🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Mật Mã Maya
Ebooks
Nhóm Zalo
H
VH-PROJECT (VH-P) xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc ebook Mật Mã Maya của tác giả Brian D’Amato Nguyên tác IN THE COURTS OF THE SUN Brian D’Amato
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Ebook được thực hiện bởi các thành viên của VH-P và TVE Chụp ảnh – tạo bìa - chỉnh sửa hình ảnh: Yew
Chế bản PRC và PDF: Chút
Sửa lỗi chính tả - chỉnh sửa bản word: apple-socola, may&nui, phượng xồ, giangcoi163
Đánh máy: jik2040, nph268, to_you, lananha1, jella, hongleo, phượng xồ, tinh251993, Smilehd, hanhung3012, ndviet, svcntnk42a1, nguyen_ly, iamvltt2, minh_trang, Iris, doushite, greengrass2709, tulipden112, TT8571, hakhanhbk2010, Ella_mEn, Ddeath, mainame, rouge2011, o0tinhtritam0o, hoangha2192, SmallEgg, Mr.Cent, winki, phamdung90, Chinh phục ™, to_you, rkj, MatTo89, thuanga, kdungrau, ghostgirl_12606, bluesky29, Tyty1803, Nerissa, thuy_trang89, Vanessa1811
Ngày hoàn thành: 09/09/2010
Thông tin sách: MẬT MÃ MAYA Tên sách: Mật Mã Maya
Nguyên tác: In The Courts Of The Sun Tác giả: Brian D’Amato
Dịch giả: Phong Diệp
Nhà xuất bản: Trẻ
Số trang: 836
Kích thước: 16x24cm
Ngày xuất bản: 2010
Trọng lượng: 1450 gram
Giá bìa: 179.000 VNĐ
Giới thiệu
“Mật mã Maya” tập hợp những phẩm chất làm nên một cuốn sách hay như sự ly kỳ liên quan đến ngày tận thế, phiêu lưu mạo hiểm ở quá khứ và hiện tại, nền văn minh ít người biết tới, sự lãng mạn.
Jed Delanda là hậu duệ người Maya sinh tại Guatemala, có tài năng thiên bẩm về toán học. Khi còn nhỏ, Jed đã được người mẹ truyền dạy một trò chơi của người Maya: cờ Hiến tế. Đây là cách đặc biệt sử dụng linh tính để dự đoán các sự việc sẽ diễn ra, hay nói cách khác là một kiểu tiên tri.
Sau khi đến Utah làm con nuôi trong một gia đình người Mỹ theo đạo Mormon, anh ta được phát hiện là có năng khiếu thiên tài về lịch học; cùng với những hiểu biết về cờ Hiến tế, anh ta đã thu hút được sự chú ý của giáo sư Taro Hyaku, chuyên gia về lý thuyết trò chơi. Sau một chuyện hiểu nhầm, Jed đã ngừng cộng tác nghiên cứu với Taro, quay sang dùng cờ Hiến tế để đầu tư chứng khoán và vớ được những món hời lớn tới hàng triệu USD.
Cuộc đời Jed rẽ sang một hướng mới khi anh ta được biết nhóm nghiên cứu của Taro đã giải mã được một cuốn sách cổ của người Maya mà chính anh ta cũng rất muốn xem. Anh ta liên lạc lại với vị giáo sư (lúc này đang làm việc cho tập đoàn Warren) và được biết họ đang lập trình cho Leon - một chiếc máy tính để nó có thể chơi cờ Hiến tế.
Taro giới thiệu Jed với “sếp lớn” là Marena Park, một phụ nữ thông minh và đầy bí ẩn. Tại đây, Jed đã chơi cùng Leon và hé lộ tài dự đoán của anh ta về thảm họa sắp xảy ra tại một nơi được coi là biểu tượng của nước Mỹ. Sau sự kiện đó, Jed gia nhập dự án nghiên cứu của tập đoàn Warren để tìm hiểu và ngăn chặn thảm họa sẽ xảy đến vào ngày 21/12 theo lời tiên đoán của người Maya cổ.
Jed được chọn làm người tình nguyện trở về quá khứ để học cách chơi cờ Hiến tế đỉnh cao và gửi những gì học được về hiện tại. Cuộc hành trình trở về quá khứ của anh ta được các nhà khoa học tiến hành dưới hình thức sao chép ký ức và gửi đến bộ óc của một người Maya cổ sống vào năm 664 sau công nguyên. Theo kế hoạch, ký ức của Jed sẽ được chuyển vào bộ não của một vị vua đang trị vì vào năm 664 CE.
Nhưng mọi việc không như dự tính, thay vì trở thành vua, một sự nhầm lẫn lớn đã biến Jed trở thành Chacal - một người hiến tế mạng sống của mình bất đắc dĩ. Điều này dẫn tới tình cảnh anh ta phải chia sẻ ý thức với Chacal và dấn thân vào nhiều cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm.
Đến phần kết của cuốn sách, nhân vật chính Jed đã biết mình phải làm gì. Nhưng liệu anh ta có làm điều đó thật hay không?
Lời khen tặng
D’Amato đã viết nên một câu chuyện phiêu lưu tuyệt vời với nhiều chi tiết thú vị về nền văn hóa Maya. Nếu bạn từng ao ước được quay trở về thời đại của người Maya thì đây chính là cơ hội… - The Agony Column, 24 tháng 2 năm 2009.
“Mật mã Maya” là một trong những cuốn sách gây bất ngờ nhất năm 2009 về cả chất lượng lẫn tính giải trí và nó vượt hẳn lên trên những cuốn tiểu thuyết ly kỳ về những vấn đề bí ẩn khác. – Fantasy Book Critic, 15 tháng 4 năm 2009.
“Mật mã Maya” là tác phẩm độc đáo và vô cùng thú vị, một cuốn tiểu thuyết có tính sáng tạo phi thường khiến người đọc bị cuốn theo không ngừng. Với bàn tay điêu luyện của một người kể chuyện bậc thầy, D’Amato kết hợp lịch sử Maya, khoa học hiện đại, lý thuyết trò chơi và lời dự đóan về ngày tận thế của người Maya để dệt nên một câu chuyện hết sức ly kỳ. – Douglas Preston, tác giả cuốn sách The Codex và The Monster of Florence.
Một tác phẩm nổi bật, xuất sắc, độc nhất vô nhị. Đồ sộ về tầm vóc, tính sáng tạo, tham vọng và sự hiểu biết. Tóm gọn trong một từ: Tuyệt vời. Hoặc: Sáng chói. Hoặc thành hai từ: Tuyệt vời và sáng chói. – Raymond Khoury, tác giả cuốn sách The Last Templar và The Sanctuary.
“Độc giả hâm mộ Michael Crichton sẽ chào đón cuốn tỉeu thuyết ly kỳ này. Các chi tiết liên quan đến văn hóa và lịch sử thuyết phục không kém gì sách về người Aztec của Simon Levack” – Publishers Weekly.
PHẦN ZERO
0
Tôi nhìn thấy là một chấm màu đỏ trên nền xanh lơ. Rồi một chấm nữa xuất hiện phía trên, lệch về bên trái, chấm thứ ba hiện ra ngay sát dưới chấm thứ hai, và một chấm nữa, một chấm nữa, năm, rồi chín, rồi mười ba. Những chấm đỏ lớn dần lên và loang ra, khi gặp nhau, chúng hòa vào làm một, chảy thành dòng, và tôi nhận ra đó chính là máu từ lưỡi tôi nhỏ xuống tờ giấy tế lễ màu xanh.
Quỷ thần ơi, - tôi thầm nghĩ, - nó có tác dụng thật.
Bây giờ không còn là năm 2012 nữa. Mà là năm 664. Ngày 20 tháng 3 năm 664 Công nguyên theo Tây lịch. Hay theo cách tính của người Maya, hôm nay là ngày Rắn đất 3, ếch mưa 5 của uinal (Cách tính thời gian của người Maya, 1 uinal có 20 ngày) 11, tun (1 tun gồm 360 ngày) 11, k’atun (1 k’atun gồm 7.200 ngày, tương ứng với gần 20 năm theo Tây lịch) 11, b’ak’tun (1 b’ak’tun gồm 144.000 ngày, tương ứng với 394.52 năm theo Tây lịch) 10. Lúc này khoảng 4 giờ 48 phút sáng. Chủ nhật.
Hừm.
Tôi có cảm tưởng việc này cũng giống như một biến cố lớn nào đó xảy ra trong đời mà người ta chỉ có thể nhận biết sau khi đã đờ người ra một lúc lâu, kiểu như: “Chúa ơi, mình bị bắt thật!”, hay “Chúa ơi, mình vừa bị đâm một nhát!”, hay “Chúa ơi, mình lấy vợ thật rồi!”, hay “Chúa ơi, mình có con rồi!”, hay “Chúa ơi, mình bị chơi khăm đến ba lần!”, hay “Chúa ơi, tòa nhà kia đang sập thật kìa!”, và mỗi lần như vậy, người ta đều có cảm giác rằng chưa từng có chuyện gì nghiêm trọng đến thế xảy ra với mình. Hijo de pita (Chết tiệt! – tiếng Tây Ban Nha)! Tôi ngước lên và nheo mắt nhìn qua ô cửa hình thang nhỏ xíu. Bầu trời đã phớt màu tím xanh nhưng không hiểu sao tôi vẫn nhìn thấy rất nhiều sao, nhiều chưa từng thấy, độ sáng và độ phân tán của những ngôi sao đã giảm xuống cấp thứ tư (Mức độ sáng của các ngôi sao được những người Hy Lạp cổ đại chia thành 6 cấp, cấp sáng nhất là cấp 1). Chúng đã di chuyển vị trí, dĩ nhiên, nhưng Taro đã tính toán dung lượng tải xuống trên máy tính sao cho đầu điếu xì gà của Mèo Rừng 1, tương ứng với vị trí của ngôi sao Algenib thuộc chỏm Thiên Mã, vẫn nằm ở vị trí gần như lúc trước trong ô hình thang, ngay bên phải trung điểm. Có một ngôi sao lạ nằm bên trái nó và bên phải ngôi Homam (Tên gọi cổ xưa của ngôi Zeta Pegasi thuộc chỏm Thiên Mã), nó sáng đến mức có thể sánh ngang với ngôi Gamma Andromedi (Ngôi sao sáng thứ ba trong chòm Tiên Nữ). Ngôi sao đó ắt hẳn sẽ tắt khoảng một trăm năm gì đó sau thời điểm này, bằng
không nó đã được al-Khawarzimi (al-Khawarzimi: Nhà thiên văn học người Ba Tư(khoảng 780 – 850)đặt tên.
Không thể tin được, - tôi nghĩ, - họ làm được điều đó thật. Vẫn cùng vị trí đó, chỉ có thời gian là khác đi.
Tôi không hẳn vẫn ở nguyên vị trí trong vũ trụ, đương nhiên, mà điều đó cũng chẳng có gì quan trọng. Hệ mặt trời đã dịch chuyển rất nhiều trong 1347 năm. Nhưng tôi vẫn đứng ở nguyên vị trí cũ trên trái đất. Tôi vẫn đứng trong căn phòng nhỏ sát đỉnh kim tự tháp cao nhất của thành Ix mà trong tương lai chính là tỉnh Alta Verapaz thuộc miền trung Guatemala. Nhưng vào lúc này, căn điện thờ đang nhuốm một màu vàng cam bởi ánh sáng sáng từ những ngọn đuốc; những chuỗi chạm trổ hình bọ cạp trên tường nhẵn bóng, không hề tróc lở, với nhiều màu sắc pha trộn: đen, xanh lam và đỏ son. Và thành phố này đang sống. Tôi có thể nghe thấy tiếng của đám đông bên ngoài, hay nói đúng hơn, qua bức tường đá tôi có thể cảm nhận được những tiếng cầu nguyện rầm lầm của họ. Tôi cho rằng vị trí trong không gian của tôi không thay đổi, nhưng tôi đã…
Hừm. Tôi suýt định nói rằng tôi đã được đưa về quá khứ. Nhưng tôi không muốn bắt đầu câu chuyện theo cách đơn giản hóa đi như thế. Vấn đề nằm ở chỗ việc đi xuyên thời gian là không thể. Tôi muốn nói đến việc đi ngược về quá khứ. Nếu muốn đến tương lai một cách chóng vánh hơn, anh chỉ việc tự đóng băng mình (Người ta cho rằng có thể đưa một người đến tương lai bằng cách đóng băng, hay nói cách khác là làm đông lạnh anh ta. Rồi vào một thời điểm nào đó, rất lâu sau, khi khoa học tiến bộ hơn, người đó sẽ được rã đông, sống lại và như thế là anh ta đã đến tương lai). Nhưng đi về chiều ngược lại là không thể, chắc chắn không bao giờ làm được vì những lý do hiển nhiên ai cũng biết. Đầu tiên là thuyết nghịch lý “Ông nội” (Học thuyết do tiểu thuyết gia viễn tưởng Rene Barjuvel đề xuất năm 1943), nghĩa là anh có thể trở lại quá khứ, giết ông nội mình và ắt sẽ không bao giờ có mặt trên đời để thực hiện hành vi lúc đầu. Thứ hai là cho dù anh không làm gì lúc ở quá khứ đi chăng nữa, thì cũng xảy ra mâu thuẫn là trong cơ thể anh sẽ tồn tại những phân tử đã tồn tại trong chính anh ở quá khứ, hoặc những phân tử đó phải di chuyển trong không gian và tái hợp thành cơ thể anh. Như vậy, các phân tử đó sẽ phải ở hai nơi cùng một lúc. Mà điều đó thì không thể xảy ra. Lý do thứ ba là vấn đề cơ học đơn thuần. Cách duy nhất để về quá khứ mà ai cũng từng nghe là hành trình hố giun (Hố giun: Đây là một khái niệm trong vật lý,“hố giun” là một không-thời gian tạo nên đường đi tắt trong không gian và thời gian) nổi tiếng qua một lỗ hổng hoàn toàn trống rỗng. Nhưng đưa vật chất qua lỗ hổng này chẳng khác gì đút một cái bình Meissen(Bình Meissen: Một loại bình gốm ở châu Âu) qua máy cắt mì sợi. Mọi thứ đi qua nó và ra ở đầu kia đều bị nghiền vụn, nát tung và chẳng được tích sự gì nữa.
Thế nhưng… thế nhưng… thế nhưng… vẫn còn một cách khác. Sự nhìn xa trông rộng của những người ở phòng thí nghiệm Warren là ở chỗ họ biết nếu không đưa được vật chất về quá khứ thì điều đó không có nghĩa là mọi khả năng khác đều bị loại bỏ. Nếu anh không đưa được gì, thì anh có thể đưa “không gì cả”. “Không gì cả” ở đây bao gồm cả sóng điện từ. Họ đã phát triển một phương thức để đưa các chùm năng lượng qua một ống Krasnikov (Ống Krasnikov: Là một đường đi xuyên không – thời gian được giả định tạo thành bằng cách uốn cong không – thời gian, từ đó tạo ra các con đường siêu quang) nhân tạo. Họ tính toán rằng hành trình của các chùm năng lượng có thể truyền đi một số thông tin. Và quả đúng thế, nó đã truyền được rất nhiều thông tin. Trong tín hiệu họ chuyển về quá khứ có mã hóa toàn bộ ký ức đã được cô đọng lại, chính là tất cả những gì tạo thành một ảo giác mà người ta gọi là nhận thức về bản thân. Mà trong trường hợp này chính là tôi.
Vấn đề tiếp theo đương nhiên là phải có ai đó hay thứ gì đó nhận và lưu trữ ký ức ấy ở đầu bên kia. Nhưng ở thời đại chúng tôi cần quay về lại chưa có bất cứ thứ gì kiểu như chảo ra-đa, ổ đĩa, chíp silicôn, ăng ten thu phát tín hiệu hay radio tinh thể. Vào khoảng năm 664, chỉ có một thứ duy nhất có thể nhận và lưu giữ nhiều thông tin đến thế. Một bộ não.
Tôi bắt đầu cử động được con ngươi. Tôi bắt đầu nhận thấy tay phải đang nắm một sợi thừng gai của mình mới to lớn, rắn chắc làm sao và chỗ lòng bàn tay sát cổ tay chai sần ghê tởm đến mức nào. Những cái móng dài, sắc, nạm đá đỏ hình chữ T, những ngón tay xăm trổ nhiều vằn dài màu đỏ và đen nom như hình rắn san hô. Một vòng xuyến xếp vảy màu ngọc bích quấn từ cổ tay lên tới gần khuỷu. Cũng giống như một phần của bộ ngực trần mà tôi có thể nhìn thấy, đầu gối trái nổi chai sần của tôi trát đầy một thứ đất sét màu xanh lam sáng.
Điểm đầu tiên cho nhóm Thứ Sáu Kỳ Quặc – tôi nghĩ. Tôi đang thực sự sống trong cơ thể một người khác. Chính xác thì tôi đang ở trong bộ óc của một người có cái tên Chim Ruồi Có Nanh 9.
Chúng tôi – tức là những người tham gia dự án Warren – có biết đôi chút về ông ta. Ông ta là tù trưởng của thị tộc Mèo Rừng, là ahau, tức là vua, hay chúa tể, hay chiến binh đứng đầu của thành Ix và gần hai ngàn đô thị, thôn làng khác quanh Ix. Ông ta là con trai của vị ahau thứ mười hai, người được gọi là Rừng Cháy 22, và hoàng hậu Tiếng Gió Lốc. Hôm nay, ông ta tròn 48 tuổi 6 ngày. Ông ta đang ngồi đó, nhịn ăn đã bốn mươi hai giờ liền. Và ông ta đang chuẩn bị đứng lên, vào đúng phút rạng đông để nhận ngôi vị ahau lần thứ hai, sau hai mươi năm trị vì lần thứ nhất.
Cách đầu gối trái tôi khoảng năm inch (1 inch = 2.54 cm) về hướng bắc có một chảo than hồng. Một cách vô thức, tôi bóc tờ giấy hình chữ nhật thấm đầy máu khỏi chiếc chiếu sậy, giơ nó lên trên chảo than nóng. Ánh sáng của
đám than hồng hắt le lói qua tờ giấy một lúc lâu và tôi có thể nom thấy những hình vẽ trang trí ở mặt bên kia, thấy dòng chữ “hãy trông nom, che chở chúng con”, và cuối cùng là thấy hình vẽ nhìn nghiêng của một con đại bàng.
Chính xác hơn đó là con yêu quái đại bàng Harpy. Thrasyaetus harpyia (Con yêu quái được thể hiện bằng hình ảnh một phụ nữ mình người cánh chim). Trong tiếng Tây Ban Nha, nó được gọi là arpion, còn trong ngôn ngữ của người Maya, nó được gọi là hunk’uk, tức “kẻ đào vàng”. Những người Aztec (Aztec: Một bộ tộc da đỏ cư trú ở miền Trung Mexico) thì gọi nó là “sói có cánh”. Đó là biểu tượng của một thị tộc, thị tộc của tôi, tức thị tộc của người mà tôi đang nắm quyền điều khiển bộ óc. Tờ giấy đó chính là một bức thư, là lời thỉnh cầu mà thị tộc tôi muốn gửi tới Mèo Rừng 1 đang ngự trên đỉnh bầu trời. Một cách vô thức, tôi gập tờ giấy dính nham nháp đó thành một khối hình tam giác – đó là một chuỗi thao tác phức tạp, giống như thao tác xếp hình một con sếu origami (Nghệ thuật xếp giấy của người Nhật Bản), mà tôi, hay đúng hơn là người chủ cũ của thân xác tôi, hẳn đã thực hành hàng trăm lượt – và đặt nó vào chảo than. Tờ giấy chắc đã được ngâm tẩm một thứ muối đồng nào đó vì nó kêu xèo xèo và bốc lên ngọn lửa màu xanh lá cây.
Lưỡi tôi giật giật. Tôi rụt nó lại… không, chờ đã. Tôi rụt lại… Hừ. Chẳng có gì xảy ra sất.
Tôi ra sức nuốt vào để cố ngậm miệng lại. Mặt tôi cứ như thể bị đóng băng vậy. Không có một chuyển động nào.
M’AX ECHE? – Tôi nghĩ trong đầu bằng tiếng Ch’olan Mayan, - Ngươi là ai? (Ch’olan Mayan: Phiên bản tiếng Maya hiện đại được những người Ix và một số dân tộc Maya khác sử dụng ở thế kỉ 21)
Không, khoan đã.
Đó không phải ý nghĩ của tôi. Đó là tiếng của một ai đó khác. Có vẻ như tôi đã nghe thấy một giọng nói, nhưng tôi biết thực ra tôi không nghe thấy gì cả ngoài tiếng lao xao của đám đông trên quảng trường bên dưới và âm thanh trầm trầm, đùng đục của những chiếc trống hở làm từ thân cây tuyết tùng đang vang lên dai dẳng theo nhịp 5/4 kỳ dị. Có lẽ sẽ đúng hơn nếu diễn tả là tôi có cảm giác như đã đọc câu nói đó từ một hàng tít chạy ngang trước mắt. Và mặc dù nó không gây tiếng động, nhưng nó vẫn vang lên, hay chính xác hơn là gây ấn tượng như thể được viết bằng chữ hoa. Cứ như thể chính tôi đã nghĩ nó mà không nghĩ…
-M’ax eche?
Ôi, quỷ sứ ơi.
Không chỉ có mình tôi trong cái xác này.
Tôi chỉ có một mình trong căn phòng, nhưng trong bộ óc thì không. Ôi, cái đồ chết toi!
Đáng ra bước đầu tiên trong kế hoạch Thứ Sáu Kỳ Quặc là phải tẩy sạch trí nhớ của đối tượng và để lại cho ý thức của tôi một tờ giấy trắng tinh mà hoạt động chứ. Nhưng rõ ràng là bước đầu của kế hoạch đã không đạt, hay chí ít là chưa đạt như mong muốn. Ông ta vẫn biết mình là mình.
- M’ax eche?
- Tôi là Jed Delanda. – Tôi đáp trong ý nghĩ.
- B’A’AX UKA’AJ CHOK B’OLECH TEN? Đại khái là: “SAO NGƯƠI KHỐNG CHẾ TA?”
- Tôi không khống chế ông, - tôi nghĩ trong đầu, - chỉ là, tôi đang ở trong… ý tôi là… ý thức của tôi đang ở trong ông, bởi vì họ đã gửi tôi đến ông…
- T’ECHE HUN BALAMAC? (NGƯỜI LÀ MÈO RỪNG 1 Ư?) - Không. – Tôi đáp, quá vội vã. – ý tôi là…
Mẹ kiếp. Ngu thật.
Nào, Jed – tôi nghĩ, - như Winston đã nói, nếu ai đó hỏi mày có phải là Chúa trời không, hãy trả lời: “đúng thế”. Mày hiểu chứ? Hiểu rồi. Bắt đầu thôi.
- Đúng thế? – Tôi trả lời ông ta trong đầu, một cách có chủ ý hơn. – Ta là Mèo Rừng Ocetarian. Ta là Mèo Rừng vĩ đại đầy quyền lực… - MA-I’IJ TEC. (KHÔNG, KHÔNG PHẢI VẬY)
- Không, không phải, - tôi nghĩ, - tôi… ôi, demonio. – Lừa tay này quả không dễ. Cũng chẳng có gì lạ. Ông ta nghe thấy mọi ý nghĩ của tôi. Và mặc dù ông ta chỉ biết tiếng Ch’olan còn tôi thì nói lẫn lộn cả tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ch’olan nhưng chúng tôi vẫn hoàn toàn hiểu nhau. Thực sự việc này giống như đang tranh cãi với chính mình hơn là đang nói chuyện với người khác, kiểu như: “Jed, mày nên làm thế này” và “không, Jed, mày nên làm thế kia”, chỉ có điều khác là trong cuộc đối thoại thầm này, một bên thì tự chủ và điềm tĩnh hơn, còn bên kia, tức là tôi, thì đang gặp rắc rối trong việc tập hợp ý nghĩ của mình.
- VÌ SAO NGƯƠI ÁM VÀO TA?
- Vì sao à? – Tôi đáp, hay nghĩ trong đầu thì đúng hơn. – Tôi đến để tìm hiểu về cờ Hiến tế. Đó là sự thật.
- Vì sao?
- À, bởi vì… bởi vì tôi đến từ những ngày cuối cùng của thế giới, từ baktun thứ mười ba. Thế giới của tôi đang gặp tai họa rất, rất lớn nên chúng tôi cần tìm hiểu trò chơi để xem có thể cứu vãn nó hay không. - HÃY CÚT ĐI, - Ông ta nghĩ.
- Tôi không thể.
- CÚT ĐI.
- Xin lỗi, tôi thực sự, thực sự không thể. Ông là người…
- IM 0T’ XEN. (CÚT RA KHỎI BỘ DA CỦA TA)
- Tôi không làm được. – Tôi trả lời trong ý nghĩ. – Nhưng ông hãy nghe này, thế này có được không, tôi có thể…
- THẾ THÌ GIẤU MÌNH ĐI. – Ông ta nói. – NÍN ĐI, YÊN ĐI, ĐỪNG NÓI GÌ HẾT.
Tôi ngậm miệng lại. Tôi có cảm giác không lành.
Bàn tay tôi đưa lên cái miệng đang há ngoác và nắm lấy một sợi thừng gai, chính xác là một sợi dây đầy gai nhọn, được xâu qua một lỗ hổng ngay chính giữa lưỡi tôi. Tôi giật mạnh. Năm nút gai kéo đánh soạt một phát qua cái lỗ làm máu tóe ra trước khi sợ dây tuột xuống.
Hừ, đau đấy, - tôi lơ mơ tự nhủ.
Thực ra đau như thế đủ làm cái thân xác cũ của tôi kêu gào cả tiếng đồng hồ, nhưng bây giờ tôi thậm chí còn chẳng quằn quại. Kỳ quặc hơn, tôi cũng không có cảm giác sợ hãi, cái cảm giác sợ bị chảy máu cố hữu của một người mắc chứng máu khó đông mà tôi không bao giờ tránh được khi còn là Jed. Tôi cuộn sợi dây lại thành cuộn tròn một cách máy móc như người phi công sau khi nhảy dù cuộn tấm dù lại vậy. Nó thâm đen và xoắn lại. Máu cháy khiến căn phòng sực mùi khói đồng.
Tôi nuốt một cục đờm máu lớn. Ngon. Tiếng cầu nguyện lầm rầm bên ngoài to hơn lúc trước và tôi chợt nhận ra tôi đã nghe được rõ các từ, và mặc dù tiếng Ch’olan thời này có khác so với tiếng được cải biên ở thế kỉ 21 của chúng ta, nhưng tôi vẫn hiểu:
“Uuk ahau K’alomte yaxoc…
Hỡi chúa trời, tổ tiên,
Hỡi ông bà
Hỡi Mặt trời cao quý, hỡi Mèo Rừng cao quý
Người chiến thắng 25 kẻ thù ở Hồ Ba Núi
Người chiến thắng 1000 tên giết người ở Vũng Trời Mấp Mô…” Chúng tôi duỗi thẳng chân ra. Tay chúng tôi vuốt phẳng lại chiếc khăn đội đầu – sờ vào nó có cảm giác như sờ vào một cái gối phồng cứng, được trang trí bằng những túm lông mèo – nhưng không lau máu trên mặt đi. “Người chiến thắng 17 cơn bão cát ở Núi Cháy,
Người bảo vệ, người coi sóc chúng con
Chim Ruồi Có Nanh 9 cao quý
Khi nào người sẽ hiện ra
Từ hang đá trên cao
Để nhìn chúng con, để nghe chúng con cầu khẩn?”
