🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lưới Điện Tử Thần - Jeffery Deaver
Ebooks
Nhóm Zalo
Ba mươi bảy giờ trước Ngày Trái đất
I
NGƯỜI KHẮC PHỤC SỰ CỐ
___________
Tính từ cổ trở xuống, người ta chỉ đáng giá vài đô la mỗi ngày. Nhưng từ cổ trở lê gười ta đáng giá với bất cứ thứ gì trí óc người ta mang lại được.”
THOMAS ALVA EDISO
Chương 1
ồi trong trung tâm điều khiển thuộc khu Liên hợp Điện lực và Chiếu sá onquin trải dài trên bờ sông Đông ở quận Queens của New York, nhân v m sát ca sáng chau mày nhìn dòng chữ màu đỏ đang nhấp nháy trên m h máy tính.
Sự cố nghiêm trọng.
Bên dưới dòng chữ là những chữ số đứng im, biểu thị thời gian chính xác: 20: 003 sáng.
Ông ta đặt chiếc cốc giấy đựng cà phê xuống, nó màu trắng và xanh lam h vẽ cứng nhắc các vận động viên Hy Lạp. Rồi ông ta ngồi thẳng lưng t ếc ghế xoay kêu cót két.
Nhân viên của trung tâm điều khiển thuộc công ty điện lực này, mỗi ngư ồi trước một máy trạm cá nhân, giống như nhân viên điều khiển không y. Căn phòng rộng lớn với đèn đóm sáng trung, và chi phối không gian là m
n hình phẳng khổng lồ, báo cáo tình hình hoạt động của lưới điện Liên ng Bắc cung cấp điện cho cả New York, Pennsylvania, New Jersey nnecticut. Kiến trúc và bài trí trong trung tâm điều khiển khá hiện đại, n n tại là năm 1960.
Người kỹ sư giám sát nheo mắt ngước nhìn màn hình hiển thị điện nă uyển về từ các nhà máy phát điện trên khắp đất nước: các tua-bin hơi nướ c lò phản ứng hạt nhân, đập thủy điện trên thác Niagara. Ở một phần nhỏ a đĩa mì sợi mô tả các đường điện này, có cái gì đó đang trục trặc. Một vò n màu đỏ đang nhấp nháy
Sự cố nghiêm trọng.
“Có vấn đề gì nhỉ?” Người kỹ sư giám sát hỏi. Đó là một người đàn ông ối tiêu, phần bụng săn chắc dưới lớp áo sơ mi cộc tay màu trắng, và ba mư m kinh nghiệm trong ngành điện lực, ông ta gần như tò mò. Mặc dù thi thoả
n có đèn báo sự cố nghiêm trọng, nhưng những sự cố nghiêm trọng thực hiếm khi xảy ra.
Một kỹ thuật viên trẻ đáp, “Có thông báo sập điện toàn bộ. Trạm MH-12” Tối tăm, bụi bặm và không người điều khiển, Trạm 12 của Liên h onquin nằm ở khu Harlem - MH là ký hiệu cho Manhattan - là một trạm ch ng khu vực. Nó tiếp nhận dòng điện 138.000 volt và cho dòng điện chạy q c máy biến áp, giảm xuống còn mười phần trăm, được chia ra, rồi tỏa đi th ờng dây.
Một thông báo nữa xuất hiện.
MH-12 gián tuyến. MH-17, MH-10, MH-13, NI-18 cung cấp điện cho khu vực dịch vụ bị ảnh hưởng.
“Chúng ta phải chuyển đường tải.” Ai đó kêu lên một cách thừa thãi. Khi Trạm 12 sập, máy tính tự động đáp ứng nhu cầu khách hàng bằng cá uyển điện từ những trạm khác đến.
“Không để mất đồng bộ, không để sụt áp.” Một kỹ thuật viên khác kêu to. Điện trên lưới điện cũng giống như nước chảy vào nhà qua đường ống ch y nhất, sau đấy chảy ra qua nhiều vòi. Khi một vòi bị khóa, áp lực ở các ác tăng lên. Điện cũng giống như vậy tuy nó chuyển động nhanh hơn nư
ều, gần bảy trăm triệu dặm mỗi giờ. Và vì nhu cầu về điện của thành p w York rất lớn, điện áp - tương đương áp lực nước - ở các trạm gánh th ụ tải sẽ tăng lên.
Nhưng toàn bộ hệ thống được thiết kế là nhằm giải quyết những tình huố ư thế này, và các đồng hồ chỉ điện áp vẫn hiển thị màu xanh lá cây. Tuy nhiên, điều khiến người kỹ sư giám sát băn khoăn là tại sao aptoma ạm 12 lại sập.
“Cử một thợ sửa chữa đến Trạm 12 đi. Có thể là đứt cáp. Hay chập…” Vừa lúc ấy, chiếc đèn đỏ thứ hai bắt đầu nhấp nháy.
Sự cố nghiêm trọng.
NJ-18 gián tuyến.
Một trạm biến áp khu vực nữa, ở gần Paramus, New Jersey, lại sập. Đó t trong những trạm gánh thêm phụ tải cho Trạm 12.
Người kỹ sư giám sát bật một tiếng nửa như cười nửa như ho. Ông ta ch y bối rối. “Cái quái quỷ gì đang diễn ra vậy? Phụ tải vẫn ở dung sai cho ph .”
“Tất cả các thiết bị cảm biến và đèn báo đều đang hoạt động.” Một kỹ th n nói to.
Người kỹ sư giám sát nhìn chằm chằm lên màn hình, chờ đợi bước logic t o: Nó cho biết trạm - hoặc những trạm - mới nào sẽ làm việc thay Trạm N
Tuy nhiên, không có thông báo nào xuất hiện.
Chỉ còn ba trạm ở Manhattan, 17,10 và 13, tiếp tục cung cấp điện cho hai k c của thành phố mà nếu không thì sẽ bị chìm trong bóng tối. Chương tr y tính đang không làm việc đáng lẽ nó phải làm: đưa điện từ những tr
ác đến. Hiện giờ, lượng điện vào và ra ba trạm kia đang đột ngột tăng lên. Ngươi kỹ sư giám sát vò bộ râu quai nón, và sau khi chờ đợi một trạm kh ng nhập hệ thống, nhưng vô ích, thì đưa ra mệnh lệnh cho tổ trưởng trợ a mình, “Thao tác bằng tay đi, đưa điện vào khu vực phía đông Trạm 12.” “Rõ.”
Một lát sau, người kỹ sư giám sát gắt, “Này, làm đi.”
“Ừm… Tôi đang cố.”
“Đang cố. Cậu bảo đang cố là sao?.” Cái việc chỉ cần vài nhát gõ bàn ph n giản.
“Bảng phân phối không nhận lệnh.”
“Không thể nào!” Người kỹ sư giám sát bước mấy bước ngắn đến chỗ m h của kỹ thuật viên. Ông ta gõ những lệnh mà bản thân dù đang ngủ cũng ợc.
Không có gì.
Các đồng hồ chỉ điện áp đã hết mức màu xanh. Màu vàng bắt đầu hiện lên “Thế này không ổn rồi.” Ai đó lẩm bẩm. “Thế này là có vấn đề.” Người kỹ sư giám sát chạy trở về bàn, thả mình vào ghế. Thanh granola cốc in hình vẽ vận động viên Hy Lạp rơi xuống sàn.
Rồi một quân domino nữa cũng rơi xuống. Chấm đỏ thứ ba, giống như m n bò tót hướng thẳng vào mục tiêu của mình, bắt đầu nhấp nháy, và màn h ADA lạnh lùng hiện lên dòng thông báo:
Sự cố nghiêm trọng.
MH-17 gián tuyến.
“Không, không phải một trạm nữa chứ!” Ai đó thì thào.
Và, giống như lúc trước, không xuất hiện trạm nào khác giúp đáp ứng n u cực lớn của người dân New York về điện. Hai trạm đang làm công việc c
m trạm. Nhiệt độ đường dây vào và ra hai trạm đang tăng lên, các vạch ức điện áp trên màn hình lớn đã chuyển hẳn sang màu vàng. MH-12 gián tuyến. NJ-18 gián tuyến. MH-17 gián tuyến. MH-10, MH-13 cu p điện cho các khu vực dịch vụ bị ảnh hưởng.
Người kỹ sư gỉám sát gắt, “Lấy thêm điện từ đâu đấy cho các khu vực n không cần biết mọi người làm cách nào. Bất kỳ đâu cũng được.” Một nữ nhân viên phụ trách buồng điều khiển gần đó nhanh chóng đứng d ôi có bốn mươi nghìn. Tôi đang khai thác các đường dẫn nhánh từ Bronx.” Một người khác lấy điện từ Connecticut.
Có lẽ họ sẽ kiểm soát được tình huống này. “Nữa đi!”
Nhưng sau đấy, người phụ nữ lấy điện từ Bronx chợt nghẹn lời nói, “Kho đường truyền tự giảm xuống còn hai mươi nghìn. Tôi không biết tại sao.” Điều này đang diễn ra trên toàn bộ hệ thống. Ngay khi một kỹ thuật viên đ
ợc chút điện về thì nguồn cung cấp từ một vị trí khác lại cạn sạch. Và tất cả vở kịch này đang triển khai với tốc độ nghẹt thở. Gần bảy trăm triệu dặm mỗi giờ…
Lại một vòng tròn màu đỏ nữa, một vết thương do đạn bắn.
Sự cố nghiêm trọng.
MH-13 gián tuyến.
Chuyện này tương tự một hồ chứa nước khổng lồ đang cố đổ ra qua cái y nhất bé tí tẹo, kiểu như vòi lấy nước ở cửa tủ lạnh. Điện áp vào Trạm M nằm trong tòa nhà cũ kỹ ở phố Năm mươi bảy mạn Tây thuộc hạt Clint ận Manhattan, đã tăng gấp bốn, năm lần bình thường, và vẫn đang tiếp g lên. Các aptomat sẽ sập bất cứ lúc nào, ngăn chặn xảy ra cháy nổ, như trả phần lớn Midtown về thời thuộc địa.
Và rồi, “Ôi, Jesus, lạy Chúa!” Ai đó kêu lên.
Người kỹ sư giám sát không biết ai đã kêu lên, tất cả đều đang nhìn ch ăm vào màn hình của mình, đầu chúi hết xuống, sững sờ. “Cái gì thế?” Ô giận dữ quát “Tôi không muốn tiếp tục nghe những câu kiểu ấy nữa. Nói c xem nào!”
“Chế độ cài đặt aptomat ở Manhattan-Mười! Nhìn kìa! Những cái aptomat!” Ôi, không. Không…
Các aptomat ở MH-10 đã bị cài đặt lại. Giờ chúng cho phép mức tải g ười lần mức tải an toàn.
Nếu trung tâm điều khiển Algonquin không nhanh chóng giảm được áp a điện áp đang tấn công Trạm MH-10, các đường dây và bảng phân p
ng trạm sẽ cho phép một cơn lũ điện mạnh chí tử ào vào. Trạm sẽ nổ tu y nhiên, trước khi điều ấy xảy ra, dòng điện sẽ chạy qua các dây dẫn nhá o các hộp biến áp chôn dưới đất rải rác khắp những khối phố phía nam Tru
m Lincoln, vào lưới điện của các tòa văn phòng và cao ốc lớn. Một số aptom ngắt mạch, nhưng một số aptomat và bảng điện già nua hơn sẽ nóng ch nh những cục kim loại dẫn điện, để dòng điện đi tiếp, bốc cháy và chập nh những cung lửa điện có thể thiêu chết bất cứ ai ở gần các thiết bị đ y ổ cắm trên tường.
Người kỹ sư giám sát lần đầu tiên nghĩ tới: Khủng bố. Một vụ tấn công khủ Ông ta hét lên, “Gọi cho Bộ An ninh Nội địa và Sở Cảnh sát. Và cài đặt lại ết tiệt. Cài đặt lại các aptomat đi.”
“Chúng không nhận lệnh. Tôi bị khóa, không truy cập được vào MH-10.” “Cái quái quỷ gì mà cậu có thể bị khóa chứ?”
“Tôi không…”
“Có ai bên trong trạm không? Lạy Chúa, nếu có, bảo họ ra đi!” Các trạm đ ông có người điều khiển, nhưng công nhân thi thoảng vẫn đến thực hiện v a chữa, bảo dưỡng định kỳ.
“Rõ.”
Các đồng hồ chỉ điện áp lúc bấy giờ đã chuyển sang màu đỏ. “Sếp, chúng ta có nên sa thải phụ tải không?”
Nghiến chặt hai hàm răng, người kỹ sư giám sát đang cân nhắc việc này. i phụ tải, còn được gọi là cắt điện tránh quá tải, là biện pháp cùng bất đắc ng ngành điện. “Phụ tải” là lượng điện khách hàng đang sử dụng. Sa thải p là thao tác có kiểm soát, thực hiện bằng tay, đóng những khu vực nhất đ
a lưới điện, ngăn chặn nguy cơ đổ vỡ lớn hơn trên toàn bộ hệ thống. Đó là phương kế cuối cùng mà một công ty điện lực áp dụng trong trận ch y trì lưới điện và sẽ gây ra hậu quả tai hại cho khu vực dân cư đông đúc a Manhattan. Riêng thiệt hại đối với máy tính thôi sẽ là hàng chục triệu chi
người ta có thể sẽ bị thương, thậm chí có thể mất mạng. Các cuộc gọi 911 ông thực hiện được. Xe cấp cứu, xe cảnh sát sẽ kẹt tiên đường, vì đèn g ng không bật. Thang máy ngừng hoạt động. Sẽ có hốt hoảng, hoang ma ớp, giết, hiếp bao giờ cũng tăng lên trong thời gian cắt điện, thậm chí g n ngày ban mặt.
Điện giữ cho người ta lương thiện.
“Sếp?” Cậu kỹ thuật viên gọi một cách tuyệt vọng.
Người kỹ sư giám sát nhìn chằm chằm vào các đồng hồ chỉ điện áp đang h. Ông ta vớ lấy điện thoại của chính mình và gọi cho sếp của chính mì
t phó chủ tịch cấp cao của Algonquin. “Herb, chúng tôi gặp phải tình huố y.” Ông ta báo cáo tóm tắt tình hình.
“Làm sao xảy ra như thế được?”
“Chúng tôi không biết. Tôi đang nghĩ tới khủng bố.”
“Trời đất! Các anh gọi cho Bộ An ninh Nội địa chưa?”
“Rồi, vừa gọi. Từ đầu tới giờ chúng tôi hầu như chỉ cố gắng dẫn thêm đ n những khu vực bị ảnh hưởng. Chúng tôi đang không may mắn lắm.” Sếp ông ta suy nghĩ một lát “Có một đường dây truyền tải thứ hai chạy q nhattan-Mười, phải không?”
Người kỹ sư giám sát ngước nhìn màn hình lớn. Một đường dây cao thế ch a trạm, nhằm phía tây, phân phối điện cho các khu vực thuộc New Jers hải, nhưng nó không trực tuyến. Nó chỉ chạy qua một đường ống ở đó.” “Nhưng liệu các anh có thể đấu nối và sử dụng đường dây ấy làm ngu ng?”
“Bằng tay ư?… Tôi nghĩ rằng, nhưng… nhưng như thế có nghĩa phải đ ười vào MH-10. Và nếu chúng tôi không ngăn được dòng điện cho tới lúc l ng, nó sẽ phát nổ. Họ sẽ chết hết. Hoặc họ sẽ bị bỏng độ ba toàn thân.” Đầu dây bên kia nín lặng. “Giữ máy. Tôi sẽ gọi cho Jessen.” CEO của Liên hợp Algonquin. Còn được gọi một cách kín đáo là Kẻ Thố ái.
Trong lúc chờ đợi, người kỹ sư giám sát cứ nhìn những kỹ thuật viên xu anh mình. Ông ta cũng nhìn chằm chằm lên màn hình lớn. Những chấm ấp nháy.
Sự cố nghiêm trọng.
Rốt cuộc, sếp của sếp đã quay lại. Giọng ông ta rè đi. Ông ta đằng hắng m rồi nói, “Các anh được yêu cầu cử mấy người tới đó. Đấu nối bằng tay.” “Đấy là điều Jessen nói ư?”
Lại một lát im lặng. “Phải.”
Người kỹ sư giám sát thì thào, “Tôi không thể cử ai tới đó. Đấy là cảm tử.” “Vậy hãy xem có ai xung phong không. Jessen nói các anh không được, h u cho tôi, các anh không được sa thải phụ tải trong bất cứ hoàn cảnh nào.”
Chương 2
xế cẩn thận cho chiếc xe buýt M70 từ từ chạy tới điểm đỗ phố Năm mư y, gần đoạn chuyển tiếp giữa đại lộ Mười và đại lộ Amsterdam. Anh ta đa ng tâm trạng khá vui vẻ. Chiếc xe buýt mới này là loại có thể hạ sàn xuống nh khách bước từ vỉa hè lên dễ dàng hơn, nó có tấm dốc cho xe lăn, có
lái rất đỉnh và, đặc biệt quan trọng, nó có chiếc ghế lái thực sự êm ái. Có Chúa biết anh ta cần điều ấy, khi mỗi ngày ngồi trên ghế lái tới tám tiế ng hồ.
Anh ta không thích những chuyến tàu điện ngầm, dù Đường sắt Long Isla y Metro North. Không, anh ta mê những chuyến xe buýt, bất chấp thực trạ o thông điên cuồng, thái độ thù địch, điệu bộ và tức tối. Anh ta thích sự d
ủ khi đi xe buýt, người ta có thể bắt gặp bất cứ ai, từ các vị luật sư cho ững nhạc sĩ chật vật kiếm sống, những cậu bé giao hàng. Taxi thì đắt và m, tàu điện ngầm chẳng phải lúc nào cũng chạy đến nơi người ta muốn. C bộ? Chà, đây là Manhattan. Tuyệt vời nếu như có thời gian, nhưng ai có ch
lại, anh ta thích mọi người và anh ta thích cái thực tế rằng mình có thể u hay mỉm cười, nói xin chào với mỗi người bước lên xe. Người New Yo ác với ý kiến của một số người, hoàn toàn không lạnh nhạt chút nào. Chẳ a đôi lúc họ rụt rè cảm thấy bất an, thận trọng và lo lắng.
Nhưng thường thì chỉ cần một nụ cười, một cái gật đầu, một từ duy nhấ là người ta trở thành bạn mới của nhau.
Và anh ta hạnh phúc được trở thành bạn mới của mọi người. Chỉ cần qua sáu hay bảy khối phố.
Việc chào hỏi kiểu riêng tư này cũng cho anh ta cơ hội nhận ra những kẻ đ bất bình thường, những đối tượng trộm cắp, say rượu, “đập đá,” và qu h xem có cần nhấn nút báo khẩn hay không.
Suy cho cùng, đây là Manhattan.
Hôm nay trời đẹp, quang đãng và mát mẻ. Tháng Tư. Một trong những thá h ta thích. Lúc này, chừng mươi một rưỡi sáng và chuyến xe buýt chật ngư ng đi về mạn đông cho những cuộc hẹn ăn trưa hay tranh thủ giờ nghỉ g yết các việc vặt. Xe cộ di chuyển chậm chạp khi anh ta tiến chiếc xe khổng
n gần điểm đỗ hơn, nơi có bốn, năm người gì đó đang đứng cạnh cây cột g n bến xe buýt.
Anh ta tiến đến điểm đỗ và vô tình nhìn qua những người đang đợi lên h mắt anh ta bắt gặp tòa nhà màu nâu cũ kỹ phía sau họ. Một kiến trúc u thế kỷ XX, có các cửa sổ lắp chấn song nhưng bên trong lúc nào cũng
om. Anh ta chưa bao giờ trông thấy ai ra vào. Một chốn đáng sợ, giống n à tù. Phía trước là tấm biển bong tróc, chữ trắng sơn trên nền xanh lam.
CÔNG TY LIÊN HỢP ĐIỆN LỰC VÀ CHIẾU SÁNG ALGONQUIN TRẠM MH-10
BẤT ĐỘNG SẢN TƯ NHÂN.
NGUY HIỂM. CAO THẾ.
CẤM XÂM PHẠM.
Anh ta hiếm khi chú ý tới chốn này nhưng hôm nay có điều gì đó khiến anh ải nhìn, có điều gì đó, anh ta nghĩ, không được bình thường. Buông lò ng từ cửa sổ xuống cách đất chừng ba mét là một sợi dây, đường k oảng nửa đốt tay. Nó được bọc lớp cách điện màu đen. Nhưng ở đầu m
nhựa hay cao su gì đó đã bị tước mất, để lộ những sợi kim loại màu b ét qua một vật cố định, kiểu khuyên đồng. Sợi dây to khiếp đi được, anh ta ủ thầm.
