hiện rất nhiều khu vực mù trong thị giác. Để loại trừ những chỗ tia sáng không chiếu tới được, người ta mới sử dụng loại mũ gắn bóng đèn bên trên thế này, như vậy thì có thể chiếu sáng được cả ba trăm sáu mươi độ rồi. Nhưng ánh sáng kiểu này phân tán, không thể chiếu xa, nên phải sử dụng kết hợp cả đèn pha lẫn mũ chiếu sáng mới đủ.”
Trác Mộc Cường Ba giơ cao chiếc mũ chiếu sáng lên: “Xem xem ở đây có lối thông nào khác trước đã.”
Đột nhiên có tiếng “bịch bịch” vang lên, làm Đường Mẫn sợ giật bắn mình, vội ôm chặt Trác Mộc Cường Ba. Gã mỉm cười nói: “Đừng sợ, là giáo sư Phương Tân hay lạt ma Á La xuống đấy thôi.”
Vì đã có ánh sáng, giáo sư Phương Tây và lạt ma Á La không bị một phen hốt hoảng như Trác Mộc Cường Ba lúc nãy. Hai người bơi lên bờ, lạt ma Á La nhìn ngó quanh cái hang ngầm, rồi nói: “Giếng Thánh này khác hẳn với bình thường thì phải.”
Giáo sư Phương Tân vẫn hơi bực bội nói: “Giờ chúng ta ở chung một chỗ rồi. Vậy có ai bảo cho tôi biết làm sao ra khỏi đây được không?” Không gian này rất nhỏ, chỉ khoảng bằng một cái sân bóng rổ, hai phần ba phía bên trái là nước, bên phải hơi nhô cao, để lộ ra một phần ba còn lại. Bốn phía đều là tường đất, miệng hố nơi họ rơi xuống ở ngay giữa bức tường, bên bức tường đối diện cũng có một miệng hố y như vậy, trên đỉnh đầu dường như là đá thiên nhiên, cách mặt đất tới ba bốn mét, ngoài ra thì không còn gì khác nữa. Trước tình cảnh này, Trác Mộc Cường Ba cũng không biết làm gì hơn, chỉ đành nở một nụ cười ngượng nghịu, cố gắng không chọc giận thầy giáo mình thêm nữa.
Lạt ma Á La bỗng hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Lúc rơi xuống cậu đã chuyển hướng mấy lần?”
Trác Mộc Cường Ba ngẩn người. Lúc nãy va đi va lại đảo điên một trận, đầu óc lung bung ai mà nhớ được đã qua bao nhiêu khúc ngoặt cơ chứ. Chỉ nghe giáo sư Phương Tân cất tiếng đáp: “Mười tám khúc ngoặt, đúng như chúng ta đã nghĩ.” Lạt ma Á La khẽ gật gật đầu: “Xem ra, chúng ta đang ở phần đáy của kim tự tháp Maya rồi.” Đường Mẫn lẩm bẩm nói: “Mười tám khúc ngoặt.” Dường như cô cũng nhận ra điều gì đó.
Trác Mộc Cường Ba vẫn hoàn toàn không hiểu gì cả, lại hỏi: “Cái gì mà mười tám lần chuyển hướng? Sao lại đúng như hai người đã nghĩ? Thầy giáo?”
Giáo sư Phương Tân “phì” một tiếng, đoạn nói: “Đừng gọi thân thiết thế chứ, cậu đã phạm phải đại kỵ trong công tác khảo sát khảo cổ rồi đó.”
Lạt ma Á La giải thích: “Toà kim tự tháp khổng lồ này, riêng phần trên mặt đất đã cao tới mấy trăm mét, chính là kiến trúc lớn nhất mà chúng ta trông thấy, còn bên dưới móng, chỉ sợ cũng sâu mấy chục mét. Người Maya rất có thể dựa theo lý giải của họ về địa ngục để xây dựng nên cung điện ngầm dưới lồng đất này.”
“Mười tám tầng địa ngục!” Trác Mộc Cường Ba trợn tròn mắt lên. Đường Mẫn nói: “Không, địa ngục của người Maya có chín tầng. Mười tám là bội số của chín, ở giữa hai lần chuyển hướng chính là một tầng địa ngục, vậy thì, giờ chúng ta đang ở dưới địa ngục đó.”
Lạt ma Á La gật đầu nói: “Ừm, ở đoạn cuối cùng, đoạn dốc vừa dốc vừa dài, có lẽ bây giờ chúng ta đang ở tầng dưới cùng của kim tự tháp. Nếu đúng là như vậy, chỉ sợ không còn đường ra nữa rồi.” Giáo sư Phương Tân “hừ” mạnh một tiếng.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tìm thử đi, có lẽ còn có đường ra khác cũng không chừng.” Nói xong, liền cùng Đường Mẫn chầm chậm lần tìm kiếm dọc theo các vách tường.
Lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân vẫn chưa có hành động gì, chỉ ngồi bên mép nước trầm tư, lạt ma Á La nói: “ở đây có một điểm rất kỳ lạ. Nếu là giếng thánh, bên dưới cho dù không có xương người thì cũng phải có tế phẩm, nhưng vừa nãy ở dưới nước, ngoài một ít xương khô của dã thú thì tôi không còn thấy gì khác nữa.”
Giáo sư Phương Tân cũng tán đồng: “Phải, đúng vậy, tình huống này dường như chỉ có một khả năng để giải thích.” Ông và lạt ma Á La đưa mắt nhìn nhau, trừ phi sau khi giếng Thánh này xây xong, chưa từng được sử dụng một lần nào, người trong thành vì một nguyên nhân nào đó đã bỏ rơi cả thành trì này đi nơi khác.
“A!” Đúng lúc đấy, tiếng kêu kinh hốt của Đường Mẫn vang lên, trong không gian kín mít này tiếng kêu trở nên lảnh lót vang động lạ thường.
Giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La vội vàng chạy tới, họ và Trác Mộc Cường Ba vừa đến, liền phát hiện ra bên mép tường có một hốc khoét rỗng, bên trong có một bộ hài cốt dựng nghiêng nghiêng. Không hiểu Đường Mẫn đã chạm phải chỗ nào, làm phiến đá bịt kín cái hốc này tự dưng rời ra.
Trác Mộc Cường Ba bước tới quan sát, nhưng bị giáo sư Phương Tân kéo lại. Ông nói: “Đừng lại gần, trên phiến đá kia hình như có thứ gì đó.”
Lạt ma Á La đã bắt đầu nghiên cứu phiến đá ấy rồi, ông ngồi xổm phía trước, nói: “Không phải bằng đá, mà bằng đất, hình vẽ bên trên là… là bản đồ đơn giản của hang động này!”
Giáo sư Phương Tân cũng bắt đầu quan sát, rồi đưa ra phán đoán: “Nhìn trang phục của người này, chắc là một nhà thám hiểm từ thế kỷ mười tám hoặc mười chín. Cái hốc do con người đào ra này e là cũng do ông ta tự đào ra, nhưng tại sao bên cạnh ông ta lại không có thứ gì vậy nhỉ?”
Lạt ma Á La nói: “Chiếu đèn lại gần một chút, người này đã để lại cho chúng ta một số thông tin, nhìn bức tranh này xem.” Giáo sư Phương Tân liếc mắt nhìn qua, nói: “Tấm vách đất này bị vỡ rồi, hình vẽ có hơi lệch lạc. Mẫn Mẫn, dùng công cụ ráp lại đi.” Mẫn Mẫn “vâng” một tiếng, bắt đầu lục tìm các thứ trong ba lô của giáo sư Phương Tân.
Trác Mộc Cường Ba đứng bên cạnh quan sát, đột nhiên nhận ra nhóm của gã chưa từng phối hợp nhịp nhàng như vậy bao giờ, mỗi người đều làm việc của mình, quả thực là khoảng cách chênh lệch so với nhóm của giáo sư Phương Tân vẫn còn rất xa.
Đường Mẫn lấy trong ba lô ra một chiếc hộp da màu đen, phải ba bốn lượt khóa mới mở được ra, bên trong lại là một tầng hộp sắt, thì ra là chiếc máy tính xách tay của giáo sư Phương Tân. Trác Mộc Cường Ba thốt lên: “Một chiếc máy tính mà phải giữ gìn phức tạp như vậy à!”
Giáo sư Phương Tân nói: “Máy tính chính là nòng cốt của nhóm chúng tôi, so với người, vị ‘đội trưởng’ này còn quan trọng hơn nhiều.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy cũng không cần phải bọc thêm một tầng hộp sắt nữa chứ.”
Giáo sư Phương Tân cười cười: “Đừng coi thường chiếc hộp ấy, không có nó, chiếc máy tính này của tôi không qua nổi khu vực bão tố đâu. Nó có một tầng chống điện ly, cho dù bị luồng điện năm trăm nghìn vôn đánh thẳng vào, cũng vẫn giữ được hoàn hảo món đồ để bên trong.”
Lạt ma Á La cầm 1 thiết bị điện tử khác, nói: “Độ bão hòa oxy trong không khí là hai mươi bảy phần trăm, các chất khí có hại cho cơ thể chưa tới hai phần nghìn, hàm lượng bụi thấp hơn năm phần trăm; chỉ số hóa sinh của nước đạt tiêu chuẩn, có một tầng oxit cacbon hỗn hợp với hydro cacbon; chỉ số sinh hóa của bùn đất đạt tiêu chuẩn, nhưng cacbon, ni tơ và muối vô cơ thì vượt quá tiêu
chuẩn.” Giáo sư Phương Tân gật đầu nói: “Hy vọng không phải là vậy.” Lạt ma Á La cũng gật gật đầu. Trác Mộc Cường Ba đần mặt ra, rõ ràng là học cùng một nơi, tại sao người ta nói chuyện với nhau mà gã chẳng hiểu gì hết cả vậy?
Đường Mẫn đã lắp pin vào chiếc máy tính xách tay của giáo sư Phương Tân, nối với webcam và máy scan. Lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân lấy các dụng cụ trong hộp đồ Đường Mẫn đưa cho ra, đeo găng tay, cầm bàn chải, bắt đầu làm sạch phiến đất. Trác Mộc Cường Ba nuốt nước bọt đánh “ực” một tiếng, thầm nhủ: “Xem ra chuyên nghiệp thật.”
Phiến đất đã được scan vào máy tính, giáo sư Phương Tân nói: “Tốt quá.” Đường Mẫn lại lấy ra một chiếc mũ chiếu sáng nữa, cả căn hầm liền sáng bừng lên. Lạt Ma Á La lấy webcam quét qua một lượt khắp cái xác kia, nhập hết các số liệu vào máy tính. Giáo sư Phương Tân thành tạo thao tác trên máy tính, dùng kỹ thuật phục hồi trên máy, chậm rãi ghép từng mảnh vỡ của phiến đất lại với nhau, tự động nối các khe hở lại, một tấm bảng đồ hang động đường nét rõ ràng và hơi có phần thô sơ hiện lên trước mặt bốn người. Hình vẽ này và cảnh vật họ nhìn thấy trong cái hầm này đại thể là tương đồng, nhưng ở giữa hầm có vẽ một ngôi sao năm cánh rất lớn, mỗi góc sao đều tiếp xúc với vách tường. Trên phiến đất còn khắc một số hình vẽ mơ hồ không thể nhìn rõ, sau khi giáo sư Phương Tân nhập vào một loạt các lệnh “xóa răng cưa ở viền”, “làm rõ hình”, “giảm bóng mờ”, các ký hiệu mờ mờ như một đám hồ nhão dần dần thành hình, giáo sư Phương Tân mừng rỡ reo lên: “Là tiếng Anh!”
“When There Is a Will There Is a Way”, đây là một thành ngữ trong tiếng Anh, thường dịch thành “Có chí thì nên”, dịch theo mặt chữ thì gần giống với câu “Xe đi tới núi thì ắt có đường”. Giáo sư Phương Tân nhìn lạt ma Á La hỏi: “Đại sư thấy sao?”
Lạt ma Á La nói: “Trước tiên, ở giữa không có ký hiệu gì tách rời, đây hình như không phải chuyện ngẫu nhiên; thứ nữa câu này có mấy chữ viết lớn in nghiêng, không khó phát hiện ra tính trùng lặp của các chữ cái này, nếu bằng đầu bằng w, vậy thì ý của nửa câu sau có thể lý giải thành ‘đây chính là lối ra’. Đây là một câu đa nghĩa.”
Giáo sư Phương Tân nhìn đường thẳng cắt ngang ngôi sao năm cánh bên dưới hàng chữ cái, nói: “nhìn đường thẳng này đối ứng với chỗ nào của căn hầm nhỉ?”
Mọi người nhìn hình vẽ, rồi tìm được một điểm trên vách tường. Trác Mộc Cường Ba xung phong nhận việc thăm dò nơi đó, gã gõ gõ vào tường, đương nhiên thấy rỗng bên trong, liền đập vỡ một cái hốc đủ cho một bàn tay vào đó. Ba người còn lại đều nhìn gã với vẻ chờ đợi, đột nhiên Trác Mộc Cường Ba “ai cha” một tiếng, rụt vội tay ra như bị bò cạp đốt, máu tươi chảy ròng ròng: “Bên trong có giấu đao, ngoài ra không còn gì hết!”
Đường Mẫn nhanh nhẹn lấy thuốc và bông băng trong túi ra, sát trùng rồi băng bó cho gã. Trác Mộc Cường Ba nhìn câu tiếng Anh kia, lẩm bẩm nói: “wti, wti, là dầu thô kỳ hạn, dầu thô, là… là nước! Chắc là đường thẳng bên dưới, đây là một câu đố lồng trong câu đố! Đáng ghét thật!”
Giáo sư Phương Tân nói: “Đường ở dưới nước? Không thể nào, rốt cuộc ông ta muốn giấu thứ gì?
Lạt ma Á La nói: “Để tôi xem xem.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Để tôi đi cho.” Gã không muốn người khác bị thương, một mình lần mò dưới nước.
Hồ nước này chỉ có mấy kẽ hở không đủ đút lọt ngón tay; đây là một căn hầm do con người đào xuống đất mà thành, căn bản không thể đột phá bốn vách tường để tìm lối ra nào khác. Từ từ, Trác Mộc Cường Ba cũng mò được thứ gì đó, liền cầm lên, thì ra là một chiếc xẻng công binh bọc trong vải dầu. Trác Mộc Cường Ba ngẩn người ra nhìn cái xẻng, lẩm bẩm nói một mình: “Để lại thứ này làm gì? Lẽ nào bảo chúng ta đào địa đạo thoát ra?”
“Đợi chút.” Giáo sư Phương Tân cầm lấy chiếc xẻng công binh, chỉ vào vết khắc trên cán: “Đây là gì vậy?” Trác Mộc Cường Ba nhìn lại, quả nhiên thấy trên cán xẻng có khắc ba chữ cái xiêu xiêu vẹo vẹo “CMG”, liền lẩm bẩm nói: “CMG? Tập đoàn Nghiên cứu Phát triển Phần Mềm Trung Quốc?”
Giáo sư Phương Tân nói: “nói bậy, hai trăm năm trước làm gì có tổ chức này chứ.” Ông bật máy tính lên, rồi nhập từ khóa vào, máy tính bắt đầu tìm kiếm trong kho dữ liệu nội bộ, tìm kiếm tất cả những cụm từ tiếng Anh viết tắt thành “CMG”. Trác Mộc Cường Ba
biết rõ, ổ cứng máy tính xách tay của giáo sư Phương Tân sử dụng công nghệ dòng dữ liệu quang học tiên tiến nhất của Mỹ, dung lượng lên đến 80 Terabyte, có thể nói là một dung lượng khủng khiếp, dù có lưu cả bảo tàng Anh quốc vào cũng vẫn còn thừa chỗ. Giáo sư Phương Tân nói: “Cái này thì thế nào? Đây là một từ viết tắt của ngành giao thông, ý là ‘phương hướng từ điểm xuất phát tới vị trí trước mặt’.”
Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ: “Điểm xuất phát? Điểm xuất phát ở đâu? Vị trí trước mặt là chỉ chỗ nào chứ?”
Lạt ma Á La nói: “Điểm xuất phát có lẽ là để chỉ điểm gốc ban đầu, là nơi người này tọa hóa, vị trí trước mặt đương nhiên chính là nơi cậu nhặt được cái xẻng. Nhìn tấm bảng đồ này, điểm xuất phát và vị trí trước mặt, vừa vặn chính là hai góc của ngôi sao năm cánh, góc gữa chúng, nếu phóng đại lên thành tỷ lệ lớn, chắc là…” Ông bước sang trái ba bước, vác tường phía đó vừa hay có một núm gồ lên. Trác Mộc Cường Ba giơ xẻng công binh lên, hỏi: “Ở đây hả?” Lạt ma Á La khẽ gật đầu, Trác Mộc Cường Ba bắt đầu vung xẻng lên đào đất, vừa đào vừa càu nhàu: “Chỉ một con đường thôi mà, cần gì phải giở lắm trò như vậy chứ?”
Đào được gần một mét, Trác Mộc Cường Ba đầm đìa mồ hôi, cuối cùng cũng chạm phải một vật bằng kim loại. Gã cả mừng, vươn tay ra rờ lấy, là một cái tay năm quấn bằng dây sắt, đã gỉ hoen gỉ hoét ra rồi. Gã vừa kéo một cái… “rầm rầm rầm” cả vách đất trước mặt Trác Mộc Cường Ba liền đổ sập xuống, nếu không phải lạt ma Á La nhanh tay, chắc chắn gã đã bị đè bên dưới rồi.
Đường Mẫn lo lắng hỏi: “Anh không sao chứ?” Trác Mộc Cường Ba lắc lắc đầu, sắc mặt nhợt đi, không ngờ đây lại là một cạm bẫy, nếu không kịp tránh đi, cho dù không bị đất đá đè cho chết hay bị thương, thì cũng bị cả tảng tường đất chôn bên dưới. Chỉ nghe lạt ma Á La nói: “Ô, vách tường đã bị đào rỗng, sau đó lấy bùn nhão đắp thành tường bùn, bên trên đặt đá hoặc gạch, để xương cốt dã thú bên dưới chống đỡ, dây sắt quấn thành tay nắm kéo cột chống này, khi có người dùng sức kéo tay nắm này, cho dù thế nào cũng không thể tránh khỏi bức tường sập xuống.”
Giáo sư Phương Tân nói: “Rất giống bẫy bắt người của Câu lạc bộ Săn người Anh quốc thế kỷ mười tám. Người này không đơn
giản đâu.”
Trác Mộc Cường Ba vừa tức vừa giận, giơ xẻng lên định đập nát bộ xương kia, bỗng giáo sư Phương Tân phát hiện sau bức tường đổ có mấy chữ cái khác, hợp thành chữ “SIN”, ông lẩm bẩm nói: “Tội ác nguyên thủy?” Lạt ma Á La cũng sực nhớ ra: “A, sao năm cánh, đây là ký hiệu được sử dụng sớm nhất trong tôn giáo, tượng trưng cho tội ác nguyên thủy, khi trước chỉ là một nửa âm tính của thế giới, về sau bị giáo lý xuyên tạc bóp méo thành hóa thân của ma quỷ. Thực ra, trong một số dị giáo, nó cũng mang ý nghĩa khởi điểm và sơ nguyên, khi thế giới còn trong trạng thái hỗn độn ban đầu, do năm nguyên tố hợp thành.”
Âm trận
Giáo sư Phương Tân ngăn Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Cường Ba, đừng nóng nảy quá, để bọn tôi xem đất chân nhà thám hiểm này xem sao. Quả đúng vậy, mọi người xem đi, chất đất dưới chân ông ta và xung quanh hoàn toàn khác nhau. Ông ta đem đất ở vũng bùn bên dưới và đất bổ trong tường đất ra đổi vị trí cho nhau, mà bởi vì cái hầm này đã có cả hơn ngàn năm tuổi, nên đất trên tường và đất bị ngâm trong nước đã thành ra hai loại hoàn toàn khác nhau, chúng ta thật ngu quá, đặc trưng rõ ràng như vậy mà cũng không nhận ra. Nào, chúng ta dịch bộ xương này ra, Cường Ba, tiếp tục đào chỗ này đi.”
Trác Mộc Cường Ba lo lắng hỏi: “Không có chốt bẫy gì nữa chứ?” Giáo sư Phương Tân lắc đầu: “Chắc là không đâu, nơi này bé tẹo như vậy, không gian nào có thể lợi dụng ông ta đều lợi dụng hết cả rồi, đào đi, chúng tôi canh chừng cho cậu.”
Trác Mộc Cường Ba không hiểu, người này rõ ràng đã chết rồi còn muốn giở nhiều trò như vậy làm gì, lẽ nào ông ta muốn thể hiện tài hoa của mình trước hậu nhân. Hay chỉ muốn lấy việc gạt người ta làm trò vui? Lần này gã đào được một bọc vải dầu. Mở lớp vải ra, bên trong là một chiếc túi bằng vải buồm mà các nhà thám hiểm thế kỷ trước hay sử dụng, trong túi có vài thứ công cụ, vài thứ đồ chơi nhỏ, còn có một cái đầu lâu bằng pha lê được chế tác rất tinh xảo nữa. Trác Mộc Cường Ba nhấc lên một cuốn sổ ghi chép bìa da rách nát, giáo sư Phương Tân vội nói: “Cẩn thận, cuốn sổ đó rất quan trọng, đống đồ này đã để cả trăm năm, trang giấy rất giòn yếu, đặt xuống đất đi.” Ông hiểu rõ, đối với một nhà thám hiểm, thông tin quan trọng nhất mà người đó để lại, không gì hơn cuốn sổ ghi chép của anh ta.
Khi cuốn sổ ghi chép rách bươm đã ngả sang màu vàng ấy được mở ra, ngay trang đầu tiên chủ nhân của nó đã nắn nót viết một hàng chữ nghiêng bằng tiếng Anh: “Tôi tên là Pieri, đã là ngày thứ mười rồi, tôi biết mình sẽ chết…” Giáo sư Phương Tân khẽ thốt lên: “Thì ra là ông ta!”
Đường Mẫn hỏi: “Ai vậy?”
Giáo sư Phương Tân hắng giọng giải thích: “Cũng là những nhà thám hiểm kiệt xuất trong giai đoạn cuối thế kỷ mười tám đầu thế kỷ mười chín, nhưng ông ta rất khác với những người khác, Pieri không bao giờ đến những vùng thắng địa thám hiểm nổi tiếng, mà luôn một mình tìm kiếm những cung điện dưới lòng đất nguy hiểm nhất, bí mật nhất. Ông ta là bạn thân của nhà thám hiểm Stanley, nhưng sự tích về ông ta rất ít lên mặt báo, thế nên danh tiếng cũng kém xa Stanley. Tôi phát hiện ra ông ta trong lúc tra cứu tư liệu về Stanley, có tin đồn ông ta đã mất tích ở châu Phi không ngờ lại chết ở chỗ này. Vì vậy tôi mới nói ông ta không đơn giản mà, có thể lợi dụng các công cụ thô sơ trong phạm vi nhỏ hẹp này, đưa ra một câu đố nhiều tầng, lại còn sắp đặt cạm bẫy gần như chí mạng, việc này cần phải là một nhà thám hiểm thì mới làm được.”
Chỉ thấy phía sau lại viết tiếp: “Bất kể bạn là ai, cũng bất kể là bạn đã phá giải được câu đố của tôi hay đã tránh được chốt bẫy, chỉ cần bạn có cuốn sổ này trong tay, chứng tỏ rằng bạn đã sở hữu cơ hội, tôi sẽ cố gắng hết sức để chỉ dẫn bạn ra khỏi cung điện dưới lòng đất này. Nếu bạn chỉ tình cờ nhìn thấy, thì hãy hủy cuốn sổ này đi, lặng lẽ ở đây mà chờ chết, vậy sẽ dễ chịu hơn con đường tiếp sau đó nhiều…” Sau đó là một đoạn dài ca ngợi vẻ đẹp của Bạch thành, mỗi lời văn mỗi nét bút đều tràn ngập sự ngưỡng mộ từ tận đáy lòng. Ông ta đã viết thế này về cung điện ngầm dưới đất: “Đây là cung điện dưới lòng đất hùng vĩ nhất, lộng lẫy nhất, đồng thời cũng ghê rợn nhất và đẫm mùi máu tanh nhất tôi từng trông thấy. Hệ thống máy móc điều khiển vô cùng phức tạp, các cạm bẫy vô cùng đáng sợ, khắp nơi đều ngập trong bầu không khí thần bí và mù mờ không thể đoán biết, mỗi bước chân đều ẩn chứa nguy cơ mất mạng. Và cả nghi thức tôn giáo cũng như các lễ tế của nền văn minh này nữa, đều khiến tôi không thể nào chấp nhận được. Tôi không dám tin, những người sở hữu một nền văn minh phát triển bậc cao như thế, sao lại phạm phải những tội ác của loài ma quỷ ấy… tóm lại, có thể tìm được cuốn sổ ghi chép này, chứng tỏ bạn cũng có thực lực nhất định, bước đầu tiên này, đã giam cầm tôi ở chốn tuyệt lộ này, chỉ cần bạn qua được, con đường phía sau…”
Cuốn sổ này đã để quá lâu, rất nhiều chỗ rách hỏng, nhưng đọc vẫn hiểu được đại ý.