Chúng tôi trườn đến ô cửa nhỏ, cúi đầu và nhoài người ra ngoài khoảng không. Một sự im lặng đột ngột bao trùm lấy đám đông trên quảng trường và
rồi những tiếng thở dồn dập lại cùng một lúc bật ra từ nhiều buồng phổi đến mức tôi cảm thấy áp suất trong không khí dường như đột ngột nhẹ đi. Chúng tôi đứng lên. Chiếc vòng xếp vảy màu ngọc bích và những chuỗi hạt hình vỏ hàu chơm chởm va vào nhau kêu lanh canh khắp người chúng tôi. Dường như chút máu còn lại trong người đã cạn ráo khỏi đầu, và tôi đoán rằng vào những lúc bình thường thì ngay cả cơ thể này chắc cũng đã chết ngất, nhưng giờ đây, một loại hoóc-môn hưng phấn nào đó đã giúp ông ta tỉnh táo, và chúng tôi thậm chí không hề loạng choạng trên đôi dép cao gần như chiếc cà kheo với cái đế dày ít nhất tám inch. Tôi cảm thấy thân hình tôi nhỏ bé hơn Jed. Nhẹ nhõm hơn, khỏe khoắn hơn. Tôi hoàn toàn không có cảm giác của cái tuổi 48. Tôi cảm giác mới chỉ 16. Lạ thật. Tôi nhìn lên. Ix trải rộng bên dưới chúng tôi và bao trùm toàn bộ thế giới.
Cặp mắt chúng tôi chỉ bị hút vào nó chừng hai giây rưỡi trước khi ngước lên nhìn ngôi sao Algenib. Nhưng chừng ấy thời gian cũng đủ để tôi nhận ra một điều rằng không ai trong số chúng ta ở năm 2012 – và trong vòng cả năm thế kỷ trở về trước – có được chút khái niệm chính xác về bộ mặt của nơi này trong quá khứ.
Còn hơn cả nhầm lẫn, - tôi nghĩ, - chúng ta thật ngu ngốc. Chuyện này cũng giống như chúng ta đi qua một sa mạc và tìm thấy năm khúc xương trắng từ năm 206 hoặc những thứ xương xẩu gì đó tương tự giúp chúng ta hình dung được bản phác họa ban đầu. Nhưng thay vì chỉ tìm hiểu tuổi tác, giới tính, gen di truyền của kẻ đã chết, hay bất cứ điều gì khác mà người ta có thể suy diễn một cách hợp lý từ mấy cái xương sống và xương sườn rồi dừng lại ở đó thì chúng ta lại vẽ vời ra cả một kịch bản về cuộc đời cô ta, nào trang phục, nào sở thích, nào tên tuổi những đứa con và những thứ đại loại như thế, và rồi chúng ta tiếp tục viết ra cả một cuốn tiểu sử chi tiết với những biểu đồ hình khối tròn xám xỉn và những hình minh họa nhợt nhạt bôi bằng bột màu lem nhem. Còn giờ đây tôi đang đứng trước con người sống thực sự, không những vẻ bề ngoài của cô ta rất ít giống những gì chúng ta đã dựng lại mà tính cách, câu chuyện cuộc đời cũng như vị trí xã hội của cô gái đó cũng khác xa những phán đoán tẻ nhạt của chúng ta.
Những vụn tàn tích tồn tại được đến thế kỷ 21 cho ta biết không đầy năm phần trăm câu chuyện thực, chỉ phần nền móng bằng đá của thành phố thôi không thể khiến người ta hình dung được cả một đô thành, xứ sở của những đồ thủ công đan từ liễu gai, được dệt, tết, bện từ sậy, xơ cây thùa và tre trúc, hoàn toàn khác xa những gì trước đây tôi có thể tưởng tượng từ những di tích còn lại kia. Chúng tôi đang quay mặt về hướng chính đông, nơi có con sông chảy ngang qua, phía bên kia là Cerro San Enero, đỉnh cao nhất của dãy núi bao quanh thung lũng Ix. Núi lửa này đã tắt từ thế Pleistocene (Thế Pleistocene: Là thế thứ ba trong kỷ Neogen hay thế thứ sáu của đại Tân Sinh, kéo dài từ khoàng 1.806.000 tới 11.550 năm trước ngày nay. Sự kết
thúc của thế thế Pleistocene tương ứng với sự kết thúc của thời kỳ đồ đá cũ), nhưng vào thời điểm này nó lại đang phun trào, phả lên màn trời màu tím hoa cà trước lúc bình minh một cuộn tàn tro đen sì… không, từ từ đã, - tôi nghĩ. Không phải, đó không phải núi lửa phun trào thực sự. Chắc họ đã nhóm một đống lửa lễ hội bằng gỗ cây cao su trong miệng núi lửa đã tắt. Nhưng cả những ngọn đồi cũng không giống như trước. Lúc trước là rừng rậm bao phủ còn giờ đây tất cả đều trống trơn, được gọt đẽo thành các bậc thang và quảng trường dốc xuống theo triền đồi như hình dáng của những khu hồ có thác nước đổ vào, trên mỗi đỉnh đồi đều có đặt một vòng tròn gồm những cây sậy cắm xuống đất tỏa đều như chiếc vương miện tượng trưng cho tự do. Phía trước những ngọn đồi và kim tự tháp là các vệt, hay đốm li ti, hoặc thứ gì đó tương tự đang đu đưa, trong nửa giây đầu tiên, tôi những tưởng đó là ảo giác của cặp mắt mới, hay những tia chớp lóe của cơn đau nửa đầu, hoặc những vằn óng ánh ngụp lặn trong chất dịch trong mắt tôi, nhưng ngay một tích tắc sau, tôi nhận ra chúng là những con diều kết bằng lông vũ to bằng người thật, hình tròn hoặc ngũ giác với màu sắc chủ đạo là trắng, đen và đỏ tươi, bay lơ lửng trong làn không khí nóng bỏng phả ra từ hơi thở của đám đông khiến thành phố nom như một cái hồ trong không trung.
Họ bắt đầu bài cầu nguyện khác theo một nhịp điệu mới:
“Hun k’in, ka k’inob, ox k’inob…
Một mặt trời, rồi hai mặt trời, rồi ba mặt trời…”
De todos modos (Thôi được – Tiếng Tây Ban Nha), - tôi nghĩ. Tập trung vào. Định thần lại.
Phải tìm một mốc nào đó. Con sông đâu rồi nhỉ? Tôi có ấn tượng là nó đã lan rộng ra thành một cái hồ nhưng lại không nhìn thấy tí nước nào. Thay vào đó là một khoảng trống xếp đầy bè mảng đan bằng cói và những chiếc xuồng khổng lồ, xen giữa chúng là những dải màu vàng sáng nom như hằng hà sa số bông cúc vạn thọ đang nổi bập bềnh. Tôi có ấn tượng là ở bờ bên kia có lớp lớp những khu trại liền kề nhau, những ngôi nhà dài có hình dáng tựa như lưng của loài khủng long lưng gai, những ngọn tháp có trụ đỡ với phần nhô ra bất chấp định luật về lực hấp dẫn, chông chênh đến mức phải nhẹ như lông vũ thì mới đứng nổi, chắc chúng được xây bằng lưới và trát bằng bột ngô… nhưng như tôi đã nói, đó chỉ là ấn tượng của tôi mà thôi, bởi mọi chiều ngang và dọc của không gian, từ các đỉnh đồi xuống đến quảng trường ngay dưới chân tôi đều tràn một không khí sôi sục những người là người. Những dãy dài ajche’ejob, hay những Người Cười, tức người dân thành Ix, đang đứng chen chúc thành từng đám đông trên quảng trường, tay bám lấy những cây sào và dàn giáo một cách đầy phấn khích, giống như những đám pô-líp bò thành từng mảng gợn lăn tăn trên dải đá ngầm một ngàn năm tuổi phơi bộ xương san hô trên mặt biển. Nơi duy nhất không có
người là các bề mặt dốc đứng của bốn mul cao sừng sững, tức là bốn kim tự tháp phụ vươn cao giữa đám đông hỗn độn như những khối thủy tinh các bon bị cắt lát chéo. Và ngay cả những kim tự tháp này cũng không hề để lộ ra bất cứ một mạch đá nào, tất cả đều được trát kín, nhuộm màu, phủ dầu bóng, kết cánh hoa trang trí, tô vẽ những đường viền màu vàng, đen và ngọc lam – những mảng bột màu có độc ghê gớm thực sự. Mỗi mul đều có một tháp mái lớn và khói tỏa ra từ những lỗ thông hơi nằm ở vị trí khuất. Có bao nhiêu nghìn người ở dưới kia? Năm mươi? Bảy mươi? Tôi chỉ nhìn thấy một phần rất nhỏ. Cứ cho là có hai nghìn người trên một quảng trường rộng chừng hai mẫu rưỡi, và có khoảng ba mươi quảng trường cùng kích thước đó ở… thôi, đừng bận tâm chuyện đó. Quay lại nhiệm vụ của mình đi. De todos modos. Chim Ruồi Có Nanh 9 đâu nhỉ? Phải cố bắt chuyện lại với ông ta mới được.
“Wak k’inob, wuk k’inob…
Sáu mặt trời, rồi bảy mặt trời…”
Chà.
Có chuyện gì đó không ổn.
Ngoài việc người này vẫn ở trong bộ óc của ông ta, vẫn còn chuyện gì đó không ổn. Không ổn, và rất đáng sợ. Đó là gì thế nhỉ?
Tôi cố lắng nghe ý nghĩ của ông ta, cũng như ông ta đang cố nghe tôi. Và quả thực tôi nghe thấy điều gì đó, tôi tóm được một vài hình ảnh lóe lên: những khuôn mặt nông dân nhăn nheo, móm mém, những đứa trẻ trần trụi, cổ to phềnh, nhoai người ra khỏi căn lều dựng bằng cành cây, những vết chân vấy máu trên mặt đường nắng vàng mắt, những trải bóng to và nặng rơi vèo trong không trung, lao đến rồi vụt đi… đó không thể là ký ức của một vị tù trưởng. Bằng cách nào đó, ý thức về bản thân của ông ta ngấm vào tôi, và tôi nhận ra là mình biết tên ông ta:
Chacal.
Không phải Chim Ruồi Có Nanh 9. Là Chacal.
Và anh ta không phải tù trưởng. Không… tôi là… anh ta là… một người chơi bóng hông (Một trong những trò chơi bóng nằm trong nghi thức tế lễ của người bản địa Châu Mỹ).
Phải rồi. Hỏng rồi. Có sai lầm gì đó thực sự nghiêm trọng. Người này được mặc trang phục của ahau, và anh ta ở đây, trong căn phòng đặc biệt dành riêng cho ahau, nhưng anh ta không phải… “Bolon k’niob, lahun k’niob,” – đám đông cầu nguyện;
“Chín mặt trời, rồi mười mặt trời…
Mười một mặt trời, mười hai mặt trời…”
Đó là một cách đếm ngược. Mặc dù đang họ đếm xuôi đến mười chín. Chuyện quái quỷ gì đang diễn ra thế nhỉ? Người này không phải ahau, nhưng anh ta đang chuẩn bị… anh ta đang đóng…
Sự thật trút xuống người tôi như một cơn mưa chì. Anh ta đang thế chân Chim Ruổi Có Nanh 9.
Và đây không phải là lễ đăng quang lần thứ hai, - tôi nghĩ, - đây là một lễ tế. Anh ta là vật hiến sinh. Một vật hiến sinh vui vẻ tự nguyện. Họ đang đếm ngược đến giây phút anh ta nhảy xuống. Sau khi đếm đến “mười chín”, số đếm sẽ trở về “không”. Và đó là lúc tôi lao đầu xuống.
Ôi, trời ơi.
Thật ngu xuẩn. Đáng ra phải lường trước điều này chứ. Tình huống này hoàn toàn có thể xảy ra.
Thực tế, khi nghĩ đến đó, tôi mới nhớ ra là đã từng đọc được ở đâu đó về sự việc này. Đó là một bài viết trong “Tạp chí phân tích tâm lý văn hóa xã hội” có tựa đề “Lễ hiến sinh vô thức ở châu Mỹ thời tiền Columbia (Là thời kỳ trước khi người châu Âu đặt chân tới châu Mỹ)” Giả thuyết cho rằng vào thời kỳ xa xưa – tức là những ngày rất, rất xưa, trước cả thời kỳ này – các vị ahau chỉ có thể ở ngôi trong vòng một k’atun. K’atun là một chu kỳ kéo dài khoảng hai mươi năm. Sau thời gian đó, trước khi vị ahau trở nên già nua, mỏi mệt và khiến cả nền cai trị yếu đuối theo, ông ta phải chuyển giao thành phố cho một người thừa kế trẻ tuổi hơn rồi tự vẫn. Nhưng đến một ngày, một vị ahau khôn ngoan nào đó đã nghĩ ra cách để vứt bỏ gánh nặng này cho bản thân mà vẫn không đi ngược lại với luật tục. Thế là ông ta tổ chức một lễ hội lớn để trao lại tước hiệu và y phục của mình cho một người khác – người đó không cần có dung mạo giống ông ta, có khi chỉ là một tù nhân, hoặc một người tự nguyện, hoặc bất cứ ai – người đó sẽ đóng giả ông ta và trở thành ahau trong vòng năm ngày. Hết năm ngày đó, anh ta sẽ tự hiến mình. Cách này giống như đốt hình nộm vậy. Nhưng là hình nộm sống. Và khi sự việc kết thúc, vị ahau thật sẽ tổ chức một nghi lễ khác để tự đặt cho mình một cái tên mới và tiếp tục trị vì thêm một k’atun nữa.
Hừ, tốt thôi. Chí ít tôi cũng biết chuyện gì đang diễn ra. Chuyện đang diễn ra là tôi đang ở trên cái chỗ chết tiệt này, trong cơ thể một người xa lạ, hoàn toàn đơn độc – thực thế, tất cả những người tôi quen biết đều chưa ra đời – và bây giờ té ra tôi sẽ phải tự sát. Tiếp theo là gì nữa đây?
Nào, nào. Đừng làm gì xốc nổi. Mày vẫn có thể ngăn chuyện này lại. Vậy là mày đã chui vào nhầm người. Ve al grano (Hãy nhìn thẳng vào vấn đề - Tiếng Tây Ban Nha). Đây chỉ là một thất bại nhỏ thôi. Phải không? Rất may là chúng ta còn có kế hoạch phòng ngừa cho những trường hợp lộn xộn như thế này.
Ngoài nhóm Chocula và Thứ Sáu Kỳ Quặc… đến đây tôi nhận ra mấy cái tên này tuôn ra quá nhiều thuật ngữ cùng một lúc… Warren còn lập thêm một nhóm nghiên cứu ngôn ngữ gọi là nhóm Connecticut Yankee (Lấy theo tên cuốn tiểu thuyết “A Connecticut Yankee in King Arthur’s Court” của Mark Twain viết về đề tài du hành xuyên thời gian). Nhiệm vụ của nhóm
này là viết ra một danh sách những gì tôi cần nói hoặc làm khi gặp phải rắc rối kiểu này. Họ huấn luyện tôi kỹ đến mức tôi thuộc làu từng bài như thuộc lời bài hát chúc mừng sinh nhật vậy. Thích hợp nhất cho tình huống bất ngờ này là chiến lược có tên Bài diễn thuyết Núi lửa. Rồi. Tôi nhẩm lại trong đầu vài lần, dùng một thứ tiếng Ch’olan xa lạ đến kinh ngạc. Bueno (Tốt rồi – Tiếng Tây Ban Nha). Nhớ rồi. Không có trục trặc gì.
Sẵn sàng chưa? Chỉ cần gào những câu ấy lên thôi. “Ta là người che khuất mặt trời”, và cứ thế tiếp tục. Họ sẽ nghe thấy lời tiên đoán, họ sẽ chờ xem nó có xảy ra thật hay không, và khi nó xảy ra tôi sẽ trở nên quá đáng giá, không thể giết bỏ được. Có khi họ còn thu xếp cho tôi một cung điện riêng ấy chứ. Một cung điện khiêm nhường với năm mươi phòng, ba hoặc bốn trăm cô hầu gái xinh đẹp trẻ măng và một, thậm chí hai kim tự tháp. Chả khéo họ lại tôn tôi làm ahau. Giống như chuyện Jim – Chúa tể rừng xanh gặp tai nạn máy bay, rơi xuống khu rừng già ấy. Hắn ta chỉ bật cái bật lửa để châm điếu xì gà và thế là đám mọi rợ ăn thịt người lập tức vớt hắn ra khỏi nồi hầm và gọi hắn là Bwana (Bawana: Cách tôn xưng kính cẩn ở một số vùng châu Phi) Trắng. Dễ không ấy mà. Được chứ? Được rồi.
Estas bien (Tốt – Tiếng Tây Ban Nha). Hít thật sâu vào. Bắt đầu thôi. Bắt đầu.
Chẳng có gì hết.
Nào. Lại nào.
Chẳng có gì.
Lại đi. Nào. Gào lên. Làm đi nào!
Nó cứ trơ ra.
Ôi, quỷ thần ơi.
Nào, Jed, mày biết phải nói gì mà. Phun ra đi. Ta là người che khuất mặt trời sắp lên. Nào. Mở miệng ra. Mở miệng ra. Tất cả việc cần làm chỉ là mở miệng…
- Miệng này là của ta.
ối giời ơi, ma quỷ ơi. Ni mierditas (Đồ chết tiệt – Tiếng Tây Ban Nha)! Nào, cố lên, anh bạn, cố lên… nnnnnNNNNNNh!!!
Tôi căng hết cả người để cậy hàm mở ra nhưng kết quả duy nhất nhận được là cơn đau điếng như cắn phải cục gạch
Ôi, lạy chúa Jesu. Chuyện này không thể xảy ra được. Chacal không thể nào còn điều khiển cơ thể này được. Nó là của mình cơ mà. Nào, cử động đi. Làm gì cũng được. Vặn vẹo người đi. Kêu trời đi. Giơ tay lên vậy. Chẳng có gì sất.
Đưa tay lên.
Không được.
Đưa tay lên. Đưa tay lên. Giơ ngón tay lên…
Chết tiệt.
Môi chúng tôi cứ mím chặt lại. Ngu xuẩn, ngu xuẩn, ngu xuẩn. Chúng tôi trang trọng bước năm bước ra rìa cầu thang. Tông gồng mình ghìm chân anh ta. Chẳng có kết quả gì. Tôi có cảm giác như đang mắc kẹt trong mình một con rô bốt, giống như con trong phim “Người ngoài hành tinh” ấy, nó cứ thế bước đi như đã được lập trình còn tôi thì không thể tìm thấy bàn điều khiển. Chúng tôi dừng lại. Mười ngón chân chớm chìa ra ngoài khoảng không.
Tôi biết chúng tôi đang ở cách quảng trường Mèo Rừng bên dưới đúng 116 feet rưỡi (Số nhiều của foot, đơn vị đo của Anh. 116,5 feet bằng xấp xỉ 35,51m) theo chiều thẳng đứng, và nếu tính theo đường chéo thì là hai trăm sáu mươi bậc thang, dài 389 feet. Nhưng giờ đây tôi có cảm giác nó cao gấp đôi, và không chỉ vì cơ thể tôi nhỏ đi so với lúc trước. Chúng tôi nhìn xuống các dãy cầu thang xoáy sâu hun hút. Cảm giác chóng mặt ập đến. Những bậc cầu thang màu ngọc lam ánh lên những vết bọt màu hồng mà tôi đoán là rượu thùa (Rượu thùa: Một loại nước uống lên men của người Maya, ủ bằng nước chiết từ cây thùa) và máu của những kẻ hiến sinh trước hòa vào nhau. Các bậc thang được lát những phiến đá hình tam giác khiến chúng nom lởm chởm như lưỡi cưa kim loại. Kiến trúc gì mà như vũ khí vậy.
Ý tưởng của việc này là tôi sẽ nhảy xuống từ bậc thang này một cách đầy duyên dáng, và khi chạm đến đất, tôi sẽ tan xác thành từng mảnh. Họ sẽ xúm lại chộp lấy tôi và biết đâu sẽ trộn xác tôi thành món thịt tamale để đem chia khắp các nhà trong vùng kim tự tháp tam giác này.
Ôi giời ơi. Thế thì thật xui xẻo. Có lẽ tôi đã hy vọng quá nhiều. Tôi nghĩ đơn giản là sẽ quay về đây một cách ổn thỏa, chui vào bộ óc trắng tinh của vị ahau cai trị cả vùng này, và rằng một khi đã chui vào được rồi, tôi sẽ làm được tất tật những gì tôi muốn, tôi sẽ có cơ hội ngon lành để tìm hiểu mọi thứ liên quan đến trò chơi, tôi sẽ xây lăng mộ của mình theo đúng cách tôi thích, sẽ sống xa xỉ hơn một tẹo. Không vấn đề gì. Nếu mọi chuyện…
Dừng lại nào, - tôi nghĩ, - quay lại thực tế đi.
Thực tế ở đây đơn giản là tôi không điều khiển được các tế bào thần kinh chỉ huy vận động của Chacal. Tôi chỉ đang ở nhờ trong cơ thể anh ta, đang quanh quẩn đâu đó trong vỏ não anh ta. Anh ta đang rất cung kính, quyết tâm một cách ngu đần đi tự sát sao cho oanh liệt và ngoạn mục chỉ trong vài giây nữa thôi.
“Mười bốn mặt trời, mười lăm mặt trời…”
Những tiếng cầu nguyện cất cao hơn. Họ đang reo hò chúc mừng tôi, xúi giục tôi; trước sự trông đợi của họ, cảm giác thúc giục muốn nhảy xuống trào lên trong tôi. Họ đang tràn đầy háo hức và hy vọng, họ chỉ cần một điều rất nhỏ nơi tôi mà thôi. Tôi cảm tưởng như bất cứ ai trong hoàn cảnh này cũng sẽ nhảy xuống chỉ vì phấn khích. Có lẽ đây là một việc nên làm…
Không. Dừng ngay cái ý nghĩ ấy lại. Nào, Jed. Hãy đẩy cái thằng ngu kia
ra khỏi tay lái, nắm lấy vô lăng và quay cái xe chết tiệt này lại. Đám thổ dân kia sẽ mắc bẫy thôi. Dễ thôi mà…
- MA, - Chacal rít lên với tôi, - không!
Có thứ gì đó đang siết chặt lấy ý nghĩ của tôi, hàm tôi co cứng lại, và trong một khoảng thời gian tưởng như dài đằng đẵng, tôi chỉ cảm thấy nỗi sợ tê cứng và ngạt thở. Có lúc tôi tưởng mình đã kêu được lên, nhưng rồi tôi nhận thấy miệng tôi không mở, ngực không phập phồng, và chẳng có gì xảy ra hết. Tôi vẫn đứng đó, rất đáng yêu, nhưng ruột gan thì rối bời, hồn xiêu phách lạc, liên tục kêu thầm trong bụng: “ôi, giời ơi, giời ơi”; và rồi tôi nghĩ tôi nghe được, hoặc cảm nhận được tiếng cười rất tỉnh táo của Chacal, anh ta gần như hoan hỉ, gần như vui sướng tột độ.
Hừ, thế đấy. Giờ phút cuối cùng trước khi đi vào lãng quên của Jed thân mến xem ra mỗi lúc một hay ho như thế này đây.
Estoy jodido (Đồ con hoang - Tiếng Tây Ban Nha). Mẹ kiếp. Nó là như vậy ư? Cái chết. Nó là như thế này sao? …
Khoan đã nào. Bỏ cái tật ấy đi. Tập trung vào. Suy nghĩ đi! En todos modos (Thôi đành vậy – Tiếng Tây Ban Nha). Thật đen đủi. Lại nào. Nghĩ cách khác vậy.
Việc cần làm bây giờ là… ờ… việc phải làm bây giờ là kéo cái anh bạn Chacal quý hóa này về phe mình.
Phải rồi. Đúng thế.
-Chacal? – Tôi gọi anh ta trong đầu, - Ta thư thư lại một tý nhé. Prenez un chill pill (cậu không cần phải làm việc này).
Im lặng , ý tôi là sự im lặng trong ý nghĩ.
- Chac man? Compadre? (Thế nào, anh bạn?)
Để tôi nói cậu nghe điều này nhé. Được không? Những thứ quanh đây không phải là tất cả thế giới. Thế giới còn nhiều điều lắm. Hãy nhìn qua ký ức của tôi mà xem. Cậu có thể thấy nó, đúng không? Hãy nhìn mà xem: châu Âu, châu Á, máy tính, kẹo dẻo… cậu thấy mọi sự vật liên quan đến nhau thế nào không? Hãy nhìn vào ký ức tôi. Cá là cậu không biết trái đất hình cầu. Thú vị đấy chứ, hả? Và còn nhiều điều khác nữa. Chúng có khiến cậu nghĩ lại đôi chút không?
- NGƯƠI LÀ GIÒI BỌ CỦA KẺ REO RẮC GHẺ, ĐÂY LÀ TRÒ LỪA ĐẢO CỦA NGƯƠI, - Chacal đáp.
- Hở? – Tôi đáp. Tôi không thực sự hiểu hết câu đó. Nhưng ít nhất chúng tôi cũng nói chuyện được với nhau. Thế là tốt rồi. Chacal? Nghe này. Cậu biết tôi không nói dối. Bây giờ chúng ta là một. Chúng ta đang cùng ở trong này. Về phần tôi, tôi thấy thế cũng ổn. Cậu nghĩ sao?
- Tôi nghĩ ta sẽ phối hợp với nhau rất tốt. Phải không Chacal? - NGƯƠI LÀ ĐỒ BẨN THỈU VÀ NGƯƠI SỢ HÃI. TA SẼ KHÔNG ĐỂ NGƯƠI LÀM Ô UẾ NƠI THANH SẠCH NHẤT NÀY.
- Tốt thôi, - tôi đáp, - sao cũng được. Nào, nghe tôi, anh bạn. Tỉnh lại đi. Cậu đang bị lợi dụng đấy.
- QUÁ MUỘN VỚI NGƯƠI RỒI. TA ĐÃ CÓ QUYẾT ĐỊNH ĐẦY TRÁCH NHIỆM.
- Ồ, được thôi, Rất tốt, tôi tôn trọng điều đó, ít ra thì cậu cũng biết là không có Mèo Rừng 1 nào trên đời, phải không? Không có trên đỉnh bầu trời hay bất cứ nơi nào khác. Đó chỉ là cách người ta tuyên truyền thôi. Cậu biết tuyên truyền là gì chứ? Dù sao đi nữa, dù đây có là quyết định đúng đắn tại thời điểm này, là việc nên làm ngay lúc này, dù là để giúp đỡ gia đình, giả dụ vậy, thì chí ít cậu cũng nên nghe xem tôi có đề nghị gì, rồi sau đó…
- ĐỒ GIÒI BỌ NHÀ NGƯƠI IM ĐI.
