🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Mã Hóa Đằng và Tencent - Lãnh Hồ
Ebooks
Nhóm Zalo
NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG
175 Giảng Võ - Hà Nội - Việt Nam
Tel: (024) 3851380, Fax: (024) 38515381 Email: [email protected]
Website: www.nxblaodong.com.vn
CHI NHÁNH MIỀN NAM
Số 85 Cách mạng Tháng Tám, Q.1, TP.HCM Tel: (028) 38390970, Fax: (028) 39257205
MÃ HÓA ĐẰNG VÀ TENCENT
Tác giả: LÃNH HỔ
Người dịch: QUAN NGỌC
CHỊU TRÁCH NHIỆM XUẤT BẢN:
Giám đốc - Tổng biên tập MAI THỊ THANH HẰNG Biên tập: Ngô Thị Thúy Nga
Bìa - Trình bày: Chibooks Design
Sửa bản in: Ban biên tập Chibooks
Đơn vị liên kết xuất bản:
CÔNG TY CỔ PHẦN VĂN HÓA CHI
77 đường số 10, khu dân cư Nam Long, P.Tân Thuận Đông, Q.7, TP.HCM
Hotline: 091.999.6829-090.310.3628 Website: chibooks.vn
Email: [email protected]
In 3000 cuốn, khổ sách 14,5 x 20,5 cm, tại Công ty TNHH MTV In Báo Nhân Dân
TP.HCM (D20/532P, Ấp 4, xã Phong Phú, huyện Bình Chánh, TP.HCM).
KHXB: 65-2021/CXBIPH/11-01/LĐ.
Số QĐXB: 21/QĐ-NXBLĐ cấp ngày 13-1-2021. ISBN: 978-604-320-409-4.
In xong và nộp lưu chiểu Quý I năm 2021.
LỜI NÓI ĐẦU
Mạng Internet là gì? Mạng Internet có thể mang lại cho chúng ta những lợi ích nào? Nếu nói mạng Internet phức tạp thì cũng đúng, mà nói đơn giản thì cũng không sai. Phức tạp là vì nó đại diện cho cuộc cách mạng công nghệ và văn hóa; đơn giản là vì chỉ thông qua một cú click chuột là bạn có thể tìm hiểu mọi thứ trong thế giới Internet.
Với QQ, Mã Hóa Đằng đã nắm bắt được điểm mấu chốt: Kết nối. Kết nối là linh hồn để QQ tồn tại, khiến QQ trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống con người. QQ thay đổi phương thức trao đổi của con người từ truyền thống (thư từ, điện thoại) sang kết nối mạng, khiến người dùng có thể cảm nhận sự dễ dàng và sức hấp dẫn của kết nối qua mạng, đơn giản là chỉ cần cử động các ngón tay. Mã Hóa Đằng cùng với “chú chim cánh cụt” đã lập nên kỳ tích về “kinh tế trải nghiệm” trên mảnh đất mạng Internet Trung Quốc.
Mã Hóa Đằng là một “con mọt mạng” đời đầu điển hình, đại diện cho một lớp người trong thời đại kinh tế mới của Trung Quốc. Họ gặp đúng thời kỳ giao thoa giữa cải cách và phát triển nên được ban tặng tinh thần sáng tạo cao độ. Cộng thêm nền tảng công nghệ vững chắc, họ có thể biến những tưởng tượng trong đầu thành hiện thực. Nhìn từ góc độ nào đó, thời đại mạng Internet Trung Quốc thể hiện tinh thần của chủ nghĩa cá nhân, quyết theo đuổi đến cùng danh dự và ước mơ.
Không quá bất ngờ khi “vương quốc QQ” do Mã Hóa Đằng xây dựng đã thay đổi quan niệm về giao tiếp xã hội, về đời sống của con người, khiến con người có nhận thức mới về quan hệ xã hội vốn có. Nó cho phép con người thể hiện cái tôi trong không gian
giao tiếp ảo, hiểu về liên hệ giữa mình với người khác. Nó khiến việc giao tiếp vốn đơn điệu, truyền thống trở nên hiệu quả hơn với giá thành thấp hơn. Một phần mềm nhỏ gọn đã kết nối toàn thế giới.
Khi kết nối trở thành một thói quen, khi giao lưu chuyển sang một hình thức mới thì người thu lợi thực sự không phải là Tencent, cũng không phải là người dùng, mà là cả “bánh răng” thời đại Internet. Nó sẽ vận hành mạnh mẽ dưới tác động của loại dầu bôi trơn mang tên “kết nối,” dẫn dắt con người tiến vào làn sóng thời đại tiến bộ hơn với tính cạnh tranh khốc liệt hơn.
Chương 1
NGƯỜI KỸ SƯ MANG ĐẬM PHONG THÁI DOANH NHÂN NHẤT
KHÔNG TRỞ THÀNH NHÀ THIÊN VĂN HỌC
Mã Hóa Đằng sinh ra tại Sán Đầu, Quảng Đông, nhưng lại lớn lên ở Hải Nam. Chính bầu trời lấp lánh ngàn sao của đảo Hải Nam đã giúp chàng thanh niên Tiểu Mã dệt nên muôn vàn mộng tưởng về thế giới trong tương lai.
Có niềm đam mê đối với vũ trụ bao la nên Mã Hóa Đằng muốn sở hữu một chiếc kính viễn vọng chuyên nghiệp. Nhưng lúc đầu, gia đình ông không đồng ý, bản thân ông cũng thấy yêu cầu của mình có phần quá đáng nên chỉ đành ngậm ngùi bày tỏ nỗi lòng trong những dòng nhật ký: “Cách làm của bố mẹ có thể sẽ giết chết một nhà thiên văn học.” Sau này, khi tình cờ đọc được nhật ký của con trai, mẹ của Mã Hóa Đằng hạ quyết tâm rút tiền tiết kiệm để mua cho ông một chiếc kính viễn vọng.
Từ khi có chiếc kính, Mã Hóa Đằng ngày ngày say mê quan sát các hiện tượng thiên văn. Một vài năm sau, có người đã hỏi Mã Hóa Đằng rằng việc ông tự hào nhất là gì. Mã Hóa Đằng nghiêm túc trả lời, đó chính là việc chụp được hình ảnh sao chổi Halley và nhận phần thưởng trị giá mấy chục tệ.
Về cha mẹ của Mã Hóa Đằng, cuốn sách này không thể không giới thiệu đôi dòng. Cha của Mã Hóa Đằng tên là Mã Trần Thuật, vốn là cán bộ xuống phía Nam công tác, từng là kế toán của Cục
Nghiệp vụ cảng Ba Sở, Hải Nam, thuộc Bộ Giao thông Trung Quốc. Chức vụ cao nhất mà ông từng đảm nhiệm là thành viên Ban Giám đốc Công ty Cảng Diêm Điền, Thâm Quyến, công ty này đã được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Ngoài ra, Mã Trần Thuật và Lý Gia Thành còn là đồng hương. Tập đoàn Viễn thông và Truyền thông PCCW của Lý Gia Thành từng có lần cung cấp vốn mạo hiểm cho Tencent, vì thế mọi người vẫn nghĩ rằng, Mã Hóa Đằng được nhận không ít nguồn lực từ các mối quan hệ xã hội của cha mình.
Nhưng trên thực tế, sự giúp đỡ trực tiếp duy nhất Mã Trần Thuật dành cho con trai Mã Hóa Đằng là đích thân ông thực hiện nghiệp vụ kế toán khi công ty Tencent vừa thành lập, còn những lợi ích khác từ mối quan hệ cha - con này đều chỉ là ảnh hưởng thông qua giáo dục.
Ngoài công ơn dạy dỗ của người cha Mã Trần Thuật, người mẹ Huỳnh Huệ Khanh cũng được coi là “người phụ nữ” đứng sau thành công của Mã Hóa Đằng, có lẽ bắt nguồn từ việc bà là đại diện pháp nhân của Tencent trong suốt một thời gian dài. Mã Hóa Đằng từng bày tỏ một cách bất lực rằng lúc đó, đại diện pháp nhân đứng ra thành lập công ty bắt buộc phải là người chưa có việc làm hoặc đã nghỉ hưu nên ông mới đành “lôi mẹ vào cuộc”.
Quay lại chủ đề chính.
Năm 1984, Mã Hóa Đằng chuyển đến học tập tại trường trung học tốt nhất ở Thâm Quyến. Sống trong thành phố ngập tràn khẩu hiệu “thời gian chính là vàng bạc, hiệu suất chính là tính mạng”, Mã Hóa Đằng dần tôi luyện một tinh thần lao động thực chất, tính cách và tư tưởng của ông cũng ngày một trưởng thành theo đà phát triển của thành phố trẻ năng động này. Có lẽ chính vì quyến luyến và cảm thấy hòa hợp với nơi đây mà ông đã lựa chọn học tại Đại học Thâm Quyến, vốn ở gần nhà.
Theo lẽ thường, nếu đam mê thiên văn học thì sẽ chọn chuyên ngành thiên văn, nhưng Mã Hóa Đằng lại “phản bội” lý tưởng của mình. Qua thời gian mải mê quan sát bầu trời bao la, Mã Hóa Đằng nhận ra, từ giấc mơ thiên văn học đến hiện thực là cả một khoảng cách quá xa vời. Vì thế, ông quyết định chuyển sang một chuyên ngành yêu thích khác là máy tính.
Máy tính và thiên văn có một đặc điểm chung là đều đi sâu tìm hiểu về thế giới chưa được xác định trong tương lai. Đặc điểm này đã khiến chàng trai Mã Hóa Đằng với trái tim dâng trào nhiệt huyết tuổi trẻ lẫn khao khát khám phá như tìm được đất dụng võ.
Bốn năm đèn sách tại Đại học Thâm Quyến đã giúp Mã Hóa Đằng tích lũy được vốn kiến thức chuyên ngành vững vàng và mau chóng trở thành một nhân tài về máy tính. Sản phẩm tốt nghiệp của chàng trai trẻ họ Mã là một phần mềm có tính ứng dụng rất cao tên là “Hệ thống phân tích cổ phiếu”. Chính nhờ sản phẩm được đánh giá cao này, Mã Hóa Đằng tốt nghiệp suôn sẻ và nhận bằng cử nhân một cách thuận lợi.
Không lâu sau đó, một công ty mạng đã nhìn ra ưu điểm từ tác phẩm tốt nghiệp của Mã Hóa Đằng nên ngỏ ý mua. Ông nhận được năm vạn tệ sau khi kết thúc hợp đồng. Ở thời điểm ấy, đây quả là một khoản tiền rất lớn.
Sau khi kiếm được khoản tiền lớn đầu tiên trong đời, trải qua một hồi phân tích và cân nhắc, Mã Hóa Đằng quyết định, phải tích lũy kinh nghiệm rồi mới có thể hành động.
Tinh thần thận trọng cùng tốc độ phát triển vừa phải đã giúp Mã Hóa Đằng tránh được việc đi đường vòng khi đứng trước ngã rẽ đầu tiên của cuộc đời và giúp cho sự nghiệp sau này của ông có thể thuận lợi bay cao như diều gặp gió. Nếu phân tích một cách kỹ lưỡng kế hoạch của chàng trai trẻ họ Mã, chúng ta không khó nhận ra những bước đi vững chãi: Mã Hóa Đằng luôn
làm ra làm, chơi ra chơi, không mơ mộng viển vông mà luôn xuất phát từ thực tế để lập ra một kế hoạch tương lai sáng rõ cho bản thân.
“CHI NHÁNH HỌ MÔ, NƠI CẤT CÁNH ƯỚC MƠ
Năm 1993, Mã Hóa Đằng tốt nghiệp chuyên ngành máy tính của Khoa Máy tính Đại học Thâm Quyến.
Sau khi tốt nghiệp, Mã Hóa Đằng trở thành kỹ sư phần mềm của Công ty TNHH Phát triển Thông tin Nhuận Tấn (tên viết tắt tiếng Anh là CM). Công ty CM được thành lập năm 1992, lĩnh vực kinh doanh chính là nghiệp vụ nhắn tin. Với phương châm “chiếm lĩnh thị trường, dẫn đầu công nghệ”, công ty này đã ra mắt một số sản phẩm có danh tiếng và nhanh chóng mở ra thị trường mới. Thời đó, slogan quảng cáo “Hễ gọi cả thiên hạ trả lời” của Nhuận Tấn nổi tiếng khắp cả nước.
Năm 1995-1998, câu chuyện “thần thoại Nhuận Tấn” được đẩy đến cao trào. Mặc dù Mã Hóa Đằng chỉ là một nhân vật nhỏ không quá nổi bật ở Nhuận Tấn, nhưng được làm việc trong đúng môi trường, tầm nhìn của chàng trai trẻ họ Mã ngày càng mở rộng, có phần vượt trội hơn so với đồng nghiệp.
Nhuận Tấn đã mang lại cho Mã Hóa Đằng hai sự giúp đỡ lớn.
Một là, Nhuận Tấn đã khơi thông tư tưởng cho Mã Hóa Đằng trong công tác quản lý. Khi làm việc tại Nhuận Tấn, Mã Hóa Đằng đã học được cách xây dựng và quản lý một công ty có quy mô lớn, học được cách chiếm lĩnh thị phần ở thị trường mới nổi và cách thu hút vốn ở Hồng Kông (Công ty Nhuận Tấn Hồng Kông đã được niêm yết trên thị trường chứng khoán của Hồng Kông).
Hai là, Nhuận Tấn đã mang đến nguồn khách hàng đầu tiên cho Tencent. Khi Mã Hóa Đằng mới thành lập Tencent, sản phẩm
đầu tiên là dịch vụ đi kèm cho đài phát tin. Vì từng làm việc tại công ty truyền phát tin nhắn nổi tiếng nhất Trung Quốc nên ông đã gây dựng được một số mối quan hệ với đài truyền tin ở các địa phương. Điều này giúp ông có những bước đi ban đầu thuận lợi hơn so với người khác.
Cũng trong thời gian gắn bó với Nhuận Tấn, nhận thức của Mã Hóa Đằng về lĩnh vực khai thác phần mềm đã hoàn toàn thay đổi. Ông nhận ra điều quan trọng nhất của một phần mềm không phải ở hình thức, mà là tính ứng dụng. Vì thế, khi viết phần mềm, Mã Hóa Đằng không bao giờ cho rằng công việc lao động mang tính sáng tạo này chỉ để thỏa mãn thú vui của bản thân, ông luôn hy vọng phần mềm mình viết ra được nhiều người đón nhận và có tính ứng dụng cao.
Những năm tháng ở Nhuận Tấn, mặc dù cả ngày làm việc trên máy tính cùng các chương trình nhưng Mã Hóa Đằng không cảm thấy chán. Ông càng tiếp xúc nhiều với máy tính, hứng thú với công việc càng tăng. Nhờ đó, kiến thức chuyên ngành của ông ngày càng phong phú, danh tiếng và thông tin về ông cũng ngày càng lan rộng trong giới.
Làm việc tại Nhuận Tấn đến năm thứ ba, ông bắt đầu “không tập trung việc chính” vì ông bị cuốn hút bởi “việc phụ” là mạng Huệ Đa (Huiduo) đang nóng hổi khi đó.
Mạng Huệ Đa Trung Quốc (Chinese fidonet, Cfido) ra đời năm 1991 và thịnh hành nhất trong giai đoạn từ năm 1993 đến năm 1998. Đó là một mạng Internet BBS được kết nối bởi đường dây điện thoại. Thư từ được gửi đi trên mạng này nhờ phương thức người dùng cùng nhấp chuột. Mạng Huệ Đa là hệ thống mạng nghiệp dư do các tín đồ yêu thích công nghệ của Trung Quốc sáng lập và vận hành.
Cũng là một tín đồ công nghệ giàu kinh nghiệm, tất nhiên Mã Hóa Đằng rất hứng thú với mạng Huệ Đa. Ông đã dành khoảng
nửa năm để mày mò, tìm hiểu và cuối cùng quyết định thành lập một chi nhánh tại Thâm Quyến. Năm 1995, Mã Hóa Đằng đầu tư bốn đường dây điện thoại cùng tám chiếc máy tính để xây dựng chi nhánh Thâm Quyến và đặt tên là “Ponysoft” (Pony là tên tiếng Anh của Mã Hóa Đằng).
Mã Hóa Đằng vừa bận rộn quản lý chi nhánh Ponysoft vừa phải hoàn thành tốt công việc ở Nhuận Tấn, nhưng dường như ông đã dần nghiêng sang mạng Huệ Đa, bởi nơi đó ngày càng tập trung nhiều nhân tài trong lĩnh vực Internet. Ông có thể học hỏi từ những người giỏi rất nhiều thông tin mang tính tiên phong.
Kiên nhẫn đợi chờ, dũng cảm hành động là những tính cách giúp Mã Hóa Đằng thành công, cũng là điều mà ít người có được. Mã Hóa Đằng biết lúc nào cần hành động, lúc nào cần phải dừng lại. Đó là vì ông “biết mình, biết ta”, đồng thời, có khả năng đánh giá chính xác thời cuộc nên rất hiếm khi đưa ra quyết định sai lầm.
Trong một lần trả lời phỏng vấn của tờ “Họa báo Bến Thượng Hải”, Mã Hóa Đằng từng chia sẻ rằng trên thị trường tài chính, ông là một doanh nhân, còn trong lĩnh vực công nghệ, ông là một kỹ sư. Nếu so sánh hai nhiệm vụ, ông thích vai trò của một kỹ sư hơn. Ông luôn mang trong mình một niềm đam mê bất tận đối với lập trình. Nghe nói, khi sản phẩm của Tencent ngày một nhiều lên, thỉnh thoảng Mã Hóa Đằng vẫn tham gia với vai trò của một “nhà kiểm định hàng đầu”, ông không chỉ đích thân dùng thử các sản phẩm của công ty, mà còn dùng thử sản phẩm do các công ty khác khai thác. Mã Hóa Đằng từng tuyên bố một cách đầy tự hào rằng ông đã sử dụng hết các phần mềm tin nhắn trực tuyến.
Khi đang lướt trên “làn sóng Internet”, Mã Hóa Đằng tình cờ tiếp xúc với một phần mềm tin nhắn mang tên “ICQ” và lập tức bị nó
cuốn hút. Cuộc sống của ông có bước chuyển mình cực kỳ quan trọng từ đó.
“IM” LÀ MỘT ĐIỀU TUYỆT VỜI
IM là gì? IM là viết tắt của Instant Messaging và dịch sang tiếng Việt có nghĩa là “tin nhắn nhanh, tin nhắn trực tuyến hoặc tin nhắn tức thời”. Nhìn từ góc độ công nghệ, IM là một bước tiến vượt trội mang tính cách mạng. IM vừa mang tính tức thời như điện thoại, vừa mang tính đồng thời như thư điện tử nên được coi như “loại hình tiếp xúc thứ ba” trong giao tiếp giữa người với người, nhưng nó lại ưu việt hơn hẳn so với hai loại kia.
Nhìn chung, các phần mềm tin nhắn trực tuyến đang thịnh hành đều có nhiều chức năng và nguồn nội dung vô cùng phong phú. Không dừng lại ở tính năng cơ bản là trao đổi, trò chuyện trên mạng, phần mềm IM không ngừng được cập nhật và hoàn thiện, tiến tới tích hợp các tính năng “nâng cao” như tin nhắn thoại, thư điện tử, hội nghị trực tuyến… và đã trở thành một “nồi lẩu” thực sự. Tuy nhiên,“nồi lẩu” này không quá phức tạp, người dùng chỉ mất một thời gian ngắn tìm hiểu là có thể dễ dàng sử dụng.
“Ông tổ” của IM là ba thanh niên người Israel. Ban đầu, họ chỉ dự định phát triển một loại công cụ có thể giúp nói chuyện với nhau một cách thoải mái và thuận tiện. Nhưng chính trí thông minh của người Do Thái đã đem lại những điều khác biệt cho phần mềm này. Họ đã biến một phần mềm nhỏ thành một công cụ thông tin mạng có thể liên lạc với nhiều người cùng một lúc.
Khi đó, ba thanh niên người Do Thái đặt tên cho phần mềm mà họ vô cùng tự hào là “I seek you”, có nghĩa là “Tôi đang tìm bạn”. Để phát âm thuận miệng hơn, họ gọi tắt là “ICQ”. Chương trình ICQ ngày càng được lập trình hoàn thiện, ba chàng trai đã thành lập một công ty mang tên “Marabilis”, chính thức đưa dịch vụ ICQ đến với mọi người. Giá trị thương mại cũng như tiềm năng
phát triển to lớn của ICQ đã thu hút sự quan tâm của rất nhiều người. Cuối cùng, ba chàng thanh niên đã bán lại ICQ cho một trong những công ty mạng lớn nhất toàn cầu là American Online (viết tắt là AOL) với giá 287 triệu đô la Mỹ.
Sau khi ra mắt thị trường, ICQ đã nhanh chóng nhận được sự yêu mến của hầu hết cư dân mạng và trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống Internet hằng ngày.
ICQ đã cho thấy sức mạnh to lớn của nó khi chinh phục đông đảo người dùng mạng trên toàn cầu chỉ trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, một điều đáng tiếc và có phần khó lý giải là, một “báu vật” mạng Internet như ICQ lại không thể phát triển ở Trung Quốc, thậm chí còn có xu hướng “chết yểu”. Trong thời đại cạnh tranh khốc liệt của mạng Internet, ai nắm bắt được thời cơ trước thì người đó chiếm được ưu thế lớn hơn, nhưng ICQ đã đánh mất cơ hội tốt nhất để thực hiện cuộc “tấn công chiến lược” vào Trung Quốc, do ba nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, ICQ thua bởi quan điểm kinh doanh.
ICQ không hề ý thức được rằng sự ra đời của mình đại diện cho một cuộc cách mạng công nghệ trong lĩnh vực thông tin hiện đại nên không xác định rõ thị trường khai thác là toàn bộ thế giới, mà lại cho ra đời phiên bản tiếng Anh chỉ mang tính tượng trưng và thăm dò trên phạm vi toàn cầu. Đáng tiếc hơn nữa là, sau khi tất cả số liệu hiển thị đầy đủ việc ICQ được đông đảo người dùng đón nhận thì những nhà lãnh đạo vẫn không tiến hành điều chỉnh chiến lược kinh doanh kịp thời, để rồi buộc phải chấp nhận sự thật: một khi để thời cơ vuột khỏi tay, ắt sẽ bị người đi sau phản công.