Tiếp sau đó, hơn nửa trước của cuốn sổ đều ghi chép về các chuyến thám hiểm ở những vùng đất khác nhau của Pieri. Giáo sư Phương Tân sợ cuốn sổ này quá rách nát, bèn scan hết nội dung của nó nhập vào máy tính, sau đó cả bọn mới bắt đầu nghiên cứu trên màn hình. Phải đến mấy chục trang cuối cùng, Pieri mới kể lại trải nghiệm của mình trong tòa kim tự tháp mà ông ta gọi là kim tự tháp Ahezt này, hoàn toàn được viết theo trình tự ngược. Về điểm này, giáo sư Phương Tân giải thích như sau, thông thường các nhà thám hiểm đi thám hiểm trở về rồi mới chỉnh sửa lại các trải nghiệm của mình, lần này Pieri biết mình không thể sống trở về, vì vậy mới viết lại theo trình tự ngược, mục đích chính là để giúp đỡ kẻ bất hạnh đến sau tìm được lối ra.
Thực ra lối ra cũng rất đơn giản, ở ngay trên đầu họ, có một phiến đá có thể dịch chuyển được. Ngài Pieri này chính là từ trên đó xuống đây, ông ta không chịu nổi sự cám dỗ muốn tìm hiểu xem bên dưới rốt cuộc có thứ gì, để rồi sau khi xuống mới nhận ra, mình căn bản không thể nào trèo lên được nữa. Cả bốn người đều lấy làm tiếc nuối, một nhà thám hiểm vĩ đại, không ngờ lại bị khoảng cách cao bốn mét giam cầm đến chết trong không gian nhỏ bé này. Trác Mộc Cường Ba nói: “Thực ra, ông ấy hoàn toàn có thể đắp một ụ đất lên, như vậy thì có thể với tới chiều cao bốn mét kia rồi.”
“Không được,” giáo sư Phương Tân lắc đầu: “Đất ở đây thông với mạch nước ngầm, chất đất rất mềm, muốn đắp một ụ đất cao bốn mét, đồng thời chịu được trọng lượng của một người, ít nhất phải đào chừng mười mét đất ở xung quanh, lại còn đảm bảo không bị nước làm trôi rữa đi nữa. Muốn hoàn thành công trình như vậy với sức một người, ít nhất cũng phải mất nửa tháng thời gian.”
Đường Mẫn nói: “Có thể đào thông xuống mạch nước ngầm phía dưới, vậy thì có thể theo mạch nước ấy mà thoát ra ngoài rồi.” Lạt ma Á La lên tiếng phản bác: “Không được, đây là địa điểm người Maya chọn lựa kỹ càng, để đảm bảo nước ngầm thầm vào mà lại không làm xói lở chỗ này, cả bốn phía ít nhất phải cách mạch nước ngầm trăm mét trở lên, đào một đường hầm như vậy còn khó hơn.”
Giáo sư Phương Tân tiếp lời: “Không cần nghĩ nữa, người ta là một nhà thám hiểm dạn dày kinh nghiệm, không để mình bị vây khốn ở nơi có thể thoát ra được đâu, điều mọi người nghĩ đến, vị tiền bối này cũng có thể nghĩ đến, chắc hẳn ông ta phải thử hết mọi cách rồi mới đưa ra quyết định bỏ cuộc thôi. Giờ việc chúng ta cần làm, chính là tìm thấy lối ông ta đã xuống đây.”
Đường Mân ngẩng đầu lên nhìn, đoạn nói: “Bên trên hoàn toàn bị bịt kín, nếu có cửa hang, chúng ta phải phát hiện ra từ lâu rồi chứ?”
Lạt ma Á La giải thích: “Đơn giản lắm, bởi vỉ trong mấy trăm năm kể từ khi Pieri bị giam cầm tới lúc chúng ta tới đây, lại có vô số phần tử đạo trộm mộ ghé qua nơi này, rồi có người phát hiện ra cái giếng hoàn toàn không có chút giá trị nào này, lúc bỏ đi họ đã bịt lối ra lại như cũ, giờ chúng ta chỉ còn cách từ từ lần tìm thôi.”
Đường Mẫn nói: “Chúng ta có công cụ nào dài đến thế đâu?” Lạt ma Á La đưa mắt nhìn giáo sư Phương Tân, giáo sư Phương Tân lại nhìn Trác Mộc Cường Ba, sau đó cả ba đồng thanh thốt: “Tháp người!”
Trác Mộc Cường Ba làm chân tháp, lạt ma Á La ngồi lên vai gã, giáo sư Phương Tân lại ngồi khoanh chân trên vai lạt ma Á La, cuối cùng, Đường Mẫn đứng trên vai giáo sư Phương Tân, hai tay ấn vào trần cái hầm, lần dò từng chút một. Chưa được mấy bước, cô đã kêu toáng lên: “Đừng, đừng lắc mà! Đứng vững, đứng vững!”
Hai chân Trác Mộc Cường Ba đã mềm nhũn, thầm nhủ: “Anh thực không thể đứng vững nổi nữa rồi.” Mặc dù thân hình gã to như tháp sắp, nhưng phải đội trên đầu mấy người có trọng lượng cộng lại gần gấp đôi thể trọng của mình, quả thực cũng lực bất tòng tâm, không thể không bước về phía trước một hai bước, chân bắt đầu loạng choạng. Đường Mẫn vừa hoan hỉ reo lên: “Tìm thấy rồi, phiến đá này lỏng lắm!” thì Trác Mộc Cường Ba cũng không giữ vững được nữa, gã lao về phía trước, bốn người dựa hết cả vào tường, cơ thịt ở hai chân Trác Mộc Cường Ba đã bắt đầu chuột rút, nhưng gã vẫn nghiến răng kiên trì chịu dựng. Giáo sư Phương Tân ở tầng tháp thứ ba hỏi với xuống: “Cường Ba, không sao chứ? Có cần nghỉ chút không?”
Trác Mộc Cường Ba đáp: “Không cần, Mẫn Mẫn, chuẩn bị xong chưa, chúng ta qua bên đó nhé!” Dứt lời gã lại bắt đầu dịch chuyển đôi chân nặng như chì, gã hiểu rõ, nếu làm lại từ đầu, mình tuyệt đối không đủ sức cùng lúc nhấc cả ba người lên như vậy nữa.
Phiến đá được đẩy ra, phiến đá trên trần dày đến gần nửa mét, nếu không có cái lỗ này, dựa vào sức người thật sự rất khó đục ra được một cái khác. Phiến đá vừa nhích ra được một khe hẹp, Trác Mộc Cường Ba đã không cầm cự nổi mà quỵ xuống đất , lạt ma Á La lập tức nhảy ra đồng thời đưa tay đỡ lấy giáo sư Phương Tân, cũng may Đường Mẫn đã bám kịp vào khe hở đó, được ba người bên dưới cổ vũ, cuối cùng cô cũng nghiến răng bò được lên trên.
Có một người lên trên thì dễ dàng hơn nhiều, Đường Mẫn thả dây an toàn xuống, ba người còn lại đều bám vào đó leo lên, rồi ngồi thở hồng hộc. Cả mấy người đều hiểu rất rõ, chỉ cần rời khỏi mảnh đất chết dưới kia, hy vọng sống sót sẽ nâng lên đến chín mươi chín phần trăm.
Giáo sư Phương Tân hỏi: “Ở đây là chỗ nào vậy nhỉ?” Đường Mẫn lên tiếng đáp: “Không biết nữa, cháu chẳng nhìn thấy gì cả.” Bốn người đang ở trong một không gian rất rộng lớn, mũ phát sáng chiếu không tới trần, ngoài xa tầm mười mét cũng toàn là một vùng tối như hũ nút. Mặt đất bằng đá bằng phẳng trơn nhẵn, song lại có một chút tính đàn hồi, tựa hồ như một lớp mai vậy, nơi này giống như một mặt phẳng hai chiều cứ trải dài vô tận ra bốn phía xung quanh, so với cái hầm nhỏ ban nãy thì thật khác nhau một trời một vực. Giáo sư Phương Tân nói: “Nghỉ ngơi một chút, hồi phục thể lực rồi đi tiếp.”
Lạt ma Á La lấy thiết bị đo ra, đoạn nói: “Nồng độ phân tử nước trong không khí rất thấp, chỗ này khô ráo lắm. Thật lạ, bên dưới là nước ngầm, trên này sao lại khô ráo thế được nhỉ?”
Giáo sư Phương Tân sắp xếp công việc: “Mỗi người một cái mũ chiếu sáng, lạt ma Á La và Cường Ba, hai người phụ trách đeo ba lô nhé, Mẫn Mẫn, lấy một chiếc đèn pha công suất lớn ra đây. Chúng ta xem ông Pieri viết thế nào trước đã.”
Trong máy tính, trang này của cuốn sổ tay lại bị rách mất trên năm mưoi phần trăm ở đoạn giữa, chỉ có thể nhận mấy từ đơn lẻ như “thi thể”, “trận pháp”, “run rẩy”, hoàn toàn không sao lắp ráp
thành một câu hoàn chỉnh. Giáo sư Phương Tân hướng đèn pha lên trần điều chỉnh độ sáng, điểm này thì Trác Mộc Cường Ba cũng biết, làm vậy là vì trong bóng tối ta không thể biết xung quanh có sinh vật gì không, một luồng sáng bất ngờ sẽ kích thích chúng phản ứng một cách cuồng nộ, chỉ có trên trần vòm là có khả năng có ít sinh vật sống, dù có thì chỉ là lũ thị giác không phát triển như dơi chẳng hạn, vì vậy lúc điều chỉnh nguồn sáng trước tiên phải hướng lên trên. Đèn pha đã chiếu ra một luồng sáng cực mạnh, trụ ánh sáng hưởng thẳng lên trần nhà, nhưng cuối cùng vẫn mất hút vào bóng tối mù mịt, loại đèn pha chuyên dùng trong hầm mỏ này có thể chiếu xa đến năm mươi mét, cũng có nghĩa là, gian sảnh này phải cao từ năm mươi mét trở lên!
Kế đó, giáo sư Phương Tân chầm chậm đặt ngang chiếc đèn ra. Ánh sáng lia ra xa, bốn người liền lập tức hiểu được hàm nghĩa của những từ đơn lẻ trong cuốn sổ của Pieri, đồng thời một cảm giác run rẩy tự trong đáy lòng dâng trào lên! Giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La bần thần người ra, Trác Mộc Cường Ba tựa hồ như thêm một lần nữa chứng kiến cảnh bộ tộc ăn thịt người tế người sống, Đường Mẫn thì sợ hãi rúc đầu vào lòng Trác Mộc Cường Ba, không dám nhìn lại đến lần thứ hai.
Thi thể, hoặc có thể nói là xác ướp, xếp hàng ngay ngắn gọn gàng, nhìn ngút ngàn không thấy điểm cuối đâu. Trong bóng tối, nét mặt của các xác ướp được ánh sáng chiếu vào đều vô cùng kinh khủng, mặt mũi thảm thương, tựa như lũ ác quỷ đang giãy giụa muốn trốn thoát khỏi địa ngục vậy. Theo luồng sáng của giáo sư Phương Tân quét một vòng, xung quanh bọn họ đều là xác ướp, hoàn toàn không thể đếm được có mấy trăm hay mấy ngàn các, hơn nữa toàn bộ đều ở tư thế đứng. Kếu xếp hàng chỉnh tề ấy, làm Trác Mộc Cường Ba bỗng nhớ đến tượng binh mã bằng đất nung trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng.
Giáo sư Phương Tân lẩm bẩm: “Xem ra là như vậy rồi.” Lạt ma Á La cũng gật đầu, lặp lại lời của Pieri trong cuốn sổ ghi chép: “Tội ác của ma quỷ.”
Trác Mộc Cường Ba hoàn toàn không hiểu gì, đối với nền văn minh Maya này, có thể nói là gã một khiếu cũng không thông, chỉ
biết hỏi mà thôi: “Đây là chuyện gì vậy? Thầy giáo? Hai người đã biết trước là sẽ nhìn thấy những xác ướp này rồi phải không?” Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Đây là lễ tế người sống. Mỗi khi có kim tự tháp lớn xây dựng xong, bọn họ sẽ làm lễ tế người sống để chúc mừng, người Maya rất sùng bái tế lễ, bọn họ cho rằng mặt trời cuối cùng sẽ tắt lụi, cần phải hy sinh thân mình để giữ cho ánh sáng mặt trời chiếu rọi bốn phương. Hy sinh thân mình, chính là dùng máu người và tim người nuôi dưỡng mặt trời. Người Maya cho việc bị dùng làm tế phẩm là một vinh dự, theo sách sử ghi chép, hoạt động tế lễ lớn nhất, là để chúc mừng Đại kim tự tháp Tenochtitlan hoàn thành, chủ nô lệ đã giết ba trăm sáu mươi ngàn người.” Trác Mộc Cường Ba nghe mà nổi hết cả da gà lên. Lạt ma Á La bổ sung thêm: “Cũng không phải toàn bộ đều là dân tộc của họ, đa phần đều dùng tù binh để làm tế phẩm, nhưng những điều đã phát hiện được, cũng chỉ là một giá gỗ có hơn mười ngàn chiếc đầu lâu mà người Tây Ban Nha phát hiện hồi thế kỷ mười sáu. Vừa rồi chúng ta ở bên dưới phát hiện trong đất có hàm lượng muối vô cơ và cacbon, ni tơ vượt quá tiêu chuẩn, tôi đã nghĩ đến một tình huống. Cậu biết đấy, cơ thể người là do chất hữu cơ và chất vô cơ cấu thành, chất vô cơ cuối cùng phần giải thành nước và muối vô cơ, còn trong chất hữu cơ, thì bốn nguyên tố cacbon, oxy, ni tơ, hydro chiếm tới chín mươi chín phần trăm. Vì vậy có thể nói đất ở bên dưới, đã từng bị thấm đẫm máu, trải qua ngàn năm mà vẫn chưa tiêu hết. Bọn họ giải nô lệ vào tầng sâu nhất của địa cung, đồng thời mặc sức sát hại, vẻ đau khổ trước lúc chết của những nạn nhân đó, đến giờ vẫn còn lưu lại trên thi thể. Hiện giờ trong phạm vi chúng ta trông thấy được có khoảng hơn một ngàn thi thể, vậy thì tầng địa ngục thứ chín này, rất có thể là một âm trận do khoảng trên mười ngàn xác ướp hợp thành đó!”
Đường Mẫn sợ đến suýt nữa phát khóc, Trác Mộc Cường Ba vội nhẹ nhàng xoa lên lưng cô an ủi. Giáo sư Phương Tân tiếp lời: “Vua Maya cổ đại có lẽ cũng giống như rất nhiều vị vua chúa thời cổ của Trung Quốc, chết rồi vẫn mong có thể chỉ huy thiên quân vạn mã, vì vậy đã bắt tù binh và người trong bộ tộc xếp hàng ở đây, mong rằng họ hóa thành âm binh, cùng ông ta đi vào một thế giới
khác. Chúng ta mà muốn đi ra, nhất định phải xuyên qua đám âm binh này mới được.”
Đường Mẫn khẽ thút thít: “Em sợ.” Trác Mộc Cường Ba vội an ủi: “Đừng sợ. Em đừng nghĩ họ là người, cứ coi như cọc gỗ, tượng đá, cái gì cũng được, như vậy thì sẽ không sợ nữa.” Nhưng bản thân gã cũng đang đánh trống ngực thình thịch, đứng tít đằng xa nhìn đã như vậy rồi, nếu tiến đến gần, lại còn phải đi xuyên qua nữa, tình hình sẽ như thế nào đây? Trác Mộc Cường Ba lắc mạnh đầu, không để mình tưởng tượng lung tung, chỉ cố dằn lòng xuống tự nói với mình: “Đó chỉ là vật chết, chẳng lẽ còn biến thành cương thi, nhảy ra cắn mình mấy phát được chắc? Chúng ta là người hiện đại văn minh, chúng ta hiểu biết khoa học kỹ thuật, một mình Pieri còn chẳng sợ, chúng ta có tới bốn người, thần kinh của mình cũng khá vững, sợ quái gì!” Thế nhưng từ những gì đọc được trong cuốn sổ của Pieri, ai có thể nói ông ta không sợ chứ.
Giáo sư Phương Tân đã hạ quyết tâm nói: “Đi thôi.” Dứt lời ông liền tắt đèn pha dẫn đầu cả đoàn đi vào bóng tối. Ông biết rõ, càn phải có người dẫn đầu, nếu không mọi người sẽ dừng hết cả lại đây, cuói cùng chỉ có chết đói.
Đám quân du kích đang đừng vây quanh một miệng hố dốc xuống thần mặt ra, một tên trong bọn báo cáo với tên dẫn đầu: “Mấy người nước ngoài ấy nhảy xuống hố này rồi, chúng ta tính sao đây?” Tên thủ lĩnh cho hắn một bợp tai, quát: “Chắc chắn còn lối vào khác, đi tìm cho tao! Có điều trước đó, tiêu diệt sạch cái lũ thổ dân kia rồi hãy hay! Hử? Tiếng động gì đấy?” Bọn chúng và cả đám thổ dân ăn thịt người cùng ngẩng đầu lên, phía chân trời vọng lại tiếng phành phạch rõ to, đó là tiếng cánh quạt máy bay trực thăng.
Trên máy bay, Gonzales hưng phấn đến nỗi cứ xoa xoa hai cánh tay múp míp vào nhau, thúc giục luôn mồm: “Thấp xuống một chút, thấp xuống chút nữa. Tiếng súng vang lên ở gần đây thôi! Nhìn kìa! Basaka! Mày thấy không! Thấy không! Thành trì! Nhìn kìa, giấu kỹ thật! Toàn ở trong rừng hết! Đẹp quá! Cả tòa thành lớn thế này vậy mà được che giấu kỹ thật, nếu không bay ở độ cao cực thấp, mày có bay qua một nghìn lần, một vạn lần cũng không phát hiện được nơi này đâu! Chúa ơi, cảm tạ người đã tốt với con! Bay tới đi! Lập tức bay tới đi! Nhanh lên!”
Đám quân du kích bên dưới ngẩng mặt lên quan sát, tên thủ lĩnh nói: “Trực thăng của thằng béo Gonzales. Con mẹ nó, chúng ta ở đây thì liều sống liều chết, còn hắn thì đến nhặt thành quả, bắn chết mẹ nó đi cho tao!”
Gã du kích đứng bên cạnh hắn kiến nghị: “”Hắn rở trên không, lại mới bay tới đây, vũ khí hay nhân số đều mạnh hơn chúng ta đó.” Tên thủ lĩnh nghĩ ngợi một lúc rồi “ừm” một tiếng, nói: “Cũng được, đợi bọn chúng hạ cánh rồi tấn công, báo cho những người khác, ẩn nấp tại chỗ. Nhớ kỹ, cẩn thận bọn thổ dân nữa!” Máy bay trực thăng đảo mấy vòng trên bầu trời Bạch thành, tên phi công nói: “Có rất nhiều thổ dân chực sẵn bên dưới.” Gonzales ra lệnh cho cả ba chiếc trực thăng: “Thổ dân thì sợ cái mẹ gì? Quét cho chúng một loạt đạn, xem xem có quân du kích bên dưới không, nhìn kỹ vào!”
Chiếc trức thăng phía sau báo cáo lại: “Không phát hiện được, chỉ có mấy thi thể, từ tiểu đội Một đến tiểu đội Mười đều có, xem ra bọn chúng rất hỗn tạp. Không biết có phải đã vào bên trong kim tự tháp rồi hay không nữa!”
Vừa nghe thấy tin này, Gonzales đã ngứa ngáy trong lòng, lập tức ra lệnh: “Nghe đây, thấy quảng trường bên dưới kia không, hạ cánh ở đấy. Trước tiên dọn sạch bọn thổ dân đã, sau đó lập tức tiến vào kim tự tháp, nhất định phải nhanh, phải gọn gàng!”
Ba chiếc trực thăng trước sau hạ cánh, một đội lính trang bị chỉnh tề bước xuống theo hàng một, đoạn tản ra bốn phía, bắt đầu lùng sục tiêu diệt đám thổ dân ăn thịt người, Gonzales dẫn theo một đám người chạy về phía kim tự tháp. Mới đi được nửa đường đã gặp phải phục kích, hắn vội vàng ra lệnh cho thuộc hạ bắn trả. Bắn nhau được chừng hơn mười phút, Gonzales lớn tiếng quát: “Đứa nào ở bên kia đấy? Tao là Gonzales, Gonzales béo đây! Đội trưởng chúng mày là ai? Bảo hắn ra đây cho tao!”
Đám người mai phục đáp lại: “Tao đánh mày đấy, Gonzales béo ạ. Không phải mày không tham gia hành động lần này sao? Tìm mày mượn trực thăng thì không cho mượn, cậy lắm tiền nhiều của, định giở trò bọ ngựa bắt ve, chim sẻ rình đằng sau đấy hả?”
Gonzales lớn tiếng nói: “Ôi cha, thì ra là đội trưởng Scott, tôi đến giúp các anh đây mà. Giờ chỉ còn lại có vài người, chẳng lẽ anh
thật sự muốn đánh sống đánh chết với tôi, cuối cùng chưa nhìn thấy thành phố Vàng đâu mọi người đã tứ tán ra rồi? Nói gì thì chúng ta cũng là bạn bè cùng chiến đấu mà! Bọn thổ dân kia mới là kẻ địch chung của chúng ta. Anh không thấy việc trước tiên bàn bạc phương án chia vàng, sau đó cùng đi khiên về, so với ở đây đấu súng tốt hơn rất nhiều hay sao?”
Scott cười gằn nói: “Gonzales, mày cũng nhanh mồm nhanh miệng lắm, tao phục rồi, đã vậy thì, đưa ra chút thành ý đàm phán đi!”
Gonzales đáp: “Tốt thôi, tôi phái Luke qua đàm phán, hắn không mang vũ khí, các anh đừng có mà bắn tỉa đấy nhé!”
Scott biết, Luke là cốt cán gần đây Gonzales mới bồi dưỡng, có ý sau này thăng tiến, sẽ để Luke thay mình, vậy là liền dặn dò: “Nhìn rõ một chút, đừng để hắn giở trò.” Một tên thuộc cấp trả lời: “Đúng là không mang vũ khí.”
Gonzales nói: “Luke qua đó rồi! Tôi cũng ra rồi, như vậy thì anh đã yên tâm chưa.”
Scott giờ mới yên dạ, đang mỉm cười định bắt tay Luke, Gonzales đã ấn mạnh vào nút bấm trong tay!
Mê cung Maya
Một tiếng nổ “oành” vang lên, Scott và mấy tên thuộc hạ thân tín bị nổ văng ra xa mấy mét, của Luke cũng nổ tung tóe ra làm bốn năm mảnh, chính Luke cũng không biết từ đầu Gonzales đã cho hắn mặc một chiếc áo có gắn thuốc nổ. Ngay sau đó, đám lính của Gonzales nhanh chóng bao vây mấy tên du kích còn lại, ra lệnh cho chúng bỏ khí giới đầu hàng. Gonzales lạnh lùng nhìn Scott vẫn đang thoi thóp thở, nói với giọng thương hại: “Chúng mày là cái lũ tàn binh bại tướng, còn đòi nói chuyện điều kiện với ta hả, có tư cách gì chứ! Không sai, Luke rất có tài, nhưng hắn có tài quá, sớm muộn gì cũng có ngày vượt qua tao, mà tao thì ghét nhất chuyện này! Yên nghỉ đi, chiến hữu của tao!” đoạn hắn bồi thêm mấy phát súng vào cái xác cháy đen đang vặn vọ ấy, cho tới khi thi thể kia không còn cử động nữa, Gonzales mới cười cười, hướng về đám lính du kích còn lại với giọng hết sức hòa nhã: “Đội trưởng của chúng mày chết hết rồi à? Có muốn theo tao không?”
Mấy tên du kích sống sót vội nói như chém đinh chặt sắt biểu thị sẽ trung thành, bọn chúng xưa nay đều luôn khuất phục kẻ mạnh. Gonzales mau chóng biên chế đám tàn binh mất chỉ huy, để lại mấy người canh trực thăng, mấy người phụ trách tiêu diệt đám thổ dân ăn thịt người, còn lại đều theo hắn chạy lên đỉnh kim tự tháp.
Bốn người lấy hết can đảm, bước đi giữa các hàng ngừoi chết, đến gần mới phát hiện ra, những xác ướp này đều bị ghim trên các giá bằng đá khổng lồ. Đá được tạc thành hình đinh mũ lộn ngược, mũ đá nhọn vừa dài vừa to xuyên qua giữa hai chân xác ướp, xuyên thẳng lên đỉnh đầu. Như vậy, mỗi xác ướp đều giữ nguyên tư thế đứng, đá màu trắng đã bị nhuộm thành màu nâu đất. Những xác ướp này còn có một đặc điểm, toàn bộ họ đều không có da, lớp thịt khô héo nhăn nheo như vải bao bố bám chặt vào xương trắng, hốc mắt sâu tròn hoàn toàn làm lộ ra vẻ điên cuồng của đầu lâu, vùng bụng bị mổ ra, mọi thứ trong khoang bụng đều bị móc hết. Tất cả những việc này đều được hoàn thành khi những người này bị đóng ghim trên giá đá, còn chưa đứt hơi thở, bởi vậy thân thể vặn vẹo vì
đau đớn, nét mặt thê lương ai oán của các xác ướp trên giá vẫn còn giữ nguyên. Thân thể ngoại hình, biểu hiện trên mặt của mỗi xác ướp đều toát lên vẻ đau khổ khác nhau, tựa hồ như tám trăm vị La hán, thần thái tư thế không ai giống nhau, nhưng toàn bộ đều là đau đớn giãy giụa.