“Mười bảy mặt trời, mười tám mặt trời…”
- Được rồi, cậu nghe này, Chaco, hãy thử một lần thôi, sao cậu không để tôi nói điều tôi muốn nói, rồi ta sẽ xem chuyện gì xảy ra. Tôi hứa với cậu rằng mọi chuyện sẽ tốt đẹp với cả hai chúng ta…
- KHÔNG MỘT LỜI NÀO TỪ MIỆNG NGƯƠI.
- Chỉ một giây thôi. Tôi thực sự có điều cần nói. Thêm vài ngày nữa và cậu sẽ được tôn làm thủ lĩnh. Đập tan kẻ thù và đem phần thưởng đến cho những người bạn. Hãy tận hưởng điều đó. Tôi có phép thuật. Những điều tôi sẽ nói thực sự có uy lực…
- KHÔNG!
Đó là câu trả lời cuối cùng của anh ta.
Áp lực lại càng đè nặng lên tôi, bóp nghẹt hơn. Không thở được. Thậm chí không thể suy nghĩ được.
Nnnn…
Nào. Hãy cưỡng lại. Phải buộc hắn nói ra câu đó, bằng bất cứ giá nào. Hãy nghĩ ra cách gì đó đi.
Nnnnn…
Được rồi. Cố lên, Jed. Mày vẫn có thể điều khiển được cử động của hắn. Hắn chắc gì đã là kẻ áp đảo. Chỉ là hắn nghĩ vậy thôi. Đây có lẽ chỉ là vấn đề cách nhìn, là sức mạnh tinh thần thôi. Hãy chiếm lấy vị trí của hắn. Hãy làm kẻ mạnh một lần đi.
Nào. Hãy cho hắn thấy mày mạnh hơn hắn. Nói đi! Ta là người che khuất mặt trời sắp lên. Nói đi. Nào, Jed, hãy khẳng định cái tôi chết tiệt của mày một lần đi. Ta là người che khuất mặt trời sắp lên. Nào, nhúc nhích đi! Nói ra! Ta là người che khuất mặt trời…
Nnnnn...
“Mười chín mặt trời…”
Cố lên, Jed. Cưỡng lại cái thằng ngu ấy đi. Không phải vô ích đâu. Tôi gắng sức.
Nnnnn…
Jed! Nào! Gắng lên!
Mày phải làm gì đó. Nói, gào thét, gầm gừ, gì cũng được… NnnnnmmmmNNNzzznnkk. Mẹ nó chứ! Chẳng khác gì táo bón nặng, quằn quại rặn mãi mà chẳng được gì, chẳng có gì ra hết, chẳng có gì… “Không mặt trời”
Nào, Jed. Hãy cứu dự án, cứu hành tinh này, cứu chính cái thân mày nữa, nào, chỉ một lần này thôi, phải làm gì đó đi, làm gì đó, hãy làm gì đó khôn ngoan…
PHẦN I
THÀNH PHỐ CHẾT MEGACON
1
Gượm hẵng nào. Hình như tôi hơi rườm lời thì phải.
Có lẽ tôi đang kể quá nhiều chuyện một cách đột ngột. Chúng ta cần phải biết vài điều căn bản đã. Suy cho cùng, đây là truyện được thuật lại và có một số việc cần tường trình. Vì vậy có lẽ tôi nên nghiêm túc hơn một chút, bớt hoa mỹ đi và kể lại cho các bạn ngắn gọn tại sao tôi lại ở cái chỗ chết tiệt kia. Có lẽ các bạn đang mù mịt về câu chuyện này chẳng kém gì mù tịt về tương lai.
Tên đầy đủ của tôi là Joaquín Carlos Xul Mixoc DeLanda. Khác với những người Maya bản địa khác, tôi được sinh ra trong một bệnh viện thực thụ tại môt thành phố nhỏ tên là San Cristobal Verapaz thuộc tỉnh Alta Verapaz, miền trung Guatemala, cách vịnh Honduras ba mười dặm về phía tây, cách CG, tức là Cidad Guatemala hay Guatemala City (Guatemala City: thủ đô nước cộng hòa Guatemala), chừng chín mươi dặm về phía đông bắc, và cách làng T’ozal, mà thực ra chỉ là một thôn nhỏ nơi tôi lớn lên, đúng mười dặm về phía tây. Ba ngày sau khi ra đời, ngày mùng 2 tháng 11 năm 1974 mới là ngày quan trọng - ngày tôi được làm lễ đặt tên. Theo cách tính của người Maya chúng tôi, đó là ngày Gầm rú 11, Trắng 4 của uinal 5, tun 1, k’atun 18, b’ak’tun 13, cũng là b’ak’tun cuối cùng. Đó đúng là thời điểm một triệu tám trăm năm mười tám ngàn và bảy mươi mốt k’inob - nghĩa là mặt trời, ánh sáng hoặc ngày – sau ngày đầu tiên của hệ thống lịch Long Count (Long Count: là phương thức tính thời gian mà người Maya tiếp thu từ bản địa khác xa xưa hơn) - tức là ngày Chúa tể 4, Bóng tối 8, 0.0.0.0.0 hay ngày 11 tháng 8 năm 3113 trước Công nguyên; đồng thời đúng là thời điểm mười ba ngàn chín trăm hai mươi tám ngày trước khi mặt trời lặn trước ngày Chúa tể 4, Gân vàng 3, là ngày cuối cùng của k’atun cuối cùng của b’ak’tun 13 tương ứng với ngày 21 tháng 12 năm 2012, tức là thời điểm, mà các bạn có thể nghe nói, ánh sáng ngày sẽ chấm dứt vĩnh viễn.
Cha tôi là một thổ dân nói tiếng K’ekchi (K’ekchi: ngôn ngữ người Maya ở Guatemala và Belize sử dụng) mang nửa dòng máu Tây Ban Nha và được coi là người có học thức của địa phương. Ông theo học tại học viện Santiago Indigenous ở GuateCity và sau đó quản lý hệ thống trường sơ cấp trong vùng. Mẹ tôi nói tiếng Ch’olan, trong số các thứ tiếng Mayan, đây là tiếng gần nhất với ngôn ngữ Mayan phương nam cổ xưa. Nhà ngoại tôi chuyển từ Chiapas về đây từ năm 1930 và lập nên một cộng đồng nhỏ nói tiếng Ch’olan nằm biệt lập với cộng đồng lớn của họ về phía tây bắc. Hơn tất
cả các đứa trẻ khác trong vùng, tôi được học về quá khứ dân tộc tôi, lịch sử đất nước tôi và mọi điều khác. Nhưng tôi vẫn không hiểu rõ nhiều chuyện. Chúng tôi biết rằng xa xưa, chúng tôi đã từng là những nhà kiến trúc, những vị vua và giờ đây chúng tôi trở nên khốn khổ. Nhưng tôi không biết nền văn hóa của chúng tôi đang chết dần. Tôi cứ ngỡ thế giới này nhỏ hẹp và jon ka’il – quảng trường thị trấn và akal - ngôi nhà có tường xây bằng xỉ than đóng bánh và lợp rạ - của chúng tôi là trung tâm của cái thế giới ấy. Và… lạy Chúa, tôi đã lớn lên dưới một mái nhà lợp rạ. Vì Chúa, tôi cứ như thành viên khảo cổ vậy, đôi khi chính tôi cũng không thể tin được là mình lại như thế. Khi nhìn lại, tôi thấy mình đã bị kìm hãm trong sự ngu dốt. Nhưng tôi thực sự cho rằng hiểu biết của tôi về lịch sử khi ấy không kém mấy so với những đứa trẻ học ở trường công lập Mỹ bây giờ. Phần lớn mọi người đều biết đâu đó dưới phía Nam có những kim tự tháp đố nát, hình dạng kỳ cục. Một số ít hơn thì biết rằng ở đó có những dạng người cổ xưa gọi là người Aztec, người Toltec, người Inca và người Maya. Nhiều người đã biết đến dân tộc Maya qua một bộ phim của Mel Gibson, hoặc đã tới thành phố Mexico và được thấy di tích Teotihuacán (Teotihuacán: khu di tích kiến trúc và đô thị cổ thời Colombus ở Mexico)đổ nát. Nhưng chẳng mấy khi gặp được người Mỹ nào kể được cho anh nghe sự khác biệt, ví dụ, giữa người Aztec và người Toltec, hoặc biết rằng có những tộc người khác tuy ít được biết đến hơn nhưng không kém phần phát triển như Mixtec, Zapotec hay Tarascan đã từng sinh sống khắp một vùng từ miền trung Mexico đến Honduras mà ngày nay chúng ta quen gọi là Mesoamerica, hoặc biết rằng người Inca trước kia sống trên một vùng đất nào tách biệt, cách xa hàng ngàn dặm về phía tây nam và vì thế, theo suy nghĩ của người Maya chúng tôi, họ còn sinh sống trên cả sao Hải vương nữa.
Giai đoạn phát triển rực rỡ của những nền văn minh này cách nhau rất xa. Nền văn minh của người Toltec lên đến đỉnh cao vào khoảng năm 1100. Phần lớn đô thị Teotihuacán bị bỏ hoang từ năm 650 đến 700. Giai đoạn gọi là Cổ Maya kéo dài từ 600 đến 850 Công nguyên; và đến khi nền văn minh của người Aztec chuẩn bị trỗi dậy, tức là khoảng 600 năm sau, thì cũng là lúc nền chính trị của người Maya đi vào thoái trào. Trong nghiên cứu giới thiệu về Mesoamerica, có một cách ví von thường gặp là nếu người Maya Cổ được coi là những người Hy Lạp cổ đại thì người Aztec và Toltec là những người La Mã. Tuy nhiên, người Maya và người Hy Lạp chỉ có một điểm chung duy nhất là tài năng.
Thời nay, hiển nhiên các bạn cho rằng mỗi nên văn hóa, hay bất cứ thứ gì khác, đều có đặc điểm nổi bật. Hồi tôi còn đi học, một hôm, ở Bảo tàng nghệ thuật của trường đại học, người ta đi vòng quanh và thay đổi tất cả các biển chú thích, thay vì viết rằng: “Tín ngưỡng tôn thờ sự ô uế, Bộ tộc Ookaboolakonga, thế kỷ 19” thì người ta viết lại là: “Tín ngưỡng tôn thờ sự
ô uế, Nền văn minh Ookaboolakonga, thế kỷ 19”. Cứ như thể năm cái lều với một bản khắc gỗ đã là một nền văn minh vậy. Nhưng có một điều đáng buồn là văn hóa cũng như giới nghệ sĩ, chỉ có một số ít là thiên tài thực sự thôi. Trong tất cả các nền văn minh phát triển cao nhất trên thế giới, nền văn minh Maya dường như đã thăng hoa một cách bất ngờ nhất. Chỉ có duy nhất ba dạng chữ viết dưới dạng ngữ âm đã được phát minh: một ở Trung Quốc, một ở Lưỡng Hà (Teotihuacán: khu di tích kiến trúc và đô thị cổ thời Colombus ở Mexico) và một bởi tổ tiên của người Maya. Khái niệm “số không” cũng chỉ được phát hiện duy nhất hai lần: một ở gần vùng đất mà ngày nay là Pakistan, và trước đó là bởi những người Maya. Dân tộc Maya đã từng và đến nay vẫn là một dân tộc rất đặc biệt, đó là tất cả những gì bạn nên biết.
Ngay cả điều ấy cũng không mấy ai hay. Có thể có hai lý do. Thứ nhất: định kiến đơn thuần. Thứ hai: nói một cách công bình thì có lẽ chưa có một nền văn minh nào, và chắc chắn chưa từng một nền văn minh nào có chữ viết lại bị nhổ tận rễ như thế. Nhưng vẫn còn đó hai triệu rưỡi người nói tiếng Mayan, hơn một triệu trong số đó đang định cư ở Guatemala và rất nhiều trong số chúng tôi còn biết ít nhiều về ngày xa xưa. Đặc biệt là mẹ tôi. Nhưng tôi chưa từng có cảm giác rằng bà có điều gì đặc biệt ngoại trừ bà là người quan trọng nhất trên đời đối với tôi. Và tôi đoán các bạn cũng sẽ nói vậy. Ngoại trừ một điều nho nhỏ bà đã dạy tôi vào mùa mưa năm 1981, năm ấy tôi bị ốm nặng đến mức “suýt ra đi”, theo lối diễn đạt đầy duyên dáng của ngài mục sư.
2
Tôi bị mắc chứng mà bây giờ người ta cho là sốt xuất huyết. Ngày đó nó nguy hiểm hơn bây giờ nhiều; khi cơn sốt lên tới đỉnh điểm, tôi bị xuất huyết trong phổi và khạc ra máu, và cuối cùng, té ra tôi còn mắc chứng thiếu yếu tố đông máu số 8, tức là chứng máu khó đông tuýp B. Suốt ba tháng trời tôi nằm co ro sau nền lò sưởi, đếm những đường chỉ màu đỏ tươi trên chiếc chăn bông và nghe tiếng chó sủa. Mẹ tôi mớm cho tôi món cháo ngô suông và sữa Incaparina (một loại sữa chiết xuất từ thực vật), kể chuyện cho tôi nghe bằng lối ngâm nga khe khẽ, lúc thì bằng tiếng Tây Ban Nha, lúc thì bằng tiếng Ch’olan. Những người khác trong nhà, kể cả em gái tôi, khi đó đều đang làm việc ngoài đồng, dưới vùng đất thấp. Một tối, tôi đang nằm nghiêng người và cố kìm cơn nôn mửa, bỗng tôi nhìn thấy một con sên bò lên theo một vệt ẩm trên bức tường xỉ. Nó hình nón tròn giống quả lắc, có màu xanh da trời ngả xanh lục với những sọc vằn màu da cam và đen, một giống sên mà sau này tôi biết có tên khoa học là Liguus fasciaticus bourboni. Mẹ tôi nói con sên đó là chanul thứ hai của tôi, một “chanul de brujo”, tức là một “linh hồn của thầy phù thủy”.
Mỗi người Maya truyền thống đều có một chanul, hay theo tiếng cổ Maya là uay. Nó nằm ngoài thân xác con người nhưng là một phần của linh hồn. Nếu người đói, nó cũng đói, nếu ai đó giết nó thì người cũng sẽ chết theo. Một vài người có mối liên hệ với uay mật thiết hơn những người khác, và một số rất ít người có khả năng tự biến mình thành hình dáng như uay của họ và đi lại trong lớp vỏ động vật. Nó hơi giống các linh hồn động vật trong cuốn “His Dark Materials”, chỉ có điều nó chiếm một phần lớn hơn trong người. Tôi đã có một uay như những người khác, đó là một con sa’bin-’och, từa tựa như con nhím, nhưng theo lời mẹ tôi, con sên kia cũng sẽ là uay của tôi. Nó quả là một uay khác thường, xem ra không được mạnh mẽ lắm. Nhưng cũng có nhiều uay của các thầy phù thủy rất nhỏ bé và nhút nhát.
Cũng trong khoảng thời gian đó, mẹ tôi bắt đầu chơi với tôi một trò đếm. Đầu tiên tôi đoán rằng bà muốn dạy tôi làm quen với các chữ số. Không bao lâu sau, tối nào chúng tôi cũng chơi trò này. Mẹ tôi thường cuộn chiếc chiếu cói cạnh chỗ tôi nằm lại. Trên nền đất sét, chỗ chiếc chiếu lúc trước, bà đào hai mươi nhăm cái lỗ nhỏ theo hình chữ thập, ý coi chữ thập đó là ở trên trời còn tôi đang nằm ngửa dưới mặt đất, đầu hướng về vị trí của mặt trời vào giờ đó, hướng đông nam.
Bà thường trải một tấm vải trắng mỏng lên hình chữ thập đó và ấn nó lún xuống một chút ở những chỗ có lỗ, bà nhai một nhúm thuốc lá rồi phun nước thuốc lên mé trong bắp đùi trái mình. Khi tôi tập làm theo, bà dạy tôi xát nó lên đùi phải. Bà mở chiếc hộp chứa đồ quý báu hiệu Tupperware của mình và lấy ra grandeza, tức là chiếc túi đựng bùa hộ mạng, những viên đá và nhiều thứ đồ lỉnh kỉnh khác, đổ ra một đống hạt tz’ite đỏ - hạt rắn của một loại cây san hô (tên gọi thông tục chỉ chung một số cây họ đậu), - bày ra những viên đá thạch anh mà tôi cứ dí mắt vào để nhìn những tia sáng lấp lánh bên trong. Tôi chưa từng hiểu được hành động tiếp theo của bà: bà quệt một vệt ướt màu đen ngang mặt, bắt đầu từ chỏm tai trái, chạy qua phía dưới mắt trái, đè lên môi trên, chạy xuôi má phải xuống cạnh hàm. Chuỗi động tác tiếp theo là chúng tôi mỗi người bốc một nhúm trong đống hạt tz’ite vừa rải lên viền tấm vải theo các lỗ ở hai hướng đông và tây, vừa cầu khẩn sự giúp đỡ của các vị thần bảo trợ ánh sáng ngày. Sau đó, mẹ tôi vỗ tay xuống đất năm lần và đọc:
- Hatz – kab ik,
- Ixpaayeen b’aje’laj…
Nghĩa là:
- Con xin mượn hơi thở của mặt trời hôm nay,
Xin mượn hơi thở của mặt trời ngày mai
Con đang vãi và gieo hạt,
Rải những hạt đen và những hạt vàng,
Thêm vào sọ màu đen và sọ màu đỏ,
Đếm những mặt trời lục lam,
Đếm những mặt trời nâu xám.
Trong tiếng Chh’olan, từ “sọ” cũng có nghĩa là “hạt ngô”. Tiếp theo, chúng tôi thay phiên nhau đếm và nhặt các hạt vào từng ô, cứ bốn hạt một lượt và dùng các hạt đậu đặt lên trên để đánh dấu ngày tháng của hôm đó. Sau đó, mẹ tôi lấy ra một mảnh đá thạch anh carnelian trong suốt nhỏ bằng cái móng tay. Đó là quân cờ.
Cũng như trong trò chơi Parcheesi (một trò chơi thịnh hành ở Mỹ, được cải biên từ trò chơi Parchisi của Ấn Độ, từa tựa như trò cá ngựa ), các quân cờ sẽ di chuyển quanh bàn cờ theo con số ngẫu nhiên trên xúc xắc. Nhưng thay vì xúc xắc, chúng tôi dùng các hạt ngô, một mặt có chấm một chấm đen. Người chơi tung các hạt ngô lên và đếm xem có bao nhiêu hạt rơi xuống với mặt có chấm đen ngửa lên. Khác với trò Parcheesi, số hạt ngô mà người chơi được tung phụ thuộc vào vị trí của họ trên bàn cờ. Có nhiều quy tắc đếm khác nhau được áp dụng, ví dụ: nếu nhúm hạt ngô cuối cùng của anh còn ba hạt thì đôi khi anh có thể chia nó làm hai, một nhóm hai hạt và nhóm kia một hạt rồi tính đó là một số chẵn và một số lẻ.
Trò chơi còn nhiều thứ phức tạp khác. Có hẳn một bài thơ vần điệp gồm những câu hỏi đáp, mỗi câu hỏi đáp được bắt đầu bằng một cái tên-gắn-số của một trong hai trăm sáu mươi ngày theo lịch tế lễ. Mỗi tên ngày trong số đó lại có thể kết hợp với ba trăm sáu mươi tên ngày khác theo lịch dương. Mỗi sự kết hợp đều có những câu ngạn ngữ riêng đi liền với nhau và những ẩn ý riêng gắn với ngữ cảnh. Vì vậy, hơi giống với Kinh Dịch hay Ifa (một hệ bói toán của người Yoruban ở châu Phi ) của người Yoruban, trò chơi này cho kết quả là những cụm từ ngắn mà người ta có thể đọc lên thành câu. Và vì có vô vàn cách kết hợp nên người chơi có cảm tưởng rằng có ai đó đang đối thoại với anh ta theo một cách gần như không thể đoán biết trước. Mẹ tôi thường nói đó là nữ thánh Theresa, một kiểu như vị thần của trò chơi, đang đưa cho chúng tôi lời giải đáp. Nhưng nếu lời giải đáp là một điềm gở thì mẹ tôi nói đó là thánh Simon lên tiếng. Thánh Simon là một người đàn ông có râu ngồi ở chính giữa bàn cờ, chỗ các đường đi cắt nhau; cũng có người gọi ông ta là Maximón.
Nhìn chung, trò chơi này ná ná như sự kết hợp của một cái bản đồ, một cái bàn tính và một quyển lịch vạn niên. Các bước di chuyển của viên đá thạch anh, hay “quân cờ”, cho người chơi những kết quả nhất định, tùy thuộc anh muốn đọc tiếp bài thơ đến đâu và anh muốn dựa vào linh cảm đến mức nào. Đôi khi tình hình sáng sủa hơn chỉ sau hai bước di chuyển hợp lý. Ngoài ra, có một cách đặc biệt để sử dụng linh tính một cách có lợi. Mẹ tôi dạy tôi cách ngồi im và chờ đợi tzam lic, nghĩa là “chớp máu”. Đó là một cảm giác rung hoặc giần giật dưới da, từa tựa như một cơn co cơ nhẹ. Tôi đoán nếu là các bạn thì các bạn sẽ cho đó là một cơn rùng mình ớn lạnh. Khi cảm giác đó đến, cường độ, vị trí và hướng của nó trên cơ thể người chơi sẽ chỉ dẫn cho anh ta nước đi mà anh ta đang phân vân. Ví dụ, nếu nó xuất hiện ở mé trong đùi trái nơi có vết nước thuốc thì có nghĩa là một người họ hàng nam giới sắp từ mạn đông bắc xuống thăm anh, còn nếu nó xuất hiện ở mé ngoài cũng bên đùi đó thì có nghĩa vị khách là một phụ nữ. Thông thường, mẹ tôi chỉ tìm cách tìm hiểu – tôi không muốn dùng từ “tiên đoán” - những điều quan trọng, chủ yếu là về mùa màng, ví như liệu bọ cánh cứng hại cây
bí sắp phá hay chưa. Bà cũng thường dự đoán thời tiết bằng một quân cờ màu đỏ tượng trưng cho mặt trời và những quân khác tượng trưng cho mây hoặc núi. Hay có khi quân cờ được dùng để tượng trưng cho những người thân thích hay hàng xóm láng giềng khi mẹ tôi xem giúp họ những việc quan trọng như cưới xin hay khi nào thì lành bệnh. Tôi nhớ có lần tôi xin bà xem giúp cho bà nội của một cô em họ đằng ngoại đang nhiễm giun sán rất nặng và mẹ tôi liền bỏ dở ván bài giữa chừng. Rất lâu sau tôi mới hiểu được hành động này, đó là vì mẹ tôi thấy trước bà già ấy không thể qua khỏi.
Như mẹ tôi nói, trò chơi tiên đoán này sẽ không chính xác lắm nếu dùng để xem những chuyện vặt vãnh. Vài lần tôi nói tôi muốn đoán xem lúc nào thì cha tôi đi làm về, lúc đầu mẹ tôi từ chối vì chuyện đó quá vớ vẩn, nhưng rốt cuộc bà vẫn cho phép tôi thử di chuyển viên đá thạch anh giả làm tata (bố - tiếng Tây Ban Nha) còn bà thì đấu lại ông. Và vì thế số lượng hạt ngô của tôi phải luôn lớn hơn số hạt đậu của mẹ tôi vì tôi là người chạy trước. Nếu cuối cùng mẹ tôi chặn được tôi ở chỗ cái ô ở hướng tây bắc thì có nghĩa là cha tôi sẽ về rất muộn vì bận việc trong thành phố nằm ở phía tây bắc nhà chúng tôi. Nếu quân cờ tượng trưng cho ông bị bắt ở hướng nam thì có ông vẫn đang làm việc ở trường. Nếu bị chặn ở ô nằm chính giữa thì có nghĩa là ông sắp về đến nhà. Và lần nào cũng vậy, chỉ vài phút sau đã thấy ông cúi mình chui qua cửa.
Ở đây chẳng có gì có vẻ giống với bói toán, tử vi hay những trò tạp nham tương tự. Nó giống một môn cờ hơn, hoặc để cho câu chuyện mạch lạc, ta hãy gọi nó bằng cái tên tự đặt trước là Cờ Hiến tế, mặc dù tôi biết tôi chưa trình bày được đầy đủ khái niệm về trò chơi này, nhưng có lẽ cờ Hiến tế sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn những gì đã nghe từ nãy tới giờ. Có bận, một ông chú của tôi kể rằng ngày xửa ngày xưa, tổ tiên chúng tôi có cặp mắt tinh như cú vọ, đến nỗi có thể nhìn xuyên qua cả vòm trời, qua các vách núi để thấy các hang động nơi trú ngụ của những người đã chết và chưa ra đời. Nếu ốm đau, chúng tôi có thể nhìn xuyên qua da mình, đến tận nội tạng để tìm ra bệnh. Chúng tôi có thể nhìn thấy sự ra đời của mình trong quá khứ và cái chết đang chờ đợi mình phía trước. Nhưng kể từ khi cặp mắt chúng tôi bị vẩn đục, chúng tôi chỉ còn nhìn được một phần rất nhỏ của thế giới, chỉ thấy những gì hiện diện trên mặt đất. Tôi đã tập luyện trò chơi một cách chăm chỉ. Vào ngày đầu tiên của tz’olk’in (năm âm lịch của người Maya, gồm 260 ngày) thứ mười hai của tôi - tức là năm tôi tám tuổi rưỡi - mẹ tôi hướng tôi trở thành một h’men.
H’men dịch ra ngôn ngữ của chúng ta là “người canh giữ ngày tháng”, “người canh giữ thời gian”, “người canh giữ mặt trời”, hoặc thậm chí là “thủ quỹ mặt trời”. Nhưng chính xác nhất theo nghĩa đen thì phải là "người cộng mặt trời" hoặc "người đếm thêm mặt trời", nhưng ta cứ thống nhất gọi là “người đếm mặt trời”. Người đếm mặt trời đại để là pháp sư của làng, một
người không theo đạo nhưng có vị trí tương đương với linh mục Thiên Chúa giáo. Nhiệm vụ của họ là tìm hiểu xem nếu một phụ nữ trong làng bị ốm thì có phải do hồn vía người thân đã chết đang có chuyện bất hòa với chị ta không, nếu đúng thì chị ta nên cúng lễ những gì để hồn ma đó im tiếng, và chị ta nên treo những loại cây thuốc nào quanh nhà để chóng lành bệnh. Khi nào thì nên đốt milpa, tức là cánh đồng ngô của nhà? Hôm nay có tốt ngày để bắt xe buýt lên tỉnh không? Ngày nào tốt lành để làm lễ rửa tội cho đứa trẻ mới sinh? Tín ngưỡng của chúng tôi pha trộn với đạo Thiên chúa, vì vậy chúng tôi cũng thực hiện một số nghi lễ như người công giáo. Miệt thị một chút thì các bạn có thể gọi họ là thầy lang kiêm phù thủy làng. Còn lý do họ được gọi với cái tên người đếm mặt trời là vì nhiệm vụ chính của họ là theo dõi lịch tế lễ cổ truyền. Tất cả lễ lạt mà chúng tôi thực hiện, kể cả cờ Hiến tế (nếu muốn, bạn có thể gọi nó là trò bói toán) đều phụ thuộc vào lịch này.
