🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Mảnh Vụn Văn Học Sử Ebooks Nhóm Zalo https://thuviensach.vn Tên sách : MẢNH VỤN VĂN-HỌC SỬ Tác giả : BẰNG-GIANG Nhà xuất bản : CHÂN LƯU Năm xuất bản : 1974 ------------------------ Nguồn sách : tusachtiengviet.com Đánh máy : lolyoshi, LongSteven, Hieu17blue, hoalandao, janenguyen1969, doraemin, YEN AI, Martian_K, Maduonghoang, bongmoloko, bino2701, Lucy Mac, nguyenhienthvn2004, thanhbanhuu, Thao Pham, hang12321, mailovebook, khongminhbt, Quach trang, huong.nguyenthu, meyeusoi, Aquamarine, quachgiao, gambit123, Moonhee Kiểm tra chính tả : Nguyễn Chinh, Nguyễn Đăng Khoa, Bouillard Huế, Trần Ngô Thế Nhân, Nguyễn Văn Ninh, Trần Lê Nam, Nguyễn Văn Phẩm, Thư Võ Biên tập ebook : Thư Võ Ngày hoàn thành : 28/06/2018 https://thuviensach.vn Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE 4U.ORG Cảm ơn tác giả BẰNG-GIANG và nhà xuất bản CHÂN LƯU đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá. https://thuviensach.vn MỤC LỤC THAY LỜI TỰA VỀ TÁC GIẢ VỀ TÁC PHẨM PHỤ-LỤC A. VÀO HÈ B. DỆT VẢI C. ĐÀN BÀ DỆT GẤM D. MẸ MỐC Đ. HƯƠNG SƠN PHONG CẢNH E. TUYỆT MỆNH G. SỐNG H. CHẾT I. KHÓC BẰNG PHI K. BÁN THAN L. TÔN PHU NHƠN QUI HỚN THƠ M. KÝ NỘI N. VỊNH KIỀU O. BÁI CÔNG KHÓC HẠNG-VÕ CAO BÁ QUÁT I. VÀI DÒNG TIỂU SỬ II. MỘT TÀI LIỆU CĂN BẢN TẠI SAO PHẢI NHẮC ĐẾN ỨNG-HÒE NGUYỄN VĂN TỐ KHI ĐỀ CẬP QUYỂN « CAO BÁ QUÁT » CỦA TRÚC-KHÊ ? MỘT TÀI LIỆU CĂN-BẢN https://thuviensach.vn CÁCH MẠNG HAY KHÔNG CÁCH MẠNG ? CON ĐƯỜNG KHOA DANH CỦA CAO BÁ QUÁT VỀ VIỆC CHẤM THI CỦA CAO BÁ QUÁT III. ÔNG DƯƠNG TỰ GIÁP BẤT BÌNH VỀ CHUYỆN CAO BÁ QUÁT TẮM Ở HỒ TÂY VỀ MẤY CÂU ĐỐI CỦA CAO BÁ QUÁT KHẢO HẠCH VÀ KHẢO, HẠCH PHẠM HÚY CHO ĐIỂM IV. ÔNG TRÚC-KHÊ TÁC GIẢ QUYỂN « CAO BÁ QUÁT » TỰ BIỆN HỘ V. QUYỂN CAO BÁ QUÁT SAU TRÚC-KHÊ BỐN, BA HAY HAI BỒ ? HAI ANH EM HỌC CAO CÙNG ĐỖ MỘT KHÓA ? HÀNH TẨU HAY THỪA CHỈ ? SƠ KHẢO, PHÚC KHẢO HAY GIÁM KHẢO ? NGUYỄN ĐĂNG GIAI KINH LƯỢC CHỚ KHÔNG PHẢI NGUYỄN VĂN GIAI BA MƯƠI QUAN CÓ LÝ HƠN LÀ BA NGÀN AI KHEN CAO BÁ QUÁT ? HAI CÂU THƠ VỪA CHỮ VỪA NÔM CỦA VUA TỰ-ĐỨC LÀM TRONG MỘNG HAI CÂU ĐỐI Ở ĐIỆN CẦN-CHÁNH CÓ PHẢI DO CAO BÁ QUÁT SỬA ? MỘT CÁI CHẾT THẬT RẮC RỐI VĂN NGHIỆP CAO BÁ QUÁT https://thuviensach.vn VI. VÀI NHẬN XÉT CHUNG VII. PHỤ LỤC BẢN MẬT TẤU CỦA QUAN TỈNH BẮC-NINH VỀ CAO BÁ QUÁT BÀI HỊCH NHÂN CUỘC DẤY BINH Ở MỸ LƯƠNG HAI CÂU THƠ NÔM PHA CHỮ CỦA TỰ-ĐỨC ĐƯỢC C.B.Q. GÀI VÀO MỘT BÀI BÁT CÚ NHỮNG BÀI HÁT NÓI CỦA CAO BÁ QUÁT THƯ MỤC THAM KHẢO SÁCH BÁO CHÍ VẤN-ĐỀ HỘ TỊCH VÀ THỜI ĐIỂM SANH TỬ NGUYỄN CÔNG TRỨ NGUYỄN KHUYẾN HUÌNH TỊNH PAULUS CỦA VỚI TOÀN BỘ VĂN NGHIỆP CỦA ÔNG TÁC GIẢ TÁC PHẨM CON « NGƯỜI CỦA HAI THẾ KỶ » CÓ TỚI HAI NĂM SANH VÀ BỐN NGÀY MẤT VỀ NĂM SANH VỀ NGÀY MẤT DƯ LUẬN VỀ PHẠM QUỲNH VÀ THỜI ĐIỂM SANH TỬ CỦA ÔNG KIỀU THANH QUẾ VÀ NGUYỄN VĂN HAI VỚI QUYỂN THI HÀO TAGORE (1943) https://thuviensach.vn VỀ HỒ BIỂU-CHÁNH KHUÔNG-VIỆT VỚI GIẢI THƯỞNG VỀ LỊCH SỬ CỦA TRI TÂN TẠP CHÍ VÀ ỦY-BAN (VĂN HỌC) PHAN THANH GIẢN THANH-NIÊN (1943-1944) MỘT TUẦN BÁO BỊ LÃNG QUÊN TRONG VĂN HỌC SỬ MỘT CẶP MẮT XANH ĐƯA THANH NIÊN RA KHỎI VÙNG QUÊN LÃNG ? MỘT TUẦN BÁO ÍT SAI CHÁNH TẢ NHỨT THỜI BẤY GIỜ Ở MIỀN NAM TRI-TÂN TẠP-CHÍ 1941-1946 THIẾU-SƠN KHÔNG CÓ VIẾT CHO TRI TÂN TẠP CHÍ TỪ LOẠI CŨ ĐẾN LOẠI MỚI 3-6-1941 – 16-7-1946 TỪ PHI CHÁNH TRỊ ĐẾN KÊU GỌI CHIẾN ĐẤU AI LÀM MỤC LỤC PHÂN TÍCH CHO TRI TÂN TẠP CHÍ ? CẬN-ĐẠI VÀ HIỆN-ĐẠI TRONG LỊCH-SỬ VÀ TRONG VĂN-HỌC I. SỰ PHÂN KỲ Ở TÂY PHƯƠNG A. THƯỢNG CỔ VÀ TRUNG CỔ B. CẬN ĐẠI VÀ HIỆN ĐẠI II. SỰ PHÂN KỲ Ở VIỆT-NAM A. TRONG LỊCH SỬ B. THEO TỰ ĐIỂN C. TRONG VĂN HỌC 1. HẬU BÁN THẾ KỶ XIX 2. HIỆN ĐẠI GIỚI HẠN MỘT « TRĂM NĂM TRONG CÕI NGƯỜI TA » 3. NIÊN LỊCH KHAI DIỄN CHO HIỆN ĐẠI https://thuviensach.vn THƯ MỤC THAM KHẢO https://thuviensach.vn BẰNG-GIANG MẢNH VỤN VĂN-HỌC SỬ Chân-Lưu IN LẦN THỨ NHẤT SÀI-GÒN 1974 TÁC-GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN https://thuviensach.vn THAY LỜI TỰA Cho một bộ văn-học sử Việt-nam Từ sau hiệp định Giơ-neo năm 1954 cho đến nay, ở miền Nam Việt nam chỉ có hai bộ văn học sử được kể là hoàn thành, hiểu với nghĩa là được biên soạn từ đầu cho đến năm 1945 và đã được xuất bản trọn : - Việt-nam văn-học sử giản ước tân biên (ba cuốn, 1961-1965) của PHẠM THẾ NGŨ, khi tái bản đổi tựa lại là Lịch sử văn-học Việt-nam tân biên giản ước. - Bảng lược đồ văn-học Việt-nam (hai cuốn, 1967) của THANH LÃNG, vốn là bài giảng khóa cho lớp dự bị Việt đại cương trường Đại học văn khoa Sài-gòn. Ngoài ra, còn vài bộ chỉ ra được một, hai cuốn rồi đình lại khá lâu mà chưa thấy tiếp tục ấn hành : - Lịch sử văn-học Việt-nam (mới có hai cuốn, 1956) của LÊ VĂN SIÊU. - Việt-nam văn học toàn thư (mới có hai trong mười cuốn, 1959) của HOÀNG TRỌNG MIÊN. - Văn-học Việt-nam (1960) của PHẠM VĂN DIÊU chỉ mới đến đầu thế kỷ XIX. Dầu đã hoàn thành hay chưa, đó cũng là những cố gắng khai phá một miếng đất quá mới mẻ 1hay khai thông một môn học « mới chỉ ở giai đoạn phôi thai » 2 hay « còn ở trong thời kỳ phôi thai ». 3 Đó là những cố gắng đáng ca ngợi vì những người đặt chân vào khu vườn văn-học sử Việt-nam hẳn đã biết trước sẽ gặp phải nhiều gai gốc mà đứng hàng đầu là vấn đề tài liệu. Ở Việt-nam không có nạn « phần thư » ác liệt như dưới thời nhà Tần bên Trung-hoa, nhưng chỉ nói gần đây thôi, non một phần ba thế kỷ khói lửa, kể từ năm 1945 đã khiến cho tài liệu đã hiếm https://thuviensach.vn lại càng thêm hiếm. Thư viện của nhà nước, phần bị mất cắp, phần bị cướp đoạt, nhiều thư viện gia đình tiêu tan trong khói lửa. Không nói chi xa, chỉ kể từ năm 1954 trở lại đây (1974), thử hỏi mấy ai giữ được trọn bộ tuần báo Tiến Thủ 4trong đó có bài « Một thế kỷ mấy vần thơ » của TRUY-PHONG mà SƠN NAM nhận xét là « một trong những bài thơ đẹp nhất của thế kỷ hai mươi này » ? Vì không có đủ trong tầm tay những tài liệu cần thiết để phối kiểm những điều mình viết nên các soạn giả dễ lặp lại những sai lầm của nhau. - Chẳng hạn như HUÌNH TỊNH CỦA không hề có một tác phẩm nào nhan là Gia lễ quan chế mà nhiều sách của ta đến ngày nay vẫn cứ ghi như vậy và học trò cứ phải học mãi như vậy. - Một giai thoại về hai câu đối của chúa Trịnh và Cống Quỳnh được đem gán cho CAO BÁ QUÁT : « Nước trong leo lẻo cá đớp cá, Trời nắng chang chang người trói người. » - NGUYỄN CÔNG TRỨ mất năm 1858 hay 1859 ? NGUYỄN KHUYẾN, năm 1910 hay 1909 ? - TẢN-ĐÀ nổi tiếng là « con người của hai thế kỷ » vậy mà theo sách vở đang lưu hành, thì nhà thi sĩ của chúng ta có tới những hai năm sanh và bốn ngày mất. Còn PHẠM QUỲNH sanh năm 1890, 1891 hay 1892 ? - Tờ Tri Tân tạp chí được hầu hết các sách giáo khoa khai tử cho nó ở số 127 đầu năm 1944 trong lúc nó thọ cho đến giữa năm 1946. THIẾU SƠN được ghi là một cọng sự viên của Tri Tân trong lúc ông không có viết một dòng nào cho tờ này. - Một câu nói để đời của ông NGUYỄN VĂN VĨNH « Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng ở như chữ quốc ngữ » được nhiều tác giả ghi lại khác nhau, khi sai một chữ, khi thiếu, khi dư. - Bài « Tôn phu nhơn qui Hớn thơ » do « TÔN THỌ TƯỜNG ngụ ý » đăng ở số 2 tờ Miscellanées năm 1889 (trang 16) của TRƯƠNG-VĨNH KÝ https://thuviensach.vn về sau có cả chục bản sai biệt nhau. Bản nào đúng, bản nào sai ? Và còn nhiều nữa, rất nhiều… Ngoài trở lực tài liệu còn có lắm nguyên nhân chủ quan về phía người viết : - Chưa đủ thận trọng chăng ? - Quá tin ở uy danh một tên tuổi nào đó chăng ? - Thiếu phương pháp làm việc chăng ? - Tinh thần trách nhiệm chưa đúng mức chăng ?… Trong tình trạng thiếu thốn, nhập nhèm, bất nhứt của tài liệu đó, một cá nhơn đơn độc chắc phải dành hết cả một đời người, mà phải là một người thọ nữa, họa may mới hoàn thành một bộ văn-học sử tránh được những sai lầm tuy nhỏ nhặt nhưng lại dễ làm mất lòng tin cậy của độc giả. Cái gì cũng gần như là có dị biệt, sai sót, nghi vấn hết thì tin làm sao được ? Cứ đả kích TÔN THỌ TƯỜNG ở hai chữ trau tria trong câu « Về Hớn trau tria mảnh má hồng » trong lúc câu của họ TÔN đúng là « Về Hớn đành trau phận má hồng ». Dựa vào một văn bản sai, khen chê đều là những đòn đỡ đánh trong gió. Về mặt văn-học sử, nhận định hay quan niệm có thể dị biệt giữa các tác giả nhưng sự kiện không thể có tính cách lưỡng khả, trích dẫn phải trung thực, sử dụng nên kiểm soát, nếu cần và có thể… Một nhà viết văn-học sử khó thể đơn độc đính chánh hết những sai lầm, đánh tan được hết những nghi vấn trong suốt quá trình diễn tiến của văn-học Việt-nam từ chữ hán qua chữ nôm đến chữ quốc ngữ. Phải chăng vì ý thức trước điều đó mà nhiều vị đã tỏ ra khiêm tốn, ít ra cũng ở cái tựa, nào là sử yếu, nào là giản ước, nào là lược đồ. Chúng tôi nghĩ rằng văn-học sử cũng gần như tự điển, nếu được biên soạn tập thể chắc sẽ đầy đủ và tránh được nhiều vấp váp hơn, mỗi người phụ trách một hay hai vấn đề, một giai đoạn hay nhiều lắm là một thời đại. Điều này tuy khó thực hiện nhưng không phải là một điều bất khả. Khó ở chỗ một tập thể như vậy đòi hỏi phải có một quan điểm đồng nhứt. Nếu thực hiện được, có một điều lợi rõ ràng là tác phẩm có thể hoàn thành sớm https://thuviensach.vn hơn và có đủ cả hai chiều rộng và sâu. Một cá nhân có thể mất nhiều thì giờ hơn, dễ được bề rộng mà khó tránh khỏi vấp váp như trong một quyển văn học sử nọ. NGUYỄN KHUYẾN ở một trang trước mất năm 1909, ngay trang sau, năm 1910, Việt-nam cổ văn-học sử của NGUYỂN ĐỔNG CHI biến thành Việt-nam văn-học cổ sử, Khổng giáo phê bình tiểu luận của ĐÀO DUY ANH biến thành Phê bình Khổng giáo tiểu luận v.v… Viết văn-học sử khó như vậy vì ngoài khả năng chuyên môn, còn phải có thì giờ và tiền bạc cho công việc xê dịch, sưu tầm, sao chép hay mua lại những tài liệu quí hiếm. Cách đây mấy năm, một anh bạn cho chúng tôi hay một người ngoại quốc đã mua được trọn bộ Tri Tân tạp chí với giá sáu trăm ngàn đồng Việt-nam. Hội đủ những điều kiện trên không có được bao nhiêu người. Từ năm 1954 đến nay, riêng ở miền Nam chỉ mới có hai bộ đã hoàn thành, còn bao nhiêu bộ khác đếm không hết mấy đầu ngón tay, còn đang dang dở mà không biết có cặp được bến bờ hay không. Công việc đòi hỏi tương đối ít thời giờ hơn và có thể có nhiều người đóng góp được, giúp ích cho những nhà viết văn-học sử sau này, có tính cách rời rạc, có khi vụn vặt nữa nhưng rất cần thiết. https://thuviensach.vn VỀ TÁC GIẢ Tra cứu kỹ càng để san bằng những sai biệt về tiểu sử tác giả như : 1. Tính danh CHU THẦN khi được ghi là tự, khi là hiệu của CAO BÁ QUÁT trong lúc tự, hiệu có khác nhau. Có người ký nhiều bút hiệu mà có lẽ chính tác giả cũng không nhớ hết. Làm sao khám phá ra hết những bút hiệu của một tác giả để có được một cái nhìn khái quát mà đầy đủ về một văn tài có tính cách đa diện. Do sự tiết lộ của bà ÁI LAN hồi năm 1968, chúng ta mới biết được cụ PHAN BỘI CHÂU có hai tiểu thuyết dài do ký giả LÊ TRUNG NGHĨA hiệu BÚT-SƠN đứng tên cho tiện việc ấn hành : một là « Hai ngôi sao ái tình » đăng trên Phụ nữ tân văn và một nữa là Yến kỳ nhi do nhà in Nguyễn văn Viết ở Sài-gòn ấn loát. 5 Năm 1942, nhà sách Nguyễn khánh Đàm ở Sài-gòn có tổ chức một « Cuộc triển lãm sách báo Việt-nam » từ ngày 11 đến ngày 18 tháng Bảy. Trong một bài tường thuật, một ký giả có hỏi : « Các ông Đặng Thúc Liêng, Nguyễn văn Kiều, Lê Hoàng Mưu, Lê Sum, Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Kim Đính, Trương duy Toản, Nguyễn Háo Vĩnh, v.v… chẳng đáng gọi là văn sĩ ư ? Tác giả « Phan-yên ngoại sử » mở đường cho Thư xã tòng thơ, ra lối tiểu thuyết có hình trước nhứt ở Nam-kỳ, thế chẳng đáng qui công cho Trương duy Toản hay sao ? » 6 TRƯƠNG DUY TOẢN, bút hiệu Mạnh tự (1885-1957), là người chủ trương biên tập tờ Trung lập báo (1924-1933) ở Sài Gòn. Trước đó, họ TRƯƠNG đã từng hoạt động chung với cụ PHAN BỘI CHÂU. Ông NGUYỄN BÁ THẾ có nhắc đến TRƯƠNG DUY TOẢN trong loạt bài « Chiến sĩ trên đường duy tân cứu quốc » 7 mà không nhắc đến một tập hồi ký lịch sử « Phong trào cách mạng trong Nam » dưới bút hiệu ĐÔNG HỒ đã được đăng dần trên tuần báo Tiến Thủ đầu năm 1956. 2. Thời điểm sanh, tử https://thuviensach.vn Trường hợp của NGUYỄN CÔNG TRỨ, NGUYỄN KHUYẾN, PHAN VĂN TRỊ, PHẠM QUỲNH… hãy còn nhiều dị biệt. 3. Hành trạng NGUYỄN KHUYẾN ở tài liệu này được ghi là sơ bổ đốc học Thanh hóa, ở tài liệu khác là nội các thừa chỉ. Xét lại và loại bỏ những giai thoại dành cho những người mua vui như chuyện CAO BÁ QUÁT cởi truồng xuống tắm ở Hồ Tây nhơn dịp Minh mạng bắc hành đến cố đô Thăng-long… https://thuviensach.vn VỀ TÁC PHẨM 1. Truy nhận tác giả những tác phẩm vô danh Bây giờ mới được biết dịch giả truyện « Bích-câu kỳ ngộ » là của VŨ QUỐC TRÂN, tác giả của « Nhị độ mai » là HỒ QUỐC LỘC (1734-1791). 8 2. Xác định tác giả đích thực của một thi, văn phẩm được qui cho nhiều tác giả Như bài thơ luật thất ngôn bát cú « Vào hè » 9(Ai xui con quốc gọi vào hè) theo NGUYỄN TƯỜNG PHƯỢNG và BÙI HỮU SỦNG là của NGUYỄN KHUYẾN, theo NGHIÊM TOẢN là của Tuyết-huy DƯƠNG BÁ TRẠC. PHẠM MẠNH PHAN hỏi « Bài thơ Dệt cửi phải chăng của vua LÊ THÁNH TÔN ? » 10. QUÁCH TUẤN khám phá ra một điều là ở cuốn Văn đàn bảo giám in lần thứ hai, quyển 1 (1929), TRẦN TRUNG VIÊN cho bài tứ tuyệt đó 11là của LÊ THÁNH TÔN, nhưng đến quyển ba thêm bốn câu nữa thành một bài bát cú 12và cho là của PHAN THANH GIẢN. Ông QUÁCH TẤN bảo không phải của P.T.G mà là của TÔN THỌ TƯỜNG 13. Ông KHUÔNG-VIỆT, tác giả quyển Tôn Thọ Tường (1942) quả quyết là không phải 14. Rốt cuộc không ngã ngũ ra sao cả. Bài hát nói « Thị Mốc » 15(So danh giá ai bằng thị Mốc) của NGUYỄN KHUYẾN hay NGUYỄN VĂN DANH ? N.V DANH theo LÊ TRÀNG KIỀU, N. KHUYẾN theo PHẠM VĂN SƠN 16. Chưa ai chịu ai trong lúc nhiều sách giáo khoa đã qui cho N. KHUYẾN. Bài hát nói « Hương-sơn phong cảnh » 17(Thú thiên nhiên đâu bằng Hương-tích), TRẦN TRUNG VIÊN trong « Văn đàn bảo giám », NGÔ TẤT TỐ trong « Thi văn bình chú » đề là của LÊ THÁNH TÔN. Ông VIỆT LAM qui cho DƯƠNG KHUÊ 18. Sau đó, các ông NGUYỄN TƯỜNG PHƯỢNG, PHAN VĂN SÁCH và BÙI HỮU SỦNG trong « https://thuviensach.vn Việt-văn diễn giảng » (1954), ĐỖ BẰNG ĐOÀN và ĐỖ TRỌNG HUỀ trong « Việt-nam ca trù biên khảo » (1962) đều qui bài « Hương-sơn phong cảnh » cho DƯƠNG KHUÊ. Năm 1943, ông NGUYỄN NGỌC MINH có khám phá một sự nhầm chung về tác giả bài « Hương-sơn phong cảnh ca » (Hựu hà tất Bồng-châu doanh hải, Tiểu sơn lâm mà có đại kỳ quan…). Tác giả bài này là ông ĐOÀN TRIỂN, hiệu MAI VIÊN, người làng Hữu Thanh oai, sanh năm 1854, đỗ cử nhơn khoa Bính Tuất (1886), chớ không phải là VŨ PHẠM HÀM theo TRẦN TRUNG VIÊN trong V.