Muốn đi qua mấy chục nghìn xác ướp đau khổ vặn vẹo này, đích thực là một chuyện không dễ dàng gì. Bất kể ngẩng đầu lên lúc nào, đập vào hai mắt, cũng là những hình người lạnh lẽo đáng sợ đến rợn người, phảng phất như đã tiến vào địa ngục sống. Nếu toàn bộ đều là xương khô còn đỡ, đây lại là xác ướp, tuy đã bị lột da, nhưng nét mặt khiến người ta sợ đến run người ấy vẫn giữ nguyên trên mặt. Nếu bốn người cứ cúi đầu bước về phía trước, cũng khó tránh khỏi đụng phải một hai cỗ xác ướp, trải nghiệm ấy cũng đủ khiến người ta gặp ác mộng. Vậy là, cả nhóm chỉ dám nhìn từ phần từ đầu gối trở xuống của các xác ướp mà bước đi. Thế nhưng, khi Trác Mộc Cường Ba nhìn thấy chỗ tiếp giáp giữa hai miếng lát sàn, cái thứ như vỏ sò lát bên dưới lộ ra hai hốc đen ngòm, gã lập tức hiểu ra bọn họ đang giẫm lên thứ gì, gã không dám nói, mà chỉ tự mình ôm nỗi khổ, thấp thỏm không yên bước đi. Đường Mẫn bám vào thắt lưng gã, nhắm mắt bước theo.
Lạt ma Á La dường như đỡ hơn ba người còn lại một chút, vừa đi vừa nói: “Nhiệt độ không khí ở đây hơi cao, lại rất khô ráo, tựa như có gió nóng vậy, có lẽ đây chính là nguyên nhân hình thành xác ướp đấy.”
Hít thứ không khí khô rát này, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy lỗ mũi hơi ngứa, gã dừng lại, chùi chùi quẹt quẹt, Đường Mẫn thấy gã không đi nữa, liền hỏi: “Sao thế?” Trác Mộc Cường Ba nói: “Không sao, ngứa mũi thôi.” Giáo sư Phương Tân vội nhắc nhở: “Đừng sờ lên mũi, là do không khí khô hanh gây ra, lúc này niêm mạc mũi rất dễ tổn thương, dễ chảy máu lắm.”
Trác Mộc Cường Ba cười cười bảo: “Thầy giáo nói muộn mất rồi, Mẫn Mẫn, em có khăn giấy không?” Nửa sau là gã nói với Đường Mẫn. Đường Mẫn ngẩng đầu, hoảng hốt thốt lên: “Ối, chảy máu mũi rồi!” Trác Mộc Cường Ba không ngờ mũi mình lại trở nên yếu ớt như vậy, chỉ gãi gãi một chút mà đã chảy máu. Trác Mộc Cường Ba quỳ một chân xuống chờ Đường Mẫn tìm khăn giấy trong
ba lô, chỉ nghe cô nói: “Lấy nước muối sinh lý rửa qua là xong thôi.” Xử lý qua loa xong, bọn họ lại tiếp tục bước đi trong âm trận. Đi được chừng mười phút mà vẫn chưa tìm thấy lối ra, đám âm binh này không phải xếp thành hàng ngang hàng dọc, mà lúc xếp ngang lúc xếp dọc, thành ra như một mê cung vậy. Trác Mộc Cường Ba đi thứ hai, vì Đường Mẫn cứ bám chặt sau lưng gã, lạt ma Á La đành đi cuối cùng. Lúc này, Trác Mộc Cường Ba đã cảm thấy có gì đó không ổn, gã phát giác ra bước chân của mình nhẹ bẫng, mỗi bước giẫm xuống đều như thể không đặt chân lên đất bằng, nhưng gã vẫn cứ kiên trì đi tiếp.
Cuối cùng, giáo sư Phương Tân nói: “Bọn họ sắp xếp âm binh thành mê cung, mỗi người đến tầng cuối cùng này, đều phải xem hết tất cả xác ướp thì mới ra được. Những người Maya cổ đại này rốt cuộc thờ phụng thứ gì, sao lại làm ra những chuyện như vậy được chứ?”
Trác Mộc Cường Ba lấy làm kỳ quái, tại sao giọng nói của giáo sư Phương Tân trở nên the thé chói tai như vậy. Chỉ nghe lạt ma Á La cũng rít giọng cất tiếng: “Các dân tộc thời viễn cổ này đều sùng bái máu tanh và bạo lực, đây là tính cách của chủng tộc, không phải của riêng một dân tộc nào hết.
Đường Mẫn lo lắng nói: “Rốt cuộc chúng ta phải đi bao lâu nữa?” Màng nhĩ Trác Mộc Cường Ba đã hơi nhói đau, gã thầm nhủ: “Giọng Mẫn Mẫn sao cũng chói tai như thế?” Giáo sư Phương Tân trả lời cô: “Không biết nữa, không gian này lớn lắm, có thể để cả trăm nghìn xác ướp thì cần phải có một gian phòng lớn nhường nào chứ. Cường Ba, hình như cậu có gì không ổn thì phải?”
Trác Mộc Cường Ba ngẩng cái đầu như muốn vỡ tung của mình lên, miễn cưỡng nói: “Không sao đâu, tiếp tục đi.” Gã tự biết rõ, máu mũi vẫn không ngừng chảy, gã đã nuốt vào khá nhiều rồi. Đột nhiên, gã nhận ra xác ướp phía trước kia đang cười với mình, đó là một nụ cười thế nào nhỉ, băng lạnh đến độ khiến người ta nghẹt thở, ngay sau đó, cỗ xác ướp bên trái liền nhe nanh múa vuốt, tựa hồ muốn bổ nhào tới. Gã kinh hoảng lùi sang bên phải, đồng thời kinh hãi thầm nhủ: “Sao lại như vậy? Đám xác ướp này, không ngờ vẫn còn sống hay sao!” Cỗ xác ướp bên phải cứ bóp chặt lấy cổ gã, Trác Mộc Cường Ba muốn vùng vẫy thoát ra, nhưng chân tay chẳng còn chút
sức lực nào, gã trông thấy các xác ướp ở khắp xung quanh đều vung vẩy vô số cánh tay khô đét vươn về phía mình. Trác Mộc Cường Ba há miệng hít vào mấy hơi, chỉ kịp nghe thấy câu cuối cùng: “Trời đất, cậu ấy trúng độc rồi! Naloxone, lấy Naloxone ra đây!”
Dòng nước ngọt mát chảy vào cổ họng, Trác Mộc Cường Ba chầm chậm mở mắt, nhìn thấy Đường Mẫn khóc đến nhem nhuốc cả mặt, đôi mắt to đen trắng rõ ràng đang vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ nhìn mình. “Anh ấy tỉnh rồi, giáo sư, anh ấy tỉnh rồi!”
Trác Mộc Cường Ba nhìn lên trần nhà, căn phòng này cao khoảng năm mét, dưới ánh đèn, trên tường toàn là những bức phù điêu chạm nổi thể hiện các con thú mặt xanh nanh vàng dữ tợn. Gã cựa quậy ngồi lên, chỉ thấy căn phòng này rộng chừng một trăm mét vuông, ở chính giữa là một cái vạc đá trông rất cổ xưa, bốn bức tường vẽ những con chim ưng đầu trọc bằng hai màu đỏ đen, màu sắc tươi rói sống động như thật, tựa hồ vừa mới vẽ lên xong vậy. Các góc tường đều có trụ hình tròn, bên trên cũng dùng thủ pháp khắc phù điêu chạm nổi ra hình người, mặt mũi người nào người nấy đều hết sức hung tợn, bộ mặt hướng về bên trái hoặc bên phải, nhưng ai cũng cầm xà trường trên tay, ở hông quấn một con rắn, đối xứng theo hai bên trái phải. Căn phòng này có ba cánh cửa, trên bức tường không có cửa kia là một cái đầu hổ châu Mỹ khổng lồ vẽ theo phong cách trừu tượng, làm nổi bật lên đôi mắt và cặp răng nanh của nó. Góc phòng có vài món đồ gốm sứ, lớn nhỏ khác nhau, bình gốm và bát đất, hình như được sắp xếp theo một phương vị nhất định nào đó. Trác Mộc Cường Ba dựa lưng vào một trong các cây cột, bên cạnh có vài món thuốc và một bình nước, gã cầm bình lên lắc lắc thấy không còn bao nhiêu nữa, không cần phải nói cũng biết hầu hết chỗ đó đã vào bụng gã cả rồi.
Giáo sư Phương Tân và đạt ma Á La được Đường Mẫn dẫn đường, đi vào từ cánh cửa phía trái, Trác Mộc Cường Ba ngượng ngịu nói: “Thật xin lỗi, tôi cũng không hiểu chuyện gì xảy ra nữa.” Bản thân Trác Mộc Cường Ba tự hiểu rõ, nếu gã không sao thì có thể làm một chân khiêng vác, còn ví như gã gục xuống, ắt sẽ thành một gánh nặng lớn.
Giáo sư Phương Tân cười cười nói: “Cũng may là không sao, cậu trúng độc không nặng lắm.”
Trác Mộc Cường Ba không biết phải bày tỏ lòng biết ơn của mình thế nào, cuối cùng chỉ biết nói: “Cám ơn, cám ơn mọi người.” Giáo sư Phương Tân không trả lời, ông hiểu được, câu này gã không nói với ông, giữa ông và Trác Mộc Cường Ba đã không cần phải cám ơn nhau nữa rồi. Lạt ma Á La nói: “Muốn cám ơn, thì cậu phải cám ơn cô bé này, vì cậu mà cô ấy chịu không ít khổ sở, đã mấy lần suýt chết rồi đấy.”
Trác Mộc Cường Ba ngước nhìn cô gái bé nhỏ đáng yêu Đường Mẫn, cô đang thẹn thùng cúi gằm mặt xuống đất, chỉ cần nhìn quần áo xộc xệch rách bươm và những vết bầm lốm đốm kia, là có thể tưởng tượng ra cô bé hay khóc nhè này đã nếm chịu bao nhiêu khổ ải vì gã rồi. Trác Mộc Cường Ba vui sướng nâng gương mặt nhỏ nhắn của Đường Mẫn lên, áp vào ngực mình, để cô cảm nhận trái tim đang đập mạnh và quyết tâm đưa cô ra khỏi địa cung này của gã.
Chỉ nghe lạt ma Á La nói: “Trước khi bị xử tử, những tù binh đó nhất định đã uống nhiều loại thuốc gây ảo giác, ngấm sâu vào xương tủy, trải qua nghìn năm vẫn chưa tiêu tan hết được. Lành lặn thì không sao, nhưng một khi đã bị thương, chất độc sẽ qua đó mà xâm nhập vào cơ thể.”
“Cậu lại bị rách niêm mạc mũi, chất độc hấp thu vào máu còn nhanh hơn truyền nước biển, vả lại trước đó trong cơ thể cậu cũng tích tụ không ít chất gây ảo giác rồi, lần này chúng cùng một lúc phát tác, gây ra ảo giác mạnh hơn.” Giáo sư Phương Tân tiếp lời hỏi, “Ở trong rừng cậu đã ăn phải thứ gì rồi đúng không?”
Trác Mộc Cường Ba lục lọi trong ký ức: “Tôi có ăn một loại vỏ cây cạo ra được thứ bột như bột mì vậy.”
Lạt ma Á La nói: “Vậy thì đúng rồi, trong rừng này có rất nhiều thực vật chứa các thành phần gây ảo giác mạnh như coca, cafein với nồng độ cao, cậu ăn không nhiều nên không phát hiện ra thôi.”
Trác Mộc Cường Ba nhìn ba người bọn giáo sư Phương Tân, thấy ai cũng quần áo xộc xệch, nét mặt tiều tụy, xem ra cả quãng đường vừa rồi họ phải vác theo gã, chắc đã nếm khổ khá nhiều, đặc biệt là Mẫn Mẫn, đầu tóc rối bù, mặt nhem nhuốc như cô hề. Gã
vùng vằng cố gượng đứng lên, tiện miệng hỏi: “Mọi người, đây là đâu vậy?”
Không ngờ gã vừa nhúc nhích, cả mấy người bọn giáo sư Phương Tân đã đồng thanh thốt lên: “Đừng cử động, đừng cử động!”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Không vấn đề gì đâu, tôi đã đỡ rồi.” Giáo sư Phương Tân lắc đầu nói: “Bọn tôi biết cậu khỏe như trâu, tỉnh rồi đương nhiên là không sao. Chúng tôi bảo cậu không được cử động, là sợ cậu đụng phải chốt bẫy nào đó thôi!”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Chốt bẫy?” Gã đưa mắt nhìn căn phòng trống chỉ cần nhìn qua cũng thấy hết mọi thứ, đoạn hỏi: “Ở đây cũng có chốt bẫy à?”
Lạt ma Á La cười khổ đáp: “Mỗi bước cậu đặt chân, đều không thể đoán định được sự sống chết của mình, cậu không thể dự đoán, bước chân tiếp theo mình sẽ giẫm lên lằn ranh sinh tử nào. Đây là nguyên văn lời Pieri đấy, ở đây chỗ nào cũng có chốt bẫy, hơn nữa còn ở những nơi cậu hoàn toàn không thể tưởng tượng ra được đâu.”
Giáo sư Phương Tân nói: “Giờ chúng ta đang ở tầng thứ 7 rồi, may nhất trong những điều không may là vẫn chưa ai bị vết thương nào chí mạng cả.”
Đường Mẫn nói: “Mấy lần đều nhờ lạt ma Á La kịp thời phản ứng, bằng không chúng ta đều xong đời hết rồi.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Sao vậy, không phải đã có cuốn sổ ghi chép của Pieri rồi sao? Vẫn đụng phải chốt bẫy hả?” Giáo sư Phương Tân đáp lời gã: “Trước tiên, Pieri chưa thăm dò hết tất cả các chốt bẫy ở đây, có rất nhiều cơ quan bẫy rập ông ta không hề nhắc tới; thứ hai, cũng có nhiều chỗ ông ta nói tới, nhưng lại không nói cho tận tường tỉ mỉ, thêm vào đó, cuốn sổ cũng đâu còn nguyên vẹn, chúng ta buộc phải vừa đi vừa lần mò thôi. Cũng may là còn có cuốn sổ này, giống như là có sách hướng dẫn sử dụng sản phẩm vậy, bằng không, thật đúng là một bước cũng khó đi ấy chứ!”
Đường Mẫn lẩm bẩm tiếp: “Hơn nữa, Pieri có ghi trong cuốn sổ ấy là ông ta đã phá hoại một số cạm bẫy, không hiểu tại sao tất cả đều khôi phục lại rồi.” Lạt ma Á La lên tiếng tiếp lời: “Vì vậy, không
thể sơ suất dù chỉ một bước.” Giáo sư Phương Tân cũng bắt vào nhịp: “Với lại, trong bóng tối còn tiềm ẩn những sinh vật chúng ta không biết đến, tòa địa cung Ahezt tượng trương cho địa ngục này, đã trở thành thiên đường sống cho một số loài sinh vật ưa bóng tối, động thực vật cộng sinh với kiến trúc do con người xây nên, nếu sơ suất, thì sẽ như thế này này!” Vừa nói, ông vừa chỉ vào mấy vết thương nhìn mà rợn người trên lưng lạt ma Á La, cho Trác Mộc Cường Ba biết thế nào là lợi hại.
Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt: “Là, là thứ gì gây ra vậy?” Lạt ma Á La lắc đầu: “Đây là lúc ở tầng thứ chín, bị mấy sinh vật cào cho bị thương đấy.”
Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Trông chúng như thế nào?” Lạt ma Á La gượng cười: “Không nhìn rõ.”
Trác Mộc Cường Ba lắp bắp: “Không…không nhìn rõ ư?” Giáo sư Phương Tân đáp: “Tốc độ di chuyển cực nhanh, thể hình lại tương đối nhỏ, chúng tôi chỉ kịp thấy bóng đen dưới ánh đèn, sau đó nó đã bổ nhào tới, căn bản không thể nhìn rõ. Theo như suy đoán ban đầu của chúng tôi…” ông quay sang nhìn lạt ma Á La. Lạt ma Á La như muốn kiểm tra Trác Mộc Cường Ba, mỉm cười hỏi: “Theo anh, trên thế giới dơi có thể chia làm mấy loại lớn?” Trác Mộc Cường Ba suy nghĩ giây lát, rồi đáp: “Có rất nhiều loài, nhưng dựa vào tập tính thì có thể chia thành ba loại lớn, loại ăn hoa quả gọi là dơi ăn quả (Rousettus), hút máu gọi là dơi hút máu (Desmodus rotundus) còn một loại nữa là dơi ăn thịt. Brazil có rất nhiều dơi hút máu, lẽ nào mọi người cho rằng…” Nghĩ đến trong bóng tối, có cả đàn dơi hút máu đen ngòm, da đầu Trác Mộc Cường Ba gai hết cả lên.
Lạt Ma Á La đáp: “Chúng tôi nghĩ không phải. Những vết thương này là vết bị cào, loài động vật ấy có thể đảo lượn trên không trung, nhưng lại có móng vuốt rất sắc nhọn, lúc tấn công sinh vật không dùng miệng, mà là dùng móng vuốt.”
Trác Mộc Cường Ba giật mình, cao giọng thốt lên: “Lẽ nào là… lũ dơi ăn thịt mà số lượng và sự phân bố của chúng đều rất nhỏ ư!” Theo những gì gã được biết, trên thế giới có nhiều nhất chính là dơi ăn quả, kế đó đến dơi hút máu, vì chúng bị hình dung là hóa thân của ma cà rồng nên tiếng tăm lan truyền đi khắp nơi, nhưng còn dơi
ăn thịt thì mãi đến thế kỷ mười sáu mới được người ta phát hiện, trong đó đang sợ nhất, nổi tiếng nhất chính là Ác ma đỏ trong một lâu đài cổ ở London, Anh quốc. Nghe đồn đó là một tòa lâu đài đã bỏ hoang phế mấy trăm năm, có truyền thuyết kể rằng bên trong có ma cà rồng, bất kể là người hay súc vật đều không thể qua đêm trong đó. Nhà thám hiểm người Anh Frankens lần đầu tiên dẫn người vào điều tra bí ẩn trong tòa lâu đài cổ, kết quả toàn bộ đều bị chết sạch, lúc khám nghiệm thi thể người ta mới kinh ngạc phát hiện ra, trên đầu họ bị chọc một lỗ cực nhỏ, não tủy bị hút sạch sành sanh. Lần thứ hai, là một nhà sinh vật học vén tấm màng bí mật của lâu đài lên, ông sử dụng một con khỉ macac đã bị tiêm thuốc mê, cho vào lưới đánh cá để dụ hóa thân của ác ma kia. Cuối cùng, bọn họ phát hiện ra con dơi ăn thịt màu đỏ ấy, hình thể rất lớn, to gấp đôi gấp ba con dơi bình thường, đáng sợ nhất là bộ móng vuốt sắc nhọn như móc câu, phần miệng tiến hóa thành một cái mỏ dài như kim tiêm, nó sử dụng cái kiêm này để chọc thủng cả xương sọ cứng nhất của sinh vật, hút não tủy ăn. Loài dơi này, so với dơi hút máu thì đáng sợ hơn nhiều.
Giáo sư Phương Tân nói: “Có điều giờ còn đỡ, không gian của tầng bảy này nhỏ, trần nhà không cao, nên không có những sinh vật ấy, chỉ là không biết các tầng trên có thứ gì nữa thôi.”
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên sực nhớ ra gì đó, liền hỏi: “Thầy giáo, vừa rồi có thấy nói ở tầng này trong cuốn sổ của Pieri ghi chép không được đầy đủ, chúng ta phải tự lần mò đi tiếp là sao?”
Giáo sư Phương Tân cười khổ: “Không phải không đầy đủ, mà là không có cách nào ghi rõ ra được.” Giáo sư Phương Tân xoay chiếc máy tính xách tay lại để Trác Mộc Cường Ba nhìn rõ nội dung cuốn sổ. Chỉ thấy bền trên ghi: “Giờ tôi đang tìm kiếm đường ra trong một dãy phòng như mê cung, bản thân cũng không biết mình đang ở đâu nữa.”
“Mê cung?” Trác Mộc Cường Ba không hiểu. Giáo sư Phương Tân bèn giải thích: “Cậu ra xem là biết ngay thôi, cẩn thận một chút, bước lên chỗ được sơn màu đỏ trên sàn mới an toàn.”
Đường Mẫn đỡ Trác Mộc Cường Ba dậy đi tới cánh cửa phía Tây. Trác Mộc Cường Ba đứng trước cửa nhìn sang đó, lập tức đần người ra, gã cứ ngỡ mình đang nhìn vào một tấm gương, vội vàng
quay đầu lại xem thử. Chỉ thấy gian phòng trước mặt và gian phòng gã đang đứng, gần như là giống hệt nhau, cũng có một cái vạc lớn ở giữa, bốn bức tường vẽ chim ưng đầu trọc, góc tường khắc hình người cầm xà trượng, trong góc nhà đặt mấy món đồ gốm đồ đất nung, một mặt tường không có cửa, bên trên là hình đầu hổ châu Mỹ theo lối trừu tượng. Điểm khác biệt duy nhất, chính là ba cánh cửa trên tường cso sự thay đổi phương vị một chút, và đống đồ gốm ở góc phòng cũng được đặt theo thứ tự khác. Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại nhìn giang phòng sau lưng, rồi lại nhìn gian trước mặt, nếu không quan sát kỹ lưỡng, thật sự hoàn toàn không thể phát hiện sự khác biệt gì, mồ hôi lạnh túa ra trên trán gã: “Có bao nhiêu gian phòng như vậy?”
Lạt ma Á La đáp: “Không đếm được. Chúng ta đến đây, ít nhất đã đi qua bảy mươi hai gian phòng trùng lặp rồi.”
Trác Mộc Cường Ba thầm kinh hoảng: “Đều giống hệt như vậy?”
Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Đều giống hệt như vậy.” Trác Mộc Cường Ba rùng mình, hỏi tiếp: “Tại sao lại làm thành như vậy?”
Lạt ma Á La giải thích: “Vị dạ thần thứ bảy trong địa ngục người Maya là Abula Afaha(1), là vị thần chuyên trừng phạt những kẻ đi sai đường vì tham lam và ham muốn, bọn họ vì dục vọng của mình mà đã phạm phải những tội ác không thể tha thứ, bị trừng phạt bằng cách đeo vật nặng đi mãi đi mãi dưới địa ngục, vĩnh viễn không thể nào tìm được phương hướng chính xác. Nếu cậu lại hỏi tiếp tại sao phải như vậy, thì chỉ có thể nói tất cả đều là ý của thần linh, người Maya cổ đại đã tuân theo chỉ chị của thần linh mà xây nên tòa địa cung Ahezt này, đây chính là địa ngục trong lòng họ được tái hiện một cách chân thực.”
Đường Mẫn đỡ Trác Mộc Cường Ba đi xuyên qua hai gian phòng nữa, Trác Mộc Cường Ba đã hoàn toàn mất hết cảm giác phương hướng, gã không còn biết mình đang ở chỗ nào nữa. Lúc này, giáo sư Phương Tân hỏi: “Theo phán đoán của cậu, chúng ta đã đi khỏi căn phòng ban đầu được bao xa rồi?”
Trác Mộc Cường Ba vò đầu một lúc, thấp giọng đáp: “Tôi nghĩ, tôi nghĩ… chúng ta vào qua cánh cửa bên trái, căn phòng trước
chúng ta đi cửa bên phải, căn phòng trước nữa hình như là từ bên dưới lên…” Gã vẽ trên không một hình chữ “chi”, sau đó quay sang hỏi giáo sư Phương Tân: “Như vậy phải không?”
Giáo sư Phương Tân không đáp, Đường Mẫn lẩm bẩm nói: “Anh vẫn phải nghỉ ngơi thêm một lúc.” Nói đoạn liền đưa mắt nhìn sang phía góc tường. Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu nhìn theo, liền trông thấy… bình nước dưới đất, lập tức cảm thấy trời đất xoay chuyển mòng mòng, trời ơi! Hóa ra bọn họ đã đi một vòng tròn, lại trở về vị trí ban đầu. Giáo sư Phương Tân nói: “Giờ cậu đã thấy Pieri vĩ đại thế nào chưa. Ông ấy chỉ có một người, không những không bị ngất trong những gian phòng giống như mê cung này, mà còn tìm được lối ra, ông ấy có kinh nghiệm phong phú hơn bất cứ người nào trong chúng ta.”
__________
1. Theo truyền thuyết của người Maya, dưới địa ngục có chín vị thần cai quản, gọi tên chung là Bolontiku. Vị thần thứ bảy được nhắc đến trong đoạn này là Abula Afaha; trong các tư liệu tiếng Anh và tiếng Trung Quốc có được trên Internet, người dịch không tìm thấy tư liệu nào nhắc đến tên của chín vị thần Bolontiku, nên chỉ tạm dịch phiên âm.