Theo quan niệm của người Ch’olan, mọi việc xảy ra đều có đôi, nhất là chuyện không lành. Và điều đó đã xảy ra với tôi hai năm sau khi bắt đầu học cờ Hiến tế.
Cần biết một điều rằng tại một đất nước như Guatemala thì sự xâm lược vẫn còn tiếp diễn. Ở Guatemala – đây đơn giản là sự thật lịch sử - cuộc sống của hầu hết người dân bản địa chúng tôi đã rất yên ổn từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20; đến tận đầu những năm 50, tình hình vẫn chưa đến nỗi tồi tệ lắm. Nhưng mùa hè năm 1954, CIA (cơ quan tình báo trung ương Mỹ), dưới sự điều khiển của UFC mà sau này là Chiquita Banana (UFC – Unit Fruit Corporation – một công ty hàng đầu của Mỹ trong lĩnh vực mua bán và nhập khẩu trái cây, đặc biệt là chuối, từ các nước thuộc thế giới thứ 3), đã sắp đặt một âm mưu liều lĩnh nhằm lật đổ vị tổng thống được dân bầu và dựng Carlos Castillo Armas lên làm tổng thống bù nhìn. Ngoài việc tuân theo mọi ý muốn của pulpo - tức là con bạch tuộc, biệt danh chúng tôi đặt cho UFC – ông ta còn bắt đầu thực thi chính sách thanh lọc thiểu số bài trừ người Maya. Liên hợp quốc đã đưa ra con số 200,000 người Maya bị sát hại hoặc mất tích trong khoảng thời gian từ 1958 đến 1985, đẩy Guatemala xuống vị trí nước có nhân quyền thấp nhất Tây bán cầu. Đối với dân tộc chúng tôi, đó là thời kỳ khủng khiếp nhất sau cuộc xâm lăng của người Tây Ban Nha vào thế kỷ 16.
Quốc hội Mỹ quyết định chính thức ngừng viện trợ cho Guatemala từ năm 1982 nhưng chính quyền của tổng thống Reagan vẫn tiếp tục âm thầm gửi vũ khí và bí mật huấn luyện kỹ năng chống phiến loạn cho các sĩ quan quân đội Guatemala tại trường Huấn luyện Americas tại Fort Benning (nay là Viện hợp tác an ninh Tây bán cầu, nằm gần thành phố Columbus, bang Georgia, Mỹ). Có lẽ chỉ một vài trong số đó là những người kỳ thị cộng sản thực sự, cho rằng quân du kích cách mạng là mối hiểm họa, còn 97% còn lại thì chỉ muốn chiếm đoạt đất đai; đến năm 1983, khi thảm họa diệt chủng lên
tới đỉnh điểm với mười bốn người da đỏ bị sát hại mỗi ngày thì cuộc nội chiến lộ rõ mục đích là thâu tóm ruộng đất. Chúng ập đến, tuyên bố “tất cả các người đều là quân du kích”, và thế là xong. Chỉ một năm sau, mọi mảnh đất có thể sinh ra hoa lợi đều đã vào tay người da trắng.
Ở nước Mỹ, phần lớn người dân đều nghĩ CIA là một thứ gì đó thật hào nhoáng, một tổ chức bí mật đầy tài năng với những nhân viên bảnh chọe và thiết bị tân tiến. Nhưng người dân châu Mỹ La tinh thì biết CIA cũng chỉ như những tập đoàn tài chính, đồ sộ, vụng về, nhưng lắm tiền nhiều của, hoạt động vì lợi ích của kẻ mạnh và bóp nghẹt kẻ yếu. Vào những năm 70 và 80, quân đội đã cho xây hàng ngàn đường băng nhỏ khắp các vùng nông thôn Guatemala, bề ngoài là để giúp những loại người thua kém, thiệt thòi như chúng tôi đưa được sản vật ra bán ở thị trường bên ngoài, nhưng thực tế là để có thể nhào xuống bất cứ đâu, vào bất cứ lúc nào để đá đít những kẻ bị coi là ăn bám ấy. Quanh T’ozal, có ít nhất hai đường băng như thế. Một ông bác rể của bố tôi tên là Generoso Xul có một mảnh đất nhỏ; một hõm, ông đánh dấu khoanh vùng mấy khoảnh ruộng ngô trên bãi đất chung của làng để đốt và hóa ra chỗ ruộng ấy lại nằm hơi sát đường băng. Đến cuối tháng 7, Generoso mất tích, cha tôi cùng vài người khác đi tìm. Sáng ngày thứ hai, họ tìm thấy đôi giày của ông bị buộc chằng vào nhau và treo trên một cành cây khuynh điệp, đó là một kiểu dấu hiệu báo “đã được cho đi ngủ với giun”.
Cha tôi kể lại chuyện này với một người mà ông biết trong đội quân kháng chiến địa phương, một nhân vật từa tựa như Subcomandante Marcos (bí danh của một nhân vật tự xưng là người phát ngôn của phong trào nổi dậy ở Mexico), có tên là Teniente Xac mà chúng tôi thường gọi là chú Xac, Tio Xac (tức “chú Xac” - tiếng Tây Ban Nha) nói ông đoán cánh nhà Soreano đã “habian dado agua al Tio G”, tức là đã giết chết Generoso. Cha tôi nhờ các nông dân và lũ trẻ con nhà họ theo dõi các chuyến bay, ghi lại số đăng ký trên các mẩu giấy gói thuốc lá và mang đến cho ông. Ông tập hợp được một danh sách khá dài. Một người bạn của ông ở thủ đô Guate đã kiểm tra danh sách đó trong cơ sở dữ liệu của AeroTransport - đất nước Guatemala tận tụy với những kẻ ngoại bang kia đến nỗi chẳng mấy khi buồn bận tâm đổi các số đăng ký – và té ra rất nhiều trong số những chiếc máy bay đó là do hãng cho thuê máy bay Skyways điều hành từ Texas và Florida, và rất lâu sau, cha tôi mới phát hiện ra đó là một công ty vỏ (loại hình công ty tham gia làm trung gian cho các giao dịch kinh doanh nhưng bản thân lại không có tài sản hay hoạt động kinh doanh gì), là tài sản của John Hull tại Costa Rica. Hull là một người Mỹ đã rửa tiền và vận chuyển côcain thô cho lính của Oliver North (một nhân vật trong bộ máy quân sự Hoa Kỳ). Điều này nghe có vẻ ám muội mà lại ngớ ngẩn nếu nó không được ghi rõ trong một số tài liệu, chẳng hạn như tài liệu năm 1988 của Tiểu ban nghị viện Kerry (tiểu ban chịu trách nhiệm điều tra hoạt động buôn lậu của Lực
lượng chống đối): “Báo cáo của ban tham mưu về chương trình Hỗ trợ bí mật và Lực lượng chống đối (tên chỉ chung một số băng nhóm phiến loạn) ngày 14 tháng 10 năm 1986, có thể tìm đọc dễ dàng tại Thư viện tổng thống Ronald Reagan, số 40 đường Presidential Drive, Simi Valley, California, trong mục “Lực lượng thực thi luật pháp Nhà Trắng: Tài liệu lưu trữ, ô 92768”. Hầu hết số tiền được chuyển cho lực lượng chống đối tại El Salvador, nhưng các-ten North cùng phe cánh của Bush và Ríos Montt – Montt là tổng thống bù nhìn của Guatemala vào thời đó – cũng vơ được hàng triệu. Tôi đoán Chú Xac muốn dùng danh sách đó để lừa mị một chút, hoặc để hướng sự chú ý của mọi người vào nhà Soreano, một gia đình đại gia trong vùng mà ai cũng ghét, hoặc nhằm làm mất uy tín của các tướng lĩnh nhà ấy trong lần bầu cử tới, điều đó đủ để các bạn thấy ông ta ngây thơ đến mức nào.
Đúng dịp lễ giáng sinh năm 1982, tôi lại bị một trận viêm phổi sau khi mất máu, cha mẹ tôi đưa tôi tới bệnh viện từ thiện của các bà xơ ở San Cristobal. Lúc đó chắc tôi đã mê sảng. Một bà xơ trẻ, xơ Elena, chăm sóc tôi rất ân cần, luôn miệng hỏi han tôi có khỏe không. Tôi nghĩ xơ ấy thật tốt. Từ đó trở đi, ngày nào tôi cũng nghĩ đến xơ Elena, thậm chí giờ nào cũng nghĩ, chí ít là những lúc tôi không mê sảng. Todo por mi culpa (Tôi thật có lỗi - tiếng Tây Ban Nha). Bốn ngày sau khi nằm viện, vào lễ gia đình Thiên chúa (một ngày lễ không bắt buộc, thường là ngày chủ nhật đầu tiên sau lễ giáng sinh), ngày 29 tháng 12 năm 1982, xơ Elena cho tôi hay quân đội chính phủ đã bao vây T’ozal và đang tra hỏi các Cofradias, tức là các vị chức sắc, một kiểu như hội đồng bô lão làng. Sau này tôi mới biết thêm các chi tiết khác. Hôm đó là ngày chợ phiên, hầu hết mọi người đều đổ về làng. Một chiếc trực thăng Iroquois màu trắng pha xanh nước biển với tiếng loa oang oang xuất hiện và lượn vòng quanh như một con bói cá lớn, ra lệnh cho tất cả mọi người tập trung ở quảng trường để họp và thông báo nhiệm vụ tuần tra dân sự của năm sau. Cùng lúc đó, quân lính đã tiến vào qua hai con đường đất mới mở. Theo một cậu bạn tôi, José Xiloch có biệt danh Không Đời Nào, người đã nhìn thấy đội quân từ xa, thì không mấy người tìm cách ẩn nấp hoặc chạy trốn. Phần lớn binh lính là người Maya được tuyển mộ từ Suchitepequez (một tỉnh thuộc Guatemala), nhưng còn có hai người đàn ông khác, cao lớn, tóc hung đỏ và đi giày thủy quân lục chiến Mỹ; khác với lệ thường, toàn bộ đội quân đó được chỉ huy bởi một viên thiếu tá: Antonio García-Torres.
Ngày hôm đó, chỉ có hai người bị bắn chết trên quảng trường. Cha mẹ tôi cùng sáu người khác bị tống lên xe tải và đưa đến căn cứ quân sự ở Coban. Chiều tối, quân đội cho thiêu rụi căn nhà chung của làng cùng mười một người quyết tâm kháng cự đang bám trụ bên trong, đó là một cách khủng bố vào thời ấy. Đó cũng là lần cuối cùng có người nhìn thấy các anh trai tôi,
nhưng không ai rõ chuyện gì đã xảy ra với họ. Rất lâu sau tôi mới biết tin tức về em gái tôi, nó rốt cuộc đã đến một trại tị nạn ở Mexico. Quân đội cho dân hai ngày để san bằng ngôi làng sau đó tống tất cả lên xe tải để đưa đi nơi khác.
T’ozal là một trong bốn trăm bốn mươi ngôi làng mà chính phủ Guatemala hiện nay chính thức xếp vào danh sách bị hủy diệt. Danh sách liệt kê cuối cùng có tên của 38 người được xác minh đã chết và 26 người mất tích. Tôi khẳng định 90% rằng cha mẹ tôi đã phải chịu trò tra tấn mà người ta gọi là “tàu ngầm”, tức là bị dìm xuống nước cho ngạt thở, và có lẽ họ đã bị nhốt trong những cái thùng cao, chỉ một tư thế duy nhất là ngồi xổm (ôi, tôi thật có lỗi) và ngửa mặt nhìn lên trời. Một nhân chứng kể lại rằng cha tôi đã chết khi chúng bịt lên đầu ông một chiếc mũ trùm ngâm thuốc trừ sâu hòng ép cung khai. Tuy nhiên, cũng chưa rõ đó có phải nguyên nhân dẫn đến cái chết của ông hay không, và thậm chí cũng không chắc việc ấy có thực sự xảy ra hay không. Xác cha mẹ tôi hầu như chắc chắn bị vùi dưới một trong tám hố chôn tập thể đã được phát hiện ở Alta Verapaz, nhưng cho đến nay, Trung tâm Điều tra và Lưu trữ về người Maya vẫn chưa tìm được thi thể nào có ADN khớp với tôi.
Tôi còn đần độn đến mức nhiều năm sau mới bắt đầu ngờ rằng cha mẹ tôi gửi tôi đến nơi khác vì họ biết trước sẽ có biến. Có lẽ đó là sáng kiến của mẹ tôi. Bà đã dùng trò chơi để bói xem liệu có nguy hiểm gì từ phía G2, tức là lực lượng cảnh sát mật, hay không. Và có lẽ bà đã thấy trước điều gì đó.
Một tuần sau, các bà xơ nhận được lệnh đưa tôi và bốn đứa trẻ khác cùng làng T’ozal lên tàu thủy tới thủ đô Ciudad Guate để chuyển tới nơi tái định cư, trong số đó có José Không Đời Nào, anh bạn nối khố duy nhất của tôi còn sống đến bây giờ. Tôi không nhớ được gì nhiều về Trại Trẻ Mồ Côi Thiên chúa giáo bởi tôi đã tẩu thoát ngay ngày đầu tiên, tuy gọi là tẩu thoát thì cũng hơi quá vì tôi chỉ việc bước ra khỏi cửa là xong. Tôi đi xuyên thành phố, tìm được một nhà tế bần dành cho trẻ em tương đối sung túc hơn gọi là AYUDA nằm dưới quyền cai quản của các tu sĩ dòng Thánh ngày cuối, hay còn gọi là những người Mormon, mặc dù họ không thích cái tên sau cho lắm. Có tin đồn rằng trẻ con ở đó đang được đưa tới Mỹ, đất nước mà ngày đó tôi mường tượng giống như một khu vườn địa đàng tràn đầy hạnh phúc, với những bụi cây mọc ra khoai tây rán và những dòng suối nước cam mát lạnh. Một phụ nữ vóc người rất đỗi cao lớn với mái tóc sáng màu gác ở cửa sau đã phá lệ cho tôi vào sau vài phút lưỡng lự. Tôi chỉ trông thấy bà ấy đôi lần nữa và cũng không biết tên bà ấy là gì, nhưng cứ mỗi khi nhìn thấy một mái tóc vàng bạch kim là tôi lại nhớ đến người phụ nữ ấy. Sau này, khi tôi được chính thức liệt vào danh sách trẻ mồ côi, họ đưa tôi đến một nơi gọi là Nông Trại Thung Lũng Thiên Đường của Những Vị Thánh Ngày Cuối, ở ngoại ô thành phố.
Phải mất một thời gian dài tôi có được chút ý niệm về những chuyện đã xảy ra với gia đình mình, và thực tế đến tận bây giờ tôi vẫn chưa biết hết. Tôi chưa hề biết chính xác rằng cha mẹ tôi đã chết, đó chỉ là cảm giác chấp nhận mỗi ngày một lớn dần lên. Thứ bảy là ngày nghỉ ở Nông Trại Thung Lũng Thiên Đường và lũ bạn cùng trường tôi nếu còn người thân sẽ được họ đến thăm ở một phòng học phía sau, trong xó nhà lạnh lẽo, giữa hai bức tường xỉ quét vôi màu xanh vỏ đỗ và sàn nhà trải vải sơn màu xanh vàng khè để nhìn mọi người. Tuyệt nhiên chẳng có ai đến tìm tôi. Lũ bạn trêu chọc tôi về điều ấy nhưng tôi làm ngơ như không biết gì. Đến bây giờ tôi vẫn chưa thoát khỏi nỗi ám ảnh của ngày thứ bảy, tôi cứ có cảm giác bồn chồn, thường xuyên nhìn ra ngoài cửa sổ hoặc kiểm tra đi kiểm tra lại email, có đến mười lần một giờ.
Tôi ở lại Nông Trại Thung Lũng Thiên Đường gần hai năm trước khi được tham gia chương trình sắp xếp dành cho người châu Mỹ bản địa, nó một phần là quỹ tìm gia đình nhận nuôi trẻ em tị nạn, và ngay sau lễ đặt tên thứ mười sáu tính theo năm tz’olk’in, tức là năm tôi mười một tuổi, một gia đình, nhà Ødegârds, đã đón tôi đi máy bay đến Utah (một bang năm ở miền tây nước Mỹ) với một chút tiền hỗ trợ của nhà thờ.
Nói một cách công bằng, các tu sĩ dòng Thánh Ngày Cuối đã làm rất nhiều việc thiện cho người dân châu Mỹ bản địa. Ví như họ đã giúp người Zuni giành được một khu định cư rộng lớn nhất từ tay chính phủ Mỹ mà chưa một cộng đồng bản địa nào giành được. Họ cũng làm từ thiện khắp khu vực Mỹ La tinh, bất chấp thực tế rằng trước năm 1978, Giáo hội vẫn là một tổ chức công khai ủng hộ thuyết chủng tộc da trắng ưu việt. Họ tin rằng một vài bộ tộc bản địa châu Mỹ - những bộ tộc có nước da sáng màu hơn – là hậu duệ của nhà tiên tri Do Thái Nephi, nhân vật chính trong cuốn Kinh thánh Mormon. Nhưng ai cần biết động cơ của họ là gì chứ? Phải vậy không? Họ đã lo cho cuộc sống của tôi và rất nhiều đứa trẻ khác. Trong suy nghĩ của tôi, nhà Ødegârds quá ư giàu có. Họ chẳng những dùng nước máy chảy vào tận nhà mà còn có cả một kho kẹo dẻo vô tận, cả kẹo cứng lẫn kẹo mềm. Tôi hồ như có ý nghĩ rằng chúng tôi đã bị người Mỹ chinh phục và tôi là tù nhân bị giam giữ trong một nhà tù lộng lẫy giữa thủ đô xa hoa. Phải rất lâu sau tôi mới nhận ra rằng, theo mức sống ở Mỹ, họ chỉ là tầng lớp trung lưu thấp, ý tôi là họ thuộc loại người gọi bữa tối là bữa khuya và thậm chí bữa trưa là bữa tối, trong bếp nhà họ có cả một tấm khảm treo tường trên ghi công thức làm món “bánh quy bơ đường của Chúa” với nguyên liệu là “một miếng thông cảm” và “một nhúm ngoan đạo”. Ngoài xã hội, họ được coi là những người có học thức. Vì vậy, tôi cũng khá nhọc công mới thành được kẻ hiểu biết khác người như bây giờ. Tuy nhiên, ông bố và bà mẹ cũng là những người tử tế, hay muốn làm những người tử tế thì đúng hơn, mặc dù vậy, họ vẫn tốn rất nhiều sức lực mới kiềm chế cái ảo giác rằng chẳng lấy đâu ra
nhiều thời gian mà lo cho từng đứa con một. Mấy ông anh hờ của tôi thì thuộc loại kinh khủng - hễ rời mắt khỏi chiếc TV và trò chơi điện tử là chúng quay sang thư giãn bằng cách hành hạ những con vật nhỏ - nhưng dĩ nhiên cha mẹ chúng vẫn nghĩ chúng là các thiên sứ được chính đức Jesus lựa chọn.
Khỏi phải nói, tôi không hề cải sang đạo Mormon, hay “được khai sáng” theo cách nói của họ, tức là ngộ ra rằng mỗi người khi sinh ra đã là một vị Thánh ngày cuối. Theo chương trình, họ sẽ không cải đạo cho trẻ em trước khi chúng đủ lớn, và đến tận khi đó, tôi mới bắt đầu nhận ra rằng việc rửa tội cho người quá cố, dùng tay ban phép thánh hay mặc quần dài theo kiểu Hội Tam điểm hoàn toàn không phải là cách cư xử bình thường, ngay cả El Norte (miền Bắc - tức là Bắc châu Mỹ, ý nói nước Mỹ). Họ cũng đưa tôi tới nhà thờ Công giáo một hay hai lần gì đó, nhưng ở đó không có mùi hương, cũng không có những vị thần linh hay những chiếc bình bày trên mặt đất giống như ở Guatemala, vì vậy, tôi nói với họ là không cần phải đưa tôi đến đó nữa. Họ nhìn chung khá thoải mái về chuyện ấy, theo cách riêng của họ. Thực ra, mặc dù không thể chịu được họ nhưng thỉnh thoảng tôi cũng gọi họ là bố Ø và mẹ Ø. Còn mấy ông anh hờ của tôi, mỗi lần hỏi đến là y như rằng mỗi ông lại vừa cho ra đời một cặp sinh đôi; sự kết hợp của quan niệm (đạo Mormon khuyến khích tín đồ sinh đẻ nhiều) và thuốc kích thích rụng trứng khiến chúng sinh sôi nảy nở chẳng kém gì tôm nước mặn.
Thay vì trở thành một vị thánh sống (theo tín điều đạo Morton, mỗi tín đồ đều có thể trở thánh một vị thánh), tôi đi theo con đường ngoại khóa, bắt đầu với việc tham gia đội cờ vua và cờ tỉ phú. Các vị ở trường phổ thông Nephi ép tôi học đàn cello, thứ nhạc cụ lố bịch nhất trong dàn nhạc. Tôi chơi không được hay. Tôi cho âm nhạc là một thứ toán học giản lược. Tôi dành nhiều thời gian náu mình trong thư viện xem những bức tranh có chú giải trong từ điển để lấy lại kiến thức. Tôi học tiếng Anh qua sách của H.P Lovecraft (một nhà văn viết sách khoa học giả tưởng và kinh dị của Mỹ), và đến giờ, theo lời mọi người, tôi vẫn ăn nói theo lối trong những cuốn sách ấy. Tôi luôn lịch sự từ chối chơi trò vớt táo bằng miệng vào dịp lễ Halloween ở trường - ừm… thực ra là tôi khóc ré lên và chạy khỏi phòng – vì tưởng sắp bị tra tấn bằng cách dội nước. Tôi tham gia các nhóm lập trình, trò chơi điện tử và trò chơi chiến thuật. Hẳn bạn nghĩ một người tham gia nhiều hội thế thì ắt phải giao thiệp với nhiều học sinh khác, nhưng tôi lại không. Phần lớn thời gian tôi phải ngồi chầu rìa các hoạt động thể thao vì bệnh máu khó đông. Họ cho tôi và những đứa tàn tật khác ngồi trên thảm, giả vờ vươn người và nâng tạ. Môn thể thao duy nhất mà tôi chơi tốt là bắn bia. Cả nhà Ødegârds đều là những tay mê mẩn súng ống và tôi phải ăn đũa của họ. Tôi còn tham gia cả nhóm Toán học, mặc dù tôi nghĩ thật ngớ ngẩn khi coi toán là môn thể thao đồng đội. Ngớ ngẩn không kém gì lập nhóm thủ dâm. Có lần huấn luyện viên nhóm toán giao cho tôi một lô câu hỏi về hình học tô-pô và sửng sốt khi
thấy tôi làm đúng tất. Ông ta, cùng với một giáo viên khác, kiểm tra tôi thêm một chút rồi tuyên bố rằng tôi là một tài năng về lịch học, và rằng thay vì nhớ như những người khác, tôi có thể tính toán được ngày tháng. Mặc dù đáng ra tôi có thể tự nói cho họ biết điều đấy. Tuy thế, khả năng này không phải loại đem ra bán kiếm tiền được. Đó là loại khả năng mà trong mười nghìn người chỉ một người có, tương tự như khả năng tự liếm mông mình vậy. Cũng khoảng thời gian đó, tôi gia nhập thêm nhóm nghiên cứu cá cảnh. Hệ thống bể cá đầu tiên của tôi được ghép từ vòi nước tưới vườn và hộp Tupperware cũ. Tôi quyết định khi lớn lên sẽ trở thành một tay cờ chuyên nghiệp. Ngồi trên xe buýt tôi cũng đội mũ bảo hiểm trượt ván. Tôi quyết định khi lớn lên sẽ trở thành một tay chơi trò nhím Sonic (một trò chơi điện tử) chuyên nghiệp. Bộ dạng tôi hệt như nhân vật “J” trong nghiên cứu có tên “Tài năng thiêm bẩm của các bệnh nhân vị thành niên mắc hội chứng sau nghẽn mạch” của tạp chí “Giả thuyết Y học”. Tôi quyết định học làm đàn cello thay vì chơi thứ nhạc cụ ấy. Tôi nghe nhạc của Cocteau Twins thay vì Mötley Crüe. Tôi kiếm được một ngàn đô la đầu tiên nhờ mua bán thẻ Magic. Tôi bị đặt biệt hiệu là thằng lập dị. Tôi phê thuốc lắc một mình.
Những phương pháp điều trí mới giúp kiểm soát được chứng máu khó đông của tôi, nhưng cùng lúc đó, người ta lại chuẩn đoán tôi có vấn đề về “phát triển cảm xúc liên quan đến rồi loạn căng thẳng sau chấn thương” và “có một vài khả năng thiên bẩm và trí nhớ chính xác bằng hình ảnh rời rạc”. Rối loạn căng thẳng sau chấn thương có thể coi là một loại bệnh tự kỷ. Nhưng tôi không hề có những biểu hiện tự kỷ thông thường, chẳng hạn như tôi vẫn thích học ngoại ngữ và không khó chịu với “những cuộc thăm dò trong môi trường giáo dục mới”. Một vị bác sĩ ở Salt Lakenói rối loạn căng thẳng sau chấn thương là một thuật ngữ rộng và nó không thực sự diễn tả chính xác các biểu hiện tôi có, hay đúng hơn là không có. Tôi đoán như thế có nghĩa là tôi sẽ không được nhận tí tiền hỗ trợ nào từ căn bệnh của mình.
Tháng 9 năm 1988, buổi nói chuyện của một sinh viên cao học khoa nhân chủng trường đại học Brigham Young tại trường cấp hai nơi tôi đang theo học đã thay đổi hướng đi cuộc đời tôi. Cô ta cho chúng tôi xem vài đoạn băng ghi hình những căn nhà kiva và điệu nhảy mừng mùa ngô của người Zuni, vừa lúc tôi sắp ngủ gật thì phim chiếu đến hình ảnh các kim tự tháp Maya và tôi ngồi dậy. Tôi thấy phấn chấn lên và đặt vài câu hỏi. Cô ta yêu cầu tôi giới thiệu mình từ đâu đến, và tôi giới thiệu trước cả lớp. Vài ngày sau, tôi cùng vài học sinh gốc da đỏ khác được nghỉ học để đến dự buổi hội thảo về học bổng trong chương trình sắp xếp dành cho người châu Mỹ bản địa do chính cô sinh viên đó chủ trì ở SaltLake. Buổi hội thảo được tổ chức trong phòng tập thể thao của một trường trung học và có những hoạt động như đánh đá lửa và vẽ mặt tự do bằng bột màu. Một giáo sinh giới thiệu tôi với nữ giáo sư June Sexton. Khi tôi kể cho giáo sư biết gốc gác của mình, bà
liền bắt chuyện với tôi bằng tiếng Yukateko (ngôn ngữ được người Yucatan Maya sử dụng ngày nay, một phiên bản của nhánh ngôn ngữ này từng được sử dụng vào thời cổ) rất trôi chảy khiến tôi phải kinh ngạc. Trong câu chuyện, bà có hỏi rằng tôi đã chơi el juego del mundo bao giờ chưa. Thấy tôi không hiểu từ này, bà bèn giải thích rằng nó còn được gọi là “alka’ kalab’ceraj” hay “cờ Hiến tế”, nghe rất giống từ mẹ tôi đã dùng. Tôi trả lời rằng đã, thế là bà liền lấy ra một chiếc hộp hiệu Altoids đựng đầy hạt cây tz’ite màu đỏ lạ mắt. Lúc đầu, tôi không sao chơi được vì một thứ cảm giác mà tôi cho là nhớ nhà, hoặc gần như nhớ nhà. Khi tĩnh tâm lại, tôi chơi được với bà ấy vài vòng nhạt nhẽo. Bà ấy nói rằng một đồng nghiệp dạy môn toán của bà đang nghiên cứu về thuật bói toán của người Maya và ông ta sẽ rất vui nếu tôi có thể dạy lại cho ông ta bài thơ vần tôi biết. Tôi trả lời đồng ý sau một thoáng suy nghĩ, nhưng nói không thể dạy được sau giờ học. Làm gì cũng được, miễn là thoát giờ thể dục.