Thứ hai, ICQ thua bởi môi trường sử dụng.
IM là gì? Đó chính là một công cụ giao tiếp mạng có khả năng vượt qua mọi cản trở của không gian cũng như các hạn chế khác. Xét từ tiêu chí này, các yếu tố như khả năng dung nạp của
y y g g ạp
phần mềm cũng như thói quen của người sử dụng đều cho thấy rằng ICQ khó có thể “cấy ghép” và “chiết cành” ở nước ngoài trên phạm vi lớn, nhất là khi không áp dụng biện pháp tích cực thì chướng ngại trong trao đổi giữa người dùng ICQ và người không dùng ICQ khó bị phá bỏ. Đương nhiên, đây cũng là yếu tố khách quan khó cải thiện. ICQ phải vượt qua hạn chế rất lớn để có thể mở rộng phạm vi và phát triển bề sâu. Mặc dù Công ty American Online từng tiến hành ghép và thay đổi hai phần mềm trò chuyện là AIM và ICQ để cho ra đời phiên bản ICQ Lite với các chức năng đơn giản hơn, nhưng vẫn không thể phổ biến rộng rãi ở Trung Quốc đại lục. Kết quả vẫn là thất bại.
Thứ ba, ICQ thua bởi trở ngại ngôn ngữ.
ICQ mang nhược điểm chí mạng mà các phần mềm tin nhắn trực tuyến của nước bản địa không gặp phải, đó chính là ngôn ngữ. Kể từ khi ICQ ra đời, ngoài phiên bản tiếng Anh, gần như không còn phiên bản ngôn ngữ nào khác, điều này gây trở ngại rất lớn đối với người sử dụng không thuộc các nước nói tiếng Anh. Vì vậy, ở Trung Quốc, ngoài một số người thông thạo tiếng Anh có thể sử dụng ra, những người có nhu cầu liên lạc qua mạng internet khác đều tuyệt đối nghiêng về phần mềm tin nhắn trực tuyến bản địa, nơi không có bất kỳ trở ngại ngôn ngữ nào.
Mặc dù ICQ không thể đi xa hơn trong không gian Internet Trung Quốc rộng lớn, nhưng không thể phủ nhận nó đã mở ra thời đại tin nhắn trực tuyến, khiến mọi người ý thức được rằng: Chỉ cần một đường truyền mạng là có thể kết nối với những người ở cách xa cả trăm nghìn cây số.
Nhắc đến ICQ với Trung Quốc, có lẽ người được hưởng lợi lớn nhất chính là Mã Hóa Đằng.
Là người yêu công nghệ, có kinh nghiệm làm việc lâu năm và còn là cư dân mạng đời đầu, Mã Hóa Đằng được tiếp xúc với ICQ
từ rất sớm rồi nhanh chóng bị thu hút. Ông thường xuyên trò chuyện với bạn bè trên mạng thông qua ICQ, phương thức trò chuyện kỳ diệu của thời đại Internet.
Tuy vậy, sau một thời gian sử dụng ICQ, Mã Hóa Đằng bỗng nhận thấy: Với số dân lên đến hàng tỷ người, Trung Quốc là thị trường rộng lớn có nhu cầu cao đối với phần mềm IM. Người Do Thái có thể phát minh ra phần mềm nhắn tin trực tuyến, tại sao người Trung Quốc lại không thể sở hữu phần mềm IM của riêng mình?
Tuy nhiên, Mã Hóa Đằng không chỉ suy nghĩ đến việc khai thác một công cụ thông tin trực tuyến, mà còn ôm hoài bão phát triển phần mềm đó lớn mạnh. Những công việc mà một “trưởng chi nhánh đại diện” đảm nhận chưa thể thỏa mãn “khát khao công nghệ” của Mã Hóa Đằng, ông muốn đầu tư nhiều thời gian và sức lực hơn để tìm được “ngọn núi” có thể yên tâm “gửi gắm” tiền đồ trong thời đại cạnh tranh khốc liệt. Con đường lập nghiệp của ông dần hình thành từ đó.
VẬN HẾT TRÍ LỰC LÀM CÁCH MẠNG
Khi trả lời phỏng vấn của của báo “Doanh nhân Trung Quốc” vào tháng 4 năm 2010, Mã Hóa Đằng đã nói: “Ngay lúc đó, tôi đã bắt đầu suy nghĩ, mạng Internet có thể mang đến những gì? Vì công việc đang làm liên quan đến máy nhắn tin nên ý tưởng đầu tiên nảy ra chính là khái niệm tin nhắn mạng. Tôi vốn nghĩ rằng liên lạc qua mạng Internet, kết nối hệ thống nội bộ có thể mang đến một màu sắc mới của công nghệ cao cho ngành máy nhắn tin, giúp trì hoãn quá trình tuột dốc của ngành, đồng thời, giải tỏa áp lực cực lớn mà công ty tôi nói riêng và cả ngành máy nhắn tin đang gặp phải. Nhưng ngay khi điện thoại di động vừa ra đời, tin nhắn vừa trở nên phổ cập, tôi đã biết rằng ‘cuộc đời’ máy nhắn tin đã đến buổi ‘hoàng hôn’.”
Thực tế lúc đó, không chỉ Công ty Nhuận Tấn mà toàn bộ ngành máy nhắn tin đều không nhận ra viễn cảnh u tối sắp ập đến, khung cảnh thịnh vượng nhất thời dường như đã khiến tất cả bị “mù” tập thể, từ đó mất đi ý thức cảnh giác và tầm nhìn chiến lược cần thiết. Để rồi đến năm 2000, khi bước ngoặt thị trường ập đến, các công ty máy nhắn tin đều rơi vào trạng thái hỗn loạn và dần đi đến hồi kết vào năm 2001. Bước sang năm 2002, tất cả dây chuyền ngừng hoạt động. Công ty Nhuận Tấn một thời huy hoàng đành phải nhượng lại số ít khách hàng còn lại cho Tập đoàn Viễn thông Liên hợp Trung Quốc (China Unicom) với giá 0 đồng.
Ngoài sự suy yếu của ngành máy nhắn tin, sự kiện Đinh Lỗi bán lại hòm thư miễn phí Netease do ông viết trong bảy tháng cho trang mạng Phi Hoa của Quảng Châu với giá 1,19 triệu tệ cũng ảnh hưởng đến quyết sách tương lai của Mã Hóa Đằng. Mã Hóa Đằng nhạy bén nhận ra, Internet thật sự là một “kho vàng” đang chờ người đủ bản lĩnh đến khai thác, tuy nhiên, chỉ một phút lơ là, cơ hội sẽ vuột mất ngay lập tức. Ông không thể ngồi chờ thêm nữa!
Khi ấy, ý tưởng lập nghiệp của Mã Hóa Đằng rất giản đơn, đó là không ngừng tìm kiếm để mở ra một con đường mới trên mạng Internet nhằm nâng cao giá trị bản thân.
Trong giới IT từng xuất hiện một tin đồn: Khi còn làm việc tại Nhuận Tấn, Mã Hóa Đằng từng đưa ra đề nghị muốn khai thác một phần mềm tương tự như QQ, nhưng đề xuất mang tính tiên phong này lại không được giới lãnh đạo cấp cao chú ý, bởi họ chưa hình dung ra một phần mềm nhỏ như vậy sẽ phát triển như thế nào.
Sở dĩ giới lãnh đạo cấp cao của Nhuận Tấn phản ứng như vậy là vì lúc đó, họ vẫn chưa nhận thức được tầm quan trọng của thông tin khách hàng mà chỉ quan tâm tới việc nâng cao lợi nhuận. Trên thực tế, những khách hàng trung thành kia mới
chính là nguồn tài nguyên và tài sản quan trọng nhất của doanh nghiệp. Có lẽ từ đây, Mã Hóa Đằng nhận ra mình và Nhuận Tấn không cùng chí hướng nên mới quyết định tách ra lập nghiệp.
Tháng 10 năm 1998, Mã Hóa Đằng chính thức đệ đơn xin thôi việc.
Cũng chính năm ấy, Trung Quốc bước vào thời kỳ mạng Internet phát triển với tốc độ cao. Trương Triều Dương thành lập Công ty Sogou, Chu Hồng Y thành lập hãng phần mềm 3721. Đó đều là các sự kiện khiến những tài năng IT đang hoạt động sôi nổi cảm thấy hưng phấn. Họ liên tiếp đầu tư thành lập các công ty mạng, chuẩn bị vươn mình, sải cánh trên một chiến trường hoàn toàn mới.
Đương nhiên, Mã Hóa Đằng không nằm ngoài số đó. Mặc dù chưa hình thành một tư duy rõ ràng và cụ thể về sự nghiệp tương lai nhưng phương hướng chính thì đã được xác định, là tin nhắn và mạng Internet. Sở dĩ Mã Hóa Đằng nhắm đến hai mục tiêu này là vì ông nhận thấy rõ lợi thế của mình. Kinh nghiệm thực tế sau năm năm vừa làm nghề vừa là cư dân mạng sẽ giúp ông tiến bước thuận lợi và dễ dàng thu được thành công với hai hướng đi trên.
Nhưng lập nghiệp một mình có những khó khăn nhất định, để chắc chắn thành công, ông cần tìm kiếm những người bạn đồng hành cùng chí hướng trên con đường phía trước.
Người chiến hữu đầu tiên là Trương Chí Đông, bạn cùng học chuyên ngành máy tính với Mã Hóa Đằng ở Đại học Thâm Quyến. Sau khi tốt nghiệp đại học, Trương Chí Đông học tiếp lên thạc sỹ tại Đại học Khoa học Tự nhiên Hoa Nam. Sau khi nhận bằng thạc sỹ, Trương Chí Đông quay lại Thâm Quyến và làm việc tại công ty máy tính Lê Minh khá nổi tiếng lúc bấy giờ. Công việc chính của ông là lập trình phần mềm giao dịch chứng khoán cho hai thành phố Thâm Quyến và Thượng Hải.
Trương Chí Đông cũng là một nhân tài công nghệ. Khi còn học đại học, Trương Chí Đông và Mã Hóa Đằng đều là những sinh viên giỏi nhất khoa, thậm chí Trương Chí Đông còn là “đỉnh của đỉnh”. Nếu thời đấy mà có nhóm Những người “phát sốt” vì máy tính của Thâm Quyến thì hẳn là ông không đứng Nhất thì cũng đứng Nhì.
Một tháng sau khi Mã Hóa Đằng và Trương Chí Đông cùng sáng lập Tencent, người đồng hành thứ ba xuất hiện, chính là Tăng Lý Thanh.
Tăng Lý Thanh học cử nhân ở Đại học Khoa học Công nghệ Điện tử Tây An. Chuyên ngành của ông là thông tin nên sau khi tốt nghiệp, theo phân công, ông đến làm việc tại Công ty Truyền thông Thâm Quyến. Con đường ông đi tương đối bằng phẳng và êm đềm. Ông cũng thường xuyên tham gia những hoạt động của Hiệp hội Máy tính Thâm Quyến. Do con gái của hội trưởng Hiệp hội lại là bạn học của Mã Hóa Đằng và Trương Chí Đông nên hai người thường xuyên được mời tới dự, và nhờ đó, đã gặp gỡ Tăng Lý Thanh.
Tăng Lý Thanh có trong mình sự quyết đoán và lòng dũng cảm của người đi “mở núi”. Chính ông đã thúc đẩy xây dựng mạng LAN tốc độ cao đầu tiên ở Thâm Quyến, cũng là đầu tiên ở Trung Quốc. Dự án tích hợp hệ thống này suýt chút nữa thì phải dừng lại giữa chừng, nhưng Tăng Lý Thanh đã hoàn thành nó với nỗ lực không ngừng nghỉ, giống như cách ông khai phá thị trường tương lai. Trong những năm chín mươi của thế kỷ hai mươi, thành quả và chí khí ấy quả khiến người khác phải “ngước nhìn” và “ngả mũ thán phục”.
Ngoài ba nhân vật trên, hai người sáng lập khác của Tencent là Hứa Thần Diệp và Trần Nhất Đan.
Hứa Thần Diệp học cùng Khoa Máy tính tại Đại học Thâm Quyến với Mã Hóa Đằng và Trương Chí Đông. Sau khi tốt nghiệp
đại học, ông theo học thạc sỹ chuyên ngành Máy tính Ứng dụng tại Đại học Nam Kinh rồi nhận công tác tại Sở Số liệu Điện tín Thâm Quyến và trở thành đồng nghiệp với Tăng Lý Thanh. Với tính cách ôn hòa, ông được coi là “ông tốt” nổi tiếng. Còn Trần Nhất Đan tên thật là Trần Nhất Châu, là bạn thời trung học ở Thâm Quyến của Mã Hóa Đằng. Sau này, ông cũng thi đỗ vào Đại học Thâm Quyến nhưng lại theo học chuyên ngành hóa học. Do trùng tên với Trần Nhất Châu, người sáng lập, CEO nổi tiếng của trang mạng xã hội ChinaRen nên ông quyết định đổi tên thành Trần Nhất Đan1. Có chứng chỉ hành nghề luật sư trong tay, Trần Nhất Đan luôn giữ tác phong làm việc cẩn thận, chặt chẽ và trong mọi hoàn cảnh, luôn khơi dậy được tính tích cực của mọi người.
1. Trong tiếng Hán, chữ Đan và chữ Châu có cách viết gần giống nhau.
Bốn chiến hữu tề tựu đông đủ, họ trở thành những cánh tay phụ trợ đắc lực của Mã Hóa Đằng trên con đường lập nghiệp và đích đến cho chặng đường tiếp theo không gì khác, chính là thực hiện kế hoạch lớn!
Chương 2
LẬP NGHIỆP KHÔNG PHẢI LÀ CHƠI MẠT CHƯỢC
ĐẦU ĐỘI TRẮC TRỞ, MẮT NHÌN THẲNG VỀ PHÍA TRƯỚC
Tháng 11 năm 1998, Mã Hóa Đằng và Trương Chí Đông “góp vốn” đăng ký thành lập Công ty TNHH Hệ thống Máy tính Tencent (tên tiếng Hán là “Đằng Tấn”), Thâm Quyến.
Tại sao tên công ty là “Đằng Tấn”? Một mặt là vì tên của Mã Hóa Đằng có chữ “đằng,” mặt khác,“đằng” cũng có nghĩa là phát triển nhanh như bay. Còn chữ “tấn” phần nhiều là vì ảnh hưởng của công ty cũ, Nhuận Tấn, đối với Mã Hóa Đằng.
Không lâu sau khi Mã Hóa Đằng và Trương Chí Đông bắt tay thành lập Tencent, ba người còn lại là Tăng Lý Thanh, Hứa Thần Diệp, Trần Nhất Đan chính thức gia nhập công ty. Mã tài khoản QQ của năm người sáng lập Tencent là từ 10001 đến 10005.
Ngay từ giai đoạn đầu khi Tencent mới thành lập, Mã Hóa Đằng và bốn người bạn đã phân rõ “phạm vi quyền lực”: Mã Hóa Đằng là CEO (tổng giám đốc điều hành), Trương Chí Đông là CTO (giám đốc công nghệ), Hứa Thần Diệp là CIO (giám đốc thông tin), Trần Nhất Đan là CAO (giám đốc hành chính), Tăng Lý Thanh là COO (giám đốc điều hành).
Tỷ lệ cổ phần của năm thành viên sáng lập là: Mã Hóa Đằng góp 23,75 vạn tệ, chiếm 47,5% cổ phần; Trương Chí Đông góp 10
vạn tệ, chiếm 20% cổ phần; Tăng Lý Thanh góp 6,25 vạn tệ, chiếm 12,5% cổ phần; Trần Nhất Đan và Hứa Thần Diệp mỗi người góp 5 vạn tệ, chiếm 10% cổ phần.
Mặc dù trong số năm thành viên sáng lập, Mã Hóa Đằng góp vốn nhiều nhất, nhưng ông đã yêu cầu giảm tỷ lệ cổ phần nắm giữ trong tay xuống dưới 1/2 nên mới có con số 47,5%. Mã Hóa Đằng đã giải thích về việc này như sau: “Tổng tỷ lệ cổ phần của họ phải nhiều hơn tôi một chút, tránh hình thành cục diện lũng đoạn, độc tài.” Ngoài ra, Mã Hóa Đằng đóng góp số vốn chủ yếu, nắm giữ phần lớn cổ phần, bởi vì ông không muốn quyền sở hữu cổ phiếu bị phân tán rải rác, dẫn đến tình trạng không ai có thể đưa ra quyết định khi đứng trước vấn đề quan trọng.
Thời gian đầu khi Tencent mới thành lập, Mã Hóa Đằng và những người bạn cùng lập nghiệp của mình đã phải bước từng bước rất vất vả, gian nan, lúc thì mơ hồ, lúc lại mệt mỏi: Mơ hồ do bởi họ chưa nhìn rõ đường đi trong tương lai, mệt mỏi là vì những tháng ngày lập nghiệp đầu tiên thật sự khiến con người ta dễ nản lòng.
Năm 2008, tức là mười năm sau khi thành lập, chính công ty nhỏ bé không đáng nhắc tới thời điểm ban đầu đó đã công bố với thế giới những số liệu “khủng bố”: Tổng số người dùng QQ đã lên tới 856,2 triệu, trong đó, lượng người dùng thường xuyên là 355,1 triệu, kỷ lục số người dùng trực tuyến nhiều nhất lên tới 45,3 triệu; số lượng người dùng trả phí thuê bao hàng tháng cho các dịch vụ giá trị gia tăng mạng Internet là 30,3 triệu, số lượng người dùng trả phí thuê bao hàng tháng cho các dịch vụ gia tăng thông tin di động là 14,8 triệu; doanh thu quý III của Tencent đạt 2,245 tỷ Nhân dân tệ, vượt hơn 500 triệu Nhân dân tệ so với doanh thu cùng kỳ của Alibaba và Baidu cộng lại, trong khi Alibaba và Baidu lần lượt là công ty mạng lớn thứ hai và thứ ba của Trung Quốc.
Vốn khởi nghiệp của Tencent là 500 nghìn Nhân dân tệ. Thời đó, số tiền ấy không phải là một con số nhỏ. Nhưng đối với doanh nghiệp mạng Internet, nếu không tìm được nhà đầu tư có nguồn lực dồi dào, không tìm ra điểm thu lợi thì số vốn khởi nghiệp dù lớn đến đâu cũng sẽ có ngày hết sạch.
Vậy rốt cuộc Tencent phải kinh doanh lĩnh vực gì?
Khi đó, Mã Hóa Đằng chưa có được khí phách ngang tàng như sau này. Ông cũng chỉ muốn kết hợp mạng Internet với máy nhắn tin một cách chặt chẽ nhằm tạo ra một hệ thống nhắn tin qua mạng không dây. Vì thế, công việc chính lúc mới bắt đầu của Tencent là thực hiện dự án cho Công ty Điện tín Telecom Thâm Quyến, Liên thông Unicom Thâm Quyến và một vài trạm tin nhắn. Còn việc khai thác phần mềm IM mà Mã Hóa Đằng hứng thú nhất chỉ là sản phẩm phụ.
Tại sao lại là sản phẩm phụ?
Nguyên nhân khiến kiến nghị của Mã Hóa Đằng bị hội đồng cấp cao phủ quyết cũng chính là đáp án: Mọi người chưa nhìn thấy lợi nhuận có thể thu về từ phần mềm tin nhắn trực tuyến. Mặt khác, Mã Hóa Đằng biết rõ đó là một sản phẩm mới có tiềm năng phát triển nhưng nếu ngay lập tức đầu tư, nghiên cứu, khai thác thì với một Tencent vừa bắt đầu hành trình khởi nghiệp lại có phần quá sức, nên đành phải tạm thời gác qua một bên.
Lúc mới đầu, Mã Hóa Đằng và những người bạn của ông chưa hiểu lắm về thị trường kinh doanh, không biết phải đưa sản phẩm vào thị trường thế nào cho hiệu quả. Họ đem sản phẩm đi giới thiệu với các nhà cung cấp dịch vụ nhưng thường xuyên bị từ chối.
Tuy thế, muôn vàn bất lợi ở thời điểm khai phá thị trường đã không thể hạ gục năm nhà sáng lập Tencent, mà ngược lại, mỗi lần thất bại, họ lại tích cực động viên nhau: Ắt sẽ có người chịu đón nhận sản phẩm sau nhiều lần dùng thử.
ậ p g
Rạng sáng ngày 11 tháng 2 năm 1999, cuối cùng Tencent đã cho ra đời phần mềm ICQ tiếng Trung Quốc. OICQ chính thức có mặt trên mạng, trở thành sản phẩm then chốt đánh dấu sự chuyển mình của Tencent từ tối tăm sang huy hoàng.
Phần mềm OICQ có nhiều điểm khác biệt so với QQ ngày nay. Nói một cách chính xác, nó chỉ là một phần mềm ICQ phiên bản tiếng Trung Quốc, không có thêm bất kỳ dấu ấn sáng tạo nào. Cũng chính vì thế nên sau này, rất nhiều người đã “đội” cho Tencent chiếc mũ “sao chép, đạo nhái”.
OICQ ra đời, việc tiếp theo của Mã Hóa Đằng là làm thế nào để thu lợi từ phần mềm này. Họ bắt đầu kiếm tìm những người có nhu cầu sử dụng. Thời đó, một số bưu điện và ngân hàng ở Trung Quốc thường bỏ ra một, hai chục triệu để triển khai dự án, đây quả là thời cơ kinh doanh tuyệt vời đối với doanh nghiệp mạng Internet như Tencent. Mã Hóa Đằng và những người bạn tích cực liên hệ với những đơn vị này, giới thiệu với họ phần mềm OICQ và ra mức giá là hơn 300 nghìn Nhân dân tệ.
Trong lần dự thầu đó, Mã Hóa Đằng không thành công, Tencent phải chịu thua trước Công ty Hoa Phi có hậu thuẫn là Công ty Điện tín Quảng Châu.