Ác ma bay lượn
Làm sao mới ra khỏi căn phòng này được? Trác Mộc Cường Ba không dám tưởng tượng, nếu một mình gã rơi vào nơi này, đảm bảo cuối cùng chỉ có cách đập đầu vào tường mà chết. Trác Mộc Cường Ba nhìn những đồ gốm nơi góc tường, đột nhiên một ý nghĩ lóe lên trong đầu, liền hỏi: “Các sắp đặt những đồ gốm kia ở mỗi gian phòng đều khác nhau, chắc là để chỉ phương vị, bằng không, những người thợ tu sửa ở đây làm sao ra ngoài được.”
Giáo sư Phương Tân tán thưởng: “Không sai, cuối cùng cậu cũng phát hiện ra rồi, chúng tôi cũng nghĩ như vậy. Có điều…” Lạt ma Á La đứng bên cạnh lắc đầu. Giáo sư Phương Tân mỉm cười, nói tiếp, “chúng tôi đã quan sát cẩn thận cách sắp xếp những món đồ gốm ấy, những thứ bị con người hay động vật phá hoại bỏ qua không tính, cả những chỗ còn hoàn chỉnh cũng không chỉ ra điều gì rõ rệt cả. Một vại gốm, thêm bốn cái bát đất nung, và ba cái chén nhỏ như chén rượu, tổng cộng có thể ghép lại thành bao nhiêu tổ hợp khác nhau, cậu có biết không?”
Trác Mộc Cường Ba thấp giọng đáp: “Tám món, vậy thì nhân từ một tới tám.” Kế đó gã bắt đầu lẩm bẩm một nhân hai nhân ba. Giáo sư Phương Tân xua tay nói: “không đơn giản như vậy đâu. Cậu quan sát là phát hiện được ngay, bát đất nung và chén gốm có thể đặt theo hai cách, đặt ngửa và đặt úp, ngoài ra phương hướng sắp đặt vại gốm và bát đất nung, chén gốm lại có thể hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, có bảy món đồ có thể đặt ngửa và đặt úp, phải thêm bảy lần, thêm nữa tất cả các món đều có thể xếp theo các hướng khác nhau nên phải thêm tám lần nữa, tổng cộng là hai mươi ba, cách tính chính xác là phải từ một nhân tới hai mươi ba. Vậy là bao nhiêu tổ hợp hả?”
Thấy Trác Mộc Cường Ba há hốc miệng, giáo sư Phương Tân lại bổ sung thêm: “Con số này, nếu dùng máy tính điện tử thông thường thì vượt quá số giới hạn trên, không tính ra được đâu. Còn chúng ta lại không phải chuyên gia mật mã, hoàn toàn không có căn cơ về mặt ký hiệu học và ý nghĩa tượng trưng, vì vậy muốn dựa vào
cách sắp xếp các món đồ gốm này để tìm đường ra thì không thực hiện được đâu.”
Lạt ma Á La cũng nói: “Chuyện này không có gì lạ, vì nhóm các anh không được học về phương diện này, không biết được nền văn minh Maya rốt cuộc đã phát triển tới trình độ nào. Nhân lúc này thể lực anh còn chưa hồi phục, mọi người đang nghỉ ngơi, có thể dạy bù cho anh.”
Mọi người liền ngồi xuống. Lạt ma Á La bắt đầu giảng giải cho Trác Mộc Cường Ba: “Nền văn minh Maya, không có cả công cụ đồng thau, chỉ dùng công cụ bằng đá, đã xây dựng nên được một nền văn minh độc lập với những nền văn minh lớn trên thế giới nhưng lại hoàn toàn không hề thua kém gì, từ điểm này có thể thấy, trí tuệ của họ, là thứ người hiện đại chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi. Cứ lấy bộ tổ hợp đồ gốm này ra làm ví dụ đi, riêng điểm này đã thể hiện thành tựu đáng kinh ngạc của người Maya cổ đại đối với số học rồi. Người Maya cổ đại chính là dân tộc đầu tiên phát minh và sử dụng số 0, cậu phải biết rằng, sự ra đời của số 0, đánh dấu một bước nhảy lớn trên con đường phát triển của một dân tộc…”
Trong gian phòng lớn, các thành viên trong nhóm của giáo sư Phương Tân thay nhau “bổ sung” kiến thức cho Trác Mộc Cường Ba, bắt đầu từ kiến thức số học của người Maya, nói tới tri thức thiên văn học của họ, rồi ý thức thần linh, cách thức ăn ở đi lại, văn tự Maya cổ… trong thời gian ngắn ngủi không thể nói một cách rõ ràng, nên họ chỉ chọn lựa nói với Trác Mộc Cường Ba những thành tựu nổi bật của văn minh Maya, chỉ riêng những tri thức này, đã đủ khiến gã phải nhìn dân tộc sở hữu nền văn minh cổ đại này bằng con mắt hoàn toàn khác rồi. Ngoại trừ kinh ngạc, chấn động, kinh khủng, cảm thán, không còn từ ngữ nào hình dung nội tâm Trác Mộc Cường Ba lúc này nữa. Dân tộc này không chỉ là văn minh, mà còn là văn minh phát triển bậc cao, thậm chí còn có lý do để tin tưởng rằng, chính bọn họ đã tạo ra thời đại hoàng kim của nhân loại.
Bọn họ sử dụng một loại lịch pháp tương tự như Lịch Mặt trời, còn chuẩn xác hơn cả Lịch Mặt trời người hiện đại đang sử dụng; họ dựa vào hai tay hai chân của con người, phát minh ra hệ nhị thập phân; các kim tự tháp mà họ xây dựng bất kể về số lượng hay quy
mô đều vượt trên kim tự tháp Ai Cập; từ ngàn năm trước họ đã quan trắc đồng thời tính toán được một cách chuẩn xác quỹ đạo của các hành tinh trong Thái Dương hệ; quy mô các thành bang của họ vô cùng hùng vĩ, có hệ thống dẫn nước cực kỳ phức tạp. Nền văn minh Maya để lại quá nhiều nghi vấn, rất nhiều kết tinh trí tuệ của họ đến nay vẫn còn khiến người ta phải le lưỡi thán phục. Rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu nền văn minh Maya thậm chí còn kinh ngạc thốt lên: “Nền văn minh của họ từ trên trời rơi xuống, là thần linh đã chỉ thị cho họ.” Còn số đông hơn lại cho rằng người Maya là sinh vật ngoài hành tinh, cũng có thuyết nói họ là sản vật còn sót lại của thời kỳ hoàng kim trong nền văn minh tiền sử. Nhưng nói thế nào thì nói, nền văn minh này đã tiêu vong rồi, vô cùng đột ngột, phảng phất như trong một khoảnh khắc, người Maya có trí tuệ cao đã bỏ cả thành trì khổng lồ của mình, ngừng việc quan sát tinh tú, không còn xây dựng các kim tự tháp cao ngất, bọn họ trở lại rừng sâu, sống cuộc sống dừng lại ở thời kỳ đồ đá. Vì vậy, kể từ sau khi Colombo lần đầu tiên đặt chân lên đại lục châu Mỹ, trong một thời gian rất dài, người châu Âu không chịu chấp nhận những kiến trúc huy hoàng đó là kiệt tác của đám người nguyên thủy ăn lông ở lỗ sống trong rừng rậm… tất cả đều thật không sao tin nổi.
Giống như trong một hội nghị khoa học, mấy người nhóm giáo sư Phương Tân tranh nhau giảng giải về nền văn minh Maya thần bí cho Trác Mộc Cường Ba nghe, gã cũng nghe như say như mê, tất cả đều hệt như khi nhóm người của giáo sư Phương Tân tiếp xúc với nền văn minh này vậy, phảng phất như đang được nghe một truyền thuyết từ thời viễn cổ. Khi mấy người giáo sư Phương Tân quên đi phần nào nội dung, liền mở máy tính ra tra cứu tư liệu, họ dùng bữa luôn trong mê cung, vừa ăn vừa trò chuyện, tới khi ánh đèn mờ dần.
Trong lúc nói chuyện Trác Mộc Cường Ba mới biết, họ lên được hai tầng kim tự tháp đã tốn mất thời gian quá nửa ngày, lúc này khó khăn lắm mới tìm được một nơi tương đối an toàn, vì vậy mới ở đây ăn uống đồng thời chuẩn bị nghỉ ngơi luôn. Chỉ mới hai tầng mà đã tốn mất nửa ngày, mặc dù mấy người bọn giáo sư Phương Tân không nói ra, nhưng Trác Mộc Cường Ba có thể tưởng tượng, các bẫy rập ở đây hung hiểm thế nào. Ăn uống xong xuôi, Trác Mộc
Cường Ba cảm thấy sức khỏe đã hoàn toàn hồi phục, giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La đang tranh luận xem có nên nghỉ ngơi ở đây một đêm rồi mới đi tiếp hay không. Mà vấn đề quan trọng nhất mà họ tranh luận chính là, lương thực và nguồn sáng không đủ nữa, nước và thức ăn chỉ đủ cho bốn người cầm cự trong hai ngày, giờ đã hết mất một nửa rồi; ánh sáng của mũ chiếu sángđã được vặn nhỏ xuống, pin có thể tăng lên bảy tới tám tiếng thời gian, hơn nữa mỗi chiếc mũ lại có năm cục pin dự phòng, cũng có thể kéo dài chừng hai ngày. Lạt ma Á La cho rằng, mặc dù ở đây không thấy mặt trời, nhưng chu kỳ sinh lý của con người không thay đổi, đến tối sẽ buồn ngủ, trong trạng thái tinh thần ấy, rất dễ mất mạng trong bẫy rập, trong căn phòng nhỏ này, số lượng chốt bẫy không phải là nhiều lắm, lưu lại đây nghỉ ngơi chính là lựa chọn tốt nhất.
Chuyện cũng vừa khéo, đám quân du kích trên phần đỉnh của kim tự tháp cũng đang tranh luận cùng một vấn đề với họ. Quân du kích khó khăn lắm mới xuống được đến tầng thứ ba, không gian đột nhiên trở nên rộng lớn và các bẫy rập thiết kế tinh xảo đã khiến bọn chúng thương vong nặng nề, không ít tên đã vì quá sợ hãi mà manh nha ý định rút lui, nhưng đa số lại muốn đi tìm vàng bạc châu báu, kiên quyết đòi tiếp tục đi xuống. Gonzales nhất thời cũng không đưa ra được chủ ý, với tính cách của hắn, đáng lẽ đã ra lệnh cho thủ hạ tiếp tục tiến vào, mang hết đồ quý báu trong đó ra cho hắn hưởng dụng, nhưng cục diện trước mắt lại khác, nếu hắn không xuống, đám người này cũng chẳng ai xuống cả. Gonzales là một thương nhân rất thực tế, chuyện làm ăn lãi lớn đương nhiên hắn rất thích, nhưng nếu cái giá phải trả là tính mạng của mình, vậy thì cái giá ấy không khỏi hơi quá lớn. Điều làm hắn cảm thấy bực bội hơn cả là, khó khăn lắm mới vượt qua được phần dáy kim tự tháp và đi sâu vào lòng đất, dọc đường đầy các kiến trúc hùng vĩ khiến người ta kinh ngạc thán phục và những bức bích họa tinh xảo tuyệt đẹp khiến người ta tưởng tượng xa vời, vấn đề là đi bao nhiêu lâu như vậy, ngoại trừ những bích họa, tượng điêu khắc đá không bán được bao nhiêu tiền hoặc giả không thể mang ra bán, bọn hắn không tìm thấy thứ gì khác, dù là một vài thứ công nghệ phẩm bằng đá hơi nhỏ một chút cũng không thấy, tác phẩm nghệ thuật nhỏ nhất mà bọn hắn trông thấy cũng phải dùng đơn vị mét để đo, trọng lượng cũng phải
dùng “tấn” mà tính toán. Giờ đã xuống đến tầng thứ ba, vẫn không thấy thứ nào đáng giá bán được nhiều tiền, ngược lại còn thêm vô số bẫy rập giết người. Nhìn hai phe cãi nhau ầm ầm sôi sục, hắn lại càng rối bời: “Đừng cãi nữa! Tiếp tục tiến lên! Cẩn thận một chút! Đừng rời xa đội hình, đừng có mơ đào ngũ, bằng không, chúng mày đứa nào tự cho rằng mình có thể một mình ra khỏi chỗ này chứ?” Cuối cùng, Gonzales cũng lên tiếng, tín niệm trong lòng đã ủng hộ hắn, “Tiếp tục đi xuống, tiếp tục đi xuống, vàng bạc, châu báu, ngọc thạch sáng rực rỡ, nói không chừng ở tầng dưới đây thôi!”
Thảo luận không được bao lâu, mấy người bọn giáo sư Phương Tân đã bị một loạt tiếng động lạ làm kinh động. Trác Mộc Cường Ba vừa lắp pin mới cho chiếc mũ chiếu sáng, nghe thấy tiếng động, liền giấu Đường Mẫn ra sau lưng mình, hoảng hốt nhìn bốn phía xung quanh. Giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La cũng ngừng tranh luận, cùng bất an ngước quanh. Tiếng động vang từ căn phòng này sang căn phòng khác, vọng ra từ những căn phòng tối om không có ánh đèn, rất hỗn loạn, nhưng rất rõ ràng, càng lúc càng gần họ hơn. Cái chết không hề đáng sợ, đang sợ nhất chính là phải chờ đợi cái chết đến gần! Lúc này bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba, chính là đang cảm thụ sâu sắc tâm trạng ấy, biết rõ rằng có thứ gì đó đang tiến tới, số lượng cực nhiều, chắc chắn sẽ bất lợi cho mình, nhưng lại không biết những thứ ấy từ đâu tới, liệu có thể là thứ gì, bản thân mình nên phòng vệ thế nào. Bốn người dựa vào bức tường không có cửa kia, túm lại một chỗ, mắt nhìn chằm chằm vào từng cánh cửa. Bất cứ lúc nào căn phòng này cũng có thể bị một loại sinh vật nào đó thâm nhập.
Lạt ma Á La có đôi tai thính nhạy khác thường, ông nói: “Là động vật bay, tôi nghe thấy tiếng đập cánh vù vù, nhưng lại không giống lắm.”
Giáo sư Phương Tân phản ứng nhanh nhất, ông lập tức nói: “Đại sư, còn nhớ ngài vừa nói gì không? Địa cung này không có ngày đêm, nhưng chu kỳ sinh lý thì không thay đổi, là chúng, chúng sắp ra ngoài kiếm ăn rồi!”
Lạt ma Á La cũng phản ứng lại ngay, kinh hoảng thốt lên: “Trời phật ơi! Chúng sắp bay qua những gian phòng này!”
Giáo sư Phương Tân nói: “Trong không gian nhỏ hẹp này, chúng ta căn bản không có chỗ nào ẩn náu được, cần phải lập tức nghĩ ra đối sách, bằng không, hậu quả thế nào chắc ngài cũng biết rồi. Mẫn Mẫn, dựng lều bạt nhanh lên, nhanh, nhanh, chúng ta không có nhiều thời gian đâu!”
Trác Mộc Cường Ba vẫn đang ngẩn người ra đó, hỏi: “Chuyện gì vậy? Thầy đã biết điều gì rồi à?
Đường Mẫn trách móc: “Anh vẫn chưa nghe ra à? Chính là đám động vật giống lời dơi lúc nãy bọn em gặp phải đấy, nếu đúng là dơi, hoàng hôn buông xuống, bọn chúng chuẩn bị ra ngoài kiếm ăn rồi! Còn đần mặt ra đấy làm gì nữa, mau giúp em một tay!”
Trác Mộc Cường Ba vội vàng giúp Đường Mẫn dựng lều lên, đây là loại lều bạt dựng nhanh, khung giá và vải bạt không tách rời, mà trực tiếp gấp xếp lại. Chẳng mấy chốc lều đã dựng xong, giáo sư Phương Tân bảo cả bốn người cùng chui vào ẩn nấp, sau đó nhanh chóng tra cứu trên máy tính các thông tin liên quan đến loài dơi, miệng không ngừng lẩm bẩm: “Phải làm thế nào mới tránh được chúng bây giờ?” Bốn người đều biết rõ, lũ dơi không dựa vào thị lực tìm kiếm phương hướng, mà sử dụng hệ thống hồi thanh độc đáo của loài mình. Nếu đúng là dơi, vậy thì bóng đêm ở đây mười mươi là đất trời của chúng rồi. Trác Mộc Cường Ba liếc nhìn căn phòng tối mù tối mịt, kéo khóa lều lại, trong lòng lại một lần nữa nhớ tới câu nói của Babatou: “Đáng sợ nhất, là những kẻ thù ta không thấy nhìn thấy.”
Giáo sư Phương Tân reo lên: “Có cách rồi, dùng máy tính phát ra sóng âm tần số cao làm nhiễu loạn hệ thống định vị sóng âm của lũ dơi, như vậy chúng sẽ bỏ qua không gian nhỏ này của chúng ta.” Đáng tiếc vừa mới nghĩ ra biện pháp, còn chưa kịp thực hiện, đại quân bay lượn trong bóng tối kia đã rào rào tới nơi. Trong khoảng khắc, trong phòng toàn là tiếng đập cánh vù vù, khắp nơi đều nghe thấy, bốn người cuộn rúc lại trong lều, không biết ngoài kia có bao nhiêu con dơi đang bay lượn. Đột nhiên nghe “soạt” một tiếng, chiếc lều bằng vải buồm chắc chắn đã bị cào rách một mảnh nhỏ, một sinh vật hung dữ đầu chuột dùng vuốt trước ra sức xé toang vết rách ấy ra hòng chui vào trong. Đường Mẫn ré lên: “Con dơi!”
Hai tay giáo sư Phương Tân đã hơi run rẩy, ông vội nói với Trác Mộng Cường Ba: “Cường Ba, chặn chúng lại! Tôi cần một ít thời gian. Tôi nhớ là có một chương trình phát sóng âm tần số cao mà, để ở đâu rồi nhỉ? Ra đây, mau ra đây nào!”
Lại mấy tiếng “soạt soạt” nữa vang lên, lều bạt đã bị rách thêm mấy chỗ, mỗi vết rách đều bị xé toang ra, từng con vật xấu xí đang tranh nhau len vào. Trác Mộc Cường Ba cũng cuống quýt cả lên mà không biết phải làm sao, trong đầu không ngừng tự hỏi: “Làm sao mà chặn chúng đây?” Gã biết, Mẫn Mẫn sợ nhất là giống này, chỉ thấy cô co rúm người lại, cả dũng khí kêu rú lên cũng chẳng còn đâu nữa. Đúng lúc này, lạt ma Á La đưa cho gã một cái ba lô, chất liệu của chiếc ba lô ấy còn chắc chắn hơn vải buồm của chiếc lều, Trác Mộc Cường Ba vội ấn cả ba lô vào lỗ thủng. Lạt ma Á La cũng cầm một chiếc ba lô khác chống đỡ đầu bên kia, cả hai đều cảm nhận được một cách hết sức rõ ràng, lớp vải buồm của chiếc lều này tựa như đang bị vật nặng mấy trăm cân đè lên vậy, không biết là rốt cuộc có bao nhiêu con dơi đang đậu trên đây nữa.
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên cảm thấy bắp chân đau nhói lên, thì ra dưới chân lều lại bị rách thêm mấy lỗ nữa, có mấy con dơi đã chiu được vào trong, không thèm khách khí gì đớp cho gã một phát chảy cả máu. Màu máu tanh giống giống như thuốc kích thích, dẫn dụ càng nhiều dơi đến phía này. Trác Mộc Cường Ba giẫm chết hai con, lại thấy vết rách trên lều càng lúc càng nhiều, chiếc lều bạt này sắp chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa đến nơi rồi.
Đúng lúc đó, mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba nghe thấy “u” một tiếng, sau đó âm thanh mỗi lúc một cao, dần dần không còn nghe rõ được nữa, nhưng lũ dơi bên ngoài thì như bị chùy đập phải, tất cả đều tránh xa khỏi chiếc lều… Sóng âm tần số cao đã có hiệu quả. Trác Mộc Cường Ba biết, máy tính vẫn đang không ngừng phát ra sóng âm ở tần số cao, chỉ có điều đã vượt quá phạm vi nghe được của thính giác con người, vì vậy bọn họ mới không nghe thấy gì nữa. Gã mệt mỏi ngồi xuống đất, không để ý liền ngồi lên mấy con dơi vẫn chưa kịp bay ra ngoài, làm chúng kêu lên choe chóe. Trác Mộc Cường Ba đập chết mấy con dơi nhỏ ấy rồi ngẩng đầu lên nhìn, chiếc lều đã rách bươm cả trăm lỗ, tựa hồ như đang nhìn qua ô cửa sổ có rèm mỏng vậy.
Để quan sát lũ sinh vật tấn công mình, họ đã cố ý đặt bên ngoài gian phòng một chiếc mũ phát sáng, lúc này mới trông thấy, dòng thác lũ dơi đen kìn kịt tựa như một trận cuồng phong trong gian sảnh. Bọn chúng vào từ cửa phía Bắc, trào ra cửa phía Nam. Trận cuồng phong đen tuyền gần như chiếm mất già nửa gian phòng, số lượng cực kỳ nhiều. Dù có sóng âm tần số cao cũng vẫn có rất nhiều con dơi hạ xuống chiếc lều con của họ, có điều giờ đã đỡ hơn lúc trước nhiều lắm rồi, bốn người đủ sức đối phó. Trận gió đen thổi liên tục hơn hai mươi phút đồng hồ mới dứt, bốn người thở phào một tiếng. Đường Mẫn lau khô nước mắt, lấy vaccine phòng bệnh dại ra tiêm cho mỗi người một mũi. Bị lũ dơi đó cào cấu bị thương không đáng sợ, đáng sợ nhất chính là bọn chúng có mang theo bệnh dại hoặc các bệnh khác. Người nào bị nhiễm phải virus bệnh dại, tất sẽ phát cuồng, sợ nước, ánh sáng và âm thanh, trở nên chỉ thích hành động trong bóng đêm, thích cắn mọi thứ xung quanh, đồng thời tiếp tục truyền bệnh qua tuyến nước bọt trong khoang miệng. Truyền thuyết ma cà rồng cũng chính từ đây mà ra cả.
Giáo sư Phương Tân lập tức quét con dơi vào máy tính tiến hành đối chiếu, chẳng mấy chốc ông đã reo lên như được đại xá: “Đây là dơi mặt quỷ, nếu là dơi cáo, kết cục của chúng ta khó nói lắm.” Lạt ma Á La nhìn xác mấy con dơi nói: “Bọn chúng tiến hóa rồi, móng vuốt ở cánh trước trở nên vừa cong vừa dài, xem ra lũ cá ăn thịt người ở ngoài kia đã trở thành nguồn thức ăn mới cho bọn dơi này, hoặc cũng có thể là chúng ăn thịt lẫn nhau. Toàn bộ răng hàm đều mất hết, răng cửa tiến hóa thành hình dạng như lưỡi dao sắc nhọn, bọn chúng không chỉ bắt côn trùng ăn, còn hút máu nữa, loại dơi này, có thể quy về á chủng dơi hút máu cũng được đấy.”
Trác Mộc Cường Ba an ủi Đường Mẫn mấy câu, đoạn đưa mắt nhìn sinh vật xấu xí trên mặt đất. Những con dơi này xòe cánh ra thì được chừng ba mươi centimet, không có mũi, nhưng môi và má có những nếp nhăn rất phức tạp, môi dưới bành ra như cái đĩa, tai to tướng và vành tai cũng rất phức tạp, ngoại trừ vuốt sắc ở móng trước ra, chúng còn một đặc điểm đặc biệt nữa, chính là trong miệng mọc một đôi răng sắc như dao nhọn, hơn nữa còn hơi lệch về giữa và hướng xuống dưới. Kết cấu như vậy, làm Trác Mộc Cường Ba chợt nghĩ đến lưỡi lê quân dụng có rãnh cho máu chảy, hết sức phù
hợp để hút máu, gã cũng không dám tưởng tượng nếu bị chúng cắn cho một nhát thì sẽ có hậu quả như thế nào nữa.
Giáo sư Phương Tân gấp máy tính xách tay lại, đứng lên nói: “Bây giờ chúng ta không cần tiếp tục thảo luận nữa nhỉ?” Lạt ma Á La nói: “Đúng vậy, chúng ta phải nhanh chóng rời khỏi nơi này, ở đây gần như không có chỗ nào là an toàn cả.” Ông hiểu rõ, bọn dơi kia còn quay trở lại, mà bọn họ thì đã không còn cái lều có thể tạm ngăn chúng lại nữa rồi. Giáo sư Phương Tân tự tin bảo Trác Mộc Cường Ba: “Đi thôi, chỉ là mê cung với mấy cái bẫy rập thôi mà, không đáng sợ như cậu tưởng tượng đâu.” Trời đã hoàng hôn, trên quảng trường lớn của Bạch thành, quân du kích và thổ dân ăn thịt người đã giằng co suốt một ngày trời. Đám thổ dân chiếm được địa lợi, khiến quân du kích không dám manh động, còn quân du kích thì có vũ khí hiện đại, thổ dân ăn thịt người cũng không thể tiến lại gần quảng trường. Khi vầng dương chìm xuống sau đường chân trời, trong rừng sâu lại thấy một người bước ra, phải, y chỉ có một mình. Chút ánh sáng còn sót lại của vầng tịch dương kéo bóng y ra vừa dài vừa gầy đét lại, thoạt nhìn cũng toát lên mấy phần cô đơn tịch mịch, cơn gió nhẹ phất qua làm rối mái tóc y, để lộ nửa gương mặt trông còn đáng sợ hơn đầu lâu xương cốt. Soares kích động thầm nhủ: “Cuối cùng ta cũng trở lại rồi, còn nhớ ta không? Các bạn, các bạn của ta, có thể cùng yên nghỉ với kiến trúc hùng vĩ nhường này, các bạn cũng yên tâm được rồi. Bảy năm, các bạn vẫn khỏe chứ? Không ngờ nào phút nào là ta không nhớ về các bạn cả.”