Thật khó tin, một tuần sau, một chiếc xe tải màu xanh lá cây từ một nơi gọi là FARMS - Quỹ tài trợ nghiên cứu cổ xưa và giáo phái Mormon - đến đón tôi đi thật, ngay trước giờ nghỉ trưa; chiếc xe chạy về hướng bắc, đi vào vùng núi, đến trường đại học Brigham Young tại Provo. Giáo sư June đáng mến dẫn tôi vào một tòa nhà xoàng xĩnh và giới thiệu tôi với giáo sư Taro Mora. Theo cảm nhận của tôi, ông ta giống một nhà hiền triết thông thái, nhang nhác như Pat Morita trong phim “Thiếu sinh Karate”, cho dù ông ta mới chỉ bốn mươi tuổi. Văn phòng của vị giáo sư này hết sức giản dị với một bên tường xếp đầy sách và những cuốn tạp chí về cờ vây – một môn cờ của người châu á sử dụng những quân cờ màu đen và trắng – và một bức tường nữa để tài liệu liên quan đến toán học xác suất và lý thuyết trò chơi. Ông ta làm việc trong lĩnh vực dựng mô hình thảm họa (môn khoa học sử dụng tính toán trên máy tính để dự tính thiệt hại của một số loại tài sản nhất định trong trường hợp có thiên tai). Ông ta nói đã sưu tầm được một số dị bản của bài thơ trong cờ Hiến tế từ nhiều khu vực khác nhau khắp Trung Mỹ, nhưng bản mà tôi học được là bản mà chỉ có một vài người từng được nghe đến và nó có nhiều điểm khác biệt đáng chú ý so với cờ Hiến tế thông thường. Trước hết, ở hầu hết các nơi, khách xem bói chỉ đến và yêu cầu: “Xin hãy thỉnh ý sọ/hạt về việc này giúp tôi” và người đếm mặt trời sẽ làm tất cả những việc còn lại. Nhưng theo cách chơi của mẹ tôi thì khách xem bói lại chơi cùng người đếm mặt trời. Thứ hai là mẹ tôi bày bàn cờ theo hình chữ thập trong khi những người khác chỉ xếp hạt theo các hàng dọc trên miếng vải trơn. Và điểm cuối cùng, cũng là điểm kỳ lạ nhất, đó là tôi đã học trò chơi từ một người đàn bà.
Điều này thì gần như chưa từng ai nghe đến. Trong khu vực sinh sống của người Maya, phải đến 98% người đếm mặt trời là đàn ông. Taro nói tuy không phải là chuyên gia về nhân chủng học nhưng ông đoán rằng mẹ tôi là
người kế tục một tín ngưỡng nào đó còn sót lại của một cộng đồng nữ giới Ch’olan bí mật đã biến mất từ thời kỳ người Tây Ban Nha đến chinh phục châu Mỹ.
Giáo sư Taro gặp tôi một tuần hai lần, cứ thế cho đến tận cuối học kỳ, khi ông ta phải quay về New Haven. Cũng tới lúc đó, tôi mới biết ông ta là người đứng đầu một tổ chức nghiên cứu gọi là “Dự án Parcheesi”, và rằng ông ta cùng các sinh viên cao học tham gia nghiên cứu đã đưa ra một giả thuyết cho rằng tất cả, hoặc hầu hết, các trò chơi hiện đại ngày nay đều có nguồn gốc từ một tổ tiên duy nhất, một ur-game (một trò chơi cờ có nguồn gốc từ thành phố Ur ở khu vực Lưỡng Hà. Người ta đã phát hiện được bộ bàn cờ của trò chơi này, có niên đại từ năm 2600 trước Công nguyên, vì thế, nó được coi là môn cờ cổ xưa nhất) nào đó. Họ đã bắt tay vào tái hiện lại môn cờ này bằng cách sưu tầm trò chơi của các bộ lạc ở miền Trung Á, nhưng chẳng bao lâu sau, những nghiên cứu đã dẫn họ tới châu Mỹ.
Vào thời điểm ấy, ý tưởng trên đã bị nhiều nhà nhân chủng học bác bỏ. Nhưng Taro đích thực là một nhà toán học và ông ta bỏ tất cả ngoài tai. Ông ta là một nhà nghiên cứu thuần túy và là một trong số rất ít người nghiên cứu kết hợp nhiều lĩnh vực bao gồm lý thuyết thảm họa, tính chất lý học của các hệ thống phức hợp và lý thuyết trò chơi tái tổ hợp, viết tắt là RGT. Về cơ bản, RGT là một lý thuyết về các trò chơi như cờ vua hay cờ vây, là những trò chơi mà trong đó các quân cờ hợp thành nhiều lực lượng khác nhau trên bàn cờ. Lý thuyết trò chơi cổ điển - chủ yếu liên quan đến cờ bạc – đã được các nhà kinh tế học, các vị tướng soái và mọi người nói chung sử dụng từ thời Thế chiến II, còn lý thuyết trò chơi tái tổ hợp mới chỉ được áp dụng từ những năm 90, ý tưởng của Taro là việc sử dụng phiên bản được tái hiện lại của cờ Hiến tế để xây dựng một giao diện rô-bốt (chương trình máy tính có khả năng giao tiếp với người sử dụng như một thực thể sống) có thể giúp cải thiện đáng kể khả năng lập chiến lược, ví như mô phỏng các hiện tượng kinh tế, chiến tranh hay thậm chí cả thời tiết. Trước khi gặp tôi, ông ta đã thực hiện một số thí nghiệm thành công, nhưng ông ta vẫn muốn đạt thêm nhiều kết quả mỹ mãn hơn trước khi công bố. Phòng thí nghiệm của ông đã dựng lại hàng tá phiên bản khác nhau của bàn cờ cổ xưa. Chúng tôi đã cùng bỏ ra hàng trăm giờ đồng hồ, cả trước và sau khi tôi vào đại học, để tìm hiểu chúng. Nhưng có một thứ cứ ngáng đường chúng tôi, đó là mặc dù nắm khá rõ cấu trúc của bàn cờ, nhưng chúng tôi không sao biết được quy tắc đếm chính xác đã được người xưa sử dụng và họ đã dùng bao nhiêu hạt, bao nhiêu viên đá thạch anh. Vì thế, Taro quyết định thử một phương pháp tiếp cận khác. Ông ta dùng đến những chiếc máy chụp cắt lớp não.
Tôi vẫn còn giữ năm viên đá thạch anh đem theo từ Guatemala. Thực tế, chúng là thứ duy nhất từ quê nhà mà tôi còn giữ được kể từ khi các hạt tz’ite bị vụn ra thành đám bụi cám màu hồng và tôi phải dùng những viên kẹo bon-
bon để thay thế. Tôi chỉ rải chúng ra - tức là chơi cờ Hiến tế - có vài lần từ khi đến Mỹ. Nhưng khi lần đầu tiên ngồi trong căn phòng Ganzfeld dưới tầng hầm ở Provo, hồi hộp đến cứng đơ người, xem ra tôi lại tiến bộ hơn sau một thời gian dài không luyện tập. Đầu tiên, họ sắp xếp người tập trung trong một căn phòng phía bên kia tòa nhà, diễn nhiều cảnh khác nhau và tôi phải dự đoán các cảnh đó. Tôi đoán khá chính xác. Sau đó, chúng tôi phát hiện ra rằng các dự đoán sẽ chính xác hơn nếu liên quan đến mất mát tiền của, thương tích hay những sự việc có thật. Vài tháng sau, chúng tôi bắt tay vào thử với những sự kiện trong đời thực, như dịch AIDS, cuộc chiến dầu lửa đầu tiên hay bất cứ vấn đề khó kiểm soát nào khác. Chúng tôi nỗ lực và đạt kết quả ngày một khả quan, nhưng vẫn vấp phải những khó khăn luẩn quẩn. Taro nói chính khả năng thiên bẩm về tính toán ngày tháng đã giúp tôi chơi nhanh hơn, nhưng cho đến giờ vẫn chưa đủ sâu. Nghĩa là tôi chưa đủ tập trung, ừ thì, tôi mới chỉ là một đứa trẻ vị thành niên, tôi tập trung thế nào được cơ chứ? Tuy nhiên, năm năm sau, khi tôi quay lại cộng tác cùng Taro tại trường đại học Yale, ông ta đã từ bỏ các thí nghiệm biệt lập để quay sang tìm hiểu cách bố trí bàn cờ. Trong những ván chơi cuối cùng trước khi tôi bỏ đi, chúng tôi đã sử dụng hai quân cờ và chơi trên bàn cờ thử nghiệm tốt nhất nhưng Taro vẫn không nghĩ đó là cách bố trí chính xác của bàn cờ cổ xưa. Bàn cờ đó khiến trò chơi trở nên khó nắm bắt hơn nhưng cũng dễ chơi hơn mặc dù nó phức tạp hơn cách bố trí bàn cờ của mẹ tôi.
Tôi đã ngừng cộng tác với Taro vì một chuyện hết sức ngớ ngẩn. Tôi tưởng tiền trả cho những bài truyền đạt về cờ Hiến tế của tôi đến từ quỹ Berlancamp và phòng thí nghiệm của Taro ở Yale, nhưng té ra chúng đến từ FARMS, cái tổ chức điên rồ mà ông ta cộng tác ở Provo. Trước đó một thời gian, tôi đã biết FARMS là một tổ chức nghiên cứu giáo phái Mormon, nhằm chứng minh người da đỏ châu Mỹ là hậu duệ của bộ tộc Joseph (một trong các bộ tộc từ thời xa xưa ở Israel). Từ khi tôi gia nhập tổ chức Liên minh của người Maya, điều đó làm tôi khó chịu và tôi bắt đầu cặn vặn Taro. Người ta chẳng ai cũng dễ chịu, phải không? Tôi thật là kẻ vô ơn. Đúng vậy đấy. Taro trả lời rằng dù sao chăng nữa, số tiền đó cũng không hẳn đến từ FARMS, nó thực ra đến từ chính người tài trợ cho thí nghiệm này, và ông ta
không thể nói cho tôi biết đó là ai. Tôi nổi nóng và bỏ đi. Tôi nghĩ tất cả chuyện này khá khẩm lắm thì cũng chỉ là trò mua bán, chẳng qua là một đám người hám lợi muốn tìm cách kiếm chác ngoài chợ.
Cũng có một vài thay đổi khác nữa xảy đến với tôi. Trước khi Taro rời Utah, ông ta giới thiệu tôi với một nhóm nghiên cứu tại trường đại học Texas, họ đang tìm liệu pháp chữa trị chứng “thiếu cảm xúc” mà người ta cho là tôi mắc phải. Ông ta đã kiểm tra chắc chắn sao cho tôi không bị xếp vào nhóm đối chứng (tức là nhóm bệnh nhân không được chữa trị mà chỉ được dùng để so sánh và đánh giá hiệu quả điều trị) và đã được điều trị một khóa trọn vẹn. Vừa hay đến lúc tốt nghiệp đại học và cuốn gói khỏi New Haven, tôi đã có được cái cảm giác gọi là cảm xúc thực. Tôi bắt đầu làm quen với những điều mới mẻ về con người. Ví như, lần đầu tiên trong đời, tôi hiểu được thế giới bí mật của biểu hiện nét mặt và ý nghĩa của chúng, và biết con người ta làm cách nào để che giấu cảm xúc thật hoặc biểu lộ những cảm xúc giả dối. Những điều hết sức kì quặc! Cả một thế giới mơ hồ của phép xã giao đang ẩn nấp đâu đó ngoài kia với những sự làm bộ làm tịch, những tấm mặt nạ, những câu bóng gió mập mờ và những lời trí trá. Tôi trở nên nhạy cảm với vẻ bề ngoài của mình, hay nói đúng hơn, tôi bắt đầu nhận ra mình có một vẻ bề ngoài. Tôi giảm được ba mươi pao và giữ ở mức đó. Tôi đọc một cuốn sách có nhan đề “Tán gái như thế nào”. Tôi hít đất 182.520 lần. Tôi chuyển tới Grand Avenue ở Los Angeles. Tôi vớ lấy vài cô ả để nhân tình nhân ngãi. Tôi quyết định sẽ trở thành nhà điểu cầm học. Tôi bắt đầu sử dụng trò chơi vào việc đầu tư và lập tức kiếm ra tiền, nhưng có lẽ cũng chỉ do may mắn. Tôi làm việc này là có lý do, bởi khi đó, việc điều trị dự phòng bệnh máu khó đông tuýt B tốn khoảng ba trăm ngàn đô la một năm, mà nếu không điều trị thì anh sẽ phải suốt ngày bận tâm đến những vết bầm tím, xướt xát và quanh năm lo cầm máu chẳng khác gì Super Mario (nhân vật trong trò chơi điện tử chiến đấu để giải cứu công chúa). Tôi từ bỏ ý định với môn điểu cầm học vì tôi phát hiện ra rằng người ta đã biết tất cả những gì cần biết về lũ chim chóc ấy rồi. Tôi quyết định đi chuyên sâu vào môn cờ vua. Tôi nâng thứ hạng của mình trong Liên đoàn cờ vua quốc tế lên 2380. Nhưng đến ngày 11 tháng 5 năm 1997, khi Kasparov bị Deep Blue đánh bại (Gary Kasparov – nhà vô địch thế giới môn cờ vua đã bị Deep Blue – một chương trình máy tính đánh bại năm 1997), tôi đã từ bỏ ý định chơi cờ chuyên nghiệp. Chơi cờ chuyên nghiệp để làm gì cơ chứ? Cũng chỉ như một cái máy thôi. Tôi quyết định chuyển tới Seoul và học chơi cờ vây chuyên nghiệp. Tôi học ít tiếng Hàn Quốc. Rồi té ra muốn học tiếng Hàn Quốc thì phải học tiếng Trung Quốc trước, nên tôi đi học tiếng Trung Quốc. Tôi từ bỏ ý định chơi cờ vây chuyên nghiệp vì té ra ở châu á không có empanadas de achiote (một món bánh quen thuộc của người Guatemala). Tôi quyết định trở thành một nhà nghiên cứu sinh vật biển. Tôi rời Los
Angeles và chuyển tới Miami. Tôi từ bỏ ý định nghiên cứu sinh vật biển vì cái trò xét nghiệm mẫu nước và ghi lại tất cả các loại chất thải độc hại điển hình thật chán không để đâu cho hết. Tôi quyết định học sinh vật và chuyên sâu về phản ứng giác quan trước kích thích hóa học. Tôi từ bỏ việc làm đàn cello vì cái đống nào sơn dầu, nào vec-ni, nào keo dán. Tôi quyết định học khứu giác học. Rồi tôi lại bỏ ý định trở thành nhà hóa học bởi lĩnh vực ấy bị công nghiệp hóa đến nỗi nếu mọi việc cứ tiến triển nhanh như vậy thì tôi bắt kịp được một phân tử đã là may mắn lắm rồi. Tôi quyết định rời bỏ khoa học để viết tiểu thuyết. Tôi chuyển tới Williamsburg, Brooklyn. Tôi viết vài bài báo về trò chơi điện tử và những thứ linh tinh khác cho các tạp chí như Wired, Artforum hay thậm chí cả Harper’s Bazaar.Vị biên tập viên ở đó bảo tôi rằng giọng văn hài hước và xấc xược là điều bắt buộc. Tôi đi lang thang, uống rượu whisky và tán tỉnh vài cô ả. Cuộc sống như vậy không kéo dài lâu. Tôi bắt đầu giao dịch hàng hóa qua mạng. Tôi từ bỏ ý định trở thành tiểu thuyết gia vì khi đi sâu hơn vào lĩnh vực ấy, tôi phát hiện ra rằng thậm chí đến thời buổi này, người ra vẫn còn thích các nhà văn viết về một số vấn đề ít ỏi nhất định. Người ta thích anh viết về những thứ như cảm xúc, động lực, biểu hiện bản thân, các mối quan hệ, gia đình, tình yêu, sự mất mát, giới tính, chủng tộc, sự chuộc tội, đàn ông, đàn bà, đàn ông và đàn bà, bản sắc cộng đồng, chính trị, chính trị cộng đồng, nhà văn, Brooklyn, các nhà văn ở Brooklyn, các độc giả ước mình là nhà văn ở Brooklyn, bản thể, khách thể, bản thể và khách thể, giới học giả, chủ nghĩa hậu thực dân, sự trưởng thành, ngoại ô, thời kỳ 1970, 1980, 1990, trưởng thành tại vùng ngoại ô vào những năm 1970, 1980, 1990, cá tính, địa danh, con người, những con người cần con người, tính cách, nhân vật, đời sống nội tâm của nhân vật, sự sống, cái chết, xã hội, nhân bản và có khi cả Ireland nữa. Và dĩ nhiên, tôi chẳng có chút hứng thú nào với những thứ ấy. Ai cần nghe chuyện đời sống nội tâm của nhân vật cơ chứ? Tôi thậm chí còn chẳng hứng thú với nội tâm của chính mình. Tôi quyết định trở thành tay chơi Hold’em (một hình thức chơi bài poker phổ biến nhấ hiện nay) chuyên nghiệp. Tôi chuyển tới sống tại Reno, bang Nevada. Thời ấy, quanh bàn cờ bạc có nhiều thằng ngu đến mức hầu như gã nào chỉ biết đếm là có thể kiếm được tiền. Tôi cũng kiếm được ít nhiều. Tôi thực hiện vài tính toán giúp các sòng bạc tại khu dành riêng cho người da đỏ bản xứ ở Utah, Arizona, Florida và nhờ thế đã tìm ra mánh khóe mới để lòe dân da trắng. Thế là lại kiếm thêm được ít tiền. Tôi từ bỏ ý định kiếm sống bằng trò ảo thuật với bài poker vì giao dịch hàng hóa đã đem lại cho tôi nhiều hơn số tiền mà tôi kiếm được ở cả chiếu bạc thật lẫn ảo trên mạng mà lại đỡ được vô khối công sức giao tiếp với thiên hạ. Tôi liên tục viết bài cho tạp chí Strategy. Thế là lại kiếm thêm được ít tiền.
Tiền. Phải rồi. Tôi nghĩ nên đề cập đến chuyện đó.
Đến năm 2001, nếu không quá bận tâm về chuyện phải mặc áo vét may
sẵn thì tôi đã có đủ tiền để làm những gì tôi muốn. Tôi đi tìm Không Đời Nào, anh bạn chí thiết của tôi ở làng T’ozal – vào thời điểm đó, Không Đời Nào đang tham gia tổ chức kháng chiến Enero 31 (nghĩa là 31 tháng Giêng - tiếng Tây Ban Nha), tổ chức đi vào hoạt động bí mật từ sau thỏa thuận ngừng bắn năm 1996. Tôi lưu lại bốn năm ở Guatemala. Tôi làm việc cho người quen của cậu ta ở tổ chức CPRs – Đoàn thể kháng chiến nhân dân – và âm thầm tìm hiểu xem chuyện gì xảy ra với cha mẹ tôi (tôi thật có lỗi). Tôi đến gặp rất nhiều vị h’men lớn tuổi để hỏi về cờ Hiến tế. Tôi xác nhận nhóm nghiên cứu của Taro đã đúng, đã từng có một phiên bản hoàn chỉnh và phức tạp của trò chơi, nhưng giờ chỉ còn là một ký ức lơ mơ và rời rạc. Hầu hết các h’menob’ già đều sử dụng cùng một lối chơi như nhau, bị lược bỏ rất nhiều và thậm chí dựa chủ yếu vào bản năng, họ giống như những bệnh nhân Alzheimer (một chứng tâm thần phân liệt), tuy không thể chơi bài bơ-rít đúp được nữa nhưng thỉnh thoảng vẫn chơi trò “đi đêm”.
Tôi không lần ra được phiên bản nào hoàn chỉnh hơn của trò chơi. Nhưng mục tiêu bí mật thứ hai lại gây cho tôi nhiều rắc rồi tới mức đến tận năm 2011, cơ quan cảnh sát trung ương vẫn còn gửi trát bắt giữ tôi. García Torres vẫn ở trong quân đội và đã lên hàm tướng, theo đúng kiểu ở Guate. Không Đời Nào và tôi lập hẳn một hồ sơ về hắn - hắn có những thói quen gì, có bao nhiêu cơ ngơi và ở những đâu, hay lui tới những sới chọi gà nào và vào những lúc nào, vệ sĩ riêng của hắn sống ở đâu, tất tật. Nhưng hẳn là tôi thực hiện việc này chưa đủ kín đáo, bởi một đêm, Không Đời Nào – người có uay là một con chó sói, có khả năng di chuyển lặng lẽ trong bóng đêm – đã lén thám thính và cho biết cậu ta nghe đồn cảnh sát mật đã nắm được hết thông tin về tôi. Cậu ta nói tôi có hai lựa chọn, hoặc là chuồn đi trước khi trời sáng, hoặc là bốc hơi. Tôi chuồn đi. Tôi chuyển tới Indiantown, nơi sinh sống của cộng đồng người Maya di cư, nằm bên bờ hồ Okeechobee, cách bờ Đại Tây Dương của Florida chừng hai mươi dặm về phía đất liền.
Ở Florida đã xuất hiện những lời xì xào về khả năng dự đoán chính xác của tôi thông qua cờ Hiến tế và tôi không thể tránh khỏi việc phải tiếp một vài khách hàng. Tuy thế, tôi vẫn không thể trở thành một người đếm mặt trời vĩ đại của cộng đồng. Rắc rối đầu tiên là một người đếm mặt trời phải chén chú chén anh rất nhiều, chí ít là ở một ngôi làng truyền thống, mà rượu cồn thì chưa bao giờ giúp hàn gắn được vết thương của tôi. Đối với tôi C2H6O (công thức hóa học của ethanol, tức rượu cồn) là thứ ma túy dành cho những kẻ đáng thương, bất kể người ta đóng chai nó đẹp đẽ đến mức nào. Vấn đề nữa là phần lớn công việc của nghề này là làm cho người lắng nghe, làm cây cột trụ vững chắc cho truyền thống của cộng đồng, làm nơi chứa đựng toàn bộ tri thức của địa phương. Thế thì có gì hay ho kia chứ? Làm bác sĩ tâm thần cũng vậy thôi, người chuyên giải quyết rắc rối của kẻ khác. Vả lại, nói thật, phần lớn người đếm mặt trời cũng làm nhiều trò lừa đảo như hỏi
dò, tìm hiểu trước, dùng chân gỗ hay thậm chí cả làm trò ảo thuật. Và tôi không thể thực hiện những việc liên quan đến tâm linh với cảm giác tội lỗi, tôi ghét mị dân như một số kênh truyền hình vẫn làm. Thật đau lòng khi chứng kiến họ tuyệt vọng và cả tin đến mức nào. Thiên hạ đã không ít lần nói tôi hơi quái tính quá về việc này vì nó nghe như một trò bịp bợm thôi chứ có gì đâu. Có lần người ta thực hiện khảo sát về những nghề được coi trọng và không được coi trọng, nghề “bói toán” được xếp vào hàng gần bét, ngay trên nghề tiếp thị qua điện thoại.
Điều này dẫn tới một câu hỏi tế nhị: “Nếu Jed có thể làm được như anh ta nói, vậy sao anh ta không giàu?”
À, câu trả lời hết sức đơn giản: thực ra tôi có giàu.
3
Tôi ghét tự truyện của chính mình. Thiên hạ ghét tất cả các loại tự truyện. Tự truyện là thứ văn chương kinh tởm thứ nhì trên thế giới, chỉ sau loại thơ hai-kư (Thể thơ ba câu của Nhật Bản) được viết ra ở Anh. Lần cuối cùng bước chân vào một hiệu sách – chỉ là tiện đường rẽ vào uống một tách cà phê cannabispresso (Một loại cà phê pha với thảo mộc và mật ong) - tôi vớ lấy một cuốn tự truyện của Ava Gardner trong lúc chờ đợi, và câu đầu tiên như sau: “ở hạt Johnston, Bắc Carolina, anh không thể làm nông dân nếu không có lừa”. Ừ hứ, dễ thương đấy, Ava, nhưng nói thật, nếu đến cuối trang này mà chị vẫn chưa ngủ với Horward Hughes, Frand Sinatra, Johnny Stompanato Artie Shaw, Mickey Rooney hay một kiểu kết hợp nào đó giữa những nhân vật trên – hay trừ phi chị dẫn dắt câu chuyện đến sự ví von của giữa dái của con lừa ấy và của Frank – thì cuốn sách của chị sẽ lao đầu vào sọt rác. Tất cả các cuốn tự truyện đều y sì nhau, luôn là “được thôi, vì tôi đã thu hút được ít nhiều sự chú ý nên tôi kéo anh đi xem một lượt tất cả những việc đã xảy đến với tôi cho dù đến 99,44% trong số đó đều là những sự nhảm nhí có thể xảy đến với bất kỳ ai”. Vì thế, nếu độc giả đọc được điều gì đó trong cuốn sách này thì đó cũng phải là đề tôi mặc dù tôi có xuất hiện trong đó. Đó không phải là chuyện về tôi, mà là chuyện về cờ Hiến tế.
Ồ, được rồi. Nói một cách ngắn gọn, chúng ta sẽ coi trò chơi như một mỏ vàng. Nào, bây giờ hãy cùng quay sang một câu chuyện khác. Vào giờ canh đêm thứ tư của ngày Cú 4, Vàng 4, 12.19.17.16, - hay theo cách tính mới là 4 giờ 30 phút sáng ngày thứ 6, 23 tháng 12 năm 2011, chỉ số Nikkei (Chỉ số chứng khoán của Nhật Bản) đóng cửa tăng 1,2% và đẩy tổng giá trị ước tính của danh mục đầu tư của tôi lên trên mức năm triệu đô la. Lúc ấy tôi đang ngả ngốn trên sàn nhà, - tôi thích nằm thư giãn trên sàn đá hoặc sàn xi-măng – mắt hấp háy nhìn lên một màn hình lớn trên trần thấp của cái mà tôi gọi là nhà, nằm chếch về phía Tây Indiantown, cách hồ Okeechobee đúng một khu nhà bỏ hoang, nơi cư trú của lũ ếch ương lưỡng tính lắm hoóc môn sinh dục nữ. Nhà không hẳn ra nhà mà là một cửa hiệu bán cá cảnh bị vỡ nợ có tên là “Lenny’s Reefin’ Stall”, cái cửa hiệu ấy tôi đã tịch thu để trừ nợ cùng với toàn bộ tài sản bên trong và giờ đã trở thành một cuộc thí nghiệm đời sống chung giữa nhiều loài động vật, trong một không gian 450.000 feet khối. Nguồn sáng duy nhất của căn phòng là ánh xanh biếc sáng rực rỡ hắt ra từ chiếc bình trụ 440 ga-lông (Tương đương khoảng hơn 1664 lít) chứa những con Bajaja nudibranchs, một loại sên biển màu sắc sặc sỡ có mai.