Dĩ nhiên, Tencent đấu thầu thất bại không phải là một chuyện hay, nhưng bây giờ nhìn lại mới thấy, đó lại là một chuyện tốt. Bởi nếu Tencent dự thầu thành công, quyền tác giả đối với OICQ sẽ rơi vào tay người khác, không còn liên quan đến Mã Hóa Đằng nữa.
Mã Hóa Đằng luôn cho rằng tất cả khó khăn và áp lực đều mang tính tạm thời, chỉ cần kiên trì làm tốt việc trước mắt, thời cơ và vận may sớm muộn cũng sẽ tới.
“CÁNH CỤT HOÀNG ĐẾ” ĐƯỢC RA ĐỜI NHƯ THẾ NÀO?
Thời đại của OICQ đã đến.
Trong lúc mô phỏng theo ICQ, Mã Hóa Đằng và những người đồng nghiệp đã phát hiện ra một số khuyết điểm của sản phẩm này. Ví dụ, ICQ chỉ lưu trữ thông tin của người dùng trên một máy tính, nếu đăng nhập ở thiết bị khác, danh sách bạn bè trước đó đều biến mất. Ngoài ra, ICQ chỉ cho phép người dùng nói chuyện với bạn bè đang online. Hơn nữa, chức năng tìm kiếm bạn bè lại rất yếu, phải căn cứ thông tin do người dùng cung cấp. Do vậy, còn rất nhiều “không gian” có thể khai thác để gia tăng trải nghiệm cho người dùng.
Thật ra, nếu những điểm hạn chế tưởng như nhỏ bé này được cải thiện thì sản phẩm sẽ có ưu thế cực lớn khi đưa vào thị trường sử dụng mạng ở Trung Quốc. Bởi khi đó, rất nhiều người dùng mạng Trung Quốc lên mạng ở quán net, đương nhiên, họ hy vọng thông tin trên OICQ được lưu trữ trên máy chủ chứ không phải trên máy khách. Chính vì thế, sau khi nhận ra những lỗ hổng và thiếu sót của ICQ, Mã Hóa Đằng liền bắt tay cải tiến. Không lâu sau, ông viết ra một chương trình có máy chủ lưu trữ thông tin, dù người dùng có thay đổi máy tính thì khi đăng nhập, OICQ vẫn bảo toàn danh sách bạn bè trước đó. Đồng thời, Mã Hóa Đằng căn cứ vào nhu cầu của người dùng, tiến hành tích hợp một cách tự nhiên các tính năng trước và sau khi lên mạng, để người dùng có những trải nghiệm vui vẻ nhất khi sử dụng sản phẩm. Ví dụ, người dùng có thể để lại tin nhắn cho người bạn đang offline, đối phương chỉ cần lên mạng là sẽ nhìn thấy lời nhắn; người dùng cũng có thể dựa vào danh sách bạn bè đang online để lựa chọn đối tượng nói chuyện. Ngoài ra, OICQ còn có một đặc điểm nổi bật nữa là cho phép người dùng tùy chọn ảnh đại diện. Mấy năm sau, MSN mới đưa ra tính năng tương tự, từ đó có thể thấy việc cải tiến ICQ của Mã Hóa Đằng có giá trị lớn đến nhường nào.
Làm thế nào để nhiều người dùng tiềm năng hiểu hơn về OICQ và sử dụng nó? Chỉ có một cách là tuyên truyền.
ụ g ộ y y
Mã Hóa Đằng hiểu rất rõ, thương mại thời hiện đại cần có những chiến lược khác biệt, trong đó, biện pháp chủ yếu là tuyên truyền. Xem xét một lượt các trang mạng lớn của Trung Quốc được nhận đầu tư từ nước ngoài, không trường hợp nào không sử dụng phương thức quảng cáo với độ phủ sóng rộng khắp.
Công ty Tencent lúc đó chưa nhận được bất kỳ khoản vốn mạo hiểm nào. Nghĩ đi nghĩ lại, Mã Hóa Đằng chỉ còn cách tìm đường đi mới. Rất nhanh, ông dồn tâm huyết vào việc quảng cáo, giới thiệu BBS. Nghĩ là làm, ông tìm tới diễn đàn BBS của các trường đại học và ra sức đăng bài.
Không thể phủ nhận, việc làm này của Mã Hóa Đằng rất hiệu quả, đồng thời cũng thể hiện đầu óc nhạy bén của ông. Mạng Internet của Trung Quốc xuất hiện tương đối muộn, phần lớn đối tượng có thể tiếp xúc và sử dụng thành thạo là thanh niên. Sinh viên đại học lại là đội quân chủ lực trong khối thanh niên, rất hứng thú với mạng Internet, thích lên mạng và cũng hiểu về mạng. Vì thế, sau khi Mã Hóa Đằng xác định mục tiêu: đây là nhóm người dùng “mũi nhọn”, OICQ đã nhanh chóng “bị” những “đứa con cưng” này chiếm lĩnh.
Một vùng đất khác mà Mã Hóa Đằng nhắm đến là các quán net. Lúc đó, máy tính gia đình còn rất hiếm, mọi người chủ yếu lên mạng ở quán net. Máy tính của các quán net luôn có các phần mềm giải trí được cài đặt sẵn, loại “phần mềm cố định” này trở thành một trong những con đường quảng cáo tốt nhất cho OICQ.
Không lâu sau, Mã Hóa Đằng tiến tới “thời đại chim cánh cụt” của mình: Tháng 11 năm 1999, tổng số người dùng OICQ tăng vọt lên con số 1 triệu, tháng 4 năm 2000 đạt 5 triệu người dùng.
Ngày 9 tháng 5 năm 2001, số lượng người dùng ICQ của Công ty America Online cán mốc 100 triệu. Thành tích này giúp AOL xóa bỏ nghi ngờ đối với tin nhắn trực tuyến và cũng nhận thấy
việc Mỹ bỏ ra 287 triệu đô la để mua lại ICQ vào năm 1998 là một quyết sách đầu tư sáng suốt. Tuy nhiên, đến cuối năm 2001, số lượng người dùng OICQ, một sản phẩm nội địa Trung Quốc, đã vượt mốc 90 triệu! Điều khiến người ta ngạc nhiên hơn nữa là số lượng người dùng OICQ mỗi ngày tăng thêm khoảng 390 nghìn người, tốc độ này cho thấy việc OICQ vươn lên sánh ngang với ICQ và thậm chí vượt qua ICQ chỉ còn là thời gian.
OICQ chỉ mất ba năm để tăng từ con số 0 lên tới 90 triệu. Nhìn bề ngoài, sự phát triển của Tencent dường như chẳng tốn mấy công sức, nhưng trên thực tế, những khó khăn và thử thách mà Mã Hóa Đằng và đồng đội của mình trải qua trong thời gian này không đơn giản. Khi OICQ nhanh chóng trở nên nổi tiếng, ICQ cuối cùng cũng phát hiện ra “người anh em sinh đôi” đang âm thầm lớn mạnh của mình và nghi ngờ về nguồn gốc cũng như tính hợp pháp của nó. Vì thế, một vụ kiện về bản quyền sáng chế kỹ thuật là khó tránh khỏi.
OICQ nổi tiếng, ICQ ắt sẽ lo sợ.
Từ tháng 8 đến tháng 9 năm 1999, Tencent nhận được hai lá thư về vấn đề pháp lý từ AOL. Trong thư chỉ rõ, ICQ là sản phẩm do họ giữ bản quyền sáng chế, trong khi hai tên miền là oicq.com mà Tencent đăng ký ngày 26 tháng 1 năm 1999 và oicq.net đăng ký ngày 7 tháng 11 năm 1998 đều có chứa cái tên “ICQ”. Với lý do đây là hành vi vi phạm bản quyền, AOL yêu cầu Tencent phải chuyển nhượng miễn phí hai tên miền oicq.com và oicq.net cho họ.
Đứng trước “tối hậu thư” này, Mã Hóa Đằng không đưa ra phản hồi rõ ràng, trong khi AOL quyết định hành động thực tế. Ngày 3 tháng 3 năm 2000, họ chính thức nộp đơn kiện lên Tòa Trọng tài Mỹ (NAF) của bang Minnesota, đồng thời gửi chi tiết vụ tranh chấp đến Tencent.
Trong bức thư mới, AOL còn nhấn mạnh, họ từng thực hiện một vụ kiện có liên quan đến “smsicq” và đã giành chiến thắng với dụng ý ám chỉ rằng tòa án sẽ tham khảo vụ việc đó, Tencent chắc chắn sẽ thua trong lần tranh chấp này.
Mặc dù AOL chiếm không ít ưu thế về vấn đề tên miền, nhưng Tencent vẫn tiến hành biện hộ cho OICQ. Họ chỉ ra rằng OICQ không được đăng ký trong lãnh thổ nước Mỹ, thậm chí cũng không đăng ký trong lãnh thổ Trung Quốc, nên về cơ bản không liên quan gì với ICQ.
Trong cuộc “hùng biện”, hai bên đều giương cung rút kiếm, không ai chịu nhường ai. AOL chỉ rõ, Tencent từng dùng số 0 thay thế chữ cái o để đăng ký 0icq, việc làm này thể hiện thái độ ác ý. Tencent cũng không chịu lùi bước, lên tiếng chỉ trích AOL đã có ý đồ xấu khi đăng ký tên miền oicq.org chỉ một tháng trước khi chính thức bắt đầu quy trình tố tụng, đây rõ ràng là một chiêu hiểm độc hòng đạt được mục đích.
Ngày 21 tháng 3 năm 2000, một trọng tài tên là James đã ký vào bản phán quyết: Tencent phải trả lại hai tên miền là oicq. com và oicq.net cho AOL.
Vào năm 2000, bỗng nhiên xảy ra sự việc là nhiều người dùng cùng lúc bị rớt mạng khi truy cập trang www.oicq.com, một trong những tên miền mà Tencent từng sử dụng. Nhưng sự cố rớt mạng này không phải là trò chơi xấu của ai khác, mà là hành động của chính Tencent nhằm gây áp lực với AOL.
Tencent thua kiện, một số người trong giới không cảm thấy bất ngờ, bởi từ lâu đã có người cho rằng ICQ là thương hiệu được đăng ký bởi AOL, vì thế tất cả những phần mềm cùng loại có chữ ICQ trong tên gọi đều liên quan đến tội xâm phạm quyền sử dụng thương hiệu của AOL.
Tuy thua kiện nhưng độ nổi tiếng của OICQ không hề sụt giảm.
Ngày 25 tháng 3 năm 2001, khi phiên bản 0325 ra đời, chú chim cánh cụt nhỏ từ lâu được gọi bằng cái tên “OICQ2000” được đổi tên mới là “QQ2000”. Sau khi phần mềm cài đặt hoàn tất, phần thuyết minh bản quyền cũng đổi “OICQ2000” trước đây thành “QQ2000”, nút nhấn có chữ OICQ trên trình đơn chính ở góc trái, phía dưới của khung hình phần mềm cũng bị thay thế bởi “QQ2000”.
Tại sao OICQ bỗng nhiên biến thành QQ?
Thực ra, ngay từ trước khi AOL và Tencent xảy ra tranh chấp kiện tụng, rất nhiều người dùng đã cảm thấy tên gọi OICQ khó đọc nên thường đọc chệch là QQ. Sau đó, Tencent biết được chuyện này nên quyết định đổi OICQ thành QQ, như vậy, vừa tránh được tranh chấp bản quyền sáng chế, vừa phù hợp với thói quen đại chúng. Cái tên QQ càng phù hợp với quy tắc về tên gọi trên mạng Internet: đơn giản, dễ đọc và đáng yêu.
Trên thực tế, hành động kịp thời thay đổi tên gọi sang QQ của Mã Hóa Đằng mang tính chiến lược và rất sáng suốt. Nó tránh được va chạm sâu hơn về mặt pháp lý với ICQ. Điều khiến Mã Hóa Đằng hân hoan hơn nữa là phần lớn người dùng chấp nhận tên gọi mới, thậm chí xem như đây là một sự tiến bộ.
Sau khi tên gọi được thay đổi, hình ảnh đại diện của Tencent cũng thay đổi theo. Lúc đó, rất nhiều người dùng đã đưa ra phản hồi: mới đẹp hơn cũ.
Hình ảnh đại diện ban đầu của Tencent đều bắt nguồn từ những nhân vật hoạt hình đã rất quen thuộc như: chú vịt Donald, chú mèo Garfield, thủy thủ lực sỹ Popeye hay Xì-trum… Sau vụ kiện với AOL, Tencent càng coi trọng hơn vấn đề bản quyền nên đã thay đổi toàn bộ hình ảnh đại diện có khả năng vi phạm bản quyền này.
Phần mềm QQ mới ra đời dường như sở hữu một sức mạnh ngoan cường hơn, mang tính bản địa cao hơn, đem đến cho Mã
g g g ị
Hóa Đằng và Tencent một sức sống dồi dào, đồng thời, cũng mở ra con đường phát triển ngày một thênh thang cho Tencent.
MỘT XU CŨNG CÓ THỂ KHIẾN BẬC ANH HÙNG GỤC NGÃ
Cùng với quá trình phổ cập của QQ và phạm vi người dùng mở rộng, chú chim cánh cụt nhỏ bé trải qua gian nan đã trở thành một trong những phần mềm IM được cư dân mạng sử dụng nhiều nhất. Trong khi lượng người dùng ICQ ở Trung Quốc ngày một sụt giảm thì lượng người dùng QQ, phần mềm được hồi sinh sau trận “thập tử nhất sinh”, lại tăng lên từng ngày. Chú chim cánh cụt hoàng đế đáng yêu này đã thật sự trở thành một phần trong đời sống thường nhật của người dân.
Tuy nhiên, vấn đề cũng theo đó mà phát sinh. Khi Mã Hóa Đằng còn chưa tìm ra phương thức kiếm tiền, chú chim cánh cụt nhỏ dần biến thành “chiếc thùng không đáy” ăn không biết no. Nguyên nhân là do lượng người dùng không ngừng tăng lên, lượng máy chủ mà Tencent cần cũng tăng lên không ngừng, mỗi tháng đều phải trang bị thêm hai máy, chi phí mua máy chủ, chi phí cho công tác duy trì và quản lý hằng ngày không thể tiết kiệm.
Đối mặt với tình trạng thiếu vốn, Mã Hóa Đằng từng tìm cách hạn chế số lượng người dùng. Việc làm này chỉ là kế sách tạm thời, bởi nó đi ngược với chiến lược lâu dài là mở rộng phạm vi người dùng QQ.
Sau khi lên mạng không lâu, tài khoản của Tencent chỉ còn khoảng hơn mười nghìn Nhân dân tệ. Vì lợi ích của mười tám nhân viên công ty, Mã Hóa Đằng buộc phải đưa ra quyết định khó khăn là bán dịch vụ QQ. Mã Hóa Đằng bắt đầu đàm phán với một số công ty có ý muốn mua QQ.
Không phải Mã Hóa Đằng không muốn nuôi dưỡng chú chim cánh cụt này một cách tử tế mà do lực bất tòng tâm nên đành
tìm người “nhận nuôi” nó. Lúc đó, Mã Hóa Đằng đã tìm đến không ít ICP (công ty dịch vụ mạng), nhưng kết quả là tất cả đều yêu cầu mua đứt bán đoạn. Đây là việc Mã Hóa Đằng không thể chấp nhận, bởi ông còn muốn bán chú chim cánh cụt cho vài công ty nữa để thu lợi. Do vậy, ông lại bắt đầu suy nghĩ xem có thể “đóng gói” đem bán hay không. Ông đã tìm đến một số công ty để đàm phán bán QQ nhưng cuối cùng, đều không đạt kết quả như mong muốn vì vấn đề giá cả.
Sau đó, Cục Số liệu Điện tín Thâm Quyến tìm đến Mã Hóa Đằng. Đơn vị này đã kiểm tra tất cả máy tính cũng như bàn ghế của Tencent nhưng rồi lại chỉ trả giá hơn 600 nghìn Nhân dân tệ. Mức giá lý tưởng trong lòng Mã Hóa Đằng là 1 triệu Nhân dân tệ, nhưng ông cũng đành gật đầu. Khi đối tác bắt đầu chuyển đồ đạc, Mã Hóa Đằng bỗng nhiên hối hận, quyết định chấm dứt thương vụ.
Cũng có người nói, Mã Hóa Đằng khi đó đã tìm đến Ban trù bị đầu tư lâm thời Lenovo vừa thành lập, dự định bán QQ cho họ. Tuy vậy, báo cáo còn chưa kịp gửi lên các lãnh đạo cấp cao thì đã bị nhân viên cấp cơ sở của tập đoàn này gạt đi với lý do: họ không hiểu Tencent đang làm gì.
Do quá trình bán rẻ QQ gặp phải quá nhiều trắc trở, Mã Hóa Đằng dần vứt bỏ suy nghĩ bán QQ. Một lý do quan trọng hơn nữa là số lượng người dùng QQ vẫn tăng lên từng giờ từng phút. Quãng thời gian ông định bán QQ, số lượng người đăng ký QQ chỉ trong vài tháng đã tăng thêm mấy chục nghìn, ngày nào cũng có người dùng mới, còn người dùng cũ vẫn ở lại. Có lẽ chính những số liệu này đã khiến Mã Hóa Đằng ý thức được rằng bán rẻ QQ là một lựa chọn kém sáng suốt.
Chính giai đoạn này đã khiến Mã Hóa Đằng xúc động mà đúc rút ra một chân lý: “Muốn đào được vàng trên mạng Internet thì không thể chỉ nhìn lợi ích trước mắt. Rất nhiều nhân tài mạng
với tài năng vượt trội vì không chú ý điều này mà đánh mất cơ hội lâu dài.”
Chương 3
“SÓI NAM CỰC” TRONG THẾ GIỚI TƯ BẢN
CHO TÔI VAY TIỀN
Tháng 11 năm 1999, lượng người đăng ký QQ tăng lên con số một triệu. Đối với Mã Hóa Đằng, thông tin này vừa đáng mừng vừa đáng lo. Người dùng QQ ngày càng nhiều, áp lực tài chính mà công ty phải gánh vác cũng ngày một lớn. Đến nửa cuối năm 1999, Mã Hóa Đằng cùng đội ngũ sáng lập bàn bạc, quyết định bán ra một số cổ phần để huy động vốn.
Khi nhớ lại quãng thời gian này, Mã Hóa Đằng từng nói: “Năm 1998, khi mới thành lập Tencent, ngành mạng Internet ở Trung Quốc đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ phát triển bùng nổ. Khi đó, cư dân mạng mới có ba triệu người, không bằng số lẻ hiện nay. Môi trường lúc đó cũng không tốt như bây giờ, cơ hội nhận được vốn mạo hiểm cũng lộ diện nhưng cực kỳ ít.”
Mới đầu, Mã Hóa Đằng nghĩ tới biện pháp tìm ngân hàng góp vốn, dù gì họ cũng có tài lực dồi dào, thực lực hùng hậu, nhưng sau một vòng tìm kiếm, ông mới phát hiện, giữa mô hình doanh nghiệp truyền thống như ngân hàng với doanh nghiệp mới ra đời như dịch vụ mạng Internet vẫn tồn tại khoảng cách rất lớn. Ngân hàng gần như không hứng thú với số lượng người dùng đăng ký QQ, bởi trong mắt họ, điều này chẳng thể chứng minh một ngày nào đấy trong tương lai, chú chim cánh cụt nhỏ bé có thể kiếm được tiền thông qua những người dùng miễn phí.
Mã Hóa Đằng lòng như lửa đốt, ông phải nghĩ cách để chú chim cánh cụt nhỏ bé này no bụng rồi mới lên đường được. Sau đó, Mã Hóa Đằng chứng kiến rất nhiều trường hợp huy động vốn nước ngoài, ông phát hiện ra cơ hội tìm kiếm nhà đầu tư nước ngoài có lẽ rộng mở hơn, nên đã sửa lại bản kế hoạch thương mại, chuyển trọng điểm tìm kiếm đầu tư ra nước ngoài.
Theo quy định ban đầu khi mới thành lập Tencent, Mã Hóa Đằng toàn quyền phụ trách mảng huy động vốn. Nhưng nguy cơ thiếu vốn lúc đó đã trở nên vô cùng cấp bách, vì thế, ngoài Mã Hóa Đằng bận rộn ngày đêm thì với tư cách là giám đốc vận hành, Tăng Lý Thanh cũng giúp đỡ tìm kiếm nhà đầu tư.
Hồi đó, Tăng Lý Thanh có suy nghĩ, cả công ty Tencent có giá trị là 5,5 triệu đô la Mỹ, như vậy, hy vọng có thể huy động lượng vốn tới 2,2 triệu đô, tức là bán ra khoảng 40% cổ phần. Còn tại sao lại là 2,2 triệu đô thì đây là kết quả sau khi năm nhà sáng lập cùng phân tích, thảo luận và 40% có lẽ là giới hạn mà mọi người đều có thể chấp nhận.
Để thu hút nhà đầu tư góp vốn, Mã Hóa Đằng và những người bạn đã nhiều lần sửa lại bản kế hoạch. Điểm cốt lõi trong bản kế hoạch ban đầu là tiền để mua máy chủ và băng thông rộng, những vật tư mà Tencent thiếu nhất lúc bấy giờ. Còn việc làm
thế nào có được lợi nhuận thì bản kế hoạch lại viết khá mơ hồ, chỉ mới đề cập đến hai nguồn thu là phí hội viên và quảng cáo mạng. Đó dường như là phương thức chung của các công ty mạng Internet thời ấy, chưa làm nổi bật khả năng sinh lãi nhờ vào đặc trưng cốt lõi và ưu thế tự thân của Tencent. Ngoài ra, bản kế hoạch cũng không nhắc tới các dịch vụ giá trị gia tăng như: thu phí tin nhắn, biểu tượng cảm xúc và trò chơi trực tuyến, trong khi đây là yếu tố dễ thu hút vốn nhất. Có thể thấy bản kế hoạch này có quá ít điểm sáng.
Mặc dù hiện tại, Tăng Lý Thanh đã trở thành một trong những nhà đầu tư giỏi kêu gọi vốn nhất ở Trung Quốc, nhưng lúc bấy
giờ chưa có nhiều kênh đầu tư và với ông, việc huy động vốn vẫn còn khá lạ lẫm. Tăng Lý Thanh nghĩ đơn giản: chẳng qua là tìm mấy người quen giúp đỡ, giới thiệu thôi, không phải vấn đề gì lớn.