Trong khoảnh khắc ấy, bẫy rập đáng sợ, những bức tượng đá khổng lồ, các món trang sức tinh xảo, những bộ xương khiến người ta kinh hoảng, sinh vật đáng sợ ẩn nấp mình trong bóng đêm, tất cả mọi chuyện đã qua cùng lúc dâng trào lên trong óc Soares…
“Chuột đất, mặc xác mấy cái bẫy đó đi! Nhanh lên!”
“Làm sao được, cả đời tôi đều nghiên cứu cơ quan bẫy rập, những cái này tuyệt đối có thể xem là kỳ tích hoàn mỹ nhất mà tôi từng trông thấy, không trả lại công năng cho chúng, dù có sống sót tôi cũng hối hận cả đời mất! Ủa? Cái bẫy này là? A… chạy mau, Trăn Xám!”
“Đây là dơi mặt quỷ, không có độc, cố lên, Cá Kình, cậu phải cố lên!”
“Không được đâu, động mạch ở màng bao ruột của tôi bị vỡ rồi, có lẽ còn cả động mạch thận, giờ đang chảy rất nhiều máu, tôi không sống nổi đâu, Trăn Xám, mặt của anh…”
“Khốn kiếp, mặc kệ tôi đi, cậu mà chết ở đây, bọn tôi biết phải làm sao bây giờ!”
“Chỉ có thể… dựa vào bản thân mình thôi, tôi… chân thành nói… với anh một câu, đi theo Cáo Lửa, với năng lực hiện tại của chúng ta, nếu có thể ra khỏi tòa địa cung này, ngoài đội trưởng ra… chỉ còn… Cáo Lửa thôi…”
“Cá Kình! Đừng ngủ! Cá Kình!”
“Khỉ Mặt Người! Khỉ Mặt Người, cậu tỉnh lại cho tôi! Khỉ Mặt Người!”
“Vô dụng thôi Trăn Xám, cậu ấy nín thở trong nước lâu quá, mà cậu cũng không phải bác sĩ, chúng ta đã không thể làm gì được nữa rồi…”
Hai chiến binh của bộ lạc ăn thịt người nhảy từ trên mái nhà xuống làm đứt đoạn hồi ức của Soares, họ giơ hai ngọn giáo dài huơ huơ trước mặt y. Soares không phản ứng gì, chỉ cầm chiếc Thạch phù màu hổ phách kia chìa ra. Hai thổ dân kia ngơ ngác nhìn nhau, nhưng dường như đều không biết đến thứ này, Soares cũng nhận ra điều gì đó, đám thổ dân ăn thịt người này hình như không biết mảnh Thạch Phù này. Y lùi lại phía sau một bước, lạnh lùng nói: “Không nể mặt quá rồi, chúng mày ở bộ lạc nào, lần trước có thấy chúng mày canh giữ ở đây đâu!”
Câu trả lời của hai chiến binh bộ lạc ăn thịt người là một cú ném lao, công thêm tiếng gầm gừ trong chiến đấu. Soares lắc người tránh mũi lao, lấy một lọ nhựa ra bóp vỡ đánh “tẹt” một tiếng, rồi nhắm mắt lẩm bẩm nói: “Lũ quỷ đói muốn nuốt hết vạn vật trên đời, quân đoàn địa ngục của ta, ăn hết sạch chúng đi, cả khúc xương cũng đừng bỏ qua!” Trong bụi cây sau lưng y, đột nhiên tràn ra một đàn kiến khổng lồ màu đỏ nâu, bọn chúng dàn hàng chỉnh tề, băng qua Bạch thành, ăn sạch sẽ tất cả mọi thứ trên đường đi, hai chiến sĩ thổ dân ăn thịt người gào lên thê thảm, âm thanh vang mãi ra xa.
Mấy tên lính du kích gác máy bay trực thăng đột nhiên phát hiện vô số thổ dân ăn thịt người nấp trong rừng bỗng chạy ùa ra phía quảng trường, bất chấp sống chết, tựa hồ như gặp phải ma quỷ vậy, nhất thời cũng không thể giết hết. Một tên đùa đùa nói với đồng bọn: “Chúng điên rồi chắc? Tranh nhau chịu chết.” Bỗng nhiên, bọn chúng cũng kinh hoảng nhận ra, sau lưng đám thổ dân là một tấm thảm màu đỏ đang cuồn cuộn phủ lên Bạch thành, những thổ dân chạy hơi chậm một chút, tựa như một cây nến đang tan chảy, trong chớp mắt đã mất da, thịt, chỉ còn trơ lại xương cốt, trắng phớ như tòa Bạch thành này vậy.
Chương 16:
ĐỊA NGỤC CỦA NƯỚC VÀ LỬA
Ở Khả Khả Tây Lý, loài động vật này đã dạy cho Trác Mộc Cường Ba một bài về môn sinh vật học. Trong hang động tối tăm sâu hút ấy, bọn chúng cọ quậy thân hình béo múp, đuổi theo mọi sinh vật sống với tốc độ không tưởng, ăn sạch mọi sinh vật chúng bắt gặp trên đường đi. Trác Mộc Cường Ba không dám tưởng tượng ra cảnh một con chuột có kích cỡ của loài voi, nhưng đôi mắt gã trông thấy ấy, đích thực mười mươi là đôi mắt ti hí chỉ loài chuột mới có.
Bẫy sập
Đám quân du kích bấy giờ mới định thần lại, kêu rú lên rồi chạy tản ra bốn phía, nhưng quá muộn, đã bị hãm trong vòng quây của đại quân đoàn màu đỏ ấy, không kẻ nào có thể thoát được cả. Soares chậm rãi bước đi trong cơn lũ đỏ, không buồn liếc nhìn những bộ xương đang ngã xuống bên cạnh. Lũ kiến dường như rất sợ lại gần y, Soares đi tới đâu, chúng liền dạt ra nhường đường. Bỗng cặp mắt y sáng bừng lên, phát hiện ra chiếc trực thăng trông như con chuồn chuồn nhỏ phía trước, liền mừng rỡ nói: “Đồ tốt đây, đừng làm hỏng của tao nhé.” Nói đoạn, y liền rút ra một lọ thủy tinh ném về phía máy bay, một màn khí thể tản ra trong không khí, lũ kiến lửa tức khắc dạt ra một khoảng trống như bị ai giội nước vào vậy. Soares nhìn tòa Bạch thành bị cơn sóng màu đỏ tràn lên, thầm nhủ: “Hỏng rồi, không ngờ lại giải quyết nhanh như vậy, khó khăn lắm mới tụ tập được nhiều thế này, nhưng giờ làm sao giải tán chúng đi bây giờ, thuốc trên người mình đâu có đủ.”
Soares đang suy nghĩ, chợt nghe tiếng “vù vù vù” từ bốn phương tám hướng vang tới, chỉ thấy từ các lối thông trên thân tòa kim tự tháp hùng vĩ kia bắn ra vô số tia sáng màu đen, tựa như những thanh kiếm sắc đen tuyền được rút “soạt” trong vỏ ra, chỉ thẳng lên bầu trời. Lũ kiến lửa dưới đất liền trở nên nhốn nháo bất an, thì ra đã gặp phải thiên địch. Những thanh kiếm đen kia lao vút lên giữa tầng mây, rồi nhanh chóng tan ra như làn sương mù, hóa thành vô số con ác quỷ đối mặt với đàn kiến phải tính bằng con số trăm triệu, thỏa sức đánh chén, nhất thời, bầu trời toàn là lũ dơi đen đập cánh vù vù, tựa như mây đen che kín mặt trời, cảnh tượng cực kỳ hùng vĩ.
Soares thở phào một tiếng, đến thật đúng lúc. Y đã đợi cả một ngày, chính là đợi cho lũ ác ma có cánh này ra khỏi sào huyệt, như vậy, dưới địa cung coi như tạm thời được an toàn rồi. Lần trước tới đây, đã có hai người bị thương, một người mất mạng, một người nữa cũng vì bị bọn quái vật này làm mù đôi mắt mà chết trong bẫy rập dưới địa cung. Soares lấy ra một vật bằng kim loại hình cầu to
cỡ quả bóng tennis, ấn nút khởi động. Vật thể hình cầu này có nguyên lý hoạt động giống như chương trình máy tính mà giáo sư Phương Tân sử dụng, phát ra sóng âm tần số cao, khiến y có thể ẩn thân giữa đàn dơi. Soares ngẩng đầu lên nhìn tòa kim tự tháp Ahezt nguy nga hùng vĩ, bắt đầu chậm rãi bước lên.
Trác Mộc Cường Ba đi sau lưng giáo sư Phương Tân và Đường Mẫn, trong bụng lấy làm thắc mắc, không hiểu sao bọn họ có thể ung dung như vậy. Không biết đã đi qua bao nhiêu gian phòng, cảm giác dường như vẫn cứ đi bừa đi loạn, cuối cùng Trác Mộc Cường Ba cũng đưa ra một kiến nghị: “Đi mãi như vậy cũng không phải là cách, tôi có một ý kiến.” Mấy người giáo sư Phương Tân liền dừng lại, chờ xem Trác Mộc Cường Ba muốn nói gì. Gã thẽ thọt: “Dùng bút ký hiệu, đánh dấu lên từng cánh cửa mà chúng ta đi qua, như vậy sẽ không bị lặp đường nữa.”
Ba người còn lại đều trầm ngâm không nói gì, nhưng nhìn nét mặt họ, Trác Mộc Cường Ba cũng biết ngay là gã lại vừa đưa ra một ý kiến sai lầm. Cuối cùng, vẫn là giáo sư Phương Tân không nhịn được phê bình gã mấy câu: “Cường Ba à, xem ra cậu chẳng chịu chú ý nghe giảng gì hết rồi, giáo quan có dạy chúng ta như vậy đâu.”
Đây cũng là cách đội trưởng Hồ Dương đã dùng ở Khả Khả Tây Lý, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy rất hữu dụng, sao lại không thể áp dụng ở đây được chứ, gã thắc mắc: “Tôi cảm thấy cách này cũng được lắm mà.”
Đường Mẫn thì thầm bên tai gã: “Cổ lỗ rồi, đây là cách làm của người không chuyên nghiệp, không thích hợp sử dụng ở đây đâu.” Lạt ma Á La nói: “Nếu thông đạo rất dài, số nhánh rẽ rất ít thì có thể dùng cách ấy của cậu. Nhưng ở đây, khi cậu nhận ra những cánh cửa đã đánh dấu và chưa đánh dấu đều nhiều như nhau, khiến cậu không thể phân biệt được, cậu sẽ thấy đánh dấu với không đánh dấu chẳng khác gì nhau cả.”
Trác Mộc Cường Ba bực bội nói: “Nhưng chúng ta cứ cắm đầu đi thế này cũng đâu phải là cách chứ!”
Giáo sư Phương Tân quay người lại, mỉm cười nói: “Ai bảo chúng ta đang đi bừa chứ?” Nói đoạn, ông chỉ vào chiếc máy tính xách tay đeo trước ngực.
Đường Mẫn nói: “Chúng ta dùng webcam nhập hết những chặng đường đã đi vào máy tính, chương trình trong máy sẽ dựa vào thông tin này vẽ ra bản đồ 3D của toàn bộ nơi đây. Dù nói là tất cả các căn phòng thoạt nhìn đều gần gần như nhau, mắt người có lẽ rất khó phân biệt được chúng, nhưng máy tính thì có thể ghi lại bất cứ điểm khác biệt nào dù là nhỏ bé nhất, cộng với tín hiệu định vị phát ra trên người chúng ta nữa, vậy là có thể dễ dàng phát hiện ra đâu là nơi chúng ta đã đi qua rồi.”
Trác Mộc Cường Ba ngây người nhìn vào màn hình máy tính giáo sư Phương Tân xoay về phía gã, chỉ thấy trên đó là những hình lập thể 3D hết sức tường tận, giống hệt như những căn phòng họ đã trông thấy. Giáo sư Phương Tân ấn nhẹ hai nút bấm, hình ảnh 3D liền chuyển sang dạng mặt phẳng 2D, các căn phòng hoàn toàn chuyển thành những ô nhỏ hình chữ nhật, chỗ nào có cửa thì được máy tính biểu thị bằng một đường vạch trắng, vị trí nơi họ đang đứng được đánh dấu bằng một chấm đỏ nhấp nháy rất nổi bật. Tất cả đều trở nên hết sức sáng rõ. Trong chớp mắt, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên hiểu, thì ra khoảng cách giữa nhóm của gã và nhóm của giáo sư Phương Tân vẫn lớn như lần đầu tiên tiến hành huấn luyện dã ngoại vậy: bọn gã vẫn đang xoay gỗ nhen lửa, còn nhóm của giáo sư Phương Tân thì đã dùng bật lửa từ lâu rồi. Gã thẹn thùng cúi gằm mặt xuống, làm một con rùa đen lặng lẽ, chỉ cắm cúi bước theo, không còn phát ngôn gì nữa. Đường Mẫn đành thỉnh thoảng lại nói một hai câu với gã, xoa dịu phần nào tâm trạng ức chế cho Trác Mộc Cường Ba.
Suốt dọc đường, Trác Mộc Cường Ba đi kẹp giữa bốn người, bước theo dấu chân của giáo sư Phương Tân, chỉ trông thấy mấy bộ xương khô của những kẻ lạc bước trong mê cung, nhưng không gặp phải bẫy rập nào, không khỏi cũng thấy có chút mê hoặc. Gã muốn bước tới xem trong các món đồ gốm kia có đựng thứ gì không, nhưng lại bị cảnh cáo không được manh động làm bừa. Giáo sư Phương Tân chỉ cho gã xem ảnh webcam chụp bên trong các thứ ấy, tỏ ý nói bên trong không gì hết. Cứ như vậy, bốn người đi loanh quanh trong tầng thứ bảy của mê cung Ahezt suốt hơn hai tiếng đồng hồ dưới sự chỉ dẫn của máy tính, trước mắt liền xuất hiện một gian đại sảnh tương đối rộng rãi, dựa sát vào một bức tường
tựa như vách núi. Cuối cùng họ cũng ra khỏi mê cung, đi tới con đường thông lên tầng trên.
Từ gian phòng nhỏ đi ra, đột nhiên gặp phải một gian đại sảnh lớn như vậy, không khỏi khiến người ta sinh ra cảm giác kinh ngạc. Mũ chiếu sáng không hắt lên được tới trần, bốn bức tường xung quanh đều dùng những phiến đá to bằng viên gạch ghép lại mà thành, rất giống như các hình tượng được ghép từ gạch men của người hiện đại. Nhưng điểm khác biệt so với hình trên gạch men hiện đại là, những phiến đá này đều được gia công chạm trổ. Cả bức tranh quá lớn, nên Trác Mộc Cường Ba không thể nhìn được toàn bộ, song gã cũng biết, chắc chắn cả bức tường là một bức tranh khổng lồ cao ba mét, người này chồng lên người kia như xiếc chồng người, hai tay giơ ra phía trước, tựa hồ như đang bưng bê thứ gì đó, nhưng lúc này hai tay người khổng lồ đá này đều trống không. Phía trên cánh cửa nhỏ mà họ bước vào là vô số hình ảnh, những nét vẽ màu đen khắc họa rất rõ ràng hàng đoàn nô lệ bị đánh đập lưng vác vật nặng đang lê bước trên con đường tượng trưng cho mê cung. Những kẻ đang đánh đập nô lệ, là một đám sứ giả địa ngục đầu dơi, thân hình khẳng khiu nhọn hoắt như cây xương rồng. Ánh mắt hung hãn của đám sứ giả địa ngục, vẻ mặt kinh hoảng thành khẩn của các nô lệ, mọi động tác và nét mặt đều được khắc họa tỉ mỉ. Phía sau các nô lệ và đốc công, một vị thần khổng lồ ngồi ngay ngắn, vẽ bằng các đường nét đen lánh, môi dưới chìa rộng chảy sệ, vòng ngoài miệng đỏ rực như lửa, mắt đen kịt, từ hai hốc mắt vươn ra một sợi chỉ đen kéo dài xuống má. Theo như phân tích của giáo sư Phương Tân, đây có lẽ chính là vị dạ thần cai quản tầng địa ngục thứ bảy của người Maya.
Kỳ quái một điều là, phía sau lưng vị thần cai quản địa ngục, còn vẽ một hình tượng quái dị đang đứng. Trác Mộc Cường Ba quan sát cẩn thận, cảm thấy rất giống với Đầu trâu Mặt ngựa của Trung Quốc. Giáo sư Phương Tân cũng nói: “Kỳ lạ thật, mỗi tầng đều có vị thần này, là thần nào mà còn ở ngôi cao hơn cả thần cai quản địa ngục nhỉ? Lại còn không tìm thấy hình ảnh nào trong kho dữ liệu nữa, mọi người thấy hình ảnh này giống cái gì không?”
Đường Mẫn nói: “Trông giống trâu, nhưng không có sừng, trông giống ngựa, nhưng tai lại không giống.”
Trác Mộc Cường Ba vui vẻ reo lên: “Ồ? Em cũng nghĩ giống anh à, Đầu trâu Mặt ngựa.”
Lạt ma Á La lắc đầu nói: “Đầu trâu Mặt ngựa là cai ngục dưới địa ngục trong truyền thuyết Trung Quốc, dường như không liên quan gì tới văn minh châu Mỹ, hơn nữa, địa vị cũng không thể cao như vậy được, chắc là một vị thần khác thôi.”
Ngay phía trước họ, là một bức tường trơn nhẵn có khắc vô số rãnh ngang, mỗi rãnh đều rất sâu, thoạt nhìn trông rất giống một tấm bảng chà quần áo dựng đứng lên. Giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La vẫn đang bận rộn chụp lại các hình ảnh kỳ lạ trong đại sảnh vào máy tính. Trác Mộc Cường Ba thắc mắc: “Đường đâu?”
Đường Mẫn chỉ vào những rảnh ngang trên tường, Trác Mộc Cường Ba thốt lên: “Đây mà là đường ư?” Những rảnh ấy chỉ nhô ra khỏi mặt tường chừng mười centimet, muốn đứng vững trên ấy đã khó khăn lắm rồi, khoảng cách lại cao như thế, làm sao mà trèo lên được.
Lạt ma Á La xách chiếc đèn pha, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Chính nó đấy, chúng tôi gọi là thang treo, mới đầu nhìn có vẻ khó, chứ thực ra dễ leo lắm.”
Đây là lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba trông thấy loại cầu thang buông một góc chín mươi độ như vậy, trông chẳng khác gì những răng cưa nhô ra trên mặt tường cả. Giáo sư Phương Tân đang bận điều chỉnh góc độ, không buồn để ý tới Trác Mộc Cường Ba, chỉ nói: “Hai tầng dưới chúng tôi cũng trèo lên như vậy cả đấy, cậu trèo một lần là biết ngay thôi.” Kế đó lại quay sang thảo luận với lạt ma Á La, “Ngài xem, đây cũng là hình ảnh của vị dạ thần cai quản tầng thứ bảy.” “Tay ông ấy cầm cái gì vậy?” “Không rõ, cho ánh sáng mạnh hơn một chút đi, độ phân giải của webcam này hơi thấp, lần sau tôi sẽ đổi cái tốt hơn…”
Đường Mẫn thu xếp xong các máy móc, bước qua trò chuyện với Trác Mộc Cường Ba: “Thực ra, anh cứ coi như leo vách đá không có dây an toàn là được thôi. Vì các phiến đá ở đây được ghép rất chắc, giáo sư nói, có lẽ người Maya đã dùng một loại chất kết dính giống như bùn nhão vậy, giữa các tảng đá khổng lồ gần như không có kẻ hở, cả tờ giấy mỏng cũng không thể nhét vào được.”
Trác Mộc Cường Ba lo lắng nói: “Vách đá này cũng hơn ngàn năm tuổi rồi, nhỡ bị phong hóa rồi thì làm sao? Ở đây lại cao như thế, rơi từ trên ấy xuống thì không phải trò đùa đâu.”
Đường Mẫn mỉm cười: “Anh yên tâm đi, chất liệu đá trắng này tốt lắm, không hề có dấu tích bị phong hóa gì cả. Này, anh đừng đi lung tung đấy.” Trác Mộc Cường Ba bất bình: “Sao hả? Xem thôi cũng không được à?”
Đường Mẫn nói: “Trước khi giáo sư và đại sư hoàn thành, tốt nhất chúng ta không nên đi bừa, ngộ nhỡ đụng phải chốt bẫy thì sao.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Anh cũng trải qua huấn luyện đặc biệt như mọi người mà, đương nhiên cũng biết cẩn thận, đừng coi anh như người nghiệp dư thế chứ.”
Lúc này, giáo sư Phương Tân lên tiếng: “Cho ánh sáng tụ lại một chút tôi xem nào, ngay bên trên này là gì vậy, đúng, đúng, ôi chao, không xong rồi! Xương sọ!” Giáo sư Phương Tân kêu lên. Đúng lúc này, một chân Trác Mộc Cường Ba không hiểu giẫm lên thứ gì, phiến đá bên dưới hơi thụt xuống, cả gian đại sảnh rung lên, phát ra những tiếng “rầm rầm rầm” như máy móc chuyển động.
Giáo sư Phương Tân tức khắc hỏi phủ đầu: “Cường Ba, cậu chạy ra đó làm trò gì đấy? Giẫm phải cái gì rồi, còn không mau chạy đi!”
Trác Mộc Cường Ba ngớ người, nói: “Tôi làm sao biết được!” Chợt thấy lạt ma Á La đang lao về phía gã, rồi ôm cả người gã bổ nhào xuống đất lăn hai vòng.
Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt: “Làm sao vậy!?” Lạt ma Á La đứng lên nói: “Quái thật, bẫy chốt kiểu gì vậy?” Đột nhiên một tiếng động lớn vang lên, phía trên cánh cửa họ vừa bước ra khỏi mê cung, chớp mắt đã có một tảng đá lớn rơi xuống, bịt kín đường lui, kế đó lại có tiếng “huỵch huỵch” trên cao vẳng tới. Giáo sư Phương Tân kêu lên: “Nhanh lên! Trèo lên nhanh lên! Cửa đá tầng trên đang khép lại kìa!”
Bốn người giờ mới tỉnh ra, vội vàng giẫm lên các bậc thang trèo lên trên. Trác Mộc Cường Ba trèo nhanh nhất, gã là người đầu tiên lên tới tầng trên, lạt ma Á La theo sát phía sau. Vừa leo lên, Trác Mộc Cường Ba lập tức quay người lại, kéo Đường Mẫn lên trên,
giáo sư Phương Tân vẫn ở bên dưới, ước chừng cũng phải còn chục mét nữa mới lên tới nơi. Vừa nãy lúc trèo lên thì không cảm thấy gì, giờ cúi xuống không ngờ lại thấy chóng mặt chóng mày. Thang treo này hóa ra phải cao hơn năm chục mét, lúc này nhìn xuống dưới, ngoài mười mét, chỉ có một vùng đen kịt như dưới vực sâu, khiến người ta không khỏi rợn tóc gáy. Lạt ma Á La không ngừng lẩm bẩm cầu khẩn: “Nhanh lên, nhanh lên…”
Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên nhìn, giờ mới phát hiện, trên đại sảnh có một tấm lưới khổng lồ bằng kim loại gắn đầy mũi nhọn, lúc này đang chầm chậm dịch chuyển xuống dưới, còn vị trí nơi bọn họ đang đứng, cũng có một cánh cửa đá đang từ từ hạ xuống, âm thành “huỳnh huỵch” chính là do nó phát ra. Giáo sư Phương Tân đeo máy tính xách tay sau lưng, leo lên trông có vẻ rất vất vả, với tốc độ này thì thật khó mà leo lên kịp được.
Trác Mộc Cường Ba nôn nóng vô cùng, lớn tiếng gọi: “Thầy giáo! Nhanh lên! Ném máy tính đi! Cửa sắp đóng lại rồi!” Giáo sư Phương Tân ở bên dưới quát lên: “Đồ nhãi ranh, cậu giẫm lên chốt bẫy, giờ còn muốn tôi vứt máy tính đi, vậy không phải chúng ta toi công đến đây à!” Trác Mộc Cường Ba bất an kêu lên: “Nhưng mà, tính mạng quan trọng hơn chứ.”