Cha mẹ ơi, tôi nghĩ, nheo mắt nhìn lên màn hình. Sau bao nhiêu năm xoay sở mò mẫm, cuối cùng tôi đã tìm ra cách sử dụng trò chơi để kiếm ra tiền thật. Trò chơi cũng không hữu ích ở sòng bạc, dĩ nhiên, bởi nó quá chậm. Nó cũng không lợi ích gì với trò xổ số vì trò này gần như hoàn toàn hú họa. Trò chơi chỉ bói được những việc mà người chơi hiểu về chúng. Về cơ bản, nó giúp anh ta nhận thức được sự việc. Điều đó không giống như tiên đoán trước tương lai, nó cũng chỉ mò mẫm trong bóng tối như hầu hết mọi người. Nói đúng ra, trò chơi cũng hơi có kết quả với trò đua ngựa và cá cược thể thao, nhưng tôi đã phải tìm hiểu mọi điều có thể về đường đua và các con ngựa được đưa vào danh sách đua, và đến khi hết vài lượt thì tôi chỉ còn vừa đủ thời gian để đặt cược trước khi có chuông kết thúc. Vì vậy, tôi cần tìm món gì đó diễn biến chậm hơn. Tôi bèn tìm hiểu về chứng khoán một cách nghiêm túc. Nhưng trò này hú họa hơn tôi tưởng và tôi suýt thì bỏ cuộc khi thử chen chân vào thị trường ngô giao sau (Một hình thức giao dịch hàng hóa trên thị trường chứng khoán, trong đó mặt hàng là ngô. Các nhà đầu tư mua và bán ngô từ trước khi được thu hoạch với giá cả dao động tùy thuộc vào dự đoán của họ về giá cả ngô tương lai).
Lợi thế của trò giao dịch hàng hóa là chu kỳ gặt hái kéo khá dài. Vả lại, sân chơi này cũng ít người tham gia. Vì thế, tôi thu thập thông tin của hầu hết các nhà đầu tư lớn và đặt họ vào vị trí của những người chơi vắng mặt trong một ván cờ Hiến tế lớn. Thông thường, tôi mô phỏng khoảng hai mươi lượt để dự báo thời tiết trong tương lai xa, sau đó mua quyền chọn phái phát sinh (Tức là quyền mua hoặc quyền bán) của mặt hàng nào có xu hướng kém rõ rệt. Chẳng bao lâu sau, tôi bắt đầu thấy thích thú với trò chơi này, chưa quá ham mê, nhưng rõ ràng là có. Sáu tháng trước, tôi gửi ngân hàng nửa triệu đầu tiên và bây giờ, tôi sắp mua được máy bay riêng. Nói đến chuyện này, tôi nghĩ bụng, mình phải thu lại ít tiền mới được, ý hay đấy. BÁN 3350 HỢP ĐỒNG GIAO THÁNG 12 với giá 223 trên THỊ TRƯỜNG vào GIỜ MỞ CỬA, tôi nhấp chuột. A ha. Tôi nhấn nút HOÀN TẤT GIAO DỊCH, đếm các con số không tới hai lần và lại ngả lưng xuống sàn.
Hết sảy, tôi nghĩ. U ra! Ta là CHÚA TỂ của cả cái vụ CHẾT TIỆT này! !! DOMINO EL MUNDO!! (Thống trị thế giới này! - tiếng Tây Ban Nha). Ta thống trị thế giới ảo!!! Rốt cuộc, tôi đã là kẻ ăn người chứ không phải để người ăn. Cứ như là hai con mắt vốn nằm ở hai bên đã di chuyển vào giữa khiến tôi nhìn thông tỏ mọi việc như một cái ống nhòm vậy. Là kẻ ăn thịt chứ không phải con mồi. Quỷ tha ma bắt nó đi. Các ngươi sẽ thấy Jed này giàu có xa xỉ đến mức nào.
Ừm, tiếp theo nên làm gì đây? Hừ, tôi tự nhủ, quyền lực vĩ đại đi liền với trách nhiệm to lớn. Tôi phải sử dụng khả năng của mình vào mục đích tốt. Tôi gọi điện cho Todd Rosenthal của Nasples Motorsports (Hàng sản xuất và phân phối ô tô thể thao). Hắn là một con cú ăn đêm sớm và hắn đã
vớ được mẻ làm ăn này.
- Được, tôi lấy con Cuda, - tôi nói. Đó là một chiếc Metalflake Aztec Red 1970, mui cứng hình bán cầu có thể gấp lại, khối xy-lanh đường kính 383, không kim loại tái chế, công nghệ điện tử tiên tiến, một con xe khổng lồ còn “zin” mà tôi đã để mắt đã lâu. Tôi mặc cả xuống còn 290 ngàn đô la. Todd nói hắn sẽ cho chuyển chiếc xe cùng toàn bộ giấy tờ đến vào lúc 9 giờ sáng, thế là tôi chẳng còn đủ thì giờ mà nghĩ lại. Xong.
Phào. Một việc đáng làm. Góp phần mình vào một thế giới tốt đẹp hơn. Tôi không muốn để một con khỉ làm xiếc (Ý nói kẻ phô trương lố bịch) nào đó mua được một kiệt tác nghệ thuật như thế này. Tôi đã có một chiếc “73 Road Runner” đỗ ngoài cửa, thêm một chiếc Barracuda gửi ở ga-ra Villanuevas, nhưng vẫn chưa thỏa mãn. Ý thích của tôi thuộc loại khác thường. Nhưng như vậy hay hơn là giống bình thường. Nào, thêm gì nữa nhỉ? Hay là một ngôi nhà nhỏ gần biển. Một khu đất tầm tầm thôi, với một ổ bánh mì, một bình nước cam, một bể san hô cá cảnh hai mươi ngàn ga-lông, một bể sục Jacuzzi năm ngàn ga-lông, hai cô nàng diễn viên khiêu dâm Nhật Bản và nhạc Rock Columbia triền miên. Những thú vui thật đơn giản. Những ả đàn bà Á Đông đàng điếm thì chỉ thích tiền trả ngay. No problemo (Không thành vấn đề - tiếng Tây Ba Nha).
Dĩ nhiên, cơn bốc đồng đó không kéo dài lâu. Hai giờ đồng hồ sau, tôi vẫn ngồi ở đúng chỗ yêu thích của mình trên sàn nhà, nhìn lên màn hình phía trên đầu và xem bói cho một khách hàng – một trong số ít người mà tôi không nỡ từ chối – Xơ Flor de Mayo, đến từ trường Grace Rural. Xơ đang băn khoăn suy tính liệu có nên nghỉ hưu trong năm nay hay không.
- ¿Podré caminar después de la operación ? (Sau phẫu thuật liệu tôi có đi lại được nữa không? - tiếng Tây Ban Nha) – Giọng nói già nua của bà xơ vọng qua thiết bị loa ngoài.
- Déme un momento (Xơ chờ con một phút), tôi đáp. Tôi gặp chút khó khăn vì lịch phẫu thuật của xơ ấy rơi vào buổi sáng, và vì một số lý do nào đó, trò chơi luôn tỏ ra hiệu quả hơn so với những sự việc xảy ra vào cuối ngày. – Estoy dispersando estas semillas amarillas y las semillas negras… (Con đang rải nốt chỗ hạt vàng và hạt đen này).
Thư tịch cổ. Từ đó bỗng nhiên nhảy vào dòng thứ tự ưu tiên trong cửa sổ tìm kiếm Google trên màn hình dùng cho việc giao dịch của tôi. Tôi nhấp chuột. Thường thì những gì xuất hiện ở đây đều được đăng tải từ những nguồn mà ít người biết tới, ví như Tổ chức nghiên cứu cổ Mesoamerican hay trang web Cyberslugs Webring, nhưng đây lại là một bài viết của tạp chí Times:
Cuốn sách cổ…
Oa, Tzam lic.
Cảm giác chớp giật dưới da.
Cuốn sách cổ còn nguyên giá trị
đến ngày nay
được giải mã tại Đức
“Thư tịch Nurnberg (thành phố nằm ở Đông Nam nước Đức) – một cuốn sách của người Maya dày tám mươi trang nằm lưu cữu và bám dày bụi từ những năm 1850 trong thư viện quốc gia Germanisches đặt tại thành phố rốt cuộc đã được giải mã.
Tấm ảnh chỉ chụp nửa trên một trang của cuốn sách Maya, một bức tranh tinh tế vẽ hình cái mà họ gọi là “Báo đốm hoa súng” nằm giữa những đường viền chạm khắc theo phong cách thời kỳ cổ Maya. Tức là những họa tiết đó có từ năm trước năm 900 Công nguyên.
Ni modos. Không thể nào, tôi nghĩ.
- ¿ Joaquinito? ¿ Está alli? (Joaquinito, cậu có ở đấy không?) – Tiếng Xơ Flor hỏi.
- ¿Mardre? Perdóneme,(Xơ đấy ư? Con xin lỗi) – tôi đáp, - No estoy teniendo mucha suerte con las calaveras esta noche. ¿Usted piensa que podría venir mañana y la intentaremos otra vez? (Tối nay con không may mắn lắm với các hạt sọ. Hay ngày mai sơ quay lại, chúng ta thử lại nhé?)
Xơ ấy trả lời dĩ nhiên, con thân mến. Tôi cảm ơn và đóng màn hình đó lại.
En todos modos (Đành vậy).
Tôi phóng to bức hình chụp cuốn sách – kể từ khi xuất hiện một thành tựu đỉnh cao của con người gọi là chuột laze Logitech, tôi chỉ cần vẩy môt ngón tay là làm xong việc ấy – và xoay cận cảnh vào những họa tiết hình con số. Hừm. Tôi thấy kiểu chữ này hơi có dáng dấp của thời kì hậu cổ điển. Tuy nhiên, nom nó không có vẻ gì là giả mạo cả. Những chữ giả mạo thường hoặc quá xấu, hoặc quá đẹp. Và theo tôi được biết, cuốn Thư tịch Nurnberg có xuất xứ khá rõ ràng. Người ta dự tính lên kế hoạch giải mã cuốn sách này từ ít nhất là năm mươi năm nay. Có lẽ đó là một cuốn sách từ thời cổ được sao chép vào thời kỳ hậu cổ điển…
Hừm.
Một nhóm ký hiệu ngày tháng có vẻ hơi nhòe. Tôi phóng to lên và tăng độ nét. Nó hơi mờ nhưng hình như là Chim đuôi seo 7, Dơi 7, 12.19.17.7.7, tức là ngày mùng 2 tháng 6 năm 2010, trùng với thời điểm xảy ra vụ sập máy gia tốc phân tử tại trường đại học Công nghệ Mixteca tại Oaxaca (Một bang của Mexico). Hai thành viên của một tổ chức Zapatista (Tổ chức thuộc phong trào Quân đội giải phóng miền Nam của Mexico) của người Tzotzil đã vào tù vì tội phá hoại, người ta cho là họ, bằng cách nào đó, đã gây ra vụ việc này, nhưng tôi và tất cả những người có suy nghĩ đúng đắn đều cho rằng họ vô tội. Cảnh tượng khu vực bị sập nhìn từ trên cao cho thấy một khoảnh đất rộng khoảng hơn nửa dặm bị khoét nông, bao quanh bởi một viền cát bị
nung nóng chảy thành chất thủy tinh màu xanh tối.
Hừm…
Sau khi rời Tân Thế Giới để đến với châu âu, những trang sách làm từ vỏ cây sung – có lẽ được viết từ hơn một ngàn năm trước – dã dính chặt lại với nhau trong nhiều thế kỷ thành một thứ gần như cục gạch cứng. Trước đây, các nhà nghiên cứu không sao tách được các trang giấy được xếp gấp lại do người Maya đã sử dụng kỹ thuật in với một hợp chất dính như keo làm từ da sống của động vật. Giải pháp là: Kính hiển vi âm học chụp xuyên thấu hay STAM, một thiết bị có khả năng “nhìn thấy” mực xuyên qua các trang giấy dính nhau.
“Đây là sự kiện lớn nhất trong lĩnh này của chúng tôi kể từ sau lần phát hiện ra quần thể lâu dài của trung tâm nghiên cứu Mesoamerica tại trường đại học Central Florida kiêm giám đốc dự án giải mã cuốn sách, cho biết, - “Rất ít di khảo văn tự của người Maya sống sót được qua thời kỳ chinh phục”. Ý ông ta ám chỉ cuộc chinh phục châu Mỹ của người Tây Ban Nha bắt đầu vào khoảng năm 1500 Công nguyên.
Ôi chao, cuộc chinh phục châu Mỹ!
Cuốn thư tịch (nhiều nội dung sẽ được đăng tải trên tạp chí Dân tộc học đầy uy tín vào năm tới) là một trong bốn “cuốn sách” duy nhất của người Maya thoát khỏi tay các thế lực Thiên chúa giáo.
Weiner và nhóm nghiên cứu của ông đến nay vẫn chưa tiết lộ nội dung chính xác của văn bản dưới dạng chạm khắc trong cuốn sách. Tuy nhiên, trong giới học giả Maya đã xuất hiện tin đồn rằng trong cuốn sách có một bức vẽ mô tả “cách bố trí bàn bói toán” hình chữ thập, đó là một loại trò chơi dùng để đoán trước tương lai, cùng một chuỗi những dự đoán chính xác đến kỳ lạ những thảm họa có thật, rất nhiều trong số đó xảy ra hàng thế kỷ sau khi cuốn sách được viết ra.
Người Maya hưng thịnh ở khu vực Trung Mỹ từ khoảng năm 200 Công nguyên và những điều thần bí của họ suy tàn vào năm 900. Nền văn minh của họ phát triển rất cao với hệ thống chữ viết phức tạp và nền toán học, thiên văn học, kiến trúc, xây dựng bậc thầy, bằng chứng là những kim tự tháp đồ sộ được xây dựng khắp nơi, từ Honduras đến bán đảo du lịch thời thượng. Nét bí ẩn hơn nằm trong đời sống tâm linh độc đáo của họ với những nghi lễ đẫm máu và tục hiến sinh, cũng như hệ thống lịch liên hoàn phức tạp, có khả năng dõi theo diễn biến của các vì sao và dự đoán những sự việc sẽ xảy ra trên mặt đất trong tương lai xa. Ít nhất, một trong những ngày tháng đó từ lâu đã trở nên quen thuộc với giới học giả Maya và trong vài năm trở lại đây, cũng đã được giới không chuyên biết đến: đó là ngày 21 tháng 12 năm 2-12, với cái tên quen thuộc hơn là ngày Chúa tể 4.
Ý họ là ngày Kan Ahau, Ox K’ank’in, tức là ngày Chúa tể 4, Gân vàng 3, 13.0.0.0.0. Lại một tin đồn thất thiệt về ngày tận thế. Rõ lũ ngốc.
Có lẽ tôi nên kể chuyện này, từ hồi còn học lớp bảy, tôi đã có vấn đề tương đối lớn với cái ngày này. Thiên hạ lúc nào cũng hỏi tôi về nó và tôi cứ phải giải thích mãi rằng việc coi ngày đó là ngày phân xử cuối cùng là một cách lý giải cực kỳ, cực kỳ cường điệu. Ngày 21 là một ngày hệ trọng, điều đó không phải bàn cãi, nhưng nó không nhất thiết phải là ngày chấm dứt một điều gì đó, chứ chưa nói đến chấm dứt tất cả mọi điều. Nó trở nên to chuyện chẳng qua vì đời có quá nhiều kẻ cuồng tín ngu xuẩn, và họ thất vọng vì chả có mấy thảm họa xẩy ra vào thời điểm chuyển giao giữa hai thiên niên kỷ theo Tây lịch, và họ lại hoàn toàn không ngờ đến sự kiện 11 tháng 9. Vì thế họ phải moi ra cho một ngày khác hợp lý để làm ngày tận thế. Khi nào thế giới đi đến hồi kết thúc thì nhà thờ chắc chắn sẽ lên ngôi. Bởi vì, các bạn biết đấy, cứu rỗi để làm gì nào? Một trò lừa đảo cũ rích nhưng chưa bao giờ lỗi thời.
Nếu anh tình cờ có dù chỉ một phần tám dòng máu thổ dân bản địa trong người, anh sẽ hiểu thế nào là cảnh những kẻ đầu óc rỗng tuyếch tìm đến mình và cư xử như thể người anh bốc ra mùi linh thiêng vậy. Nếu một nhân vật thổ dân xuất hiện trong phim thì đến chín mươi tám phần trăm khả năng anh ta có khả năng ngoại cảm, nếu không thì là biết di chuyển đồ vật từ xa, bàn tay chữa lành được vết thương, đôi khi còn có cả mắt sau gáy. Và thứ nhảm nhí về năm 2012 là quá đáng nhất. Mỗi người suy diễn một kiểu, và điểm chung duy nhất giữa các cách suy diễn đó là tất cả đều sai. Nào là người Maya phát hiện được một hành tinh sẽ va vào trái đất vào ngày đó. Nào là người Maya đã rời thành phố của họ để bay lên sao Kim và họ sẽ quay về vào khoảng thời gian đó. Nào là người Maya biết ngày hôm đó sẽ xảy ra một trận động đất, một trận núi lửa phun trào,một trận dịch bệnh, trái đất sẽ quay về kỉ băng hà trong chớp mắt, nước biển cạn bất thình lình, hoặc cả năm thứ trên. Nào là họ biết đến ngày đó, hai cực trái đất sẽ đảo ngược. Nào là đến ngày đó mặt trời vàng của chúng ta sẽ tắt và mặt trời xanh lam sẽ thay thế. Nào là Quetzalcoatl (Đấng sáng thế, vị thần bầu trời theo quan niệm cũ của người Aztec) sẽ trở về trong một cơn lốc xoáy đa chiều, trên một chiếc đĩa bay màu xanh ngọc. Nào là thể hợp nhất thăng hoa của năm nhân tố vũ trụ là đại dương, bầu trời, mặt đất, thánh thần và sự thật sẽ được tự động gieo rắc khắp nơi nhờ thể plasma vũ trụ. Nào là thời gian sẽ quay trở lại điểm xuất phát. Nào là bò rừng châu Âu và voi răng mấu sẽ chạy loạn trên đường cao tốc I – 95. Nào là lục địa Mu bị chìm đắm sẽ nổi lên từ nền đứt gãy Galápagos (một nền địa chất nằm dưới đáy biển). Nào là Joseph Smith Jr (Vị tiên tri giáo chủ đầu tiên của dòng Thánh Ngày Cuối) – vị thánh vĩ đại không kém gì một Madhi (Hậu duệ của đấng tiên tri Mohamad theo quan niệm của người Hồi giáo Shia) thực sự sẽ xuất hiện trên đỉnh Golan trong chiếc áo phông in hình ban nhạc U2. Nào là Shirley MacLaine (Diễn viên điện ảnh người Mỹ) sẽ trút bỏ bộ lốt con người và hiện nguyên
hình là Minona (Vị nữ thần châu Phi, chuyên coi sóc mùa màng và bảo vệ thế giới), hay Minerva (Tên khác của nữ thần Athena trong thần thoại Hy Lạp), hay Mama Cocha (“Mẹ biển” – nữ thần của biển khơi theo truyền thuyết của người Inca), hay Yoko (Tinh cáo, theo quan niệm của người Nhật Bản), hay Mori (Thần rừng, theo quan niệm của người Nhật Bản), hay Mariammar, hay Mbabamuwana, hay Minihaha (Các vị thần trong tín ngưỡng của thổ dân Bắc Mỹ). Nào là diễn viên Scarlett Johansson sẽ đẻ ra một con bò rừng trắng như tuyết. Nào là chỉ số chứng khoán NASDAQ sẽ chạm mức 3.000 điểm. Nào là lợn sẽ biết bay, ăn mày sẽ đổi vận, mèo lại hoàn mèo, vân vân và vân vân.
Tuy vậy, mặt khác, các bạn cũng phải công nhận rằng tính chính xác của ngày tháng, ngày 21 tháng 12 năm 2012, thực sự ẩn chứa điều gì đó đặc biệt gở, khiến người ta có cảm giác ghê ghê. Ý tôi là nó không giống những lời sấm mở của Nostradamus (Chiêm tinh gia người Pháp nổi tiếng với những lời sấm khó hiểu) mà người ta có thể suy diễn thành bất cứ thứ gì và thứ gì nghe cũng có vẻ hợp lý. Cố nhiên, chúng tôi, tức là người Maya chúng tôi, luôn khá tự tin với tiên đoán của mình.
Đó là ngày mà người ta chờ đợi đã lâu, ngày cuối cùng trong hệ thống lịch Long Count, hệ thống lịch tế chuẩn xác một cách đáng kinh ngạc của người Maya, có thể suy ra theo lịch Thiên chúa giáo một cách chính xác. Một năm nữa, vào ngày đó, vòng quay thời gian của người Maya sẽ kết thúc.
Thái độ của Weiner đối với viễn cảnh tận thế rất thờ ơ: “Chúng tôi chưa có kế hoạch công bố kết quả nghiên cứu sau ít nhất là một năm nữa, chúng tôi muốn hoàn tất việc nghiên cứu trước. Tuy nhiên, trước tất cả những lời đồn đại về vụ sao chổi kia, tôi nghĩ chúng tôi đã công bố một vài kết quả thú vị liên quan đến Ixchel”.
Liệu có phải người Maya đã dựa vào chu kỳ xuất hiện của sao chổi Exchel để tính lịch? Các nhà thiên văn học của trường đại học Swinburne, bang New South Wales, những người phát hiện ra ngôi sao chổi này và đặt tên nó theo tên của nữ thần Ixchel (Nữ thần dưới lốt báo đốm, bảo trợ việc sinh nở và chữa bệnh trong văn hóa cổ của người Maya), hẳn nhiên nghĩ vậy. Sao chổi Ixchel có chu kỳ quay quanh mặt trời – hay quỹ đạo – là 5.125 năm, lần gần đây nhất nó xuất hiện là vào năm 3011 trước công nguyên (tương ứng với năm thứ nhất theo lịch Long Count của người Maya), chẳng bao lâu nữa người ta lại có thể quan sát được nó bằng mắt thường. Nếu có dân tộc cổ đại nào quan tâm tìm hiểu sự trở lại của nó thì chính là dân tộc Maya. Những người nhất quyết tin vào ngày tận thế sẽ phải tìm một hiểm họa khác thôi, vì khối đá lẫn khí đóng băng đó sẽ đâm trượt mục tiêu trái đất ít nhất năm mươi ngàn dặm.
Đối với 2,3 triệu người Maya hiện đang sinh sống tại khu vực Trung Mỹ ngày đó đánh dấu một sự kiện thực tế hơn: ngày 21 được chốt là ngày cuối
cùng cho những vòng đàm phán trong nỗ lực gia hạn hiệp ước giữa đất nước Trung Mỹ nhỏ bé Belize, chính phủ bảo hộ Anh quốc và nước cộng hòa Guatemala; vào năm 2010, Guatemala đã lần thứ tư trong suốt một trăm năm bất đồng, lên tiếng đòi Belize trở thành departamento (hay bang) thứ 21 của họ.
Nếu cơ hội ấy qua đi, thì ngày 21 sẽ mang đến một kỷ nguyên thảm họa mới cho người Maya, nhưng một nghị quyết mới có thể mở đầu một kỷ nguyên hòa bình ở vùng đất hỗn loạn này.
Những nỗ lực của Mỹ trong việc thúc đẩy tiến trình hòa bình đã bị phức tạp hóa bởi thực tế là chính phủ Mexico quy trách nhiệm về vụ sập máy gia tốc hồi năm 2010 tại thành phố Huajapan de Leson, bang Oxanca khiến hơn 30.000 người thiệt mạng, cho các tổ chức đấu tranh cho quyền lợi của dân bản xứ của những người theo phong trào Zapatist và các tổ chức cách mạng của người da đỏ hoạt động tại Guatemala và Belize. Nếu tình hình khu vực không được ổn định, sẽ xảy ra một rắc rối nữa liên quan đến truyền thông: ủy ban Olympic thế giới có thể sẽ dành quyền đăng cai Olympic Mùa hè 2020 cho một địa điểm khác chứ không phải Belize.
Vậy Thư tịch Nurnbreg chứa đựng những manh mối gì? Ngoài các thông số thiên văn học quen thuộc như trong các văn tự Maya khác, được biết cuốn sách còn nhắc đến ngày tháng xảy vụ sập máy gia tốc và một sự kiện thiên văn nào dó rất có thể liên quan đến sao chổi Ixchel. Nhưng việc tiên đoán tương lai dựa trên hình ảnh của các “con giáp” như thỏ, rết…
Oa.
Vệt chớp tzam lic quen thuộc bên đùi trái của tôi. Có điều gì đó không ổn ở từ cuối cùng đó. Rết.
Tôi không nắm bắt được điều không ổn đó là gì, nhưng chắc chắn nếu tôi càng cố thì nó sẽ càng tuột đi. Quay lại chuyện ấy sau vậy. … rết, hươu xanh lam và báo đốm xanh lục thì quả là hơi cường điệu. Ít nhất thì việc giải đoán cũng sẽ là một quy trình dài khó khăn. Ngoài Thư tịch, liệu bản thân trò chơi bói toán có gì để chúng ta tìm hiểu không? Giáo sư Mora, nhà vật lý học kiêm chuyên gia nghiên cứu các loại hình bói toán, người đã và đang nghiên cứu trò chơi của người Maya với sự giúp đỡ của Weiner, cho điều đó là hiển nhiên. Vị giáo sư này tuy sáu mươi tám tuổi nhưng vẫn còn rất hăng hái, vẫn làm việc mười tám tiếng một ngày và dành phần lớn số thời gian đó để “dạy máy tính cách tự học”. Ông tỏ ra vô cùng phân khích trước những điều có thể khám phá.
“Có rất nhiều điều để chúng ta học hỏi trong những phương pháp tiếp cận khoa học cổ xưa”, - Mora cho biết, - “Chúng ta đang sử dụng trò cờ vây (một trò chơi chiến thuật cổ truyền của người Nhật Bản) để phát triển những nhận thức cơ bản cho máy tính, cũng như vậy, ta có thể dùng các trò chơi khác để dạy máy tính những vấn đề khác”
Đúng đường rồi đấy, Tar thân mến . Đấy đúng là đường để đi sâu đấy, nếu ngài thực sự muốn nghiên cứu.
Khi được hỏi liệu trò chơi có ẩn giấu điều tiên liệu nào về sự chấm dứt tồn tại của thế giới không, giáo sư Mora đã hài hước trả lời rằng: “Không, nhưng nếu vũ trụ thực sự biến mất thì ít nhất chúng ta cũng biết là người Maya đã biết trước điều đó”.