Người quen đầu tiên Tăng Lý Thanh nghĩ đến là Lưu Hiểu Tùng, vốn có mối quan hệ khá tốt với ông và mấy nhà sáng lập Tencent. Lưu Hiểu Tùng và Trương Chí Đông còn từng là đồng nghiệp, cùng làm việc ở Công ty Máy tính Lê Minh. Trong suốt quá trình Tencent tăng nguồn vốn bằng cách phát hành cổ phiếu đạt đến 1 triệu Nhân dân tệ, số tiền mà Tăng Lý Thanh mượn được chính là từ chỗ Lưu Hiểu Tùng.
Lưu Hiểu Tùng bày tỏ sẵn sàng giúp đỡ Tăng Lý Thanh thông qua việc giới thiệu người khác đến đầu tư. Tăng Lý Thanh vô cùng vui mừng và đồng ý đem 5% vốn huy động quy ra cổ phần tặng cho Lưu Hiểu Tùng. Sau này, Lưu Hiểu Tùng đã giới thiệu Tencent với IDG (Quỹ Đầu tư công nghệ mạo hiểm Thái Bình Dương). Cùng lúc đó, Tăng Lý Thanh cũng nhờ người tìm đến Công ty Doanh Khoa PCCW của Hồng Kông.
IDG và Doanh Khoa Hồng Kông đều sẵn lòng đầu tư cho Tencent, nhưng không phải vì bản kế hoạch thương mại dày hơn hai mươi trang đã được Mã Hóa Đằng và các nhà lãnh đạo Tencent sửa lại tới sáu lần mà là vì câu chuyện ICQ được bán cho AOL với giá 287 triệu đô la Mỹ. Có lẽ cả hai công ty này đều cảm thấy QQ vốn là phiên bản ICQ được Trung Quốc hóa, cho dù không đáng giá hàng trăm triệu đô la thì vài triệu đô la cũng không tới mức quá cao. Hơn nữa, ICQ đã có thể nổi tiếng khắp thế giới thì tại sao QQ lại không thể nổi tiếng ở Trung Quốc?
Nhờ thế, vào nửa đầu năm 2000, sau khi trải qua đợt huy động vốn đầu tiên, nhóm các nhà sáng lập Tencent nắm giữ 60% cổ phần, còn IDG và Doanh Khoa Hồng Kông mỗi bên góp 1,1 triệu đô la Mỹ tương ứng với 20% cổ phần.
2,2 triệu đô la Mỹ quả thật chỉ là một số vốn mạo hiểm nhỏ trong ngành mạng Internet, bởi có không ít doanh nghiệp được tiếp sức bởi số vốn lên tới hàng chục triệu đô la Mỹ. Mặc dù lượng tiền chưa nhiều, nhưng điều quan trọng là trong tay Mã Hóa Đằng đã có tiền, rất nhiều ý tưởng đã có thể biến thành hiện thực. Ông nhanh chóng dùng khoản tiền này để cải thiện hạ tầng phần cứng như máy chủ và băng thông rộng, mua thêm máy chủ IBM có dung lượng 200 nghìn MB, đồng thời tăng cường nghiên cứu, khai thác và cải tiến phần mềm QQ. Không lâu sau, QQ đã vượt qua các sản phẩm cùng loại. Nhắc tới chuyện này, Mã Hóa Đằng vẫn nhớ là, khi những thiết bị mới được đưa vào công ty, ông đã vô cùng phấn khởi.
Có thể nói, những gian truân mà người lập nghiệp phải nếm trải, Mã Hóa Đằng đều đã trải qua. Sau khi nhận được nguồn vốn hỗ trợ, ông tiếp tục dấn bước vào mảng tin nhắn trực tuyến. Ông tin rằng QQ, phần mềm mà rất nhiều người không nhìn ra được tiềm năng, chắc chắn sẽ có ngày phát triển huy hoàng.
TRIẾT LÝ HUY ĐỘNG VỐN “DỊU DÀNG” NHẤT TRONG LỊCH SỬ
Sau lượt huy động vốn đầu tiên, Mã Hóa Đằng và các đồng nghiệp đã dốc toàn tâm toàn lực, nhưng các nhà đầu tư lại có vẻ đứng ngồi không yên, bởi ngoài việc chứng kiến Tencent mua thêm mấy chiếc máy chủ, họ không nhìn thấy bất kỳ thay đổi nào khác. Bởi vậy, khi Mã Hóa Đằng lại rơi vào khó khăn, định vay thêm tiền của nhà đầu tư, không đâu tình nguyện giúp đỡ nữa. Họ cảm thấy chú chim cánh cụt này quả là cái động không đáy, rót bao nhiêu vốn cũng không đủ, nếu cứ tiếp tục thì dù có nắm giữ 100% cổ phần cũng lỗ sạch sành sanh. Vì thế, họ từ chối cấp tiền thêm cho Tencent.
Khi đó, IDG vẫn khá thiện chí khi đi khắp nơi tìm người tiếp quản, hy vọng có thể giúp Tencent vượt qua cửa ải khó khăn này. Trái lại, Doanh Khoa Hồng Kông không tỏ rõ thái độ, có lúc
muốn tiếp tục đồng hành, nhưng qua một thời gian, lại phân vân, không xác định dứt khoát. Điều này khiến Mã Hóa Đằng không biết rõ được suy nghĩ thật sự của đối phương. Cuối cùng, Doanh Khoa Hồng Kông do Lý Trạch Khải làm đại diện đã ký thỏa thuận đầu tư dự toán với Tencent trong một quán trà ngay cạnh trụ sở của mình, đồng thời chi ra một khoản không nhỏ.
Doanh Khoa Hồng Kông còn giới thiệu Tencent với đơn vị có mối quan hệ tốt với mình là Tập đoàn TOM. Tuy Tập đoàn TOM cũng như lãnh đạo cấp cao của TOM Online đều từng kết nối với Tencent, nhưng cuối cùng, việc đầu tư vào Tencent vẫn không có kết thúc tốt đẹp. Vì đã bỏ ra hàng triệu đô la Mỹ, IDG và Doanh Khoa Hồng Kông không thể trơ mắt đứng nhìn Tencent sụp đổ. Họ vẫn cố gắng giúp đỡ, tiếp sức cho Mã Hóa Đằng.
Điều Mã Hóa Đằng không hề ngờ tới là đúng lúc ông và đồng đội đang dốc sức vì chú chim cánh cụt bé nhỏ thì gặp phải “mùa đông giá lạnh của mạng Internet”.
Khi Mã Hóa Đằng đang lo lắng vì bước huy động vốn tiếp theo, một người Mỹ đã xuất hiện ở văn phòng Tencent, ông ấy là David Wallerstein - phó tổng giám đốc phụ trách khu vực Trung Quốc của Tập đoàn đầu tư quốc tế Milad (MIH).
Không phải là một nhà đầu tư bình thường, tập đoàn MIH, ngoài tài lực dồi dào, còn có tham vọng và ý chí lớn lao. Lĩnh vực hoạt động chính của MIH là truyền hình tương tác và truyền hình thu phí với doanh thu hằng năm khi đó đã lên tới hàng trăm triệu đô, giá trị vốn hóa thị trường khoảng hơn 4 tỷ đô la Mỹ. Họ rất quan tâm đến các doanh nghiệp mạng Internet của Trung Quốc, muốn tìm một đối tác đáng tin cậy để tiến sâu vào thị trường này.
Là người có tầm nhìn, David Wallerstein đã “xe duyên” thành công cho MIH và Tencent. Năm 2001, MIH dễ dàng mua lại 20% cổ phần của Tencent từ tay của Doanh Khoa Hồng Kông, ngoài
ra, còn mua được 13% cổ phần của Tencent từ tay của IDG. Nhưng rất nhanh chóng, MIH nhận ra không gian phát triển của Tencent trong tương lai có thể vô cùng rộng mở. Tự thấy đã quá đỗi nhát gan, tập đoàn này không muốn chỉ đóng vai phụ là người đầu tư góp vốn nữa.
Tháng 6 năm 2002, những người sáng lập Tencent đã chuyển nhượng cổ phần cho MIH, cơ cấu sở hữu cổ phiếu của Tencent tất nhiên cũng thay đổi. Lãnh đạo cao cấp của hai bên đã trao đổi kỹ lưỡng để thống nhất hai vấn đề: tỷ lệ nắm giữ cổ phần và quản lý công ty. Việc quản lý hoạt động kinh doanh của Tencent vẫn do Mã Hóa Đằng cùng e kíp đảm nhận, có toàn quyền quyết định. MIH chỉ điều đến hai nhân sự và không nắm giữ vị trí giám đốc điều hành cũng như quyền quản lý cụ thể.
Về việc này, suy nghĩ của Mã Hóa Đằng vô cùng rõ ràng: Tiền không phải tự dưng mà có, nhưng không thể để người ngoài kiểm soát cổ phần, càng không thể cho phép họ nhúng tay vào quản lý, nếu không được như thế, thà không nhận tiền còn hơn.
Chính nhờ Mã Hóa Đằng năm đó kiên trì tuân thủ nguyên tắc của chính mình là đội ngũ quản lý nắm đa số cổ phần nên đã tránh được không ít rắc rối, điều này cũng thể hiện tầm nhìn sâu rộng của ông. Đương nhiên, cơ cấu sở hữu cổ phần mà MIH yêu cầu ở Tencent cũng vô cùng ổn định, đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng để Tencent có được thành công.
Chính nhờ khả năng và tầm nhìn đã giúp Mã Hóa Đằng vượt qua cửa ải gian nan, đồng thời, tích lũy những kinh nghiệm vô giá trên con đường lập nghiệp. Vừa kiếm tiền vừa trưởng thành, có lẽ đó mới là con đường mà các công ty khởi nghiệp cần phải đi qua.
CHUYỂN LỖ THÀNH LÃI
Mùa xuân năm 2000, QQ cán mốc 100 nghìn người lên mạng cùng lúc. Mã Hóa Đằng nhờ cậy một người bạn đăng bài tuyên truyền trên một trang tin tức online. Không lâu sau, tờ Nhân dân online - cơ quan trực thuộc của “Nhân dân Nhật báo” nổi tiếng, đã dẫn lại bài viết này, khiến Mã Hóa Đằng vô cùng phấn khởi.
Tuy thế, mãi đến tháng 8 năm 2001, tâm trạng của Mã Hóa Đằng mới thư thái hơn một chút, bởi vì lúc này Tencent đã có nguồn thu mới. Khi đó, Tencent và Công ty Di động Quảng Đông Mobile ký một thỏa thuận hợp tác giúp người dùng QQ có thể tiến hành liên lạc thời gian thực với bất kỳ người dùng di động nào ở khu vực Quảng Đông thông qua tin nhắn QQ và di động. Từ đó, QQ có thêm một tính năng mới và đó là một tin vui đối với cư dân mạng của thời đại giao lưu mạng xã hội mới.
Nhờ quá trình hợp tác với Công ty Di động Quảng Đông Mobile triển khai thuận lợi, Tencent dễ dàng thực hiện công cuộc chuyển lỗ thành lãi, đồng thời, tận dụng thời cơ xảy ra cuộc chiến cạnh tranh tin nhắn giữa các nhà mạng Internet Trung Quốc để nhanh chóng chiếm lĩnh một nửa thị trường tin nhắn ngay trong năm đó.
Sau khi hoạt động kinh doanh của Tencent ngày một khởi sắc, Mã Hóa Đằng dần tìm ra nhiều phương thức kiếm tiền, ngoài dịch vụ tin nhắn, còn có thêm dịch vụ quảng cáo, dịch vụ QQ di động và dịch vụ hội viên QQ thu phí. Trong số các dịch vụ đó, đem lại doanh thu lớn nhất chính là cho thuê thương hiệu QQ, giúp Mã Hóa Đằng kiếm được 10% phí đại lý.
Khi chú chim cánh cụt bắt đầu mang tiền về cho mình, Mã Hóa Đằng cũng dần phát hiện nhiều lĩnh vực có thể thu lợi mà trước đây không nhìn ra. Mã Hóa Đằng đã xúc động nói rằng chưa bao giờ nghĩ có thể kiếm bộn tiền nhờ QQ. Vì thế, ông không khỏi ngỡ ngàng khi sau đấy, một công ty ở Quảng Châu chủ động tìm
đến và còn thể hiện rõ thành ý bằng việc vừa tới, đã “quăng” cho ông mấy trăm nghìn Nhân dân tệ.
Sự thay đổi này hiển nhiên là kết quả nỗ lực của Mã Hóa Đằng, nhưng nó cũng là sự thay đổi tất yếu dưới tác động của thời cuộc để không tách khỏi bước chuyển mình lớn lao của môi trường mạng Internet lúc bấy giờ. Suy nghĩ khi đó của Mã Hóa Đằng là: Tencent vừa tiến hành quảng bá vừa kiếm được tiền, “một mũi tên trúng hai đích”.
Không lâu sau, hệ thống phát thanh của chú chim cánh cụt không ngừng đưa tin về việc Tencent đã cho ra đời các loại đồ chơi QQ và người dùng có thể mua được ở rất nhiều nơi trên toàn quốc. Kể từ đó, QQ từ một phần mềm thông tin trực tuyến đơn giản đã trở thành một biểu tượng văn hóa. Không gian văn hóa mà QQ mở ra cho người dùng vừa có giao lưu trực tuyến, vừa thúc đẩy sự ra đời của những mối quan hệ mới như “tình yêu qua mạng” hay “bạn trên mạng”.
Tháng 8 năm 2000, trên cửa sổ thông tin của QQ còn xuất hiện biểu ngữ quảng cáo, ba tháng sau, mức độ phổ biến của nó được tăng thêm một bước. Số liệu thống kê của tháng 12 năm 2000 cho thấy, tính riêng thu nhập từ quảng cáo của Tencent đã đạt 1,5 triệu Nhân dân tệ. Ngay cả việc “bong bóng dot-com” vỡ cũng không ảnh hưởng nhiều đến QQ, chỉ là lượng quảng cáo giảm một nửa vào tháng 2 năm 2001, nhưng lại khôi phục ngay trong tháng 3.
Ngoài phương thức thu lợi truyền thống từ quảng cáo này, Tencent còn đưa chế độ hội viên vào trong hệ thống thu phí, có thể gọi là “máy in tiền thứ hai”. Lúc đó, Tencent có tổng cộng hơn 3.000 hội viên, mỗi người phải nộp từ 120 đến 200 Nhân dân tệ phí hội viên hằng năm. Mặc dù con số này còn rất khiêm tốn, nhưng đối với Tencent, những hội viên đó chính là “mầm lửa cách mạng”.
Cuối năm 2001, Tencent đạt được mức lợi nhuận ròng là 10,22 triệu Nhân dân tệ; chỉ một năm sau đã lên tới 144 triệu, tăng hơn mười lần. Đến năm 2003, lợi nhuận ròng đạt 338 triệu Nhân dân tệ, tăng gần gấp ba so với năm 2002. Sang năm 2004, Tencent giành được chiến tích huy hoàng với mức doanh thu lên tới 1.144 tỷ Nhân dân tệ, vượt hẳn 55,59% so với năm trước; lợi nhuận ròng đạt 446 triệu Nhân dân tệ, vượt hơn 38,6% so với năm 2003.
Cũng chính từ dấu mốc này, một Mã Hóa Đằng mà trước kia luôn phải “giật gấu vá vai” mới cảm thấy yên lòng, cuối cùng, đã có được cảm giác chạm tới thành tựu trên con đường lập nghiệp. Có lẽ, đây chính là con đường mà Mã Hóa Đằng bắt buộc phải đi qua để trở thành một người thành công, được mọi người chú ý. Rất nhiều người đã biết đến sự thông minh, tài trí của ông, rất nhiều người cũng nhìn thấy hoa tươi và những tràng vỗ tay dành cho ông, nhưng rất ít người hiểu được những đắng cay và đau khổ phía sau ánh hào quang đầy vẻ vang ấy.
MẶN CHAY KẾT HỢP, DỊCH VỤ MỚI KHÔNG THUA LỖ
Vào thời kỳ tồi tệ nhất lúc mới thành lập Tencent, Mã Hóa Đằng luôn tìm kiếm hướng đi mới để chú chim cánh cụt có thể đem lại lợi nhuận, thậm chí cấp bách tới mức “không từ chối bất kỳ ai”, tức là chỉ cần có thể kiếm tiền, chỉ cần có thể duy trì QQ. Vì thế, Mã Hóa Đằng đã phát hiện nhiều cơ hội kinh doanh mới trong không ít lĩnh vực.
Cuối năm 2000, Công ty Di động Trung Quốc chính thức giới thiệu mạng “Monternet”, hệ thống mạng kết hợp giữa di động và Internet với đông đảo người sử dụng. Không ai ngờ rằng chuỗi giá trị mới ra đời này sẽ cứu vớt một loạt các công ty mạng, trong đó, người được hưởng lợi nhiều nhất phải kể đến Mã Hóa Đằng.
Tencent sở hữu lượng người dùng đăng ký mạng Internet lên tới hàng trăm triệu và đều có nhu cầu tiêu dùng rất lớn, nhưng đáng tiếc là Mã Hóa Đằng chưa tìm ra kênh thu phí. Việc mạng “Monternet” thông qua thỏa thuận “phân chia 2 - 8” từ việc thu cước hộ đã giúp Mã Hóa Đằng nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm.
Tencent nhanh chóng cho ra đời dịch vụ QQ di động. Không lâu sau, QQ di động đã trở thành lực lượng nòng cốt của mạng “Monternet” với doanh số ở thời điểm cao nhất từng chiếm tới 70%.
Trong năm 2002 và 2003, một mặt, Tencent “trình làng” các dịch vụ mới là “QQ Xing” và “QQ Show”; mặt khác, tăng cường giới thiệu với người dùng các dịch vụ tin nhắn, nhạc chuông và kết bạn cũng như “QQ nam nữ”… Ngoài ra, Mã Hóa Đằng còn học tập Công ty Shanda Thượng Hải, bắt đầu triển khai trò chơi trực tuyến.
Thực tế đã chứng minh quyết sách của Mã Hóa Đằng hoàn toàn chính xác.
So với trò chơi trực tuyến, mục đích Mã Hóa Đằng “xây dựng” cổng thông tin điện tử có phần khác biệt, nhắm tới mở rộng thị trường quảng cáo trực tuyến. Bởi lẽ thời đó, đơn vị cần quảng cáo muốn đầu tư vào những trang web có tầm ảnh hưởng và cổng thông tin điện tử chính là nơi dễ gây dựng sức ảnh hưởng nhất. Mã Hóa Đằng nhận thấy, mặc dù về quy mô, thị trường trò chơi trực tuyến vượt xa quảng cáo trực tuyến, nhưng về tiềm lực tăng trưởng thì ngược lại. Bởi thế, nhất định phải thành lập trang mạng điện tử.
Nhưng khó khăn cũng lập tức xuất hiện. Không ít người dùng đã quen với phần mềm QQ nhấn mạnh sự trẻ trung và tính giải trí, muốn thay đổi ấn tượng này không dễ. Cần phải có một tên gọi và hình ảnh hoàn toàn khác thì mới có thể xây dựng thành
công trang web điện tử mang “diện mạo” cao cấp hơn. Ngoài ra, Mã Hóa Đằng cũng xem xét việc phân định rạch ròi về thương hiệu giữa trang web điện tử và công cụ nói chuyện. Cách làm của Mã Hóa Đằng là: Nếu cần, có thể bỏ qua tính giải trí. Bởi việc tạo ra những chú chim cánh cụt nhảy nhót trong những khung cảnh không phù hợp là kém sáng suốt và không hợp lý, sẽ khiến người dùng thấy phản cảm.
Không lâu sau,“trang mạng Tencent” đã ra đời. Để biến nó thành một thương hiệu cao cấp, trước tiên, Mã Hóa Đằng tuyển dụng số lượng lớn nhân tài trong lĩnh vực thu thập, biên tập thông tin. Bên cạnh đó, ông không bỏ qua cơ hội tuyệt vời là trở thành “nhà tài trợ Triển lãm thế giới Thượng Hải Expo 2010” để xây dựng hình ảnh cổng thông tin tổng hợp.
Căn cứ theo thỏa thuận, Tencent chịu trách nhiệm tổng thể các công tác tập hợp, vận hành cũng như duy trì trang mạng “Triển lãm thế giới online”, ngoài ra, còn phụ trách việc xây dựng không gian trao đổi trên mạng Internet cùng không gian thương mại điện tử của Triển lãm thế giới. Mã Hóa Đằng tuyên bố: “Sẽ có thêm nhiều người nhìn nhận lại Tencent, Tencent không đơn thuần chỉ là công cụ trò chuyện.”
Nhờ tầm nhìn chiến lược của Mã Hóa Đằng, cổng thông tin điện tử của Tencent đã thành công, trò chơi trực tuyến của Tencent cũng đã thành công, và bước tiếp theo có thể là thử sức trong lĩnh vực dịch vụ giá trị gia tăng.
Rất nhiều người dùng không hiểu rõ về khái niệm “dịch vụ giá trị gia tăng”, nhưng nếu hỏi họ Q Coin là gì, họ đều biết rất rõ. Đối với Mã Hóa Đằng, những dịch vụ này cũng như mức tăng trưởng chóng mặt của nguồn thu từ trò chơi trực tuyến vừa đảm bảo công ty vận hành và phát triển thuận lợi, vừa là bước đệm cho Tencent trong lĩnh vực cổng thông tin điện tử và thương mại điện tử.
Năm 2001, Tencent chính thức phát hành thẻ Q mệnh giá 120 tệ, có giá trị trong vòng một năm; không lâu sau, lại cho ra đời dịch vụ thu phí “QQ show” và các trò chơi cờ. QQ show là một ứng dụng ảo mang tính giải trí cho phép người dùng QQ có quyền lựa chọn trang phục ảo.