Giáo sư Phương Tân vẫn giữ nguyên tốc độ bò, vừa trèo vừa nói: “Nhìn mà học hỏi xem cái gì gọi là đồng đội phối hợp đi.” Chỉ thấy khi cửa đá hạ xuống còn độ bằng chiều cao một người, lạt ma Á La và Đường Mẫn mỗi người lấy ra một móc an toàn dùng khi leo vách đá, chống vào khe trượt của đá, cánh cửa phát ra tiếng rin rít, cuối cùng cũng chầm chậm dừng lại. Tấm lưới kim loại gắn mũi nhọn kia, dường như cũng gắn liền với cửa đá. Cánh cửa vừa dừng lại, nó cũng không rơi xuống nữa. Chừng một phút sau, giáo sư Phương Tân mới bò lên, thở hổn hển nói: “Trong một nhóm, có người thể lực tốt, có người giỏi chuyên môn, phân công hợp tác, mỗi người một việc, đấy mới gọi là một đội. có mỗi cái bẫy mà đã làm cậu sợ thế rồi cơ à? Gặp chuyện gì cũng phải bình tĩnh, nóng nảy không suy nghĩ làm sao giải quyết được vấn đề?” Lòng bàn tay Trác Mộc Cường Ba đẫm mồ hôi lạnh, vừa nãy đúng là ngàn cân treo sợi tóc, vậy mà mấy người giáo sư Phương Tân không hề lộ vẻ sợ hãi, gã không khỏi thẹn mướt mồ hôi. Chỉ có
Đường Mẫn là vỗ vỗ ngực thốt lên: “Nguy hiểm quá, mặc dù đỡ hơn các bẫy rập ở đằng trước, nhưng cháu vẫn lo đến tim đập thình thịch đây này.” Lạt ma Á La và Đường Mẫn cùng buông tay, cánh cửa đá lại tiếp tục chầm chập khép xuống. Nhìn bảy tám bộ xương khô dính trên tấm lưới sắt, Trác Mộc Cường Ba tự biết, mình đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội tăng cường kiến thức.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tại sao phải đóng cánh cửa này lại, Cứ để nó kẹt ở đấy có phải tốt hơn không, vậy thì không có thêm người nào chết ở đây nữa.”
Lạt ma Á La nói: “Cơ quan bẫy rập ở đây đều nối liền với nhau, nếu không để cửa đá này đóng lại, không chừng phía sau có cánh cửa nào đó không mở ra được, đến lúc ấy lại phải vòng trở về đóng cửa thôi.”
Trác Mộc Cường Ba sực nhớ đến lời lạt ma Á La đã nói, kinh ngạc thốt lên: “Không phải người Maya còn chưa có cả công cụ bằng đồng thau hay sao? Đây… Tấm lưới này, lẽ nào không phải bằng kim loại?”
Lạt ma Á La nói: “Đúng là họ không biết chế luyện đồng thau, nhưng ta không có nói họ không có chế phẩm kim loại mà. Người Maya rất giỏi buôn bán, họ có thể giao dịch trao đổi với những nơi khác, đổi về các chế phẩm kim loại, chúng tôi đã ghi chép lại điều này rồi, giờ hãy xem chúng ta nên đi đường nào trước đã.”
Chỉ thấy khi cánh cửa đá khép lại, bọn họ liền ở trong một không gian kín hình bán nguyệt, trên bức tường phía trước, có năm cánh cổng vòm, mỗi cổng đều cao hơn năm mét, đường bên trong rộng rãi trải dài, tối đen như mực, không nhìn thấy bên đầu bên kia. Đã có kinh nghiệm một lần, Trác Mộc Cường Ba không dám đi lại lung tung nữa, chỉ thần người ra nhìn giáo sư Phương Tân cúi đầu đọc cuốn sổ ghi chép của Pieri trong máy tính. Chợt nghe giáo sư kêu “a” một tiếng, mắt trợn tròn lên, ba người còn lại liền chụm đầu vào. Cuốn sổ của Pieri không lệch không nghiêng, vừa hay thiếu đúng một đoạn ở giữa như bị mọt ăn, phía sau viết “tôi đi trên lối dài thênh thang…”, phía trước là “bàn chông ken két áp xuống, bên trên ghim mấy bộ xương trắng…”.
Lạt ma Á La giơ tay lên tỏ ý cam chịu: “Xem ra, chỉ còn cách tự tìm đường thôi, tầng này chắc là địa ngục do nữ thần mặt trăng cai
quản rồi.”
Giáo sư Phương Tân gật gật đầu: “Đúng vậy, Nữ thần Mặt trăng Ix Chel, nàng cũng giống anh trai mình, là một vị thần hai mặt. Khi ở trên Thiên giới, nàng là cô gái dịu dàng xinh đẹp, là ánh trăng mềm mại như nước; còn khi ở địa ngục, nàng lại hóa thân thành một mụ già hung ác, mái tóc là vô số con rắn cuộn tròn, trên lưng là bộ xương người khủng khiếp quấn chằng vào nhau, tay chân đều hóa thành vuốt thú sắc nhọn, lũ rắn độc trên đầu phun xuống địa ngục những ngọn lửa có độc, còn bình sứ trên tay nàng tuôn ra nước lũ cuồn cuộn. Thủy thần và Hỏa thần ở bên cạnh cho nàng sai khiến, về sau người ta gọi là Nữ thần Mặt trăng dưới địa ngục là Bà Già Vuốt Hổ, còn địa ngục tầng thứ sáu này gọi là địa ngục của nước và lửa.”
Lạt ma Á La giải thích thêm: “Thực ra, phải gọi là địa ngục của băng và lửa mới đúng, nhưng vì rừng rậm nhiệt đới này không có băng, vậy nên mới diễn hóa thành nước. Các hồn ma ở tầng địa ngục thứ sáu này, khi còn sống đã phỉ báng hãm hại người khác, phóng hỏa đốt nhà, thông gian, tự tiện phá thai mà bị đày đọa xuống đây, chịu sự đày đọa của băng và lửa, bị ngâm trong dòng nước xối một trăm năm mươi năm, rồi lại bị thiêu đốt trên lửa nóng một trăm năm mươi năm mới được trở về địa ngục luân hồi. Một ngày trong địa ngục Maya, bằng một năm alautuṇ̣́(1) ṇ̣́ trên thế gian của họ. Địa ngục thật đáng sợ.” Những người còn lại, kể cả giáo sư Phương Tân, đều không ý thức được, thứ đáng sợ mà lạt ma Á La đang nói tới không phải địa ngục của người Maya, mà là…
Lạt ma Á La nói: “Hình vẽ phía trên con đường đã chỉ hướng cho chúng ta rồi, những đường tròn đồng tâm màu đen tượng trưng cho cái chết mục rữa, con đường này không thể đi được.”
Giáo sư Phương Tân ngước đầu lên: “Đốm đen, tượng trưng cho ôn dịch, con đường này cũng không thể đi được.” Đường Mẫn nói: “Chỗ cháu bên này có mũi giáo, đao đá.” Giáo sư Phương Tân lắc đầu: “Tượng trưng cho sự tàn sát, cũng không được.”
Lạt ma Á La nhìn hai cánh cổng cuối cùng, chỉ vào cái ở trước mặt mình: “Máu tươi, trái tim, tượng trương cho sự hy sinh, đây là con đường dâng hiến, chắc cũng không phải nó đâu.”
Vậy là chỉ còn lại con đường ở trước mặt Trác Mộc Cường Ba . Gã nói: “Nhưng ở đây có một con rắn lớn mà.”
Giáo sư Phương Tân bước lên trước, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Chính là nó rồi.”
Đường Mẫn cũng nói theo: “Thần Rắn Mưa, là vị thần được người Maya sùng bái nhất, nó mang mưa tới, khiến vụ mùa được bội thu.”
Trác Mộc Cường Ba cũng bước theo. Phía trên con đường lát gạch này này là trần hình vòm, trông như một đường hầm xuyên núi khổng lồ vậy, bên vách đá vẽ đầy các hình giống như ở địa ngục tầng thứ bảy, toàn những cảnh tượng hồn ma chịu đựng hình phạt thảm khốc trong địa ngục băng hỏa. Bốn người đi được chừng mười phút mà vẫn chưa hết con đường, phía trước lại vọng tới tiếng “rẹt rẹt rẹt rẹt”. Giáo sư Phương Tân dừng bước, thấp giọng nói: “Đằng trước có sinh vật, đưa đèn pha cho tôi.”
Lạt ma Á La nghiêng tai lắng nghe, nói: “Con vật này không nhỏ đâu, khoảng cách giữa chi trước và chi sau ít nhất cũng phải hai mét. Thể trọng có lẽ phải hơn tám trăm cân.”
_________
(1) đơn vị đo thời gian lớn nhất của người Maya cổ đại, tương đương với 63.081.429 năm; tham khảo thêm ở địa chỉ: http://www.calendarhome.com/converter/maya.html
Lửa địa ngục
Đầu tiên, Trác Mộc Cường Ba nghĩ tới con vật lợn không ra lợn, trâu không ra trâu, mình gặp phải trong rừng, lẽ nào trong địa cung này cũng có thứ ấy? Giáo sư Phương Tân nói: “Chuẩn bị sẵn sàng ứng phó, nếu nó chặn đường tiến của chúng ta rồi xông tới, mọi người phải kịp thời nhảy tránh.” Ông đưa một khẩu súng lục cho Trác Mộc Cường Ba, và nói: “Chỉ có hai viên đạn, bất kể là thứ gì, nếu nó xông tới phải nhắm vào chỗ yếu hại mà bắn.” Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu.
Giáo sư Phương Tân điều chỉnh lại quầng sáng của đèn pha, thở hắt ra một tiếng: “Hy vọng nó không lao tới.”
Trụ ánh sáng chiếu ra, mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba nhìn thấy trong bóng tối lấp lóa chớp nháy một đôi mắt sáng rực, to như cái bóng đèn. Con vật khổng lồ kia rõ ràng cũng bị chùm sáng bất ngờ đó làm cho giật bắn mình, quay đầu bỏ chạy làm cả đường hầm rung lên bình bịch. Giáo sư Phương Tân thấy vậy, vội vàng lấy máy quay ra, chỉ tiếc đã quá muộn, màn hình máy tính chỉ hiện ra một cái mông to như mông voi và chiếc đuôi vừa to vừa dài.
Nhưng trong khoảng khắc chùm sáng hắt ra ấy, Trác Mộc Cường Ba vẫn cảm nhận được một cách vô cùng rõ rệt, đôi mắt chớp chớp như bóng đèn ấy, ánh mắt đỏ toát lên vẻ “tham lam, đói khát, thù hận, oán độc”, gã biết rõ, chỉ có một loài vật mới sở hữu cặp mắt và thứ ánh mắt ấy, bọn chúng tồn tại trước khi con người xuất hiện, và luôn bị con người coi là kẻ thù, trong mấy triệu năm lịch sử tiến hóa của nhân loại, cuộc chiến giữa loài người và bọn chúng chưa bao giờ từng gián đoạn. Hơn nữa, ở Khả Khả Tây Lý, loài động vật này đã dạy cho Trác Mộc Cường Ba một bài về môn sinh vật học. Trong hang động tối tăm sâu hút ấy, bọn chúng cọ quậy thân mình béo múp, đuổi theo mọi sinh vật sống với tốc độ không tưởng, ăn sạch tất cả sinh vật chúng bắt gặp trên đường đi. Trác Mộc Cường Ba không dám tưởng tượng ra cảnh một con chuột có thể hình của loài voi, nhưng đôi mắt gã trông thấy ấy, đích thực mười mươi là đôi mắt ti hí chỉ loài chuột mới có.
Giáo sư Phương Tân nói: “Được rồi, nếu nó đã sợ ánh sáng, chúng ta cứ đi tiếp con đường này, nhưng phải hết sức cảnh giác mới được. Cường Ba à, Cường Ba, có nghe tôi nói gì không? Cậu đang nghĩ gì thế? Cậu phụ trách sự an toàn cho cả đội chúng ta đấy, cậu cần phải cảnh giác hơn nữa mới được.”
Theo chân con vậtt không rõ tên kia, bốn người dè dặt tiến lên phía trước, bỗng nhiên Đường Mẫn thấp giọng hô: “Phía trước có ánh sáng.”
Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Cẩn thận, mọi người tắt hết đèn đi, có lẽ có người khác tiến vào đây nữa.”
Bốn người càng đi về phía trước, ánh sáng càng rõ hơn, nhưng trông thế nào cũng không giống ánh sáng phát ra từ các loại đèn pha đèn chiếu. Cùng với ánh sáng mỗi lúc một mạnh, luồn khí nóng càng lúc càng rõ rệt hầm hập phả tới mặt mọi người, lạt ma Á La kêu lên: “Chỉ sợ không phải có người nào, mà là ánh sáng vốn có ở tầng địa ngục này thôi.”
Ba người giờ mới sực nhớ ra, tầng này là địa ngục của nước và lửa, thế nhưng, ngọn lửa nào có thể cháy suốt ngàn năm cũng không tắt? Trác Mộc Cường Ba cũng sực nhớ ra bài hát của Babatou: “Bọn họ đốt lên ngọn lửa thiêng cháy vạn năm không tắt, để cung điện ** Puh được ánh sáng chiếu rọi.”
Giáo sư Phương Tân bật máy tính lên: “Để tôi tra cứu dữ liệu.” Trong cuốn sổ ghi chép, Pieri đã miêu tả như sau, “Tôi như bị nướng trong địa ngục (thiếu), quả thực hết sức khâm phục trí tuệ của người Maya (thiếu), tôi nghĩ, tầng này chắc có một cách đặc biệt nào đấy để đi lên, bởi vì lúc trượt xuống, tôi suýt nữa thì ngã gãy xương. Họ không thể không để lại thứ gì đó, nếu không, chính họ cũng không có cách gì mà lên được.”
Lạt ma Á La thấp giọng nói: “Xem ra, chính Pieri cũng không tìm được cách lên trên. Chỉ e chính vì ở tầng này không thể leo lên được nữa, ông ấy mới tiếp tục lần tìm xuống dưới cũng nên.”
Trác Mộc Cường Ba không đồng ý: “Chưa chắc, bọn dơi vừa nãy đấy, chẳng lẽ không phải chúng cũng bay từ đây ra hay sao?” Lạt ma Á La mỉm cười: “Có một điểm không thể quên, bọn dơi bay vào, còn chúng ta thì đi ra đấy.”
Đường Mẫn vội lên tiếng: “Được rồi, mọi người đừng tranh cãi nữa, đi xem thì biết thôi.”
Đi thêm mấy bước nữa, bước chân bốn người liền chậm lại, giáo sư Phương Tân vội lấy máy quay ra, hướng về phía cửa đường hầm. Lạt ma Á La cảm thán: “Kỳ tích, kỳ tích ở đây đúng là vô cùng vô tận. Thật không thể tưởng tượng nổi, sao mà họ làm được thế nhỉ?”
Một ngọn lửa bập bùng cháy phía trên cửa đường hầm, tựa như một tinh linh có mạng sống đang nhảy múa. Không phải một ngọn lửa nhỏ như ngọn nến, mà là ngọn lửa bừng bừng, cháy cao hơn bốn mét, đứng cách mấy trăm mét cũng cảm thấy luồng nhiệt hầm hập tới. Càng đến gần cửa hầm, bốn người càng ngây ngẩn si mê. Tòa chính điện này chạm trổ hoa lệ, vách tường đầy bích họa, bài trí huy hoàng thế nào không cần nói, nhưng chỉ liếc một cái là đã trông thấy ngay bốn bức tượng lực sĩ thân hình khổng lồ đang đứng thẳng. Bốn vị lực sĩ này cao phải hơn hai chục mét, trên đầu đội một cái mũ trông giống như lỗ châu mai trên Vạn Lý Trường Thành, hai mắt hình thoi, con ngươi nghiêng vào trong, miệng há to, khóe miệng xoắn lại trông như hàm râu quai nón, tai như quai ấm, trên người mặc chiến giáp, dáng vẻ uy phong lẫm liệt vô cùng, không nộ mà oai, nhưng điều làm người ta liếc thấy họ ngay, chính là chậu lửa cháy sáng trên tay họ. Cả bốn lực sĩ cùng giơ cao hai tay, nâng một cái chậu khổng lồ bằng kim loại, đường kính mỗi chậu đều khoảng chừng ba mét, lửa cháy rừng rực bên trong, chiếu sáng cả không gian tầng thứ sáu này.
Trác Mộc Cường Ba bước tới dưới chân mấy lực sĩ, trông gã còn chưa cao bằng chiếc giày của họ nữa, chăm chú nhìn chiếc chậu tròn khổng lồ bên trên, thốt lên với giọng tựa như không dám tin là thật: “Là thứ gì mà cháy được lâu thế?”
Vì đã có ánh lửa, mũ chiếu sáng của bốn người đều không cần thiết nữa, cả bọn cất hết đi, rồi quan sát kỹ lại một lượt tầng địa ngục thứ sáu này. Đại sảnh họ đang đứng đây có lẽ là khu vực trung tâm của tầng Địa ngục thứ sáu, bởi giữa đại sảnh là một bức tượng khổng lồ của nữ thần Mặt trăng. Vị nữ thần hung dữ này của chốn địa ngục này rõ ràng là đã được mỹ hóa, mặc dù trên đầu nàng vẫn có vô số rắn độc đang bò nhung nhúc, nhưng tướng mạo thì không
hề xấu xí, mà toát lên vẻ đạm nhã dịu dàng như ánh trăng, đôi mắt hiền hòa hơi hướng xuống dưới, tựa như Quan Thế Âm Bồ Tát, khiến người ở dưới ngước lên có cảm giác như nữ thần đang chăm chú nhìn mình. Má rộng mũi cao, đây là vẻ đẹp truyền thống nhất của người Maya. Một bàn tay nữ thần cầm bình nước chứa đại hồng thủy, tay kia cầm Song đầu trượng, trên vai trái của nữ thần, còn có một con chim đang đậu, nhưng nhìn kỹ lại, thì đó là một bức tượng thần đầu người thân chim. Trọn bức tượng nữ thần Mặt trăng có lẽ cao hơn bức mười lăm mét, vì thể hình của nàng trông thấp hơn bốn bức tượng lực sĩ ở xung quanh. Đỉnh đầu lực sĩ vẫn còn cách mái vòm chừng mười mét, ngọn lửa cháy hừng hực như thế, vậy mà không thấy trên mái vòm có dấu hiệu bị hun khói nào. Phần đầu của tượng nữ thần chiếm tới một phần ba cả bức tượng, bởi mái tóc do búi rắn độc cuộn thành kia, mỗi con đều vặn vẹo như chuyển động, mỗi con đều lớn như mãng xà, dưới ánh sáng của ngọn lửa, toàn bộ đều như đang còn sống vậy. Khi nhìn tượng nữ thần, rất tự nhiên sẽ chú ý đến mái vòm phía trên đám tượng rắn khổng lồ, bên trên còn có một miệng hố lớn hình vuông, có vẻ như là thông lên tầng trên.
Ba người còn lại đều kinh ngạc nhìn bốn bức tượng lực sĩ khổng lồ và nữ thần Mặt trăng, duy chỉ mình lạt ma Á La là kinh hãi trước bức tượng đầu người mình chim trên vai nữ thần Mặt trăng, cũng chỉ có thị lực của ông mới nhìn ra được, đầu của bức tượng đầu người mình chim ấy có tới hai bộ mặt. Cộng mệnh điểu(1)… hỏa thần của người Maya và cộng mệnh điểu giống nhau như vậy hay sao? Không, không lầm được, tòa địa cung này trăm phần trăm chính là nơi chúng ta muốn tìm rồi.
Giáo sư Phương Tân nhanh chóng tìm được thông tin trong máy tính, quả nhiên Pieri có miêu tả… “Tôi rơi vào đám rắn khổng lồ, lúc ấy sợ suýt chết, còn tưởng rằng mình rơi đúng vào ổ trăn lớn. Sau đó mới phát hiện, thì ra tất cả đều là tượng đá. Tôi rơi đầu vào một bức tượng nữ thần, bốn phía lửa cháy hừng hực, tất cả đều như chốn luyện ngục vậy…”
Đọc tới đoạn này, lạt ma Á La chợt thốt lên: “Hỏng rồi, cao như vậy, chúng ta làm sao lên được bây giờ?”
Giáo sư Phương Tân nói: “Tạm thời cũng chưa gấp lắm. Để xem xét nơi này trước rồi bàn chuyện đó sau.” Tượng nữ thần Mặt
trăng ở ngay giữa đại sảnh, bốn lực sĩ đứng dựa vào bốn bức tường. Còn ở ngay trước mặt bức tượng nữ thần, là năm mục bái tế hình thang cao chừng ba mét, dài rộng đều hơn chục mét, trông rất giống phần nền của một kim tự tháp Maya nhỏ. Trên bốn bục bái tế xung quanh còn có bốn tượng người cao chừng ba bốn mét, trang sức trên đầu rất đơn giản, bộ mặt trông như chim cú, tất cả đều hướng mặt về phía bục bái tế ở giữa. Bốn người bước lên bục, liền phát hiện ở giữa bục lại có các bậc thang hướng xuống dưới, hình thành nên một hình kim tự tháp ngược, sâu tới cả chục mét. Giáo sư Phương Tân xuống đến tận cùng, rồi lấy chổi lông làm sạch phần mép của mặt phẳng rộng chừng bốn mét vuông ấy, sau đó phân tích: “Nhìn này, phần nền này tách ra với bốn vách, chắc là cơ quan bẫy chốt gì đó, nhớ kỹ, chớ có giẫm lên đấy, chúng ta xem tiếp những nơi khác thế nào đã.”
Lạt ma Á La cũng phát hiện ra điều gì đó. Ông lấy cái nhíp kẹp lên một nhúm giống như sợi bông: “Đây có lẽ là thực vật gì đấy, bị khô hết cả rồi, chỉ còn lại một ít vật chất dạng sợi.” Đường Mẫn nói: “Trên bậc thang cũng có này.”
Chẳng mấy chốc đã thăm dò xong cả tòa đại sảnh, ngoài chốt bẫy ở bục bái tế chính giữa tạm thời chưa ai dám động tới ra, bốn người đều không có phát hiện gì khác. Lạt ma Á La nói không hề sai, lũ dơi biết bay, vì vậy nên chúng có thể bay qua cái lỗ to tướng trên trẫn dẫn lên tâng trên kia một cách dễ dàng. Còn bốn người bọn họ thì chỉ biết trợn mắt lên nhìn, dù có đứng lên đỉnh đầu tượng nữ thần, cũng không thể nhảy một cú cao mười mấy mét được.
Hai phía Đông Tây của sảnh mỗi bên có một cánh cửa lớn, hành lang cũng dài rộng như con đường dẫn vào đây, đại sảnh ở giữa cách hai gian sảnh hai bên chừng trăm bước chân; hai gian sảnh hai bên cũng to lớn hùng vĩ như đại sảnh ở giữa, trên khung cửa đá hình vòm khắc đầy hoa văn uốn lượn ngoằn nghèo, khiến người ta không sao nén nổi tiếng thốt kinh ngạc song lại cũng không thể nào hiểu được ý nghĩa chúng. Trong hành lang cũng có các đĩa đèn nhỏ như ngọn đuốc, lửa cháy bập bùng, Trác Mộc Cường Ba muốn xem cho rõ rốt cuộc là thứ gì đang cháy, nhưng suýt nữa thì bỏng cả tay. Hai gian sảnh hai bên này cũng cũng vẫn có tượng lực sĩ ở các bên tường, tay bưng chậu lửa lớn, nhưng giữa sảnh thì có
một tượng đá cao chừng ba mét, tay cầm một loại vũ khí giống cây giáo mà không phải giáo, giống đinh ba nhưng cũng không phải đinh ba. Ở phía nam thì hai giang sảnh hai bên Đông Tây, mỗi bên cũng có một gian sảnh khác, bức tượng đặt giữa sảnh của hai gian này đã biến đổi, từ tượng đứng chuyển thành tượng nằm, trông giống một phụ nữ, kỳ lạ một điều là, trong lòng họ cũng vẫn ôm thứ vũ khí quái dị kia, nhìn chẳng hài hòa chút nào. Tiếp tục hướng về phía Nam, vẫn còn đường hầm tối om như mực, vì trong đường hầm không có ánh đèn lửa nữa, nên giáo sư Phương Tân cho rằng không gian ấy có lẽ là không lớn lắm, vì tầng này ít nhất đã phải phân ra một nửa không gian chia cho bốn con đường tượng trưng cho tử vong ở gian sảnh hình bán nguyệt rồi. Hơn nữa, bên trong rất có khả năng có con vật khổng lồ không biết tên kia, tạm thời chớ nên kinh động đến nó, giờ tốt nhất là cứ kiếm cho kỹ trong năm gian sảnh này đã, nếu quả thực không phát hiện gì cả đội mới tiệp tục tiến vào con đường tối tăm ấy.
Sau một hồi tìm kiếm kỹ lưỡng, họ phát hiện ra, ngoài gian đại sảnh ở giữa, hai phần ba phía trước mặt sàn của bốn gian sảnh còn lại đều có dấu vết đứt gãy rõ rệt. Giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La nghiên cứu cẩn thận, cho rằng vết đứt gãy này chính là một chiếc van khổng lồ, chỉ cần khởi động chốt bật, bốn chiếc van này sẽ bị mở ra, nhưng cái chốt đó ở đâu, bốn cánh cửa này có tác dụng gì thì không ai rõ hết.