Và buông xuống ngay qua cửa sổ. Như thế có an toàn không? Anh ta phanh cho xe dừng hẳn lại, nhấn nút mở cửa. Cơ chế hạ sàn liền h ng, chiếc xe to lớn hạ thấp xuống, bậc sắt cuối cùng còn cách đất dăm b ntimet.
Người lái xe quay gương mặt vuông vắn, hồng hào ra phía cánh cửa thủy ng mở với tiếng xì thỏa mãn.
Một bà cụ tuổi bát tuần, tay giữ chặt chiếc túi mua hàng hiệu Henri Bendel n, gật đầu chào lại và, chống cây gậy, lập cập bước về phía cuối xe, mặc ững chỗ ngồi phía trước vốn vẫn dành cho người già và người khuyết tật Làm sao bạn có thể không yêu người New York cơ chứ?
Rồi có chuyển động đột ngột xuất hiện trong gương chiếu hậu. Những á n màu vàng lóe lên. Chiếc xe tải phóng đến đằng sau chiếc xe buýt. Liên h onquin. Ba công nhân bước ra, đứng quây lại với nhau, trao đổi. Họ ma c hộp dụng cụ, áo khoác và găng tay dày. Trông họ chẳng hề vui vẻ khi từ ớc tới tòa nhà, nhìn chằm chằm vào nó. Ba cái đầu chụm lại khi họ bàn b đó. Một cái đầu lắc lắc vẻ đe dọa.
Rồi người lái xe quay sang vị hành khách cuối cùng đang chuẩn bị bước l t thanh niên gốc Latin tay giữ chặt thẻ MetroCard, dừng lại một chút phía b oài. Anh ta đang nhìn chằm chằm trạm điện. Chau mày. Người lái xe để y đầu anh ta nghển lên như thể đang đánh hơi trong không khí. Mùi a-xít. Có cái gì đó đang cháy. Thứ mùi này gợi cho anh ta nhớ đến -tơ trong máy giặt của vợ anh ta bị chập điện và các lớp cách điện bị ch ứ mùi gây buồn nôn. Một làn khói đang bay ra từ cửa trạm điện. Vậy đấy là lý do những công nhân của Algonquin đang hiện diện. Sẽ lộn xộn đây. Người lái xe tự hỏi liệu có cắt điện không, đèn giao thông ngừng hoạt động không. Như thế sẽ mệt mỏi cho anh ta lắm. Chuyến ch ang qua thành phố, bình thường mất hai mươi phút, sẽ kéo dài thành hà
ng đồng hồ. Chà, dù tình huống nào xảy ra, anh ta cũng nên nhường chỗ c phận cứu hỏa. Anh ta vẫy người thanh niên lên xe. “Này, anh, tôi phải o. Lên.. “
Khi người thanh niên, vẫn đang chau mày trước mùi khét kia, quay bước người lái xe nghe thấy những tiếp lốp bốp phát ra từ bên trong trạm đi ững tiếng nổ đanh, gần giống tiếng súng ngắn. Rồi một quầng sáng bằ ng chục mặt trời bùng lên che kín khoảng vỉa hè giữa chiếc xe buýt và sợi c ông lòng thòng qua cửa sổ.
Người hành khách đơn giản là biến mất vào đám lửa sáng trắng. Trước mắt người lái xe chỉ còn những dư ảnh màu xám. Âm thanh vừa n ng lách tách dữ dội vừa như tiếng súng ngắn, khiến tai anh ta ù đi. Mặc dù
t dây an toàn, thân trên anh ta vẫn bị đập vào cửa sổ thành xe. Qua đôi tai ù đi, anh ta nghe thấy vang vọng những tiếng hét của hành khá Qua đôi mắt mù dở, anh ta trông thấy những ngọn lửa.
Khi bắt đầu rơi vào trạng thái bất tỉnh, người lái xe còn tự hỏi liệu có phải b n anh ta đã là mồi gây ra đám cháy hay không.
Chương 3
ôi phải thông báo cho anh biết. Hắn đã thoát khỏi sân bay. Người ta phát h hắn ở trung tâm Mexico City cách đây một tiếng đồng hồ.” “Không.” Lincoln Rhyme nói với tiếng thở dài, thoáng nhắm mắt lại. “Không Amelia Sachs, ngồi bên cạnh chiếc xe lăn Mũi tên Dông bão màu kẹo táo
ơi của Rhyme, vươn người ra và nói vào cái hộp điện thoại có loa và mi u đen, “Chuyện diễn ra như thế nào?” Cô kéo mạnh mái tóc dài màu đỏ, t ững lọn tóc thành một đuôi ngựa chẳng cầu kỳ.
“Cho tới lúc chúng tôi nhận được thông tin về chuyến bay từ London, chuy y đó đã hạ cánh.” Giọng người phụ nữ phát ra quả quyết từ chiếc điện tho em chừng hắn trốn trong một xe công-ten-nơ, sau đấy lẻn qua một lối g ng. Tôi sẽ cho anh xem đoạn video an ninh mà chúng tôi nhận được từ cả
Mexico. Tôi có đường link. Giữ máy một phút nhé.” Giọng người phụ nữ n n trong lúc trao đổi với một cộng sự, hướng dẫn anh ta về đoạn video kia. Lúc bấy giờ vừa qua buổi trưa, Rhyme và Sachs đang ở phòng khách tầ t được biến thành phòng thí nghiệm pháp y trong ngôi nhà của anh ở mạn ng viên Trung tâm, vốn là một kiến trúc Gothic thời Victoria mà có lẽ - n yme thích nghĩ - từng là nơi trú ngụ của những con người thời Victoria chẳ p dẫn gì. Những thương nhân không khoan nhượng, những chính trị gia l
ưu nhiều kế, những kẻ lừa đảo đẳng cấp cao. Biết đâu cả một viên cảnh ởng không thể nào mua chuộc, chỉ ưa táng vào đầu người ta. Rhyme từ t cuốn sách kinh điển về tội phạm ở New York hồi xưa và đã sử dụng c uồn tư liệu nắm trong tay để cố gắng lần tìm phả hệ của ngôi nhà. Tuy nhi h không phát hiện được điều gì.
Người phụ nữ họ đang nói chuyện cùng ở trong một kiến trúc hiện đại hơ yme phải thừa nhận như thế, cách đó ba nghìn dặm: văn phòng Monte a Cơ quan Điều tra California. Đặc vụ CBI Kathryn Dance làm việc với Rhy Sachs từ vài năm trước, trong một vụ án liên quan đến chính gã đàn ông ng siết chặt vòng vây lúc này. Họ tin rằng gã tên thật là Richard Logan. D o, Rhyme hầu như chỉ nghĩ tới gã bằng biệt hiệu: Thợ Đồng Hồ.
Gã là một tội phạm chuyên nghiệp, một kẻ lên kế hoạch cho các tội ác với nh xác gã dành cho sở thích và mầm đam mê của mình: lắp ráp những ch ng hồ. Rhyme và gã sát thủ từng đụng độ nhau vài lần. Rhyme đã ngăn ch
ợc một kế hoạch của gã nhưng thất bại trong việc ngăn chặn một kế hoạ ác. Lincoln Rhyme tự coi anh đang thua về tỷ số chung cuộc vì Thợ Đồng n chưa bị bắt.
Rhyme ngả đầu về phía sau trên chiếc xe lăn, hình dung gương mặt c gan. Anh đã nhìn thấy gã bằng xương bằng thịt, rất gần. Thân hình rắn ch i tóc tối màu để dài khá trẻ con, ánh mắt vui vẻ dịu dàng khi bị cảnh sát th n, không bộc lộ chút manh mối nào về kế hoạch giết người hàng loạt mà ng xây dựng. Sự bình thản ở gã dường như là bẩm sinh, và Rhyme thấy
lẽ là phẩm chất đáng khó chịu nhất ở con người gã. Cảm xúc gây ra lỗi l sự bất cẩn, nhưng chưa ai buộc được Richard Logan tội dễ xúc động b .
Người ta có thể thuê gã đánh cắp cái gì đó, buôn lậu vũ khí, hay cho bất mưu nào đòi hỏi việc lập kế hoạch công phu và việc thực thi tàn nh ưng thông thường người ta thuê gã giết người - những nhân chứng, nhữ ười tố giác, những nhân vật trên chính trường hay trong doanh nghiệp. C tức tình báo gần đây cho thấy gã đã nhận một vụ giết người ở đâu đấy b xico. Rhyme đã gọi cho Dance, cô có nhiều đầu mối liên lạc ở phía nam b i nước Mỹ, và vài năm trước bản thân cô từng suýt nữa bị tay chân của T ng Hồ sát hại. Với sự dính líu ấy, Dance đang đại diện cho Mỹ trong ch h truy bắt và dẫn độ gã, phối hợp cùng một điều tra viên cấp cao của Cả
Liên bang Mexico, một sĩ quan trẻ tuổi, làm việc nhiệt tình tên là Árturo Dia Sáng sớm hôm ấy, họ biết được rằng Thợ Đồng Hồ sẽ hạ cánh xuống Mex y. Dance đã gọi cho Diaz, anh ta đã nỗ lực cử thêm cảnh sát tới khu vực s y để chặn Logan. Nhưng, như thông báo mới nhất của Dance, họ đã khô .
“Anh sẵn sàng xem video chưa?” Dance hỏi.
“Bắt đầu đi.” Rhyme nhấc một trong mấy ngón tay còn động đậy được - ng của bàn tay phải - và di chuyển chiếc xe lăn điện đến gần màn hình hơn. A iệt tứ chi mức C4, từ hai vai trở xuống hầu như liệt hoàn toàn.
Trên một trong mấy màn hình phẳng trong phòng thí nghiệm xuất hiện h h khá nhiễu về quang cảnh ban đêm của một sân bay. Rác rưởi và các h cứng bỏ đi, vỏ lon, thùng phi… nằm rải rác hai bên dãy hàng rào quay c nh. Một chiếc máy bay vận tải tư nhân lăn bánh lọt vào ống kính, ngay khi ng lại, cửa khoang phía cuối mở và một người đàn ông nhảy ra. “Đó là hắn,” Dance nói khẽ khàng.
“Tôi không nhìn rõ.” Rhyme đáp.
“Đó dứt khoát là Logan.” Dance quả quyết. “Họ lấy được một phần dấu v , chờ chút xíu anh sẽ thấy.”
Gã đàn ông vươn vai, rồi định hướng. Gã quàng chiếc túi qua người, l om chạy về phía trước, nấp sau một nhà kho. Sau đấy mấy phút, một cô ân đi tới, mang theo cái hộp cỡ bằng hai hộp đựng giày. Logan chào anh
cái hộp và đưa cho anh ta một phong bì cỡ để đựng thư. Người công nh n xung quanh, rồi hấp tấp quay bước. Một chiếc xe bảo dưỡng dừng gan leo lên thùng xe, nấp bên dưới những tấm giấy dầu. Chiếc xe biến m ỏi ống kính máy quay.
“Chiếc máy bay thì sao?” Rhyme hỏi.
“Tiếp tục bay xuống Nam Mỹ theo một điều lệ doanh nghiệp. Phi công ch phi công phụ khẳng định họ không biết bất cứ điều gì về kẻ lậu vé. Tất nhi nói dối. Nhưng chúng ta không có quyền thẩm vấn họ.”
“Thế tay công nhân?” Sachs hòi.
“Cảnh sát Liên bang đã triệu tập anh ta. Anh ta chỉ là lao động nhận m ơng tối thiểu của sân bay. Anh ta khai một người không quen biết bảo rằ h ta sẽ được trả hai trăm đô la để chuyển cái hộp. Số tiền được đựng tro ong bì. Trên phong bì, họ tìm thấy dấu vân tay.”
“Trong hộp đựng gì?” Rhyme hỏi.
“Anh ta nói mình không biết, tuy nhiên anh ta cũng nói dối, tôi xem video th n mà. Người của Cơ quan Phòng chống Ma túy của ta đang thẩm vấn anh muốn tự mình cố dỗ anh ta khai ra một chút, nhưng việc xin phép mất q ều thời gian.”
Rhyme và Sachs nhìn nhau. Dance dùng từ “dỗ” là hơi khiêm tốn. Cô uyên gia về ngôn ngữ hình thể và là một trong những chuyên gia thẩm v ng đầu cả nước. Nhưng mối quan hệ cơm chẳng lành canh chẳng ngọt g
quốc gia có chủ quyền khiến một cảnh sát California sẽ phải làm vô khối g thủ tục trước khi vào được Mexico để thực hiện cuộc thẩm vấn chính th c dù Cơ quan Phòng chống Ma túy Mỹ đã có đại diện hợp pháp ở đó. Rhyme hỏi, “Logan bị phát hiện tại địa điểm nào ở thủ đô Mexico?” “Một khu kinh doanh thương mại. Họ lần theo hắn đến một khách sạn, ên hắn không ở đó. Đó là địa điểm gặp gỡ thôi, người của Diaz nghĩ như v i lúc họ bố trí ngoại tuyến xong thì hắn đã biến mất. Nhưng tất cả các an thực thi pháp luật và các khách sạn bây giờ đều đã có ảnh hắn.” Dan
thêm rằng sếp của Diaz, một quan chức cảnh sát rất cao cấp, sẽ tiếp m vấn. “Điều đáng khích lệ là họ nghiêm túc với vụ này.”
Phải, đáng khích lệ, Rhyme nghĩ. Nhưng anh cũng cảm thấy thất vọng. S a tìm ra con mồi, đồng thời anh hầu như không kiểm soát được toàn bộ … Anh thấy mình đang thở gấp hơn. Anh xem xét lại trận chiến cuối cù
ữa anh và Thợ Đồng Hồ. Logan đã tư duy sắc sảo hơn tất cả mọi người. dàng giết chết đối tượng gã được thuê giết. Rhyme đã nắm trong tay tất c thông tin để phán đoán hướng hành động của Logan. Vậy mà anh đã đ hoàn toàn chiến lược của gã.
“À này.” Anh nghe thấy Sachs hỏi Kathryn Dance. “Dịp cuối tuần lãng mạn nào?” Điều này dường như liên quan đến chuyện tình yêu của Dance. hai con mất chồng cách đây đã vài năm.
“Chúng tôi đã có khoảng thời gian tuyệt vời.” Nữ đặc vụ trả lời. “Anh chị đi đâu?”
Rhyme không thể hiểu nổi tại sao Sachs lại quay sang hỏi về đời sống t m của Dance. Cô phớt lờ cái liếc mắt sốt ruột anh dành cho cô. “Santa Barbara. Có ghé lâu đài Hearst… Này, tôi vẫn chờ hai người xuố y đấy. Bọn trẻ thực sự muốn gặp hai người. Wes viết một bài về khám nghi áp y cho nhà trường và có nhắc tới anh Lincoln. Thầy giáo nó từng sống w York, từng đọc mọi thông tin về anh.”
“Vâng, thế thì hay quá!,” Rhyme đáp, trong đầu chỉ nghĩ tới Mexico City. Sachs mỉm cười trước giọng nói sốt ruột của anh và bảo Dance bây giờ họ c.
Sau khi ngắt kết nối, cô lau mồ hôi trên trán Rhyme - anh không nhận ra rằ nh đã đổ mồ hôi - và họ ngồi im lặng một lát, nhìn qua cửa sổ bóng dáng m ờ của con chim ưng đang chao liệng. Nó ngoặt vào cái tổ ở gác hai n yme. Mặc dù không phải là không phổ biến tại các đô thị lớn - nơi có ê hề b câu béo múp, ngon lành làm thức ăn - loài chim săn mồi này thường xây tổ ững vị trí cao hơn. Tuy nhiên, vì lý do nào đấy, mấy thế hệ gia đình con ch y đã coi ngôi nhà của Rhyme là nhà mình. Anh thích sự hiện diện của chú úng thông minh, bắt mắt, và là những vị khách hoàn hảo, không đòi hỏi ở a cứ thứ gì.
Một giọng đàn ông cắt ngang sự im lặng, “Chà, anh đã tóm cổ được h ưa?”
“Ai?” Rhyme gắt. “Và cái động từ tóm cổ nghe mới tài tình làm sao.” Thom Reston, phụ tá chăm sóc sức khỏe cho Rhyme, nói, “Thợ Đồng Hồ ấ “Chưa.” Rhyme làu bàu.
“Nhưng anh đang theo sát hắn rồi, phải không?” Thom hỏi. Anh ta trông c u trong chiếc quần màu đen, sơ mi kiểu văn phòng hồ cứng màu vàng và hoa.
“Ồ, sát.” Rhyme lẩm bẩm. “Sát. Điều ấy rất hữu ích. Lần tới cậu bị một con núi tấn công, Thom ạ, cậu cảm giác ra sao nếu viên đạn của kiểm lâm b con vật? So với, ô, tỉ dụ như, thực sự trúng nó?”
“Chẳng phải sư tử núi có nguy cơ tuyệt chủng à?” Thom hỏi, thậm chí khô m mất công tỏ vẻ mỉa mai. Anh ta đã miễn dịch với thói bực bội của Rhym h ta đã làm việc cho nhà thám tử nhiều năm, lâu hơn thời gian khối cặp
ồng chung sống. Và anh chàng phụ tá này dày dạn kinh nghiệm đối phó y n t người bạn đời cứng rắn nhất.
“Ha ha. Rất khôi hài đấy. Có nguy cơ tuyệt chủng.”
Sachs bước vòng ra phía sau xe lăn của Rhyme, nắm lấy hai vai anh và u một bài xoa bóp ngẫu hứng. Sachs cao và có thân hình đẹp hơn hầu c thám tử Sở Cảnh sát New York trạc tuổi cô. Tuy chứng viêm khớp hay hà
đầu gối và các khớp xương chân cô, cánh tay và bàn tay cô vẫn mạnh kh n như không bao giờ đau đớn gì.
Họ mặc trang phục làm việc: Rhyme mặc quần thể thao màu đen, sơ mi u xanh lá cây sẫm. Sachs đã cởi áo vét màu xanh nước biển, nhưng v c chiếc quần đồng bộ và áo vải bông màu trắng, một khuy cổ mở, để lộ ch
ọc trai. Khẩu Glock đeo cao bên hông trong bao polymer cho phép rút anh chóng, và hai ổ đạn nằm cạnh nhau trong hai bao riêng, cùng với kh ng điện gây choáng Taser.
Rhyme cảm nhận được mạch đập nơi những ngón tay cô. Anh có xúc g àn hảo ở phía trên vị trí mà vài năm trước cột sống của anh gãy một phát - đốt sống cổ thứ tư. Mặc dù từng cân nhắc việc phẫu thuật mạo hiểm để ện tình trạng, anh rốt cuộc đã lựa chọn một phương pháp phục hồi chức nă
ác. Bằng hàng loạt các bài tập thể dục và trị liệu kiệt sức, anh đã phục ợc chút ít hoạt động cho ngón tay, bàn tay. Anh cũng có thể sử dụng ng o nhẫn tay trái mà nhờ lý do nào đấy không hề bị ảnh hưởng sau khi thanh à ga tàu điện ngầm rơi xuống làm gãy cổ anh.
Rhyme thích thú cảm nhận những ngón tay ấn sâu vào da thịt y như tỷ lệ n oi xúc giác còn sót lại trên thân thể anh được gia tăng. Anh liếc xuống ân vô dụng, rồi nhắm mắt.
Thom lúc bấy giờ mới nhìn kỹ anh. “Anh ổn chứ, Lincoln?” “Ổn ư? Ngoài việc tên tội phạm tôi lùng sục suốt bao năm qua đã tuột khỏi ộp của chúng tôi và hiện đang ẩn náu đâu đó trong cái thành phố đông d ứ hai bán cầu này, thì tôi cứ gọi là tươi rơi rói.”
“Tôi không nói về việc ấy. Anh trông không khỏe lắm.”
“Cậu đúng đấy. Thực tế là tôi cần đến thuốc.”
“Thuốc à?”
“Whisky. Có whisky tôi sẽ cảm thấy khá hơn.”
“Không, anh đừng tưởng.”
“Chà, tại sao chúng ta không thử thí nghiệm nhỉ. Khoa học. Thuyết Desca hữu tỉ. Ai có thể tranh luận lại những thứ đó? Tôi biết mình đang cảm th nào. Vậy tôi sẽ uống chút whisky và báo cáo tình hình cho cậu.” “Không. Bây giờ còn quá sớm.” Thom nói dứt khoát.
“Chiều rồi.”
“Vẫn sớm mấy phút.”