Có người kể lại rằng khi hạng mục QQ show được nội bộ Tencent thẩm định, toàn bộ công ty từng tiến hành thảo luận nghiêm túc về một bản Power Point dài hơn 80 trang có logic chặt chẽ, đủ thấy lúc đó Tencent quan tâm thế nào đến sản phẩm này. Và ngày nay, QQ show đã trở thành một trong những hạng mục kiếm được nhiều tiền nhất của Tencent, và cũng là một trong những sản phẩm tiên phong đánh dấu hành trình khai phá lĩnh vực dịch vụ gia tăng của Mã Hóa Đằng.
Mã Hóa Đằng có một triết lý kinh doanh rất tài tình, được mọi người gọi là “tam vấn tự thân”. Trong quá trình kinh doanh, ông thường xuyên tự đặt ra ba câu hỏi cho chính mình.
Câu hỏi đầu tiên là: Lĩnh vực mới này bạn có giỏi không?
Đối thủ cạnh tranh có thể rất hứng thú với thương vụ, lợi nhuận và nguồn vốn, nhưng chưa chắc đã thật sự xem xét đến nhu cầu của khách hàng. Trong khi đó, Mã Hóa Đằng luôn dựa trên sự hiểu biết và phán đoán nhạy bén về thị trường mạng để dẫn dắt công ty. Có thể nói, Mã Hóa Đằng tạo nên “chiếc khung” cho Tencent bằng niềm hứng thú có phần cố chấp cùng lòng say mê điên cuồng. Ông kiên trì theo đuổi nguyên tắc “lấy công nghệ làm nòng cốt” trong sản xuất cũng như kinh doanh, chú trọng nâng cao cả ba “mũi nhọn”: nghiên cứu, sản xuất và chất lượng công nghệ.
Câu hỏi thứ hai là: Giả sử bạn không làm, người dùng có phải chịu tổn thất?
Thực ra, giá trị thật sự của khai thác phần mềm là tính ứng dụng chứ không phải là niềm vui của bản thân người khai thác.
ụ g g p g Mã Hóa Đằng từng nói: “Tôi vốn chỉ là một người rất yêu đời sống mạng, biết người đam mê mạng cần cái gì nhất, vì thế sản xuất ra thứ hữu ích nhất cho bản thân mình cũng như mọi người mà thôi.”
Câu hỏi thứ ba là: Một khi đã làm rồi, dự án mới này còn có thể duy trì được bao nhiêu phần ưu thế cạnh tranh?
Nửa cuối năm 1999, trên thị trường hệ thống máy nhắn tin, Mã Hóa Đằng càng làm càng thắng lớn, nhưng ông phải đối mặt với một lựa chọn vô cùng quan trọng. Khi ấy, một mặt, ngành máy nhắn tin đã có dấu hiệu suy thoái; mặt khác, số lượng người dùng QQ đã tăng lên con số 1 triệu và vẫn duy trì đà tăng trưởng. Tuy nhiên, QQ vẫn chỉ là sản phẩm phụ của Tencent và Mã Hóa Đằng vẫn chưa nhận thức rõ ràng về giá trị thị trường khổng lồ mà QQ có được. Vì lẽ đó, cho dù là về công nghệ hay nguồn vốn, Mã Hóa Đằng đều thiếu tự tin do không biết rốt cuộc, mình nắm giữ bao nhiêu phần trăm ưu thế. Do đó, sách lược mà Tencent áp dụng là “suy xét cùng lúc ba phương diện”: một là dồn sức hoàn thiện tính năng của QQ và khai thác phiên bản mới; hai là tìm kiếm nhà đầu tư có thể ủng hộ vốn cho Tencent; ba là tiếp tục gia tăng lợi ích mà hệ thống tin nhắn mạng truyền thống đem lại. Kết quả, Mã Hóa Đằng đã lựa chọn một hướng đi hoàn toàn chính xác.
Thật ra, không phải Mã Hóa Đằng tạo nên Tencent, cũng không phải Tencent tạo nên Mã Hóa Đằng, mà là sự chuyên tâm của ông tạo nên Tencent, khiến Tencent tạo nên kỳ tích.
TENCENT LÊN SÀN CHỨNG KHOÁN THUẬN LỢI, PHÚ ÔNG CHẠY KHẮP NƠI
Từ năm 2001 đến năm 2003, quy mô và lợi nhuận của Tencent đều tăng gấp bội. Tháng 8 năm 2003, đội ngũ sáng lập Tencent tiến hành thu mua toàn bộ số cổ phần còn lại của IDG và một ít cổ phần trong tay MIH. Sau khi điều chỉnh lại tỷ lệ sở hữu cổ
phần, MIH và đội ngũ sáng lập Tencent mỗi bên nắm giữ 50% cổ phần trước khi công ty lên sàn chứng khoán.
Tài liệu công khai của Tencent cho thấy lợi nhuận quý I năm 2004 đạt một trăm triệu Nhân dân tệ, tăng 87% so với cùng kỳ năm trước. Nhưng Mã Hóa Đằng không muốn nguồn vốn của mình bị hạn chế trong vốn mạo hiểm. Để hình thành kênh huy động vốn phong phú, giúp doanh nghiệp ổn định hoạt động, Mã Hóa Đằng bắt đầu suy nghĩ tới việc đưa công ty lên sàn chứng khoán.
Về vấn đề niêm yết trên sàn chứng khoán ở đâu, Mã Hóa Đằng nói: “Trong số các công ty tư vấn bảo lãnh chứng khoán, sáu công ty đề nghị ở Hồng Kông, bốn công ty gợi ý ở NASDAQ, ba công ty đề xuất cùng lúc lên sàn chứng khoản ở cả hai nơi, khiến đầu tôi muốn nổ tung. Tỷ lệ lợi nhuận chứng khoán bình quân của các công ty niêm yết ở Hồng Kông thấp hơn ở Mỹ, nhưng nếu tôi là người dẫn đầu thị trường thì sao?”
Cuối cùng, Mã Hóa Đằng đã lựa chọn Hồng Kông, nơi cách Thâm Quyến chỉ một con sông. Về việc này, ông giải thích rằng yêu cầu của thị trường chứng khoán Hồng Kông khắt khe hơn so với NASDAQ, chỉ khi Tencent kinh doanh có lãi trong ba năm liên tiếp trước thời điểm niêm yết thì mới có tư cách lên sàn chứng khoán Hồng Kông. So sánh với các công ty mạng Internet khác của Trung Quốc, chỉ có Tencent làm được điều này.
Sau thời gian tích cực chuẩn bị, ngày 7 tháng 6 năm 2004, Công ty TNHH Cổ phần Tencent với tư cách là nhà cung cấp dịch vụ QQ, sản phẩm thông tin trực tuyến lớn nhất ở Trung Quốc đại lục, công khai phát hành cổ phiếu trên sàn chứng khoán Hồng Kông, chính thức mua bán cổ phiếu với các nhà đầu tư nước ngoài. Sau khi được công bố, thông tin này đã lập tức làm dấy lên một làn sóng lớn trong giới mạng Internet Trung Quốc. Bởi trước đó, dường như không một ai biết việc Tencent chuẩn bị
niêm yết. Công tác bảo mật của Mã Hóa Đằng quả thật được thực hiện quá tốt!
Ngày 16 tháng 6 năm 2004, Công ty Cổ phần Tencent chính thức treo biển giao dịch tại Sở Giao dịch chứng khoán Hồng Kông. Căn cứ trên mức giá phát hành khi đó cho mỗi cổ phiếu là 3,7 đô la Hồng Kông, Tencent lập tức sở hữu giá trị vốn hóa thị trường là 6,22 tỷ đô la Hồng Kông. Nhờ lần niêm yết này, xung quanh Mã Hóa Đằng liền xuất hiện năm tỷ phú (bao gồm cả ông) và bảy triệu phú.
Con đường niêm yết hanh thông khiến chú chim cánh cụt nhỏ bé lại được dịp thể hiện sức hấp dẫn. Do lúc đó, Tencent đã có vị thế nhất định nên sau khi “lên sàn”, lập tức được người chơi chứng khoán dốc sức theo đuổi. Mặc dù phần lớn các nhà đầu tư đều giữ tâm lý tương đối tỉnh táo, không dễ dàng đeo bám một loại cổ phiếu nào, nhưng cổ phiếu của Tencent tung ra không lâu, số đăng ký đã vượt mức 146 lần.
Sau khi Tencent lên sàn chứng khoán, Mã Hóa Đằng dùng nguồn vốn huy động được để làm gì? Thông qua tài liệu huy động vốn của Tencent có thể thấy, Mã Hóa Đằng dự định đầu tư 818 triệu đô la Hồng Kông vào chiến lược mới của Tencent là tin nhắn trực tuyến, giải trí và dịch vụ mạng Internet, đối tượng thu mua có thể bao gồm thương mại điện tử hoặc dịch vụ giá trị gia tăng thuộc lĩnh vực âm nhạc, đồng thời, không loại trừ khả năng trong tương lai sẽ thu mua nhà khai thác và nhà cung cấp công nghệ bên thứ ba. 250 triệu đô la Hồng Kông còn lại dùng để mở rộng lĩnh vực hoạt động hiện tại của công ty.
Có nhà phân tích chỉ ra rằng nhìn từ tình hình lợi nhuận năm 2003, cho dù Tencent không phát hành cổ phiếu huy động vốn, họ vẫn sở hữu dòng tiền lớn mạnh, đủ năng lực thu mua một số công ty vừa và nhỏ trong nước cũng hoạt động ở mảng tin nhắn trực tuyến và dịch vụ giải trí mới. Kết quả phân tích tình hình hoạt động của Tencent trong quý I năm 2004 cho thấy công ty
vẫn trong trạng thái có lãi. Vì thế, nếu chỉ xét từ góc độ huy động vốn, công ty niêm yết không hoàn toàn vì tiền.
Một số ngân hàng đầu tư cho rằng, chính các cổ đông lớn xuất phát từ mục đích đổi sang tiền mặt mới thúc đẩy Tencent lên sàn chứng khoán. Quan sát cơ cấu cổ đông cũng như tình hình kinh doanh của Tencent lúc bấy giờ có thể thấy, MIH có lẽ đã thu hồi được vốn đầu tư. Vậy thì tại sao Mã Hóa Đằng lại đem “miếng thịt béo bở” như thế tặng cho các cổ đông Hồng Kông?
Lời giải cho câu hỏi này đến nay vẫn không rõ ràng, nhưng từ sự kiện đó chúng ta có thể thấy, Mã Hóa Đằng muốn kiên trì theo đuổi chính sách phát triển nội địa. Ngoài ra, khi so sánh Tencent trước và sau khi niêm yết, Mã Hóa Đằng cho rằng, mặc dù sau khi niêm yết, Tencent vẫn đối mặt với một số vấn đề về quản lý và điều tiết kết cấu khung, nhưng mô thức vận hành cơ bản của công ty đã đi vào chính quy và ổn định, đồng thời, Mã Hóa Đằng cũng có cơ chế quản lý hoàn thiện hơn, khoa học hơn đối với quy hoạch doanh nghiệp và phát triển nghiệp vụ. Nếu Tencent không đi theo con đường niêm yết, vấn đề phải đối mặt sau này sẽ là không đủ lực lượng dự trữ và suy giảm động lực.
Song song với việc công ty lên sàn chứng khoán, Tencent cũng chú trọng vấn đề duy trì và lan tỏa động lực, khích lệ nhân viên. Năm 2008, khi trả lời phỏng vấn của “Tuần báo Thanh Niên Bắc Kinh”, Mã Hóa Đằng nói: “Đối với Tencent, người sáng lập và cổ đông đều vô cùng quan trọng trong việc góp vốn, nâng cao hình ảnh, lưu thông và tuần hoàn cổ phần, nhưng việc thu hút nhân tài, đặc biệt là nhân tài cao cấp thì càng trở nên quan trọng hơn.”
Trong mấy năm sau khi Tencent lên sàn chứng khoán, Mã Hóa Đằng luôn cổ vũ việc sở hữu cổ phần. Tháng 12 năm 2007, Tencent ban hành kế hoạch khích lệ việc sở hữu cổ phần với nội dung là: cổ phần sẽ do người ủy thác độc lập mua vào, chi phí do Tencent chi trả, kế hoạch có hiệu lực kể từ ngày tiếp nhận là 13
tháng 12 năm 2007 và kéo dài trong mười năm. Kế hoạch này quy định, tổng số cổ phần mà hội đồng quản trị trao ra sẽ hạn chế trong khoảng 2% vốn cổ phần đã phát hành, và cổ phần khen thưởng cho cá nhân cao nhất cũng không vượt quá 1% vốn cổ phần cần phát hành.
Ngày 29 tháng 8 năm 2008, Hội đồng Quản trị Tencent nghiên cứu và quyết định đưa ra một triệu cổ phiếu mới làm cổ phần khen thưởng cho 184 nhân viên, mục đích là tận dụng nguồn tài nguyên hiện có của Tencent để thu hút và giữ chân nhân tài. Ngày 10 tháng 7 năm 2009, Hội đồng Quản trị Tencent lại triển khai một kế hoạch lớn, tung ra chục nghìn cổ phiếu để khen thưởng cho tổng cộng 1.250 nhân viên. Số cổ phiếu lần này không nhỏ, khiến người người đều phải thán phục.
Kế hoạch khen thưởng bằng việc sở hữu cổ phần cho thấy, sau khi Mã Hóa Đằng đưa đội ngũ chim cánh cụt của mình bước sang giai đoạn phát triển mới, vấn đề mới cũng xuất hiện. Ông phải đưa ra chính sách để giải quyết những trở ngại trước mắt, để có thể chèo lái con thuyền khổng lồ đang lướt nhanh giữa đại dương mạng Internet đi đến những vùng đất xa hơn.
Chương 4
SÓNG GIÓ TRƯỚC THỀM GIÔNG BÃO
TRỘM TÀI KHOẢN
Sau khi QQ trở thành “tài sản nhất định phải có” của không ít cư dân mạng, một hiện tượng kỳ lạ cũng xuất hiện, đó là lấy trộm tài khoản.
Hiện tượng lấy trộm tài khoản trên QQ từng một thời làm xáo động cộng đồng mạng, rất nhiều người dùng cảm thấy bực bội bởi những thứ mà tin tặc lấy đi không phải là tài sản ảo, mà là danh sách bạn bè hay cả một cộng đồng giao tiếp xã hội, thậm chí có khả năng ảnh hưởng đến công việc và đời sống của người dùng. Cho đến hôm nay, dù rất khó mua bán tự do, hiện tượng trộm mã tài khoản vẫn tồn tại. Vì thế, số người dùng gửi khiếu nại đến Tencent ngày một nhiều. Một bộ phận người dùng cho rằng vì Tencent không hành động nên mới khiến hiện tượng trộm mã tài khoản vẫn tồn tại.
Lời chỉ trích này có phần oan ức đối với Mã Hóa Đằng. Không phải ông không muốn xóa bỏ một cách triệt để hiện tượng trộm mã tài khoản. Nhưng lượng người dùng QQ khổng lồ, tin tặc chuyên nghiệp cũng như nghiệp dư lại xuất hiện khắp nơi khiến kế hoạch công phá của Tencent vấp phải rất nhiều trở ngại.
Ngày 17 tháng 1 năm 2013, tham dự kỳ họp thứ IV của Hội đồng Nhân dân Thành phố Thâm Quyến khóa IV, sau khi thảo luận kết thúc, Mã Hóa Đằng vốn định lặng lẽ rời đi nhưng lại bị không ít phóng viên “bao vây chặn đường”. Mã Hóa Đằng lập tức
bày tỏ, mục tiêu của Tencent trong năm 2013 là tiếp tục đẩy mạnh công tác đảm bảo an toàn thông tin.
Lời phát biểu của Mã Hóa Đằng không phải chỉ để làm yên lòng mọi người. Năm 2013, số nhân viên của Tencent đã lên đến 20 nghìn người, trong đó, 2.000 người chuyên trách công tác an toàn thông tin. Tencent cũng áp dụng rất nhiều biện pháp phòng ngừa, như người dùng có thể nhập mã xác thực khi lên mạng để tìm lại số QQ bị lấy cắp…
Mã Hóa Đằng rất muốn chấm dứt hiện tượng lấy trộm tài khoản, nhưng để giải quyết vấn đề này một cách triệt để lại buộc phải đem tới một số bất tiện về mặt kỹ thuật cho người dùng, như tăng thêm một số bước xác minh hoặc sử dụng các biện pháp hạn chế đăng ký…, nên bản thân Mã Hóa Đằng cũng rất mâu thuẫn. Mặc dù vậy, ông vẫn luôn thúc đẩy công tác bảo vệ thông tin cho người dùng, và hy vọng các cơ quan hữu quan sớm có biện pháp xử lý những “tin tặc” trên mạng.
Để ngăn chặn hành vi lấy trộm mã tài khoản QQ xảy ra không ngừng trên mạng Internet trong nước, Mã Hóa Đằng quyết định triển khai tấn công quyết liệt, cao điểm là “đòn tổng hợp” kết hợp giữa kỹ thuật công nghệ và sức mạnh tư pháp. Mã Hóa Đằng tăng thêm các biện pháp kỹ thuật, chẳng hạn, bảo vệ bằng mã số xác thực nhiều lần nhằm phòng ngừa và ngăn chặn hiện tượng lấy trộm mã tài khoản QQ.
Hiện nay, để nhắm vào các thủ đoạn lấy trộm mã tài khoản QQ như “trình theo dõi thao tác bàn phím Keylogger” hay phần mềm Trojan, Tencent đã dùng đến công nghệ bảo mật bàn phím “nProtect”. Ngoài ra, Mã Hóa Đằng cũng tuyên bố rằng Tencent sẽ tiếp tục phối hợp với cơ quan tư pháp trừng trị nghiêm khắc hành vi lấy cắp mã tài khoản QQ, đồng thời, nhắc nhở người dùng: Không nên sử dụng các chương trình không rõ nguồn gốc, cũng không nên tin vào những thông tin về hoạt động QQ không chính thống ngoài trang chủ Tencent, đây đều là những
lỗ hổng mà phần tử phạm pháp dễ dàng lợi dụng để lấy cắp mã tài khoản.
Bên cạnh đó, hành vi lấy cắp tài khoản còn liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Mấy năm gần đây, đã có không ít vụ án liên quan đến vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của các doanh nghiệp công nghệ cao được xếp vào xâm phạm bí mật thương mại với đặc điểm chính là bí mật công nghệ.
Mã Hóa Đằng từng trả lời phỏng vấn của báo “Nhà doanh nghiệp Trung Quốc” như sau: “Tencent vốn chỉ tiếp xúc với người dùng mạng, nay phải kết hợp với cơ quan công an, tư pháp. Ví dụ, chúng tôi đã bắt được mười mấy tổ chức lấy trộm tài khoản, đây là vụ án lấy trộm tài khoản mạng lớn nhất trong lịch sử tỉnh Quảng Đông, phải mất mấy tháng mới phá được án, và vẫn đang tiếp tục điều tra. Thật ra, việc làm này còn có tác dụng răn đe, đặc biệt là với trẻ em, lứa tuổi vốn không hề biết lấy cắp tài sản ảo cũng là hành vi phạm pháp. Điều khiến tôi lo lắng nhất bây giờ là vấn đề an ninh mạng, chúng tôi đã triển khai rất nhiều biện pháp, tôi cũng tin rằng chúng tôi chắc chắn giữ vị trí số một trong việc chống lấy cắp tài khoản.”
Nhiệm vụ chống lấy cắp tài khoản vẫn còn rất nhiều thử thách phải vượt qua. Đối với Mã Hóa Đằng, đây là cuộc so tài giữa tội phạm thông minh và phòng vệ thông minh, một cuộc chiến khó tránh khỏi trên con đường phát triển sau này của Tencent.
CƠN PHONG BA THU PHÍ ĐĂNG KÝ
QQ đã thực sự đi vào cuộc sống, rất nhiều người dùng mạng có thói quen đăng nhập QQ đầu tiên khi mở máy tính. QQ quả thật rất tiện dụng, có thể nói chuyện trực tuyến; gửi, phát văn bản, dữ liệu trực tuyến ngay cả khi không lên mạng, có thể đáp ứng nhu cầu của rất nhiều người trong giới văn phòng. Ngoài ra, hòm thư QQ cũng tiện ích vô cùng, các ứng dụng sau này như
QQ âm nhạc, QQ trò chơi, QQ nông trường đều tạo ra một lượng lớn người dùng có tính phụ thuộc cao.
Nhưng nếu một ngày nào đó, QQ thu phí, bạn còn dùng nữa không? Người dùng hiện nay sẽ cảm thấy khó hiểu khi nghe đến điều này, nhưng vào khoảng năm 2001, rất nhiều người dùng có nhu cầu đăng ký tài khoản QQ mới đã thật sự “choáng váng” khi đón nhận thông tin về phí sử dụng.
Năm 2000, thị trường chứng khoán NASDAQ phá vỡ kỷ lục thiết lập, các doanh nghiệp mạng trên toàn cầu lập tức rơi vào “mùa đông giá lạnh”, hiệu ứng domino tiếp theo sẽ là toàn bộ ngành IT tuột dốc, khiến các ngành nghề trong thị trường đều một phen lao đao. Khi đó, ngoài vấn đề huy động vốn, Mã Hóa Đằng cũng phải nghĩ cách khác để Tencent thu được tiền.
Trong lĩnh vực kinh tế truyền thống, thông thường, lợi nhuận biên đều giảm dần, nhưng điều đó không đúng với thực tế ngành Internet. Những ngành có số liệu duy trì trong một thời gian dài, chỉ khi vượt qua “điểm tới hạn”, lợi nhuận biên mới đột nhiên lộ diện, tạo nên sự tăng trưởng mạnh mẽ.
Chú chim cánh cụt bé nhỏ của Mã Hóa Đằng cũng vậy.
Giữa năm 2001, lượng tài khoản đăng ký mới của Tencent tăng đột biến, khiến công ty không chống đỡ nổi. Không còn cách nào khác, Mã Hóa Đằng bắt đầu thực hiện kiểm soát người dùng đăng ký. Từ tháng 2 năm 2001, Tencent bắt đầu hạn chế việc đăng ký mới và dần cắt giảm đến mức người dùng rất khó có thể đăng ký được. Mặc dù như vậy, hằng ngày vẫn có lượng lớn người dùng đăng ký mới.