Theo ý của giáo sư Phương Tân, cái chốt này chắc phải ở trong gian đại sảnh ở giữa, vì người Maya cổ đại không thể làm cho cơ quan bẫy chốt quá đỗi rườm rà phức tạp, nơi đóng mở chắc cũng là nơi nổi bật. Vì vậy, bốn người lại trở về gian đại sảnh ở giữa. Kết cấu ở đây hơi phức tạp một chút, bốn vách tường là bốn chục lực sĩ khổng lồ đang dựa lưng, năm cái bục bái tế thì trên bốn bục có tượng người, phía trước bục bái tế còn có một bức tượng nữ thần Mặt trăng nữa. Giáo sư Phương Tân bảo với mọi người, chốt khởi động cơ quan có lẽ ở ngay trên những bức tượng này, chỉ có điều là đám tượng này đều hơi to quá, muốn tìm được chốt mở quả thực không hề dễ chút nào. Mọi người liền phân công công việc, mỗi người kiểm tra kỹ lưỡng một bức tượng. Trác Mộc Cường Ba cậy
mình tài cao gan lớn, đã bám vào vạt áo tượng nữ thần Mặt trăng, trèo lên cao.
Gã trèo một mạch lên vai nữ thần, thử lay động pho tượng mặt người thân chim, nhưng hai bức tượng đẽo liền khối, làm sao lay động được. Trác Mộc Cường Ba thấy vậy vẫn chưa đủ, lại giẫm lên tai nữ thần trèo lên đỉnh đầu nàng, đứng trên vô số hình tượng rắn độc to như con trăn gió, đảo mắt quan sát bốn phía. Phát hiện đầu tiên của gã là vị thần Đầu trâu Mặt ngựa trên bích họa giờ đã được tạc thành đá, đứng ngay trên đầu nữ thần, thần thái như thể mình ta độc tôn trong cõi trời đất này vậy. Hai tai pho tượng này hình vuông, trông cũng giống sừng trâu bị cưa đứt, mắt lồi ra như mắt trâu, phần bụng tròn to như thùng nước, đôi chân thì từ bàn chân tới bắp chân to đều như nhau, giống như hai cái đôn bằng đá hơn. Bức tượng này chỉ cao bằng người thường, lại ẩn giữa đám tượng rắn, lũ rắn uốn lượn xung quanh, khom mình như thể hết sức cung kính.
Trác Mộc Cường Ba ngây người quan sát trong giây lát, lấy làm khó hiểu trước vị thần còn tôn quý hơn cả thần cai quản địa ngục này, nền văn minh Maya đó tàn lụi quá sớm, khiến cho ngày nay tất cả đều chỉ có thể dựa vào suy đoán. Gã lắc đầu thở dài, sau đó cúi nhìn xuống dưới, chỉ thấy mấy người bọn giáo sư Phương Tân đều nhỏ như hạt đậu, vẫn đang tỉ mỉ kiểm tra những bức tượng đá còn lại, cũng không ai để ý thấy gã trèo cao đến vậy; lại quan sát bốn phía quanh đấy, lửa nóng cháy phừng phừng, tựa hồ đang trực tiếp nướng gã lên vậy, vị trí này ngang tầm ngực bốn lực sĩ, nhìn bốn cái đầu to tướng của họ, gã có cảm giác khoảng cách vô cùng gần, tưởng chừng chỉ cần nhắc chân thôi là đã bước qua rồi vậy; ngẩng đầu nhìn lên, miệng hố hình vuông trên đỉnh trông to lớn khác thường, cái hố này cũng phải đến bảy tám mét vuông, từ khoảng cách này ngước nhìn, vách bên của hố dường như rất mỏng, ước chừng chưa được một centimet. Trác Mộc Cường Ba nheo mắt quan sát, phát hiện chỗ miệng hố có thả xuống một đoạn dây leo, lại hơi giống như dây thừng, trong lòng thầm kinh ngạc tự nhủ: “Chẳng lẽ khi trước từ trên miệng hố này có thang dây thả xuống? Thời gian lâu quá nên mục rữa hết cả rồi? nếu quả là vậy, chúng ta làm sao lên được?” Sau đó gã lại nghĩ: “Không đúng, nếu như có thang dây, bất kể là thứ gì, ít nhất nó có mục rữa thì cũng phải rơi xuống bên
dưới, nhưng bọn ta có phát hiện gì dưới đó đâu, chẳng qua cũng chỉ tìm được một vài sợi thực vật ở giữa bục bái tế kia, mà nếu rơi từ đây xuống, không thể nào rơi vào trong bục bái tế được, rốt cuộc là thế nào đây?”
Trác Mộc Cường Ba lại lay lay cái này, động động cái kia trên mái tóc hình rắn của nữ thần Mặt trăng, xong cũng không phát hiện được gì. Gã lấy làm thất vọng, lúc này Đường Mẫn bên dưới cũng đã nhận ra gã đã biến mất, đang lo lắng lớn tiếng hò gọi. Trác Mộc Cường Ba thở dài một tiếng, vỗ tay vào một con rắn đá, chuẩn bị leo xuống. Không ngờ, tay vừa chạn vào con rắn này, cảm giác mát lạnh, da rắn thô ráp hơn những con rắn khác rất nhiều, lại còn hơi đàn hồi nữa. Trác Mộc Cường Ba lấy làm kỳ quái, lại vỗ mạnh thêm hai phát nữa, con rắn đá kia đột nhiên ngoảnh đầu qua, đôi mắt âm trầm lạnh lẽo nhìn chằm chằm vào mặt gã. Hóa ra đây là một con rắn thật!
Trác Mộc Cường Ba làm sao ngờ được, giữa bao nhiêu con rắn đá này, lại có một con trăn thật ẩn núp. Gã quên cả sợ hãi, cũng quên luôn bỏ chạy, cứ bần thần ngây ra tại chỗ, đầu óc xuất hiện hiện tượng tạm thời trống rỗng. Con trăn này không hiểu có phải đã mê con rắn đá nào, đang biểu lộ tình cảm thì bị Trác Mộc Cường Ba phá mất chuyện tốt, lấy làm tức giận, miệng há lớn, chuẩn bị lao bổ về phía gã, nhưng hiềm nỗi thể hình nó quá lớn, nhất thời lửa giận cũng che mờ cả đầu óc, cái đầu to tướng lại kẹt giữa hai con rắn đá khác, cách mặt Trác Mộc Cường Ba chỉ có mấy centimet, hơi thở tanh lòm phả ra làm gã đung đưa như muốn ngã. Lúc này, Trác Mộc Cường Ba mới có phản ứng, gã run cả người, ra sức lùi về phía sau mà quên béng mất mình đang ở đâu, kết quả thân dưới lùi một bước, thân trên cũng kẹt cứng giữa các con rắn đá, không thể cử động. Con trăn kia ra sức vặn vẹo thân mình, toan rút đầu ra khỏi chỗ kẹt, Trác Mộc Cường Ba cũng xoay chuyển thân trên hòng len ra trước, một người một trăn đều đang lay lắc phần hông, hai gương mặt chỉ cách nhau có vài centimet, cứ như là đang nhảy điệu rumba.
Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba cũng giằng ra được trước. Gã lựa theo khe hở giữa những con rắn đá leo xuống phần rìa đầu nữ thần, bám vào một thân con rắn đá trượt xuống tai, rồi từ tai lại trượt xuống bờ vai bức tượng, kế đó bám vào vạt áo nhanh nhẹn tụt tiếp
xuống dưới, vừa tụt vừa kêu lên: “Đừng tìm nữa, tôi ở đây! Mẫn Mẫn, thầy giáo, chạy nhanh lên! Có con trăn! Nó, nó, nó xuống đến nơi bây giờ!”
Trác Mộc Cường Ba leo một mạch xuống đất, kéo tay giáo sư Phương Tân nói: “Chạy mau, chạy mau, nó tới rồi…” Giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La đánh mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, rồi lại ngẩng đầu nhìn lên cao, sau đó hỏi: “Cậu…cậu không nhìn lầm đấy chứ?” “Cậu có hoa mắt không?” “Anh, hay là anh vẫn chưa khỏi hẳn?” Người hỏi câu cuối cùng, chính là Đường Mẫn.
Trác Mộc Cường Ba dè dặt ngoảnh đầu lại, tượng nữ thần vẫn đứng đó, khoan thai mà nghiêm trang, ánh mắt dường như giễu cợt, nào có trăn có rắn gì nữa. Gã lẩm bẩm nói: “Không thể nào, anh không thể nhầm được, nó nhìn chằm chằm vào anh một lúc lâu, ở ngay bên trên đó ấy. Trong đám tượng rắn ấy, có một con là thật…” Gã còn chưa dứt lời, Đường Mẫn đá đưa tay sờ lên trán. Trác Mộc Cường Ba cảm thấy rõ ràng, bàn tay cô lạnh toát, hơn nữa còn đang run rẩy khe khẽ.
Trác Mộc Cường Ba gạt tay Đường Mẫn ra, trách móc: “Mọi người… không tin tôi sao?”
Giáo sư Phương Tân thở dài: “Cường Ba à, chỉ có điều, cậu lúc này, so với phản ứng lúc trúng độc lần đầu tiên, gần như giống hệt đó.”
Trác Mộc Cường Ba vò đầu bức tai, lần đầu tiên trúng độc là như thế nào, gã hoàn toàn không còn ấn tượng gì nữa. Đường Mẫn đành an ủi: “Em… em tin anh mà.” Nhưng giọng cô cũng hết sức miễn cưỡng. Bởi lúc Trác Mộc Cường Ba có phản ứng trúng độc, ba người họ phải tốn rất nhiều sức lực mới giữ chặt được gã lại, lúc ấy gã cứ hét ầm hét ĩ lên, hay tay khua loạn, không ngừng gào thét: “Lũ xác ướp kia muốn ăn thịt tôi! Chúng nó muốn ăn thịt tôi! Chúng nó đến rồi, chạy mau, chạy mau, đến rồi…”
Giáo sư Phương Tân nói: “Được rồi, chúng ta cứ chuẩn bị điện cao áp đi, nếu đúng là thật thì còn đối phó được.” Nghe ông nói vậy, Đường Mẫn liền lấy trong ba lô ra một cái hộp nhỏ trông như roi điện phòng bọn sàm sỡ của các cô gái, chỉ to hơn bao thuốc lá một chút.
Cô liếc nhìn tín hiệu trên hộp, đoạn nói: “Chỉ dùng được một lần, hết pin rồi.”
Giáo sư Phương Tân nói: “Đủ rồi. Đến giờ chúng ta vẫn chưa có phát hiện gì mới, tôi định thử cái kia xem thế nào.” Ông chỉ tay vào bục bái tế, đoạn nói tiếp: “Ở đó không có xương cốt hay những dấu vết khác, chắc là chốt tổng. Cậu tuổi trẻ lại khỏe mạnh nhất trong bốn người chúng ta, hãy thử giẫm lên đó, chúng tôi sẽ buộc dây an toàn cho cậu, nếu có gì không ổn thì hãy chạy lên thật nhanh. Tôi đã nghiên cứu kỹ rồi, xung quanh không có vẻ gì là có bẫy rập nguy hiểm chết người cả, cùng lắm cũng chỉ là dưới sàn nhà phát ra ám khí công kích thôi, chỉ cần cậu chạy ra khỏi bục bái tế được thì sẽ không còn nguy hiểm nữa.”
Về đầu lâu xương cốt, Trác Mộc Cường Ba đã nghe mấy người giáo sư Phương Tân giải thích, đây là kinh nghiệm tích lũy được ở hai tầng dưới, phàm là nơi nào có xương người, quá nữa là chỗ ấy có cơ quan chốt bẫy chí mạng, những bộ xương ấy chính là tiêu chí cảnh báo nơi nào nguy hiểm. Xung quanh cơ quan có thể đạp lên bên trong bục bái tế kia không có xương cốt gì, độ an toàn của nó có thể nâng lên tới năm mươi phần trăm, mặc dù là thế, song bọn giáo sư Phương Tân cũng chuẩn bị hết sức chu đáo, trước đó đã dùng ba lô để thử, nhưng chắc là không đủ trọng lượng, nên mới định để Trác Mộc Cường Ba mạo hiểm một lần.
Sau khi buộc dây an toàn, Đường Mẫn dặn dò gã vài câu, rồi giáo sư Phương Tân hỏi: “Chuẩn bị xong chưa?”
Trác Mộc Cường Ba đứng ở bậc thang cuối cùng bên trong bục bái tế, gật gật đầu, rồi theo lời giáo sư Phương Tân, trước tiên thò một chân ra giẫm thử, không có phản ứng gì; sau đó gã táo gan hơn, giẫm cả hai chân lên phiến đã, cũng không phản ứng gì; nhảy tại chỗ mấy lượt, cũng không phản ứng; gã dùng sức giẫm chân, vẫn không có phản ứng. Trác Mộc Cường Ba chìa hai tay, nhún vai chán nản. Giáo sư Phương Tân cẩn thận bước xuống, để lại lạt ma Á La và Đường Mẫn giữ dây thừng, rồi ôm Trác Mộc Cường Ba cùng nhảy lên trên sàn, song nền nhà vẫn chỉ là nền nhà, không hề nhích động chút nào.
Giáo sư Phương Tân buông Trác Mộc Cường Ba ra, ngồi thụp xuống, gõ bên này rồi nhìn bên kia, nghi hoặc thốt lên: “Lẽ nào
chúng ta đã đoán sai?” Sau đó, cả lạt ma Á La và Đường Mẫn cũng xuống, bốn người cùng đứng trên phiến đá ấy, song vẫn không hề cảm giác ra được có cơ quan máy móc nào được khởi động cả.
Lạt ma Á La ngồi xổm bên mép phiến đá, nói: “không, không sai đâu, nhìn vết tích của phiến đá này và các mép xung quanh, nó phải chìm xuống mới đúng, chẳng lẽ là trọng lượng của bốn người chúng ta vẫn chưa đủ ư? Hay là bị gỉ sét ở đâu đó mất rồi?”
Giáo sư Phương Tân đứng dậy phủi tay nói: “Thôi bỏ đi, xem ra chúng ta chỉ còn lại đường hầm tối tăm kia để đi thôi, hình như là đi về phía Nam gian sảnh phía Đông, phải không nhỉ?”
“Đợi chút đã,” lạt ma Á La lên tiếng, “cho tôi xem máy tính xách tay được không?” Giáo sư Phương Tân liền đưa máy tính cho ông. Lạt ma Á La lại nói: “Phía Nam gian sảnh phía Đông và gian sảnh phía Tây, đều có một gian sảnh khác, trong đó có hai bức tượng nằm, có thể mở ra xếp chung một chỗ được không?” Giáo sư Phương Tân liền nhanh nhẹn sắp xếp cho hai bức tượng cùng hiện lên trên màn hình. Lạt ma Á La nói: “Xem xem có gì khác không!”
Giáo sư Phương Tân thốt lên: “Không đặt vào một chỗ so sánh thì thật không thể nhìn ra được, phương hướng và vị trí ôm vũ khí của hai bức tượng năm này chẳng hài hòa chút nào, sao lại như vậy chứ nhỉ?”
___________
1. dịch nghĩa theo từ tiếng Phạn Jtvaj ĩ vaka, còn gọi mệnh mệnh điểu hay sinh sinh điểu là chim thần trong truyền thuyết Phật giáo; trong kinh Phật gọi là tuyết sơn thần điểu, một thân hai đầu, mặt người mình chim. Đời sau khi dịch văn tiếng Phạn thường dùng hai chữ ‘cộng mệnh’ (cùng mạng) để dịch nghĩa. Trong nhạc lộc sơn đạo lâm nhị tự hành của Đỗ Phủ có viết “Liên hoa giao hưởng cộng mệnh điểu/kim bảng song hồi tam túc ô.” Nghĩa là: “Con chim cộng mệnh cùng hót đài sen/Ba chân, vỗ cánh hai phen phạ vàng.”
Nước địa ngục
Lạt ma Á La gật đầu nói: “Ngay lúc đầu trông thấy hai bức tượng nằm này tôi đã thấy không ổn rồi, nhưng không nói ra được chỗ nào bất bình thường, cho tới khi nãy, nghe Cường Ba hò hét trượt từ trên tượng nữ thần xuống, tôi mới để ý tới một vấn đề. Mọi người nhìn xem, bức tượng trên vai nữ thần ấy, đã chú ý thấy chưa?”
Giáo sư Phương Tân đáp: “Là hỏa thần đúng không, hỏa tần Tava, phò tá nữ thần Mặt trăng cai quản tầng địa ngục thứ sáu, đầu người mình chim, là cánh tay đắc lực của nữ thần.”
Lạt ma Á La lại nói: “Nếu đã là cánh tay đắc lực, tay trái có rồi, vậy còn tay phải đâu?”
Giáo sư Phương Tân trầm ngâm: “Ý của đại sư là, thủy thần, không thấy thủy thần có phải không?”
Lạt ma Á La chỉ vào ngọn lửa đang cháy: “Đây là địa ngục của nước và lửa, lửa – chúng ta đều trông thấy rồi, vậy thì còn nước đâu?” Nói đoạn, ông ta lại liếc mắt nhìn tượng đá trên màn hình máy tính.
Giáo sư Phương Tân liền hiểu ra: “Bức tượng đá này, lẽ nào chính là thủy thần? À, phải rồi, tôi nhớ ra rồi, từng khai quật được một bức tượng thủy thần, tượng tạc thành hình một phụ nữ lấy tay gạt nước trong hồ.”
Lạt ma Á La nói: “Không chỉ tượng nằm, cả hai bức tượng đàn ông đứng trong hai gian sảnh còn lại cũng là thủy thần, những thủy thần có giới tính khác nhau.”
Giáo sư Phương Tân reo lên: “Vậy thì có thể hiểu được rồi, nếu là thủy thần, đáng lẽ trong tay họ phải không có vũ khí mới đúng, chính là những thứ vũ khí ấy làm chúng ta hiểu lầm, có người cố ý sắp xếp như vậy!”
Lạt ma Á La gật đầu: “Nếu mấy món vũ khí này không phải của thủy thần…” Ông ngước lên nhìn bốn bức tượng đá trước mặt, vừa hay cũng là bốn bức, chiều cao kích cỡ cũng ngang nhau. Giáo sư
Phương Tân và lạt ma Á La liền lập tức kiểm tra lại một lượt cả bốn bức tượng ấy.
Chỉ thoáng sau đó, giáo sư Phương Tân đã phát hiện trên tay đặt sát người của mấy bức tượng trông như vệ sĩ đó có một lỗ nhỏ, bị bùn đất bít kín nên vừa nãy kiểm tra không nhận ra được. Cái lỗ này tròn vành vạnh. Lạt ma Á La thò ngón tay vào, bên trong như có bánh răng bằng kim loại. Ông cả mừng reo lên: “Không sai đâu, đây chính là chốt khởi động cơ quan rồi.” Giáo sư Phương Tân liền nói ngay: “Chúng ta mang bốn món vũ khí kia lại đây cắm vào trong lỗ thử xem, nhanh lên.”
Bốn người liền chia ra hành động, Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La mang về trước tiên, quả nhiên chỗ tay cầm của thứ vũ khí ấy có kết cấu răng cưa chìa ra ngoài, hoàn toàn khớp với lỗ trên tay tượng thần. Trác Mộc Cường Ba định vặn thử, nhưng bị lạt ma Á La ngăn lại: “Đợi chút đã, phải vặn cả bốn thanh một lúc mới được.”
Giáo sư Phương Tân cũng mang vũ khí kia về, cắm vào một bức tường khác, mãi sau Đường Mẫn mới hì hục trở lại, nửa kéo nửa lê thứ vũ khí dài thượt ấy, trông vô cùng vất vả. Trác Mộc Cường Ba vội chạy tới giúp cô một tay. Vừa đỡ lấy món vũ khí từ tay Đường Mẫn, gã chợt nghe lạt ma phía sau kêu lên: “Cẩn thận trên đầu có thứ gì rơi xuống!” Trác Mộc Cường Ba không hiểu gì cả, giờ luôn thanh vũ khí đó lên, cánh tay trầm xuống, hình như vừa gạt một vật gì đó vừa lớn vừa dài sang một bên. Đến giờ gã mới nhìn rõ, hóa ra lại chính là con trăn trên đầu bức tượng nữ thần khi nãy, hai tay không tự chủ được mà khẽ run lên. Cũng may lạt ma Á La chỉ nói cẩn thận trên đầu, chứ không nói cẩn thận con trăn, bằng không, lúc này gã đã bị con quái vật kia cuốn lấy rồi. Đường Mẫn nấp sau lưng Trác Mộc Cường Ba, rú lên sợ hãi.
Thì ra, con trăn kia bị kẹt giữa búi rắn đá chặt quá, vùng vẫy mãi từ nãy giờ mới thoát ra được, liền tức khắc trườn theo cánh tay tượng nữ thần bò xuống, bị Trác Mộc Cường Ba gạt văng xuống đất, lăn một vòng, rồi lại nhanh chóng ngóc cái đầu to tướng lên. Đôi mắt rắn lạnh lùng hằn học nhìn chằm chằm vào Trác Mộc Cường Ba, không ngừng lè lè cái lưỡi, cần cổ không ngừng đung đưa ra trước rồi lại về phía sau, sẵn sàng xổ tới đớp một phát bất cứ lúc nào. Con trăn khổng lồ này dài tới gần tám mét, cả lạt ma Á La lẫn
giáo sư Phương Tân đều ngây người ra tại chỗ, cũng chưa có kinh nghiệm đối phó với con quái vật này bao giờ.
Giáo sư Phương Tân cẩn trọng mở khóa kéo ba lô, chuẩn bị lấy chiếc đèn pha bên trong ra, lạt ma Á La chợt nói khẽ: “Dùng Derter ấy.” Giáo sư Phương Tân lấy làm khó hiểu, đó là một loạt thuốc khử mùi, bọn họ thường dùng để giết một số loại côn trùng nhỏ mà thôi
Con trăn cũng không lường trước được bên dưới lại có bốn động vật nhỏ đứng thẳng trên hai chân như thế, đôi mắt rắn nghi hoặc đảo tròn, thầm nhủ: “Rốt cuộc nên ăn con nào trước đây?” Song phương đều chưa có sự chuẩn bị, lúc này trong đại sảnh lại vẳng lên tiếng rít the thé sắc nhọn, bên trái một tiếng, bên phải một tiếng, nghe tựa như lưỡi cưa rít trên sắt gỉ, khiến cả bốn người đều đau nhói cả tai, lông tóc dựng ngược hết cả lên. Con trăn lớn vừa nghe thấy âm thanh đó, cũng như gặp phải cường địch, đột nhiên cuộn thân lại, tạo thành mấy vòng tròn đồng tâm, ngóc đầu lên cao, miệng há to hết cỡ, phát ra những âm thanh thị uy đặc thù.
Kế đó, cả tòa đại sảnh vang lên những âm thanh “bịch bịch bịch”, bốn người vừa nghe âm thanh này liền hiểu ra ngay, cảm giác này giống hệt như lúc họ trông thấy con vật khổng lồ khi nãy di động. Hai đường hầm cao lớn ở hai bên, cùng lúc xuất hiện hai con quái thú vĩ đại, mà cũng không thể nói là quái thú được, đôi mắt tròn đen nhỏ xíu lấp lánh như hai viên trân châu, cái miệng nhòn nhọn, trên mũi có mấy sợi râu, đôi tai tròn, thân thể múp míp, tứ chi ngắn ngủn, kéo lê sau lưng một cái đuôi vừa to vừa dài, rõ mười mươi là một con chuột, chỉ có điều…con chuột này có thể hình so được với… con voi!
Hai con chuột khổng lồ chẳng buồn để mắt tới bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba, chúng chỉ nhìn chòng chọc vào con trăn khổng lồ, xét về mặt thể hình, con trăn khổng lồ kia dường như không chiếm được chút ưu thế nào. Nhân lúc bọn quái thú đang gầm ghè giằng co, Trác Mộc Cường Ba kéo tay Đường Mẫn cẩn thận nhích về phía chỗ giáo sư Phương Tân, khe khẽ hỏi lạt ma Á La: “Đại sư, cái…cái thứ ấy…đó là hai con chuột à?”
Lạt ma Á La sửa lại: “Không, không phải hai con, mà là hai “ông” chuột mới đúng.” Giáo sư Phương Tân điều chỉnh ống kính máy quay hướng về chỗ hai con chuột khổng lồ, lẩm bẩm nói: “Thật
không thể ngờ, không ngờ còn có thể nhìn thấy những sinh vật lẽ ra đã tuyệt chủng rồi, tin tức này mà truyền ra ngoài đảm bảo sẽ làm cả thế giới phải chấn động.”
Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt: “Sao hả? Thầy giáo nhận ra bọn này à? Chúng không phải là kết quả của đột biến gien ư?” Lạt ma Á La nói: “Làm sao mà đột biến gien thế được. Đây là chuột khổng lồ châu Mỹ, theo các nhà khoa học, bọn chúng đã biến mất trên bề mặt địa cầu này từ bảy mươi triệu năm trước rồi, đến nay chỉ phát hiện được hóa thạch thôi. Một con chuột khổng lồ trưởng thành, thể hình hơi lớn hơn con tê giác một chút, nhưng hơi nhỏ hơn so với voi châu Phi. Sao hả, các cậu không nghiên cứu về các loài động vật từng sinh sống trên đại lục Nam Mỹ này hả?” Trác Mộc Cường Ba ngây người ra nói: “Các loài động vật từng sinh sống ở đây, chúng tôi làm sao mà nghiên cứu được?” Lạt ma Á La thở dài nói: “Xem ra các cậu đúng là học hành chẳng ra gì. Không nghiên cứu về văn hóa khu vực Nam Mỹ, cũng không nghiên cứu về các sự kiện tiền sử, vậy khi gặp phải chuyện gì bất ngờ, các cậu chỉ biết hoang mang cuống quýt là phải rồi.” Đường Mẫn dựa vào sau lưng Trác Mộc Cường Ba, nói: “Chúng ta, chúng ta đi khỏi đây đi, em sợ quá.”