“Mẹ kiếp.” Rhyme nói giọng cộc cằn, như thường lệ, nhưng thực ra bài x p của Sachs đang khiến anh quên bẵng đi xung quanh. Vài sợi tóc đỏ t ỏi cái đuôi ngựa cọ vào má anh buồn buồn. Anh không ngoảnh đầu đi c ác. Vì xem ra anh đã thua trong trận chiến single-malt, anh phớt lờ Tho ưng anh chàng phụ tá nhanh chóng kéo sự chú ý của anh quay trở lại. “L h nói chuyện điện thoại, Lon gọi đấy!”
“Thế à? Tại sao cậu chằng bảo tôi?”
“Anh đã bảo đừng quấy rầy anh lúc anh đang nói chuyện với Kathryn mà.” “Nào, bây giờ thì nói tôi xem nào!”
“Anh ấy sẽ gọi lại. Liên quan đến một vụ án nào đấy. Một rắc rối.” “Thật ư?” Vụ Thợ Đồng Hồ phần nào bị lu mờ trước tin tức này. Rhyme h g còn một nguyên nhân khác nữa dẫn đến tâm trạng không vui vẻ của a tẻ nhạt. Anh vừa hoàn thành công việc phân tích chứng cứ cho một vụ ph có tổ chức phức tạp và đang đối mặt với vài tuần gần như chẳng có gì m. Vì thế, anh phấn chấn nghĩ tới công việc mới. Giống như Sachs say mê Rhyme cần những vấn đề, những thách thức, những dữ liệu. Một tro ững khó khăn rất ít được chú ý đối với người khuyết tật nặng là sự thiếu vắ ững điều mới mẻ. Khung cảnh, con người và các hoạt động… không thay đ sự vô vị, những lời động viên sáo rỗng lẫn những dòng bệnh án từ các bác m xúc đã trơ lì cũng chẳng hề thay đổi.
Thứ đã cứu sống anh sau khi bị tai nạn - nói chính xác là sau khi anh đã c ắc việc tự tử có hỗ trợ - là những bước chập chững trở lại với niềm đam ớc đây: sử dụng khoa học để giải quyết các vụ án.
Người ta không bao giờ có thể buồn chán khi đương đầu với những bí ẩn. Thom vẫn chưa thôi băn khoăn, “Anh có chắc chắn rằng mình muốn th ổi vụ án này không? Anh trông hơi xanh.”
“Cậu biết đấy, gần đây tôi không ra bãi biển.”
“Được rồi. Tôi chỉ hỏi xem sao thôi. Ồ, và Arlen Kopeski sẽ đến. Anh mu p anh ta lúc nào?”
Cái tên nghe quen quen, nhưng nó để lại một dư vị khó chịu mơ hồ tro ệng Rhyme. “Ai nhỉ?”
“Anh ta đi với nhóm hoạt động vì quyền của người khuyết tật ấy. Liên quan ần thưởng anh sẽ được trao tặng.”
“Hôm nay à?” Rhyme lờ mờ nhớ lại vài cuộc điện thoại. Nếu không liên qu một vụ án, anh hiếm khi chú ý tới tiếng động xung quanh mình. “Anh đã bảo hôm nay. Anh đã bảo gặp anh ta mà.”
“Ồ, tôi thực sự cần một phần thưởng. Tôi sẽ làm gì với nó? Một cái chặn g Cậu có biết người nào từng dùng đến chặn giấy không? Cậu có từng dù ông?”
“Lincoln, nó được trao tặng cho anh để truyền cảm hứng cho những ngư uyết tật trẻ.”
“Khi tôi còn trẻ, tôi nào có được ai truyền cảm hứng cho. Và tôi hóa ra v on lành.” Điều này không hoàn toàn đúng sự thực - cái việc được truyền c ng ấy - nhưng Rhyme vốn vẫn trở nên nhỏ mọn mỗi khi có nguy cơ bị l
t tập trung, đặc biệt nếu đối tượng làm mất tập trung lại liên quan đến nhữ khách.
“Nửa tiếng.”
“Tôi không có nửa tiếng đó.”
“Quá muộn rồi. Anh ta đã vào thành phố.”
Đôi khi không thể thắng nổi anh chàng phụ tá.
“Chúng ta sẽ xem xét.”
“Kopeski sẽ không đến đây và chờ đợi kiểu triều thần chờ đợi diện kiến n a đâu!”
Rhyme thích hình ảnh ẩn dụ đó.
Nhưng rồi tất cả mọi ý nghĩ về phần thưởng, về triều đình biến mất uông điện thoại của Rhyme reo vang và số máy của trung úy thám tử L litto hiện lên.
Rhyme sử dụng một ngón tay hoạt động được bên bàn tay phải trả lời đ ại. “Lon à.”
“Linc, nghe này, sự việc như thế này.” Anh ta vội vã nói và, với những nh xung quanh truyền qua loa điện thoại, xem chừng anh ta đang phóng nhanh. “Chúng tôi có lẽ gặp phải một tình huống khủng bố.” “Tình huống? Nghe không cụ thể lắm.”
“Được rồi, thế này nhé. Có kẻ nào đó đã đột nhập vào công ty điện l óng một tia lửa năm nghìn độ vào một xe buýt thành phố và làm sập lưới đ u khối phố phía nam Trung tâm Lincoln. Với anh, như vậy đủ cụ thể rồi chứ
Chương 4
u đoàn kéo nhau đến từ trung tâm thành phố.
Đại diện của Bộ An ninh Nội địa là một nhân viên cấp cao nhưng vẫn còn t t nét đặc trưng ở cơ quan này. Anh ta có lẽ được sinh ra và lớn lên gi ững câu lạc bộ miền quê Connecticut hay Long Island, tuy nhiên, đối yme, đấy chỉ là một nhận xét mang tính nhân khẩu học, chứ không nhất th khuyết điểm. Anh ta có cặp mắt sáng, sắc sảo, khiến người ta không n
g anh ta có khi cũng chẳng biết rõ mình thuộc thứ bậc nào trong hệ thố ực thi pháp luật, dẫu sao thì điều ấy cũng đúng đối với hầu hết mọi người l c cho Bộ An ninh Nội địa. Tên anh ta là Gary Noble.
Tất nhiên, Cơ quan Điều tra Liên bang cũng có mặt, dưới hiện thân là m c vụ mà Rhyme và Sellitto thường xuyên cộng tác: Fred Dellray. Người sá FBI J. Edgar Hoover sẽ khiếp đảm trước đặc vụ Mỹ gốc Phi này, chỉ m ần vì gốc gác của anh ta rõ ràng không phải ở New England, còn căn b uyên nhân của nỗi thất kinh là bởi đặc vụ này thiếu “phong cách phố số Ch t cách gọi trụ sở FBI ở thủ đô Washington. Dellray chỉ mặc sơ mi trắng o cà vạt nếu nhiệm vụ bí mật đòi hỏi, và đối xử với kiểu trang phục ấy giố ư bất kỳ kiểu trang phục nào khác trong tủ quần áo diễn viên của mình. H y, anh ta mặc đúng chất Dellray: Bộ com lê sọc vuông màu xanh lá cây sẫ mi màu hồng của một giám đốc điều hành phố Wall vui tính và cà vạt m m mà nếu có là trước đây, Rhyme cũng không co cẳng chạy kịp. Dellray đi cùng sếp mới được bổ nhiệm của anh ta, Phó Trưởng văn phò I tại New York, Tucker McDaniel, người đã bắt đầu sự nghiệp ở Washingt được phân công sang Trung Đông và Nam Á. Viên Phó Trưởng văn phò y có vóc dáng rắn chắc, tóc tối màu và nước da ngăm ngăm đen, tuy nh t có màu xanh lơ nhạt, ánh mắt chiếu chằm chằm vào người ta y như thể ng nói dối khi nói câu “xin chào.”
Đó là cách biểu lộ hữu ích đối với một nhân viên thực thi pháp luật và là cá u lộ bản thân Rhyme ưa dùng trong hoàn cảnh thích hợp.
Sự hiện diện của lãnh đạo Sở Cảnh sát New York là Lon Sellitto mập m c bộ com lê màu xám và, khác với bình thường, chiếc sơ mi màu xanh
ạt. Chiếc cà vạt - với các vết sậm màu do thiết kế chứ chẳng phải do dây b món duy nhất không nhàu nhĩ trong số các món trang phục khoác trên ngư h ta. Chắc là quà sinh nhật bạn gái sống chung, Rachel, hoặc con trai anh g. Viên thám tử phụ trách tổ Trọng án được hỗ trợ bởi Sachs và Ron Pulas àng sĩ quan tóc vàng lúc nào cũng trẻ trung vốn thuộc bộ phận Tuần t ính thức thì cậu ta làm việc với Sellitto, nhưng chủ yếu là làm việc khô nh thức với Rhyme và Sachs ở mảng khám nghiệm hiện trường. Pulaski m đồng phục tiêu chuẩn của Sở Cảnh sát New York màu tím than, áo phông ở chỗ chữ V của cổ áo ngoài.
Cả hai mật vụ liên bang, McDaniel và Noble, tất nhiên đều đã nghe nói yme, nhưng chưa bao giờ gặp anh. Họ thể hiện các mức độ khác nhau c ngạc nhiên, thông cảm, và thiếu thoải mái khi trông thấy chuyên gia tư v áp y bị liệt, người đang khéo léo di chuyển khắp phòng thí nghiệm trên ch lăn. Tuy nhiên, cảm giác lạ lẫm và thiếu thoải mái nhanh chóng biến mất, n ng tất cả các trường hợp, trừ đối với những vị khách “đáng mến” nhất và anh chóng choáng ngợp trước một điều còn kỳ lạ hơn: Căn phòng được tra
bằng những đường gờ và ván ốp chân tường đầy ắp các thiết bị mà đơn ám nghiệm hiện trường của một thành phố cỡ trung có lẽ cũng còn phải gh
Sau màn giới thiệu, Noble chiếm lĩnh vị trí trung tâm, Bộ An ninh Nội địa bóng lớn hơn mà.
“Anh Rhyme…”
“Lincoln thôi.” Anh đính chính lại. Rhyme hay trở nên tức tối mỗi khi ai ần chừ chưa gọi anh bằng tên, và anh coi việc gọi anh bằng họ là một cách vỗ vào đầu anh bảo, “Tội nghiệp. Đáng thương thay khi anh bị giam h n xe lăn từ giờ đến chết. Bởi vậy, chúng tôi sẽ cư xử đặc biệt lịch sự với a n bình thường.”
Sachs nắm bắt được áp lực đằng sau lời đính chính của Rhyme, cô dịu dà o mắt. Rhyme cố gắng không mỉm cười.
“Thế thì, vâng, Lincoln.” Noble hắng giọng. “Bối cảnh là như thế này. Anh b về lưới điện?”
“Không nhiều.” Rhyme thừa nhận. Ở trường đại học, anh từng được dạy oa học nhưng chưa bao giờ chú ý lắm đến điện, ngoài sự xuất hiện của n từ trong vật lý là một trong bốn lực cơ bản của tự nhiên cùng với lực h n, lực hạt nhân yếu và lực hạt nhân mạnh. Nhưng đó là kiến thức học thu thực tiễn, mối quan tâm chính đến điện của Rhyme chỉ là làm sao ngôi n a anh có đủ điện để chạy các thiết bị trong phòng thí nghiệm này. Chúng c ngốn điện và anh đã phải hai lần đặt lại đường dây để gia tăng tải.
Rhyme cũng rất ý thức rằng anh còn sống và vận động được hoàn toàn ờ điện: Ống dẫn ôxi vào phổi anh ngay sau khi xảy ra tai nạn, pin trong ch lăn bây giờ, dòng điện được điều khiển thông qua tấm cảm ứng và bộ xử h hoạt bằng giọng nói, bộ xử lý môi trường. Tất nhiên, cả máy tính nữa. Không có điện, anh sẽ sống hết sức khó khăn. Có lẽ là chẳng thể nào số .
Noble tiếp tục, “Bối cảnh ban đầu là đối tượng chưa xác định của chúng ta nhập vào một trạm biến áp của công ty điện lực và chạy một dây dẫn ra b oài tòa nhà.”
“Đối tượng chưa xác định là một người à?” Rhyme hỏi.
“Chúng tôi chưa biết.”
“Chạy dây dẫn ra bên ngoài. Được rồi.”
“Sau đấy xâm nhập vào máy tính kiểm soát lưới điện. Hắn thao tác để nó đ n áp cao hơn mức có thể kiểm soát được đi qua trạm.” Noble mân mê kh măng sét hình con vật gì đó.
“Và dòng điện tăng vọt.” Đặc vụ FBI McDaniel xen ngang. “Về cơ bản, nó truyền xuống đất. Người ta gọi là hồ quang điện. Một vụ nổ. Giống như m sét””
Một tia lửa năm nghìn độ..
Viên Phó Trưởng văn phòng nói thêm, “Nó mạnh đến nỗi tạo ra plasma. Đó ng vật chất…”
“… chẳng phải khí, lỏng hay rắn.” Rhyme sốt ruột tiếp lời.
“Chính xác. Một tia hồ quang nho nhỏ thôi đã có sức nổ gần bằng n ogam TNT, trong khi tia này lại không hề nhỏ.”
“Và mục tiêu của hắn là chiếc xe buýt?” Rhyme hỏi.
“Có vẻ vậy.”
Sellitto nói, “Nhưng xe buýt có bánh cao su mà. Xe cộ là chỗ trú an toàn n ng giông tố. Tôi đã xem Chương trình ti vi nào đó phổ biến kiến thức này.” “Đúng.” McDaniel nói. “Nhưng đối tượng đã tính toán hết. Đó là loại xe b thể hạ sàn. Hoặc hắn coi như bậc lên xuống xe sẽ chạm vỉa hè hoặc hắn ng người nào đó sẽ một chân dưới mặt đất, một chân đã bước lên xe. N đủ để tia lửa điện đánh trúng xe.”
Noble lại xoay xoay con thú bé xíu bằng bạc ở măng sét áo. “Nhưng việc t n thời gian không chính xác. Đấy là mục đích của hắn hoặc vì gì đó. Tia n đánh trúng cột biển báo bên cạnh xe. Làm một hành khách tử vong, một
ười ở gần bị điếc, một số người bị mảnh thủy tinh găm vào, và xảy ra một áy. Nếu nó đánh trực tiếp vào xe buýt, thương vong sẽ nghiêm trọng hơn ều. Tôi cho rằng nửa số hành khách sẽ thiệt mạng. Hoặc bị bỏng độ ba.”
“Lon bảo là có cắt điện.” Rhyme nói
McDaniel lại tham gia vào cuộc trao đổi. “Đối tượng sử dụng máy tính đó n trạm điện khác trong khu vực, nên toàn bộ lượng điện đổ hết vào trạm t ố Năm mươi bảy. Ngay sau khi xảy ra việc phóng tia hồ quang, trạm đó g ến, nhưng Algonquin cũng đã khôi phục được các trạm kia. Ngay bây g u khối phố hạt Clinton đều đang mất điện. Anh chưa nghe thông báo t ương trình tin tức à?”
“Tôi không xem tin tức mấy” - Rhyme trả lời.
Sachs hỏi McDaniel, “Người tài xế hay bất kỳ người nào khác có trông thấy ông?”
“Không có gì hữu ích cả. Có mấy công nhân ở đó. CEO của Algonquin lệ o họ phải vào bên trong thử chạy lại đường dây hay đại loại vậy. Ơn Chúa chưa vào trước khi xảy ra phóng tia hồ quang.”
“Không có ai ở bên trong à?” Fred Dellray hỏi. Anh ta có vẻ hơi lơ ngơ yme nghĩ là McDaniel chưa kịp thông tin đầy đủ cho thanh viên đội mình. “Không. Các trạm điện chủ yếu chỉ có máy móc thôi, không có người b ng, trừ những lúc sửa chữa hay bảo dưỡng thường lệ.”
“Máy tính đã bị hack như thế nào?” Lon Sellitto hỏi, xoay trở cót két trên ch ế dựa bằng gỗ liễu gai.
Gary Noble nói, “Chúng tôi chưa chắc chắn được. Chúng tôi đang thử c h bản. Chuyên gia an ninh mạng của chúng tôi đang thử kịch bản khủng họ không thể xâm nhập vào hệ thống máy tính. Nhưng các anh biết đấy, đ
phạm luôn đi trước chúng ta một bước, xét về mặt công nghệ.” Ron Pulaski hỏi, “Có ai nhận trách nhiệm không?”
“Chưa có ai.” Noble trả lòi.
Rhyme hỏi, “Vậy tại sao lại nghĩ đến khủng bố? Tôi thì đang nghĩ đó là m ch hữu hiệu để ngắt chuông cảnh báo và hệ thống an ninh. Có báo cáo về ng hay đột nhập gì không?”
“Cho tới giờ phút này thì không.” Sellitto đáp.
“Một số lý do khiến chúng tôi nghĩ đến khủng bố là…” McDaniel nói. “T ất, phần mềm của chúng tôi gợi ý điều này. Và ngay sau khi vụ việc xảy ra ười của chúng tôi đã xử lý những tín hiệu nhận được từ Maryland.” Anh ừng lời, như thể muốn căn dặn đừng ai ở đây nói lại ra ngoài điều mình s
a nói. Rhyme suy luận rằng chàng đặc vụ FBI đang ám chỉ thế giới tình báo m - những cơ quan chuyên rình mò của chính phủ, về nguyên tắc có ông có quyền hạn gì ở đất nước này, nhưng có thể thông qua các kẽ hở m thông tin về các hoạt động phi pháp có khả năng diễn ra trong phạm vi lã . Cơ quan An ninh Quốc gia - những kẻ nghe lén điêu luyện nhất thế giớ
h cờ lại đặt trụ sở tại Maryland. “Một hệ thống SIGINT mới đã đưa ra nhữ liệu đáng quan tâm.”
SIGINT (Signal Intelligence) Tình báo tín hiệu. Giám sát điện thoại di độ n thoại vệ tinh, email… Có vẻ là phương pháp tiếp cận đúng đắn khi p ơng đầu với loại đối tượng sử dụng đến điện để mở một cuộc tấn công. “Đã thu được những tín hiệu liên quan tới cái mà chúng tôi nghĩ là một nh ủng bố mới hoạt động trong khu vực. Chưa từng bị liệt vào danh sách c óm khủng bố.”
“Nhóm nào vậy?” Sellitto hỏi.
“Cái tên bắt đầu với từ “Công lý” và có từ “cho” trong đó.” McDaniel trình bà Công lý cho…
Sachs hỏi, “Không có gì nữa à?”
“Không. Có thể là ‘Công lý cho Đức Chúa trời’, ‘Công lý cho những kẻ bị đ . Có thể là bất cứ cái gì. Chúng tôi không có manh mối nào cả.” “Tuy nhiên, những từ đó là tiếng Anh à?” Rhyme hỏi. “Không phải tiếng p. Hay Somali, hay Indonesia?”
“Vâng.” McDaniel nói. “Nhưng tôi đang chạy các Chương trình giám sát ôn ngữ, đa phương ngữ đối với mọi tín hiệu liên lạc chúng tôi có thể ợc.”
“Một cách hợp pháp.” Noble vội vã bổ sung thêm. “Những tín hiệu liên úng tôi có thể thu được một cách hợp pháp.”
“Nhưng hầu hết các hoạt động thông tin liên lạc của nhóm này đều diễn ra ền đám mây.” McDaniel nói. Anh ta không giải thích ý ấy.
“Ừm, cái đấy là gì ạ, thưa sếp?” Ron Pulaski hỏi. Rhyme cũng đang sắp s câu tương tự, tuy nhiên sẽ với cung cách kém kính trọng hơn nhiều. “Miền đám mây ấy à?” Viên Phó Trưởng văn phòng trả lời. Khái niệm n ất phát từ cách tiếp cận máy tính mới nhất, khi những dữ liệu và Chương tr a anh được lưu trữ trên các máy chủ ở chỗ khác, không phải trên máy t a anh. Tôi đã viết một bài phân tích về khái niệm này. Tôi sử dụng nó để p tới những giao thức thông tin liên lạc mới. Những người chơi ám muội hi sử dụng điện thoại di động và email một cách bình thường. Những đối tượ h nghi đang khai thác các kỹ thuật mới, ví dụ như blog, Twitter, Facebook, tin nhắn. Ngoài ra, chúng còn nhúng mã khi upload và download các s ẩm âm nhạc, video. Cá nhân tôi nghĩ chúng đồng thời kết hợp một số ng mới, các loại điện thoại cài đặt thêm tính năng khác nhau, radio với tần y đổi.”
Miền đám mây.. Những người chơi ám muội…
“Tại sao anh nghĩ nhóm “Công lý cho” đứng đằng sau vụ tấn công?” Sac .