Liệu “ngày cuối cùng” có báo trước biến cố gì không hay đối với tín ngưỡng của người Maya, hay thậm chí đối với cả thế giới? Nếu vậy, chúng ta phải làm gì?
Câu trả lời chung của nhiều người có thể sẽ là: “Nhập gia tùy tục, hãy làm như người Maya”. Hàng ngàn người thuộc đủ thành phần từ khắp nơi trên thế giới đang lên kế hoạch đến Chichén Itzá và các khu di tích Maya nổi tiếng khác để chờ đợi giây phút nhìn thấy ngôi sao chổi, chào đón bình minh và cầu khẩn các vị thần ban cho con người tồn tại thêm năm trăm năm có lẻ nữa. Còn phần lớn chúng ta, tuy không đi quá xa như thế, nhưng chúng ta cũng nên sẵn lòng xem xét khả năng của những người Maya bí ẩn kia thực sự có khả năng nhìn xa đến tương lai của họ… và có thể là của chúng ta nữa.
Pendejos (Lũ ngốc – tiếng Tây Ban Nha), tôi nghĩ. Đồ đần độn. Không, chờ đã. Tôi mới là người đần độn.
Tôi đã bỏ Taro lại một mình đúng vào giờ phút – không, đúng những năm tháng – mà ông ta đã bắt đầu đi đúng hướng. Tôi cảm giác như đã ôm một cổ phiếu trong suốt ba mươi năm và bán đi ngay trước lúc nó lên giá.
Hừm , - tôi nghĩ, - tôi không thể chờ đến lúc các anh quyết định công bố kết quả được. Tôi muốn nhìn thấy bàn cờ đó ngay phút này. Ngay giây này. Ngay tích tắc này.
Tôi tìm trang web của Taro. Trong đó thông báo ông ta đang làm việc ở trường đại học Central Floria – UCF, và rằng phòng thí nghiệm của ông ta hiện đang được tài trợ bởi Chương trình trao đổi giữa doanh nghiệp và UCF – tôi chỉ cần tọc mạch một chút là tìm hiểu ra – đến từ Ban mô hình thảm họa của Phòng mô phỏng giao dịch thuộc Tập đoàn Đầu tư Warren. Tôi nhớ công ty này vì họ thuê rất nhiều lao động ở thành phố Salt Lake, tôi đã đọc trên tờ Barron’s rằng vài năm trước họ có chút vấn đề đạo đức liên quan đến năng lượng thay thế gì đó. Chậc, sao cũng được.
Tôi thử lại mật khẩu được Taro cấp trước kia. Nó vẫn hoạt động và cho phép tôi tiếp cận hòm thư cá nhân của ông ta. Tôi không thể nghĩ ra câu xin lỗi nào khác nên chỉ viết rằng tôi đã đọc bài báo và tự hỏi liệu có thể đến gặp ông ta hay không, ngay hôm nay chẳng hạn. “Gửi đi”, tôi ra lệnh. Bức thư được gửi đi.
Estas bien (Tốt rồi – Tiếng Tây Ban Nha). Tôi chuyển màn hình sang chế độ kiểm tra các bể cá cảnh. Máy tính thông báo bể Vịnh đang thiếu can xi, nhưng tôi đã chẳng có hơi sức đâu giải quyết chuyện đó. Chắc gì ông ấy
đã trả lời, tôi nghĩ. Không, ông ấy sẽ trả lời thôi. Thời buổi này có cái hay là anh có thể mất liên lạc với người nào đó suốt nhiều năm rồi lại gặp lại trong nháy mắt. Hoặc thậm chí chỉ trong nửa cái nháy mắt. Chỉ có điều anh sẽ phải viện ra nhiều lý do hơn thôi.
Hừm. Chúa tể 4. 21 tháng 12 năm 2012. Thế là lại thành to chuyện đây. Ừ, thì chỉ cần chờ đến ngày 22 là biết. Chả có gì chóng rơi vào quên lãng hơn là một thảm họa không xảy ra.
Phải vậy không?
4
Chiếc Barracuda của tôi được lắp thêm tấm kính chắn gió di động, và trên đường đến thành phố Orlando, tôi tranh thủ tìm hiểu về nhà tài trợ mới của Taro: tập đoàn Warren. Té ra Chủ tịch hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc của họ là Lindsay Warren, đại gia bất động sản và là nhà từ thiện lớn ở thành phố Salt Lake, người xây dựng các sân vận động phục vụ đại hội thể thao Olympic mùa Đông năm 2002. Tôi thường khám bệnh tại một bệnh viện mang tên ông ta. Có thể ông ta chính là nhà tài trợ cho Taro thông qua FARMS. “Đại gia đình công ty của Warren” đương nhiên là một trong những tập đoàn phát triển nhanh nhất nước Mỹ. Tuy nhiên, bốn năm trước, họ đã phải đóng cửa vì vỡ nợ, và theo những gì tôi biết, không ai rõ điều gì đã giải cứu họ. Có lẽ họ trở nên kếch xù nhanh chóng như vậy là nhờ trò chơi.
Warren có vòi bạch tuộc trong mọi lĩnh vực, từ những lĩnh vực thần bí cho đến những thứ rất đỗi bình thường. Họ sản xuất thiết bị và đồ lưu niệm thể thao. Họ phát triển các biện pháp thúc đẩy con người, các hệ thống quản lý nhân sự, các phần mềm “không gian kiến thức” và các trò giải trí tương tác, tất tần tật mọi thứ dành cho các khách hàng của cả một thế kỷ mới có vô số thời gian rảnh rỗi. Đúng vào thời điểm này, họ đang tung ra một sản phẩm gọi là “Sleeker”, hình như là một loại giày hoặc giày trượt không bánh xe, có độ ma sát thấp, chạy trên nền nhựa đường được xử lý đặc biệt. Họ cũng tham gia lĩnh vực không gian vũ trụ và hợp tác nghiên cứu. Năm 2008, một trong các phòng thí nghiệm thương mại của họ đã nổi rùm beng trên báo chí với tuyên bố rằng họ đã tạo ra được cái gọi là hố giun thu nhỏ. Thứ nổi đình nổi đám nhất mà họ nhắc đến là Giao thức chuyển đổi ý thức, theo người ta nói, nó sẽ lớn hơn cả Dự án nghiên cứu Gerome (Gerome: Tập hợp chứa toàn bộ thông tin di truyền) ở người, nhưng ít nhất phải một thập kỷ nữa mới xong. Tuy nhiên, theo báo cáo hàng năm gần đây nhất, dường như nguồn thu nhập chủ yếu của họ lại là các công trình giải trí – các bảo tàng danh nhân, công ty nhượng quyền thương mại eXtreme ParX và cái mà họ gọi là công nghiệp xây dựng hình ảnh xã hội. “Tập đoàn Warren là công ty phát triển bất động sản hàng đầu trong việc xây dựng cộng đồng chuyên biệt”, đó là dòng chữ ghi trên trang web của họ. Có lẽ Phòng mô phỏng giao dịch đã bắt tay vào chu kỳ tái xây dựng, người ta liên tục phá hủy mọi thứ còn họ thì cho ra đời những thứ đẹp như thời kỳ Phục hưng, và thế là họ nhận được hợp đồng xây dựng cộng đồng dành cho dân quanh năm ghiền phim Star Trek, và giờ đây, chỉ một thập kỷ sau, họ đã chiếm lĩnh tới 95% trong một khu phát triển
dân cư mới rộng mười dặm vuông tên là Erewhynn, cách thành phố Orlando chừng năm mươi dặm về hướng Bắc. Người ta dự kiến nó sẽ giống như ngôi làng Cotswolds vào thế kỷ 18. Người dân sẽ tham dự các lớp học nghề thủ công và thổ ngữ Scotland, người ta sẽ tổ chức lễ thánh Mi-xen và các ngày hội tháng Năm và tất cả những lễ hội tương tự. Và họ còn có một khu cộng đồng chuyên biệt khác nữa có tên Blue Lagoon Reef, nằm trên một hòn đảo riêng thuộc quần đảo Bahamas. Có một khu phong kiến Nhật Bản ở Bắc Califonia. Có những nhà máy ủ rượu bia lớn ở châu Mỹ Latinh và vùng Viễn Đông. Một trang web có tên Warren Kinh Tởm tuyên truyền rằng tập đoàn Warren đang muốn xây dựng những đế quốc kinh doanh sử dụng những loại tiền tệ riêng và áp dụng những luật lệ riêng của mình, rằng họ đang chõ mũi vào các vấn đề chính trị, tuyên truyền thông qua giải trí và thay đổi suy nghĩ của chúng ta chẳng kém gì phong trào tái hợp bộ tộc và rằng, về cơ bản, họ kinh tởm.
Phòng thí nghiệm nằm trong khuôn viên của UCF tại một khu biệt lập xấu xí xây dựng theo lối trại ấp, hãy còn mới. Người ta vẫn còn thấy đường dây điện chạy trên mặt cỏ St. Augustine(St. Augustine: Loại cỏ được trồng ở nhiều nơi trên nước Mỹ) mới trồng. Mặc dù hôm nay mới là ngày đầu tiên sau lễ Giáng sinh nhưng hình như ai cũng đang làm việc. Chỗ nào cũng có những tay bảo vệ lực lưỡng như những con vượn. Họ cứ đứng bàn nhau mãi rồi cuối cùng mới gọi cho Taro qua cái đống tai nghe Bluetooth làm người trông cứ như gia súc vừa giết mổ xong. Đây, tôi đây, đã bỏ về đây, tôi nghĩ. Liệu ông ấy còn giận tôi không? Có khi cứ hỏi ông ấy. Này, ông còn giận tôi không? Không, đừng. Đừng làm ông ấy ngại. Hoặc làm chính mình ngượng mặt. Ông ấy có thể đoán ra là mày đã biết mày sai lầm. Mà có khi ông ấy đúng. Tôi biết tôi từng coi Taro chỉ là một thứ con buôn, và tôi từng cảm thấy chán ghét, nhưng nãy giờ tôi cũng không nhớ chính xác tại sao tôi lại cảm thấy thế.
Taro gặp tôi ở cửa thứ ba. Trông ông ta không già đi nhiều, nhưng trong trí nhớ của tôi, ông ta có tính tình tựa như vị thần Hotei (Hotei: Vị thần biểu trưng cho hạnh phúc và sự hài lòng trong tín ngưỡng của người Nhật Bản) vui tính, còn giờ đây ông ta giống Tuân Tử (Tuân tử: nhà tư tưởng của Trung quốc cuối thời Chiến Quốc) hơn, nghiêm nghị và khô khan hơn. Giống như tất cả những người gốc Nhật Bản, ông ta vẫn mặc chiếc áo choàng hồ bột xanh lơ dùng trong phòng thí nghiệm của trường đại học Tokyo.
- Rất vui được gặp anh – ông ta nói. Ông ta nắm lấy ta tôi một giây. Đối với ông ta, hành động đó trìu mến như liếm mặt tôi vậy. Bàn tay ông ta mềm mại, khô ráo, hơi gờn gợn lên như vỏ con ốc anh vũ.
- Rất vui được gặp ông – tôi đáp. Xem ra ông ta thực sự vui mừng khi gặp tôi. Ừ phải, ông ta là người chất phát – tôi tự nhủ. Nếu ông ấy nói vui thì
có nghĩa là vui thật. Tôi những muốn ôm chầm lấy ông ta, nhưng thay vì vậy, tôi chỉ lắc lắc bàn tay khô ráo. Cả hai chúng tôi đều không thuộc loại thích biểu lộ tình cảm. Về mặt này, tôi không có tính cách của người Mỹ Latinh. Tôi có tính cách của thổ dân. Cũng như vậy, ông sếp mặt đá kia cũng không bày tỏ cảm xúc gì nhiều.
- Cảm ơn đã mời tôi đến đây, - tôi nói lí nhí, - ông biết đấy, tôi thấy có phần hơi ngại khi xuất hiện sau những chuyện đã xảy ra.
- Không sao đâu, đừng nên ngại, - ông ta đáp. Giọng ông ta không hề lơ lớ - ý tôi là ông ta nói cũng hơi giống giọng địa phương Oxbridge, nhưng không hề có âm sắc Nhật Bản – nhưng trong lối diễn đạt của ông ta rõ ràng có điều gì đó mách bảo ta rằng vẫn còn ẩn chứa ngôn ngữ của người Đông Á. – Tôi biết mọi chuyện đôi khi rất khó khăn.
Mặc dù không muốn, tôi vẫn bất giác mơ hồ cảm thấy một luồng ấm áp, hình dung như anh là một muỗng kem và có ai đó rắc kẹo bơ nóng lên khắp mình. Tôi rất ghét mỗi lần có cảm giác ấy. Tình cảm thầy trò hẳn là thứ quan hệ kỳ khôi nhất trên đời. Hừm, có thể ông ta đã đoán tôi sẽ liên lạc lại ngay khi đọc bài báo trên tạp chí Times.
- Ta đi xem vật thí nghiệm tí chứ? – Taro hỏi.
- Hay quá – tôi đáp.
Xuống phòng thí nghiệm. Xem có gì mới nào!
Chúng tôi đi qua hai lớp cửa nữa và bước vào một thang máy đóng chốt. Brừ. Trong này lạnh cóng. Chúng tôi đi qua ba tầng để xuống tầng hầm phụ. Phòng lạnh của Taro nằm cuối một căn sảnh dài. Tôi cảm giác khu liên hợp này chủ yếu dành cho việc nghiên cứu và phát triển công nghiệp. Có những cánh cửa với những cái tên như “phản ứng xúc giác” hay “vật liệu ít ma sát”. Taro đưa bàn tay lên trước chiếc máy soi và cánh cửa rít lên khe khẽ, mở ra.
Căn phòng nom rộng chừng bốn mươi mốt feet rưỡi, trần cao mười tám feet, toàn bộ màu trắng tinh với những điểm nhấn màu ngà và hàng ngàn luồng sáng huỳnh quang không tạo bóng. Thứ duy nhất nổi bật là chiếc máy tính lớn nằm giữa phòng: một chiếc bể Lucite trong suốt to bằng khoảng chiếc xe tải Ford Explorer nằm phía sau. LEON, tên gọi tắt của Máy tự học 1.9, nằm lơ lửng trong bể, đó là một vật màu đen trông giống như chiếc tủ đồng hồ. Những cuộn ống và dây nhợ từ dưới gầm bể chạy ngang nền nhà lát epoxy đến một chỗ đống nào máy tạo chất làm lạnh, Ehoim và các ổ đĩa Acer 6000, tất cả được xếp dựa vào một trong bốn bức tường xỉ không cửa sổ. Bốn vị sinh viên cao học chẳng rõ là nam hay nữ tất bật bên máy tính đặt trong góc phòng, vừa gõ vừa tự lẩm bẩm một mình bằng thứ ngôn ngữ của máy móc.
- Chúng tôi đã thay thế phần lớn các chip Silicon bằng chất germani hóa lỏng, - Taro nói, nhưng hao tổn nhiệt vẫn lên tới gần ba trăm oát. Vì thế, hiện giờ chúng tôi phải làm lạnh nó như ướp tôm đồng vậy. Chất lỏng làm lạnh
chính là loại huyết tương người ta vẫn dùng để truyền máu nhân tạo đấy. Ông ta dẫn tôi đến xem cái bể như dẫn khách du lịch thăm quan tượng đài đá vậy. Tôi nhòm vào. Nhìn gần, có thể thấy cỗ máy màu đen đó không phải là một khối mà là những bảng mạch màu đen mỏng như tờ giấy xếp thành chồng cao, mỗi tấm rộng chừng ba feet vuông và cách nhau một phần tư inch. Những làn hơi nóng tỏa ra từ các lớp bản mạch dưới nước nom giống như hơi nhiễu xạ bốc lên trên đường cao tốc vào mùa hè. - À há, hay thật đấy – tôi nói. Demonio, cái phòng này lạnh thật. Nhiệt độ chỉ khoảng 60oF (60oF: Khoảng hơn 15oC). Mình đến phải đắp chăn mất, - tôi nghĩ. Cứ như chích liền hai liều Tres Aflos vậy. Brừ…ừ. - Dĩ nhiên đây chỉ là cây CPU thôi, các ổ đĩa nằm ở một tòa nhà khác. Còn thiết bị lưu trữ thì… ờ, tôi không biết tất cả các thiết bị lưu trữ ở đâu. Dễ là ở Hàn Quốc.
- Tốc độ xử lý thế nào? – Tôi hỏi.
- Ngay bây giờ thì nó đạt khoảng sáu triệu tỷ phép tính một giây. - Ái chà.
Nghe có vẻ xa xỉ đây, tôi nghĩ thầm trong bụng.
- Hiện LEON đang mô phỏng giả định hai trăm năm mươi sáu thế giới ảo sớm hơn thế giới thực của chúng ta mười phút. Và đối với mỗi thế giới giả định đó, nó xử lý đồng thời hơn năm tỷ trường hợp phát sinh của cờ Hiến tế. Mỗi trường hợp có ba lựa chọn.
- Ông mô phỏng đồng thời bao nhiêu giao dịch? – Tôi hỏi. - Áng chừng hai mươi ngàn giao dịch một ngày, - ông ta đáp, - tôi không biết về giao dịch thực tế.
- À, - tôi nói. Đó là một điểm rất hay trong tính cách của Taro. Hầu hết những người khác sẽ lảng tránh và hỏi lại một câu đại loại như: “Anh nghe được ở đâu chúng tôi đang mô phỏng giao dịch thế?”. Nhưng ông ta thì không có cái kiểu ấy.
- Anh muốn chơi cùng LEON một ván không?
Tôi trả lời rằng có.
- Anh đã chơi với ba viên đá bao giờ chưa?
Tôi trả lời rằng đã. Tôi nghĩ là tôi đã giải thích cách chơi này rồi: nghĩa là người chơi sử dụng ba viên đá, một viên tượng trưng cho điều thực sự sẽ xảy ra, quân cờ này sẽ chạy trốn hai viên đá còn lại tượng trưng cho các khả năng khác có thể xảy ra. Điểm mấu chốt là, nó không phải chỉ khó hơn cách chơi một viên đá có ba lần. Nó được nhân lên tới 33 lần, có nghĩa là khó gấp 27 lần. Nó cũng giống như khi chơi cờ vua, xử lý ba nước thì khó hơn rất, rất nhiều lần so với nước đôi. Vì thế, tôi thường chỉ dùng hai viên đá. Nhưng tôi cũng có tìm hiểu cách chơi với ba viên. Tôi nghĩ kiểu gì tôi cũng xoay sở được với cái máy tính ấy. Thật đấy, máy tính làm sao chơi được trò chơi này cho ra hồn chứ.
Taro kê một chiếc ghế đẩu và tôi ngồi xuống trước màn hình 3-D NEC cũ. Taro nâng ghế của mình lên mặt bàn làm việc bằng fooc-mi-ca và bắt đầu gõ tay lên bề mặt chuột cảm ứng.
- Anh biết não người trung bình xử lý được hai tỷ phép tính một giây chứ? – Ông ta hỏi giữa những tiếng gõ tap tap.
- Ừm, thế thì đạt được mức trung bình cũng vất vả đấy, - tôi đáp. - Và sau đó chúng tôi sẽ đưa ra sáu hoặc tám tỷ phép tính của riêng chúng tôi để tạo ra thế song song.
Tôi gật đầu, làm như tự tôi cũng biết điều đó.
- Tiếp nữa, chúng tôi phải làm sao chúng thành hai để lưu trữ và dự phòng cho an toàn. Như thế chúng ta đạt được tốc độ hai mươi tỷ phép tính một giây. Nếu cứ chạy với tốc độ bình thường thì chúng ta không phải lưu trữ gì trong LEON cả, và thế là đủ.
- Rất tuyệt, - tôi nói.
Nhưng đủ cho cái gì, tôi băn khoăn tự hỏi. Đủ để tạo ra một vật vô cơ thuộc loài thượng đẳng biết tất cả mọi thứ trên đời ư? Ừ, chí ít thì đến lúc đó tôi cũng sẽ có người để trò chuyện cùng. Phải, nếu có cuộc tranh chấp cuối cùng giữa con người và máy móc, tôi biết tôi sẽ đứng về phe nào…
- Nhưng tôi nghĩ nó không thể thắng được đối thủ là con người – Taro nói – Ngay cả khi LEON có bộ não lớn như của con người… điều đó cũng không có nghĩa là nó sẽ có được trực giác như bộ não của con người.
Cờ Hiến tế giống cờ vây chứ không giống cờ vua, vì thế con người có thể chơi giỏi hơn máy tính rất nhiều. Một người chơi dưới trung bình vẫn có thể đánh thắng được chương trình cờ vây thông minh nhất thế giới. Cờ vây là trò chơi có tính mô tả cao, gần với cái mà dân lập trình gọi là môi trường sạch. Cờ Hiến tế còn mạch lạc hơn rất nhiều, liên quan đến đời thực hơn rất nhiều, vì thế cũng khó lường hơn ít nhất là vài triệu lần.
- Ấy, ông chớ tự đánh giá thấp mình như thế - tôi nói – ít ra là trước các hội đồng tài trợ…
- Tự họ cũng đoán được điều ấy rồi – ông ta đáp. – Thế cho nên chúng ta mới phải… hợp tác với doanh nghiệp như thế này. LEON có vai trò chủ yếu là hỗ trợ thôi. – Ông ta lại kéo tôi đến chỗ một dãy màn hình OLED. – Nó cải thiện khả năng của những người đếm mặt trời mới và nghề. Giống như cờ vua nâng cao ấy. (Đó là cách chơi cờ trong đó người chơi đánh cờ với sự tham vấn của hai máy tính).
Tôi gật đầu.
Ông ta ngồi xuống. Tôi cũng ngồi xuống.
- Chúng tôi đang làm việc với năm sinh viên – ông ta nói. – Hai trong số họ học chơi cờ Hiến tế từ cộng đồng người Maya, số còn lại được đào tạo ngay tại đây. Một người tỏ ra rất hứa hẹn, tuy trước đó anh ta chưa từng làm người đếm mặt trời.
Tôi chờ ông ta nói câu: “Nhưng anh ta không xách dép được cho anh đâu, anh là số một”.
Nhưng ông ta không nói. Thay vào đó, ông ta chỉ cho tôi xem mấy cái biểu đồ và chỉ ra những quãng biểu đồ đi lên tại những khoảng mà chúng tôi gọi một cách hoa mỹ là “không gian sự kiện toàn cầu”. Nói tóm lại, các biểu đồ đó khẳng định rằng cờ Hiến tế phát huy hiệu quả nhất khi dự báo về phản ứng của các nhóm người trước các tình huống khủng hoảng.
- Điều này cố nhiên vẫn rất hữu ích, - Taro nói, - và trong tương lai nó sẽ đem lại lợi ích vô cùng lớn.
Nhưng nó không phải là loại dự đoán mà những người tài trợ cho Taro cần. Ví dụ, nó không dự đoán được thị trường mà chỉ tiên liệu được hoạt động của các đối tượng tham gia thị trường. Các bạn sẽ nghĩ như vậy chẳng khác gì nhau vì thị trường phụ thuộc vào tâm lý con người. Nhưng thực tế còn nhiều yếu tố phi con người khác có ảnh hưởng đến sự lên xuống của thị trường như công nghiệp đình trệ, nguồn vốn, thời tiết, vân vân và vân vân, và để kết nối những hiện tượng đó với yếu tố tâm lý thì cần khả năng suy diễn. Dạy cho máy tính khả năng đó là vô cùng khó, có khi là không thể.
Vì vậy, Taro đang vấp phải vấn đề đại thể như tôi trước kia… nhưng, - tôi ngẫm nghĩ, - …hừ-ừm. Cứ cho là các giao dịch mô phỏng của họ chiếm trung bình 0,02 phần trăm toàn thị trường thì như vậy vẫn đủ để một công ty kiếm vài triệu đô vài phút. Thời buổi này, chỉ một chút lợi thế thôi cũng đủ biến bất cứ ai thành một con quái vật ngốn sạch thị trường. Tập đoàn Warren chắc đang trên đường trở thành công ty giàu nhất thế giới. Tuy các bạn sẽ nghĩ đáng ra họ phải giàu hơn rồi chứ. Có lẽ họ đã chi tiêu nhiều hơn báo cáo. Điều đó cũng giải thích tại sao họ quá kín tiếng về cờ Hiến tế như vậy. Nếu không vì lý do đặc biệt nào đó thì hẳn họ đã làm rùm beng khắp nơi thành quả của vụ đầu tư này rồi chứ. Bây giờ người ta không vội vàng phủ nhận những nghiên cứu về trò chơi nữa. Hễ có là người ta đều cố giành lấy một miếng ngay. Ai cũng muốn thuê một Johnny von Neumann (Johnny von Neumann: Nhà khoa học tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu lý thuyết trò chơi) thứ hai.
Hay có khi họ không muốn xoay tiền của kẻ khác, họ muốn làm sinh sôi tiền của chính mình chẳng hạn. Có khi Lindsay Warren cùng vài thành viên hội đồng quản trị khác muốn tranh thủ mua lại cổ phiếu đang giao dịch ngoài thị trường trước khi thông tin được hé ra. Hay có khi họ lo ngại nếu chính phủ phát hiện ra họ đang nắm giữ điều gì đó có thể hữu ích cho quân đội, họ sẽ bị tịch thu mất. Điều đó cũng đang lo ngại tí chút chứ, phải vậy không? Giả sử Warren và một vài người nào đó phát triển được trò chơi trên một mức cao hơn thì sẽ xảy ra chuyện gì nhỉ? Họ rốt cuộc sẽ sở hữu tất cả mọi thứ và nắm trong tay toàn bộ thế giới ư? Nếu thế chẳng khác gì Taro đang chỉ huy dự án Manhattan(Dự án Manhattan: Dự án liên minh giữa Mỹ,
Anh và Canada nhằm sản xuất vũ khí hạt nhân trong thế chiến II), chỉ khác cái là ông ta được một công ty tư nhân tài trợ thay vì làm việc cho Bộ Chiến tranh.
Có lẽ tôi nên đưa tất cả những gì tôi biết về cờ Hiến tế lên mạng. Có lẽ ngay hôm nay. Tôi đã suy nghĩ việc này một thời gian và đã viết ra gần hết. Như vậy chí ít mọi người đều biết bí mật đó. Nhưng tôi vẫn chần chừ chưa làm được vì… ờ, vì vài lý do. Tôi cảm giác mình vẫn chưa nắm bắt được tất cả. Trò chơi vẫn rất khó học và để chơi giỏi thì còn khó hơn. Vả lại, tôi còn vài việc cần lo cho bản thân trước thu hút sự chú ý của thiên hạ, nhưng có lẽ tôi nên thành thật với bạn đọc, vì chúng ta cũng quen nhau hơn chút ít rồi – sự thật tôi đang tiết kiệm một chút ít tiền để nặc danh thuê người tẩn García Torres. Nhưng thời buổi này làm việc đó không dễ vì người được thuê luôn tìm cách kéo anh vào cuộc cho dù họ mới là người thực hiện công việc. Tuy nhiên, tôi nghĩ… nhưng mà, còn một sự nữa, đó là tôi không chắc công bố cho toàn thế giới biết về cờ Hiến tế có phải là cách tốt nhất hay không. Biết đâu lại như vũ khí hạt nhân ấy, để cho cánh chính trị gian xảo sở hữu đã tồi tệ rồi, như thế vẫn còn hơn là giao nó cho tất cả lũ gàn dở trên hành tinh này. Hừ-ừm, hừ-ừm, hừ-ừm…
Còn một chuyện nữa, nếu Warren đang cố giữ kín chuyện này thì tại sao họ lại để Taro trả lời phỏng vấn trên tại chí Times? Nếu họ không thể ngăn việc công bố cuốn Thư tịch vì đã có quá nhiều nhà nghiên cứu Maya biết về nó, họ chỉ yêu cầu ông ta nói điều gì đó vô thưởng vô phạt…
- Anh muốn xem bàn cờ chúng tôi đang sử dụng không? – Taro hỏi. Tôi đáp dĩ nhiên.