Trong quãng thời gian này, Mã Hóa Đằng đã phải suy tính rất nhiều, bởi chi phí hằng tháng của Tencent đều rơi vào khoảng hai triệu Nhân dân tệ, trong đó, riêng kinh phí để mua thêm thiết bị đã chiếm khoảng 3/4. Do vậy, đến tháng 3 năm 2002,
Mã Hóa Đằng thử nghiệm tung ra dịch vụ “Vùng số đẹp QQ
g g ệ g ị ụ g ẹp
Xing” và bắt đầu bán mã tài khoản QQ. Tháng 9 năm 2002, để khống chế lượng người dùng QQ tăng mạnh, Mã Hóa Đằng chính thức cho ra đời mã tài khoản QQ Xing với lệ phí là hai Nhân dân tệ mỗi tháng, chấm dứt thời kỳ tài khoản phổ thông được miễn phí và đề nghị mở tài khoản một lần trước đây. Đến tháng 11 cùng năm, QQ ban hành văn bản pháp lý cấm hành vi mua bán mã tài khoản QQ.
Cuối năm 2002, xuất hiện một thông tin khiến đông đảo người dùng “vỡ nát con tim”: Tencent ngừng cấp mới mã tài khoản sử dụng dài kỳ dưới dạng tài khoản miễn phí và tài khoản một lần (trả phí), QQ chủ yếu vận hành mã tài khoản QQ Xing với giá thuê bao hàng tháng là hai Nhân dân tệ.
Cư dân mạng Trung Quốc từ lâu đã quen với việc nhận tài nguyên và thông tin trên mạng hoàn toàn miễn phí nên cảm thấy bức xúc trước cách làm của Tencent. Có người phản ánh rằng họ đã chịu đựng cửa sổ quảng cáo và hình ảnh quảng cáo nhấp nháy của Tencent, nay lại phải trả phí tài khoản, như vậy là không thỏa đáng.
Lúc đó, không riêng cư dân mạng phản đối việc QQ thu phí, ngay cả giới truyền thông cũng lên tiếng chỉ trích. Ngày 22 tháng 8 cùng năm, Tencent đưa ra tuyên bố quan trọng. Sở dĩ công ty hạn chế số lượng đăng ký là vì một số người dùng đăng ký nhiều mã tài khoản QQ, gây lãng phí nguồn tài nguyên có hạn của công ty. Đương nhiên, Tencent cũng mong nhận được sự ủng hộ và hợp tác của người dùng.
Thật ra, với tư cách là một doanh nghiệp, Tencent của Mã Hóa Đằng có quyền tiến hành bất kỳ cải cách đơn phương nào, còn người dùng chỉ có quyền lựa chọn “chấp nhận” hoặc “rời bỏ”. Đây cũng là giải pháp bất đắc dĩ khi phải đối diện với áp lực sinh tồn và cạnh tranh thị trường.
Tháng 5 năm 2002, trên mạng bỗng xuất hiện một tin đồn: QQ sắp tiến hành thu phí toàn bộ hội viên. Đến tháng 7, khi trả lời phỏng vấn, Mã Hóa Đằng khẳng định: “Tencent chỉ thu phí người dùng đăng ký mới, đồng thời sẽ đảm bảo một phần tài nguyên cho tài khoản miễn phí và tài khoản một lần. Đối với những tài khoản có mã số tương đối đẹp, chỉ những hội viên trả phí thuê bao tháng là mười Nhân dân tệ mới được sở hữu.”
Mã Hóa Đằng từng nói: “Thật ra, từ trước đến nay, QQ luôn áp dụng chính sách phát triển thu phí, điển hình như các biện pháp thương mại gồm đăng ký trên điện thoại di động và hạn chế số lượng người dùng đăng ký trong ngày. Đương nhiên, đối với người dùng mới đăng ký, Tencent sẽ cung cấp thêm một số dịch vụ tương ứng, như dịch vụ bảo mật tốt hơn, khiến người dùng cảm thấy chi phí bỏ ra là hợp lý.” Ngoài ra, Mã Hóa Đằng còn cho biết: “Song song với chính sách thu phí người dùng đăng ký, QQ cũng sẽ tiếp tục giữ lại hình thức miễn phí đăng ký chủ yếu hướng về người dùng ở nước ngoài.”
Tháng 6 năm 2003, nhân dịp QQ tròn ba tuổi, Mã Hóa Đằng đã tuyên bố: “Người dùng QQ di động mới mở sẽ có một mã tài khoản QQ miễn phí sử dụng trong thời gian dài.”
Tháng 8 năm ấy, QQ mở lại dịch vụ đăng ký miễn phí cho người dùng, nhưng lại đưa ra quy định sẽ thu hồi mã số tài khoản nếu bảy ngày liên tiếp không đăng nhập; sau đó lại đổi thành ba tháng. Cuối cùng, quy định chỉ áp dụng cho những mã tài khoản QQ được đăng ký với ý đồ xấu hoặc không đăng nhập trong thời gian dài.
Hiển nhiên, quyết định điều chỉnh chính sách thu phí và không thu phí là vì Mã Hóa Đằng ý thức được rằng khoản thu nhập đến từ phí thu đăng ký chắc chắn không bù đắp được tổn thất do hao hụt người dùng. Chính đợt phong ba này khiến Mã Hóa Đằng càng kiên định phải thúc đẩy mô hình thương mại.
Tháng 5 năm 2010, Mã Hóa Đằng chia sẻ: “Mô hình thương mại của Tencent không giống với các doanh nghiệp khác, mục đích của nó là cung cấp các dịch vụ miễn phí. Với khoảng 500 triệu người dùng thường xuyên, Tencent đã phủ sóng tới hàng trăm triệu cư dân mạng Trung Quốc nên công ty sẽ thông qua các dịch vụ miễn phí để khai thác dịch vụ gia tăng. Đây mới là nguồn thu nhập chính mà Tencent hướng đến.”
Có thể thấy, mô hình thương mại mà Mã Hóa Đằng vạch ra thực sự độc đáo. Sau đó, mô hình này được các chuyên gia khái quát thành “nguyên tắc Mã Hóa Đằng”. Cốt lõi của “nguyên tắc Mã Hóa Đằng” nằm ở chỗ nó chia dịch vụ thành hai phần, một phần là dịch vụ cơ bản, phần khác là dịch vụ gia tăng. Đối với dịch vụ cơ bản, bắt buộc phải cung cấp miễn phí, còn dịch vụ gia tăng thì phải đảm bảo đa dạng và cao cấp.
SỰ KIỆN “CORAL”
Đối với rất nhiều người dùng và doanh nghiệp mạng Internet, năm 2006 là một năm ồn ào. Trong năm đó đã có không ít phần mềm xuất hiện, giao dịch trên mạng bùng phát, các trang blog của người nổi tiếng cũng trở thành điểm nóng thu hút sự chú ý của mọi người… Náo nhiệt và hỗn loạn.
Trong năm này, Mã Hóa Đằng vẫn như mọi khi, tiếp tục đổi mới QQ. Cùng lúc đó, phần mềm “Coral QQ” nổi lên nhờ QQ cũng liên tiếp được chỉnh sửa, cập nhật. Chỉ có điều, lúc đó, tác giả của Coral QQ là Soff chưa hình dung được bản thân sẽ phải đón nhận tai họa gì.
Coral QQ là gì? Đó là phần mềm bên thứ ba được hình thành trên cơ sở của QQ Tencent, bao gồm tổ hợp cài đặt tích hợp bản Coral hoàn chỉnh và gói tăng cường Coral, một trình cắm plugin2. Thông thường, Coral sẽ không làm thay đổi mã code vốn có của chương trình QQ Tencent trong quá trình vận hành.
2. Plug-in, trình cắm: Là một bộ phần mềm hỗ trợ, thêm những tính năng cụ thể cho một phần mềm ứng dụng lớn hơn. Plug-in cho phép tùy biến các chức năng của một ứng dụng.
Người lập trình chính của “Coral QQ” là thầy giáo Trần Thọ Phúc (Soff Chen) thuộc Trung tâm Tính toán Đại học Khoa học Tự nhiên Bắc Kinh. Ngay từ năm 2003, Tencent đã gặp Trần Thọ Phúc và đưa ra cảnh cáo đối với ông. Sau đó, Trần Thọ Phúc đã viết bản cam kết hứa sẽ “đóng lại dịch vụ download liên quan đến phiên bản sửa đổi của QQ trên trang mạng cá nhân, xóa hết những nội dung có liên quan đến phiên bản sửa đổi này và ngừng phát tán nó, đảm bảo sẽ không đưa ra bất kỳ sửa chữa nào nữa đối với QQ của Tencent.” Có vẻ như mối ân oán giữa Tencent và Trần Thọ Phúc đã kết thúc. Nhưng plug-in tránh được vấn đề bản quyền nên Trần Thọ Phúc đã tiếp tục công việc nghiên cứu.
Nhờ sự cải biến của ông, Coral QQ có rất nhiều tính năng “hay ho”: có thể hiển thị địa chỉ IP cũng như vị trí địa lý của bạn bè trong danh sách, còn có thể chặn quảng cáo của Tencent, cũng có thể cài đặt nhắc nhở bằng âm thanh theo phong cách của MSN, ngoài ra, gói tăng cường còn cung cấp các tính năng cố định phong phú khác.
Chính nhờ hàng loạt tính năng thêm vào này khiến Coral QQ vừa ra đời đã được một số người dùng yêu mến. Mỗi lần Coral tiến hành cập nhật đều thu hút sự chú ý của người dùng, đây cũng chính là yếu tố giúp cho Soff có thể trụ được trên thị trường mạng Internet.
Nhưng khi đó, Mã Hóa Đằng không có biện pháp ngăn cản gì đối với Coral, bởi nó vốn không làm thay đổi bất kỳ chương trình nào của QQ nên đã tránh được vấn đề liên quan đến bản quyền. Tính năng vượt trội trong gói tăng cường của Coral lập tức được
tải về với lượng lớn. Số liệu từ một số trang mạng cho thấy, nó thậm chí còn vượt qua lượng tải của chính phiên bản QQ gốc.
Ngày ngày đều phải đuổi theo phiên bản được cập nhật mới của QQ khiến Trần Thọ Phúc thấy rất nhàm chán. Sau đó, với tư duy về phần mềm cũng như tư tưởng về GAIM và Luma QQ, Trần Thọ Phúc bắt đầu phát triển Coral QQ 4.0.
Coral không ngừng cập nhật và phát triển, Mã Hóa Đằng cũng bắt đầu chú ý đến sự tồn tại của chương trình bé nhỏ này. Không còn khoanh tay ngồi nhìn nữa, ông phải đòi lại công bằng cho bản quyền của chú chim cánh cụt nhỏ.
Khoảng tháng 9 năm 2006, Tencent chính thức khởi kiện Trần Thọ Phúc vì hành vi xâm phạm quyền tác giả và cạnh tranh không lành mạnh. Sau thời gian thụ lý, tòa án tuyên bố Trần Thọ Phúc thua kiện. Mặc dù phải mất một thời gian dài phán quyết mới được công bố nhưng kết quả đã lọt ra ngoài từ sớm. Khi đó, vụ án này thu hút sự chú ý của nhiều người trong giới, những người lập trình phiên bản QQ sửa đổi khác cũng đang âm thầm theo dõi để thăm dò giới hạn của Tencent. Họ đã được một phen thất vọng bởi đối diện với vấn đề này, Tencent tỏ thái độ hết sức cứng rắn, thậm chí từ chối hòa giải nhằm thể hiện thông điệp mang tính răn đe của mình.
Sở dĩ Mã Hóa Đằng không tha thứ là vì chương trình Coral của Trần Thọ Phúc đã chạm đến lợi ích của Tencent. Đối với Tencent, phiên bản QQ sửa đổi của bên thứ ba thịnh hành khiến lượng người dùng của phiên bản QQ gốc ngày một ít đi, đã thế, các phiên bản QQ sửa đổi đều chặn quảng cáo của QQ. Mặc dù dịch vụ này không phải là hạng mục thu lợi chính của Tencent, nhưng hành vi trên vẫn ảnh hưởng đến lợi ích của Tencent cũng như của khách hàng quảng cáo. Ngoài ra, một số bản QQ sửa đổi gắn với phần mềm khác khiến người dùng không hiểu, đổ trách nhiệm cho Tencent.
Có lẽ vì những nguyên nhân nêu trên, Mã Hóa Đằng mới nhất định xử lý Coral QQ, phần mềm đang được đón nhận nồng nhiệt, có công nghệ tốt nhất.
Tuy vậy, khi đã biết rõ QQ phiên bản sửa đổi xâm phạm quyền sở trí tuệ của Tencent, tại sao vẫn có nhiều “bên thứ ba” tham gia như vậy? Câu trả lời rất đơn giản, bởi vì họ có thể đạt được nhiều lợi ích.
Lấy Coral QQ làm ví dụ, nó chủ yếu thu lợi thông qua trình cắm plugin (phần mềm hỗ trợ) được gắn vào. Với các phần mềm đang hot trên thị trường, nhà kinh doanh trình cắm plugin đều sẽ đưa ra điều kiện hậu hĩnh để tác giả của phần mềm gắn trình cắm plugin của họ vào. Mặc dù đơn giá cực thấp, nhưng số lượng người dùng mạng Internet Trung Quốc lên đến cả trăm triệu, chỉ cần mấy trăm nghìn người tải về là đã cho thu nhập lên tới mấy nghìn, mấy vạn tệ, chứ chưa nói đến lượng tải về của phần mềm hot như Coral QQ. Thống kê sơ bộ cho thấy, thu nhập bình quân theo năm của Coral QQ lúc bấy giờ lên tới mấy triệu Nhân dân tệ.
Rất rõ ràng, vụ án của Trần Thọ Phúc là lời nhắc nhở đối với những tác giả của phiên bản QQ sửa đổi đến từ bên thứ ba. Trong số các phiên bản QQ sửa đổi đương thời, chỉ có hai phiên bản nổi tiếng nhờ công nghệ là Coral QQ và Floating Cloud QQ, còn những cái khác, tác giả chỉ tiến hành một vài sửa đổi đơn giản đối với gói tăng cường của bản tích hợp Coral QQ. Giả sử sau này Coral QQ không cập nhật nữa thì những tác giả đó sẽ chuyển sang phiên bản khác.
Kết quả phán quyết cuối cùng: Trần Thọ Phúc phạm tội xâm phạm quyền tác giả, bị phạt tù ba năm và bị tịch thu 1,17 triệu Nhân dân tệ, cộng thêm số tiền phạt 1,2 triệu Nhân dân tệ, tổng số tiền phải nộp sau vụ án lên tới 2,37 triệu Nhân dân tệ.
Phần mềm Coral QQ đi vào dĩ vãng từ đó.
Sau Coral QQ, đội ngũ lập trình của Floating Cloud QQ cũng ý thức được rằng không thể tiếp tục “trò chơi” nên ngày 11 tháng 10 năm 2007, tác giả chính của Floating Cloud QQ là “RunJin” - “người đàn ông ga lăng điên cuồng”, tuyên bố rút khỏi việc khai thác chương trình Floating Cloud QQ. Điều này có nghĩa là thêm một bên thứ ba cung cấp QQ phiên bản sửa đổi có hàm lượng công nghệ cao rút khỏi vũ đài. Đương nhiên, một số tác giả của QQ phiên bản sửa đổi tiếp tục đi trên con đường này nhưng viễn cảnh phát triển của họ đều vô cùng mù mịt. Bởi vì khi lợi ích của Tencent bị xâm phạm, Mã Hóa Đằng sẽ không mềm lòng hay nhẹ tay, mà ra đòn phản kháng với những kẻ làm tổn hại đến lợi ích của chú chim cánh cụt nhỏ bằng thái độ cứng rắn nhất.
Thực ra, QQ Tencent khôi phục lại trạng thái ban đầu là điều mà phần đông người dùng mong muốn, bởi dù sao phiên bản sửa đổi của bên thứ ba vẫn luôn ẩn chứa một vài nguy cơ an ninh. Chỉ có thể nói chú chim cánh cụt nhỏ đã gây dựng được thương hiệu quá lớn nên mới hấp dẫn hàng loạt người mạo hiểm đến “đào vàng”.
CƠN PHONG BA CHỐNG LŨNG ĐOẠN VÀ ĐÁNH BẠC
Sau khi Mã Hóa Đằng dẫn dắt chú chim cánh cụt của mình từ một công ty “bình dân” trở thành gã khổng lồ trong ngành Internet, Tencent khó tránh khỏi việc bị “dán nhãn”, chẳng hạn, thường xuyên bị người ngoài ngành chỉ trích về hành động “lũng đoạn” và “sao chép”.
Tháng 5 năm 2006, Tencent gửi đơn kiện đến Tòa án Nhân dân trung cấp số 1 thành phố Bắc Kinh với nội dung: số lượng người dùng đăng ký tin tức trực tuyến di động của Tencent bắt đầu sụt giảm rõ rệt từ tháng 7 năm 2005 do phần mềm PICA của Công ty Chưởng Trung Vô Hạn.
Công ty Chưởng Trung Vô Hạn thành lập năm 2004, là một công ty công nghệ cung cấp dịch vụ thông tin và tin tức di động
đa phương tiện. Đầu năm 2005, Công ty Chưởng Trung Vô Hạn cho ra đời PICA, một phần mềm có tính năng rất giống với QQ, người dùng có thể đăng nhập vào QQ thông qua PICA.
Sau đó, Tencent phát hiện số người dùng đăng ký tin nhắn trực tuyến di động của mình không ngừng tụt giảm, qua điều tra đã rõ, là do Công ty Chưởng Trung Vô Hạn “phá đám từ bên trong”. Tencent bèn nộp đơn kiện Công ty Chưởng Trung Vô Hạn với lý do: công ty này xâm phạm quyền sở hữu tài sản và quyền tác giả phần mềm của Tencent.
Sau khi đơn kiện được gửi đi, Tencent không hề công bố ra bên ngoài, bởi Mã Hóa Đằng vốn có nguyên tắc làm việc thầm lặng, không muốn làm to chuyện. Điều khiến Mã Hóa Đằng bất ngờ là năm tháng sau khi ông nộp đơn tố tụng, Công ty Chưởng Trung Vô Hạn đột nhiên tuyên bố sẽ kiện Tencent vì tội lũng đoạn và cạnh tranh không lành mạnh. Giới truyền thông có liên quan cùng chung tay đưa tin khiến chuyện này đi đến mức độ ông không hề mong muốn.
Công ty Chưởng Trung Vô Hạn cho rằng trong phần mềm tin nhắn trực tuyến QQ, Tencent đã cố ý thiết kế một loại tường rào ngăn chặn các nhà kinh doanh tin nhắn trực tuyến khác “kết nối với nhau”, việc này rõ ràng đã vi phạm nguyên tắc “không được phép cự tuyệt các nhà kinh doanh dịch vụ điện tín khác kết nối với nhau” trong “Điều lệ điện tín”, đồng thời cũng vi phạm các quy định hữu quan là: “người kinh doanh cần tuân thủ nguyên tắc thành thật, giữ chữ tín, tuân thủ đạo đức thương mại đã được công nhận” trong “Luật chống cạnh tranh không lành mạnh nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”.
Ngoài ra, theo Công ty Chưởng Trung Vô Hạn, Tencent còn dùng các thủ đoạn gây áp lực với PICA cũng như một số đối thủ cạnh tranh muốn “kết nối” với phần mềm này, khiến quá trình trao đổi không được thông suốt.
“Kết nối với nhau” là một hình thức hợp tác giữa Yahoo và MSN. Lúc đó rất nhiều công ty liên quan đến lĩnh vực tin nhắn trực tuyến ở Trung Quốc ồ ạt gia nhập vòng tròn lớn này, chỉ duy nhất Tencent là không tham gia.
Lần này, Công ty Chưởng Trung Vô Hạn “lên tiếng cáo buộc” Tencent, yêu cầu Tencent gia nhập “công cuộc kết nối ” là một chiêu bài tương đối “cao tay” bởi công ty này đã dùng đến vũ khí pháp luật. Nhưng dù vậy, Mã Hóa Đằng quyết không chịu cúi đầu.
Tencent nhanh chóng ủy thác cho luật sư “đáp trả” đơn kiện của Công ty Chưởng Trung Vô Hạn. Trong phiên tòa, Tencent đã bày tỏ rằng nếu các nhà cung cấp dịch vụ tin nhắn trực tuyến khác cũng yêu cầu Tencent “kết nối”, Tencent sẽ suy xét vấn đề từ góc độ của người dùng, sẽ thực hiện toàn diện việc “kết nối” trên nguyên tắc công bằng, hợp lý và bổ sung lẫn nhau.
Thấy Tencent có thái độ hòa nhã, cuối cùng, Tòa án Nhân dân trung cấp số 1 Bắc Kinh đưa ra phán quyết buộc Công ty Chưởng Trung Vô Hạn ngừng xâm phạm QQ qua phần mềm PICA và phải bồi thường cho Tencent hai triệu Nhân dân tệ. Mặc dù giành phần thắng trong vụ kiện này nhưng Tencent phải cam kết tham gia quá trình “kết nối”. Chẳng thể nói đây là một kết quả tốt nhưng nó cũng không phải là một kết quả tồi đối với Tencent.
Vụ kiện này kết thúc vào tháng 2 năm 2007, trong thời gian kiện tụng, Tencent còn gặp phải một sự vụ phiền phức khác.
Tháng 7 năm 2006, trên mạng lại xuất hiện một bài viết nặc danh có tiêu đề là “Lá thư công khai gửi tới lãnh đạo thành phố Thâm Quyến về việc Tencent liên quan đến đánh bạc”.
Liên quan đến đánh bạc? Đây không phải là một việc nhỏ. Chỉ mấy tháng sau, một số chương trình như “Phỏng vấn điểm nóng” bắt đầu “chĩa súng” vào Tencent, cho rằng Tencent lợi
g g g ợ dụng đồng tiền ảo của mình như Q Point, Q Coin để thực hiện đánh bạc trá hình trên mạng. Q Point, Q Coin là một loại “tiền tệ” trên mạng Tencent, cư dân mạng có thể dùng loại tiền này để mua bất kỳ sản phẩm và dịch vụ cụ thể nào được phát hành trên mạng Tencent.