“Chúng ta không nhất thiết phải nghĩ như vậy.” Noble nói. McDaniel tiếp lời, “Chỉ là, có một số dữ liệu SIGINT cho thấy có các khoản diễn ra trong vài ngày qua và những động thái nhân sự cùng câu ‘Sẽ uyện lớn’. Nên sau vụ tấn công ngày hôm nay, chúng tôi nghĩ, có thể.” “Và sắp sửa tới Ngày Trái đất nữa.” Noble nêu lên.
Rhyme không chắc Ngày Trái đất là ngày gì, cũng chẳng giữ quan điểm về cách này hay cách khác, ngoài việc nhận ra với đôi chút bực bội rằng ng như mọi ngày lễ, mọi sự kiện: các đám đông, những người biểu tình l
nghẽn đường phố, Sở Cảnh sát phải huy động toàn bộ lực lượng, mà n ông, anh sẽ có thể sử dụng họ để giải quyết các vụ án.
Noble nói, “Có thể hơn cả là trùng hợp ngẫu nhiên. Tấn công lưới điện ng ớc Ngày Trái đất? Tổng thống sẽ phải quan tâm.”
“Tống thống à?” Sellitto hỏi.
“Phải. Ông ấy sẽ tham dự một hội nghị thượng đỉnh về năng lượng tái tạo ức bên ngoài thủ đô.”
Sellitto giọng trầm ngâm, “Ắt hẳn là như vậy. Khủng bố sinh thái.” Người ta không hay bắt gặp vấn đề này ở thành phố New York, khai thác mỏ lộ thiên không phải những ngành công nghiệp lớn tại đây. “‘Công lý cho Môi trường’, có thể thế.” Sachs nêu ý kiến.
“Nhưng…” McDaniel nói. “Còn gợi ý khác nữa. Một dữ liệu SIGINT chỉ g “Công lý cho” có mối tương quan với cái tên Rahman. Không kèm úng tôi có tám cái tên Rahman đã mất tích khỏi danh sách theo dõi các nh
ủng bố Hồi giáo. Chúng tôi đang nghĩ có thể là một trong số tám cái tên n ưng chúng tôi chưa biết là cái nào.”
Noble đã bỏ mặc hai con gấu hay hải ngưu gì đó ở măng sét áo và bây ng nghịch một chiếc bút đẹp. “Bộ An ninh Nội địa chúng tôi nghĩ Rahman là thành viên của một nhóm nằm vùng ở đây đã hàng năm nay, có thể oảng thời gian xảy ra vụ 11/9. Xa rời lối sống Hồi giáo. Gắn bó với các g ờng ôn hòa, tránh sử dụng ngôn ngữ Ả Rập.”
McDaniel bổ sung thêm, “Tôi đã điều một trong những nhóm C và T của tô antico lên.”
“C và T?” Rhyme khó chịu hỏi.
“Công nghệ và Thông tin Liên lạc. Để theo dõi ngoại tuyến. Và các chuy n nghiên cứu hồ sơ tội phạm, phòng trường hợp cần tham khảo. Hai luật a Bộ Tư pháp. Ngoài ra, sẽ tăng cường thêm hai trăm đặc vụ.”
Rhyme và Sellitto liếc nhìn nhau. Quả là lực lượng tác chiến lớn tới m ng ngạc nhiên đối với một tình huống riêng lẻ, không thuộc một cuộc điều ng được tiến hành nào. Và được điều động nhanh chóng đến kỳ lạ. Vụ ng mới xảy ra chưa đầy hai tiếng đồng hồ.
McDaniel để ý thấy phản ứng của họ. “Chúng tôi tin tưởng rằng có một dạ ức khủng bố mới. Bởi vậy chúng tôi cũng có phương pháp mới để chống ống như những máy bay không người lái ở Trung Đông và Afghanis ăng? Các anh biết là phi công điều khiển những máy bay này ngồi ngay cạ y cửa hàng mua sắm ở Colorado Springs hay Omaha thôi.” Miền đám mây…
“Lúc này, C và T đã vào vị trí, nên chúng tôi sẽ sớm thu thập được thêm u. Nhưng chúng tôi cần cả các phương pháp truyền thống.” Một cái đảo m ng quanh phòng thí nghiệm. Rhyme cho rằng anh ta muốn ám chỉ công áp y. Rồi viên Phó Trưởng văn phòng hướng ánh mắt sang Dellray. “Và cô điều tra đường phố nữa. Tuy Fred nói với tôi rằng anh ấy chưa gặp m m.”
Với tư cách một mật vụ, Dellray thể hiện được tài năng vượt trội nhờ giỏi ng các tay trong bí mật cung cấp thông tin. Kể từ vụ 11/9, anh ta đã ve v ợc một nhóm lớn các tay trong thuộc cộng đồng Hồi giáo, tự học tiếng Á R
Tư và Indonesia. Anh ta thường xuyên làm việc với đơn vị chống khủng ất sắc của Sở Cảnh sát New York. Nhưng viên mật vụ này cũng khẳng đ lời sếp. Với vẻ mặt rầu rĩ, anh ta nói, “Chưa nghe được gì về bọn “Công
o Rahman.” Đã tìm hiểu hết qua người của tôi ở Brooklyn, Jersey, Queens nhattan.”
“Vụ việc vừa xảy ra thôi mà.” Sellitto nhắc.
“Phải.” McDaniel chậm rãi nói. “Lẽ dĩ nhiên những vụ việc kiểu này chắc ợc lập kế hoạch từ… Các anh nghĩ thế nào? Một tháng trước chăng?” Noble nói, “Theo tôi hình dung, ít nhất một tháng trước.”
“Đấy, đấy là cái miền đám mây chết tiệt.”
Rhyme cũng có thể nghe ra lời chỉ trích McDamel dành cho Dellray: Giá a các tay trong là nắm bắt vụ việc trước khi nó xảy ra.
“Thôi, tiếp tục điều tra đi, Pred.” McDnniel nói. “Anh đang làm tốt đấy!” “Được rồi! Tucker.”
Noble đã ngừng nghịch chiếc bút. Anh ta đang xem xét chiếc đồng hồ đeo a mình. “Vậy, bộ An ninh Nội địa sẽ phối hợp với Washington và Bộ Ng o, cả các đại sứ quán nữa, trong trường hợp chúng tôi cần. Nhưng cảnh
Cơ quan Điều tra sẽ giải quyết vụ này giống như bất kỳ vụ nào khác. Bây g Lincoln, tất cả đều biết anh là bậc thầy về khám nghiệm hiện trường, n
úng tôi hy vọng anh sẽ đảm nhận việc phân tích các dấu vết, Chúng tôi đa trung một đội khám nghiệm hiện trường. Họ sẽ có mặt tại trạm điện sau ươi phút nữa. Chậm nhất là ba mươi phút.”
“Chắc chắn rồi, chúng tôi sẽ giúp đỡ.” Rhyme nói. “Nhưng chúng tôi sẽ c ch nhiệm toàn bộ hiện trường. Từ lối vào cho tới lối ra. Và tất cả các h ờng gián tiếp. Không chỉ là dấu vết. Tất tần tật.” Anh liếc sang Sellitto, anh ả quyết gật đầu, tỏ ý “tôi ủng hộ anh.”
Trong khoảnh khắc im lặng khó xử sau đó, mọi người đều ý thức được thô p ngầm: Cuối cùng ai sẽ phụ trách cuộc điều tra. Với bản chất công việc c nh sát ngày nay, bất kỳ ai phụ trách khám nghiệm hiện trường về cơ bản
ụ trách vụ án. Đây là hệ quả thực tiễn của các tiến bộ về kỹ thuật kh hiệm hiện trường trong vòng mười năm qua. Chỉ dựa vào việc khám xét, ph h những gì tìm được, nhân viên điều tra hiện trường đã có cái nhìn thấu đ ất về bản chất tội ác và đối tượng tình nghi, đồng thời sẽ là người đầu t n khai manh mối.
Tam hùng - Noble và McDaniel đại diện cho phía liên bang, Sellitto đại d o Sở Cảnh sát New York - sẽ phải đưa ra các quyết định chiến lược, như u họ chấp nhận để Rhyme đóng vai trò chủ chốt trong công tác khám nghi
n trường, thì thực tế anh sẽ phụ trách luôn cuộc điều tra. Điều ấy cũng h Anh đã có thời gian làm việc với các vụ án ở thành phố này lâu hơn tất n họ, và vì cho tới lúc bấy giờ, chưa có đối tượng tình nghi hay manh m
ng kể nào, ngoài chứng cứ tại hiện trường, vậy nên một chuyên gia kh hiệm hiện trường là giải pháp đúng đắn.
Đặc biệt quan trọng là, Rhyme hết sức muốn có vụ án này. Nỗi buồn chán… Và phải, cả chút cao ngạo nữa.
Bởi vậy, anh đưa ra lập luận mạnh mẽ nhất có thể: không nói gì. Chỉ ch ng ánh mắt vào nhân vật đại diện cho Bộ An ninh Nội địa, Gary Noble. McDaniel hơi bứt rứt - đội khám nghiệm hiện trường của anh ta sẽ phải
ống một bậc - và Noble ném cái nhìn sang anh ta, ý hỏi “Anh nghĩ thế n cker?”
“Tôi biết công việc của anh Rhyme… Tôi biết công việc của Lincoln. Để a phụ trách khám nghiệm hiện trường đối với tôi không vấn đề gì cả. Miễn là phối hợp một trăm phần trăm giữa chúng ta.”
“Chắc chắn rồi.”
“Chúng tôi sẽ cử người túc trực. Và chúng tôi sẽ lấy kết quả sớm nhất .” Anh ta nhìn vào mắt Rhyme, chứ không nhìn vào thân hình anh. “Đ an trọng nhất là nhanh chóng thu thập được chứng cứ.”
Rhyme ngờ rằng anh ta muốn nói liệu ai đó trong tình trạng của anh có p ứng tốt yêu cầu công việc hay không? Sellitto nong nóng mắt, nhưng đ ẳng phải sự coi thường người khuyết tật. Chỉ là một câu hỏi chính đáng. M u hỏi bản thân Rhyme cũng sẽ đặt ra nếu ở vị trí ngược lại. Anh trả lời, “Đã hiểu.”
“Tốt. Tôi sẽ bảo người của tôi ở bộ phận Thu thập Chứng cứ hỗ trợ anh th cứ cách nào anh muốn.” Viên Phó Trưởng văn phòng cam đoan. Noble nói, “Bây giờ, về phần truyền thông, chúng tôi đang cố gắng giảm th a cạnh khủng bố ở thời điểm này. Chúng tôi sẽ khiến vụ việc nghe có vẻ n t tai nạn. Nhưng tin tức đã rò rỉ ra ngoài rằng tình hình nghiêm trọng hơn t i người đang hoảng sợ.”
“Tôi công nhận mọi người đang hoảng sợ.” McDaniel gật đầu. “Trong v òng tôi có các máy giám sát truy cập Internet. Xu hướng tìm kiếm các cụm óa ‘điện giật chết người’, ‘tia hồ quang’ và ‘cắt điện’ tăng mạnh. Số lượt ngư o xem những video về hồ quang trên YouTube cực kỳ lớn. Bản thân tôi cũ
mạng. Những video đó đáng sợ vô cùng. Vừa một phút trước, có hai ngư n ông đang xử lý một bảng điện, rồi hết sức đột ngột một tia lửa điện bao tr n bộ màn hình, một người nằm vật ra sàn, nửa thân mình bốc cháy ng ụt.”
“Và…” Noble nói. “Mọi người thực sự lo lắng rằng hồ quang điện còn có y ra ở cả những địa điểm không phải là trạm điện. Ví dụ như ở nhà họ h n phòng.”
Sachs hỏi, “Liệu có thể không?”
McDaniel xem ra chưa biết hết các kiến thức về hồ quang điện. Anh ta th ận, “Tôi nghĩ có thể, nhưng tôi không chắc chắn dòng điện phải lớn đ ừng nào.” Anh mắt anh ta hướng sang một ổ cắm hai trăm hai mươi volt g y.
“Chà, theo tôi chúng ta hãy bắt đầu giải quyết công việc đi!” Rhyme nói và l n Sachs.
Cô đi ra phía cửa. “Ron, đi với tôi.” Pulaski đến chỗ cô. Một lát sau, cánh c ép lại, và Rhyme nhanh chóng nghe thấy tiếng xe của Sachs nổ máy. “Bây giờ, xin hãy nhớ một điều.” McDaniel nói thêm. “Một kịch bản mà chú
đã chạy trên máy tính là đối tượng chỉ đang thử nghiệm hình thức tấn cô ới, lấy lưới điện làm mục tiêu khủng bố khả thi. Nó khá phức tạp và chỉ g ết mỗi một người. Chúng tôi nạp những dữ liệu ấy vào hệ thống, các th n đang gợi ý rằng lần tiếp theo đối tượng có thể sẽ thử nghiệm theo cá ác. Thậm chí có khả năng đây là một vụ việc mang tính duy nhất.” “Một…?” Rhyme hỏi, bực bội với thứ ngôn ngữ của McDaniel.
“Vụ việc mang tính duy nhất, chỉ xảy ra một lần. Phần mềm phân tích các m uy cơ của chúng tôi đưa ra xác suất năm mươi lăm phần trăm vụ việc này ông lặp lại.”
Rhyme nói, “Nhưng như thế chỉ là một cách khác để bảo rằng xác suất b ươi lăm phần trăm sẽ có thêm một người nào đó ở một chỗ nào đó tro nh phố New York sắp sửa bị điện giật chết?… Và điều đó có thể xảy ra ng y giờ.”
Chương 5
ạm MH-10 của Liên hợp Điện lực Algonquin là một tòa lâu đài thời trung nhỏ, nằm ở khu vực yên tĩnh phía nam Trung tâm Lincoln. Nó được x ng những phiến đá vôi không đều nhau, xám xịt và lỗ chỗ sau nhiều thập u đựng sự ô nhiễm và bụi bặm của New York. Phiến đá góc móng đã bị b n nhưng người ta vẫn có thể dễ dàng đọc được: 1928.
Sắp sửa hai giờ chiều khi Amelia Sachs phanh chiếc Ford Torino Cobra m dẻ sát lề đường phía trước trạm điện, đằng sau chiếc xe buýt bị phá h iếc xe và tiếng ống xả kêu giòn giã thu hút các ánh mắt hiếu kỳ, ngưỡng a những người dừng chân xem, cảnh sát và lính cứu hỏa. Cô bước ra k ế lái, quăng chiếc phù hiệu Sở Cảnh sát New York lên bảng đồng hồ, đứ ống tay trên hông, quan sát hiện trường. Ron Pulaski phấn khích nhảy oài qua cửa phía ghế hành khách, rồi sập cửa đánh thịch.
Sachs nhìn chăm chăm sự thiếu tương đồng của khung cảnh. Những tòa n n đại, cao ít nhất hai mươi tầng, đứng bên canh trạm điện, mà vì lý do n y, được thiết kế có các tháp canh. Bề mặt đá bám những vệt trắng, là phân câu trú ngụ tại đây, một số đã bay trở về sau cơn hoảng hốt. Cửa sổ g h màu vàng và lắp chấn song sơn đen.
Cánh cửa thép dày để mở, không gian bên trong tối tù mù. Chiếc xe phản ứng nhanh của bộ phận Khám nghiệm Hiện trường Sở Cả New York hụ còi tiến đến. Chiếc xe đỗ lại, ba kỹ thuật viên từ trụ sở ch n Queens nhảy ra. Sachs từng làm việc với họ một số dịp, cô gật đầu ch t người đàn ông gốc Latin và một phụ nữ gốc Á thuộc quyền chỉ huy của m quan cao cấp, Thám tử Gretchen Sahloff. Sachs gật đầu chào viên thám h ta vẫy vẫy tay chào cô, rồi quan sát mặt trước trạm điện với ánh mắt u á h ta bước đến đằng đuôi một chiếc xe tải lớn, ở đó những sĩ quan mới ng bắt đầu dỡ thiết bị xuống.
Rồi Sachs hướng sự chú ý sang vỉa hè và con phố được chăng dây m ng. Phía bên kia khu vực chăng dây, có khoảng năm mươi người đứng x nh sát làm việc. Chiếc xe buýt, đối tượng của vụ tấn công, nằm trước tr
n, trống không, nghiêng sang một bên, các lốp bên phải bẹp dí. Gần đầu n bị lửa hun cháy. Nửa số kính cửa sổ bị khói ám xám xịt. Một nhân viên y tế của đội cấp cứu, một phụ nữ gốc Phi to béo chắc nịch, t n và gật đầu. Sachs nói, “Chào chị.”
Người phụ nữ gật đầu có ý chào. Các kỹ thuật viên y tế từng chứng kiến h ư mọi kiểu giết chóc trên đời, nhưng người phụ nữ này vẫn bàng hoà hám tử, cô nên nhìn xem.”
Sachs theo chị ta đi đến chỗ xe cấp cứu, nơi một thi thể nằm trên cáng, c ợc đưa vào nhà xác. Thi thể phủ tấm vải nhựa láng màu xanh lá cây sẫm. “Là hành khách cuối cùng, có vẻ thế. Chúng tôi đã nghĩ có thể cứu sống a Tuy nhiên… chúng tôi chỉ cứu anh ta được đến thế này thôi.” “Bị điện giật chết?”
“Cô nên nhìn xem.” Chị ta thì thầm. Và nhấc tấm vải nhựa. Sachs ớn lạnh khi mùi da cùng tóc cháy bốc lên. Và cô nhìn chằm chằm n ân, một thanh niên gốc Latin trang bộ com lê văn phòng - hay nói đúng hơn ững mảnh còn lại của bộ com lê văn phòng. Lưng và hầu hết phần thân b ải của anh ta bám lẫn lộn da với vải cháy. Cô nghĩ trường hợp này là bỏng
hoặc độ ba. Nhưng đó chẳng phải nguyên nhân làm cô bị xáo động đến t từng chứng kiến những trường hợp bỏng trầm trọng, cả do tai nạn lẫn cố ng quá trình làm việc của mình. Cảnh tượng kinh khủng nhất là ở phần thị khi đội cấp cứu cắt bỏ quần áo. Cô nhìn thấy khắp người anh ta chi chít hà
ục cái lỗ nhẵn thín. Như thể anh ta đã hứng cả loạt đạn súng ngắn. Nữ nhân viên y tế nói, “Hầu hết các cái lỗ này đều có đầu vào và đầu ra.” Chúng xuyên qua cả thân người ư?
“Nguyên nhân là gì?”
“Không biết nữa. Chưa từng chứng kiến trường hợp nào như thế này, s o nhiêu năm tôi làm việc.”
Và Sachs còn nhận ra một điều khác. Các vết thương đều gọn ghẽ có an sát được rõ ràng. “Không chảy máu.”
“Không biết các vết thương bị đốt bằng gì. Đó là nguyên nhân.. Giọng ân viên y tế chùng xuống. “Đó là nguyên nhân anh ta đã tỉnh táo cho tới p ối cùng.”
Sachs có thể hình dung ra nỗi đau đớn. “Tại sao?” Cô hỏi, nửa như hỏi ch nh.
“Amelia.” Ron Pulaski gọi.
Cô nhìn về phía anh ta.
“Cột biển báo xe buýt. Nhìn xem. Mẹ… “
“Lạy Chúa.” Sachs lẩm bẩm. Và bước tới sát dải dây chăng đánh dấu k c hiện trường. Cách mặt đất gần hai mét, một lỗ rộng độ nửa gang tay xuy ng cây cột sắt. Sắt chảy ra như nhựa nóng chảy dưới đèn hàn. Rồi cô ng chú ý vào các cửa sổ của chiếc xe buýt và chiếc xe tải giao hàng đỗ g Lúc trước, cô nghĩ kính các cửa sổ xe bị rạn do sức nóng. Nhưng, khô ững mảnh nhỏ của quả bom phát nổ - cùng những mảnh giết chết ngư nh khách - đã văng vào hai chiếc xe. Thành xe làm bằng kim loại cũng thủ chỗ.
“Nhìn này!” Sachs vừa thì thào vừa chỉ vào vỉa hè và mặt trước trạm điện. m lỗ nhỏ li ti xuyên vào đá.
“Bom chăng?” Pulaski hỏi. “Có lẽ đội phản ứng nhanh đã bỏ sót nó.” Sachs mở một túi nhựa, lấy ra đôi găng tay cao su màu xanh lơ. Xỏ đôi gă , cô cúi xuống nhặt miếng kim loại tròn, mỏng và nhỏ, hình giọt nước m m dưới chân cột. Nó nóng đến nỗi làm găng tay mềm đi.
Khi nhận ra đó là cái gì, cô chợt rùng mình.
“Cái gì thế?” Pulaski hỏi.