Đ.B.G và DƯƠNG QUẢNG HÀM trong « Quốc văn trích diễm »19. Năm 1968, nghĩa là hai mươi lăm năm sau, V.Đ.B.G được tái bản mà tên tác giả vẫn chưa được « điều chỉnh » lại. Bài thơ luật nhan đề là « Tuyệt mệnh » hay « Ai điếu Phan Thanh Giản » 20(Non nước tan tành hệ bởi đâu) được ông NGÔ TẤT TỐ trong « Thi văn bình chú » ghi cho PHAN THANH GIẢN, TRỰC-THẦN rồi LÊ THỌ XUÂN lên tiếng đòi trả lại cho ĐỒ CHIỂU. 21 Hai bài thơ luật « Sống » 22(Sống tủi làm chi đứng chật trời), « Chết » 23(Chết mà vì nước chết vì dân) của Nghiêu-giang ĐẶNG VĂN BÁ bị gán lầm cho PHAN BỘI CHÂU, đã được ông LƯƠNG TRỌNG MINH đính chánh trên tờ Tân Văn. 24 Bài « Chúc người đời » bấy lâu được gán cho TRẦN TẾ XƯƠNG, thật ra là của Mân-châu NGUYỄN MẠNH BỒNG đã đăng tải trong Nam Phong số 32, tháng hai 1920, trang 172. 25 « Bắt chước ai ta chúc mấy lời Chúc cho khắp hết cả trong đời Vua quan sĩ thứ người muôn nước Sao được cho ra cái giống người. » 3. Bài nào đã có tên tác giả mà sau nghiệm thấy không đúng thì nên đặt thành nghi vấn đưa qua phần tác phẩm khuyết danh https://thuviensach.vn PHAN VĂN DẬT đã truy không ra một bà nào là Bằng phi cả vào thời Dực-tông thì làm sao dám cả quyết bài « Khóc Bằng phi » 26(Ớ thị Bằng ơi đã mất rồi) là của ông ấy ? 27 Trong V.Đ.B.G, bài thơ « Bán than » 28(Một gánh kiền khôn quảy xuống ngàn) được ghi cho TRẦN KHÁNH DƯ. Sau HOA BẰNG và NGÔ TẤT TỐ, ông KIÊM ĐẠT đặt lại nghi vấn rõ ràng hơn : « Tác giả bài Bán than là ai ? » 29 Bài nào đã xác định được tác giả như « Hương-sơn phong cảnh », « Sống », « Chết »… thì người viết sách cần theo dõi để cập nhựt hóa điều mình viết và để loại bớt tính cách bất nhứt giữa các sách, nhứt là sách giáo khoa. Bài nào chưa xác định được tác giả thì cứ để là khuyết danh hay nghi vấn như trường hợp bài « Bán than ». 4. Phục hồi nguyên bản hay hiệu chính cho gần nguyên bản nhứt những tác phẩm đã phổ biến Bài « Tôn phu nhơn qui Hớn thơ » 30(Xóc áo gài trâm vẹn chữ tùng) của TÔN THỌ TƯỜNG chưa được một sách giáo khoa nào chép đúng theo bản quốc ngữ đã in trong tập Miscellanées 31. Hiện chưa ai trình dẫn được một bản quốc ngữ nào cũ hơn. KHUÔNG-VIỆT trong quyển Tôn Thọ Tường (1942) và kế đó là ĐÔNG HỒ trong bài « Thơ Tôn phu nhơn » đã sao lại đúng 32. Học sinh cứ phải học mãi một bài sai nguyên tác. ĐÔNG HỒ có nhận xét : « Mỗi khi sao chép thơ văn của người xưa, ngứa tay chữa đi ít chữ theo ý mình đó là cái thông bịnh của nhiều người. Nếu không phải vậy thì sao mà bao nhiêu thi văn xưa của chúng ta không có bài thơ, bài văn nào thuần nhất. Nếu có một trăm bản chép ở một trăm tập thì chắc chắn là có một trăm chỗ sao chép khác nhau ! » (tr.27) Trong chiều hướng đó, ông THUẦN-PHONG muốn khôi phục bản chánh của Truyện Kiều gần nguyên tác hơn hết : « Kim Túy tình tứ » 33trong Đồng-Nai văn tập. https://thuviensach.vn Ông phó bảng BÙI KỶ đã hiệu đính được những truyện « Trê Cóc », « Trinh Thử », « Lục súc tranh công », « Hoa điểu tranh năng » (đều đã ấn hành trong tập san của Hội Khai trí tiến đức trong những năm 1941, 1942) theo tôn chỉ và phương pháp làm việc của Ban văn học Hội này : « Tiểu ban khảo truyện năm nay sưu tầm những bản truyện hoặc in, hoặc chép bằng chữ nôm, lấy bản cũ nhất làm chuẩn đích đem đối chiếu với các bản khác, so sánh từng chữ, từng câu, đính chính lại rồi chú thích rành mạch để giữ lại. Việc khảo cứu này, mỗi người trong ban chuyên nhận một bộ. Khi hiệu đính, chú thích xong đem ra cả ban cùng thảo luận đính chính rồi mới ấn định xuất bản ». 34 Năm 1971, Phủ văn hóa ở Sài Gòn có thành lập Ủy ban san định các tác phẩm của NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU. Đến năm 1973 chỉ mới có một tác phẩm được hiệu đính là truyện Lục Vân Tiên. Có làm như thế mới tránh được tình trạng một tác phẩm có nhiều thoại. Từ non hai mươi năm trước (1956), BÌNH NGUYÊN LỘC và NGUYỄN NGU Í có đặt vấn đề thống nhứt thoại 35. Lời kêu gọi liền đó không có tiếng vang. Vài năm sau, NGUYỄN HIẾN LÊ trở lại vấn đề « Phải thống nhất nhan đề và thoại của áng văn thơ cổ » 36: Việc thống nhất thoại và nhan đề – ít nhất là trong sách giáo khoa – sẽ làm cho các học giả, giáo sư và học sinh đỡ mất thì giờ và tránh được nhiều điều bất tiện ! 37 Cho đến nay vấn đề vẫn còn gần như nguyên vẹn và chưa quá thời. 5. Đính chánh những sai lầm về xuất xứ và chú giải Bài « Ký nội » 38(Từ thuở vương xe mối chỉ hồng) của PHAN THANH GIẢN được nhiều sách ghi lại với cái tựa nôm na là « Giã vợ đi làm quan » từ lâu đã được LÊ THỌ XUÂN đính chánh, phải hiểu lại là « Từ giã vợ để đi thi Hội » 39. Vậy mà nhiều người làm sách vẫn chưa hay biết. TÔN THỌ TƯỜNG ra hợp tác với Pháp từ năm 1862, cho đến lúc mất tại Hà-nội mà các ông Q.T. 40, DƯƠNG QUẢNG HÀM 41, NGUYỄN TƯỜNG PHƯỢNG, PHAN VĂN SÁCH và BÙI HỮU SỦNG 42, đều cho rằng TÔN THỌ TƯỜNG « Vịnh Kiều » 43(Mười mấy năm trời nợ rũ xong) https://thuviensach.vn khi đã về trí sĩ. TÔN THỌ TƯỜNG mất trước PHAN VĂN TRỊ khá lâu (TÔN năm 1877, PHAN năm 1910 ?) mà nhiều tác giả viết về Tôn lại cho ông này làm bài « Bái công khóc Hạng Võ » 44(Trăm năm non nước một gươm thần) để điếu ông PHAN VĂN TRỊ. 45 Trong Tri Tân từ số 19 (17-10-1941) trở đi, loạt bài « Tài liệu để đính chính những bài văn cổ » rất hữu ích cho những nhà chú giải hay viết văn học sử. Theo ông GIẢN CHI : « Chú thích mà thiếu sót lầm lẫn, đối với học giả Việt-nam chúng ta, cơ hồ đã thành thông lệ ». 46 6. Phát hiện những tài liệu cũ tản mác trong dân gian hoặc bị bỏ quên trong các thư viện công Việc sưu tập và phát hiện này không phải là dễ, ngay cả đối với những nhà viết văn học sử. Trước năm 1945, ông HOÀNG XUÂN HÃN đã đưa ra ánh sáng tập Mai đình mộng ký của NGUYỄN HUY HỔ 47. Năm 1945, ông THI-NHAM phát hiện mà không rõ « Ai là tác giả Bộ thần quốc âm ca ? ». 48 Gần đây, trên tạp chí Đại Học, ông BÙI QUANG TUNG cho biết có « Một áng văn chưa hề xuất bản : Bài « Trung Nghĩa ca » của Đoàn Hữu Trưng » liên hệ đến cuộc khởi loạn Chày Vôi của Hồng Bảo ở Huế (1866) gồm có 498 câu lục bát 49. Ông TRẦN VĂN TOÀN có sao lục lại một tác phẩm vô danh « Thiên Y thánh mẫu truyện ca » gồm có 204 câu lục bát 50. Viện Hán Học ở Huế có sưu tầm được một tập thơ lục bát khá dài, trừ những đoạn mất, còn lại trên 2000 câu lục bát nhan là « Thất thủ kinh đô tân truyện » 51liên quan đến việc kinh thành Huế thất thủ ngày 5 tháng Bảy 1885, có nhiều chi tiết hơn « Hạnh Thục ca » (1036 câu lục bát) của bà NGUYỄN NHƯỢC THỊ BÍCH. BÌNH NGUYÊN LỘC và SƠN NAM đã moi ra từ một nội san của Hội Đông-dương khảo cổ tại Sài-gòn một tập « Bốn bang thơ » dài 308 câu lục bát 52. Đó chỉ là một vài dẫn chứng. Công cuộc sưu tập không phải chỉ dừng lại ở vài kết quả đó. https://thuviensach.vn Trong khoảng tám mươi năm thuộc Pháp, vì sự giới hạn của chế độ mà cạnh bên một thứ văn chương được phổ biến công khai, còn lưu hành một thứ văn chương cách mạng hay văn chương quốc cấm nữa. Đây mới là một thứ văn chương biểu lộ được trực tiếp cái hào khí của dân tộc. Ông THÁI BẠCH có sưu tập thành sách « Thi-văn quốc cấm thời Pháp thuộc » (1968). Chúng tôi nghĩ rằng quyển này có được tái bản chắc phải được bổ túc thêm nhiều. Như có một bài thơ luật của BÙI HỮU NGHĨA không có nhan đề cũng đăng tải trong tập Miscellanées số 2 (1889) cùng với bài « Tôn phu nhơn qui Hớn thơ » của TÔN THỌ TƯỜNG, nhưng sau đó trong thời Pháp thuộc không được phổ biến. Trước đây mười mấy năm, khi BÙI HỮU NGHĨA còn hiện diện trong chương trình quốc văn lớp đệ tứ (lớp chín bây giờ), chúng tôi không được thấy có sách nào trích giảng bài đó có giá trị như một lời tuyên chiến : Ai khiến thằng Tây tới vậy à, Đất bằng bỗng chốc nổi phong ba. Hẳn hòi ít mặt đền ơn nước, Nháo nhác nhiều tay bận nỗi nhà. Đá sắt ôm lòng cam với trẻ, Nước non có mắt thấy cho già. Nam kỳ chi thiếu người trung nghĩa, Báo quốc cần vương há một ta. Những bài hát, những bài thơ do các nhà cách mạng yêu nước phổ biến trong dân chúng hồi đầu thế kỷ này và trong những năm kháng Pháp 1945-1954, có ai đã sưu tập đầy đủ chưa ? Riêng loại văn học cách mạng ở Trung, Bắc hồi đầu thế kỷ này đã khiến cho viên toàn quyền Đông Pháp lúc đó cũng phải chú ý lo ngại : « Loại văn học này nó không phải xuất hiện mới ngày hôm qua. Nó ra đời và được phổ biến ngay trước những biến cố chánh trị xảy ra trước ngày chiến thắng của quân đội Nhựt. Ông Beau ngay từ lúc đó đã thông báo cho chúng tôi biết sự xuất hiện của loại văn học cách mạng nói trên, và thứ văn học này đã gia tăng gấp bội trong thời gian gần đây. » 53 https://thuviensach.vn Còn ở trong Nam, phong trào dịch thuật hồi đầu thế kỷ này nó phong phú ra sao, gồm có bao nhiêu dịch giả, bao nhiêu dịch phẩm, phần lớn thuộc loại nào, ảnh hưởng đến nền văn học quốc-ngữ ở Nam-kỳ ra sao… chưa có ai làm sáng tỏ. Nếu được biết chỉ riêng một mình TRẦN PHONG SẮC dịch và phiên âm được mười bảy bộ sách, trong số đó có « Tây du diễn nghĩa », « Phong thần diễn nghĩa », chắc độc giả cũng có thể tưởng tượng được phần nào số lượng sách dịch thời bấy giờ. Làm được những công việc nêu trên về tác giả, tác phẩm, không cần phải là những nhà viết văn học sử nhưng những công việc đó lại có thể góp phần hữu ích vào việc soạn thảo một bộ văn học sử Việt-nam với ít thiếu sót và khuyết điểm hơn. Những công việc đó cũng gần tương tự như việc biên soạn đại đoạn sử (chép sử một thời đại) so với thông sử (sử chép gồm tất cả các thời đại). Trong quyển « Nguồn gốc Mã-lai của dân tộc Việt-nam » (1971), BÌNH NGUYÊN LỘC có nhắc lại một ý kiến của cố đạo L. CADIÈRE sau khi ông này viết xong bài « Nghiên cứu về Lũy Thầy » : « Khi mà hàng trăm người làm xong những công việc nho nhỏ như thế này rồi thì những người khác sau này mới có thể viết một bộ sử cho xứ An-nam (1960) » 54. Ý kiến này chẳng những rất xác đáng trong phạm vi sử học mà cũng còn rất xác đáng trong phạm vi văn học sử nữa. Nếu không có những công việc nho nhỏ như vậy, thì người viết một thông sử cho văn học Việt-nam sẽ khó tránh khỏi sai sót hoặc lặp lại một vài nhầm lẫn của người khác. Bởi những lẽ nêu trên, chúng tôi chọn nhan cho quyển sách này là « Mảnh vụn văn học sử ». * Trong khi đi tìm kiếm, nhặt nhạnh những mảnh vụn văn học sử, ngoài vấn đề tài liệu, chúng tôi thấy có vài trở ngại phát sanh từ những sự kiện thông thường trong giới cầm bút hoặc xuất bản. https://thuviensach.vn 7. Sự sao chép vô tình không được trung thực Chẳng hạn như bài « Một thế kỷ mấy vần thơ » của TRUY PHONG lần đầu tiên đăng trên tuần báo « Tiến Thủ » vào giữa năm 1956, chỉ có non bốn năm sau trên tập san văn nghệ « Mã Thượng » số đặc biệt xuân Canh Tý (1960) mà đã biến thành « Một thế hệ… mấy vần thơ » 55. Cô THANH NGÔN sao lại bản của Mã Thượng nên cũng chép « Một thế hệ… mấy vần thơ » trong quyển « Đường lối văn nghệ dân tộc »56. Năm 1970, « Một thế kỷ mấy vần thơ » được in thành sách 57cùng với nhiều bài khác, mới đính chánh được nhan đề sai lầm trên kia. Nếu không, chừng một thế hệ nữa thì khổ cho người sau mất công làm công việc trinh thám văn học. Tuy nhiên cũng có một điều đáng tiếc là bản in thành sách có khác (sửa một đôi chữ, thêm một vài câu) với bản in trên « Tiến Thủ » mà tác giả không báo trước cho độc giả ở bìa sách hoặc ở lời tựa. 8. Sự cố ý sửa văn người khác theo ý riêng của mình Khiến cho một tác phẩm có nhiều thoại khác nhau (Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Tôn phu nhơn qui Hớn thơ…) 9. Không chua xuất xứ những tài liệu sử dụng hoặc những tài liệu mới khám phá KHÁI-SINH DƯƠNG TỤ QUÁN sao lục bài « Một thiên ái quốc » của PHAN BỘI CHÂU 58 mà không nói rõ từ đâu để người đọc có thể tin được ở tính cách xác thực của bài ấy đến độ nào. Cũng vì lẽ đó, ông TỪ NGỌC lên tiếng « Hỏi ông Nông-sơn và ông Hải-nam : Hai bài văn đó xuất xứ ở đâu ? » sau khi hai ông này cho đăng bài « Vịnh vua Tần Thủy Hoàng » của NGUYỄN SĨ CỐ và bài « Văn tế đuổi cá sấu » của NGUYỄN THUYÊN. 59 10. Chua xuất xứ không đủ những chi tiết cần thiết Nhứt là về thời điểm để người đọc biết rõ tài liệu sử dụng có cống hiến gì mới hay chỉ là một sự lặp lại của người đi trước. Như ở mục « Những sách vở văn chương đã dùng làm tài liệu để viết quyển này » (Cao Bá https://thuviensach.vn Quát, 1940), ông TRÚC-KHÊ ghi sơ lược « Tư tưởng chính trị trong văn chương Cao Bá Quát (Khuyến học) Phan Trần Chúc ». Người đọc nói chung không rõ đó là một bài diễn văn đã đọc ở diễn đàn một hội Khuyến Học, hay một bài báo đã đăng trên một tờ có tên là « Khuyến Học » hay một cuốn sách do nhà xuất bản Khuyến Học ấn hành, ở đâu, hồi nào. 11. không ghi rõ chi tiết xuất bản của tác phẩm ấn hành lần đầu tiên Nhiều tác phẩm ra đời trước năm 1945, trong mấy năm sau này được tái bản ở Sài-gòn, hầu hết không ghi rõ chi tiết xuất bản của tác phẩm ấn hành lần đầu tiên. Cùng một tư tưởng mà phát biểu trong những trường hợp về thời gian khác nhau, nó có thể hoặc thông thường, hoặc bảo thủ, hoặc tiến bộ. Riêng nhà xuất bản Bốn Phương của cố thi sĩ ĐÔNG HỒ thì khác chu đáo về việc này. 12. Sách in sai mà không có bản đính chánh hoặc đính chánh thiếu sót Khiến cho điều in sai được phổ biến, nhứt là ở học đường thì phổ biến rộng lắm. Trong Biểu nhất lãm văn học cận đại (1958), giáo sư THANH LÃNG có viết : « Hai cuốn tự điển của Taberd, về sau, lại được mấy giáo sĩ Théreul và Lesserteur bổ khuyết và cho tái bản lần đầu tiên tại Ninh-phú năm 1877 » 60. Đến « Bảng lược đồ văn học Việt-nam 61», Théreul biến thành Théreeult. Cả hai bộ trên đều có bảng đính chánh ở cuối sách, nhưng không có đính chánh chữ Théreul hay Théreeult, đúng ra phải là Theurel. Không biết có phải từ cuốn « Biểu nhất lãm văn học cận đại » hay không, mà sau đó, có sách lặp lại một tên người in sai : Théreul. Trong « Nhà văn hiện đại », viết về PHẠM QUỲNH, VŨ NGỌC PHAN có lặp lại một câu của ĐỒ NAM TỬ : « Hồng-Nhân cũng là hiệu của ông ấy (Phạm Quỳnh) vì ông ấy vốn quê ở Thượng-Hồng, Phủ-Bình, Hải-Dương » 62. Mãi đến gần đây, cũng vẫn còn có sách chép theo như vậy, đúng ra phải là phủ Bình giang. https://thuviensach.vn Có khi nhà xuất bản dành hết cho mình phần sửa ấn cảo mà không đưa bản vỗ chót cho tác giả xem lại, hoặc tác giả ở xa không xem lại được nên khó tránh sơ sót. Tác giả có được sửa bản vỗ chót chưa hẳn là sạch lỗi nhưng chắc là phải ít lỗi hơn. Nhưng nếu tác phẩm được in lại nhiều lần, thì những lỗi cũ lẽ ra phải được sửa chữa. Tiết kiệm hay quên một đôi trang đính chánh dễ gây hại về sau cho học giới. Chúng tôi nêu ra những sự kiện trên để lưu ý giới cầm bút và nhà xuất