Trong các trò chơi QQ như 21 điểm (hay còn gọi là Black Jack), Showhand (hay còn gọi là Five Card Stud), ba nhà bài đều cần “điểm số” nhất định,“điểm số” này chính là Game Coin (tiền trò chơi). Làm thế nào để có được Game Coin? Thứ nhất, cạnh tranh với các đối thủ khác để đoạt lấy tiền của họ. Thứ hai, đổi bằng Q Coin.
Mặc dù Tencent quy định Q Coin là một loại tiền ảo, chỉ được phép sử dụng trên mạng, nhưng giá bán ra lại bằng với Nhân dân tệ, tức là 1 Q Coin tương đương 1 Nhân dân tệ, vấn đề xuất hiện từ đây. Có người hẳn nói, 1 Q Coin bằng với 1 Nhân dân tệ, nếu đánh bạc bằng trò chơi QQ thì có khác gì đánh bạc ngoài đời thực?
Thông thường, 1 Q Coin có thể đổi được khoảng 10.000 Game Coin, cũng có nghĩa bạn có thể đổi 1 Nhân dân tệ lấy 10.000 Game Coin. Nếu bạn bỏ ra mấy chục hoặc mấy trăm Nhân dân tệ trong thực tế, bạn sẽ là “triệu phú” trong trò chơi. Nhìn từ góc độ này, Tencent quả là biết cách kinh doanh khi giỏi nắm bắt “tâm lý người dùng”.
Q Coin đổi sang Game Coin có thể thỏa mãn một mức độ nào đó “lòng ham hư vinh” của số đông người chơi, khiến họ có cảm giác được “tiêu tiền như nước”. Tuy nhiên, đằng sau việc thua vài trăm nghìn hoặc vài triệu Game Coin, số Nhân dân tệ cũng tăng theo, số tiền này đương nhiên đều vào túi của Tencent.
Sau khi người chơi thắng cuộc và giành được Game Coin, có thể đổi sang Q Coin, sau đó lại mua sản phẩm hoặc dịch vụ trên mạng Tencent. Đổi lấy sản phẩm có thể coi là một “giao dịch” ở
tầng khác của Tencent. Giá sản phẩm mà Tencent bán ra luôn cao hơn nhiều so với giá sản phẩm trong đời sống thực. Ví dụ, người chơi có thể dùng Game Coin đổi lấy điện thoại di động, nhưng trên thực tế vẫn là “mua về” bằng Nhân dân tệ, chỉ khác là người chơi không trực tiếp rút hầu bao ra mua mà thôi. Đây là một chiêu cao tay khác của Tencent.
Ngoài ra, trang chủ Tencent còn lấy hoa hồng trong mỗi trận “đánh bạc” của người chơi. Cụ thể, khi hai người chơi tiến hành một trận “đánh bạc”, một người thua 1 triệu Game Coin, người còn lại sẽ thắng được 1 triệu Game Coin. Lúc này, Tencent sẽ giữ lại 10% Game Coin, cuối cùng, người chơi thắng cuộc chỉ nhận được 900.000 Game Coin.
Những người có liên quan cho biết, Game Coin của Tencent được cung cấp không giới hạn, nên cơ bản không cần đầu tư tiền gốc, họ đang làm một cuộc kinh doanh “không gốc mà vạn lãi”. Chính vì thế, mới có người nhận định Tencent đang lợi dụng “Nhân dân tệ” trá hình,“xúi giục” người chơi đánh bạc.
Có những sự việc nêu trên thì mới có lá thư nặc danh kia. Tiếp theo đó, hàng chữ “Tencent liên quan đến đánh bạc” xuất hiện trên nhiều trang mạng, phương tiện truyền thông cũng tranh nhau đưa tin. Đài Truyền hình Trung ương cũng tham gia vào việc vạch trần hành vi “tổ chức đánh bạc” của Tencent.
Sau khi Đài truyền hình Trung ương nhập cuộc, Tencent nhanh chóng đóng cửa các trò chơi mang đậm “màu cờ bạc”.
Mã Hóa Đằng không muốn việc lần này lớn chuyện nên đã nhanh chóng đóng lại kênh đổi Game Coin sang Q Coin, khiến cho người chơi chỉ có thể mua Q Coin đổi thành Game Coin và tiêu hết số Game Coin trong các trò chơi, ở một mức độ nhất định, đây là một cách “bảo vệ chính mình”. Bởi khi Game Coin có thể đổi sang Q Coin, một số phần tử phạm pháp lợi dụng kênh hoán đổi tự do giữa Q Coin và Game Coin triển khai một
loạt “giao dịch chợ đen” gây ảnh hưởng tiêu cực rất lớn đến Tencent. Khi Tencent tuyên bố Game Coin không thể đổi sang Q Coin nữa, loại giao dịch này dần biến mất. Tencent mặc dù bị truyền thông “nã súng” nhưng sau khi quét sạch “giao dịch chợ đen”, trò chơi của QQ đã trở nên “sạch sẽ” hơn nhiều.
CHÍNH SÁCH “GIẢM LƯƠNG GIẢM BIÊN CHẾ” GÂY CHUYỆN
Mặc dù Mã Hóa Đằng làm việc vô cùng cẩn trọng, tỉ mỉ nhưng vẫn xảy ra rắc rối với MSN, đối thủ quen thuộc của Tencent.
Vào một ngày của năm 2006, trên mạng Tianya xuất hiện một bài viết có tựa đề: “Tencent cắt giảm lượng lớn nhân viên”. Bài viết nói rằng nhận được một bức thư điện tử của Mã Hóa Đằng, trong thư, Mã Hóa Đằng cho biết sẽ biến thưởng quý thành thưởng năm và chỉ thưởng 60%, 40% còn lại sẽ được phát vào sau Tết. Ngoài ra, Công ty Tencent bắt đầu cắt giảm 5% nhân viên từ dưới lên, tức là những nhân viên không đủ năng lực chỉ có thể rời đi. Trong bài đó, người viết nhận định: Sự phát triển của Tencent không còn tốt như trước, cổ tức cũng chẳng có để chia.
Sau khi bài viết này đăng lên, cư dân mạng bàn tán sôi nổi, sóng gió cũng nổi lên. Rốt cuộc chuyện này là thế nào?
Sự thật là trước đó, Công ty Tencent bị MSN “đánh úp”, không ít nhân viên bị “dụ đi”. Có lẽ Tencent cho rằng đây là “báo ứng”, bởi trước đây, Tencent cũng mời Hùng Minh Hoa của MSN sang làm việc. Đứng trước vấn đề này, Mã Hóa Đằng nghĩ ra một cách, ông quyết định thực hiện chế độ lương thưởng mới và chế độ đào thải từ dưới lên. Một mặt, khen thưởng theo quý được đổi thành khen thưởng cuối năm, có thể tránh được hiện tượng nhân viên bỏ đi sau khi nhận thưởng quý. Mặt khác, chế độ đào thải 5% từ dưới lên có thể tạo dựng bầu không khí “cạnh tranh khốc liệt” có lợi cho sự phát triển của công ty.
Nhưng sự việc đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát của Mã Hóa Đằng. Khi Mã Hóa Đằng còn chưa công bố chính sách mới, bức thư điện tử xuất hiện bất ngờ đó đã đảo lộn toàn bộ kế hoạch của ông.
Nhân viên trong Công ty Tencent đồng loạt bày tỏ thái độ bất mãn, ai cũng “có ý kiến” đối với Mã Hóa Đằng nói riêng và bộ phận lãnh đạo cao cấp nói chung.
Dĩ nhiên, Mã Hóa Đằng hiểu rất rõ, nếu tình hình này kéo dài, sẽ làm dao động lòng quân, cộng thêm sự tham gia của MSN, Tencent chắc chắn sẽ chịu tổn thất. Trên thực tế, cách làm này của Mã Hóa Đằng không hề quá đáng. Việc đưa ra chế độ đào thải 5% từ dưới lên, thứ nhất là để đảm bảo lực lượng nòng cốt trong công ty, thứ hai là để Tencent ngày càng lớn mạnh, chứ không như người ngoài cho rằng đang “giảm lương giảm biên chế”.
Sau đó, Mã Hóa Đằng thay đổi kế hoạch đã định, nhanh chóng đưa ra phản hồi về việc “giảm lương giảm biên chế”, đồng thời đưa ra tuyên bố công khai. Trong bản tuyên bố, Mã Hóa Đằng nhấn mạnh: “Tencent không hề ‘giảm lương giảm biên chế’, mà là xây dựng chính sách mới phù hợp với yêu cầu phát triển với hy vọng hoàn thiện hơn thể chế của công ty, nhằm xây dựng Tencent trở thành công ty quốc tế theo đúng nghĩa. ‘Giảm lương’ và ‘giảm biên chế’ hoàn toàn là chuyện bịa đặt, Tencent có cơ sở vững chắc, tình hình tài chính ổn định, hơn nữa chiến lược ‘Cuộc sống online’ ra đời trước đó đã có những thành tựu bước đầu, Công ty Tencent sao có thể vì chuyện nhỏ mà hy sinh cái lợi lớn?”
Đến đây, Tencent coi như vượt qua được khó khăn. Mã Hóa Đằng luôn thể hiện sự kiên trì và nhạy bén trong suốt quá trình phát triển của Tencent. Thái độ bình tĩnh khi gặp chuyện cũng như phản ứng nhanh chóng để tìm ra biện pháp giải quyết vấn
đề của Mã Hóa Đằng là đặc trưng của những nhà lãnh đạo ưa thích phong thái trầm tĩnh.
LỪA ĐẢO TRÊN MẠNG, NÊN TRÁCH AI?
Ngạn ngữ có câu: Cây to gọi gió lớn. Sau khi Mã Hóa Đằng biến Tencent từ một chú chim cánh cụt nhỏ bé thành chú chim cánh cụt hoàng đế phổng phao,“gió” cũng theo đó mà tới.
Do số lượng người dùng QQ không ngừng tăng, Tencent bị một số phần tử phạm pháp trên mạng nhòm ngó, kết quả là chú chim cánh cụt nhỏ bé trở thành một trong những nạn nhân điển hình của tội phạm trên mạng. Mã Hóa Đằng cho biết, ông lo ngại nhất là vấn đề an ninh. Trong bản báo cáo năm 2006 của Tencent, nâng cao an toàn cho người dùng được coi là hạng mục ưu tiên xử lý hàng đầu.
Tháng 12 năm 2005, trả lời phỏng vấn của “Tuần báo thời sự Trung Quốc”, Mã Hóa Đằng nói: “Tôi cảm thấy, nhìn từ môi trường lớn là hệ thống mạng Internet, đâu đâu cũng có tốt có xấu. Chúng tôi đã nỗ lực rất nhiều nhưng cũng giống như xã hội hiện thực, vẫn sẽ xảy ra rất nhiều sự vụ lợi dụng điểm yếu của con người, như lừa đảo sau khi chiếm được lòng tin. Đây không phải là vấn đề công nghệ, mà là vấn đề trao đổi giữa người với người, phản ánh một hiện trạng tồn tại trong xã hội thực.”
Tin nhắn trực tuyến chỉ là một kênh thông tin. Mã Hóa Đằng chỉ cung cấp một công cụ và không gian cho đông đảo cư dân mạng, cũng giống như các nhà cung cấp dịch vụ thư điện tử, không thể quản lý trực tiếp nội dung trong thư, chỉ có thể sử dụng một số biện pháp kỹ thuật để hạn chế nhất định thư rác.
Dù rất khó giám sát tất cả nội dung, nhưng Tencent vẫn dốc sức tiến hành công tác tuyên truyền giáo dục về lừa đảo cho cư dân mạng. Ở những vị trí dễ nhìn thấy trên giao diện QQ hay cửa sổ nói chuyện, thường xuyên xuất hiện cảnh báo nhắc nhở cư dân
mạng phòng tránh bị lừa. Ngoài ra, Mã Hóa Đằng còn đưa ra hàng loạt biện pháp nâng cấp công nghệ và ưu việt hóa dịch vụ để tăng cường hơn nữa tính an toàn cho QQ.
Tháng 3 năm 2007, tại hội thảo “Luật hình sự liên quan đến mạng Internet và quyền trí tuệ”, Mã Hóa Đằng phát biểu: “Tội phạm kiểu mới trong lĩnh vực máy tính và mạng Internet liên tiếp xuất hiện. Phần lớn những hành vi phạm tội trên mạng mà chúng ta biết đến đều là thủ đoạn đánh cắp ‘tài khoản sử dụng dịch vụ Internet’ của người dùng. Những hành vi này làm rối loạn trật tự mạng, gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống thực tế của mọi người. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể cảm nhận rõ một điều, những sự vụ phạm pháp kiểu này xảy ra liên tục, khó bề khống chế. Loại hành vi này có đặc điểm là khó phát hiện, nguyên nhân đến từ nhiều mặt như: môi trường xã hội, hệ thống pháp luật, kỹ thuật công nghệ, quản lý, giáo dục… Ví dụ, đối với rất nhiều hành vi phạm pháp trên mạng, pháp luật hiện nay còn khó định tội hoặc xử phạt quá nhẹ nên không có tác dụng trừng phạt và răn đe thích đáng. Thêm nữa, tiêu chuẩn đạo đức mạng chưa được xác lập, thiếu định hướng giáo dục chuẩn xác. Một số phần tử phạm pháp thực hiện hành vi xâm phạm trên mạng như tin tặc, tạo ra virus… lại được coi là ‘thiên tài công nghệ’, ảnh hưởng đến cách nhìn nhận của nhiều người.”
Ngày 8 tháng 1 năm 2007, để ngăn chặn hành vi trộm cắp trên mạng, Mã Hóa Đằng đã liên kết với bốn nhà cung cấp dịch vụ mạng nổi tiếng là NetEase, Kingsoft, Shanda, Nine Cities, đưa ra tuyên bố thành lập “Liên minh chống trộm cắp mạng” với mong muốn tấn công và trừng phạt nghiêm khắc hành vi trộm cắp của các tin tặc, bảo vệ an toàn tài sản trên mạng của người dùng. Mã Hóa Đằng cũng cho biết, ông cùng các đồng nghiệp khác kiên quyết đấu tranh với hành vi trộm cắp này bằng thái độ tích cực và tinh thần sáng tạo, nhằm xây dựng tốt, tận dụng tốt và quản lý tốt mạng Internet.
Trước mắt, về mặt vận hành, Công ty Tencent xác định trọng tâm là ba phương diện gồm: chú ý an toàn, ổn định và chất lượng mạng; trong đó, quan trọng nhất là vấn đề an toàn. Vì việc này, Mã Hóa Đằng triển khai hợp tác chặt chẽ với các công ty ngăn ngừa virus hàng đầu trong nước như King Soft, xây dựng Trung tâm An toàn QQ; ngoài ra, cũng kết hợp với các cơ quan chức năng của Nhà nước, cùng tấn công những trang mạng gian lận, phi pháp và cả một số trang mạng quảng cáo xấu phương hại nghiêm trọng đến lợi ích của người dùng. Về mặt duy trì sự ổn định, Mã Hóa Đằng còn lên kế hoạch ưu việt hóa cả phần mềm lẫn phần cứng của hệ thống máy tính, từ đó đảm bảo chất lượng dịch vụ. Ngoài ra, ông cũng thành lập Trung tâm trực 24 giờ, phát hiện hiện tượng bất thường sẽ lập tức xử lý.
Để đáp ứng yêu cầu về an toàn của người dùng QQ, giúp đỡ, hướng dẫn người dùng sử dụng biện pháp bảo vệ an toàn, chuyên nghiệp hơn, Mã Hóa Đằng còn thiết kế “Lớp tự học về an toàn QQ”. “Lớp tự học về an toàn QQ” thực ra là một khóa học ảo trên mạng, lấy những trường hợp điển hình trên mạng làm ví dụ, kết hợp với nhiều lĩnh vực an ninh, cung cấp những bài học mang màu sắc cá nhân trên mạng và giảng giải các vấn đề cũng như cách xử lý trong lĩnh vực an ninh liên quan đến QQ dưới hình thức phim hoạt hình, vừa trực quan vừa hài hước.
“ĐẠI CHIẾN 3Q” VỚI NHIỀU LUỒNG Ý KIẾN
Tết Nguyên đán năm 2010 là dấu mốc khó quên đối với những cựu nhân viên của Qihu 360. Đúng ngày 30 Tết năm đó, Tencent mặc định gắn thêm “QQ Doctor” (một chương trình bảo vệ an toàn/diệt virus) vào máy tính của người dùng.
Thật ra, lãnh đạo cấp cao của Qihu360 không hề ngạc nhiên khi Tencent sản xuất phần mềm an ninh, bởi Mã Hóa Đằng đã dẫn dắt đội ngũ của ông mở rộng nghiệp vụ đến khắp các ngõ ngách trên mạng Internet, nhưng sự xuất hiện thần tốc của QQ Doctor, với Qihu360 là quá nhanh. Mặc dù lúc đó, Qihu360 xây dựng lại
quy tắc trong ngành phần mềm diệt virus nhờ hình thức an toàn miễn phí, nhưng so với Tencent, Qihu360 rõ ràng chỉ là một công ty nhỏ.
Vốn dĩ sự việc này chẳng có gì đáng nói, nhưng tháng 5 năm 2010,“QQ Doctor” bỗng nhiên đổi tên thành “QQ Computer Protection (quản gia máy tính)”, rất giống với phần mềm “Vệ sĩ an toàn 360” cả về tính năng cũng như nội dung dịch vụ. Đến Trung thu năm đó, Tencent lại phát động đợt tấn công thứ ba qua việc mặc định gắn thêm phần mềm QQ Computer Protection cho người dùng ở các thành phố cấp 2 và cấp 3.
Hành động này của Mã Hóa Đằng thật không đơn giản, để QQ Computer Protection và QQ buộc chặt vào nhau chắc chắn sẽ vô cùng hiệu quả. Qihu 360 cũng hiểu rằng “QQ Farm (Nông trường)” đã thay thế trò chơi “Trộm rau vui vẻ” từng rất phổ biến, cờ và quân bài QQ đã thế chân trò chơi “cờ và quân bài Liên Chúng”, họ liệu có phải chịu số phận tương tự?
Ngày 27 tháng 9, Qihu 360 cho ra đời “Thiết bị bảo vệ riêng tư” dùng để giám sát xem phần mềm IM có xâm phạm quyền riêng tư của người dùng không. Kết quả cho thấy QQ có liên quan đến việc xâm phạm quyền riêng tư của người dùng. Tencent phủ nhận và quay lại chỉ trích trình duyệt 360 quảng cáo không chính xác.
Qihu360 không thể trơ mắt đứng nhìn thị phần khó khăn lắm mới giành được của mình bị Tencent cướp đi, nên họ quyết định sản xuất một sản phẩm mà Tencent khó bề sao chép. Cuối tháng 9 năm đó, Công ty Qihu 360 cho ra đời phần mềm “Vệ sĩ KouKou” với khẩu hiệu là “phản đối gắn thêm” và “sàng lọc quảng cáo QQ”. Giá trị lớn nhất của phần mềm này là giúp người dùng tùy ý lựa chọn có sàng lọc quảng cáo QQ hay không.
Sau khi tung ra chiêu phản công này, Qihu 360 đã động chạm đến mô hình thương mại của Tencent. Do vậy, đến ngày 3 tháng
11, trang chủ Tencent đăng một bức thư rất nổi tiếng là “Lá thư gửi tới người dùng QQ” với nội dung vô cùng đơn giản: Hoặc là sử dụng phần mềm 360 thì gỡ bỏ QQ, hoặc là giữ lại QQ và xóa bỏ phần mềm 360. Kể từ đây,“cuộc đại chiến 3Q” vốn diễn ra âm thầm đã chuyển sang trực diện.
Dưới áp lực phải “chọn một trong hai”, rất nhiều người dùng đành xóa hẳn phần mềm 360, bởi đối với họ, phần mềm diệt virus thì có nhiều, nhưng phần mềm tin nhắn trực tuyến dùng thuận tay nhất, quen nhất chỉ có mỗi QQ.
Vào ngày Tencent công bố lá thư yêu cầu “chọn một trong hai”, phần mềm “Vệ sĩ an toàn 360” bị giảm 20% lượng người dùng. Lúc đó, lượng máy tính cài đặt phần mềm “Vệ sĩ an toàn 360” đạt khoảng 200 triệu, điều này có nghĩa là chỉ trong một đêm, đã có 40 triệu người dùng gỡ bỏ phần mềm từng bảo vệ máy tính của họ, nhưng vẫn có một số người dùng lên tiếng với khẩu hiệu mang tính kêu gọi như: “Vệ sĩ an toàn 360 bảo vệ máy tính của tôi vô số lần, lần này đến lượt tôi bảo vệ bạn.” Nhưng nói cho cùng, Qihu360 vẫn là công ty nhỏ nên ngày 4 tháng 11 năm đó, buộc phải nhường bước thông qua hành động tuyên bố thu hồi phần mềm “Vệ sĩ an toàn 360” trên cửa sổ giao diện. Ngày 21 tháng 11, Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin Trung Quốc chính thức vào cuộc điều tra “đại chiến 3Q”. Nhờ các cơ quan hữu quan của Nhà nước hòa giải, hai công ty lần lượt công khai xin lỗi trước xã hội và tuyên bố khôi phục sự tồn tại cùng lúc của cả QQ và Vệ sĩ an toàn 360.
Chúng ta không thể không thừa nhận rằng phong cách của Mã Hóa Đằng ngày nay được hình thành từ chính quá trình nỗ lực năm xưa. Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, chỉ cần quy mô của nó lớn mạnh đến một mức độ nhất định, chắc chắn sẽ nảy sinh những tranh chấp thương mại với các đối thủ.
Ngày 14 tháng 10 năm 2010, Tencent khởi kiện Qihu360 vì hành vi cạnh tranh không lành mạnh khi dùng Thiết bị bảo vệ
quyền riêng tư xâm phạm QQ. Tháng 4 năm 2011, Tòa án tuyên bố Qihu360 thua kiện và phải bồi thường cho Tencent 400.000 Nhân dân tệ. Đến tháng 6 năm 2011, Tencent lại khởi kiện Qihu360 vì Vệ sĩ KouKou, phán quyết của tòa án lại là Qihu360 thua kiện và phải bồi thường cho Tencent 5 triệu Nhân dân tệ. Tháng 10 năm đó, tới lượt Qihu360 khởi kiện Tencent lạm dụng địa vị chi phối thị trường, nhưng kết quả cuối cùng vẫn là thua kiện và phải chịu toàn bộ chi phí tố tụng.