“Tia lửa điện đã khiến cây cột nóng chảy.” Sachs nhìn xung quanh và trô y cả trăm, hay hơn trăm, những giọt kim loại bám trên mặt đất, trên thành ýt, các tòa nhà và ô tô gần đó.
Đó là cái đã giết chết người hành khách trẻ tuổi. Một cơn mưa những giọt k i nóng chảy bay trong không khí với tốc độ ba trăm mét mỗi giây. Chàng sĩ quan trẻ tuổi chậm chạp thở ra. “Bị bắn trúng theo kiểu như vậy áy xuyên thân thể.”
Sachs lại rùng mình trước ý nghĩ về nỗi đau đớn. Và trước ý nghĩ về việc công có thể gây hậu quả ghê gớm tới mức nào.
Đoạn phố này khá vắng vẻ. Nếu trạm điện ở gần trung tâm của Manhat n, thì mươi, mười lăm người đi bộ ngang qua sẽ dễ dàng bị thiệt mạng. Sachs ngẩng lên và cứ thế nhìn chằm chằm vào vũ khí của đối tượng ch c định: Từ một ô cửa sổ trông xuống phố Năm mươi bảy, buông lòng thò n nửa mét dây điện dày. Nó được bọc lớp cách điện màu đen, nhưng đo u mút bị bóc mất lớp cách điện và cáp điện trần được đấu với một bản đồ áy sém. Nó trông giống như một chi tiết công nghiệp rất bình thường, ho
n không giống một thứ có thể tạo ra vụ nổ khủng khiếp tới mức ấy. Sachs và Pulaski tham gia vào nhóm chừng hai mươi cảnh sát, mật vụ c An ninh Nội địa, FBI và Sở Cảnh sát New York, tất cả đều tập trung tại sở y là chiếc xe tải của FBI. Một số mặc đồ tác chiến, một số mặc bộ áo l ần của nhân viên khám nghiệm hiện trường. Những người khác chỉ mặc c hoặc đồng phục theo quy định. Họ đang phân công công việc. Sẽ phải
m nhân chứng, kiểm tra xem có bom gài lại hay các loại bẫy mìn không - m ương pháp làm việc phổ biến khi đối phó với tình huống khủng bố. Một người đàn ông tầm năm mươi tuổi, gương mặt gầy và nghiêm tra ng khoanh tay đăm đăm nhìn trạm điện. Ông ta đeo ở cổ sợi dây có gắn p u của Liên hợp Algonquin. Ông ta là đại diện cấp cao cho công ty tại đ ân viên giám sát thực địa phụ trách khu vực này của lưới điện. Sachs đề n g ta trình bày chi tiết những gì Algonquin đã biết về vụ việc, ông ta trình b cô chép vào sổ.
“Có camera an ninh không?”
Người đàn ông gầy guộc đáp, “Xin lỗi, không. Chúng tôi không lắp làm c cửa được khóa nhiều tầng. Và thực sự bên trong không có gì để đánh c u sao, toàn điện như thế, đó cũng coi như một con chó canh phòng. Một c ó lớn.”
Sachs hỏi, “Ông nghĩ hắn đột nhập vào bằng cách nào?”
“Khi chúng tôi tới đây, toàn bộ cửa vẫn khóa. Khóa cửa sử dụng mã số.” “Ai có mã số?”
“Tất cả các nhân viên đều có. Nhưng hắn không vào bằng cách đó. Các óa có chip ghi lại những lần mở. Chưa một người nào mở chúng trong vò ngày qua. Và cái kia…” Ông ta chỉ sợi dây điện buông lủng lẳng từ cửa
vốn không ở chỗ ấy. Hắn phải đột nhập vào bằng cách khác.” Sachs quay sang Pulaski. “Khi nào anh xong việc ngoài này, hãy kiểm tra ng quanh, các cửa sổ và mái.” Rồi cô hỏi nhân viên giám sát của Algonqu ó lối vào ngầm dưới đất không?”
Nhân viên giám sát thực địa nói, “Tôi không biết lối nào cả. Các dây điện v ra trạm này được đặt trong những đường ống không ai chui vừa. Nhưng có những đường hầm khác mà tôi không biết.”
“Dù sao cũng cứ kiểm tra xem, Ron ạ.” Rồi Sachs phỏng vấn người lái ýt, anh ta đã được xử lý vết thương do mảnh kính cứa vào và được chăm s vượt qua cơn chấn động. Thị lực và thính giác bị tổn thương tạm thời như
h ta khăng khăng đòi ở lại giúp đỡ cảnh sát bằng bất cứ cách nào có thể. p đỡ không nhiều nhặn lắm. Người đàn ông chân thật kể lại việc đã tò mò dây điện thò ra qua cửa sổ mà anh ta chưa bắt gặp bao giờ. Việc ngửi th i khói, nghe thấy những tiếng lốp bốp. Sau đấy là cái ánh lửa kinh hoàng. “Quá nhanh.” Anh ta thì thầm. “Suốt cả cuộc đời, tôi chưa bao giờ chứng k gì nhanh như thế.”
Anh ta bị đập người vào cửa sổ và tỉnh dậy mười phút sau đó. Anh ta rơi v ng thái câm lặng, cứ nhìn chằm chằm chiếc xe buýt bị phá hủy, nét mặt bộc m giác bị phản bội và chất chứa u ám.
Rồi Sachs quay sang những cảnh sát và mật vụ đang hiện diện tuyên bố Pulaski sẽ chịu trách nhiệm quản lý hiện trường. Cô băn khoăn không b c vụ FBI Tucker McDaniel đã thực sự thông báo xuống cấp dưới về việc c ép này hay chưa. Không phải là không có chuyện các vị lãnh đạo trong ợng thực thi pháp luật tươi tỉnh đồng ý với người ta nhưng sau đấy lại cố t ên đi cuộc trao đổi. Tuy nhiên, những mật vụ liên bang đã thực sự đư ng báo. Một số tỏ ra khó chịu vì Sở Cảnh sát New York lại đảm đương vai ủ chốt này, còn số khác - hầu hết thuộc bộ phận Thu thập Chứng cứ của FB ông tỏ ra có vấn đề gì và thực sự nhìn Sachs với vẻ tò mò ngưỡng mộ vì, s o cùng, cô là thành viên của cái đội do Lincoln Rhyme huyền thoại đứng đầ Quay sang Pulaski, cô nói, “Hãy vào việc đi.” Cô bước tới chỗ chiếc xe ph g nhanh, cuộn mái tóc đỏ thành búi cho đỡ vướng.
Pulaski chần chừ, liếc nhìn cả trăm chấm kim loại đang nguội đi, bám trên và mặt trước trạm điện, rồi liếc nhìn sợi dây cứng buông lòng thòng qua c “Thật sự họ đã cắt điện bên trong rồi, phải không?”
Sachs chỉ ra hiệu cho cậu ta đi theo mình.
Chương 6
c bộ đồng phục quần yếm một màu xanh lam thẫm đơn điệu của Liên h ện lực Algonquin, đội chiếc mũ kiểu như mũ đánh bóng chày nhưng không o và kính chắn bảo hộ, gã đàn ông loay hoay với bảng điện ở phía cuối c bộ thể thao khu Chelsea, Manhattan.
Trong lúc làm việc - sắp xếp thiết bị, bóc, nối, cắt dây điện, gã nghĩ về vụ ng sáng hôm nay. Các phương tiện truyền thông đang tới tấp đưa tin tức.
Một người đàn ông bị thiệt mạng và một số người khác bị thương khi t ng quá tải tại một trạm điện ở Manhattan đã tạo ra một tia lửa điện vô cù phóng từ trạm điện sang một cột biển báo xe buýt, suýt nữa thì trúng p t chiếc xe buýt thành phố.
“Nó giống y như, anh biết đấy, một cú sét.” Một nhân chứng là hành khá n chiếc xe buýt thuật lại. “Nó bao trùm toàn bộ vỉa hè. Nó khiến tôi chẳng c ìn thấy gì cả. Và cái âm thanh đó. Tôi không tài nào mô tả được. Nó giố ng rền ầm ầm, rồi nổ bùng một phát. Tôi sợ đến gần bất cứ vật gì có điện.
ực sự sợ chết khiếp. Tôi muốn nói bất cứ ai chứng kiến sự việc đều c ếp.”
Chẳng phải một mình bà, gã đàn ông nghĩ. Nhân loại biết tới điện - và sợ khiếp đảm - từ hơn năm nghìn năm nay. Bản thân từ “điện” xuất phát từ phách” trong tiếng Hy Lạp (“Electron” là hạt điện từ; còn trong tiếng Hy L phách được gọi là “elektron”) chỉ thứ nhựa các: cây lá kim rắn chắc lại thà mà người Hy Lạp và La Mà cổ đại từng dùng để chà xát và tạo ra tĩnh đi c dụng gây tê liệt của dòng điện phóng ra từ những loài lươn, cá sống ở c n sông và khu vực ven biển Ai Cập, Hy Lạp, La Mã đã được miêu tả nh ng các tài liệu khoa học từ rất lâu trước Công nguyên.
Ý nghĩ của gã lúc ấy chuyển sang những sinh vật sống dưới nước, vì v m việc gã vừa nhìn trộm năm người đang bơi chầm chậm xung quanh bể u lạc bộ. Ba nữ, hai nam, đều đã đến tuổi nghỉ hưu.
Một loài cá gã thấy rất hấp dẫn là loài cá đuối điện, mà người ta đã lấy tên cho thứ vũ khí do tàu ngầm bắn đi. (Cá đuối và thủy lôi cùng được gọ
rpedo” trong tiếng Anh). Từ torporc trong tiếng Latin - có nghĩa là làm đờ m tê liệt - là nguồn gốc của cái tên ấy. Thực tế, loài cá đuối điện có hai bộ ng cơ thể, được tạo thành bởi hàng trăm nghìn tấm gelantin. Những tấm n n xuất ra điện, và các chuỗi dây thần kinh phức tạp truyền dòng điện đi d o thân như các dây dẫn. Cá sử dụng điện đế tự vệ và cũng để tấn công c i. Chúng nằm im chờ đợi, rồi phóng điện làm tê liệt con mồi, hoặc đôi khi g ết hẳn - những con cá đuối lớn có thể phóng ra dòng điện hai trăm volt ờng độ mạnh hơn cả một chiếc máy khoan.
Khá hấp dẫn…
Gã hoàn thành bảng điện và ngắm nghía kết quả làm việc của mình. Giố ư những thợ đường dây và thợ điện lành nghề trên toàn thế giới, gã cảm th sự tự hào nhất định trước công trình khéo léo ấy. Gã đã đi đến chỗ cảm th
m việc với điện không đơn thuần chỉ là nghề nghiệp, nó còn là khoa học hệ thuật. Đóng cánh cửa lại, gã bước sang phía bên kia câu lạc bộ - g òng thay đồ. Và, ở vị trí không ai trông thấy, gã chờ đợi.
Tựa một con cá đuối điện.
Khu vực này - tận cùng phía tây thành phố - là một khu dân cư. Lúc bấy g u buổi chiều, không có người lao động nào đang đi bộ, bơi hay đánh bó ần, tuy câu lạc bộ sẽ trở nên đông nghịt sau giờ làm việc, khi hàng trăm n sinh sống quanh đây háo hức được giải tỏa các căng thẳng trong ngày.
Nhưng gã chẳng cần một đám đông lớn. Tại thời điểm này thì chẳng cần. C y để sau.
Vậy, mọi người sẽ nghĩ gã đơn giản là một công nhân và không chú ý gì chuyển sự quan tâm sang một hộp cứu hỏa, tháo nắp ra, hờ hững xem ộn dây. Lại suy nghĩ về những con cá đuối điện. Loại sống ở nước mặn c mạch điện song song và tạo ra điện áp thấp hơn vì nước mặn dẫn điện n nước ngọt và dòng điện chẳng cần quá mạnh mới giết chết con mồi. L ng ở sông, hồ thì ngược lại, hệ thống pin được bố trí thành chuỗi và tạo
n áp cao hơn để bù cho khả năng dẫn điện kém hơn của nước ngọt. Điều này, đối với gã, không chỉ thú vị, mà còn liên quan tới thời điểm hiện thí nghiệm về sự dẫn điện của nước. Gã băn khoăn tự hỏi liệu mình đã t n đúng chưa.
Gã chỉ phải đợi mười phút đã nghe thấy tiếng bước chân, rồi trông thấy m ng năm người bơi xung quanh bể, người đàn ông tuổi lục tuần, đầu hơi h t quẹt đôi dép lê đi qua. Ông ta bước vào khu vực vòi hoa sen. Gã đàn ông mặc bộ đồng phục quần yếm lén lút nhìn ông già vặn vòi và đứ o bên dưới làn nước bốc hơi nghi ngút, không biết rằng mình đang bị qu .
Ba phút, năm phút. Xát xà phòng, xả nước…
Mỗi lúc một thêm sốt ruột, vì sợ nhỡ bị phát hiện, gã đàn ông mặc bộ đồ ục quần yếm nắm chặt thiết bị điều khiển từ xa - tương tự một móc đeo c óa ô tô lớn, và cảm thấy cơ hai vai mình căng cứng.
Torpore. Gã cười lặng lẽ. Và thả lỏng cơ.
Cuối cùng, ông già kia cũng bước ra khỏi vòi hoa sen, lau người. Ông oác chiếc áo choàng tắm lên, lại xỏ chân vào đôi dép. Ông ta bước về p nh cửa mở sang phòng thay đồ và cầm lấy tay nắm cửa.
Gã đàn ông mặc bộ đồng phục quần yếm đồng thời bấm hai nút trên thiế u khiển từ xa.
Ông già há hốc mồm, đờ ra.
Rồi lùi lại, nhìn chằm chằm vào tay nắm cửa. Nhìn những ngón tay mình nhanh tay nắm cửa một lần nữa.
Tất nhiên thật ngu ngốc. Làm gì có người nhanh hơn điện được bao giờ. Nhưng lần này không thấy giật, và ông già đứng đấy ngẫm nghĩ có thể nh vừa quệt phải mép sắc của kim loại hoặc thậm chí có thể là cơn đau ợt của khớp ngón tay.
Thực ra, cái bẫy chỉ chứa dòng điện vài miliampe. Gã không có mặt tại đ giết ai cả. Đây đơn giản là thí nghiệm nhằm làm sáng tỏ hai điều: Thứ nh ết bị điều khiển từ xa do gã chế tạo có hoạt động được ở khoảng cách n
ông, xuyên qua bê tông và thép? Nó hoạt động được, tốt và, thứ hai, ch c tác dụng dẫn điện của nước ra sao? Vấn đề này đã được các kỹ sư an to h bày mãi rồi, tuy nhiên lại chưa từng có ai định lượng theo bất cứ ý ng ực tiễn nào - thực tiễn, tức là cần dòng điện bao nhiêu mới có thể làm giật m
ười đang đi giày hay dép da ẩm, gây rối loạn cơ tim và dẫn đến tử vong. Câu trả lời là chỉ cần một dòng điện cực kỳ nhỏ.
Tốt
Khiến tôi sợ chết khiếp…
Gã đàn ông mặc bộ đồng phục quần yếm xuống gác theo lối cầu thang khỏi đó qua cửa sau.
Gã lại nghĩ về cá và điện. Tuy nhiên, lần này, không phải về việc sản xuất là về việc phát hiện ra điện. Nói cụ thể, cá mập. Chúng có giác quan t u, hiểu theo đúng nghĩa đen của từ này: Khả năng đáng kinh ngạc cảm nh ợc hoạt động điện sinh học bên trong cơ thể con mồi ở khoảng cách xa hà m, trước cả khi con mồi lọt vào tầm mắt.
Gã liếc nhìn đồng hồ đeo tay và đồ rằng cuộc điều tra tại trạm điện đã đư đầu rồi. Thật không may thay cho bất cứ kẻ nào đang điều tra vụ việc đó, n người vốn không có giác quan thứ sáu như cá mập.
Và cũng chẳng bao lâu nữa, sẽ thật không may thay cho rất nhiều kẻ khác thành phố New York tội nghiệp này.
Chương 7
chs và Pulaski mặc bộ áo liền quần có mũ trùm màu xanh lơ nhạt hiệu Tyv bao chân, đeo mặt nạ và kính bảo hộ. Như Rhyme vẫn luôn hướng dẫn, m ười còn đeo một vòng cao su xung quanh bàn chân để phân biệt dấu ch nh với dấu chân người khác. Rồi, đeo thắt lưng cài thiết bị phát radio/vid ng vũ khí, Sachs bước qua sợi dây màu vàng, động tác này khiến mấy c u chợt xuất hiện, lan khắp các khớp xương bị viêm. Những ngày thời tiết t, hay sau một cuộc khám nghiệm hiện trường vất vả, sau khi chạy đuổi th đó, đầu gối và hông lại đau nhức nhối, cô ngấm ngầm ghen tỵ với tình trạ
iệt của Rhyme. Tất nhiên, cô không bao giờ nói ra ý nghĩ ấy, thậm chí chẳ o giờ giữ ý nghĩ điên rồ ấy quá một hai giây, nhưng quả là có ý nghĩ ấy th i hoàn cảnh đều có cái hay.
Sachs dừng lại trên vỉa hè. Cô đã hoàn toàn ở trong vành đai chết chóc. H yme còn phụ trách bộ phận Điều tra, bộ phận chịu trách nhiệm về kh hiệm hiện trường của Sở Cảnh sát New York, anh từng yêu cầu nhân v ám nghiệm hiện trường một mình, trừ trường hợp hiện trường đặc biệt rộ h làm vậy là vì tâm lý người ta có xu hướng thiếu tận tâm hơn nếu làm v
cộng sự, vì người ta nghĩ rằng cộng sự bao giờ cũng sẽ hỗ trợ, phát h ững thứ gì mình bỏ sót. Một vấn đề nữa là nếu tội phạm để lại chứng cứ n trường thì nhân viên khám nghiệm hiện trường, dù mang trang phục bảo
lưỡng thế nào, cũng sẽ để lại dấu vết y như vậy. Những dấu vết ấy có á hỏng vụ án. Càng đông người khám nghiệm hiện trường, nguy cơ cà o.
Sachs nhìn vào ô cửa mở toang đen ngòm, khói vẫn đang bay ra, sau đ n khẩu súng ngắn đeo bên hông. Kim loại.
Những đường dây cắt điện rơi..
Chà, vào thôi, cô tự nhủ. Hiện trường càng được khám nghiệm sớm, chứ tìm thấy càng có chất lượng. Những giọt mồ hôi, chứa đầy ADN hữu ích, y hơi và không thể bị phát hiện. Những sợi vải, những sợi tóc quý giá bị t y, trong khi những thứ chẳng liên quan lại trôi nổi vào hiện trường, gây bối làm lạc hướng điều tra.
Sachs nhét microphone vào tai, bên dưới mũ trùm. Cô bật bộ phát đeo b ng và nghe thấy giọng Rhyme. “… em có đó không, Sachs? Em… À, đư em đã kết nối. Anh đang băn khoăn. Cái gì thế?” Anh hỏi.
Rhyme đang nhìn thấy chính những thứ mà Sachs đang nhìn, nhờ m mera nhỏ, độ nét cao cô đeo trước trán. Cô nhận ra mình đang vô tình n o cái lỗ cháy xuyên thủng cây cột. Cô giải thích cho anh nghe sự việc đã x tia lửa điện, con mưa những giọt kim loại nóng chảy.
Rhyme im lặng một chút. Rồi anh nói, “Thứ vũ khí ghê gớm quá… Thôi, u đi. Khám nghiệm theo ô bàn cờ.”
Có một vài phương pháp khám nghiệm hiện trường. Một phương pháp p n là bắt đầu từ góc ngoài cùng, rồi tiến dần vào theo những vòng tròn đồ m cho tới khi vào đến chính giữa.
Nhưng Lincoln Rhyme thích phương pháp khám nghiệm theo ô bàn cờ hơ i khi anh bảo học trò là hãy hình dung phương pháp khám nghiệm theo ô b như thể cắt một bãi cỏ vậy - chỉ có điều ta tiến hành làm hai lần. Di chuy ng từ bên này sang bên kia hiện trường, rồi quay đầu, bước qua bên trái h
n phải độ một bước, di chuyển trở về phía lúc hãy đã xuất phát. Di chuyển n trường theo chiều này xong thì di chuyển theo chiều vuông góc, lặp lại cá ức thực hiện.
Rhyme khăng khăng đòi hỏi sự kỹ lưỡng quá mức ấy vì lần khám nghi n trường đầu tiên mang ý nghĩa quyết định. Nếu lần khám nghiệm đầu tiên m đại khái thì ta bất giác đã tự thuyết phục mình rằng chẳng có gì mà tim ki Những lần khám nghiệm tiếp theo hầu như chỉ vô ích.