Trác Mộc Cường Ba an ủi: “Anh cũng sợ lắm, nhưng làm sao mà đi đây? Nhưng anh nghĩ, thầy giáo thế nào cũng có cách.” Lúc này, ba con thú khổng lồ kia đã lao vào quần nhau. Vì thân hình chuột khổng lồ châu Mỹ quá to lớn, khiến con trăn chỉ quấn được trên mình nó có một vòng, không thể nào dùng sức được, mà muốn há miệng nuốt chửng nó, thì thật chẳng khác nào chuyện rắn nuốt voi cả; còn bọn chuột khổng lồ lại có hàm răng và móng vuốt sắc nhọn, chỉ thấy hai con chuột ngược lại còn dùng chi trước ôm chặt lấy thân trăn, há miệng cắn vào lớp vảy kiên cố của đối thủ, con trăn đau đớn cuộn chặt lấy cổ một con chuột, con chuột kia vội nhao tới giúp đồng loại. Chỉ thoáng chốc, hai con chuột đã một đầu một đuôi, ấn con trăn khổng lồ xuống đất, khiến nó không thể cuộn xoắn lại nữa. Con trăn Anaconda khổng lồ Nam Mỹ bị kéo thẳng đơ, trông chẳng khác gì con cá trạch nằm chờ chết trên thớt cả. Lúc này, trong đường hầm phía Đông gian sảnh lớn lại có thêm một con chuột châu Mỹ khổng lồ lao ra. Lạt ma Á La giờ mới nói với giáo sư
Phương Tân: “Tình hình không ổn rồi, giờ chỗ này như là ổ của chúng thì phải.”
Giáo sư Phương Tân cũng hiểu rõ, nếu con trăn lớn bị ăn hết, tiếp theo sẽ đến lượt bọn họ làm món tráng miệng sau bữa của mấy con quái vật này, vội nói nhanh: “Mau lên, cắm cái cuối cùng vào. Tôi đếm một, hai, ba, chúng ta cùng lúc dùng sức, chuyển động tay cầm theo chiều kim đồng hồ, xoay tới khi nào không thể tiếp tục nữa thì thôi, hiểu chưa hả?” Nói đoạn, ông ngước nhìn tượng nữ thần Mặt trăng, rồi tiếp lời: “Sau đó, bất kể là xảy ra chuyện gì, cũng phải lập tức trèo lên trên kia.”
Bên dưới bục bái tế, bốn con thú khổng lồ vẫn giằng co kịch liệt, bên trên, bốn người đều đã đứng ở vị trí của mình. Nghe giáo sư Phương Tân phát lệnh, bốn thanh vũ khí dài bắt đầu từ từ xoay chuyển, xoay hết bốn vòng mới dừng lại, sau đó là một khoảng lặng ngắn ngủi, ngoài tiếng “chít chít” của lũ chuột và tiếng “sì sì” của con trăn khổng lồ, trong sảnh không còn âm thanh nào khác. Bốn người không kịp dừng lại, cũng không kịp nghĩ ngợi gì nhiều, cùng nhào tới bám vào tượng nữ thần Mặt trăng, bắt đầu trèo lên cao. Leo được chừng một nửa, giáo sư Phương Tân mới sực nhớ ra một vấn đề vô cùng nghiêm trọng, liền quay sang hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Bên trên có còn nữa hay không?” Vừa nghe hỏi vậy, tim Trác Mộc Cường Ba như trầm xuống một nhịp, gã thẩn thờ trả lời: “Ai mà biết được chứ!”
Lúc này, hệ thống đã bắt đầu khởi động, mặt đất chấn động, sàn nhà rung lên, những lực sĩ cao hơn hai chục mét kia há to miệng, tựa hồ như đang gào lên đau đớn, ngọn lửa rực rỡ cháy càng mạnh hơn bội phần, nữ thần Mặt trăng… phẫn nộ rồi! Bốn người treo lơ lửng trên cao, bám chặt vào vạt áo của bức tượng nữ thần, khó nhọc đợi cho cơn địa chấn cấp độ nhẹ này qua đi. Thấy lạt ma Á La cúi đầu nhìn xuống dưới, Trác Mộc Cường Ba liền hỏi: “Đại sư, bên dưới có biến đổi gì không?”
Lạt ma Á La lắc đầu: “Không thấy gì! Hình như không có gì cả.” Lời ông chưa dứt, mặt đất lại bắt đầu rung lên bần bật, dường như có chốt cơ quan ở nơi nào khác cũng bị mở ra. Sau đợt chấn động thứ hai, giáo sư Phương Tân nói: “Hết cách rồi, liều một phen vậy, trèo lên đỉnh đầu bức tượng này rồi tính tiếp.” Đợt chấn động thứ hai
này tương đối ngắn, thời gian ngưng lại khá dài. Trác Mộc Cường Ba sắp leo lên tới vai nữ thần thì đợt chấn động thứ ba lại bắt đầu. Lần này cảm giác yếu hơn một chút, dường như ở một nơi cách tầng này rất xa có một cơ quan nào đấy bị mở ra. Lạt ma Á La đột nhiên kêu lên: “Nhìn kìa! Là nước!” Trong miệng của bốn lực sĩ, nước phun ào ào, trông như bốn dòng thác lớn sầm sập đổ xuống địa ngục của nước và lửa này.
Nơi lối thông giữa tầng bốn và tầng năm, một đám du kích đang hoang mang nhìn quanh. Giờ quân số của chúng chỉ còn một phần tư so với lúc tiến vào địa cung, cả bọn như chim sợ cành cong, bất cứ tiếng động nào cũng đều khiến chúng run bắn cả thân mình. Gonzales túm tóc Basaka lắc mạnh: “Phải bình tĩnh! Phải bình tĩnh! Bảo với chúng nó không được làm loạn lên… lại có thằng khốn nào giẫm phải bẫy rồi hả?”
Một tên lính du kích run rẩy nói: “Hình như, hình như không phải bẫy của tầng này.”
Gonzales lơi tay ra, thở phào nhẹ nhõm: “Không phải thì tốt, không phải thì tốt…”
Tầng năm, Soares đang đứng lại phía trước một vật khổng lồ bằng đá. Đồ vật này nhìn chỉnh thể thì hơi giống một cái nghiên mực khổng lồ, dài rộng đều hơn chục mét, ở giữa có vô số hố trũng, có cầu vòm, có cả đường thoát nước, xem chừng như là mô hình hệ thống nước ngầm của một thành trì phồn vinh. Đợt chấn động vừa rồi cũng làm kinh động đến y, Soares ngẩng đầu lên, lẩm bẩm: “Ai mở cơ quan tầng thứ sáu vậy nhỉ, sao lại có người đi từ dưới lên? Thật là lạ. Hắc hắc, từ tầng sáu mà muốn lên tầng năm, chỉ e là hơi hung hiểm. Phải vượt qua chỗ đó…” Y lắc mạnh đầu: “Không thể nào, người bình thường không thể nào đi qua đó được.”
Cuối cùng họ cũng leo lên được đỉnh đầu tượng nữ thần. Sau khi kiểm tra kỹ lưỡng một lượt trong đám rắn đá, xác định không còn con trăn nào khác nữa, bốn người mới thở phào nhẹ nhõm, tạm thời nghỉ ngơi được giây lát. Lạt ma Á La chăm chú quan sát phần miệng các lực sĩ, chỉ thấy nước tuôn xối xả, ông nhìn một lúc, bỗng nhiên thốt lên: “Là hồ nước trên đỉnh, người Maya đã nối liền hồ nước khổng lồ trên đỉnh với tầng này.” Trác Mộc Cường Ba thắc mắc: “Sao đại sư biết?”
Lạt ma Á La chỉ tay xuống nước: “Dưới nước kìa, có cá!” “Hả!” Trác Mộc Cường Ba kêu lên, lũ cá trong cái hồ ấy không phải thứ tốt lành gì, tình hình lúc này trở nên càng thêm bê bết. Gã cúi người xuống nhìn, chỉ thấy mấy con chuột châu Mỹ khổng lồ đã chạy biến từ lúc nào, cả con trăn cũng thừa cơ trốn mất, nó vốn là cao thủ bơi lội mà. Lạt ma Á La cũng cúi đầu nhìn xuống, nước đang không ngừng nuốt lấy từng bậc thang dẫn lên bục bái tế, lũ cá ăn thịt người không ngừng nhảy vọt lên khỏi mặt nước. Ông chau mày nói: “Tại sao nước dâng nhanh thế nhỉ? Chỗ phun nước có lẽ không chỉ ở bốn bức tượng lực sĩ này, những nơi khác cũng đang phun nước thì phải.”
Giáo sư Phương Tân nói: “Còn nhớ vị trí giữa bốn gian sảnh còn lại không, tôi nghĩ chấn động vừa rồi chính là do bốn cánh cửa ấy bị mở ra đấy.”
“Chẳng trách.” Lạt ma Á La đột nhiên vỗ tay một cái: “Cơ quan khéo léo thật! Thiết kế tinh tế thật, tôi nghĩ mình đã hiểu ra rồi! Thì ra là như vậy!”
Giáo sư Phương Tân hỏi: “Ngài nghĩ ra điều gì vậy?” Lạt ma Á La nói: “Ông còn nhớ khi chúng ta từ tầng thứ bảy đi lên, không gian bán nguyệt ở tầng này bị một cánh cửa đá bịt chặt lại không, lúc ấy tôi đã ngờ vực, tại sao tầng này lại đóng chặt đến thế, giờ thì coi như đã hiểu rồi.”
Giáo sư Phương Tân cũng tỉnh ngộ: “Thì ra tầng này vốn là để tích nước, bằng không thì đã không gọi là địa ngục của nước và lửa rồi.”
Lạt ma Á La bổ sung thêm: “Chẳng những như vậy, đây là một kết cấu liên hoàn. Khi nước tích tụ đến một mức độ nhất định, áp lực khổng lồ đè nặng xuống sàn, cơ quan ở giữa hai bục bái tế mà sức chúng ta không thể ấn xuống kia sẽ bị nước đè xuống. Nếu tôi đoán không lầm, chốt cơ quan phải dùng đến áp lực nước khổng lồ ấn xuống ấy, chính là dùng để mở cánh cửa dá và nâng tấm lưới tấm lưới kim loại có mũi nhọn nặng nề kia lên, chỉ có sức mạnh lớn như thế mới có khả năng đưa cửa đá và tấm lưới kim loại ấy trở về vị trí ban đầu mà thôi.”
Giáo sư Phương Tân gật gật đầu: “Hiểu rồi, tôi đã hiểu rồi, quả thực là rất khéo léo tinh diệu, họ đã lợi dụng sức mạnh của tự nhiên
để hoàn thành công việc con người không thể làm nổi, khiến cho cả bộ máy khổng lồ này có thể sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần.” Trác Mộc Cường Ba nhìn giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La đang thảo luận hết sức hưng phấn, nắm chặt bàn tay Đường Mẫn, lo lắng hỏi: “Thế nhưng, làm sao mới lên được trên kia đây? Nếu nước dâng cao nữa, chúng ta sẽ bị chết chìm ở đây cả đó.” Lúc này, mực nước đã ngập cả bục bái tế, đang dần dần nhấn chìm bốn bức tượng thần nhỏ kia.
Giáo sư Phương Tân nói: “Đây đúng là một vấn đề. A, có rồi, Mẫn Mẫn, chiếc bè da của chúng ta đâu, mở ra, nếu nước dâng cao tới đây, chúng ta có thể sử dụng bè da để nổi lên theo, như vậy, có thể lợi dụng sức nâng của nước mà lên thẳng tầng trên luôn rồi.”
Lạt ma Á La lắc đầu: “Không thể được, nước không dâng cao tới vậy đâu.” Ông chỉ vào ngọn lửa đang cháy, nói: “Phần đáy của bốn chiếc chậu lớn kia có vết nước, chỉ sợ mọi người khó mà nhận ra được, nhưng ngọn lửa đó tới giờ vẫn không hề tắt lụi, từ điểm này cũng nên nghĩ ra, mực nước sẽ không dâng lên cao quá ngọn lửa. Chỉ cần áp lực nước đủ mức, cửa đá sẽ mở ra, nước liền theo đó mà chảy đi, đồng thời cánh cửa nối liền với hồ nước trên đỉnh sẽ đóng lại. Cuối cùng, nước ở tầng này sẽ chảy đi bằng hết, chỉ còn lại một ít đọng ở giữa bục bái tế, có lẽ từng có thủy tảo rong rêu trong ấy nữa, vì vậy chúng ta mới phát hiện ra thực vật dạng sợi.”
Giáo sư Phương Tân nói: “Vậy thì, người Maya cổ đại làm sao lên trên được?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Có thể họ dùng thang dây.” Gã chỉ tay vào đoạn dây leo đứt bên mép cái hố hình vuông trên đầu. Lạt ma Á La nheo mắt quan sát thật kỹ, rồi đáp: “Ừm, Cường Ba đoán không sai đâu, nhưng đây không phải dây thừng thời cổ đại, mà chắc là thang dây từ mấy năm trước. Dây thừng là loại dễ mục nát nhất, mặc dù chỉ mấy năm nhưng nửa đoạn dây kia đã hỏng hết cả, phần còn lại e đã rơi xuống và bị nước cuốn đi rồi.” Cuối cùng, lần này thì cả giáo sư Phương Tân cũng không còn chủ ý gì nữa, ông hỏi: “Vậy phải làm sao bây giờ? Đợi nước rút? Chỉ sợ chúng ta không thể cầm cự trong nước lâu như thế, hơn nữa, dù nước rút đi cũng không thể lên trên đó được.”
Lạt ma Á La nói: “Vẫn còn một con đường khác, nhưng sợ rằng phải mạo hiểm một chút.” Ông nhìn xuống dưới, nước đã ngập bốn pho tượng thần nhỏ, đang dâng dần lên tới phần hông của tượng nữ thần.
Đường Mẫn nói: “Lạt ma Á La, đại sư, đại sư muốn nói, dưới nước…”
Lạt ma Á La gật đầu: “Không sai, giờ cánh cửa thông ra thế giới bên ngoài đã mở ra rồi, mặc dù nước đang dồn vào đây, mức nước không ngừng dâng cao, còn nước trong hồ phía trên lại giảm đi đáng kể, áp suất giảm xuống, chúng ta có thể bơi qua từ cửa trượt ngầm dưới lòng đất kia.”
Giáo sư Phương Tân lo lắng nói: “Mạo hiểm quá, chúng ta không hề biết bốn cánh cửa trượt kia thông đi đâu, nếu hai bên đều bị đóng lại…”
Lạt ma Á La lắc đầu: “Không, tôi đã nghĩ kỹ rồi, Mọi người thử nghĩ xem, lúc chúng ta ở tầng địa ngục thứ 7, không chỉ có mê cung phức tạp, hơn nữa còn có rất nhiều cơ quan bẫy rập, đến cuối cùng khi ra khỏi mê cung rồi, vẫn còn phán quyết cuối cùng, một cái bẫy gần như khiến người ta không thể nào thoát ra nổi. Nhưng còn ở tầng này thì sao? Sau lần đầu tiên chọn đúng hướng, thì dọc đường đều hết sức bình an, không hề có cơ quan bẫy rập gì, hoàn toàn không phù hợp với cái tên địa ngục của nước và lửa gì cả, còn hiện nay, nước và lửa đều có rồi, địa ngục…” Ông lại nhìn xuống dưới 1 lần nữa.
Giáo sư Phương Tân đã hiểu ra, khẽ kêu lên: “Trời ơi, ý của đại sư là, bây giờ, Cánh cửa Địa ngục mới bắt đầu mở ra, còn chúng ta phải vượt qua dòng nước, mới có thể coi như chính thức tiếp nhận vào khảo nghiệm của địa ngục? Đây mới là mục đích thực sự mà người Maya xây dựng tầng địa ngục này ư?” Lạt ma Á La chỉ gật gật đầu, không nói thêm gì nữa.
Địa ngục của nước và lửa
Khi nước dâng tới tay nữ thần Mặt trăng, bỗng nghe “ùm” một tiếng, bệ đá dưới chân họ xuất hiện một cuộn xoáy, kế đó bốn người thấy rung rinh, cả bức tượng nữ thần tựa hồ như đang dịch chuyển. Lạt ma Á La thốt lên: “Thì ra còn hai tầng cơ quan nữa, cái đầu tiên khiến tượng nữ thần dâng lên, cái thứ hai mới mở cửa đá ra.”
Giáo sư Phương Tân nói với tâm lý của người gặp vận may: “Tượng nữ thần này liệu có nâng lên cao tới lối thoát kia không?” Lạt ma Á La lắc đầu đáp: “Không, không thể nào. Phiến đá dưới chân nữ thần là đá nguyên phiến, diện tích lớn lắm, nếu diện tích nhỏ hơn thì e còn nâng lên cao thêm nữa. Đừng quên địa ngục của nước và lửa này là thiết kế cho những hồn ma, nhưng kẻ tham sân vĩnh viễn không thể ra khỏi tầng địa ngục này đâu. Giáo sư, ông là đội trưởng, cần phải quyết đoán ngay, nếu tầng cơ quan thứ hai mở ra, tất cả sẽ quá muộn đó.”
Giáo sư Phương Tân liếc nhìn Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn. Lần này ánh mắt của tất cả những người còn lại đều tập trung vào ông, áp lực ông phải chịu vô cùng lớn. Trác Mộc Cường Ba thầm thở phào nhẹ nhõm, cũng may là gã không phải nhóm trưởng của nhóm này. Có điều gã càng lo lắng cho thầy giáo của mình nhiều hơn.
Tượng nữ thần dâng lên đến độ cao ngang với chậu lửa, đột nhiên trầm xuống, rồi dừng lại, theo đó, tim của cả bốn người cũng đều chùng xuống. Còn mười mét nữa, lối thông đó thoạt nhìn thì ngay trước mắt, nhưng sao lại xa xôi đến thế. Giáo sư Phương Tân cuối cùng cũng đưa ra quyết định: “Tất cả đội mũ chiếu sáng lên đầu, chuẩn bị lặn xuống nước! Mẫn Mẫn, chúng ta chỉ chuẩn bị một bình dưỡng khí thôi đúng không?”
Đường Mẫn cắn môi nói: “Vâng, chỉ có một bình năm trăm mililit oxy lỏng.” Giáo sư Phương Tân nhìn bình oxy lỏng chỉ bằng bình thuốc diệt côn trùng, trong lòng lấy làm lo lắng: bốn người chúng ta, mà chỉ có một bình oxy nhỏ thế này thôi.
Trong lúc Đường Mẫn lắp ráp thiệt bị cung cấp oxy, Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La đều đã đội xong mũ chiếu sáng. Nhìn ngọn lửa cháy phừng phừng, Trác Mộc Cường Ba nói: “Rốt cuộc là cái gì cháy vậy nhỉ? Tôi thấy trong bốn cái chậu lớn đó hình như không phải nước đâu.”
Lạt ma Á La nói: “Không phải nước, mà là dầu thô, bên trong đều là dầu thô. Những người Maya thông minh đã bịt nơi này bằng tường đá, sau đó dẫn dầu thô dưới lòng đất sâu lên cho vào bốn cái chậu lớn này, cứ đổ từng chút từng chút một vào, ngọn lửa trong chậu sẽ không bao giờ tắt lụi cả.”
Trác Mộc Cường Ba kêu toáng lên: “Dầu thô? Dầu thô không phải màu đen hay sao?”
Giáo sư Phương Tân cũng chú ý đến, vừa ghi hình vừa đáp: “Dầu thô không phải lúc nào cũng đen cả đâu, có màu đỏ, màu da cam, màu nâu, màu xanh nữa. Ở đây là dầu thô tốt nhất, nguyên chất nhất, loại dầu thô không màu này gần như không cần lọc qua nữa, có thể trực tiếp sử dụng luôn như xăng. Suy nghĩ của tổ tiên người Maya, quả thực là tuyệt diệu quá.”
Một bình oxy lỏng, một van giảm áp, một mặt nạ thở, nút nhấn phun khí, vậy là xong một bộ đồ cung cấp dưỡng khí dưới nước đơn giản, Đường Mẫn giao nó cho giáo sư Phương Tân. Thu dọn xong hành trang, giáo sư Phương Tân nhìn dòng nước cuồn cuộn dâng lên bên dưới, cảm khái thốt: “Đây mới đúng là địa ngục đây!”
Bốn người đứng bên mép đầu tượng thần, nước đã lên tới cằm bức tượng, giáo sư Phương Tân nói: “Chuẩn bị xong chưa? Chúng ta xuống nước thôi. Nhất định phải theo sát tôi, ở dưới nước không có đường ra cũng không có dưỡng khí, hậu quả thế nào chắc mọi người cũng biết rồi.” Nói xong, ông liền nhảy luôn xuống nước.
Lạt ma Á La nhắc nhở: “Cẩn thận có bẫy!”
Đường Mẫn đưa ánh mắt chan chứa tình cảm nhìn Trác Mộc Cường Ba, rồi nhảy xuống thứ hai. Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm: “Dưới ấy vừa có trăn khổng lồ vừa có cá ăn thịt người, còn cần bẫy rập gì nữa đây?”
Lạt ma Á La nói: “Dưới nước là địa bàn của cá ăn thịt người, con trăn khổng lồ kia chỉ còn đường bỏ chạy thôi, nhưng giờ dòng nước không ổn định, bọn cá ăn thịt người khó mà tập kết thành đàn lớn được, chúng ta vẫn còn cơ may.” Nói xong, ông và Trác Mộc Cường Ba cũng trước sau nhảy xuống nước.
Bốn người bơi thành một hàng dọc, mắt nhìn chăm chăm vào ánh sáng của chiếc mũ chiếu sáng phía trước, chỉ sợ bị bỏ lại, đến lúc ấy sẽ sặc nước mà chết một cách vô cùng đau khổ. Ánh sáng trong nước rất mờ mịt, phạm vi chiếu sáng của mũ bị thu hẹp lại trong khoảng cách dưới năm mét. Khi giáo sư Phương Tân tìm thấy cánh cửa khồng lồ dước sàn nhà kia, chuyển bình dưỡng khí một vòng, bốn người mới tiếp tục tiến tới. Đi qua cánh của ấy xuống dưới chừng năm mét, mới có thể tiến tiếp theo phương ngang, dòng
nước đều chảy cả về một hướng, muốn thoát ra được, bốn người phải lặn ngược dòng nước ấy. Độ sâu này, lại một lần nữa thể hiện trí tuệ của người Maya, hai mươi mét chiều sâu, chính là cực hạn của con người khi lặn không thiết bị. Áp lực nước cực lớn ép chặt lên cơ thể, khiến người ta hô hấp khó khăn, nến không chuẩn bị sẵn nút tai để cân bằng lại áp lực, tai người sẽ bị áp lực ở độ sâu này làm mất đi cảm giác phương hướng và cân bằng.
Giáo sư Phương Tân đi trước dẫn đường, bơi ngược dòng được chừng hai chục mét, lại không thể không cho mọi người thở thêm một lần. Bỗng nhiên, đường hầm phía trước hiện ra rất nhiều vật thể trông như những xúc tu của một con quái vật, mấy người bơi lại gần mới phát hiện, thì ra là vô số dây xích kim loại cuộn thành từng cuộn. Lạt ma Á La vội xua tay ra hiệu cảnh báo, bảo những người còn lại tuyệt đối không được lại gần dây xích, làm động những sợi xích này rất có khả năng sẽ khởi động bẫy chốt gì đó cũng nên.
Bơi thêm năm mươi mét nữa, phía trước đột nhiên xuất hiện đường rẽ, một đường hầm hình vuông hướng lên trên, một hình tròn hướng về bên trái. Giáo sư Phương Tân muốn đột phá qua cửa hầm hướng lên phía trên, nhưng dòng chảy bên trên áp xuống, mấy lần ông đều bị dòng chảy xối trở lại vị trí cũ. Lạt ma Á La quan sát cửa hầm hình tròn giây lát, rồi ra hiệu đường này có thể thông, bốn người lại hướng vào cửa hầm hình tròn. Trong thời gian đó, họ lại phải đổi hơi cho nhau hai lần, nhìn nét mặt ngiêm trọng của giáo sư Phương Tân có thể nhìn ra ngay, lượng oxy lỏng đã tiêu hao rất nhiều. Bên trong đường hầm, vách đá có tượng khắc mặt người, ước chừng lớn hơn hai hoặc ba lần đầu người thật, cả phía trên cũng có tượng mặt người hướng xuống. Trong làn nước đục ngầu tối om chỉ có chút ánh sáng mờ mờ, có vô số cặp mắt đang nhìn, kẻ cười người giận, kẻ sợ hãi người mừng vui… Đường hầm dài dằng dặc, cảm giác tựa như bị nhìn chằm chằm ở tất cả các góc độ, cơ hồ buộc người ta phải trải qua hết cái gì gọi là thế gian ấm lạnh, nhân sinh bách thái.
Một con cá ăn thịt người bỗng nhiên bơi ra từ miệng một bức tượng, vút qua trước mặt Đường Mẫn. Dưới ánh sáng của chiếc mũ, hàm răng sắc nhọn chìa hẳn ra ngoài ấy ánh lên đầy yêu dị. Đường