bản vô tình gây khó khăn cho những nhà viết văn học sử. * Để đóng góp cho một bộ văn học sử ít sai sót, chúng tôi đề nghị thành lập một ủy ban để làm những việc sau đây : 1. Thống nhứt những chi tiết về tiểu sử các tác giả. 2. Thống nhứt nhan đề và thoại của các tác phẩm văn chương kim cổ cùng đính chánh những sai lầm về tác giả và tác phẩm. Ông NGUYỄN HIẾN LÊ có nhận xét : « Tình trạng thiếu thống nhất đó thật là lộn xộn và ta càng chấm dứt nó sớm ngày nào càng hay ngày đó. Vấn đề đã được đặt ra nhiều lần rồi, nhưng hễ chưa giải quyết xong thì vẫn phải nhắc lại hoài. » 63 Từ năm 1962 đến nay, đã hơn mười năm trôi qua, vấn đề cũng vẫn còn nguyên vẹn. Chẳng hạn, sau bài « Thơ Tôn phu nhơn của Tôn thọ Tường » của ĐÔNG HỒ đã nhắc qua ở trên, dựa vào bản quốc ngữ cũ nhứt được biết trích ở tập Miscellanées (1889), một loại sách giáo khoa cho trung học và đại học gần đây vẫn sao lại với một cái nhan đề và một nội dung khác « Tôn phu nhân qui Thục » thay vì « Tôn phu nhơn qui Hớn thơ ». Bài thơ luật « Sống » của NGHIÊU-GIANG ĐẶNG VĂN BÁ vẫn được nhựt báo « Tin sáng » sao lại với tên tác giả ở cuối bài là PHAN BỘI CHÂU. 64 13. Làm sao thống nhứt ? Một ủy ban văn hóa sẽ có việc làm trước mắt và việc làm lâu dài https://thuviensach.vn Việc làm trước mắt là sưu tầm gom góp hết những bài in rải rác trên các báo, chí từ trước đến nay đã làm được những công việc kể trên, như ông NGUYỄN NGỌC MINH đã khám phá được tác gải bài « Hương-sơn phong cảnh ca » là của ĐOÀN TRIỂN chớ không phải của VŨ PHẠM HÀM. Kết quả sưu tầm được phổ biến bằng hai cách. - Cách thứ nhứt là in lại thành sách đầy đủ những bài đã sưu tầm được, như Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa trước kia đã làm trong một tinh thần khác là in lại những bài xưa nay viết về NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU và tác phẩm của nhà nho chiến sĩ này. Sách có thể giao cho Trung Tâm học liệu thuộc Bộ Văn hóa Giáo dục ấn hành và bán ra thị trường như những sách khác của cơ quan này. Theo đà sưu tầm được sau này mà sách sẽ được in tiếp thành cuốn II, cuốn III. - Cách thứ hai là ra một bản thông tin rút ngắn lại nội dung những sách trên, tựa như là một bản mục lục phân tích thật vắn tắt. Thí dụ : NGUYỄN NGỌC MINH, « Một sự nhầm chung về tác giả bài Hương-sơn phong cảnh ca ». (Tác giả bài này chính là ĐOÀN TRIỂN, nhạc phụ của TRẦN VĂN GIÁP, một học giả ở Trường Viễn đông bác cổ, Hà-nội. Con cháu trong gia đình họ VŨ PHẠM cũng đã xác nhận rằng VŨ PHẠM HÀM không có để lại một tác phẩm nôm nào hết). Thanh Nghị tuần báo, số 37, 16-5-1943, tr. 12-13. Bản thông tin này cũng do Trung Tâm học liệu ấn hành và phát không cho báo chí và học đường, như đã phát không « Nội san danh từ chuyên môn », mỗi số trên trăm trang. Bản thông tin này sẽ mỏng hơn và không tốn kém nhiều như Nội san nói trên. Có làm được như vậy, những công trình nghiên cứu lẻ tẻ xưa nay không bị bỏ phí. Cơ quan nào sẽ đảm trách công việc sưu tập này ? Như đã nói ở trên, Phủ văn hóa trước kia có thành lập một Ủy ban san định các tác phẩm của NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU. Phủ này vào giữa năm 1973 đã sát nhập vào Bộ quốc gia giáo dục và thanh niên thành Bộ văn hóa https://thuviensach.vn giáo dục và thanh niên, có một phụ tá đặc trách văn hóa. Ủy ban san định vẫn còn tồn tại. Ủy ban này có thể mở rộng và kiêm nhiệm những việc làm mới, và như vậy là phải đổi danh xưng. Hoặc nếu không muốn thay đổi danh xưng thì lập thêm một ủy ban mới. Một người có thể cùng một lúc có chân trong cả hai ủy ban. Việc làm về dài lâu. Việc làm trước mắt là sưu tầm và phổ biến để thống nhứt chỉ đòi hỏi một thời gian ngắn. Còn việc làm về dài lâu là việc chú giải, san định, không phải chỉ san định các tác phẩm của NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU mà còn bao nhiêu tác phẩm của các tác giả khác nữa. Làm được những công việc kể trên là gom góp những mảnh vụn văn học sử lại để cho nhà viết văn học sử có phương tiện tốt và dồi dào để xây dựng tác phẩm của mình. Các ông HOÀNG XUÂN HÃN, ỨNG HÒE NGUYỄN VĂN TỐ… đã có công thâu góp được cho văn học sử nhiều mảnh lớn có, nhỏ có nhưng không phải là văn học sử gia. Nhà viết văn học sử có làm được những công việc kể trên cũng là điều hay, nhưng thấy được những chỗ người khác chưa thấy, chọn lọc, phân tích, tổng hợp, nhận định, phân kỳ, định hướng, trình bày… là phần việc của nhà viết văn học sử, chẳng hạn như thời kỳ phát triển của nền quốc văn mới, nên dùng năm nào làm mốc cắm đánh dấu sự bắt đầu : 1932 hay 1930 ? có nên biệt lập văn chương truyền khẩu thành một thời đại hay không ? * Quyển sách này có thành hình được cũng là nhờ ở nhiều tác giả còn sống hay đã khuất, ở nơi đây hay nơi khác mà chúng tôi có đề cập hay viện dẫn. Nếu chúng tôi có nhắc đến những sai lầm cần đính chánh hay những thiếu sót để bổ túc, là cũng chỉ vì nhiệt tình muốn được thấy trong tương lai một bộ văn học sử ít có chỗ rạn nứt hay sứt mẻ. Tài liệu sử dụng có nêu rõ xuất xứ để tiện cho độc giả tra cứu khi cần, hoặc cho những vị nào muốn đào sâu thêm ở một khía cạnh nào đó. Nếu chi tiết nào trong tài liệu được sử dụng có sai với sự thật lịch sử hoặc chưa được cập nhựt do chỗ nghiên cứu của chúng tôi còn hạn chế, https://thuviensach.vn hoặc lời giải đáp của chúng tôi cho vấn đề này hay vấn đề khác có chỗ nào chưa được thỏa đáng (chỉ có một bài nặng phần nhận định là bài chót « Cận đại và hiện đại trong lịch sử và trong văn học », mà nhận định nào lại không mang ít nhiều tính cách chủ quan), thì chúng tôi cũng mong được quý vị thấy xa, hiểu rộng vì văn học sử Việt-nam mà đính chánh cho. XII. 1973 https://thuviensach.vn PHỤ-LỤC A. VÀO HÈ Ai xui con cuốc gọi vào hè, Cái nóng nung người nóng nóng ghê ! Ngõ trước vườn sau um những cỏ, Vàng phai thắm nhạt ngán cho huê ! Đầu cành kiếm bạn oanh xào xạc, Trong tối đua bay đóm lập lòe. Mong được nồm « Nam » cơn gió thổi, Đàn ta, ta gẩy khúc « Nam » nghe. NGUYỄN KHUYẾN (Chép theo NGUYỄN TƯỜNG PHƯỢNG) B. DỆT VẢI Thấy dân rét mướt nghĩ mà thương, Vậy phải lên ngôi gỡ mối giường, Tay ngọc lần đưa thoi nhật nguyệt, Gót vàng giậm đạp máy âm dương. LÊ THÁNH-TÔN (Chép theo Văn Đàn Bảo Giám cuốn ba,1968) C. ĐÀN BÀ DỆT GẤM Thấy dân đói rách nghĩ mà thương, Ngồi ở trên khung sửa mối giường. Tay ngọc nhặt đưa thoi nhật nguyệt, Gót son lần đạp máy âm dương. Xuân hoa tơ liễu duyên vòng kết, https://thuviensach.vn Duyên hiệp rồng mây chỉ vấn vương. Dâng gấm sân chầu đành có thủa, Sánh nhường Tô Huệ bực văn chương. LÊ THÁNH TÔN (Trong Văn Đàn Bảo Giám chép lại theo QUÁCH TẤN) D. MẸ MỐC So danh giá ai bằng Mẹ Mốc ! Ngoài hình hài, gấm vóc cũng thêm ra. Tấm hồng nhan đem bôi lấm xóa nhòa : Làm thế để cho qua mắt tục. Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngọc, Tâm trung thường thủ tự kiên kim. Nhớ chồng con muôn dặm xa tìm, Giữ son sắt êm đềm một tiết. Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết. Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ. Đắp tai ngảnh mặt làm ngơ (lơ), Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây. Khôn em dễ bán dại này. NGUYỄN KHUYẾN (Chép theo NGUYỄN TƯỜNG PHƯỢNG. Bản sao của ông PHẠM VĂN SƠN trong « Bút Hoa » số 20, tháng tám 1965 cũng giống với bài này). VỊNH THỊ MỐC (Ông LÊ TRÀNG KIỀU cho biết lúc còn chủ trương Vị-giang văn khố ở Nam-Định 1932-1933, ông có nhận được của người cháu cụ N.K một thi tập chép tay của cụ N.K trong đó có bài sau đây) https://thuviensach.vn So thanh tiết ai bằng Mẹ Mốc. Ngoài hình hài dẫu gấm vóc cũng thèm ra. Mảnh hồng nhan đem than lấm xóa nhòa, Làm bệ đặc che qua mắt tục. Thơ rằng : Ngoại mạo bất cầu vi mỹ ngọc ! Trung tâm tằng tụ thị kiên kim Từ chồng xa muôn dặm khôn tìm Phận tòng nhất đành in cho vẹn tiết Sạch như nước, trắng như ngà, mà trong như tuyết Dẫu Tây Tầu mộ miệc, chút không nhơ ; Bưng tai ngoảnh mặt làm ngơ, Rằng khôn cũng mặc, rằng khờ cũng thây ; Khôn kia dể bán dại này ! (Bút hoa, số 22, tháng mười 1965) Đ. HƯƠNG SƠN PHONG CẢNH Thú thiên nhiên đâu bằng Hương-tích, Đủ màu thanh cảnh lịch trăm chiều. Người thì vui sô, lạp, ngư, tiều, Kẻ thời thích yên, hà, phong, nguyệt. Kho vô tận những thế nào chưa biết Thú hữu tình sơn thủy, thực là vui. Khi đăng lâm có lối lên trời, Mây dưới gót đủ xanh, đen, vàng, đỏ, trắng. Lúc vào động ngắm sơn quynh thạch động, Bút thần ngoan khôn vẽ cho cùng Riêng một bầu sắc sắc không không. Đủ mọi vẻ kỳ kỳ quái quái. Động chủ hữu linh thần bút tại, Hóa nhi vô ý tự nhiên công. https://thuviensach.vn Khách trèo non ngoảnh lại mà trông, Lòng mến cảnh rời chân đi hóa đứng Chén Vân-dịch nghiêng bầu uống gắng, Bức thơ tiên mở túi liền đề. Giải oan ra, tẩy tục lại thêm Mê, Thiên trù tới, vong ky càng thấy khỏe. Lòng thi tửu còn đâu hơn đấy nhỉ, Chẳng Bồng-lai Nhược-thủy cũng thần tiên, Rõ ràng « Đệ nhất Nam-thiên » Mang đi lại sợ quần tiên mất lòng. Thôi thời để đấy chơi chung. DƯƠNG KHUÊ (Chép theo ĐỖ BẰNG ĐOÀN và ĐỖ TRỌNG HUỀ, « Việt-nam ca trù biên khảo », 1962) E. TUYỆT MỆNH (ĐIẾU PHAN THANH GIẢN) Non nước tan tành hệ bởi đâu ? Dàu dàu mây bạc cõi Ngao-châu. Ba triều công cán vài hàng sớ, Sáu tỉnh cương thường một gánh thâu. Trạm bắc ngày chiều tin điệp vắng, Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu. Minh sanh chín chữ lòng son tạc, Trời đất từ đây mặc gió thu. NGUYỄN-ĐÌNH CHIỂU (PHAN VĂN HÙM chép theo lời ông NGUYỄN ĐÌNH CHIÊM con cụ ĐỒ CHIỂU, trong cuốn « Nỗi lòng Đồ Chiểu », TRỰC THẦN sao lại trong « Tri Tân » số 89, 1-4-1943). https://thuviensach.vn G. SỐNG Sống dại sinh chi đứng chật trời Sống xem Âu Mỹ hổ không ai ? Sống làm nô lệ cho người khiến Sống chịu ngu si để chúng cười Sống tưởng công danh không tưởng nước Sống lo phú quí chẳng lo đời Sống mà trâu ngựa đừng nên sống Sống dại sinh chi đứng chật trời. NGHIÊU-GIANG ĐẶNG VĂN BÁ H. CHẾT Chết mà vì Nước chết vì Dân Chết ấy làm trai hết nợ nần Chết bởi Đông Chu hồi Thất quốc Chết vì Tây Hán lúc Tam phân Chết như Hưng Đạo hồn thành thánh Chết tựa Trưng Vương phách hóa thần Chết cụ Tây Hồ danh chẳng chết Chết mà vì Nước chết vì dân. NGHIÊU GIANG ĐẶNG VĂN BÁ (PHI BẰNG, « Thi Văn các nhà chí sĩ Việt-nam » (Huế : Tân Thanh x.b., 1939) tr.123. Hai bài « Sống », « Chết » trên đây do LƯƠNG TRỌNG MINH sao lục in lại trong Nguyệt san « Tân Văn », số 12, tháng tư 1969). I. KHÓC BẰNG PHI Ớ Thị Bằng ơi ! đã mất rồi ! Ớ tình, ớ nghĩa, ớ duyên ôi ! Mưa hè, nắng chái, oanh ăn nói https://thuviensach.vn Sớm ngõ trưa sân, liễu đứng ngồi. Đập cổ kính ra, tìm lấy bóng, Xếp tàn y lại, để dành hơi. Mối tình muốn dứt, càng thêm bận, Mãi mãi theo hoài cứ chẳng thôi. DỰC-TÔNG (Bài này chép theo NGUYỄN TƯỜNG PHƯỢNG và TGK, « Việt-văn diễn giảng – Hậu bán thế kỉ XIX ». Trong « Thi văn bình chú », cuốn I, 1942, tr.105, dưới bài « Khóc nàng Bằng » NGÔ TẤT TỐ có viết : « Bài này nhiều người bảo là của vua Tự-đức. Nhưng các vị cố lão thì nói là của ông Nguyễn gia Thiều khóc nàng Bằng-Cơ, một người vợ lẽ của ông ». Ông PHAN VĂN DẬT quả quyết có bằng chứng đích xác rằng bài « Khóc thị Bằng » không phải của vua Dực-tông » và đề nghị : « Và từ đây, ta cũng nên để cái đề là « Khóc thị Bằng » chứ đừng để là « Khóc Bằng phi » nữa vì không có một lý do gì cho phép ta làm như thế ». (Sáng tạo, số 23 tháng tám 1958). K. BÁN THAN Một gánh kiền khôn quẩy tếch ngàn Hỏi chi bán đó dạ rằng than Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn Ở với lửa hương cho vẹn kiếp Thử xem sắt đá có bền gan Nghĩ mình lem luốc toan nghề khác Nhưng sợ trời kia lắm kẻ hàn. TRẦN KHÁNH DƯ (Bài này chép theo « Văn Đàn bảo giám » cuốn I, bản in năm 1968. Sách này không cho biết rõ tác giả là ai, sống vào thời nào. Sách khác chép tên tác giả là TRẦN KHÁNH GIƯ. G. CORDIER trong « Morceaux https://thuviensach.vn choisis d’auteurs annamites » tái bản năm 1935, cho biết tác giả sống vào thời vua Trần Nhân tôn (1278-1293), sau khi từ quan, rút lui về Chí-linh (Hải-dương) làm nghề bán than. Ông KIÊM ĐẠT viện dẫn nhiều phản chứng cụ thể cho thấy TRẦN KHÁNH DƯ là một di thần nhà Lê). L. TÔN PHU NHƠN QUI HỚN THƠ Xốc áo gài trâm vẹn chữ tùng Ngàn năm rõ mặt gái Giang-đông Trông Ngô chạnh tủi chòm mây bạc Về Hán đành trau phận má hồng Son phấn thà cam dày gió bụi Đá vàng đâu để thẹn non sông Ai về nhắn với Châu-công-Cẩn Thà mất lòng anh đặng bụng chồng. TÔN THỌ TƯỜNG (Đầu năm 1957 có dịp tĩnh dưỡng ở Phước-tuy vài ngày, tình cờ chúng tôi có bắt gặp được tập Miscellanées trong tủ sách của cụ Lê Thành long, trong đó có bài « Tông phu nhơn qui Hớn thơ » của TÔN THỌ TƯỜNG. Chúng tôi nghĩ rằng có lẽ đây là bản quốc ngữ cũ nhứt nên đã sao chép lại. Đến khi lấy bản sao ra dùng chúng tôi nghi ngờ cả chính mình, không biết hồi ấy chép lại có thật đúng không. Viết đến đây. Chúng tôi không có tập Miscellanées trước mắt. Chúng tôi cũng thất vọng khi tìm đến một vài thư viện. Ông L.T.X bảo có thấy ở thư viện của Học hội Đông-dương, mà tôi tìm thẻ ở cái ngăn « Revues et périodiques » cũng không ra. Đành phải kiểm lại bằng cách đối chiếu với bản in của KHUÔNG-VIỆT trong cuốn « Tôn Thọ Tường » (1942) của ĐÔNG HỒ trong « Bách Khoa » (số 127, 15- 4-1962) và của giáo sư HỒ ĐẮC THĂNG (thư đề ngày 01-10-1973) ở Phước-lễ chép giùm cho từ tập Miscellanées mượn của cụ Lê Thành Long. Bản sao của hai ông K.V và Đ.H. cũng được chép thẳng từ tập này. https://thuviensach.vn Bản sao của Đ.H và giáo sư H.