Sachs ngẫm nghĩ về sự mỉa mai này: Cô chuẩn bị bước đi theo ô bàn cờ t phần của hệ thống ô bàn cờ rất khác biệt (Ý nói lưới điện). Cô sẽ phải c điều này với Rhyme, nhưng để sau. Bây giờ, cô cần tập trung chú ý. Công việc khám nghiệm hiện trường là cuộc săn mồi của những động vật
c thối. Mục tiêu đơn giản thôi: tìm thấy cái gì đó, bất cứ cái gì thủ phạm để à cả cái gì đó thủ phạm đáng lẽ sẽ để lại. Nhà hình sự học người Ph mond Locard, cách đây gần một trăm năm đã nói rằng mỗi khi một tội ác d
bao giờ cũng có quá trình trao đổi dấu vết giữa thủ phạm với hiện trườ ặc nạn nhân. Có thể nó hầu như không tài nào nhìn thấy được, tuy nhiên n diện ở đó để ta tìm ra, nếu ta biết cách tìm, và nếu ta kiên nhẫn, cẩn thận Amelia Sachs lúc bấy giờ bắt đầu cuộc tìm kiếm, trước hết là từ bên ng m điện, với thứ vũ khí đã được sử dụng: sợi cáp buông lòng thòng. “Trông có vẻ như hắn…”
“Hoặc bọn chúng…” Rhyme đính chính lại qua bộ tai nghe. “Nếu Công lý c ng đằng sau vụ việc này, bọn chúng có lẽ có số lượng thành viên kha k
y.”
“Chính xác, Rhyme.” Anh đang cố gắng đảm bảo rằng Sachs không bị rơi v n đề hàng đầu đối với các nhân viên khám nghiệm hiện trường: thiếu tư d ở. Một thi thể, máu và một khẩu súng ngắn nóng hổi gợi ý rằng nạn nhân đã
n chết. Nhưng nếu để đầu óc mình tin tưởng vào tình huống đó thì ngườ thể sẽ bỏ qua con dao thực tế đã được sử dụng.
Sachs tiếp tục, “Ờ, hắn hoặc bọn chúng đã thả sợi cáp từ bên trong ưng em vẫn nghĩ tại thời điểm nào đó, hắn phải ở vỉa hè bên ngoài này, ki khoảng cách và góc độ.”
“Để nhằm vào chiếc xe buýt?”
“Chính xác.”
“Được rồi, tiếp tục đi… coi như, từ vỉa hè.”
Sachs tiếp tục nhìn chăm chăm xuống đất. “Mẩu thuốc lá, nắp lon bia. T ên, không có gì gần cửa chính hay cửa sổ mà qua đó sợi cáp buông xuống “Đừng mất công để ý tới chúng. Hắn sẽ không uống hay hút gì trong lúc hà ng đâu. Hắn quá thông minh… nếu xem xét cách hắn phối hợp tất cả các
với nhau. Nhưng sẽ có dấu vết ở chỗ hắn đứng. Sát tòa nhà.” “Có cái bậc, thấy không?” Sachs nhìn xuống một bậc đá thấp, cao hơn vỉa n một mét. Mặt bậc đá cắm chấn song nhọn đầu để lũ bồ câu, và ngư ông đứng lên trên được, nhưng có thể tì chân vào nếu muốn với lấy gì đó ở a sổ kia. “Có mấy dấu chân, trên bậc đá. Chẳng đủ rõ ràng để chụp tĩ n.”
“Hãy xem xem thế nào.”
Sachs cúi đầu và vươn người về phía trước. Rhyme đang nhìn vào thứ đang nhìn: những hình dạng có lẽ là dấu mũi giày nằm sát tòa nhà. “Em không chụp được à?”
“Không, không đủ rõ ràng. Nhưng nhìn chúng, em có thể bảo đó là dấu g n ông. Rộng, mũi vuông, em chỉ quan sát được đến thế. Không nhìn thấy đế. Nhưng nó nói với chúng ta rằng nếu “bọn chúng” dính dáng tới vụ vi có lẽ chỉ có “hắn” ở bên ngoài bố trí cái bẫy.”
Sachs tiếp tục kiểm tra vỉa hè nhưng không phát hiện được bằng chứng nào xem ra có liên quan.
“Hãy thu thập các dấu vết, Sachs, rồi khám xét bên trong trạm điện.” Theo hướng dẫn của Sachs, hai kỹ thuật viên từ Queens sang đã bố ững bóng đèn halogen công suất lớn ngay bên trong khung cửa. Cô ch h, thu thập các dấu vết trên vỉa hè và trên bậc đá gần sợi cáp. “Và đừng quên…” Rhyme cất lời.
“Những chứng cứ lớp dưới.”
“A, đi trước anh một bước rồi đấy, Sachs.”
Không hẳn, cô nghĩ, vì anh đã là người thầy của cô bao nhiêu năm nay, u tới bây giờ cô vẫn chưa tiếp thu được các nguyên tắc khám nghiệm h ờng của anh thì cô chẳng nên theo đuổi công việc này làm gì. Cô di chuy ng khu vực ở ngay bên ngoài vành đai chết chóc và tiến hành rà soát lần t
… Những chứng cứ lớp dưới, những mẫu đối chứng để so sánh với nhữ u đầu tiên. Bất kỳ sự khác biệt nào giữa những thứ thu thập được bên ng n trường và ở vị trí được xác định là đối tượng đã đứng sẽ có thể nói lên đ
m riêng biệt nào đó của đối tượng hoặc nơi đối tượng cư trú. Tất nhiên, có thể không… nhưng đó là bản chất của công tác khám nghi n trường. Chẳng bao giờ có gì chắc chắn cả, tuy nhiên bạn vẫn làm những thể và những gì phải làm.
Sachs đưa những chứng cứ đã bỏ vào túi nhựa cho các kỹ thuật viên. Cô v ười nhân viên giám sát của Algonquin lúc nãy cô đã trao đổi. Người nhân viên giám sát thực địa, vẫn nghiêm trang y như lúc nãy, vội vã “Sao, Thám tử?”
“Bây giờ, tôi sẽ khám xét bên trong kia. Ông có thể cho tôi biết chính xác ải khám xét cái gì không - hắn đã bố trí sợi cáp như thế nào? Tôi cần xác đ ợc nơi hắn đã đứng, những thứ hắn đã động vào.”
“Để tôi tìm một người làm công việc bảo dưỡng thường lệ ở đây.” Ông ta n m công nhân, rồi gọi một người mặc đồng phục quần yếm màu xanh l m của Liên hợp Điện lực Algonquin. Mũ bảo hộ màu vàng. Người công nh m điếu thuốc lá đang hút sang một bên, đi tới chỗ họ. Nhân viên giám ực địa giới thiệu Sachs và người công nhân với nhau, sau đấy nói lại với a yêu cầu của Sachs.
“Vâng, thưa cô.” Anh ta nói, ánh mắt rời khỏi trạm điện đi du ngoạn nga a ngực Sachs, tuy hầu hết thân hình cô đã được giấu kín trong bộ áo l ần rộng lùng bùng màu xanh lơ hiệu Tyvek. Cô cũng có ý nghĩ muốn l ống cái bụng ngoại cỡ của anh ta nhưng tất nhiên cô không làm thế. Chó v
n tè ở chỗ người ta không muốn chúng tè, ai suốt ngày nhắc nhở được. Cô hỏi, “Tôi có thể xem vị trí hắn kết nối sợi cáp với nguồn điện không?” “Vâng, tất cả đều được bộc lộ.” Người đàn ông bảo Sachs. “Tôi nghĩ chỗ h
nối sát các aptomat. Chúng nằm ở tầng chính. Là tầng phía bên tay phải đi vào.”
“Hãy hỏi anh ta xem đường dây có điện không khi đối tượng thực hiện đ .” Rhyme nói vào tai Sachs. “Chúng ta sẽ biết được điều gì đó về kỹ nă a đối tượng.”
Cô hỏi người công nhân.
“Ồ, có. Hắn đã đấu nối vào một đường dây có điện.”
Sachs sửng sốt. “Làm thế nào mà hắn làm được?”
“Sử dụng thiết bị bảo hộ cá nhân. Ngoài ra, bảo đảm rằng hắn được cá n cực kỳ tốt.”
Rhyme nói thêm, “Anh có một câu hỏi nữa cho anh ta. Hỏi anh ta xem l o anh ta hoàn thành được công việc nếu mất lắm thời gian nhìn chằm ch o ngực phụ nữ như thế!”
Sachs giấu một nụ cười.
Nhưng trong lúc cô bước về phía cửa trạm điện, dọc theo vỉa hè chi c ững chấm kim loại nóng chảy, mọi sự khôi hài đều biến mất. Cô dừng bướ ay lại nói với người nhân viên giám sát, “Tôi chỉ muốn khẳng định một lần c ng. Điện đã cắt rồi, phải không?” Cô hất đầu chỉ trạm điện. “Không còn đ ng các dây ấy.”
“Ồ, vâng.”
Sachs quay lưng bước tiếp.
Rồi người nhân viên giám sát nói thêm, “Trừ điện trong ắc-quy.” “Ắc-quy à?” Sachs dừng lại, ngoảnh nhìn.
Người nhân viên giám sát giải thích, “Đấy là điện vận hành các aptom ưng nó không thuộc lưới điện. Nó không kết nối với sợi cáp.” “Được rồi. Ăc-quy. Nó có thể gây nguy hiểm không?” Những vết thương t
e như những chấm bi bao phủ thân hình người hành khách cứ hiện lên. “Ờ, có chứ.” Đây xem ra là một câu hỏi thật ngây thơ. Người nhân viên gi nói thêm, “Nhưng các cực được bọc mũ cách điện.”
Sachs quay bước về phía trạm điện. “Em vào bên trong đây, Rhyme.” Cô tiến đến, nhận ra rằng, bởi một lẽ gì đó, những bóng đèn công suất khiến không gian bên trong thậm chí còn đe dọa hơn cả lúc nó tối om. Cánh cửa mở vào địa ngục, cô nghĩ.
“Anh chóng hết cả mặt, Sachs. Em đang làm gì?”
Cô nhận ra việc mình đang làm là do dự, nhìn xung quanh, dán ánh mắt v ung cửa mở toang. Cô cũng nhận ra rằng, tuy Rhyme không trông thấy, c ón tay mình đang vô thức cào vào lớp biểu bì dưới đầu móng ngón cái. Đ
, hành động này khiến lớp biểu bì ấy xước ra, và cô tự ngạc nhiên khi n y những giọt hoặc những vệt máu. Nhưng bây giờ, chắc chắn cô khô ốn làm rách lớp găng cao su, để dây dấu vết của chính mình lên hiện trườ
duỗi thẳng các ngón tay và nói, “Em chỉ đang tập trung chú ý thôi.” Nhưng họ đã biết nhau quá lâu rồi, chẳng ai dối ai được. Rhyme hỏi, “ uyện gì thế?”
Sachs hít sâu một hơi. Cuối cùng, cô trả lời, “Phải thú thực là em thấy sờ i tia lửa điện ấy. Cái cách nạn nhân đã chết. Nó khá kinh khủng.” “Em còn muốn chần chừ à? Hãy gọi vài chuyên gia của Algonquin. Họ có cùng em trong lúc em xem xét các thứ.”
Sachs có thể nhận ra qua giọng nói của Rhyme, qua sắc giọng, qua tốc độ , rằng anh không muốn cô làm như thế. Đó là một trong những điều cô yêu h: Sự trân trọng anh bày tỏ chẳng bằng cái cách nuông chiều cô. Ở nhà, tối, lúc lên giường, họ hai người là một. Nhưng bây giờ, họ là chuyên gia ạm học và là cảnh sát khám nghiệm hiện trường.
Sachs nghĩ tới câu châm ngôn của riêng mình, do cha cô truyền lại, “Kh nh động, sẽ không kẻ nào bắt được ta.”
Thế thì, hành động thôi!
“Không, em không sao.” Amelia Sachs bước vào địa ngục.
Chương 8
nh có nhìn được không?”
“Nhìn được.” Rhyme trả lời.
Sachs đã bật ngọn đèn halogen gắn trên đai đeo xung quanh đầu. N ưng công suất lớn, nó rọi một tia sáng chói vào khoảng không gian lờ m ậm chí dù có các bóng đèn halogen kia rồi, vẫn còn nhiều ngóc ngách d c bóng tối. Bên trong trạm điện sâu hun hút như hang, tuy từ vỉa hè trông
vẻ nhỏ, hẹp và thấp lè tè dưới chân những tòa nhà nằm hai bên. Mắt mũi Sachs cay xè vì khói đọng lại. Rhyme khăng khăng giữ ý kiến rằ cả các nhân viên khám nghiệm hiện trường phải hít thở không khí như b ường, mùi trong không khí có thể mách bảo cho người ta biết rất nhiều điều phạm và bản chất tội ác. Tuy nhiên, ở đây, chỉ có duy nhất mùi gắt của c cháy, mùi dầu mỡ, kim loại. Những kỷ niệm của chính bản thân cô và c ợt thoáng hiện lên, những buổi chiều Chủ nhật, lưng mỏi nhừ, lúi húi trên đã mở toang hoác của một chiếc Chevy hay một chiếc Dodge khỏe kho ng niu gỡ lấy các chi tiết máy quan trọng hoặc các bảng mạch đem về ng lại. Cả những kỷ niệm gần đây hơn: Sachs và Pammy, cô bé mà cô đã ư con gái, cùng nhau điều chỉnh máy của chiếc Torino Cobra, trong ckson, chú chó nhỏ của Pammy, kiên nhẫn ngồi trên sàn sửa xe, quan sát à giải phẫu làm việc.
Lúc lắc dầu để ngọn đèn thợ mỏ chiếu xung quanh khoảng không gian tối m ờ, Sachs nhận ra những đống thiết bị lớn, một số sơn màu be hoặc xám ng tương đối mới, một số có tuổi thọ từ cuối thế kỷ trước: sơn màu xanh y sẫm, gắn tấm biển kim loại ghi tên nhà máy và thành phố sản xuất. Cô nh một số thiết bị mà địa chỉ không có mã bưu chính, chứng tỏ chúng đã ra đ thuở xa xôi nào.
Tầng chính của trạm điện hình tròn, nằm bên trên một tầng hầm để mở, s u mét phía dưới, có thể nhìn xuống được qua dãy lan can ống. Trên này, s m bằng bê tông, nhưng một số bệ, bục và cầu thang được làm bằng thép. Kim loại.
Một điều Sachs biết về điện là kim loại dẫn điện rất tốt.
Cô định vị sợi cáp của đối tượng, chạy ba mét từ cửa sổ tới thiết bị mà ngư ng nhân đã mô tả. Cô có thể nhìn thấy chỗ đối tượng đã đứng kéo sợi cáp, đầu rà soát chỗ đó.
Rhyme hỏi, “Cái gì trên sàn kia? Bóng loáng.”
“Trông như dầu mỡ gì đó.” Sachs trả lời, giọng cô chùng xuống. “Một số th bị lửa làm nứt vỡ. Hoặc ở đây đã có vụ nổ hồ quang thứ hai.” Cô để ý th ững vòng tròn cháy sém, độ chục cái trên tường và các thiết bị xung qua vẻ là chỗ tia lửa điện đập vào.
“Tốt.”
“Cái gì?”
“Dấu chân hắn sẽ đẹp và rõ ràng.”
Đúng thế. Tuy nhiên, nhìn xuống thứ chất nhờn nhờn đọng trên sàn, Sac hĩ: Liệu dầu có dẫn điện tốt như kim loại và nước không?
Cô thực sự đã tìm thấy những dấu chân rất rõ ràng gần cửa sổ, nơi thủ ph ng đập một lỗ thủng trên kính để ròng sợi cáp chết người ra bên ngoài, n vị trí hắn đấu nối nó với đường dây của Algonquin.
“Có thể là dấu chân của đám công nhân khi họ vào đây sau vụ việc.” Sac .
“Chúng ta chỉ phải kiểm tra xem sao thôi, đúng không?”
Cô hoặc Pulaski sẽ lấy dấu giày của các công nhân để so sánh và loại hi vấn. Thậm chí nếu Công lý cho rốt cuộc chịu trách nhiệm về vụ việc n ông có lý do nào ngăn cản được bọn chúng tuyển dụng một tay trong th n những kế hoạch khủng bố.
Tuy nhiên, khi Sachs đánh số và chụp ảnh các dấu giày, cô nói, “Em n úng là dấu giày đối tượng của chúng ta, Rhyme. Tất cả đều giống nhau. i giày tương tự mũi giày ở bậc đá.”
“Tuyệt vời.” Rhyme nói.
Rồi Sachs chụp tĩnh điện dấu giày và đặt các bản in gần cửa. Cô nghiên c sợi cáp, nó nhỏ hơn cô tưởng, đường kính chỉ nửa đốt tay. Nó được b ng vật liệu cách điện màu đen, gồm những sợi màu bạc bện lại với nhau. ạc nhiên thấy nó chẳng phải là đồng. Dài tổng cộng độ bốn mét rưỡi. ợc đấu nối vào đường dây chính của Algonquin bằng hai bu lông đồng ặc đồng thau to, đường kính trong lòng ngót hai centimet.
“Vậy đấy là vũ khí của chúng ta?” Rhyme hỏi.
“Đúng là nó.”
“Nặng không?”
Sachs nhấc nhấc sợi cáp lên ước lượng, cầm chắc vào lớp cách đi hông. Nó làm bằng nhôm.” Cô cứ bận tâm với ý nghĩ là, giống như một q
m, một vật nhỏ và nhẹ ngần này lại có thể gây ra hậu quả ghê gớm ngần ngắm nghía thứ vũ khí của đối tượng, đánh giá xem mình cần đến món ng bộ dụng cụ để gỡ nó ra. Cô bước ra ngoài, đi lấy túi dụng cụ cất trong c Bộ dụng cụ của chính cô, cô vốn vẫn dùng để sửa xe hay đồ đạc trong n úng thân thuộc với cô hơn những thứ trong chiếc xe phản ứng nhanh của đ Khám nghiệm Hiện trường, chúng giống những người bạn lâu năm vậy. “Tinh hình thế nào?” Pulaski hỏi.
“Đang tiến triển.” Sachs lầm bầm trả lời. “Anh tìm ra cách hắn đột nh ưa?”
“Tôi đã kiểm tra trên mái. Không có lối vào. Dù người của Algonquin nói s nữa, tôi vẫn nghĩ phải là từ dưới đất. Tôi sẽ kiểm tra các miệng cống và tầ m xung quanh đây. Chưa bộc lộ một lối rõ ràng nào, nhưng như chị nói ng là tin tức tốt rồi. Hắn có lẽ đã hơi bị tự tin quá. Nếu chúng ta may m úng ta sẽ phát biện được bằng chứng hữu ích.”
Qua microphone của Sachs, Rhyme nghe thấy câu bình luận và nói, “Ph u tân binh. Có điều đừng chờ đợi may mắn.”
“Rõ, thưa sếp.”
“Và cũng đừng cười tự mãn như thế. Tôi trông thấy rồi.”
Gương mặt Pulaski trở nên nghiêm chỉnh. Cậu ta quên mất Rhyme đa ng Amelia Sachs để thay mắt, tai và chân mình. Cậu ta quay bước đi, tiếp kiếm lối lọt vào trạm điện của thủ phạm.
Trở lại bên trong cùng với dụng cụ của mình, Sachs vuốt chúng từ trên xuố ng những tấm dính để lấy đi hết mọi dấu vết có thể làm ảnh hưởng đến h ờng. Cô bước tới sát aptomat, vị trí sợi cáp của kẻ tấn công được đấu ng hai bu lông. Cô bắt đầu vươn tay ra cầm đoạn dây trần. Bàn tay đi gă
giác dừng lại trước khi chạm vào nó. Cô nhìn chằm chằm đoạn dây trần yếu ớt dưới ánh sáng ngọn đèn đeo trước trán mình.
“Sachs?” giọng Rhyme khiến cô giật mình.
Cô không trả lời. Tâm trí cô hiện lên lỗ thủng trên cây cột, những giọt th ng chảy chết người, những lỗ thủng trên thi thể của nạn nhân trẻ tuổi. Các đường dây cắt điện rồi…
Nhưng nhỡ cô cầm vào đoạn dây kim loại và có người ngồi cách đấy hai h dặm trong một buồng điều khiển tiện nghi lại quyết định cho dòng điện ch a nó? Đơn giản là nhấn một cái nút, chẳng biết gì về cuộc khám nghiệm nà Và quỷ tha ma bắt cái ắc-quy chết tiệt kia đang nằm ở chỗ nào? “Chúng ta cần mang chứng cứ về đây.” Rhyme nói.