- Đáng ra tôi không nên cho anh xem vì nó tuyệt đối bí mật. Nhưng đương nhiên vì anh đã giúp xây dựng nó nên tôi biết chúng tôi có thể tin anh. Tôi nói cảm ơn. Chết tiệt, tôi nghĩ thầm, mình đúng là đồ chết dẫm. Tất cả những chuyện này làm tôi thấy nghẹn cả họng.
Taro đưa hình ảnh bàn cờ lên màn hình:
Oa, tôi thốt lên trong bụng. Đơn giản. Thanh nhã. Có những thứ mà chỉ
nhìn thôi anh cũng biết nó hoàn hảo.
Khỉ thật. Sao tôi không nghĩ ra cái này nhỉ?
- Ái chà, - tôi nói, - ờ, bàn cờ này dựa trên cuốn Thư tịch… ờ… Nympheberg phải không?
Taro đáp qua quýt rằng phải.
Tôi di chuột quanh bàn cờ chừng nửa tiếng đồng hồ, thử các nước đi khác nhau và làm quen với giao diện bàn cờ mới. Nó không đến nỗi khó thích ứng như tôi tưởng. Người ta thường có xu hướng nghĩ các bàn cờ luôn có kích thước chuẩn, ví như tic-tac-toe (tic-tac-toe: Một trò chơi tương tự cờ ca-rô) có 9 ô còn ở cờ vua có 64 ô. Nhưng điều đó không hoàn toàn đúng. Đôi khi người ta dạy cho dân mới vào nghề chơi cờ vua trên 36 ô. Shogi hay còn gọi là cờ Nhật có 81 ô. Bàn cờ vây chuẩn có 361 điểm nhưng ngay cả người chơi khó tính đôi khi cũng chơi “tàu nhanh” trên bàn 81 điểm. Dân chơi tic-tac-toe nghiêm túc họ thường chơi trên bàn cờ lớn hơn hoặc đa chiều. Ở Nhật Bản thời phong kiến, các vị tướng lĩnh và quan lại thường chơi Shogi trên bàn cờ 625 với những quân cờ kỳ lạ hình rồng xanh, quỷ sói và voi say. Và ai cũng biết, trong các phần 1-2, 1-3, 1-20 và 3-14, Kirk và Spock (Kirk và Spock: Hai nhân vật chính trong loạt phim nhiều tập Star Trek rất nổi tiếng vào thập kỷ 60) đã chơi cờ vua trên bàn cờ ba tầng mà bây giờ bạn có thể mua được bản sao từ hãng Franklin Mint. Cờ Hiến tế cũng vậy, bạn có thể chơi trên bàn cờ lớn hơn hoặc nhỏ hơn mà không cần thay đổi luật chơi, thậm chí không phải thay đổi nhiều chiến thuật chơi. Nhưng phải mất nhiều thời gian mới có thể chơi tốt với một hệ thống chia ô mới. Suốt mười năm trời tôi chẳng làm được gì ngoài việc chơi vớ chơi vẩn với trò này, đến giờ tôi đã có thể kiếm được hàng tỷ, chứ không phải hàng triệu bọ. Công ty tài trợ cho Taro hẳn phải gặt hái được khối với phiên bản này. Nếu không thì họ không bình thường. Thôi, đừng bận tâm chuyện đó. Tập trung vào.
- Tôi nghĩ tôi sẵn sàng thử rồi – tôi nói.
- Được – Taro đáp – tôi sẽ hỏi câu đầu tiên.
Tôi moi từ túi áo ra một chiếc hộp đựng thuốc lá nhai.
- Ajpaayeen b’aje’laj k’in ik’… - tôi nói. (Con xin mượn hơi thở của mặt trời hôm nay).
Tôi vỗ tay vào màn hình năm lần, rải các “hạt ảo” lên khắp bàn cờ và liếc nhìn ra sau, về phía LEON. Chất lỏng sủi gợn lên lăn tăn khi máy bắt đầu động não. Tôi gật đầu ra ý sẵn sàng.
Taro hỏi vài câu dễ rồi bắt đầu những câu khó hơn. Bỗng nhiên, bàn cờ nom có vẻ rộng hơn tôi tưởng lúc trước, tưởng như các quân cờ của tôi sẽ lạc lối giữa đồng không mông quạnh và không thể quay về trước khi xảy ra vụ co lớn (Vụ co lớn: Một giả thuyết về sự quy tụ trở lại một điểm sau khi nó ngừng nở ra sau vụ nổ lớn). Còn LEON thì quả là khó chơi. Tôi lập tức
nhận ra nó là một trong những tay chơi khá nhất mà tôi từng gặp. Và dĩ nhiên cũng là tay chơi nhanh nhất. Nhưng với lần thử đầu tiên này, tôi đã chơi không tệ. Cờ Hiến tế là một thứ duy nhất trên đời mà tôi không thiếu tự tin.
- Anh chàng sinh viên chơi giỏi của chúng ta đang trên đường tới đây – khoảng hai tiếng đồng hồ sau, Taro nói – anh muốn chơi trò đoán việc đang xảy ra không?
Tôi trả lời có. Nhưng lại cảm thấy hơi run. Đọ tài chưa bao giờ là thế mạnh của tôi.
- Phòng BL ở tầng dưới – Taro nói. Ý ông là phòng biệt lập. Tôi đáp thế thì hay quá.
Ông ta định làm gì vậy nhỉ? Tôi thắc mắc.
Tôi hít một hơi dài. Tôi đi lên tầng trên, mua bốn cốc cà phê espresso và một gói kẹo dẻo Jelly Bellies từ máy bán hàng tự động rồi lại quay xuống. Taro dẫn tôi xuống một tầng hầm phụ thấp hơn nữa, đi qua một hành lang lạnh lẽo, vào một phòng họp nhỏ.
- Cứ như là một bài kiểm tra ấy nhỉ - tôi nói.
- Ừ, anh biết tôi thích kiểm tra tất cả mọi thứ mà – Taro đáp. - Nếu làm tốt, tôi có được xem cuốn thư tịch không?
- Chúng tôi sẽ phải gọi đến Marena Park để xin ý kiến – ông ta trả lời. Thoạt tiên tôi nghĩ ông ta muốn nói đến một địa điểm nào đó (Một địa điểm nào đó: Park trong tiếng Anh có nghĩa là công viên). – Cô ta là sếp lớn. Tôi nói được thôi.
- Tony đã tập luyện với bàn cờ này được hơn một tháng – Taro nói – Vì thế tôi không mong anh có thể thắng anh ta.
Tôi gật đầu ra ý nói: Tôi cũng chẳng trông mong gì, vì tôi chẳng qua là một môn sinh tầm thường thôi mà.
- Nhưng tôi biết anh sẽ chơi tốt hơn dưới áp lực thi đấu.
- Đúng vậy – tôi đáp.
Cảm ơn – tôi nghĩ. Phải rồi, tôi cần một chút động viên mà. Các bạn biết đấy, tôi thậm chí còn chơi tốt hơn dưới ánh đèn pha xenon soi vào mặt và điện cực kẹp vào dái đấy chứ. Tôi lại bắt đầu nhớ lại vì sao tôi rời bỏ dự án này.
Có tiếng gõ cửa. Hai người bước vào. Một cô gái gốc Đông Nam Á, dáng người thô bè bè, đeo kính mà Taro giới thiệu là Ashley Thieu và một anh chàng có khuôn mặt lai Maya tên là Tony Sic. Chúng tôi chào nhau bằng tiếng Anh, sau đó Sic nói bằng tiếng Yukateko rằng theo anh ta thấy thì tôi đến từ Alta Verapaz. Tôi đáp rằng đúng vậy. Anh ta để đầu húi cua rất ngắn, nhưng không có vẻ gì là lính tráng cả. Anh ta kể rằng vừa đi chơi bóng về. Anh ta mặc quần soóc, xỏ một đôi Diadora RTX 18 mà nếu tôi nhớ không nhầm thì loại giày đó dành cho dân thể thao chuyên nghiệp, và bạn có thể
ngửi thấy từ người anh ta mồ hôi đàn ông rất dễ chịu. Tôi há cả mồm ra để thở.
- Chiếc xe màu xanh ngoài kia là của anh à? – Anh ta hỏi bằng tiếng Anh.
- Phải – tôi đáp.
- Đẹp đấy.
- Cảm ơn, nhưng đi cũng tã rồi.
- Anh trai tôi ở Mérida cũng có một chiếc như thế. Chỉ có điều nó được lắp ráp lại từ nhiều xe cũ khác, như Frankenstein (Frankenstein: Nhân vật tiểu thuyết giả tưởng, được ghép từ cơ thể của nhiều người chết) ấy.
Tôi kể với anh rằng tôi đã từng làm hai tháng tại một viện bảo tàng ở Mérida. Anh ta hỏi có phải viện bảo tàng đó nằm trên Calle (Đường, phố - tiếng Tây Ban Nha) số 48 không, tôi trả lời rằng không, nó nằm trên phố 58, và anh ta mỉm cười.
Chúng tôi đi qua một cánh cửa khác, bước ra một hành lang trống trải. Các bức tường, sàn và trần nhà đều bằng gạch DuraStone thô, cốt để khó giấu đường dây hay máy phát tín hiệu mà người chơi có thể dùng để làm sai kết quả thử nghiệm. Sic mở một cánh cửa bằng thép đặc và một mình bước vào căn phòng dành cho anh ta. Họ đưa tôi vào một phòng cách đó bốn cánh cửa. Trong căn phòng bê tông chẳng có bất cứ thứ gì ngoại trừ một bóng đèn huỳnh quang treo trên trần, một màn hình tinh thể lỏng cũ, một chiếc ghế chẳng mấy tiện lợi, một máy quay không thu phát được tín hiện từ bên ngoài, một máy ghi âm EEG và một bàn làm việc bằng fooc-mi-ca với bàn cờ đã được sắp sẵn trên màn hình cảm ứng.
Mẹ kiếp, tôi nghĩ, họ nghiêm túc thật đây. Chắc chắn họ phải có vấn đề gì đó. Và họ cần đến những tay chuyên nghiệp. Phải vậy không? Phải đấy. Ashley gắn chiếc máy ghi âm lên đầu tôi – cô ta gặp ít phiền toái với đám tóc – và nói: “ổn rồi, chúng tôi sẽ rời khỏi chỗ anh”. Ý cô ta là “sẽ để lại anh một mình trong phòng này”. Tôi định nói tôi không mắc bệnh sợ phòng kín, nhưng thay vào đó tôi chỉ lầm bầm, như mọi khi. Sic và tôi sắp sửa chơi và đoán cũng những sự việc như nhau, xảy ra cùng một thời điểm như nhau, Taro sẽ điều khiển cuộc thi này và theo dõi chúng tôi qua băng ghi hình. Nhưng giữa hai căn phòng sẽ không có bất cứ sự liên lạc nào, vì vậy không ai trong số chúng tôi có khả năng gây ảnh hưởng đến nhau. Sic và tôi không hẳn sẽ đấu với nhau, mà là đua với nhau, cả hai sẽ cùng coi Taro là một khách xem bói thông thường và thay mặt ông ta để chơi cùng với một vị thần vắng mặt.
Tôi lấy thuốc lá ra nhai, xát nó lên người và ngồi xuống. Trong căn phòng của mình Sic cũng là tương tự.
- Xong cả chưa? – Taro hỏi qua chiếc loa. Tiếng ông đã được chuyển thành giọng máy tính để chúng tôi không tìm được gợi ý qua giọng nói. Sic
hẳn đã trả lời “xong”. Tôi trả lời “xong”. Vậy là, tôi nghĩ, mình chỉ việc gây ấn tượng với ông ta ngay từ vòng đầu tiên. Không khó đâu. Đoạn băng kiểm tra xuất hiện trên màn hình.
5
Đây là một đoạn ghi hình trực tiếp liên tục từ một chiếc camera theo dõi an ninh đặt trên một plaza hay một quảng trường nào đó tại một nước rõ ràng là Hồi giáo, hoặc phần lớn theo Hồi giáo. Ở đó đang là đêm, nhưng quảng trường vẫn chiếu sáng bởi một thứ ánh sáng màu xanh làm chói mắt. Tôi đoán đó là ánh đèn pha của quân đội. Phía dưới màn hình là một đám đông lớn toàn đàn ông vận áo thùng màu trắng bẩn thỉu. Máu từ vết cắt do họ tự gây ra trên đầu chảy thành từng dòng xuống cổ nom như những vết men đen trên đồ gốm sứ. Chính giữa là một hàng rào mắt cáo với mười hay mười lăm binh sĩ gì đó đứng phía sau. Đám lính để râu quai nón, mặc đồ kaki và thứ gì đó nom giống trang phục SA-120, nhưng tôi không thấy có phù hiệu gì. Họ có ánh mắt gờm gờm của những người đang cố tỏ ra không sợ hãi. Phía sau toán lính là một tòa nhà xem ra là cơ quan công quyền, chắc là một tòa đại sứ quán, màu trắng với trụ bổ tường cũng trắng và hai cánh cửa gỗ kiểu thời Victoria sẫm màu. Trên cánh cửa có các ký hiệu nhưng mờ quá, không đọc được. Tiếng bị tắt đi, những hình chữ nhật màu xanh nước biển che kín phần dưới và góc phải bên trên màn hình để che đi những hàng chữ mà hãng tin đã chèn vào thuyết minh. Và mặc dù vài người trong đám đông có giương những biểu ngữ tự làm nhưng chúng hoặc được quay sang hướng khác, hoặc chữ nghĩa xiêng xẹo. Chết tiệt, đáng ra mình nên làm bài tập về nhà mới phải, tôi nghĩ bụng. Chỉ cần hiểu biết hơn một chút về trang phục và kiểu râu của đàn ông ở thế giới đạo Hồi là có thể lần ra manh mối ngay… nhưng, được rồi, động não đi nào, đây là cái chỗ quái quỷ nào thế nhỉ? Ờ có vẻ như không còn chút ánh sáng ban ngày nào và cứ cho rằng đoạn băng ghi hình này quay trực tiếp, điều này thì tôi chắc chắn, như vậy thì quá muộn so với giờ của Trung Đông, vì từ đây đến kinh độ 7 vẫn còn là ban ngày, cho nên tôi đoán cảnh đang nhìn thấy là ở Bắc Ấn Độ. Thực ra, tôi có thể đánh cược rằng chỗ này là đâu đó gần hoặc trong lãnh thổ Bangladesh vì hiện đó đang là điểm nóng. Rồi. Và đầu họ bị thương vì… hừm, theo tôi biết hôm nay không phải là ngày lễ đạo Hồi, cũng không phải là ngày lễ của đạo Hindu… nghĩa là họ đang phản đối điều gì đó.
Xem nào, tôi cũng đoán đây không phải là một thành phố lớn… vậy phải cho đây là một tòa thị sảnh chứ không phải đại sứ quán. Và đám dân Hồi giáo dữ tợn này muốn… họ muốn gì nhỉ? Không phải chỉ muốn xả rác ra chỗ đó rồi… không, pues (Vậy thì – tiếng Tây Ban Nha), họ muốn được vào trong tòa nhà đó. Phải vậy không? Có lẽ họ đang sợ chiến tranh nổ ra, những người Hindu chiếm đa số sẽ đem họ ra hành hình.
Đại loại thế. Không có bất cứ dấu hiệu nào chỉ dẫn cho tôi biết họ sắp làm gì.
Chúng tôi xem và ghi nhớ cảnh tượng. Một phút sau, màn hình chuyển sang màu đen.
- Được rồi – giọng máy tính chuyển đến lời của Taro – chúng tôi muốn cả hai anh trả lời ba câu hỏi sau. Một: Liệu đám đông kia có trèo qua hàng rào và tấn công tòa nhà không? Hai: Nếu điều đó xảy ra thì nó sẽ xảy ra khi nào. Và ba: Nếu điều đó xảy ra, liệu họ có thành công và chiếm được tòa nhà không? Các anh có ba mươi phút. Có ai có câu hỏi gì không?
Ừ, có đấy – tôi nghĩ – màu nâu Crayola giống màu bút chì số 2, hay… - Được rồi, vậy là không có câu hỏi – ông ta nói – xin mời bắt đầu. Tôi rải các hạt ảo lên bàn cờ. Chúng nảy hơi cao, nhưng đấy không phải
vấn đề. Ván đề là cả trong đối tượng của câu hỏi, tức là sự kiện ở châu á kia, và trên bàn cờ đều có sự ngẫu nhiên. Chắc chắc nhóm nghiên cứu của Taro sẽ áp dụng chương trình quy ước đối với đoạn băng trên, kết hợp với các số liệu khác thu thập được trên mạng. Họ sẽ sử dụng các chương trình dựng mô hình thảm họa đám đông giống chương trình mà Bộ An ninh Hoa Kỳ sử dụng để chống bạo loạn, và cả chương trình riêng của dự án LEON nữa. Nhưng tôi vẫn sẽ làm tốt hơn. Phải vậy không? Tôi đặt quân cờ của mình lên cái ô nằm chính giữa.
Nói ngắn gọn, mục tiêu của cờ Hiến tế là bắt quân cờ. Nếu anh chơi với một quân cờ thì có nghĩa thì một người chơi chỉ có một quân cờ còn đối thủ của anh ta thì có vô số. Nhiều người thấy điều này ngớ ngẩn, nhưng rất nhiều trò chơi ở thế kỷ 21 cũng chơi theo cách tương tự. Phổ biến nhất có thể kể đến “Thỏ và Chó săn” hay “Dê và Sói” và những trò tương tự. Ở châu Á, số lượng còn nhiều hơn. Nói chung chúng được xếp vào loại trò chơi không có tính đối xứng cao, trong đó, một người chơi sử dụng một vài quân cờ nhanh hoặc mạnh hơn, những người còn lại dùng nhiều quân chậm hoặc yếu hơn để đuổi theo. Nếu anh là quân chạy trốn – hay con mồi, hay bất cứ cái tên nào khác người ta muốn đặt – thì mục tiêu của anh là chạy khỏi quân đuổi theo hay “kẻ đi săn”. Với trò “Thỏ và Chó săn”, chơi trên bàn cờ như cờ đam nên nhiệm vụ chỉ là chạy sang phía bên kia của bàn cờ. Còn với cờ Hiến tế, anh phải bắt đầu từ thời điểm xuất phát, tức là giữa bàn cờ, và để thắng, anh phải đến được một trong bốn điểm an toàn nằm ở bốn góc của bàn cờ. Song làm điều đó không dễ chút nào, không chỉ bởi vì những quân đuổi theo mà còn vì nước đi phụ thuộc một phần vào việc đổ súc sắc. Ngoài ra, trong cờ Hiến tế, quân cờ chạy trốn luôn để lại dấu ở những nơi đã đi qua. Mỗi lần quân cờ dừng lại ở một ô nào đó, hay đúng hơn là một điểm nào đó, anh phải để lại một viên đá dể đánh dấu. Con đường đó tượng trưng cho những sự kiện thật đã xảy ra, đối ngược với phần còn lại của bàn cờ tượng trưng cho mê cung rộng lớn của những điều có thể xảy ra. Mỗi bước di chuyển lại đánh dấu một
thời điểm nào đó. Vì vậy, bàn cờ của cờ Hiến tế có phần giống loại lịch vạn niên mà trước đây người ta từng tự chế bằng bốn vòng tròn và những cái cọc, bảy cái cọc tượng trưng cho bảy ngày trong tuần, ba mươi mốt cái tượng trưng cho một tháng và vân vân. Như vậy, khi di chuyển anh cũng sẽ để lại một con đường thời gian tượng trưng. Và nếu anh có thể đọc được và ngoại suy được những sự kiện trên con đường đó và đoán được nước tiếp theo, thế có nghĩa là anh đang tính được tương lai.
Mỗi trò chơi hay đều tạo ra một trạng thái thôi miên riêng ở những người chơi ham mê, và cờ Hiến tế có một sức hút riêng đặc biệt khó diễn tả. Chắc hẳn khi còn nhỏ, Các bạn cũng từng chơi Parcheesi, hay những trò cải biên từ Parcheesi như “Sorry!” hay “Aggravation”. Và hẳn các bạn còn nhớ cảm giác lắc con súc sắc, đưa những quân cờ hay hòn bi nhỏ ra khỏi chuồng, bước vào vòng đua lý thú ra sao, cảm giác đưa được phần cuối cùng về đích khi đối thủ bám ngay phía sau cách có vài ô hú vía đến mức nào, rồi cảm giác tan tành chưa từng thấy khi bị đá đít về chuồng sau khi đi cả một hành trình dài, chỉ còn cách đích có vài bước và trên đời chỉ có một điều duy nhất khiến bạn chịu đựng được chuyện đó, ấy là ý nghĩ nó sẽ nguôi ngoai đi sau khi làm được điều tương tự với kẻ khác. Và không bao giờ có chuyện ngừng chơi giữa chừng hay thậm chí chỉ là rời khỏi phòng một lúc. Trò chơi thực sự như thật. Mặc dù Parcheesi theo cách chơi ở phương Tây là trò chơi dành cho trẻ em nhưng nó lại là gốc của vô số môn chơi dành cho người lớn, chẳng hạn như cờ tào cáo. Và hiển nhiên cờ tỷ phú, một trong những môn cờ phổ biến nhất thế giới hiện nay, chính là dạng của Parcheesi. Nhìn chung, sự hấp dẫn cơ bản của các trò chơi này nằm ở chỗ rất khó nắm bắt và cưỡng lại càng khó hơn.
Tôi cho rằng với cờ Hiến tế, sự hấp dẫn chính là nó đưa người chơi vượt lên trên sự mơ hồ hỗ độn. Con người đang lướt trên những con sóng của tương lai, nơi hai nửa của vũ trụ - sự cố nhiên và ngẫu nhiên – va đập và chồng chéo lên nhau, nhưng trong thế giới nhỏ bé này, chúng ta hoàn toàn có thể chế ngự được điều đó, anh chỉ cần hai con súc sắc đánh dấu hai con sóng khác nhau, một là con sóng của những sự việc thường xuyên xảy ra lập đi lập lại với đỉnh sóng cao nhất khi súc sắc đổ ra sáu điểm, và một là con sóng của những sự việc bất thường bắt đầu dâng vào lúc hai điểm và lên đỉnh điểm lúc mười hai điểm. Ngay cả những người chẳng biết tí gì về toán học, đó cũng là một chuyển động thôi miên, giống như cảm giác của một đứa trẻ khi chăm chú nhìn cái biển hiệu cắt tóc, cứ thắc mắc không biết những đường sọc sẽ trượt tiếp đến đâu sau khi chạy ra hết bề mặt chiếc ống (Ở Mỹ, các cửa hiệu cắt tóc thường dùng một dấu hiệu chung là một chiếc ống hình trụ có sọc xanh đỏ chạy vòng quanh), hoặc cảm giác khi bạn nhìn vào cái nhãn có hình xoay tròn của chiếc đĩa Vertigo.
Tiếng Taro lại vọng qua loa:
- Hết giờ.
Tôi nhìn lên bàn cờ. Quân cờ của tôi còn cách góc Tây Bắc hai ô. Xem ra có vẻ không có lợi. Nghĩa là không có lợi về trước mắt. Còn có điều gì đó phía trước nữa, một cảm giác rằng toàn bộ cảnh tượng này đang nhanh chóng tiến đến một kết cục, nhưng tôi tôi không sao xác định được cụ thể. Chết tiệt.
- Những người biểu tình sẽ tràn qua hàng rào sau khoảng hai tiếng rưỡi nữa tính từ bây giờ - tôi nói – Họ sẽ cố chiếm lấy tòa nhà nhưng sẽ không thành công. Rất nhiều người trong số họ, tôi cho là hơn năm mươi người, sẽ bị chết hoặc bị thương nặng.
- Rồi – Taro đáp.
Tôi giải thoát cho cái đầu trước khi Ashley kịp bước vào rồi đi ra phòng họp.
Màn hình trên tường chiếu cảnh đoàn biểu tình, bây giờ thì có tiếng và ai nấy đều đang xem. Té ra sự việc đó đang diễn ra ở một thị trấn nằm ở phía Bắc Calcutta, và tòa nhà kia là trụ sở của Assam Rifles, một lực lượng nổi dậy ở vùng đông bắc, và đám đông mohajir, tức là dân Hồi giáo tị nạn, đang tìm cách giải thoát cho những người cầm đầu của họ đang bị giam giữ ở bên trong. Tôi không bực vì không nắm được chi tiết đó. Nhưng hình như có những toán người Hindu đang đe dọa họ ở chỗ khuất của màn hình.
Sic bước vào cùng Taro. Họ ngồi xuống cạnh bàn. Một phút ngượng ngịu.
- Thế, anh đoán thế nào? – Sic hỏi tôi.
Tôi nói lại những gì tôi nghĩ. Anh ta nói anh ta đã đoán rằng đám đông kia sẽ lao vào tòa nhà sau không đến nửa giờ đồng hồ nữa và họ sẽ chiếm được nó.
Tôi ậm ừ với vẻ thân thiện tự nhiên nhất có thể tỏ ra được. Taro nói nhận định chuyên môn như thông lệ của các quan sát viên NSA – Cục an ninh Quốc gia – và đánh giá của chương trình máy tính đều cho rằng những người biểu tình sẽ giải tán trước khi kịp xảy ra thương vong. Tất cả chúng ta đều gật đầu. Ashley Thieu đứng dậy và bê vào một khay sô cô la nóng, bánh quy bạc hà và một ít trà thảo mộc rẻ tiền, chán ngắt. Trên màn hình, sự thay đổi đáng kể nhất chỉ là có vài người leo lên đứng trên thứ gì đó và bắt đầu diễn thuyến bằng tiếng Urdu. Tất cả chúng tôi ngồi quây tròn như đám sinh viên ngồi xem kết quả bầu cử. Thật ra, cảnh đó đặc biệt giống cuộc bầu cử năm 2000, kéo dài mãi không dứt, và mỗi lần anh muốn bỏ đi và đập phá thì lại có một nguồn hy vọng mới trỗi dậy, anh lại ngồi xuống xem tiếp, và cắn móng tay, và hy vọng, hy vọng ngay cả khi trong thâm tâm anh biết tất cả những chuyện này sẽ kết thúc bằng một thảm họa.
Hai mươi phút sau, một người đàn ông leo lên hàng rào. Một lính gác bắn một phát súng cac-bin lên trời, tiếng súng nổ yếu ớt bất lực. Hai giây