Đ.T ở cái tựa bài đều viết « qui Hán » của K.V. và chúng tôi là « qui Hớn ». Ở câu bốn, tất cả bốn bản sao đều chép « về Hán ». Nếu chúng tôi không nhớ sai, thì ở cái tựa là chữ « Hớn » còn ở câu 4, Hớn hay Hán, không được chắc lắm.) M. KÝ NỘI Từ thuở vương xe mối chỉ hồng, Tình 65 này ghi tạc có non sông. Đường mây cười kẻ 66 ham dong ruổi, Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng. Ơn nước, nợ trai, đành nỗi bận, 67 Cha già, nhà khó, cậy nhau cùng. Mấy lời dặn-nhủ khi lâm biệt, Rằng nhớ, rằng quên lòng hỡi lòng ? PHAN THANH GIẢN (Nhiều sách chép bài này với cái tựa là : « Từ giã vợ đi làm quan ». Bài trên chép theo ông LÊ THỌ XUÂN trong « Tri Tân » số 97, 27-5-1943. Theo chỗ tra cứu vững vàng của ông, thì bài này được làm ra vào lúc « ra Kinh ứng thí và gởi cho bà vợ họ Lê ». « Từ giã vợ để đi thi Hội » chớ không phải « đi làm quan », vậy tôi tưởng ta cứ nên dùng cái tựa vắn tắt của nó là « Ký Nội ». Tưởng cũng nên nhắc lại PHAN THANH GIẢN là vị tiến sĩ đầu tiền của Nam-kỳ lục tỉnh, đã dự thi Hội khoa Bính Tuất, 1826). N. VỊNH KIỀU Mười mấy năm trời nhục rửa xong, Sông Tiền đường đục hóa ra trong. Mảnh duyên bình lặng còn nồng-nã, Chút phận tang thương lắm ngại-ngùng. Chữ hiếu ít nhiều trời đất biết, Mảnh tình nặng nhẹ chị em chung. https://thuviensach.vn Soi gương thiên cổ : thương mà trách, Chẳng trách chi Kiều, trách Hóa-Công. TÔN THỌ TƯỜNG (Chép theo KHUÔNG-VIỆT, « Tôn Thọ Tường Một danh sĩ đất Đồng nai », 1942) O. BÁI CÔNG KHÓC HẠNG-VÕ Trăm hai non nước một gươm thần, Hết giận thôi mà khóc cố nhân. Con mắt bốn ngươi nhìn với mắt, Cái thân tám thước tủi cùng thân ! Bát canh Quảng-Võ ơn còn nhớ, Chén rượu Hồng-môn lệ khó ngăn. Giọt lệ anh hùng lau chẳng ráo, Mặc ai rằng giả, mặc ai chân. TÔN THỌ TƯỜNG (Chép theo KHUÔNG-VIỆT) https://thuviensach.vn CAO BÁ QUÁT I. VÀI DÒNG TIỂU SỬ II. MỘT TÀI LIỆU CĂN BẢN - Tại sao phải nhắc đến Ứng-hoè Nguyễn văn Tố khi đề cập quyển « Cao Bá Quát » của Trúc-khê ? - Một tài liệu căn bản - Cách mạng hay không cách mạng ? - Con đường khoa danh của Cao Bá Quát - Về việc chấm thi của Cao Bá Quát III. ÔNG DƯƠNG TỰ GIÁP BẤT BÌNH - Về chuyện Cao Bá Quát tắm ở Hồ Tây - Về mấy câu đố của Cao Bá Quát - Khảo hạch và khảo, hạch - Phạm huý - Cho điểm IV. ÔNG TRÚC-KHÊ TỰ BIỆN HỘ V. QUYỂN CAO BÁ QUÁT SAU TRÚC-KHÊ - Bốn, ba hay hai bồ chữ ? - Hai anh em họ Cao cùng đỗ một khoa ? - Hành tẩu hay thừa chỉ ? - Sơ khảo, phúc khảo hay giám khảo - Kinh lược sứ Nguyễn Đăng Giai chớ không phải Nguyễn Văn Giai - Ba mươi quan có lí hơn ba mươi ngàn - Ai khen Cao Bá Quát ? - Hai câu thơ chữ pha nôm - Hai câu đối ở điện Cần-Chánh có phải do Cao Bá Quát sửa ? - Một cái chết thật rắc rối - Văn nghiệp https://thuviensach.vn VI. VÀI NHẬN XÉT CHUNG VII. PHỤ LỤC https://thuviensach.vn I. VÀI DÒNG TIỂU SỬ CAO BÁ QUÁT tự MẪN-HIÊN, hiệu CHU-THẦN 68ra đời vào khoảng trước sau năm Gia-long thống nhứt đất nước (1802). Ông là con cụ đồ Cao Cửu Chiếu 69, cháu của Cao Bái Hiên 70, Binh bộ thượng thư triều Lê, kiêm tham tụng bên phủ chúa. Ông thuộc dòng họ vốn « dõi đời khoa bảng xuất thân » tại làng Phú thị, huyện Gia-lâm, tỉnh Bắc-ninh. Ông là em song sinh của Cao Bá Đạt và là chú của CAO BÁ NHẠ, tác giả « Tự Tình khúc ». Cả hai anh em đều được cha nghiêm huấn. Năm 14 tuổi, C.B.Q. đã làm được đủ các thể văn và viết chữ đẹp đủ cả bốn kiểu chân, thảo, triện, lệ nhưng không may mắn lắm trên đường cử nghiệp. Năm 1831, ông mới đậu cử nhơn ở trường Hà-nội nhưng từ năm sau hỏng luôn mấy khoa thi hội. Năm ấy, anh ông thi hỏng và khoa sau nữa (1834) mới đậu cử nhơn. Năm 1841, do sự tiến cử của quan tỉnh Bắc-ninh, ông mới được sung chức hành tẩu bộ Lễ tại kinh. Cuối năm đó, ông giữ một chân sơ khảo tại trường thi hương Thừa-thiên. Trong chức vụ đó, ông có chữa bài cho sĩ tử phạm trường qui để lấy đậu vì luyến tài chớ không có hậu ý gì khác. Việc bại lộ, ông bị ghép vào tử tội, nhưng được vua Thiệu-trị gia ân cải thành tội giảo giam hậu, đày đi Đà-nẵng. Hai năm sau, 1843, nhân có phái bộ Đào Trí Phú đi Tân-gia-ba, ông được chỉ sai đi theo. Khi về, ông được phục chức rồi thăng Chủ sự bộ Lễ. Nhờ chuyến đi này, nhãn quan của ông được mở rộng và ông ý thức được về cái tệ hại của việc học từ chương khoa cử, phù phiếm : Tân-gia từ vượt con tàu, Mới hay vũ trụ một bầu bao la. Giật mình khi ở xó nhà, Văn chương chữ nghĩa khéo là trò chơi. Không đi khắp bốn phương giời, Vùi đầu án sách uổng đời làm trai. https://thuviensach.vn Bản dịch của TRÚC-KHÊ Nơi đất thần kinh, tuy ở vào một địa vị khiêm tốn nhưng không biết quì lụy. TÙNG-THIỆN VƯƠNG mời ông vào Mặc-Vân thi xã (cũng còn gọi là Tùng-Vân thi xã) gồm có nhiều thi bá thuộc hàng hoàng thân, quốc thích, đại thần và cả danh sĩ của sứ bộ Trung Hoa nữa. Đã có xem thơ của nhóm này, ông từng hạ lời : Ngán thay cái mũi vô duyên, Câu thơ thi xã con thuyền Nghệ-an. Nhưng trước sự ân cần và đại lượng của TÙNG-THIỆN VƯƠNG và TUY-LÝ VƯƠNG, ông mới chịu nhập hội tao đàn. Có phải chăng vì cái tính gai góc của ông mà năm Tự-Đức thứ bảy (1854), ông bị giáng đưa đi làm giáo thọ phủ Quốc-oai, tỉnh Sơn-tây, ở một vùng cô lậu, xa hẳn chốn kinh kì mà cũng xa luôn đất nghìn năm văn vật ? Xa chốn kinh kỳ, ông tránh sao cho khỏi cái tâm trạng của kẻ bị lưu đày như BẠCH CƯ DỊ xa đất Trường-an đi nhậm chức Tư-mã ở mãi tận Giang-châu xa xôi, nơi bến Tầm-dương tịch mịch : Tầm-dương đất trích gối sầu hôm mai. Mấy câu đối ông dán ở trường học : Mô phạm dăm ba thằng mặt trắng, Đỉnh chung chiếc rưỡi cái lương vàng. Và ở nhà : Nhà trống ba gian, một thầy, một cô, một chó cái. Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi. Hẳn đã diễn tả được phần nào cái tâm trạng đó. Ở đất trích Quốc-oai, ông lại khó chịu về cái tính hách dịch của Tổng đốc Nguyễn Bá Nghi. Vì những lẽ nào khác nữa chăng mà ông chán nản bỏ quan theo Lê Duy Cự (có sách chép Lê Duy Đồng, cháu bốn đời vua Lê- https://thuviensach.vn Hiển-tông), một người tự xưng con cháu nhà Lê. Ông này được tôn làm minh chủ còn C.B.Q. được phong làm quốc sư. Tháng mười năm 1854, ông thảo hịch dấy binh ở Mỹ-lương với lá cờ vàng có hai câu đối : Bình-dương, Bồ-bản vô Nghiêu, Thuấn, Mục-dã, Minh-điều hữu Võ, Thang. (Ở Bình-dương, Bồ-bản không có (minh quân thánh chúa như) Nghiêu, Thuấn (nên) ở Mục-dã, Minh-điều (mới) có Võ, Thang (đứng lên làm cách mạng). Cuộc dấy binh đó được sử chép lại gọi là giặc Châu-chấu vì mấy tháng trước ở hai tỉnh Sơn-tây, Bắc-ninh, châu-chấu xuất hiện rợp trời, phá hại mùa màng rất nặng nề. Dân chúng cho đó là một triệu chứng bất tường, ứng nghiệm với cuộc dấy binh ở Mỹ-lương. Với hơn hai nghìn quân ô hợp, võ trang thô sơ, C.B.Q. cùng đồng đảng (Nguyễn Kim Thanh, Nguyễn Văn Thực, Nguyễn khắc Quyết, Đinh Công Mỹ, Bạch Công Trân) không đương cự lại với binh triều do hai phó lãnh binh Sơn-tây là Nguyễn Ngao và Lê Thuận Đại chỉ huy. Thất bại, ông bị giết cùng cả họ (1854), kể cả hai con ông là Cao Bá Phùng và Cao Bá Thông. Anh ông là Cao Bá Đạt đang tại chức tri huyện ở Nông-cống (Thanh-hóa) bị bắt giải về kinh thọ hình, đã tự tử giữa đường. Cháu gọi ông bằng chú CAO BÁ NHẠ trốn tránh ở chân núi Hương-sơn (Hà-đông), tám năm sau cũng bị bắt. CAO BÁ QUÁT là tác giả của nhiều câu đối và là nhân vật của nhiều giai thoại nay được biết hoặc không phải của ông hoặc còn tồn nghi * Không kể những diễn văn và bài vở đăng tải trên báo chí, cuốn sách đầu tiên viết về C.B.Q. là cuốn « Cao Bá Quát » của TRÚC-KHÊ (1940) https://thuviensach.vn II. MỘT TÀI LIỆU CĂN BẢN TẠI SAO PHẢI NHẮC ĐẾN ỨNG-HÒE NGUYỄN VĂN TỐ KHI ĐỀ CẬP QUYỂN « CAO BÁ QUÁT » CỦA TRÚC-KHÊ ? Vào cuối năm 1940, nhà xuất bản Tân-dân ở Hà-nội có cho phát hành một quyển danh nhân truyện kí của TRÚC-KHÊ (NGÔ VĂN TRIỆN) tựa là « Cao Bá Quát ». Năm 1952, tác phẩm này được TRÚC-KHÊ thư xã tái bản ở Hà-nội theo bản cũ, gồm 151 trang. Tập sách tuy mỏng (trừ phần trích dịch còn lại chỉ có 100 trang) nhưng được ông ỨNG-HÒE NGUYỄN VĂN TỐ đề tựa cẩn thận, lại thêm có Hậu tự của LÊ THANH (1913-1947) nữa. Ông N.V.T (1889-1947) là người đồng bối với TẢN-ĐÀ, PHẠM QUỲNH, NGUYỄN VĂN VĨNH. Ông được chọn làm việc tại Viễn-đông bác cổ học viện ở Hà Nội và được cả giới trí thức cả Nam lẫn Pháp nể nang về tài học. Trước năm 1945, tuần báo « Indochine » của Pháp gọi ông là một « érudit » (bác học) nhân dịp ông được trao tặng một huy chương gì đó. Một giáo sư người Pháp đã nói với LÊ THANH như thế này hồi năm 1936 : « Xứ Bắc-kì có ba người thông minh đáng chú ý : Ông Phạm Quỳnh, ông Nguyễn Văn Vĩnh và ông Nguyễn Văn Tố. Tôi đọc văn của cả ba ông – cả Pháp văn và Quốc văn – trong nhiều tờ báo. Nếu người ta bắt tôi phê bình ba người, chắc tôi phải kết luận bài phê bình của tôi rằng : « Tôi cảm phục ông Quỳnh, tôi thương ông Vĩnh và yêu ông Tố. (…) Ông Nguyễn Văn Tố có những đức tính hoàn toàn Việt-nam, tựa hồ như một người đàn bà Việt-nam xưa, vừa có duyên vừa đức hạnh, ở một vùng quê xa, chưa biết văn minh mới là gì. » 71 Hồi còn nhỏ, nhà văn THIẾU-SƠN có học qua lớp Pháp văn do ông NGUYỄN VĂN TỐ đảm trách. Ông THIẾU-SƠN đã khiếp phục cái tính https://thuviensach.vn cường ký của người thầy. Có cái trí nhớ phi thường đó lại làm việc tại một kho tài liệu quý giá như Viễn-đông bác cổ học viện nên thời bấy giờ, ông được coi là một người có sở học uyên bác hiếm có trong địa hạt cổ học Đông-phương. Ông nói có sách, mách có chứng với những tài liệu cũ mới có sẵn bên tầm tay, viện dẫn tờ a, tờ b trong cổ thư rất chi li. Phép dẫn chứng bắt buộc phải như vậy nhưng có lẽ vì không hiểu hay vì muốn đùa mà có người gọi ông là « ông tờ a, tờ b ». Ông bỉnh bút thường xuyên cho « Tri Tân » tạp chí trong suốt những năm 1941-1945. Có số, ông « bao sân » trên tờ tạp chí này. Khi có một tác phẩm thuộc loại văn học hay lịch sử mới xuất hiện trên kệ các nhà sách, là độc giả yên tâm chờ đợi tiếng nói của ông NGUYỄN VĂN TỐ trên tờ Tri Tân. Khoảng hai mươi bài phê bình của ông về cuốn « Việt-nam văn học sử yếu » (1944) gom lại cũng đủ in thành một tập sách được. Tuy ông không có một tác phẩm nào được in thành sách, nhưng ông có công rất lớn trong việc đính chánh những điều sai lầm trong sách vở thời bấy giờ. Riêng kẻ viết những dòng này chỉ tiếc cho ông có một điều là trong dịp tranh luận với tờ « Thanh Niên » ở Sài-gòn về những chữ « thà » với « chẳng thà », ông có giọng văn tỏ ra mất bình tĩnh (Tri Tân, số 136, 30-3-1944). Nói chung uy tín của ông rất lớn nhờ ở tài năng, đức độ. Đó là một điều rất đáng quí nhưng đồng thời cũng có thể có hại trong một vài trường hợp nào đó. Cá nhân con người ông NGUYỄN VĂN TỐ siêu hạng như vậy mà đề tựa cho cuốn « Cao Bá Quát » thì phải biết ý kiến của ông nặng cân lắm : « Muốn biết thân thế ông, tôi xin giới thiệu quyển sách của ông Trúc khê Ngô Văn Triện. Ông Trúc-khê đã tra cứu tài liệu ở Viện Bác-cổ, biên thành một quyển tiểu sử rất công phu, lời văn chải chuốt, câu chuyện phân minh, xem có phương pháp ổn đáng, không thể dị nghị vào đâu được » (…) « Dù thế nào chăng nữa, tôi cũng xin nhường độc giả phán đoán. Chỉ vì ưa đọc những sách chép lịch sử các bậc tiền bối, nên tôi đề tựa này, mong độc giả thưởng thức cái tài của một danh nho do ông Trúc-khê đã dầy công nghiên cứu và giảng giải. » (tr. 5-6). https://thuviensach.vn Người chịu ảnh hưởng đầu tiên của mấy lời giới thiệu đó, có lẽ là ông VŨ NGỌC PHAN khi ông viết : « Cao Bá Quát là một quyển truyện ký có giá trị, soạn giả đã sưu tầm công phu và không một đoạn nào pha lời dị đoan nào cả ». 72 Người thứ hai là ông KIỀU THANH QUẾ nhân phê bình cuốn « Hàn mặc-tử » của TRẦN THANH MẠI có nhắc đến Cao Bá Quát của TRÚC KHÊ : « Trừ những lỗi đã kể, trong văn học quốc ngữ cận đại, quyển « Hàn-mặc-tử » của Trần Thanh Mại vẫn đáng đặt cạnh những quyển hữu danh biên tập về thân thế văn chương của bao thi sĩ nước nhà khác, ví như « Nỗi lòng Đồ Chiểu » của Phan văn Hùm, « Hồ Xuân Hương » của Nguyễn văn Hanh, « Nguyễn công Trứ » của Lê Thước, « Cao Bá Quát » của Trúc-khê, « Thi sĩ Tản-đà » của Lê Thanh, v.v… » 73 MỘT TÀI LIỆU CĂN-BẢN Có thể nói từ ngày ra đời cho đến bây giờ, quyển « Cao Bá Quát » của TRÚC-KHÊ nhờ lời giới thiệu ân cần của ông NGUYỄN VĂN TỐ, hãy còn ảnh hưởng lớn và được dùng làm tài liệu căn bản để kê cứu một khi muốn viết về Cao Bá Quát. Nói chung, dầu tác giả có viện dẫn xuất xứ rõ ràng hay không, người đọc cũng dễ nhận ra được điều đó, vì sự lặp lại những chi tiết, những giai thoại đúng cũng như sai trong tác phẩm của TRÚC-KHÊ để lập luận, nhận định, phê phán mà không có đáng kể về mặt tài liệu. Chẳng hạn như về cái chết của CAO BÁ QUÁT, các sách « Đại Nam Chánh biên Thực lục », « Đại-Nam Chánh biên liệt truyện » (có kê trong thư mục tham khảo của ông TRÚC-KHÊ), « Quốc triều hương khoa lục » đều chép là CAO BÁ QUÁT chết trận. Nhưng ông TRÚC-KHÊ luận rằng : « Song xem những ký tái của các tư gia và hợp với truyền thuyết của các cố lão thì ông bị bắt sống rồi trảm khiêu chứ không phải là chết trận. Vì thấy cái thuyết bắt sống có nhiều chứng cớ hơn, nên ở đây tác giả đi theo thuyết ấy. » (Cước chú số 1, trang 95). https://thuviensach.vn « Sau ông TRÚC-KHÊ, sách báo viết về CAO BÁ QUÁT đều hầu hết nghiêng theo ý kiến của ông. Về sách, sau quyển truyện ký của ông, không có một cuốn danh nhân truyện ký nào khác về CAO BÁ QUÁT mà chỉ có những quyển khảo luận thuộc loại giáo khoa, những quyển giảng văn hay văn học sử trong đó có một phần nói về CAO BÁ QUÁT, hoặc những bài đăng ở các tuần báo hay tạp chí văn học, nghệ thuật. Có điều khác biệt lớn lao chăng là ở trong phần nhận định và phê phán về điểm họ CAO dấy binh ở Mỹ-lương phải hay không phải « chỉ là cái việc cuồng vọng của nhà văn sĩ họ CAO bất đắc chí, chứ chẳng phải là việc do một cái tư tưởng cách mạng sáng suốt đã sản sinh ra. » (tr.81) CÁCH MẠNG HAY KHÔNG CÁCH MẠNG ? Đồng ý với TRÚC-KHÊ có DƯƠNG QUẢNG HÀM cho họ CAO : « là một bậc có tài lỗi lạc, nhưng không được trọng dụng, nên sinh ra chán nản bực tức, khinh thế ngạo vật, kết cục đến làm loạn mà phải giết chết, bởi thế trong thơ ca của ông (còn truyền lại rất ít thơ nôm và hát nói), ta nhận thấy cái tư tưởng yếm thế, cái tình cảm phẫn uất của một kẻ bất đắc chí. » 74 Đứng về phía không thuận lợi cho họ CAO, ngoài TRÚC-KHÊ, DƯƠNG QUẢNG HÀM, còn có : - VŨ NGỌC PHAN với bộ « Nhà văn hiện đại », quyển III, phần II, chương viết về TRÚC-KHÊ. - NGUYỄN TƯỜNG PHƯỢNG và BÙI HỮU SỦNG với bộ « Văn học sử Việt-nam », 1951, quyển 1. - VĂN-PHONG với bài « Thân thế và sự nghiệp Cao Bá Quát », tuần báo « Mới » số 24, 2-5-1953 và số 25, 9-5-1953. - MINH-TÚ với bài « Cao Bá Quát có phải là nhà cách mạng không ? », « Nhân loại » tuần báo số 8, 27-7-1953 và số 9, 3-8-1953. - LỮ HỒ với « Bài ca của một cuồng sĩ », « Sáng Tạo » nguyệt san số 18, tháng 3-1958. https://thuviensach.vn - THUẦN-PHONG với tập « Khảo luận thi văn Cao Bá Quát », 1959. - HÀ NHƯ CHI với « Việt-nam thi văn giảng luận toàn tập », 1970. - THÁI BẠCH với bài « Xét lại nhà thơ Cao Bá Quát », Văn Học, giai phẩm, tháng 12-1972. - NGUYỄN ANH với bài « Cao Bá Quát, kẻ bất đắc chí, con người nổi loạn hay nhà cách mạng ? », « Văn Học », tháng 11-1972 - … Trái lại, cũng có nhiều tác giả thuận tình xác nhận phẩm tính cách mạng cho CAO CHU-THẦN, coi cuộc dấy binh ở Mỹ-lương là một cuộc khởi nghĩa, như : - NGUYỄN DUY DIỄN với quyển « Luận đề về Cao Bá Quát » (1952) và bài « Cao Bá Quát, một chiến sĩ cách mạng ? », « Sáng Tạo », số 22, tháng 7-1958. - PHẠM VĂN DIÊU với « Việt-nam văn học giảng bình », 1953. - NGUYÊN-SA với bài « Cái chết của người thi sĩ », « Sáng tạo », số 4, tháng 1-1957. - ĐIỀN-NGUYÊN với bài : « Nhân cuộc thi tú tài vừa qua, bàn về Cao Bá Quát », Tuần báo « Nhân Loại », số 2, 15-9-1958. - DOÃN QUỐC SỸ và VIỆT-TỬ với quyển « Khảo luận về Cao Bá Quát », 1959. - CHÂU HẢI KỲ với bài « Phải chăng Cao Bá Quát chỉ đả phá mà không xây dựng ? », « Giáo-Dục phổ thông », bán nguyệt san, số 43, 1-8-1959. - NGUYỄN TỬ QUANG với bài « Hoàn cảnh xã hội con người với Cao Bá Quát », « Giáo-Dục phổ thông », số 52, 15-12-1959 và số 53-54, Xuân 1960. - PHẠM THẾ NGŨ với bộ « Việt-nam văn học sử giản ước tân biên », quyển II, 1963. https://thuviensach.vn - PHẠM VĂN SƠN với bài « Nghĩ về Cao Bá Quát », « Nghệ Thuật » tuần báo, số 23, 28 đến 29-4-1966 và số 29, 30-4 đến 6-5-1966. - THANH-LÃNG với bộ « Bảng lược đồ văn học Việt-nam », quyển thượng, 1967. - … Người dè dặt rất ít như ông TƯƠNG-HUYỀN : « Bị dồn vào thế bí, Cao Bá Quát phải tự đi tìm lấy một lối thoát cho bản ngã ông. Cái mà Cao Bá Quát đi tìm, người ta có quyền mệnh danh một cách khác nhau » 75. Tuy dè dặt nhưng ông đã có khen : « Cao Bá Quát đã chọn làm một người bất khuất. » 76 Cũng có người tự mâu thuẫn trong nhận định về họ CAO như NGUYỄN QUỲNH. Trong bài « Cao Bá Quát », ông gọi cuộc dấy binh ở Mỹ-lương là cuộc khởi nghĩa mà ý thức đã nẩy nở ở CAO BÁ QUÁT từ lúc đi Tân-gia-ba về : « Hồi tưởng những lúc ở Tân-gia-ba, ông nhận thấy khoa học của Tây phương quả đã đổi thay được trạng thái sinh hoạt cũ và dần dần đưa loài người đến cuộc đời văn minh tươi đẹp với cái lối học huấn hỗ từ chương hiện nay của nước nhà, cách kén chọn nhân tài của Triều đình, và nhất là sự tồn tại của hệ thống phong tục tập quán lạc hậu, ông tin rằng đất nước sẽ đi dần đến cảnh suy vong nếu sự cải cách không được kịp thời thực hiện. Nhưng cải cách thế nào ? Mà những ai xét ra có nhiệt tâm với quốc dân để thực hiện sự cải tạo guồng máy hành chánh đương thời ? Bao nhiêu quyền hành trong tay một ông vua chỉ biết giam mình vào bốn bức tường chạm rồng vẽ phượng, sống cuộc đời đài các phong lưu. Bọn bầy tôi tha hồ bóc lột dân đen, đua nhau xiểm nịnh người trên cốt để củng cố địa vị. Thảng hoặc trong đám mũ cao áo dài kia, có một ông đã từng đi thăm viếng nước ngoài, lúc trở về xin với nhà vua nên giao thiệp với Tây phương để học những cái mới lạ của nền văn minh khoa học, thì đình thần cho là lời lẽ viễn vong và ghép vào tội « khi mạo quân vương ». Từ vua đến quan ai cũng tự phụ mình là giỏi, thấu triệt được triết lý của đạo Khổng và như thế https://thuviensach.vn là đủ để trị quốc và bình thiên hạ rồi. Nếu giai cấp thống trị này còn tồn tại thì dân chúng còn khổ, mà sự cải cách chưa thể thực hiện được. Quát đã nung đúc trong óc cái tư tưởng muốn lật đổ triều Nguyễn, lập một triều đại khác, với một bọn liêu thuộc nhiệt tâm với quốc gia dân tộc ». 77 Cách đó vài trang (tr.181), ông cho rằng CAO BÁ QUÁT « đi theo Lê Duy Cự không phải vì thương xót dân chúng sống dưới ách đế chế hiện thời, mà để báo thù bọn vua quan đã bạc đãi mình. » Không thương xót dân chúng mà chỉ nghĩ đến trả thù cá nhân thì đâu thể gọi là khởi nghĩa được. Công bình mà nói, mỗi người sử dụng tài liệu một cách. Như nơi mục « Danh nhân đất Việt » trong nguyệt san « Quốc gia », 78 TIÊU-LANG tóm tắt quyển « Cao Bá Quát » của TRÚC-KHÊ theo lối truyện dài rút ngắn mà không có một lời nhắc đến người trồng cây. DOÃN QUỐC SỸ và VIỆT TỬ ở cuối chương « Gia đình và thân thế Cao Bá Quát » trong quyển « Khảo luận về Cao Bá Quát » có cước chú rõ « Viết theo tài liệu của Trúc Khê ». PHẠM THẾ NGŨ thì dè dặt : « Phần thi văn ứng khẩu này chuyển vào những giai thoại có tính cách truyền thuyết, cho nên không đáng tin lắm » 79. Có sách dẫn chi tiết đặc biệt mà không nêu rõ xuất xứ như trường hợp sau đây : CON ĐƯỜNG KHOA DANH CỦA CAO BÁ QUÁT Năm Minh-mạng thứ 12 (1831), CAO BÁ QUÁT đỗ Á-nguyên tại trường thi hương Hà-nội, nhưng sau đó Bộ Lễ duyệt lại và đưa ông xuống làm cử nhân đội bảng (TRÚC-KHÊ, DƯƠNG QUẢNG HÀM, THUẦN PHONG, ĐÀM XUÂN THIỀU và TRẦN TRỌNG SAN, LÃNG NHÂN…). Riêng « Quốc văn toàn thư lớp đệ tứ » của ông NGUYỄN SỸ TẾ và các tác giả khác lại chép : « Năm 1831 (Minh-mệnh thứ 12), Cao Bá Quát đi thi hương vốn đã được các quan trường chấm đậu Giải nguyên, sau Bộ duyệt lại, lại hạ ông xuống hàng Á-nguyên ». 80 https://thuviensach.vn GIÁ-SƠN KIỀU OÁNH MẬU có ghi : « Lớn lên, Quát rất minh mẫn đỗ giải nguyên kỳ thi hương, lắm lần đi thi hội đều bị hữu ty truất, nên Quát nản chí » 81 mà không có khoảng « sau bộ duyệt lại, lại hạ ông xuống hàng á nguyên ». VỀ VIỆC CHẤM THI CỦA CAO BÁ QUÁT Ông TRÚC-KHÊ chép : « Nhân gặp khoa thi, ông được sung vào chân sơ khảo ở trường Thừa-thiên. Trong khi chấm văn, ông thấy có một quyển văn hay mà viết phải một chữ phạm húy, chữ ấy đáng phải bớt nét (tỉnh hoạch) mà lại không bớt. Đúng phép thì quyển văn dù hay đến đâu, đã viết phải một chữ phạm vào quốc húy là phải đánh bỏ, nếu phạm vào trọng húy thì lại còn phải tội là khác (…) Nhân thế, ông nẩy ra cái ý nghĩ chữa hộ người ta một chữ này. Khốn nỗi ở chỗ quan trường chấm văn, không được phép có bút mực, mà chỉ có bút son, làm sao mà chữa hộ cho được ? Ngừng một lát, ông lấy một mảnh giấy hơ lên trên ngọn đèn để lấy muội khói rồi gợt sạch bút son, dầm quyện vào cái muội ấy thay làm mực để chữa. Đoạn, ông cứ việc cho điểm vào quyển ấy để lấy như thường. » (tr. 52-53). Cũng về chuyện này, ông LÃNG-NHÂN viết : « Một khoa thi, được sung vào chân sơ khảo trường Thừa-thiên, ông đã dùng muội đèn pha vào son cho thành mực đen (vì quan trường chỉ được dùng son chớ không được dùng mực đen để phòng sự sửa chữa thêm bớt vào bài) sửa lại những chỗ phạm húy ». 82 Nhiều tác giả khác cũng lặp lại gần tương tự như vậy, nhưng có người để cho ông CAO BÁ QUÁT gồng mình chữa đến hai mươi bốn quyển văn. Tóm lại, nhiều điều nhầm lẫn trong quyển « Cao Bá Quát » của ông TRÚC-KHÊ cho đến bây giờ chẳng những được duy trì mà còn mở rộng nữa. Có người lên tiếng phê bình gay gắt ngay sau khi tác phẩm trên ra đời. Đó là ông DƯƠNG TỰ GIÁP, tác giả bài « Ông Nguyễn Văn Tố nên vì văn học nước nhà mà cẩn thận thêm chút nữa ». 83 https://thuviensach.vn III. ÔNG DƯƠNG TỰ GIÁP BẤT BÌNH Tiếc rằng tờ tạp chí « Văn Hóa » (chủ nhiệm Bùi Xuân Tiểu) xuất bản hằng tháng ở Hà-nội ít được phổ biến và vắn số (đình bản sau số năm) nên những điều ông DƯƠNG TỰ GIÁP đính chánh không được những kẻ đến sau sử dụng hữu ích. Đầu bài của ông không nhắc đến chính tác giả là TRÚC-KHÊ lại lôi ông NGUYỄN VĂN TỐ ra làm đối tượng. Lý do dễ hiểu là vì ông N.V.T đề tựa nên họ DƯƠNG mới chịu khó đọc quyển danh nhân truyện ký của TRÚC-KHÊ. Đọc xong rồi, ông la trời : « Than ôi ! ông Nguyễn Văn Tố vẫn là một người mà từ đạo đức đến học lực đều đáng cho tôi thành tâm kính trọng một cách đặc biệt, nay ông đã khen như thế, chắc là sách ấy không như các chuyện ký khác mà tôi thường gặp (…) « Nhưng khi đọc đoạn đầu, tôi tưởng « công phu » nó ở đoạn cuối, và khi đọc đoạn cuối, tôi lại không biết cái công phu ấy ở chỗ nào ! « Thật ra sách ấy chỉ đáng bậc em út những hạng chuyện ký mà tôi vẫn không buồn đọc. Thôi thì lộn xộn cẩu thả, đem râu ông nọ cắm cằm bà kia, nó đủ các thứ. Tóm lại với sách ấy, về sự « vu khống cổ nhân » tác giả đã đi một bước khá dài ! » (tr.9). Ông kết luận tỏ vẻ lo ngại và điều lo ngại đó đã thành sự thật trong nhiều trường hợp : « Nếu vì bài tựa của ông Tố mà rồi kẻ đọc sẽ tin sách ấy là đúng sự thực, hơn nữa, nếu như người ta lại dùng sách ấy để làm tài liệu khảo cứu về ông Quát thì hẳn là ông Tố cũng phải chịu một phần trách nhiệm. » (tr.40) Sau đây, chúng tôi xin bỏ qua những chú thích sai về những câu thơ trong quyển « Cao Bá Quát » do họ DƯƠNG nêu ra mà chỉ lược lại phần tài liệu gọi là râu ông cằm bà, cộng thêm những nhận xét riêng của chúng tôi. https://thuviensach.vn VỀ CHUYỆN CAO BÁ QUÁT TẮM Ở HỒ TÂY Ông DƯƠNG TỰ GIÁP đính chánh : « Đại khái tác giả chép rằng : Khi vua Minh-Mệnh ra chơi Hà-nội, ông Quát có sang xem. Lúc kiệu vua xuống đến Hồ Tây, ông Quát lội xuống hồ ấy mà tắm. Quân lính bắt lên trói lại, ông Quát không sợ hãi và trần truồng mà theo người dẫn đi. Rồi khi vua Minh-Mệnh thấy kẻ trần truồng đó xưng là học trò, liền bắt phải đối câu này : « Nước trong leo lẻo cá nuốt cá » Ông Quát đối rằng : « Trời nắng chang chang người trói người » « Chuyện này ba chục năm trước tôi đã thấy ở cuốn « Chuyện Trạng Quỳnh ». Trong sách đó, người ra câu đối là chúa Trịnh, người phải đối lại là ông Trạng Quỳnh. Các vị cố lão cũng nói như vậy. Tác giả căn cứ vào đâu mà dám gán cho ông Quát ? (…) « Phải biết cái việc tuần du của vua chúa đời xưa không phải là chuyện thường, trước khi vua đi đến đâu, ở đấy, các quan địa phương ngoài việc sắm sửa cuộc nghênh tiếp cần phải canh phòng cẩn mật. Kẻ nào vô ý mon men đến chỗ vua đi, tức thì bị ghép vào tội « phạm tất », ít ra cũng mất cái đầu ! Đời nào khi vua Minh-Mệnh đã tới Hồ Tây, người ta còn dám để cho ông Quát xuống tắm hồ ấy ? Đời nào khi trói ông Quát trần truồng, người ta còn dám cho lính dắt đến trước vua Minh-Mệnh ? Huống chi một người nghiêm khắc như vua Minh-Mệnh, khi nào trông thấy một kẻ trần truồng như vậy mà còn gọi đến hỏi chuyện và lại bắt làm câu đối ? Hơn nữa câu chuyện trên kia chỉ là hành động ngông cuồng của hàng vô lại, khác hẳn với tính tình ông Quát. Đem chuyện ấy gán cho Ba Giai, Tú Xuất, người ta còn sợ quá đáng nữa là gán cho ông Quát. » (tr.10) Không căn cứ vào tài liệu, người đọc cũng có thể nhận ra được tính cách vô lý của câu chuyện. Về thời điểm sanh tử của CAO BÁ QUÁT, các sách thường ghi (?-1854). Năm sanh không được rõ nhưng phỏng đoán là khoảng trước sau năm Gia-long thống nhứt đất nước (1802) một đôi năm. Sự phỏng đoán đó căn cứ vào mối liên hệ giữa CAO BÁ QUÁT với các bạn thân của ông như PHƯƠNG-ĐÌNH NGUYỄN VĂN SIÊU sanh năm https://thuviensach.vn 1799 và PHẠM VĂN NGHỊ từng coi ông như bậc đàn anh, sanh năm 1805. Minh-Mệnh lên ngôi năm 1820. Tháng mười năm Tân Tị (1821), Minh-Mệnh đến hành cung Bắc-thành thì CAO BÁ QUÁT cũng đã được trên dưới hai mươi tuổi. Ở cái tuổi đó hay sớm hơn nữa rất nhiều, người thanh niên đã có thể thành gia thất được rồi. Vậy mà giữa thanh niên bạch nhựt, C.B.Q dám trần truồng tắm ở Hồ Tây, thì hẳn ông phải là một bịnh nhân thần kinh hạng nặng đang lên cơn. Nếu điên thật, đối không được câu « Nước trong leo lẻo cá nuốt cá » của nhà vua, C.B.Q đáng được tha cho về nhà chữa bịnh. Còn nếu đối được và đối hay nữa, đến nhà vua cũng công nhận, thì điều đó chứng tỏ rằng họ CAO là một con người bình thường. Một con người bình thường mà ngang nhiên làm một việc mà ngày nay gọi là « công súc tu sỉ » như vậy đáng phải trị tội chớ sao lại được tha và còn được thưởng nữa ? Trong bài « Thân thế và thi nghiệp nhà thơ Cao Bá Quát (1800 ? -1854) », ông PHAN KIM thuật theo một giai thoại nào đó « đã kể khi 10 tuổi, ông Quát đã có dịp giáp mặt vua Minh-Mệnh (…) » 84 Theo như tựa bài, năm sanh của C.B.Q được kể phỏng là năm 1800. C.B.Q lên mười vào khoảng năm 1810. Năm đó, Gia-long còn tại vị, Minh Mệnh chưa thể « ngự giá ra Bắc » được ! Có lẽ vì thấy câu chuyện vô lý nên ông HỒNG-LIÊN LÊ XUÂN GIÁO sửa lại, không để cho C.B.Q trần truồng đến trước mặt vua Minh Mệnh mà để cho một vị quan gặp C.B.Q trong một trường hợp khác : « Lại một hôm, nhân vua Minh-Mệnh đi Bắc tuần, người ta đi xem lễ cung nghinh Hoàng thượng rất đông, Quát cũng đi xem, và không biết vô tình hay hữu ý ăn nói và đi đứng thất lễ làm sao mà bị tên lính bắt trói giữa trời nắng. Quát kêu xin tha. Vì quan đứng gần Quát nói : « Ta ra cho một câu, nếu đối được thì ta tha cho ». Quan nhìn xuống hồ nước, và đọc một câu để thách Quát đối như sau : « Nước trong leo lẻo cá ăn cá ». Quát ứng khẩu đối liền : « Trời nắng chang chang người trói người ». Vị quan ấy, https://thuviensach.vn phần vì phục tài linh lợi của Quát, phần thì vị tình nhân loại thương Quát bị trói giữa nắng, bèn truyền mở trói cho Quát ». 85 Nếu không phải tự mình tưởng tượng để sửa lại thì câu chuyện này, ông HỒNG-LIÊN chép ở đâu ra ? VỀ MẤY CÂU ĐỐI CỦA CAO BÁ QUÁT Về đôi câu đối liên hệ đến hai ông NGUYỄN CÔNG TRỨ và HÀ TÔN QUYỀN, ông TRÚC-KHÊ viết : « Đối với các vị đại thần trong triều, Chu-thần chẳng nể vì ai hết, và nếu có dịp, ông chỉ tìm cách để ngạo xược mà thôi. Một hôm, ngày tết, Chu-thần viết đôi câu đối tết này để dán cổng : « Y cẩm thượng quỳnh, quân tử ố kỳ văn chi trứ. Bao Tề dữ Tấn, thánh nhân bất đắc dĩ dụng quyền » (tr. 65-66). Ông TRÚC-KHÊ giải rằng : « Ở cuối câu trên có chữ « trứ », cuối câu dưới có chữ « quyền », đó là Chu-thần định ngạo xược chơi đối với hai vị đại thần ở trong triều hồi bấy giờ là Hà Tôn Quyền và Nguyễn Công Trứ. Theo cái nghĩa bóng dùng để ngạo xược của ông thì hai câu đối này nghĩa là : « Người quân tử không thể nào ưa được anh Trứ. Đứng thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng đến hạng anh Quyền. » (tr. 66-67) Ông DƯƠNG TỰ GIÁP cho biết hai câu trên này không dính dáng gì đến họ Cao hết : « Nguyên ủy như vầy : Ông Hà Tôn Quyền khi làm Thượng thư bộ Lại, nhân cưới con trai, có mời ông Nguyễn Công Trứ đến dự. Ông Trứ lúc ấy đương làm tham tri bộ Công, địa vị cũng gần ngang 86 với ông Quyền nên có viết bài thơ mừng trong đó cũng hơi có ý đùa cợt. Ông Quyền xem rồi liền cười và nói chữ với ông Trứ : « Quân tử ố hồ văn chi ngài ». Ông Trứ tức thì đáp lại : « Thánh nhân bất đắc dĩ dụng cụ lớn ». Thế nghĩa là ông Quyền muốn mượn câu Trung-dung để chê bài thơ của ông Trứ lộ quá. Vì ở trước mặt ông Trứ nên mới bông đùa mà đọc chữ « trứ » ra chữ « ngài ». Ông Trứ – bậc có tài, liền nghĩ được câu Hồ-truyện có chữ « Quyền » vừa để đối lại sự bông đùa của ông Quyền, vừa để tỏ rằng : https://thuviensach.vn ở bài thơ kia, mình bất đắc dĩ phải dùng chữ « tam ». Và cũng theo kiểu ông Quyền mà đọc chữ « Quyền » ra chữ cụ lớn. « Câu chuyện đầu đuôi là vậy. Và có như vậy, thì hai câu kia mới có nghĩa lý. Nếu bảo ông Quát dán câu ấy vào trong cổng một ngày tết, thì ra nhà danh sĩ đó dốt quá. Vì giữa ngày tết, mà đã dán vào cổng những câu chẳng những không có ý gì về cổng cũng không có ý gì về tết. Nhưng mà ông Quát không dốt. Tội ấy ai nhận cho tác giả ! » (tr.10) Chuyện này thật ra có chép ở bài tựa cho tập thơ CAO BÁ QUÁT (« Cao Bá Quát thi tập », sách viết chữ nho của Trường Bác cổ). Ông NGUYỄN VĂN TỐ có nhận xét là có « chép sai và có một vài điều không đủ tin » 87. Ông N.V.T có dịch bài tựa này, theo đó C.B.Q. làm câu đối để