Người trong ngành cho rằng thực ra, quá trình diễn ra “đại chiến 3Q” quan trọng hơn kết quả. Trong cuộc chiến lê thê này, Qihu360 đã chiến đấu vì sự sinh tồn, điều đó cũng có thể xem là một thách thức đối với gã khổng lồ trong ngành mạng Internet - Tencent. Nếu không có cuộc đụng độ trực diện giữa Qihu360 và Tencent, có thể Mã Hóa Đằng vẫn tiếp tục mô hình vận hành là “sao chép + buộc chặt” và ở mức độ nào đó, không quan tâm cảm nhận của người dùng. May thay, thông qua cuộc “đại chiến 3Q”, Tencent đã nghe thấy tâm tư của người dùng và kịp thời điều chỉnh chính sách thương mại của mình.
Chương 5
CHIM CÁNH CỤT CÓ SỐ NHÀ GIÀU
“MẠNG MONTERNET” LÀ MỘT BÁU VẬT
Trên con đường dẫn dắt Tencent khai phá “mỏ vàng”, Mã Hóa Đằng vừa là nhà thám hiểm, cũng vừa là người được hưởng lợi: Một số nghiệp vụ được ông tìm thấy nhờ sự nhạy bén của một doanh nhân, một số khác là do thời cơ ban tặng. Trong lịch sử trưởng thành của đế quốc chim cánh cụt, những món quà do thời đại ban tặng nhiều không đếm xuể, trong đó,“mạng Monternet” là một ví dụ.
Mạng Monternet là gì? Trước khi nói về nó, không thể không nhắc đến SP. SP là viết tắt của Service Provider trong tiếng Anh, có nghĩa là “nhà cung cấp dịch vụ”, dùng để chỉ nhà cung cấp trực tiếp các ứng dụng trong nội dung dịch vụ Internet, chịu trách nhiệm khai thác và cung cấp dịch vụ phù hợp với điện thoại di động của người dùng trên cơ sở nhu cầu của họ.
SP chính là dịch vụ giá trị gia tăng di động. Xét từ góc độ doanh nghiệp triển khai dịch vụ, SP có thể phân thành hai loại lớn: Loại 1 là SP cổng thông tin điện tử, cung cấp nội dung dịch vụ tin nhắn bao gồm nhạc chuông, hình ảnh, tin tức, trò chơi; loại thứ 2 là SP chuyên nghiệp. Đây là những công ty chủ yếu làm về nghiệp vụ tin nhắn, cung cấp những sản phẩm, dịch vụ gần giống với kiểu SP cổng thông tin điện tử. Nếu xét từ nghiệp vụ cụ thể, ưu thế của kiểu SP chuyên nghiệp là công nghệ không ngừng đổi mới và dịch vụ sáng tạo.
Ngoài ra, còn một loại hình SP nữa, là SP dự án, Tencent thuộc loại hình này. Khác với các nhà cung cấp dịch vụ tin nhắn truyền thống khác, Tencent không có các dịch vụ thường gặp như hình ảnh, nhạc chuông, trò chơi…, mà chủ yếu dồn lực vào dịch vụ tin nhắn phái sinh từ phần mềm QQ có sẵn.
Tháng 4 năm 2000, lượng người dùng đăng ký QQ của Tencent vượt mốc 5 triệu; tháng 5 cùng năm, số lượng người cùng lên mạng tại cùng một thời điểm vượt hơn 100 nghìn người, lượng người dùng đăng ký lên tới hơn 10 triệu người.
Tháng 8 năm 2000, rất nhiều trang thông tin điện tử bị ảnh hưởng bởi “mùa đông giá lạnh” tràn đến ngành Internet, trong khi còn chưa kịp hồi phục hậu bong bóng dot-com. Nhưng chính trong lúc các doanh nghiệp cùng ngành thở dài ngao ngán, Tencent và Công ty Di động Quảng Đông Mobile lại ký Thỏa thuận Hợp tác, thông qua kết nối giữa mạng Internet và mạng di động Trung Quốc, cho phép người dùng QQ thực hiện kết nối tin nhắn ở bất kỳ đâu, vào bất cứ lúc nào với người dùng mạng di động ở khu vực Quảng Đông qua tin nhắn QQ và tin nhắn di động.
Tháng 4 năm 2001, khi China Mobile và các SP tính toán thu nhập, Mã Hóa Đằng đã tích lũy được vốn kinh nghiệm trong nửa năm, và “kế hoạch thành lập mạng Monternet” đã cứu ông cũng như chú chim cánh cụt. Mã Hóa Đằng đã chiếm thế thượng phong trong cuộc cạnh tranh với rất nhiều nhà cung cấp dịch vụ nhờ “Mobile QQ”.
Dịch vụ “Mobile QQ” tận dụng trọn vẹn mối liên kết giữa hệ thống GSM, SMS và WAP của công ty vận hành thông tin di động và hệ thống QQ của Tencent để người dùng điện thoại di động có thể trực tiếp trao đổi tin nhắn với người dùng QQ. Có thể nói, Mobile QQ là sản phẩm 3G đầu tiên trong lịch sử phát triển mạng Internet.
Năm 2001, nhờ nỗ lực tích cực của Mã Hóa Đằng, Tencent đã xây dựng được quan hệ hợp tác với các nhà mạng viễn thông ở tất cả tỉnh thành trong cả nước. Nói về điều này, Mã Hóa Đằng bày tỏ rằng phương thức kiếm lời đầu tiên của họ là dựa vào dịch vụ giá trị gia tăng mạng không dây, trong đó chủ yếu là Mobile QQ. Họ vẫn luôn nỗ lực theo cách này ngay cả khi mạng Monternet chưa xuất hiện.
China Mobile cho ra đời dịch vụ mạng Monternet, nhưng cũng không ngờ dịch vụ mạng Internet di động đầy sáng tạo này lại có thể cứu vớt hàng loạt công ty mạng Internet.
Kể từ ngày đầu tiên giới thiệu Mobile QQ với thị trường, Mã Hóa Đằng đã bắt tay ngay vào nghiên cứu để không ngừng mở rộng trải nghiệm của người dùng. Tháng 11 năm 2002, tại Hội nghị cấp cao về an ninh mạng Tây Hồ lần thứ 3, khi được hỏi về viễn cảnh phát triển của Mobile QQ, Mã Hóa Đằng đã phát biểu như sau: “Công ty Tencent vừa cùng Công ty China Mobile cho ra đời dịch vụ tin nhắn màu, có thể gửi hình ảnh QQ đầy màu sắc, sống động đến điện thoại di động. Sau này, Công ty Tencent sẽ còn cho ra đời các dịch vụ đặc sắc hơn nữa, khiến điện thoại di động cũng là máy tính, phương thức liên lạc cũng được đa dạng hóa.” Có thể thấy, với dịch vụ tin nhắn và Mobile QQ, Tencent đã trở thành bộ phận không thể thiếu của mạng Monternet với doanh số ở thời điểm cao nhất chiếm tới 70% tỷ trọng mạng Monternet.
Năm 2003, Mã Hóa Đằng cho rằng Tencent đã tìm thấy phương thức thu lời phù hợp với dịch vụ mạng không dây và dịch vụ giá trị gia tăng. Nhờ không ngừng mày mò và cải thiện, ông đã sở hữu mười hai dịch vụ thuộc năm loại hình lớn là: thông tin, giải trí, kết bạn và trò chơi. Sau này, cùng với sự ra đời của thương hiệu M-Zone, dịch vụ số liệu không dây của Mã Hóa Đằng lại tìm thấy hướng đi mới.
Dù hợp tác với nhà mạng viễn thông thuận lợi hay không, Mobile QQ vẫn mang lại cho Mã Hóa Đằng khoản lợi nhuận kếch xù, thậm chí còn chiếm khoảng một nửa lợi nhuận của cả công ty trong suốt thời gian dài. Còn China Mobile tận dụng QQ để nâng cao dịch vụ giá trị gia tăng số liệu của mình. Nhưng do chuyển hướng thành “chuyên gia tin nhắn di động”, họ đã khai thác dịch vụ Fetion và ngày càng hoàn thiện công nghệ này vào năm 2006.
Mặc dù Fetion được “nhà giàu” China Mobile khai thác, nhưng họ lại phải đối mặt với tình trạng đáng ngại là thiếu người dùng, vì thế China Mobile hy vọng có thể kết nối Fetion và hàng triệu người dùng QQ với nhau. Tuy nhiên, đề nghị này không phải là tin tốt đối với Mã Hóa Đằng. Lúc này, QQ của Tencent đã chiếm 60% thị trường tin nhắn di động, đương nhiên ông không muốn chia sẻ với người khác 7 triệu người dùng QQ của mình.
Điều khiến một số người trong giới cảm thấy ngạc nhiên là ngày 29 tháng 12 năm 2006, ngày cuối cùng trước khi China Mobile kết thúc hợp tác với tất cả những nhà cung cấp dịch vụ tin nhắn không dây, Tencent bỗng tuyên bố ở Hồng Kông: Sẽ hợp tác với China Mobile khai thác Fetion QQ và chuyển người dùng Mobile QQ của họ sang Fetion. Dĩ nhiên, thỏa thuận liên quan giữa Tencent và China Mobile cũng kéo dài thêm nửa năm.
Năm 2008, số người dùng Fetion QQ cuối cùng cũng vượt mốc 10 triệu, để tiếp tục duy trì đà tăng trưởng này và trải nghiệm dịch vụ, China Mobile tiếp tục hợp tác với Tencent. Nhưng vì tốc độ phát triển của Fetion ngày một nhanh, China Mobile sớm hay muộn cũng nảy sinh ham muốn kiểm soát ngày càng chặt nguồn thu nhập đến từ tin nhắn di động. Do đó, Tencent cũng kịp thời điều chỉnh sách lược, tránh cuộc chiến tranh giành thu nhập IM với một đại gia thông tin như China Mobile, và mở rộng sang nguồn thu phái sinh khác. Vài năm sau, một phần mềm tên là Wechat ra đời, lập tức làm rúng động ngành tin nhắn trực tuyến.
Ỗ
WECHAT, LỰC LƯỢNG MỚI TRỖI DẬY
Ngày 21 tháng 1 năm 2011, Tencent cho ra đời phần mềm Wechat, ứng dụng miễn phí chuyên cung cấp dịch vụ tin nhắn trực tuyến cho thiết bị thông minh. Cũng giống như số đông các phần mềm khác trên điện thoại thông minh, Wechat hỗ trợ tất cả nhà mạng viễn thông và hệ điều hành, hơn nữa còn có thể gửi và nhận tin nhắn nhanh chóng qua mạng với dung lượng cực kỳ nhỏ. Ngoài ra, Wechat còn tích hợp các trình cắm plug-in dịch vụ như: Lắc điện thoại, Bình trôi, Không gian công chúng…
Wechat vừa ra đời đã nhận được sự yêu mến của đông đảo khách hàng di động. Ngày 29 tháng 3 năm 2012, lượng người dùng Wechat cán mốc 100 triệu chỉ sau 433 ngày!
Sau khi Wechat dần chuyển sang “mở”, rất nhiều người viết ứng dụng cảm thấy lo sợ. Kể từ sau “đại chiến 3Q”, Mã Hóa Đằng luôn hướng đến mục tiêu phát triển của Tencent là “mở”, đương nhiên không phải theo nghĩa tuyệt đối, mà là từng bước kết nối chặt chẽ các thành phần trong tổng thể mạng Internet với nhau bằng thái độ hòa nhã và tư duy xây dựng.
Mã Hóa Đằng cho rằng quá trình quốc tế hóa doanh nghiệp mạng Internet của Trung Quốc không thành công. Giải thích cho nhận định này, ông nói: “Trong quá khứ, mô hình mạng Trung Quốc đều được sao chép từ Mỹ, không thể ‘đi ra ngoài’. Khi làn sóng mạng Internet di động quét qua toàn cầu, bản thân nhiều gã khổng lồ ngành Internet quốc tế cũng chưa chuẩn bị tốt, hoặc là bị hạn chế bởi PC vốn có hoặc bị liên luỵ bởi dịch vụ và thói quen mạng, họ rất khó tạo ra sản phẩm di động đặc thù. Hiện nay, tốc độ phát triển của mạng Internet di động và điện thoại di động ở châu Á còn nhanh hơn phương Tây, đem lại cơ hội nghìn năm có một cho doanh nghiệp mạng Internet Trung Quốc.”
Ngày nay, Wechat đã được Mã Hóa Đằng xem là một loại vũ khí thăm dò quá trình quốc tế hóa. Mã Hóa Đằng tin rằng tốc độ sáng tạo của Wechat sẽ vượt qua các sản phẩm cùng loại của Âu Mỹ. Các yếu tố như không gian mở, kết nối phương thức thương mại, trao đổi xã hội… đều là điểm độc đáo của Tencent.
Sự trỗi dậy thần tốc của Wechat tạo ra thách thức to lớn đối với dịch vụ tin nhắn, tin nhắn màu truyền thống của nhà cung cấp dịch vụ di động, thế nên đã xuất hiện “sự kiện thu phí Wechat”.
Bắt đầu từ cuối tháng 2 năm 2013, thông tin về việc nhà mạng viễn thông thu phí Wechat xuất hiện làm rúng động toàn ngành. Ngày 31 tháng 3 cùng năm, phát biểu tại “Diễn đàn Lĩnh Nam” lần thứ 2, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin Trung Quốc Miêu Vu tuyên bố sẽ ủng hộ nhu cầu hợp lý của các nhà mạng viễn thông. Tin này sau khi được phát đi, lập tức vấp phải sự phản đối của đông đảo người dùng. Họ cho rằng bản thân đã phải trả phí mạng, nếu lại thu phí Wechat thì là hai tầng thu phí, ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của người dùng. Ngày 23 tháng 4 năm 2013, trong buổi họp báo thường lệ, người phát ngôn Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin Trương Phong bày tỏ: “Dịch vụ mới của mạng Internet và Internet di động có thu phí hay không không phải do một bên quyết định, mà được quyết định bởi thị trường, Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin sẽ kiên trì nguyên tắc ‘doanh nghiệp dịch vụ tự quyết định căn cứ theo tình hình thị trường.’” Lúc đó, sóng gió quanh việc thu phí Wechat mới tạm thời lắng xuống.
Có thể thấy, chủ trương “thu phí Wechat” được đưa ra khi các nhà mạng viễn thông bị rơi vào tình cảnh thu nhập ngày một giảm sút, nhưng đề nghị này lại vấp phải sự phản đối kịch liệt của người dùng. Còn nhìn từ góc độ của Mã Hóa Đằng, ông biết rõ mối quan hệ trước mắt giữa Tencent và các nhà mạng viễn thông tương đối nhạy cảm, nhưng ông cho rằng Wechat và dịch vụ tin nhắn do các nhà mạng viễn thông khác cung cấp không
hề giống nhau nên phương hướng phát triển trong tương lai thiên về hợp tác chứ không phải đối đầu.
XƯỞNG IN “TIỀN ONLINE”
Nhờ Mã Hóa Đằng mở rộng lĩnh vực hoạt động và huy động vốn cho Tencent thành công, chú chim cánh cụt phát triển từ “hộ nghèo” thành “nhà giàu”, không chỉ sở hữu khả năng hút tiền mà còn tăng thêm tính năng tạo tiền là bán Q Coin.
Q Coin viết tắt là QB. Tỷ giá hoán đổi là 1 Q Coin tương đương 1 Nhân dân tệ, giao dịch trên Mạng Paipai của Tencent thường được giảm 10%. Nó là một loại tiền ảo được ra đời bởi Tencent, dùng để thanh toán các dịch vụ như phí mua mã số QQ Xing, phí hội viên QQ…
Một số học giả cho rằng Q Coin tồn tại sẽ thay đổi trật tự tài chính của Trung Quốc với lý do được đưa ra là: Căn cứ “Điều lệ Quản lý Nhân dân tệ”, Nhân dân tệ là tờ tiền chính thức được quy định bởi pháp luật Trung Quốc, có số lượng hạn chế trong thực tế, vậy mà loại tiền ảo như Q Coin lại có thể phát hành không giới hạn, nên khi tiền ảo trở thành vật ngang giá thay thế cho Nhân dân tệ trong giao dịch mạng sẽ làm xáo trộn trật tự tài chính Trung Quốc. Ngoài ra, có người chỉ rõ, trong các cuộc đánh bạc bằng Game Coin ở trò chơi QQ, giá trị đặt cược thường rất lớn. Do Game Coin có thể tự do đổi sang Q Coin nên ở mức độ nào đó, Q Coin mang tính chất của “tiền chợ đen”.
Thật ra, Q Coin chỉ dùng để mua dịch vụ giá trị gia tăng của Tencent, cơ bản không thể bước vào hệ thống tài chính, ngày nay nói về cơn sốt Q Coin, chỉ có thể xem là một trận lăng xê nhiệt tình của cư dân mạng mà thôi. Dù gì đi nữa, đồng Q Coin do Tencent phát hành không phải là loại tiền tệ đúng nghĩa, vốn không có tính năng giao dịch khác. Hơn nữa, Tencent thực hiện chính sách với Q Coin là hoán đổi một chiều, tức là người dùng đã mua Q Coin thì không thể đổi lại về Nhân dân tệ.
Q Coin thịnh hành liên quan tới sự thiếu hụt phương thức thanh toán trong giai đoạn đầu của mạng Internet. Lúc đó, người chơi muốn thanh toán tiền mua thiết bị trò chơi chỉ có thể ra ngân hàng chuyển khoản, tương đối phức tạp, bởi riêng việc bán ra một thiết bị đã mất thời gian dài thảo luận. Sau đó, giao dịch Q Coin dần thay thế giao dịch truyền thống.
Nhiều người thực hiện giao dịch Q Coin bằng đủ các phương thức. Như vậy, đồng Q Coin được dùng vào những đâu? Có thể dùng Q Coin để đổi lấy điểm tích ở các diễn đàn khác nhau, để đổi lấy hàng hóa các loại, hay thanh toán tiền quảng cáo. Từ đó có thể thấy, ngày nay, mua bán Q Coin không chỉ liên quan đến dịch vụ do QQ cung cấp.
Trước nghi ngờ đó, một bộ phận cư dân mạng cho rằng nhận định này có phần thái quá bởi vì Q Coin vẫn chưa được coi là vật ngang giá, ở đây tồn tại vấn đề về lòng tin: Đó là buộc phải có một bên chủ động gánh chịu rủi ro trong giao dịch mạng. Thông thường, ngoài giao dịch gặp mặt trực tiếp, các giao dịch khác tỉnh đều phải tìm một trang mạng bảo lãnh mà hai bên cùng tin tưởng, mọi người đưa thiết bị và đồng Q Coin lên trạng mạng đó rồi cơ quan này sẽ thực hiện chuyển phát.
Q Coin đã được cư dân mạng yêu mến như vậy thì rốt cuộc Tencent đã phát hành bao nhiêu Q Coin? Tencent không thể công khai con số này bởi vì chẳng có cách nào thống kê.
Nếu căn cứ định nghĩa của ngành tài chính, tiền tệ là hàng hóa đặc thù đóng vai trò vật ngang giá cố định. Nhưng với tình hình thực tế của Trung Quốc, Nhân dân tệ là loại tiền tệ duy nhất do Nhà nước phát hành, vậy liệu Q Coin đã trở thành tiền ảo thông dụng trên mạng hay chưa?
Một số chuyên gia cảm thấy Q Coin chưa thể được xem như tiền ảo, mà chỉ là loại ký hiệu được một số cư dân mạng công nhận, nên nói Q Coin gây chấn động tới Nhân dân tệ là điều không thể,
bởi tờ Nhân dân tệ trên thị trường chắc chắn sẽ không in nhiều hơn theo đà tăng thêm của Q Coin. Q Coin phát hành dựa trên sức mua, không liên quan tới hệ thống tài chính quốc gia.
Dù vậy, vẫn có một số người cho rằng Q Coin đã mang hình thù của tiền tệ, dần trở thành “tiền ảo” đúng nghĩa, chỉ cần Công ty Tencent có tiềm lực, việc gia tăng tính năng tiền tệ của Q Coin không quá khó khăn.
Trên mạng hiện nay có rất nhiều nhà phát hành tiền ảo, do lỗ hổng về pháp luật trong nước. Nhà nước không áp dụng bất kỳ biện pháp quản lý nào đối với họ vì không thể thống kê lượng phát hành. Có người dự đoán rằng hiện tượng này rất dễ gây ra lạm phát trên mạng, sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của cư dân mạng và đánh mất lòng tin vào giao dịch mạng.
Bắt nguồn từ điều này, một số người làm trong ngành tư pháp cảm thấy cần phải có động thái để Ngân hàng Trung ương quan tâm hơn đến hậu quả của giao dịch tiền ảo và đưa ra quy định chặt chẽ về tư cách của chủ thể phát hành tiền ảo trên mạng.
Mã Hóa Đằng cũng điều chỉnh chính sách có liên quan đến Q Coin: Q Coin của Tencent và Game Coin sẽ không thể chuyển đổi với nhau nữa. Game Coin chỉ được tặng khi mua thiết bị trò chơi, như thế có nghĩa kênh lưu thông ngầm của đồng Q Coin trước đây sẽ bị đóng lại. Chính vì phần lớn Q Coin buôn lậu trên mạng đều do ăn cắp tài khoản mà có nên Mã Hóa Đằng kiên quyết ngăn chặn hành vi này. Ngoài ra, Tencent cũng tăng cường biện pháp kỹ thuật, quét sạch tận gốc loại hiện tượng gây xáo trộn trật tự giao dịch ảo trên mạng Internet.
DỊCH VỤ GIÁ TRỊ GIA TĂNG CHƠI THẬT ĐÃ
Cùng với quá trình Q Coin bị một số chuyên gia đưa vào “tầm ngắm”, sản phẩm ảo của Tencent cũng ngày một nhiều. Điều này thể hiện rõ nhu cầu của cư dân mạng đối với dịch vụ ảo