“Phải.” Sachs luồn đầu cờ lê vào bao nilon để mọi dấu vết trên dụng cụ khô uyển sang các đai ốc hay ốc vít và bị lẫn lộn với dấu vết của thủ phạm.
ơn người ra phía trước, chỉ thoáng lưỡng lự khi bắt cờ lê vào bu lông t ất. Gắng sức một chút, cô tháo lỏng được nó ra, thao tác nhanh hết mức , cứ nghĩ sẽ cảm thấy cháy rát bất cứ lúc nào, tuy cô đồ rằng với điện áp c ư thế cô sẽ hoàn toàn chẳng cảm thấy gì mà ngay lập tức bị giật chết đứ đừ Lát sau, bu lông thứ hai được tháo lỏng và cô rút sợi cáp khỏi chỗ đấu n cuộn sợi cáp lại, bọc bằng tấm nhựa. Bỏ bu lông và đai ốc vào một chiếc ng chứng cứ. Cô đặt những thứ này ngoài cửa trạm điện cho Pulaski ho c kỹ thuật viên thu nhận, sau đó trở vào tiếp tục cuộc rà soát. Nhìn xuống s thấy thêm các dấu chân có vẻ phù hợp với dấu chân cô nghĩ là của ợng.
Cô nghênh nghênh đầu.
“Em đang làm anh chóng hết cả mặt, Sachs ạ.” Cô tự hỏi mình và hỏi Rhym ái gì vậy?”
“Em nghe thấy gì à?”
“Vâng, anh không nghe thấy à?”
“Nghe thấy thì anh đã không hỏi.”
Có vẻ là tiếng tóc tóc. Sachs bước đến chính giữa trạm điện và nhìn qua n xuống khoảng không gian tối om bên dưới.
Trí tưởng tượng của cô chăng?
Không, âm thanh ấy không thể nào nhầm lẫn được.
“Anh quả có nghe thấy rồi.” Rhyme nói.
“Nó vọng lên từ bên dưới, từ tầng hầm.”
Tiếng tóc tóc đều đặn. Không giống âm thanh do con người phát ra. Một thiết bị nổ hẹn giờ chăng? Sachs băn khoăn tự hỏi. Và cô lại nghĩ tới m bẫy. Thủ phạm rất khôn ngoan. Hắn biết một đội khám nghiệm hiện trườ nỗ lực hết sức để rà soát trạm điện. Hắn muốn ngăn chặn họ. Cô chia ững ý nghĩ đó với Rhyme.
Anh nói, “Nhưng nếu hắn đặt một cái bẫy, tại sao hắn không đặt gần p?”
Họ đồng thời đi đến cùng một kết luận, nhưng Rhyme là người nói ra, “Vì i đe dọa nào đó lớn hơn cho hắn dưới tầng hầm.” Rồi Rhyme phân tích, “N n đã cắt, thứ gì tạo nên âm thanh kia?”
“Có vẻ không phải theo nhịp tích tắc đâu, Rhyme. Có thể không phải thiế n giờ,” Sachs căng mắt nhìn qua lan can, thận trọng không chạm vào các ố m loại.
Rhyme nói, “Tối quá, anh chẳng nhìn thấy gì mấy.”
“Em sẽ kiểm tra xem sao.” Và Sachs bắt dầu đi xuống lối cầu thang xoắn ố Cầu thang kim loại.
Ba mét, bốn mét rưỡi, sáu mét. Ánh sáng từ các bóng đèn halogen ch ẫu nhiên vào một số mảng tường dưới này, nhưng chỉ là phần phía bên tr vị trí thấp hơn, mọi vật đều tối tăm, khói đọng lại dày đặc. Sachs không u vào được và phải cố gắng lắm để khỏi ngạt thở. Khi cô xuống đến đáy, cá
g chính đúng bằng chiều cao hai tầng nhà, cô hầu như không nhìn thấy gì ọn đèn thợ mỏ phản chiếu lại mắt cô. Tuy nhiên, đó là nguồn ánh sáng d ất mà cô có. Cô quay đầu, soi ngọn đèn từ bên này sang bên kia, nhận ra
những cái hộp, máy móc, dây dợ và bảng điện phủ kín các bức tường. Sachs do dự, vỗ vỗ khẩu súng. Rồi bước khỏi bậc thang cuối cùng. Cô thở hổn hển khi một cơn đau dội dọc lên trên người.
“Sachs! Gì thế?”
Sachs đã không biết là sàn bị ngập tới ba gang tay nước muối lạnh băng. ẳng thể nào nhìn được qua lớp khói dày đặc.
“Nước, Rhyme. Em không lường trước. Và nhìn này!” Sachs dõi ánh mắt v t cái ống đang rò rỉ, ở cao hơn đầu cô chừng ba mét.
Đó chính là âm thanh kia. Chẳng phải tiếng tích tắc, mà là tiếng nước n t. Ý tưởng về nước bên trong một trạm điện thật quá phi lý - và quá ng m - đến nỗi cô đã không nghĩ rằng nó là nguồn gốc của âm thanh kia. “Vì vụ nổ à?”
“Không. Hắn khoan một cái Hai cái. Nước cũng đang chảy xuống dọc th ờng, đấy là nguyên nhân khiên sàn bị ngập.”
Chẳng phải nước cũng dẫn điện tốt như kim loại sao? Sachs băn khoăn .
Và cô đang đứng trong cả một bể nước, ngay cạnh dãy dây nhợ, ổ cắm i nối phía bên trên tấm biển đề:
NGUY HIỂM: 138.000 VOLT.
Giọng Rhyme khiến Sachs giật mình. “Hắn gây ngập tầng hầm nhằm phá h ứng cứ.”
“Phải.”
“Sachs, gì kia? Anh không nhìn thấy rõ. Cái hộp kia. Cái hộp to ấy. Nhìn sa n phải đi… Đúng rồi, đấy. Cái gì đấy?”
À, rốt cuộc thì đây.
“Ắc-quy, Rhyme. Ắc-quy dự phòng.”
“Nó có điện không?”
“Họ bảo có. Nhưng em không…”
Sachs lội lại gần hơn và nhìn xuống. Đồng hồ trên ắc-quy cho thấy đúng là điện. Thực tế, đối với Sachs, trông nó có vẻ đang quá tải. Kim đồng hồ vư ức một trăm phần trăm. Rồi cô nhớ một điều khác mà người của Algonquin : yên tâm, nó đã được bọc mũ cách điện.
Trừ phi nó không được bọc. Sachs biết mũ cách điện ắc-quy hình dạng o, và cái ắc-quy này chẳng có mũ cách điện nào cả. Hai cực kim loại, nối sợi cáp dày, bị lộ ra.
“Nước đang dâng lên. Vài phút nữa sẽ lên đến các cực.”
“Liệu điện có đủ để tạo ra một vụ nổ hồ quang?”
“Em không biết, Rhyme.”
“Phải đủ.” Anh thì thầm. “Hắn sẽ sử dụng một vụ nổ hồ quang để phá hủy đó dẫn chúng ta tới với hắn. Cái gì đó hắn không thể đem đi hoặc không á hủy khi hắn có mặt tại đó. Em có thể khóa nước lại không?” Sachs nhìn lướt xung quanh. “Em không trông thấy cái vòi nào… Đợi m út.”
Sachs tiếp tục xem xét tầng hầm. “Dù sao, em cũng không trông thấy thứ n muốn phá hủy.” Nhưng rồi cô đã phát hiện ra: Ngay đằng sau ắc-quy, cá n khoảng một trăm hai mươi centimet, có một cửa kiểm soát. Nó không lớ h vuông, mỗi cạnh khoảng bốn mươi lăm centimet.
“Đấy, Rhyme. Đấy là lối hắn đột nhập vào trạm điện.”
“Phía bên kia ắt phải là một cái cống hoặc một đường hầm đặt ống kỹ thu ưng để đấy đã. Pulaski có thể lần đến được từ ngoài phố. Cứ rời khỏi đ ”
“Không, Rhyme, hãy nhìn nó, nó thực sự rất hẹp. Hắn ắt phải trườn qua. ắc chắn có lưu giữ một số dấu vết hữu ích, chắc chắn có. Sợi vải, tóc, có ADN. Nếu không tại sao hắn muốn phá hủy nó?”
Rhyme lưỡng lự. Anh biết Sachs nói đúng về việc bảo toàn chứng cứ, ên anh không muốn cô gặp phải một vụ nổ hồ quang thứ hai. Cô lội lại gần hơn cánh cửa. Nhưng khi cô tiến đến, đôi chân cô tạo nên m ờng rẽ nước nhỏ và sóng suýt dập dềnh lên tới ắc-quy.
Cô đờ người ra.
“Sachs!”
“Suỵt.” Cô phải tập trung chú ý. Rê chân từng tí một mỗi bước, cô có thể g o sóng không dâng lên tới nóc nguồn điện. Tuy nhiên, cô thấy rằng mình n một hay hai phút, nước sắp sửa chạm cực ắc-quy rồi.
Sử dụng tua vít dẹt đầu, Sachs tháo khung đỡ cánh cửa.
Lúc bấy giờ nước đã gần lên tới nóc ắc-quy. Mỗi lần cô vươn người ra p ớc để dồn lực xoay những chiếc ốc két sơn, lại xuất hiện một đợt triều nhỏ
ớc tối thẫm tràn qua nóc ắc-quy rồi rút xuống.
Điện áp ắc-quy tất nhiên nhỏ hơn đường dây hàng trăm nghìn volt đã tạo n lửa điện ngoài phố, nhưng có lẽ đối tượng chẳng cần gây thiệt hại lớn đ . Mục đích của hắn chỉ là một vụ nổ đủ để phá hủy cánh cửa kiểm soát n mọi bằng chứng chứa đựng trong đó.
Sachs muốn gỡ bằng được cánh cửa khốn kiếp.
“Sachs?” Rhyme thì thào.
Phớt lờ anh. Phát lờ hình ảnh những cái lỗ bị đốt cháy trong lớp thịt mịn c n nhân, những giọt nước mắt kim loại nóng chảy…
Rốt cuộc thì chiếc ốc cuối cùng cũng long ra. Sơn lâu ngày giữ khung cửa uyên vị trí. Sachs nhét đầu tua vít vào mép khung cửa, dập mạnh bàn ng chuôi. Rắc một tiếng, khối kim loại rời ra và cô đỡ lấy. Cả khung lẫn cá a nặng hơn cô tưởng, khiến cô suýt đánh rơi. Nhưng rồi cô đã trụ chân đứ ợc, mà không gây ra cơn sóng thần tràn lên ắc-quy.
Qua lỗ hổng, Sachs trông thấy đường hầm hẹp đặt ống kỹ thuật, đối tượ n đã dùng nó làm lối đột nhập trạm điện lúc trước.
Rhyme thì thào thúc giục, “Chui vào đường hầm đi. Nó sẽ bảo vệ e anh!”
“Em đang cố.”
Nhưng cánh cửa không đưa được qua lỗ hổng, thậm chí dù được xo hiêng đi, vì nó gắn liền với khung. “Chẳng làm thế nào được.” Sachs nói, g ch khó khăn mình gặp phải. “Em sẽ đi lên lối cầu thang.”
“Không, Sachs. Hãy để cánh cửa lại. Rời khỏi đấy theo đường hầm.” “Nó là một chứng cứ quá hữu ích.”
Cầm chặt cánh cửa, Sachs bắt đầu cuộc thoát thân, cô lội về phía cầu tha ốc chốc lại ngoảnh nhìn hộp ắc-quy trông chừng. Cô di chuyển nhọc nh ậm chạp. Thậm chí như thế, mỗi bước chân vẫn gây nên một đợt sóng ch n rìa cực ắc-quy.
“Tình hình sao rồi, Sachs?”
“Em gần đến đó rồi.” Cô thì thào, như thể nếu nói quá to sóng sẽ dữ dội hơ Cô đi được nửa đường đến chỗ cầu thang thì nước dâng lên thành nhữ áy nhỏ và cuộn xung quanh cực ắc-quy thứ nhất, rồi cực thứ hai. Không có tia lửa điện.
Không có gì.
Hai vai Sachs rũ xuống, tim đập thình thịch.
“Bom xịt rồi, Rhyme. Chúng ta chẳng phải…
Một vầng ánh sáng trắng bùng lên khiến cô lóa mắt, cùng với đó là tiếng g ủng khiếp, và Amelia Sachs bị hất văng ra phía sau, chìm dưới biển nư
ng sợ.
Chương 9
hom!”
Anh chàng phụ tá vội vã đi vào, cẩn thận quan sát Rhyme một lượt. “ uyện gì vậy? Anh cảm thấy thế nào?”
“Không phải tôi.” Sếp anh ta gắt, mắt mở to, hất đầu chỉ màn hình trống trơ melia. Cô ấy đang ở hiện trường. Một cái ắc-quy… Một tia lửa điện nữa. M tiếng lẫn hình. Hãy gọi Pulaski! Hãy gọi ai đó!”
Thom Reston nheo mắt đầy lo lắng, nhưng anh ta vốn rất giàu kinh nghi ng việc chăm sóc sức khỏe, dù khủng hoảng có nghiêm trọng thế nào, anh n bình tĩnh thi hành những nhiệm vụ cần thiết. Anh ta bình tĩnh nhấc đ ại cố định, nhìn tập giấy ghi số điện thoại đặt bên cạnh và nhấn một phím
Nỗi khiếp sợ không tập trung ở dạ dày, cũng chẳng chạy dọc xuống số g giống như, ờ, giống như điện chạy trong đường dây hở. Nỗi khiếp sợ ắp cơ thể và tâm trí người ta, thậm chí nếu người ta có bị liệt. Rhyme tức
chính bản thân mình. Đáng lẽ anh phải yêu cầu Sachs rời khỏi đấy ngay trông thấy hộp ắc-quy và thấy nước dâng lên. Anh luôn luôn như thế, q ú ý vào vụ án, vào mục tiêu, vào việc phát hiện ra những sợi vải bé x
ững mẩu vân tay, hay bất cứ thứ gì đưa anh tiếp cận gần hơn thủ phạm… quên mất cả ý nghĩa nằm khuất lấp phía sau: Anh đang đùa giỡn với t ng con người.
Tại sao? Hãy nhìn thương tích chính anh đang gánh chịu. Anh từng là m úy của Sở Cảnh sát New York, phụ trách bộ phận Điều tra, và đang đ n khám nghiệm hiện trường, đang khom lưng nhặt một sợi vải vương t t thi thể, khi thanh xà ấy sập xuống, thay đổi vĩnh viễn cuộc đời anh. Bây giờ, cũng cái thái độ ấy - thái độ anh truyền sang cho Amelia Sachs - đã dẫn đến điều thậm chí còn tồi tệ hơn: Cô có thể đã chết rồi. Thom kết nối được điện thoại.
“Ai đấy?” Rhyme hỏi, nhìn chằm chằm người phụ tá. “Cậu đang nói chuy ai đấy? Cô ấy không sao chứ?”
Thom giơ một bàn tay lên.
“Như thế nghĩa là sao? Như thế có thể nghĩa là thế nào?” Rhyme cảm th t dòng mồ hôi chảy dọc xuống trán. Anh nhận ra mình đang thở gấp hơn. T h nện thình thịch, tuy anh cảm thấy điều đó ở hàm và cổ, chứ chẳng phả g ngực, tất nhiên.
Thom nói, “Đó là Ron. Cậu ta đang ở trạm điện.”
“Cậu ta đang ở đâu tôi biết mẹ nó rồi. Nhưng chuyện gì đang diễn ra?” “Đã có… một sự việc bất ngờ. Đó là thông tin họ cung cấp.” Sự việc bất ngờ…
“Amelia đâu?”
“Họ đang kiểm tra. Có một số người đang ở trong trạm điện. Họ nghe th ng nổ.”
“Tôi biết đã có một vụ nổ. Tôi tận mục sở thị!”
Ánh mắt người phụ tá đảo về phía Rhyme. “Liệu anh… anh cảm thấy o?”
“Đừng hỏi câu ấy nữa. Chuyện gì đang diễn ra ở hiện trường?” Thom tiếp tục săm soi mặt Rhyme. “Mặt anh đang đỏ bừng.” “Tôi ổn.” Nhà hình sự học nói điềm tĩnh, để chàng thanh niên tập trung v ộc điện thoại. “Thật mà.”
Rồi người phụ tá ngoẹo đầu đi và trước nỗi khiếp sợ của Rhyme, anh ta trô t cứng cỏi, đôi vai hơi nhô lên.
Không…
“Được rồi.” Thom nói vào điện thoại.
“Được rồi cái gì?” Nhà hình sự học quát.
Thom phớt lờ sếp mình. “Cho tôi thông tin.” Rồi, kẹp điện thoại giữa vai và h ta bắt đầu gõ bàn phím máy tính chủ của phòng thí nghiệm. Màn hình bật sáng.
Rhyme đã mất vẻ điềm tĩnh giả vờ và sắp sửa mất hết kiểm soát thì trên m h hiện ra một Amelia Sachs xem chừng không thương tích gì, tuy người ư ng. Những sợi tóc đỏ bám trên mặt cô giống những sợi tảo biển bám t ười một thợ lặn scuba. (thợ lặn có bình khí nén)
“Xin lỗi, Rhyme, em đánh mất camera lúc bị rơi xuống nước.” Cô ho sặc s lấy tay lau trán, xong xem xét các ngón tay với vẻ tởm lợm. Những cử độ t cục.
Cái thở phào nhẹ nhõm ngay lập tức thay thế nỗi khiếp sợ, tuy cơn tức tố với bản thân anh - thì vẫn còn.
Sachs đang nhìn chằm chằm ra, có chút gì kỳ lạ, ánh mắt chỉ hướng chu ung về phía anh. “Em đang dùng laptop của một nhân viên Algonquin. Nó mera cài bên trong. Anh nhìn thấy em không?”
“Có, có. Nhưng em ổn chứ?”
“Chỉ hít phải một ít nước khá kinh tởm. Còn thì em ổn.”
Rhyme hỏi, “Chuyện gì xảy ra vậy? Tia hồ quang…”
“Không phải tia hồ quang. Ắc-quy không bị dùng vào mục đích ấy. Người đ g từ Algonquin bảo em rằng không có đủ điện áp. Việc đối tượng làm là t quả bom. Xem chừng có thể tạo bom bằng ắc-quy. Bịt kín các lỗ thông cho nó quá tải. Như thế sẽ làm sản sinh khí hydro. Khi nước lên tới các c gây đoản mạch và tia lửa điện đốt cháy khí hydro. Đấy là sự việc đã diễn ra “Thế em đã bảo nhân viên y tế khám cho chưa?”
“Không, không cần. Tiếng nổ nghe to nhưng vụ nổ không nghiêm trọng. E bị một số mảnh nhựa từ vỏ bọc các máy móc văng vào. Thậm chí không m giập gì. Sức nổ hất văng em xuống, nhưng em giơ được cánh cửa lên, ông hề chạm nước. Em nghĩ nó không bị ảnh hưởng lắm đâu.” “Tốt, Ame…” Giọng Rhyme ngưng lại. Vì lý do nào đấy, từ nhiều năm n ữa họ đã hình thành một sự duy tâm ngấm ngầm: không bao giờ gọi nh ng tên. Anh lo lắng khi suýt gọi cô bằng tên. “Tốt. Vậy đấy là cách hắn ập vào.”
“Chắc chắn.”
Lúc ấy, Rhyme nhận ra Thom đang đi về phía bức tường. Anh chàng phụ lấy máy đo huyết áp và quấn nó xung quanh cánh tay Rhyme. “Đừng làm việc ấy…”
“Yên lặng!” Thom quát, bắt Rhyme không được mở mồm. “Mặt anh đang ng và anh đang vã mồ hôi.”
“Vì chúng tôi vừa gặp một sự việc bất ngờ chết tiệt ở hiện trường vụ om ạ.”
“Anh có đau đầu không?”
Anh có. Nhưng đáp, “Không.”
“Đừng nói dối!”
“Hơi thôi. Không vấn đề gì.”
Thom đặt bộp một phát cái ống nghe vào tay Rhyme “Xin lỗi Amelia. Tôi c h ấy yên lặng trong ba mươi giây.”
“Được thôi.”
Rhyme lại bắt đầu phản đối, nhưng rồi anh quyết định rằng huyết áp c nh được đo càng nhanh, anh càng sớm có thể trở về với công việc. Anh vô cảm quan sát vòng bít dần dần phồng lên và Thom lắng nghe khi ợc để xì ra. Anh ta tháo khóa dán đánh soạt một cái. “Huyết áp cao đấy. ốn đảm bảo là nó không cao hơn nữa. Bây giờ thì tôi sẽ săn sóc mấy việc.