khiêu khích Hà tôn Quyền và Nguyễn Đức Chứ (không phải NGUYỄN CÔNG TRỨ) chớ không phải để dán ở cổng nhân ngày tết. Không rõ ông TRÚC-KHÊ có sử dụng tài liệu này và tưởng tượng thêm về đôi câu đối chăng ? Đúng là bài tựa « Cao Bá Quát thi tập » có chép sai như lời ông N.V.T. nhận xét. Chẳng hạn như : « …đến năm 14 tuổi, gặp khoa thi hương, hai anh em nộp quyển ứng thí (…) Khoa ấy hai anh em đều đỗ hương tiến ; ngày xướng danh, người ta thấy trên đầu còn để trái đào, ai cũng lấy làm lạ. Cách vài năm sau, ông về kinh thi hội… » 88 Sự thật thì C.B.Q đỗ khoa Tân Mão 1831, còn Cao Bá Đạt khoa Giáp Ngọ 1834. C.B.Q. chào đời khoảng mấy năm đầu thế kỷ XIX, đến lúc tên đề bảng hổ năm 1831, ông không thể là cậu bé 14 tuổi được. Một điều sai nữa hơi cộm là cách vài năm sau ông về kinh thi hội 89. Không phải cách vài năm sau mà chỉ có một thôi. Năm Minh-mạng thứ 6 (1825), triều Nguyễn định cứ ba năm một kỳ thi hương vào những năm tý, ngọ, mão, dậu. Nếu năm nay thi hương thì năm sau thi hội. Như vậy thi hội cũng định ba năm một kỳ vào những năm sửu, mùi, thìn, tuất. Khi nào có những biến cố bất thường không tổ chức việc thi cử được thì mới đình lại. https://thuviensach.vn Ông C.B.Q. đỗ cử nhân năm Tân Mão (1831). Liền năm sau (1832) có kỳ thi hội khoa Nhâm Thìn. Chính Nguyễn Bá Nghi đỗ phó bảng khoa này (theo « Quốc triều đăng khoa lục » của CAO XUÂN DỤC) và người sau này rất nặng ân oán giang hồ với C.B.Q. Ông D.T.G bảo « nguyên ủy » của nó (hai câu đối có chữ Quyền và Trứ ở cuối câu) là như vậy, theo ông kể, nghe ra rất xuôi tai. Điều đáng tiếc là cả hai ông đều không cho biết xuất xứ câu chuyện mình kể. Bài tựa « Cao Bá Quát thi tập » không đề cập chuyện dán đôi câu đối ở cổng nhân ngày tết. Vậy thì tài liệu lấy ở đâu ? Ông D.T.G kể một câu chuyện khác để phủ nhận rồi cũng im lặng luôn về xuất xứ nốt. Giá ông cho biết thêm xuất xứ của giai thoại văn chương đó như ông đã làm trong một giai thoại khác (sắp nhắc lại ở một đoạn sau) thì hay biết mấy. Ông LÃNG-NHÂN trong « Giai thoại làng nho » sử dụng tài liệu của ông LÊ THƯỚC (« Sự nghiệp và thi văn của Uy-viễn tướng công Nguyễn Công Trứ », 1928) cũng thuật lại như ông D.T.G. Nhưng ông NGUYỄN TOẠI, « Nhân đọc Giai thoại làng nho của Lãng-nhân », cho rằng hai câu ấy (như TRÚC-KHÊ đã ghi) là của một kẻ vô danh, chớ không phải của họ CAO, của ông Quyền và ông Trứ : « Năm Minh-mạng thứ sáu, tại Quốc tử giám, Thân văn Quyền là Tế tửu, Nguyễn công Trứ là Tư nghiệp, Giám sinh ghét hai quan đầu nhà Giám, nên có kẻ vô danh viết vào cửa Giám câu đối… » 90 Như vậy, dầu theo ông LÊ THƯỚC, ông DƯƠNG TỰ GIÁP hay ông NGUYỄN TOẠI, tác giả câu đối trên không phải là C.B.Q. như ông TRÚC-KHÊ đã viết. * Ở trang 10, ông D.T.G. viết tiếp : « Đoạn IV, trang 43, tác giả bảo ông Quát đã dùng hai câu sau đây để vào gạ ăn trong một đám ma : Thấy xe thiên cổ xịch đưa ra, không thân https://thuviensach.vn thích lẽ đâu mà khóc mướn ? Tưởng sự bách niên đùng nghĩ lại, não can tràng nên mới phải thương vay ». « Đoạn VI, trang 75, tác giả bảo ông Quát khi làm Huấn-đạo Sơn-tây đã dán ở nhà riêng hai câu dưới đây : Nhà trống ba gian, một thầy, một cô, một chó cái. Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi. « Trong bốn câu này, hai câu trên ở cuốn « Phổ Chiêu thiền sư thi văn tập » nói là của ông Chiêu Lỳ. Còn hai câu dưới thì tạp chí Nam-Phong nói là của Ông Ích-Khiêm, nguyên văn ở đấy như vầy : Nhà trường ba bốn gian, một thầy, một chó. Học trò năm bảy đứa, nửa khỉ, nửa tườu. « Chưa chắc tạp chí Nam Phong và sách P.C.T.S.T.V.T. nói vậy có đúng hay không. Nhưng theo lẽ đương nhiên của nhà trứ thuật, thì văn chương cũng như đồ vật, kẻ trước bảo là của người này, nếu mình muốn nhận là của người kia, ít ra cũng phải có gì làm bằng. » Trong quyển « Thi sĩ Trung Nam » 91, VŨ NGỌC PHAN nói là của Ông Ích Khiêm. NỂ-UY « Nhân đọc Thi sĩ Trung Nam » đòi lại cho CAO BÁ QUÁT với luận chứng vững vàng : « Xem tiểu sử của Ông Ích Khiêm, tôi không thấy ông đi dạy học bao giờ cả mà ông Vũ lại nói là lúc đó « mười sáu tuổi, ông (Ích-Khiêm) được bổ huấn đạo Thanh-hóa ». Sách « Đại-Nam chính-biên liệt truyện » (tập hai quyển 36 tờ 18b) chép rằng : « Sơ bổ các thuộc, chuyển Kim-thành tri huyện » nghĩa là : Lúc đầu được bổ vào Nội-Các (…) rồi đổi đi tri huyện Kim-thành ». 92 Đối chiếu tiểu sử của C.B.Q. với Ông Ích Khiêm, chúng tôi nhận thấy hai câu đối dán ở trường học ứng với hoàn cảnh và tâm trạng của họ CAO hơn. Và cũng chính lời của ông D.T.G. bộc lộ rõ sự hoài nghi « chưa chắc tạp chí Nam Phong (…) nói vậy có đúng hay không », nhưng điều ông D.T.G. trách ở đây liên hệ đến phương pháp hơn là tài liệu. KHẢO HẠCH VÀ KHẢO, HẠCH https://thuviensach.vn Sau phần mà ông D.T.G. gọi là « những chỗ vơ váo tài liệu » đến phần « những chỗ chú giải sai nghĩa » (không nói đến ở đây) và « những chỗ không biết mà nói liều. ». Ở phần III, trang 25, ông TRÚC-KHÊ viết : « Thuở xưa, học trò muốn đi thi hương, trước hết phải lọt qua một kỳ khảo hạch. Kỳ khảo hạch này do quan Đốc học đứng đầu mở ra, thi những học trò trong hàng tỉnh để chọn lọc lấy người cho nộp quyển đi thi hương. Kỳ khảo hạch ấy thường mở trước khoa hương độ năm mười tháng… Cao bá Quát đi kỳ khảo hạch, chính ông đỗ đầu xứ… » Trong tờ « Văn Hóa », ông D.T.G. bảo rằng ông T.K. « không hiểu chi về chuyện thi cử » : « Khảo hạch không phải là một. Nó là hai thứ. » (tr.12). Từ trước thời Tự-đức, cứ vào tháng tư, tháng mười hằng năm, học quan trong tỉnh từ đốc học đến giáo thọ và huấn đạo hợp lại để mở khảo khóa xét thi học trò trong tỉnh. Có đủ các bài ba trường như thi hương nhưng bài ít hơn và dễ hơn. Ai qua lọt khảo khóa gọi là khóa sinh : « Khóa sinh tùy đỗ cao thấp mà được miễn trừ sưu thuế, phu dịch, lính tráng trong một năm. Vào hồi Tự-đức, nhất định mỗi năm về tháng tư thì khảo khóa, bất cứ ai đỗ là được trừ sưu dịch ; đến tháng một lại có một kỳ khác, lẫn cả tú tài và học trò để xem học lực của học trò trong một năm tiến ích thế nào cho nên có gọi là khóa sinh tiến ích, kỳ khảo này không được kể vào lệ miễn trừ sưu dịch. » 93 Khảo thì tiến hành mỗi năm, còn hạch thì chỉ thực hiện trước năm có khoa thi để chọn học trò trong tỉnh cho đi thi hương. Hương khoa đầu tiên dưới triều Nguyễn mở vào năm 1807, rồi cứ sáu năm mới có mở khoa khác. Năm 1825, triều Minh-mạng định lại ba năm một khoa. Người nào lọt qua được kỳ hạch, đến năm sau mới được dự kỳ thi hương. Như vậy, trong phạm vi tỉnh, khảo và hạch là hai kỳ thi khác nhau. Vượt lên trên phạm vi tỉnh, ở cấp trung ương, ta mới có thể nói đến khảo hạch : « Đời Minh-mạng, Tự-đức lại còn có lệ cống cử : năm Minh-mạng https://thuviensach.vn thứ ba hạ lịnh mỗi năm mỗi huyện phải cống vào kinh một người có văn học, đưa vào Quốc tử giám khảo hạch rồi bổ cho làm Giám sinh, ai đỗ cũng được như các ông cử, được vào thi hội. Đến năm sau, chỉ mỗi phủ cống một người mà phải 40 tuổi. Năm nào có thi hương thì đình cống. Đến năm Tự-đức thứ hai, định lại lệ cống, cứ ba năm một kỳ, khởi cống vào năm dần, thân, tỵ, hợi, những ông hạch đỗ ấy cũng gọi là ông cống. » 94 PHẠM HÚY Theo ông TRÚC-KHÊ, khi làm sơ khảo thi hương ở trường Thừa, ông C.B.Q. thấy có một quyển văn hay 95 mà viết phải một chữ phạm húy. Quyển ấy đáng phải bỏ nhưng họ Cao lại dùng muội đèn để chữa hộ. « Bản triều bạn nghịch liệt truyện » chép rằng C.B.Q. « thấy có một quyển văn khá hay, nhưng trong câu văn có chữ phạm luật của trường thi, không được dự phê, Quát bèn lấy son hơ lên đèn cho đen làm mực sửa chữa. » 96 « Đại-Nam chánh biên liệt truyện » chép rằng trong dịp đó, họ CAO cùng với người đồng viện là Phan Nhạ ngầm lấy khói đèn chữa 24 quyển văn thi, sau lấy đỗ được năm quyển. Trong cả hai tài liệu, không ai tìm ra được chữ « phạm húy ». Phạm luật không chỉ có nghĩa là phạm húy mà phạm húy chỉ là một trong những điều phạm luật. Theo ông DƯƠNG TỰ GIÁP, một quyển văn mà phạm húy là vô phương cứu vãn : « Ai đã hiểu qua phép thi ngày xưa chắc đều biết rằng : Với một chữ húy nhà vua, đáng phải bớt nét, kẻ viết trót quên không bớt, nếu muốn chữa lại, thì chỉ có cách tẩy bớt nét đi, không thể thêm nét vào được. Là vì trong một quyển văn, tất cả những chữ xóa bỏ, chỉ được chấm thêm ba chấm ở mặt, không được dập mực tòe toẹt. Bởi vì dập mực tòe toẹt tức là « đồ bất thành tự », dù cho văn hay cũng bị đánh hỏng. Nhưng mà những chữ phạm húy lại không được hưởng lệ đó, bất cứ húy nặng hay húy nhẹ, trót đã viết rồi, dẫu có xóa đi cũng vẫn bị tội như thường. Như vậy, dù https://thuviensach.vn ông Quát có cả một đĩa mực bên cạnh, cũng không thể nào chữa được một chữ phạm húy đáng phải bớt nét cho khỏi phạm húy để mà lấy đỗ. Coi đó đủ thấy chỗ tác giả đã bịa đặt thêm cho ông Quát. » (tr.12). Ông TẠ QUANG PHÁT nghiên cứu quốc húy của triều Nguyễn có dẫn giải rõ : « Húy là cấm, là tránh, là tên người chết. Đó là ba nghĩa của chữ « húy » trong tự điển Trung-hoa. Về giải tự, chúng ta nhận thấy chữ húy do chữ « 语 ngôn » (là nói) hợp với chữ « 逆 vi » (là trái nghịch), hội ý : « húy » là những tên, những chữ phải cấm, phải tránh, hễ ai không biết mà nói đến là trái phép, nghịch lệ. » 97 Luật lệ kỵ húy thời vua quan triều Nguyễn rất phức tạp vì sự biến hóa của hình thức áp dụng tùy theo thứ bậc quan trọng của những chữ phải kỵ. Riêng « cách bớt nét rất thịnh hành vào thời Thiệu-trị và Tự-đức trở về sau. » 98 Sau vụ chấm thi ở trường Thừa, C.B.Q. bị cách và phát phối vào Đà nẵng (1841). Hai năm sau, ông được cho tháp tùng phái bộ Đào Trí Phú sang Tân-gia-ba. Khi về, ông được phục chức rồi ít lâu sau thăng Chủ sự bộ Lễ. Nhiều tác giả đều chép như vậy. Riêng ông PHAN KIM thuật rằng « ông bị thuyên chuyển vào Đà-nẵng. » 99. Thuyên chuyển là đổi đi nơi khác. Người bị (hay được) thuyên chuyển vẫn còn ở trong hàng văn hay võ giai, ở nguyên phẩm trật cũ hoặc thăng hay giáng. Còn bị cách tức là bị tước chức đi, nói nôm na là bị đuổi, không còn ở trong ngạch quan. Thêm vào việc bị cách, C.B.Q. còn bị đày đi nữa. CHO ĐIỂM Theo TRÚC-KHÊ, sau khi chữa một lỗi phạm húy trong quyển thi, « ông cứ cho điểm vào quyển ấy để lấy như thường. » (tr.53). Ông D.T.G. nhận xét : « Có lẽ quyển ấy ông Quát không hề cho một điểm nào. Là vì cái lệ chấm văn cho điểm, mới có từ hồi Tây sang, chứ đời ông Quát, trong kỳ thi Hương, người ta chỉ đánh giá văn bằng bốn chữ « ưu », « bình », « thứ », « liệt », không ai biết điểm là gì. » (tr.12) https://thuviensach.vn Ở chỗ này, ông D.T.G. nói đúng : cái lệ chấm văn cho điểm mới có từ hồi Tây sang. Nói cho đúng là từ lúc ban hành đạo dụ ngày 31 tháng 5 năm 1906 cải cách việc học và việc thi áp dụng từ khoa thi hương năm Kỷ Dậu niên hiệu Duy-tân thứ 3 (1910). Từ đó mới có việc phê điểm. Để kết luận, ông D.T.G. không quên trở lại với ông TỐ một lần nữa : « Trong cuốn « Cao Bá Quát » gồm có nhiều chỗ lảm nhảm, nói nữa e rằng nhiều quá (…) Nó đã bôi nhọ, bóp chết cả cái tính tình cao thượng, cái chí khí ngang tàng của ông Quát, và, nếu như sau này không còn có một quyển nào khác nữa thì chính nó lại sẽ là một cái khí giới đã chém chết ông Quát lần thứ hai ! » Vậy thử hỏi ông Tố có nên đề tựa những loại sách như thế không ? Ai đã có lòng yêu ông Tố hẳn cũng phải trả lời rằng không (…) : « Nếu vì bài tựa của ông Tố mà rồi kẻ đọc sẽ tin sách ấy là đúng sự thực, hơn nữa, nếu như người ta lại dùng sách ấy để làm tài liệu khảo cứu… (tr.40) ». Mối lo lắng của ông GIÁP về điểm này thật chánh đáng, vì cho đến nay, chứng tích hãy còn đó trong nhiều sách vở báo chí. Còn về điều lo ngại « nếu như sau này không còn có một quyển nào khác nữa thì chính nó lại sẽ là một cái khí giới để chém chết ông Quát lần thứ hai ! », thì ông D.T.G. có thể an tâm. Vì nếu có người chém ông QUÁT, thì cũng có người – mà nhiều nữa – băng bó và hồi sinh cho ông C.B.Q. như đã kể ở một đoạn trước. Trong số những người sau này, ông NGUYỄN TỬ QUANG là một « luật sư » đã chuẩn bị một biện hộ trạng tương đối đầy đủ hơn hết để cãi cho C.B.Q., tuy ông cũng có lặp lại một đôi giai thoại không đáng lấy làm tin (như C.B.Q. « cởi quần áo lội xuống tắm » ở Hồ Tây) có chép trong sách của ông TRÚC-KHÊ. CAO BÁ QUÁT hãy còn sống trên một bảng tên đường ngay trung tâm Đô-thành Sài-gòn, bên hông trụ sở Công ty Điện lực Việt-nam. Một xã hội nào còn đầy dẫy áp bức, bất công, đói rách, xã hội đó không cần có những kẻ « mỏi gối quì mòn sân tướng phủ » mà cần nhiều Cao Bá Quát biết xem thường bọn quyền môn vô tài bất hạnh ở bên trên, biết cúi xuống để bất bình cùng xót xa với đồng bào https://thuviensach.vn khốn khổ ở bên dưới rồi đứng lên vung tay hành động, quyết « tống bần quỉ ra đến miền Đông-hải » và « quyết xoay bạch ốc lại lâu đài ». Những chuyện khó tin và những điều sai lầm trong kỳ xuất bản lần thứ nhứt (1940), đúng mười hai năm sau được ông T.K. cho tái bản nguyên vẹn, làm như không biết đến bài của ông D.T.G. Cho nên, quyển « Cao Bá Quát » của T.K. bất xứng với Hậu tự của LÊ THANH : « Nay ông TRÚC-KHÊ, nhờ có sức học uyên bác và khiếu phê bình sáng suốt, ông đã làm công việc ấy, và làm được một cách chu đáo đáng khen. » (tr.154). Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể tóm lại một câu như ông D.T.G. : « nó là một cuốn sách không có một tý giá trị về phương diện văn chương cũng như phương diện khảo cứu. » (tr.40). Người đọc có thể chấp nhận một phần tài liệu của ông T.K. để rồi từ đó gia công tìm kiếm thêm để bổ túc hoặc sửa chữa và có những nhận định đối nghịch lại với ông T.K. như thực tế đã chứng minh. https://thuviensach.vn IV. ÔNG TRÚC-KHÊ TÁC GIẢ QUYỂN « CAO BÁ QUÁT » TỰ BIỆN HỘ Ít lâu sau khi quyển « Cao Bá Quát » ra đời, ông TRÚC-KHÊ có trình bày quan niệm của mình về truyện ký trong một cuộc phỏng vấn của LÊ THANH, chừng như để gián tiếp trả lời những ý kiến người ta đã phê bình về tác phẩm của ông : « Nguyên truyện ký của Tàu trước kia là một thể phụ thuộc của chính sử. Tìm đến nguồn gốc, thể liệt truyện trong bộ Sử-ký của Tư-mã-Thiên chính là loại văn truyện ký này. Sau bộ ấy, nhiều bộ sử của Tàu và của ta đều có thể liệt truyện. Dựa vào đấy thì truyện ký là thể văn phải viết toàn là những sự thực lọc lõi gần như chính sử. « Song lối truyện ký ấy nó đầy một khí vị khô khan như chết, tôi không thích viết. Viết « Cao Bá Quát » và « Nguyễn Trãi », tôi viết theo lối truyện ký mới của người Tây phương. Ở Âu-châu, trong khoảng mấy chục năm nay, người ta có lối truyện ký tiểu-thuyết-hóa, đem truyện một đời của các bậc danh nhân, dùng ngòi bút tiểu thuyết mà điểm hóa vào để đem đến cái hứng vị ham vui cho người đọc. Nhà văn sĩ Anh Giles Strachey, nhà văn sĩ Pháp André Maurois, viết mấy quyển truyện ký tiểu-thuyết-hóa cả. » 100 Dầu quan niệm về truyện ký theo cách riêng của ông, « dùng ngòi bút tiểu thuyết mà điểm hóa vào để đem đến cái hứng vị ham vui cho người đọc » cũng không thể đồng nghĩa với việc lượm lặt giai thoại về nhân vật này hay nhân vật khác để gán ghép cho C.B.Q. Còn nếu muốn tiểu thuyết hóa truyện ký thì tưởng không nên có những phán đoán giá trị về nhân vật, chẳng hạn như : « Theo sự nhận xét của chúng tôi bằng những tài liệu, chứng cớ còn lại, thì việc biến Mỹ-lương là việc có thật, mà việc ấy chỉ là cái việc cuồng vọng của nhà văn sĩ họ Cao bất đắc chí, chứ chẳng phải là việc do một cái tư tưởng cách mạng sáng suốt đã sản sinh ra. » (tr.80) https://thuviensach.vn Hơn nữa, ông T.K. còn tự mâu thuẫn khi phê bình LAN-KHAI cũng trong cuộc phỏng vấn đó : « Còn Lan-Khai, theo thiển ý, không thể gọi là một nhà tiểu thuyết lịch sử được. Trong những truyện lịch sử của ông, ta chỉ thấy có cái tên người trong lịch sử, còn những hành động của người trong truyện, cho đến những cái thuộc về địa lý, chánh trị, chế độ, phong tục, hầu hết không phù hợp với lịch sử chút nào. Lỗi ấy, vì ông chưa đủ về sử học. » 101 Như vậy thì việc C.B.Q. cho điểm vào quyển thi của sĩ tử lại « đủ về sử học » hay sao ? Với tiểu thuyết lịch sử, ông đòi hỏi « những cái thuộc về địa lý, chính trị, chế độ, phong tục » phải hợp với lịch sử thì tưởng với loại truyện ký, dầu là truyện ký tiểu thuyết hóa (trên lịch sử tiểu thuyết một mực về mặt tra cứu tài liệu) theo quan niệm của ông, sự thật phải lọc lõi hơn nhiều, chớ không thể chấp nhận chuyện cho điểm và đổi chuyện của Chiêu Lỳ ra chuyện của C.B.Q. được. Vẫn theo ý ông T.K. đã phát biểu trong cuộc phỏng vấn, quyển « Cao Bá Quát » không phải là một tiểu thuyết lịch sử mà cũng không phải là một truyện ký hiểu theo nghĩa thông dụng từ trước mà nó lơ lững giữa hai thứ đó, « truyện ký tiểu thuyết hóa ». Phải chăng quan niệm này chỉ có ở T.K. sau khi quyển « Cao Bá Quát » bị ông D.T.G. mổ xẻ mạnh tay, để « hóa giải quyền cước » của đối phương ? Nếu quả có thật vậy chăng nữa tưởng cũng khó thành công vì chính ông đã định tính rõ ràng cho công việc làm của mình là nghiên cứu lịch sử để tìm sự thật qua đoạn sau đây trong quyển « Cao Bá Quát » : « Nên biết Cao-Chu-Thần dù sao cũng đã là người trong lịch sử. Sinh những năm sau, chúng ta muốn tìm lấy sự thực đã qua những năm về trước của cái xã hội, cái quốc gia mà ta hiện sống, « Tìm lấy sự thực » 102, đó là cái khẩu hiệu duy nhất của chúng ta trong khi nghiên cứu lịch sử ; chúng ta không bằng lòng cho những ngòi bút bị sai khiến bởi lòng yêu, ghét, làm cho sai một sự thực nào. » (tr.79) https://thuviensach.vn Và sau cùng, nếu là truyện ký tiểu thuyết hóa thì cần gì phải có bảng thư mục ở cuối sách, kèm theo một câu có lẽ để củng cố thêm phần xác tín của độc giả đối với những chi tiết liên quan đến tiểu sử C.B.Q. « Ngoài ra, chúng tôi còn được mấy vị lão nho kể cho nghe những dật sự của ông Cao nữa. » (tr.165) https://thuviensach.vn V. QUYỂN CAO BÁ QUÁT SAU TRÚC-KHÊ Sau TRÚC-KHÊ, nhứt là từ năm 1949 là năm bắt đầu áp dụng chương trình Việt-nam gọi là chương trình Phan Huy Quát của Bộ quốc gia giáo dục, có nhiều tác giả viết về CAO BÁ QUÁT là một tác giả trong chương trình quốc văn lớp 9 và 11 ban C và D. Có soi sáng thêm về tư tưởng tác giả mà cũng có làm rối thêm tiểu sử tác giả vì những chi tiết dị biệt hay mới mẻ không rõ xuất xứ từ đâu, chẳng hạn như bài hịch C.B.Q. đọc thay Lê Duy Cự trong ngày xuất quân 103trong một bài nặng phần khảo luận của NGUYỄN QUỲNH đã nói qua ở trên. Trong phần này, truyện ký Cao Bá Quát sau T.K., khi tìm hiểu sự thật, chúng tôi không tránh khỏi nhắc đến những tài liệu ấn hành trước quyển truyện ký C.B.Q. BỐN, BA HAY HAI BỒ ? Nói về cái tính tự phụ, kiêu căng của C.B.Q. sau T.K., nhiều tác giả chép lại câu này, có khác biệt nhau đôi chữ không quan trọng : « Cả thiên hạ có bốn bồ chữ, một mình tôi chiếm hai bồ, anh tôi Bá Đạt và bạn tôi Nguyễn Văn Siêu giữ một bồ, còn một bồ thì phân phát cho kẻ học. » Ông HỒNG-LIÊN LÊ XUÂN GIÁO chép khác T.K. : « Trong thiên hạ có hai bồ chữ, thì mình đã chiếm mất một bồ » và còn thêm : « Trong thiên hạ chỉ mình là có mắt, còn thì mù cả. » 104 Nhưng trước cả TRÚC-KHÊ và HỒNG-LIÊN, ông TRẦN THANH MẠI nói chỉ có ba : « Ông ta thường nói rằng trong thiên hạ gồm có ba bồ chữ ; ông ta giữ hết một bồ ; bồ thứ hai thì của anh ông là Cao Bá Đạt và bạn ông là Nguyễn Văn Siêu, biệt hiệu Phương-đình ; còn bồ chót mới đem rải rác cho tất cả thiên hạ. » 105 Bốn, hai hay ba, ý nghĩa không khác nhau mấy. Câu của ông HỒNG LIÊN viện dẫn cho thấy C.B.Q. không kể đến anh và bạn mình. Câu của T.K. cho thấy CHU-THẦN tự cao hơn một mực so với câu của TRẦN https://thuviensach.vn THANH MẠI. Điều chúng tôi muốn nói ở đây là việc chua xuất xứ tài liệu trong trường hợp như thế này rất cần để tránh sự dị biệt ngày càng lớn lao giữa các tác giả khi dẫn ra một câu của một nhân vật. Nếu không, một ngày nào đó, biết đâu chẳng có người nâng những con số nói trên lên cao hơn nữa vì cao hứng, vì ký tính yếu hoặc vì không sẵn tài liệu bên tay. Độc giả hoài nghi, kẻ học bối rối. Trường hợp nào chắc chắn hiển nhiên, chua xuất xứ lại là một điều thừa. HAI ANH EM HỌC CAO CÙNG ĐỖ MỘT KHÓA ? Trong « Giai thoại làng nho », ông LÃNG-NHÂN có chép : « Đến năm 14 tuổi, gặp khoa thi hương, hai anh em vào kỳ đệ nhất, làm bài chốc lát đã xong, rồi cùng ra sân đá cầu. « Quan trường trông thấy hỏi : « Hôm nay là ngày tranh khôi đoạt giáp, ai cũng làm văn bài, sao hai anh lại nô rỡn thế ? » « Quát thưa : « Kỳ này may gặp đầu bài dễ, chúng tôi đã làm xong rồi ; vì cửa trường chưa mở cho học trò ra, nên đánh cầu cho qua thời giờ, chớ không dám đùa nghịch chi hết ạ ». « Quan trường thấy sự lạ, liền hỏi Quát về gia thế, rồi ra một câu đối : Nhất bào song sinh, nan vi huynh, nan vi đệ. (Một bọc sinh đôi, khó ai là anh, khó ai là em). « Quát đối : Thiên tải nhất ngộ, hữu thị quân, hữu thị thần. (Nghìn năm có một kỳ hội ngộ, có vua ấy, có tôi ấy). « Quan trường kinh dị, liền sai mở cửa cho hai người về trước. Khoa ấy, hai anh em đều đỗ hương tiến, ngày xướng danh, người ta thấy đầu hai người cạo trọc, hai bên để tóc hình trái đào, tức là lối tóc con nít thời xưa, ai nấy đều trố mắt ngạc nhiên. Cách vài năm sau, Quát về kinh thi hội, qua Nghệ-an… » 106 Đoạn này trích ở bài tựa « Cao Bá Quát thi tập », sách viết bằng chữ nho của Trường Bác cổ, số A.210. Năm 1943, trong « Tri Tân » tạp chí, https://thuviensach.vn ông NGUYỄN VĂN TỐ cho biết « Tuy có chép sai và có một vài điều không đủ tin, nhưng tôi cũng dịch ra đây để thêm tài liệu cho việc khảo cứu : « (…) Đến năm 14 tuổi, gặp khoa thi hương, hai anh em nộp quyển ứng thí, vào kỳ đệ nhất, làm có chốc lát xong, rồi cùng trẻ con đánh quay. (…) Khoa ấy hai anh em đều đỗ hương tiến ; ngày xướng danh, người ta thấy đầu còn để trái đào, ai cũng lấy làm lạ. Cách vài năm sau, ông về kinh thi hội, qua Nghệ an (…) » 107 Ông TRÚC-KHÊ ở lời chú số 2, trang 27 có nhận định : « Những thuyết nói hai anh em cùng đỗ một khoa, Quát đỗ giải nguyên, Đạt đỗ á nguyên chỉ là ngoa truyền ». Ở chỗ này, ông T.K. nói đúng vì chuyện thi đỗ hay không và đỗ khoa nào thời nhà Nguyễn là điều rất dễ kiểm soát với hai quyển « Quốc triều hương khoa lục » và « Quốc triều đăng khoa lục » của ông CAO XUÂN DỤC. Nhưng trong « Giai thoại làng nho », cách đó hai trang tức trang 308, chúng ta lại được đọc : « Năm Minh-mạng 12, khoa tân mão (1831) Quát đỗ cử nhân thứ hai trường Hà-nội, sau bộ Lễ xét lại, đánh xuống cuối bảng ». Vô tình, đoạn này chép đúng theo sách « Quốc triều hương khoa lục » đã đính chánh ngay đoạn trên chép rằng C.B.Q. đi thi hương hồi năm 14 tuổi và cả hai anh em đều đỗ một lượt. HÀNH TẨU HAY THỪA CHỈ ? Như TRÚC-KHÊ, nhiều tác giả chép rằng nhờ sự đề cử của một quan tỉnh Bắc-ninh, ông C.B.Q. vào kinh lãnh chức Hành tẩu bộ Lễ. Theo ông HỒNG-LIÊN L.X.G., « Tới năm Thiệu-trị nguyên niên (1841), vị Á nguyên họ Cao mới được vời vào Kinh đô làm chức Thừa chỉ bộ Lễ ». 108 Chức Hành tẩu không tìm thấy trong « Sách Quan chế » của HUÌNH TỊNH CỦA. Chỉ biết hành tẩu (đi chạy) là một « chức quan nhỏ không có chuyên nhiệm, làm việc ở các bộ viện, như chức tạm phái » (ĐÀO DUY ANH). https://thuviensach.vn Thừa chỉ là một chức quan thuộc hàng tùng ngũ phẩm, ngang hàng với tri phủ, trên chủ sự, tri huyện (chánh lục phẩm) và giáo thọ (chánh thất phẩm). Ông NGUYỄN CÔNG TRỨ vốn là giải nguyên khi mới xuất chính cũng chỉ được sung chức hành tẩu Sử quán. Cao Bá Đạt, cử nhơn năm 1834, chỉ mới leo đến chức tri huyện ở Nông-cống (Thanh-hóa) vào lúc C.B.Q dấy binh ở Mỹ-lương. Như vậy, chẳng có lý nào khi mới vào kinh, C.B.Q. được bổ ngay thừa chỉ ngang hàng với tri phủ, trên tri huyện. Thời bấy giờ triều Nguyễn không có thói quen ưu đãi nho sĩ trước kia vốn thuộc « đàng ngoài ». Lời mật tấu của viên quan tỉnh Bắc-ninh cũng không đủ là một cái cớ để cho triều Nguyễn biệt đãi họ CAO đến mức ấy. Hơn nữa, từ hành tẩu, sau đó CHU-THẦN mới thăng đến chức chủ sự. Rồi có phải chăng vì cái tính gai góc của ông, năm 1854 ông mới bị giáng hai trật đi làm giáo thọ ở phủ Quốc-oai ? SƠ KHẢO, PHÚC KHẢO HAY GIÁM KHẢO ? Theo TRÚC-KHÊ, năm 1841, « nhân gặp khoa thi, ông được sung vào chân sơ khảo ở trường Thừa-thiên. » (tr.52) Ông KIỀU OÁNH MẬU trong « Bản triều bạn nghịch liệt truyện » nói ông được sung làm phúc khảo thi hương. Ông NGUYỄN QUỲNH trong bài « Cao Bá Quát » và ông TRẦN TRỌNG SAN trong « Việt-văn độc bản » 109 nâng ông C.B.Q. lên hàng giám khảo. Sơ khảo, phúc khảo và giám khảo không đồng nghĩa mà chỉ ba chức vị khác nhau của quan trường. Mỗi quyển thi do quan sơ khảo chấm trước bằng son ta, rồi đến phúc khảo bằng dấu chấm xanh, quan giám khảo dấu hồng đơn. Quyền quyết định lấy đỗ ở hai quan chánh và phó khảo chấm sau cùng bằng son tàu. Quyển nào bị quan sơ, phúc, giám khảo đánh hỏng mới giao cho quan phân khảo xét lại, nếu có quyển đáng đỗ mới giao cho quan chánh, phó. 110 https://thuviensach.vn Trong hàng các quan nội trường chấm thi, quan sơ khảo ở bực thấp nhứt. Chẳng lẽ vừa chân ướt chân ráo đến kinh lãnh chức hành tẩu bộ Lễ lại được sung làm giám khảo ngay hay sao ? « Đại-Nam chính biên liệt truyện » có lý hơn khi thuật lại rằng C.B.Q. lúc ấy được sung làm sơ khảo. C.B.Q. phúc khảo có lẽ xuất xứ từ KIỀU OÁNH MẬU ? Còn C.B.Q. giám khảo, không rõ ông TRẦN TRỌNG SAN sử dụng tài liệu nào. NGUYỄN ĐĂNG GIAI KINH LƯỢC CHỚ KHÔNG PHẢI NGUYỄN VĂN GIAI Kể những giai thoại về C.B.Q., ông LÊ XUÂN GIÁO có viết : « Tới năm Thiệu-trị nguyên niên (1841), vị Á-nguyên họ Cao mới được vời vào kinh đô làm chức Thừa chỉ bộ Lễ. » 111 Qua trang sau, ông tiếp : « Đến năm Tự-đức thứ bảy (1854), do ông Kinh lược Bắc-kỳ là Nguyễn Văn Giai đề cử Cao Bá Quát tiên sinh được bổ làm chức Giáo thụ (học quan) phủ Quốc-oai, tỉnh Sơn-tây. Lúc bấy giờ tiên sinh đã gần bốn mươi tuổi ». Như đã nói qua ở một đoạn trên, thừa chỉ là một chức quan thuộc hàng tùng ngũ phẩm, còn giáo thọ, hàng chánh thất phẩm. Có bụng liên tài mới đề cử. Ai lại đề cử cho một người bị giáng từ chức thừa chỉ xuống giáo thọ ? Vả lại, lúc tiên sinh gần bốn mươi tuổi, người đề cử là quan Trấn xứ Kinh-bắc (Bắc-ninh) chớ không phải Nguyễn Văn Giai, kinh lược Bắc-kỳ. Hơn nữa, không có quan kinh lược Bắc-kỳ nào tên Nguyễn Văn Giai, mà chỉ có ông Nguyễn Đăng Giai năm 1850 vốn làm kinh lược đại sứ Hà tĩnh, Nghệ-an và Thanh-hóa. Năm sau, 1851, ông được thuyên chuyển làm kinh lược các tỉnh Hà-nội, Ninh-bình, Bắc-ninh, Thái-nguyên, Tuyên quang, Lạng-sơn, Cao-bằng để dẹp giặc Tam-đường, và mất năm 1854. Người ta lầm Nguyễn Đăng Giai ra Nguyễn Văn Giai có phải chăng vì một lỗi ấn loát (?) trong « Quốc triều chánh biên toát yếu » in năm 1923 ở Huế và tái bản ở Sài-gòn năm 1972 : trang 286 in Nguyễn Văn Giai, nhưng trang 290 sau đó đã vô tình đính chánh cho cái sai của trang trước, in https://thuviensach.vn Nguyễn Đăng Giai. Nhưng ông Nguyễn Đăng Giai cũng không phải là người đề cử ông C.B.Q. làm Giáo thọ phủ Quốc-oai, vì năm 1854, C.B.Q. bị giáng từ chức chủ sự bộ Lễ (chánh lục phẩm) tại kinh xuống chức giáo thọ (chánh thất phẩm) tại một tỉnh miền ngược, chẳng khác nào BẠCH CƯ DỊ đời nhà Đường từ kinh đô bị đổi đi ở một miền xa xôi để gậm nhấm nỗi buồn của kẻ lưu đày : « Tầm dương đất trích gối sầu hôm mai. » BA MƯƠI QUAN CÓ LÝ HƠN LÀ BA NGÀN Ông HỒNG-LIÊN L.X.G. còn kể thêm một giai thoại nữa có liên hệ đến ông Nguyễn Văn Giai, không nói rõ có phải là ông « Nguyễn Văn Giai kinh lược » hay không nhưng có cước chú « Ông Nguyễn Văn Giai quê làng Hồ-khẩu, huyện Vĩnh-thuận, Hà-nội, nay đổi thuộc huyện Hoàn-long, tỉnh Hà-đông, có biệt tài làm văn và thơ nôm ». 112 Do cước chú đó, người ta biết ông Giai này không hề làm kinh lược, vì « ông có tính chất ngang tàng phóng túng, không chịu luồn cúi. Nguyễn Văn Giai không hề nộp quyển dự thi một khoa nào, nên ông không có bằng cấp » 113. Ông thường dùng mưu trí để phá thiên hạ mà cười chơi. Tính ông lại bình dân. Như vậy, ông Nguyễn Văn Giai lần này chính thật là Nguyễn Văn Giai chớ không phải Nguyễn Đăng Giai kinh lược : « Cao tiên sinh vốn được nhà đại nho Nguyễn Văn Giai quí trọng, chiều chuộng. Lúc ông này mới cưới vợ mọn là người phường hát ở Bắc ninh bèn nhờ nhà thơ họ Cao làm một bài ca. Nhà thơ liền cầm bút viết ngay : « Bắc phương hữu giai nhân Tuyệt thế nhi độc lập Giá đã nên nhứt cố khuynh thành Trọng cho tài mà lại tiếc cho mình Chen chúc mấy đời chi mãi tá ! Ngã diệc tự tác ngã Nhân phi bất thị khả khan nhân https://thuviensach.vn Vòng thị phi trót đã quá chân Thôi đã biết chuyện đời là thế thế Thoi thắm thoát bóng dâu vừa xế Mới ngày nào mái tóc chấm ngang vai Của đời ai kém chi ai ». « Bài này Cao tiên sinh mượn lời để tỏ nỗi lòng của mình, được ông Giai khen ngợi. Nhưng ông Giai lại còn thách làm một bài nữa cho sát, và dùng lời càng tục tĩu càng hay. Tiên sinh đòi rượu và hạ bút viết ngay : « Trước đã mắc lo cùng cái vịt Sau càng thêm thẹn với con công Sự đâu có sự lạ lùng : Ô tướng quân cùng mao động chủ Sách có chữ « Âm dương đào chú » Thay hóa công mà đúc lấy nhân tài Càng già càng dẻo càng dai. » « Ông Giai đắc ý lắm, nhứt là câu cuối cùng « Càng già càng dẻo càng dai » ông cầm bút khuyên dày, và thưởng tài ba chục quan tiền. Tác giả bài ca nhận tiền rồi đi uống rượu cho hết số tiền ấy ». 114 Đoạn trên đọc thấy ở « Bản triều bạn nghịch liệt truyện », trang 113, 115, chỉ có khác nhau một vài chữ và một chi tiết. Theo ông HỒNG-LIÊN, ông Nguyễn Văn Giai thưởng tài C.B.Q. ba chục quan tiền, một trăm lần ít hơn so với con số của KIỀU OÁNH MẬU là ba ngàn. Không biết có phải ông HỒNG-LIÊN sử dụng tài liệu của ông K.O.M. (trong « Bản triều bạn nghịch liệt truyện ») và « điều chỉnh » một chi tiết chăng ? Nếu có cũng cần nói rõ. Và ở đây, con số ba chục quan tiền xét ra hữu lý hơn và đáng được chấp nhận hơn là con số ba ngàn. Và người tặng không phải là Nguyễn Văn Giai. https://thuviensach.vn Ba mươi quan nghe hợp lý hơn vì ba ngàn quan vào thời C.B.Q. là một số tiền khổng lồ. Thuở bấy giờ, quan viên thọ bổng lộc của triều đình bằng tiền và hiện vật (gạo) cộng thêm khoảng phụ cấp về y phục gọi là tiền xuân phục. Lương bổng đồng niên của một chủ sự, một tri huyện (chánh lục phẩm) không kể hiện vật và tiền xuân phục, chỉ có ba mươi quan mà thôi. Ba ngàn quan tức là một trăm năm lương của một ông tri huyện hay là bảy năm rưỡi lương của một ông quan chánh nhứt phẩm tại triều. Ba mươi quan cũng là quá lắm rồi, nói gì tới những ba ngàn. Chúng ta hẳn còn nhớ, vào thời Tự-đức, LÊ NGÔ CÁT, sau khi sửa và soạn xong một quyển sử (sau mang tựa là « Đại-Nam quốc sử diễn ca ») chỉ được vua ban có một tấm lụa và hai đồng tiền, nên ông có lời nói đùa hàm ý bất mãn : « Vua khen thằng Cát có tài, Thưởng cho cái khố với hai đồng tiền. » Vua thưởng quan chỉ có hai đồng tiền mà một thường dân như Ba Giai lại có thể thưởng một lúc đến ba ngàn hay sao ? Hơn nữa, Ba Giai không có thi cử đậu đạt gì, không có xuất chính làm quan làm tư mà hầu có bổng ngoại đến thiên tứ vạn chung, nghĩa là không đủ sức để mà vung tay quá trán như vậy được. Ba Giai cũng không phải là thương nhân. Phương chi, bấy giờ công thương chưa mở mang, người nào mua bán có được năm bảy vạn cũng được coi là cự phú rồi. Ba Giai không thuộc hạng người đó, thế thì làm sao có tiền tiêu pha hơn cả bậc vua chúa ? Tóm lại, cái giai thoại Ba Giai tặng hay thưởng C.B.Q. chưa chắc đã có thật, mà thêm vô chi tiết ba ngàn nữa là biến cái giai thoại kia thành chuyện hoang đường. Theo « Dật sử ông Cao Bá Quát » 115, theo ông NGUYỄN TƯỜNG PHƯỢNG 116và ông TRÚC-KHÊ, người tặng thưởng đó là Nguyễn Văn Khái, một hiển quan hay là một tay phú hộ thời bấy giờ ở Bắc-ninh, và số tiền thưởng đó là ba mươi quan. AI KHEN CAO BÁ QUÁT ? https://thuviensach.vn Văn tài của C.B.Q. đã được ngay chính cụ thân sinh ra ông nhận xét tinh tế, người đồng thời tán thưởng và kẻ hậu sinh đề cao, mà nồng hậu nhứt có lẽ là ông NGÔ TẤT TỐ trong « Thi văn bình chú ». Lúc C.B.Q. còn sinh thời, đã có câu truyền tụng : « Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường. » Nghĩa là văn (hay đến như văn của) PHƯƠNG-ĐÌNH NGUYỄN VĂN SIÊU và C.B.Q. thì văn đời Tiền Hán cũng không hơn được, và thơ (hay đến như thơ của) TÙNG-THIỆN VƯƠNG và TUY-LÝ VƯƠNG thì thơ thời thịnh Đường cũng còn kém. Theo « Đại-Nam chánh biên liệt truyện », thì đó là câu được truyền tụng, nói cách tổng quát. « Bản triều bạn nghịch liệt truyện » (không có trong mục sách báo tham khảo của T.K.) chép rằng « Văn thơ của Quát rất hay, nét chữ rất đẹp, khi đó người Thanh (Tàu) có câu : « Văn như… ». 117 Người Hoa-kiều ở Việt-nam thời bấy giờ hầu hết đều làm nghề công thương. Có bao nhiêu người Trung-hoa ở Việt-nam nổi tiếng trên thi đàn như họ Mạc ở Hà-tiên ? Mà người Trung-hoa nào lại có điều kiện và chịu khó đọc thần SIÊU, thánh QUÁT ? Chỉ có thể một danh sĩ nào đó trong sứ bộ Trung-hoa tại đất thần kinh đã dùng một thứ ngôn ngữ ngoại giao để vuốt ve chủ nhân của thi xã Mặc-vân. Nhưng có cần thiết chăng ? và cái óc tự tôn thông thường của người Trung-hoa phong kiến có cho phép họ coi nhẹ văn thi của dân tộc họ trong thời cực thịnh hay không ? Hãy còn là nghi vấn. Đến T.K. thì rõ hơn nữa : « Trong làng văn mặc, người ta đã phải đặt ra một câu nói « Thần Siêu, Thánh Quát » và vua Dực-tông, ngài đã có hai câu thơ này để khen ngợi bốn tay cự phách trên đàn thơ văn : « Văn như… » (tr.58) Sau T.K., nhiều tác giả cũng cho hai câu đó của Dực-tông. Dực-tông vốn là một ông vua hay chữ hay là sính thơ. Vốn đã được quan tỉnh Bắc ninh mật tấu về tính tình của C.B.Q. rồi thì xét về thuật dùng người, nhà https://thuviensach.vn vua có nên đề cao quá đáng như vậy hay không để rồi vô tình củng cố thêm tinh thần tự mãn của họ CAO ? Và liệu nhà vua có đủ khiêm tốn khuất mình đi để đưa bốn người khác lên trên chăng ? Và nhứt là trong lúc đó, nhà vua lại là người ra đề tài thi đình. Có thể suy luận rằng nhà vua khen như vậy cũng là một cách tự đề cao mình : văn thơ dưới triều Tự-đức rực rỡ đến lấn áp cả thời Tiền Hán và Thịnh Đường. Nhưng có đề cao như vậy cũng chính là tự hạ mình rồi. Chắc chắn là nhà vua chẳng muốn tự hạ mình. Ông ƯNG-TRÌNH trong quyển « Tùng-thiện vương » có cước chú về hai câu nói trên như thế này : « Nhiều người nhận là thơ của đức Dực-tông, song tra trong tất cả các tập ngự chế, thì không có hai câu ấy. Vì thời nhơn đều công nhận văn thơ của bốn nhà ấy hay nhất cho nên có người viết hai câu này ; tương truyền đến nay, khắp cả Bắc Nam, thành thử trẻ già ai cũng thuộc. » 118 Kết luận, sách « Đại-Nam chánh biên liệt truyện » chép như trên là thận trọng. HAI CÂU THƠ VỪA CHỮ VỪA NÔM CỦA VUA TỰ-ĐỨC LÀM TRONG MỘNG Vua DỰC-TÔNG rất sính thơ. Có một lần, trong giấc mộng, ông nghĩ ra hai câu thơ vừa nôm vừa chữ. Vài tác giả có thêm là do thần nhân tặng. Hôm sau, ông đọc lại cho các quan nghe : « Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai » C.B.Q. tâu là hồi còn đi học đã có nghe hai câu đó trong một bài hát cú. Nhà vua bảo đọc cho nghe. C.B.Q. vâng lịnh tức khắc ứng khẩu : « Bão mã tây phong huếch hoác lai, Huênh hoang nhân tự thác đề hồi. Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ, Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai. https://thuviensach.vn Xuân nhật bất văn sương lộp bộp, Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài. Khề khà thi tứ đa nhân thức, Khệnh khạng tương lai vấn tú tài. » 119 Đây là bản của T.K. có kèm theo phần dịch nghĩa : « Ngựa báu theo gió tây huếch hoác lại, Huênh hoang người tự theo về. Trong vườn tiếng oanh hót khề khà, Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm. Ngày xuân chẳng thấy sương lộp bộp, Trời thu chỉ những mưa bài nhài. Khù khờ câu thơ đã nhiều người biết, Còn khệnh khạng đem hỏi các nhà văn học. » Nhà vua biết mình bị trêu nhưng đành chịu. Trong bài « Xét lại nhà thơ Cao Bá Quát », THÁI-BẠCH cũng có nhắc qua giai thoại này và thêm : « Rồi sau đó ít hôm Quát bị đổi đi giáo thụ Quốc-oai. Song theo cụ Ưng-Trình Thúc-giạ-thị, chắt của Tuy-lý vương thì bài thơ ấy đã có trong tập bản thảo về thơ từ hồi trào Minh-mạng. » 120 Nếu quả thật đã có từ thời Minh-mạng thì bài thơ trên không thể là của C.B.Q. làm ra để trêu Dực-tông. HAI CÂU ĐỐI Ở ĐIỆN CẦN-CHÁNH CÓ PHẢI DO CAO BÁ QUÁT SỬA ? Ngoài ra, ông THÁI-BẠCH còn cho biết thêm hai câu đối được C.B.Q. sửa chữa cũng « không hề có ở các cung điện lâu đài Huế » 121như sách của T.K. có chép. Theo ông T.K., tại điện Cần-chánh thuở ấy có khắc đôi câu đối : « Tử năng thừa phụ nghiệp, Thần khả báo quân ân. » https://thuviensach.vn Nghĩa là : « Con hay nối nghiệp cha, Tôi phải đền ơn chúa. » C.B.Q. phê vào đôi câu đối ấy một câu : « Tối hảo ! Tối hảo ! Cương thường điên đảo ! » Nghĩa là rất hay rất hay nhưng cương thường đảo ngược. Vua hỏi tại sao, ông sửa lại là : « Quân ân thần khả báo, Phụ nghiệp tử năng thừa. » Nghĩa là : vì vua (quân) phải đứng trên tôi (thần), cha (phụ) phải đứng trên con (tử) mới thuận lý. Ở chỗ này, ông T.K. có dè dặt, điều ít thấy ở nơi khác : « Câu chuyện này, nhiều người truyền lại nhưng tác giả hơi ngờ. Theo sách « Đời tài hoa » của ông Nguyễn Văn Đề thì việc này là của ông Thủ khoa Nguyễn Hàm Ninh. Cũng có người lại cho việc này là của người Tàu. Xin cứ tạm để vào đây để đợi xét. » (tr.62) Việc sửa chữa đó, lấy lý mà suy, không hợp với tính khí con người C.B.Q. rất ít nhắc tới đạo vua tôi trong những tác phẩm còn lại của ông, khác hẳn với NGUYỄN CÔNG TRỨ coi đó như là một món nợ đeo đai theo tác giả như một ám ảnh : - « Đạo vi tử vi thần đâu có nhẹ » - « Xuất mẫu hoài tiện thị hữu quân thân » - « Ba vạn anh hùng đè xuống dưới, Chín lần thiên tử đội lên trên. » - … Trước mặt vua mà sửa như vậy, bây giờ, người ta gọi là « nâng bi » đó ! Mà trong những sách báo chúng tôi được đọc về C.B.Q., chúng tôi chưa tìm được một giai thoại nào cho thấy C.B.Q. « nâng bi » ai một lần. https://thuviensach.vn Về hai câu đối trên, một thuyết gán cho C.B.Q., một cho Nguyễn Hàm Ninh, một cho người Tàu và rốt cuộc chẳng còn ai thấy vết tích. Như vậy, nên để hai câu đối này ngoài cuộc đời của C.B.Q. là hơn. Thêm hai câu này vào chỉ có phá tính cách nhứt trí của cuốn truyện ký, mà không có lợi gì cho lời buộc tội ông ở chương VII (« Việc Mỹ-lương đi đến cái vạ diệt tộc », tr. 78-103). MỘT CÁI CHẾT THẬT RẮC RỐI Nếu chết bịnh như NGUYỄN DU, TẢN-ĐÀ, chết già như NGUYỄN CÔNG TRỨ, tự tử như NHẤT-LINH, TAM-ÍCH, rồi có thân quyến, bằng hữu tiễn đưa, không ai tưởng tượng và « sáng tác » thêm chi tiết gì nữa được về cái chết của những người đó. Riêng với C.B.Q. ra đi trong một trường hợp không thường nên có lắm truyền ngôn về cái chết của ông và do đó, nhiều sách viết khác nhau. Khi có nhiều truyền ngôn như vậy, thì chỉ có thể có một cái đúng mà chắc chắn là có nhiều cái sai khiến cho người đọc khó phân biệt giả, chân : thắc mắc, hoài nghi. Theo « Đại-Nam chánh biên liệt truyện » : « Bá Quát thua chết tại trận (…) Việc tâu về triều đình, vua nghe, sai đem đầu Bá-Quát bêu và rao khắp các tỉnh Bắc-kỳ, rồi giã nhỏ ném xuống sông. » 122 Ông T.K. cũng có tham khảo tài liệu này nhưng không tin theo : « Song xem những ký tái của các tư gia và hợp với lời truyền thuyết của các cố lão thì ông bị bắt sống rồi bị trảm khiêu chớ không phải là chết trận. Vì thấy cái thuyết bắt sống có nhiều chứng cớ hơn, nên ở đây tác giả đi theo thuyết ấy » (Cước chú số 1, tr.95). Ông KIỀU OÁNH MẬU chỉ thuật lại điều tai nghe. Nên nhớ CHU THẦN mất năm 1854, sách « Bản triều bạn nghịch liệt truyện » của ông hoàn thành năm 1901. Theo sách này, ông C.B.Q. không có chết trận mà ông bị vu oan và bị chết oan : « Quát ở Quốc-oai làm gia sư ở nhà ông chánh tổng trong hạt. Quát tính ưa rượu. có người nói viên cai tổng ấy có chí khởi nghịch, mới nhân khi Quát say rượu nói khích một câu, vì vậy https://thuviensach.vn Quát bị hãm vào tội phản nghịch. Thuyết khác thì nói Quát bị bắt giải về Hà-nội, có người thương hại nên đã dùng một tên tội phạm dáng mạo giống Quát để thay vào. Còn Quát trốn đến Lạng-sơn, làm thiền sư trốn tránh, vài năm sau mới chết. » 123 Đoạn này nặng tánh chất tiểu thuyết. Ông TRẦN TRỌNG KIM cho biết vắn tắt rằng C.B.Q. bị phó lãnh binh Sơn-tây bắt được « đem về chém tại làng » 124. Đó là làng Phú-thị, sinh quán của C.B.Q. Ông T.K. tin theo thuyết này và có thêm một chi tiết khác là C.B.Q. bị bắt giam ở Sơn-tây rồi lại bị đóng cũi đưa xuống Hà-nội và sau đó mới giải về nguyên quán ở làng Phú-thị để thọ hình. « Giết Cao rồi người ta đem thủ cấp đi bêu khắp mấy tỉnh để dư đảng thấy mất thủ lĩnh sợ hãi mà phải giải tán, bêu chán rồi người ta nghiền nát mà vứt xuống sông. » Đoạn này của ông T.K. rõ ràng là phối hợp hai nguồn tài liệu, một của Đ.N.C.B.L.T. và một của ông TRẦN TRỌNG KIM hoặc cùng một xuất xứ với tài liệu của họ TRẦN. Ông KIỀU OÁNH MẬU thì cho C.B.Q thọ hình tại Hà-nội. 125 Riêng ông LÃNG-NHÂN thì cho họ CAO đi xa hơn : « Cao bị bắt giam tại nhà ngục Sơn-tây rồi bị đóng cũi đưa về Hà-nội, và giải vào Huế » 126. Ông không nói rõ họ CAO thọ hình tại đâu, nhưng theo văn mạch của giai thoại, thì độc giả có thể hiểu nơi đó là Huế. Nếu quả thật họ CAO bị giải vào Huế thì sự kiện đó chắc cũng đáng lấy làm quan trọng để nhiều người được biết và lưu truyền. Nhưng tại sao những người biên soạn Đ.N.C.B.L.T. tại đất thần kinh lại không hề nhắc qua chuyện đó ? Chót hết là một chuyện gần loại nghẹt thở của Hitchcock do NGUYỄN QUỲNH kể lại, cũng có nhiều màu sắc tiểu thuyết : C.B.Q bị giải xuống Hà-nội, Tổng đốc Nguyễn Bá Nghi dâng sớ về triều. Vua Tự-đức đưa qua cho bộ Hình luận tội. C.B.Q bị án tử hình và toàn gia bị tru lục. Vua Tự-đức sức cho « Nguyễn Bá Nghi giải tên Quát https://thuviensach.vn cùng đồng đảng về làng Phú-thị, chém đầu giữa chợ để làm gương cho bọn loạn thần, tặc tử (…) ». 127 TÙNG-THIỆN VƯƠNG và TUY-LÝ VƯƠNG hay tin liền vào cung can thiệp với vua Tự-đức xin ân xá cho C.B.Q. và cả gia đình. Cuối cùng, vua Tự-đức thảo chiếu ân xá và đưa sang Bộ Hình để sao gởi ra Bắc. Nhưng bọn quan viên ở Bộ này vốn ghét họ CAO, nên trì hoãn việc gởi đi. Và kết quả là khi tin ân xá đến nơi thì C.B.Q. đã rơi đầu. « Tên đao phủ vung lưỡi mã tấu lên thành một vệt trắng trên không trung rồi hạ xuống, cứ như thế mấy lượt… trong khi đó trên nền trời hồng hồng, ba con quạ đang bay lượn vòng quanh pháp trường, để rơi những tiếng rùng rợn, ghê người… ». 128 Khi vua Tự-đức sức cho Nguyễn Bá Nghi giải C.B.Q. về làng Phú-thị để chém đầu giữa chợ, hẳn lịnh đó không cần phải truyền theo lối hỏa tốc ra đất Bắc, vì họ CAO đã bị giam giữ cẩn thận rồi, dầu ở Hà-nội hay Sơn tây, không sợ đào thoát đi đâu được. Nhưng đến khi TÙNG, TUY, hai vương tận tình can thiệp xin ân xá cho họ CAO và nhà vua đã chấp thuận thì lý đương nhiên của câu chuyện cho phép chúng ta hiểu rằng lịnh ân xá của vua phải được truyền đi hỏa tốc. Nếu quan viên ở Bộ Hình cố ý trì hoãn việc sao gởi, sau này khi hay được tin C.B.Q. đã thọ hình, hai vương đã thiết tha cứu mạng cho họ CAO có chịu để yên mà không truy ra trách nhiệm trễ nải ở cấp thừa hành nào không ? Hơn nữa, nếu hai vương có một cử chỉ đẹp như vậy mà hai cuốn « Tuy-lý vương » của TRẦN THANH MẠI và « Tùng-thiện vương » của ƯNG-TRÌNH không hề nhắc lại, thì quả là một điều lạ. C.B.Q. chết oan, chết ưng, chết trận, bị hành quyết tại nguyên quán làng Phú-thị, tại Hà-nội, Huế, được cứu sống ? Chắc có nhiều phần tưởng tượng, vẽ vời. Lọc bớt những chuyện khó tin, không hợp lý, chỉ còn lại hai thuyết dễ chấp nhận như nhau nhưng không có xác chứng. Một là C.B.Q bị bắt sống, bị giam và thọ hình sau đó tại nguyên quán. Một của Đ.N.C.B.L.T. cho rằng « Bá Quát thua chết tại trận ». https://thuviensach.vn