Một uyển ngữ lịch thiệp cho chuyện mà Rhyme cứ gọi toạc ra là chuyện “c .”
Sachs hỏi, “Tình hình đằng đó thế nào, Thom? Mọi việc ổn chứ?” “Ừ.” Rhyme khó khăn lắm mới có thể giữ giọng điềm tĩnh. Và giấu đi thực anh bỗng dưng cảm thấy mình yếu ớt một cách kỳ lạ, tuy anh không xác đ ợc đó là vì Sachs suýt gặp nạn hay là vì tình trạng sức khỏe của mình. Anh cũng cảm thấy xấu hổ nữa.
Thom nói, “Anh ấy đã bị tăng huyết áp. Tôi muốn anh ấy ngừng nói chuy n thoại.”
“Bọn em sẽ mang chứng cứ về, Rhyme. Nửa tiếng nữa, bọn em sẽ có mặt. Thom sắp sửa ngắt cuộc gọi thì Rhyme cảm thấy một cái gõ nhẹ trong đầ t cái gõ về nhận thức, không phải về thể chất. Anh quát, “Hẵng khoan!” Nó hĩa là mệnh lệnh cho cả Thom lẫn Sachs.
“Không” Anh chàng phụ tá phản đối.
“Xin cậu. Thom. Chỉ hai phút. Việc này quan trọng.”
Mặc dù rõ ràng nghi ngờ lời khẩn khoản lịch sự kia, Thom vẫn miễn cưỡ đầu.
“Ron đang tìm xem thủ phạm chui vào đường hầm ở chỗ nào, phải không? “Phải.”
“Cậu ta có đó không?”
Hình ảnh nhiễu và giật cục của Sachs quay nhìn xung quanh, “Có.” “Bảo cậu ta ra nói trước camera.”
Rhyme nghe thấy Sachs gọi chàng cảnh sát. Lát sau, cậu ta ngồi xuống, n ằm chằm vào màn hình. “Dạ, thưa sếp?”
“Cậu phát hiện được chỗ hắn chui vào đường hầm nằm phía sau trạm đ ưa?”
“Rùi ạ.”
“Rùi ạ? Cậu nói kiểu gì đấy, cậu tân binh.”
“Xin lỗi. Rồi ạ.”
“Chỗ nào?”
“Có một cái cống trong con hẻm trên phố. Của Điện lực Alganquiru. Nó là p cận các đường ống hơi nước. Bản thân nó không dẫn đến trạm đi ưng vào sâu bên trong khoảng sáu mét có thể là chín mét, tôi phát hiện đư t lưới sắt. Kẻ nào đó đã cắt mất một ô. Đủ rộng để chui qua. Nó đã được nhưng tôi vẫn nhận ra.”
“Mới cắt à?”
“Mới.”
“Vì các mép chưa bị gỉ?”
“Vâng. Nó dẫn đến đường hầm này. Nó thực sự rất cũ. Có lẽ để chuyển th y gì đó từ lâu rồi. Đó là lối chạy tới cái cửa kiểm soát Amelia phát hiện ra. ở đầu đường hầm và trông thấy ánh sáng khi chị ấy tháo cái cửa. Tôi ng y ắc-quy nổ và chị ấy hét lên. Tôi bò tới chỗ chị ấy ngay lập tức, qua đườ m.”
Sự cục cằn tan biến. “Cảm ơn, Pulaski.”
Một thoáng lúng túng. Những lời khen của Rhyme hiếm hoi tới nỗi anh nh rằng mọi người hoàn toàn không biết phải xử sự thế nào với chúng. “Tuy nhiên, tôi đã cẩn thận tránh phá hỏng hiện trường quá nhiều.” “Để cứu lấy tính mạng mọi người, thì làm ảnh hưởng sao cũng được. Hãy ớ điều đó.”
“Rõ.”
Nhà hình sự học tiếp tục, “Cậu đã khám nghiệm hiện trường cái cống, và c n cắt lưới sắt rồi chứ? Cả đường hầm nữa?”
“Vâng, thưa sếp.”
“Phát hiện được gì không?”
“Chỉ có dấu chân. Nhưng tôi thu dấu vết rồi!”
“Chúng ta sẽ xem nó nói lên điều gì.”
Thom thầm thì giọng kiên quyết, “Lincoln?”
“Một phút nữa thôi. Cậu tân binh, bây giờ tôi cần cậu làm việc này. Cậu trô y tiệm ăn hay tiệm cà phê bên kia phố, đối diện trạm điện chứ?” Chàng cảnh sát ngoảnh nhìn phía tay phải. “Tôi trông thấy rồi..! Hẵng kho m sao sếp biết có cái tiệm ở đó?”
“Ồ, sau một lần tôi dạo chơi loanh quanh ấy mà.” Rhyme cười khoái trá
“Tôi…” chàng trai đỏ bừng mặt.
“Tôi biết, vì phải có một cái tiệm ở đó. Đối tượng của chúng ta muốn quan ợc trạm điện khi thực hiện vụ tấn công. Hắn sẽ chẳng tài nào quan sát đư một phòng khách sạn vì sẽ phải đăng ký, hay từ một tòa văn phòng vì n quá đáng ngờ. Hắn sẽ ở một chỗ có thể ngồi thoải mái.”
“Ồ, tôi hiểu rồi. Sếp muốn nói rằng về mặt tâm lý, hắn thích ngắm pháo hoa Thời điểm của những lời khen đã kết thúc. “Lạy Chúa, cậu tân binh, đó uyện hồ sơ tâm lý tội phạm. Thái độ của tôi về hồ sơ tâm lý tội phạm như o hả?”
“Ờ… Sếp không hẳn là một người hâm mộ cuồng nhiệt những thứ ấy.” Rhyme bắt gặp Sachs, ở phía sau, đang mỉm cười.
“Hắn cần quan sát xem thiết bị của mình hoạt động ra sao.
“Hắn đã sáng chế được một loại vũ khí độc nhất vô nhị. Tia lửa điện đó chẳ ải thứ hắn có thể thử nghiệm ngoài bãi bắn súng trường.
“Hắn phải điều chỉnh điện áp và các aptomat ngay trong quá trình thực hi n phải bảo đảm rằng nó phóng chính xác vào thời điểm chiếc xe buýt đa ng. Hắn bắt đầu thao túng máy tính kiểm soát lưới điện lúc mười một giờ
ươi phút và trong vòng mười phút tất cả kết thúc. Hãy đi nói chuyện với qu iệm ăn…”
“Tiệm cà phê.”
“Tiệm cà phê. Và hỏi xem có ai trong tiệm ngồi gần cửa sổ một lúc trước y ra vụ nổ không. Hắn đã ngay lập tức rời khỏi tiệm, trước lúc cảnh sát và c a đến. Ồ, và hỏi xem họ có đường truyền Internet băng thông rộng không nhà cung cấp.
Thom, lúc bấy giờ đã đi găng tay, đang tỏ cử chỉ sốt ruột. Chuyện cứt đái… Pulaski nói, “Rõ, thưa sếp.”
“Và tiếp theo…”
Chàng cảnh sát trẻ tuổi ngắt lời, “Phong tỏa tiệm cà phê, khám nghiệm h ờng.”
“Chính xác, cậu tân binh. Rồi cả cậu và Sachs, trở về càng sớm càng tốt.” Một trong những ngón tay còn động đậy được của Rhyme gõ nhẹ một cái c cuộc điện thoại, và với một phần triệu giây nhấn phím gọi tắt tới Thom.
Chương 10
ền đám mây, Fred Dellray đang ngẫm nghĩ.
Nhớ lại lúc Phó Trưởng văn phòng Tucker McDaniel mới tới giữ ghế ở v òng FBI New York, tập trung lính và nói chuyện dưới hình thức lên lớp, tươ như vừa nói chuyện tại nhà Rhyme trước đấy vài tiếng đồng hồ, về nhữ ương thức thông tin liên lạc mới mà bọn tội phạm hiện nay sử dụng, về cá ng nghệ phát triển tăng tốc tạo thêm thuận lợi cho chúng và khó khăn cho ta Miền đám mây…
Tất nhiên, Dellray hiểu khái niệm này. Người ta chẳng thể nào làm việc tro h vực thực thi pháp luật mà không biết đến những phương thức tiếp cận cô hệ cao của McDaniel để tìm kiếm và tóm cổ bọn tội phạm. Nhưng anh ta b ông có nghĩa là anh ta thích. Không hề. Lý do chủ yếu vì những gì mà cụm
đại diện - nó tượng trưng cho những thay đổi căn bản, có thể có tính tàn p ng cuộc đời mỗi người.
Và cả những thay đổi trong cuộc đời anh ta.
Trên chuyến tàu điện ngầm chạy tới khu vực trung tâm thành phố trong b ều quang đãng này, Dellray nghĩ đến cha mình, một giáo sư ở Đại h rymount Manhattan, tác giả của vài cuốn sách viết về các nhà phê bình v
a và triết gia Mỹ gốc Phi. Người đàn ông đó đã dễ dàng bước vào giới h ật từ tuổi ba mươi và không bao giờ bước ra. Ông qua đời bên chính ch n ông coi là nhà suốt mấy mươi năm, gục xuống những bản in thử tờ tạp ông sáng lập khi vụ ám sát Martin Luther King vẫn còn chưa phai trong t nhân dân toàn thế giới.
Thời cha anh ta còn sống, chính trị đã có sự thay đổi mạnh mẽ: sự sụp a chủ nghĩa cộng sản, vết thương phân biệt chủng tộc, sự xuất hiện của c thù phi quốc gia. Máy tính thay thế cho máy chữ. Kênh truyền hình tăng n, cộng thêm tần số UHF, lên hàng trăm. Nhưng phong cách sống của c ười hầu như không hề có thay đổi căn bản nào. Cha của Dellray đã thà nh trong giới học thuật khép kín nói chung, giới triết học nói riêng, và, ồ, ô muốn biết bao con trai ông cũng đi theo hướng đó, nghiên cứu bản chất c
tồn tại và đặc tính con người. Ông đã trút vào con trai mình cùng một t u.
Ở mức độ nào đấy, ông đã thành công. Hay đặt các câu hỏi, đặc biệt thô nh, sắc sảo, chàng trai trẻ Fred đã thực sự bộc lộ niềm say mê đối với nh i dưới tất cả các hiện thân của nó: triết lý siêu hình, thần học, tâm lý h ận thức luận, đạo đức và chính trị. Anh ta say mê tất cả. Nhưng chỉ sau m ng làm chân phụ tá ở trường đại học, anh sinh viên mới tốt nghiệp nhận g mình sẽ phát điên nếu tài năng không được đưa vào sử dụng trong th
Và không bao giờ lùi bước, anh ta tìm kiếm hình thức ứng dụng tâm lý học ợng nhất, quyết liệt nhất mình có thể nghĩ tới.
Tham gia lực lượng FBI.
Thay đổi…
Cha anh ta đã tự hòa giải với cậu con trai bội giáo, và họ lại cùng nhau ởng những buổi uống cà phê, những cuộc đi dạo dài trong Công viên Tr ng và qua đó họ nhận ra rằng, mặc dù phòng thí nghiệm và kỹ thuật của
khác nhau, nhưng quan điểm và sự hiểu biết của họ thì chẳng khác biệt. Đặc tính con người… đã được cha quan sát, viết ra, và được con trực t nghiệm.
Dưới dạng thức những nhiệm vụ bí mật. Sự tò mò cao độ và hiểu biết về b ất cuộc sống của Fred khiến anh ta có khả năng biển thành bất cứ ai m ch rất tự nhiên. Khác với hầu hết các cảnh sát chìm, kỹ năng diễn và thể l
diễn hạn chế, Fred có khả năng hóa thân thực sự vào bất cứ vai diễn nào. Một lần, khi Dellray đang cải trang thành một người đàn ông vô gia cư t ờng phố New York, cách không xa tòa nhà Cơ quan Điều tra Liên bang, P
ưởng văn phòng phụ trách văn phòng FBI Manhattan lúc bấy giờ, sếp c llray, bước ngay qua, thả một đồng hai mươi lăm xu vào cái cốc, tuyệt ông nhận ra anh ta.
Một trong những lời khen đáng giá nhất mà anh ta từng nhận. Một con tắc kè hoa. Tuần này, là con nghiện ma túy đá lên cơn vật vã. Tu u, là đại diện ngoại giao của Nam Phi đang bán những bí mật hạt nhân. R
t phụ tá cho lãnh tụ Hồi giáo Somali, gieo rắc lòng căm thù nước Mỹ cù ng trăm câu kinh Koran.
Dellray sở hữu mấy chục bộ trang phục, mua hoặc tự sửa lấy, giờ để c ng dưới tầng hầm ngôi nhà ở Brooklyn mà anh ta và Serena đã tậu vài n ớc. Anh ta đã đạt được những tiến bộ trong sự nghiệp, điều đó là tất yếu
một người có nỗ lực, có kỹ năng, và hoàn toàn không có mong muốn đ ọc sau lưng đồng nghiệp. Bây giờ, Dellray chủ yếu quản lý các mật vụ kh
a FBI và các đối tượng tay trong cung cấp thông tin - còn được gọi là các ợng chỉ điểm - tuy thỉnh thoảng anh ta vẫn trực tiếp hóa thân thực hiện nhi Và vẫn yêu công việc như thuở ban đầu.
Nhưng rồi xuất hiện sự thay đổi ấy.
Miền đám mây…
Dellray không phủ nhận rằng cả người tốt lẫn kẻ xấu đều đang trở nên thô nh hơn, thành thạo công nghệ hơn. Sự thay đổi là hiển nhiên: HUMINT, t o con người - thành quả của tin tức được thu thập qua tiếp xúc giữa c ười với con người - đang nhường chỗ cho SIGINT, tình báo tín hiệu. Nhưng nó là một hiện tượng khiến Dellray hoàn toàn không cảm thấy th
i. Thời còn trẻ, Serena đã cố gắng trở thành ca sĩ hát tình khúc. Cô có ảy múa bẩm sinh, từ ba lê cho tới jazz hay các thể loại hiện đại, cô chỉ khô khả năng hát. Đối với các dữ liệu, con số và công nghệ thực thi pháp l ới, Dellray chẳng khác gì.
Anh ta tiếp tục chỉ đạo các tay trong, tự cải trang thâm nhập, và đạt được ả. Nhưng trước McDaniel và nhóm C và T của anh ta - ồ, xin lỗi, nhóm Cô hệ và Thông tin Liên lạc - thì Dellray lỗi thời này cảm thấy, ồ, cảm thấy m á cũ kỹ. Viên Phó Trưởng văn phòng là một người sắc sảo, làm việc nh h, sáu mươi tiếng đồng hồ mỗi tuần, và là người sẵn sàng đấu tranh nội h ta sẽ đứng lên bảo vệ quân của mình trước Tổng thống trong trường h
n thiết. Các kỹ thuật của anh ta cũng đã phát huy tác dụng. Tháng trướ ười của McDaniel thu thập được thông tin từ những cuộc điện thoại mã h để định vị một cơ sở Hồi giáo cực đoan nằm ngoại vi Milwauke. Thông điệp gửi tới Dellray và các mật vụ lớp trước khá rõ ràng: Thời của c h sắp qua rồi.
Anh ta vẫn cảm thấy đau sau lời chỉ trích, có thể không phải cố ý, được đ trong cuộc họp tại phòng thí nghiệm của Rhyme.
Thôi, cứ tiếp tục điều tra, Fred. Anh đang làm tốt đấy…
Có nghĩa là, tôi thậm chí không hề chờ đợi anh sẽ tìm thấy bất cứ manh m o dẫn đến Công lý cho và Rahman.
Có lẽ McDaniel đã đúng khi chỉ trích. Suy cho cùng, Dellray đang nắm tro một mạng lưới cung cấp tin tức bí mật quá tốt để theo dõi các hoạt độ ủng bố. Anh ta gặp gỡ họ thường xuyên. Anh ta tác động tích cực tới tất ng cấp các biện pháp bảo vệ cho những kẻ sợ sệt, khăn giấy Kleenex c ững giọt nước mắt tội lỗi, tiền mặt để sinh nhai, và cho nếm đòn cả thể c tinh thần đối với những kẻ mà, như bà của Dellray hay nói, không biết m ai.
Nhưng mọi thông tin anh ta thu thập được về những âm mưu khủng bố, th chỉ mới ở giai đoạn phôi thai, không có gì liên quan tới Công lý cho Rahm y một tia lửa điện khốn kiếp.
Và đến đây, người của McDaniel đã tạo một tài khoản ảo và xác định đư i đe dọa thực sự mà chẳng phải nhấc mông khỏi ghế.
Giống như những máy bay không người lái ở Trung Đông và Afghanis ăng? Các anh biết là phi công điều khiển những máy bay này ngồi ngay b nh dãy cửa hàng mua sắm ở Colorado Springs hay Omaha thôi… Dellray cũng còn một mối lo lắng khác, một mối lo lắng bắt đầu nảy sinh xu anh thời điểm anh chàng McDaniel trẻ trung xuất hiện: Có lẽ đơn giản là a đã qua thời tài ba rồi.
Có lẽ Rahman đã ở ngay trước mũi anh ta. Có lẽ các thành viên nằm vù a Công lý cho đã nghiên cứu kỹ thuật điều khiển mạng lưới điện ở Brook y New Jersey cũng giống như cái cách không tặc vụ 11/9 từng nghiên cứu ật bay vậy.
Rồi một chuyện nữa: Anh ta phải thừa nhận gần đây mình hay bị mất ng. Một chuyện thuộc về Cuộc Đời Kia của anh ta, đó là cái cách anh ta cuộc đời của anh ta với Serena mà anh ta vốn vẫn giữ cho nó tách rời k ững công việc đường phố, như người ta để xăng và lửa ở xa nhau. M uyện khá quan trọng: Fred Dellray giờ đây đã làm cha. Năm ngoái, Sere h một cậu con trai. Trước khi sinh con, họ đã cùng bàn bạc, và cô khă ăng rằng thậm chí sau khi đứa trẻ ra đời, Dellray vẫn sẽ không thay đổi ng hiệp. Thậm chí nếu nó dính líu tới thế giới ngầm đầy rẫy nguy hiểm. Cô h ng việc định hình nên con người anh ta cũng giống như những bước nh h hình nên con người cô vậy, rốt cuộc thì đối với anh ta, phải ngồi đằng s n giấy còn nguy hiểm hơn.
Nhưng việc làm cha đã khiến anh ta, trong vai trò một mật vụ, thay ăng? Dellray mong ngóng những lúc được đưa Preston đi công viên hay v a hiệu với mình, cho thằng bé ăn, đọc sách cho nó. (Serena trước đó đã v
òng trẻ, vừa cười lớn vừa dịu dàng lấy khỏi bàn tay dài nghêu của Dell ốn tuyên ngôn chủ nghĩa hiện sinh của Kierkegaard: Sự sợ hãi và cơn run r y thế bằng cuốn Chúc chị Hằng ngủ ngon. Dellray chưa từng nhận ra rằ m chí ở lứa tuổi nhỏ như thế, ngôn từ cũng có giá trị.)
Tàu điện ngầm dừng tại West Village, hành khách hối hả lên tàu. Theo bản năng, chất đặc vụ trong con người anh ta ngay lập tức chú ý n đối tượng: Hai đối tượng gần như chắc chắn là dân móc túi, một thằng ng thủ một con dao thái hay dao trổ gì đấy, và một thương nhân trẻ mồ hôi
nhễ nhại, áp bàn tay giữ túi áo chặt đến nỗi nếu không cẩn thận hắn sẽ l h toác gói cocaine.
Đường phố… Fred Dellray say mê đường phố biết bao.
Nhưng bốn đối tượng này không liên quan gì tới nhiệm vụ của anh ta và a để bọn họ chìm dần xuống dưới dòng suy nghĩ, trong lúc tự nhủ: Được y đang có vấn đề. Mày đã để hụt mất Rahman, mày đã để hụt mất Công
o. Nhưng thương vong và thiệt hại rất ít. McDaniel trịch thượng, song ch n mày thành kẻ giơ đầu chịu báng. Điều mà một người khác có lẽ đã chẳ ần chừ gì.
Dellray vẫn có thể tìm ra manh mối đối tượng chưa xác định và ngăn ch n thực hiện những cuộc tấn công kinh khủng khác. Dellray vẫn có thể xây đ hình ảnh của bản thân.
Ở bến tiếp theo, anh ta rời khỏi tàu và bắt đầu đi bộ về phía đông. Cuối cù h ta tới khu vực những cửa hiệu rượu vang, những dãy nhà cho thuê rẻ ti ững câu lạc bộ tối tăm và cũ kỹ, những quán ăn sực mùi dầu mỡ, cả nhữ
m cafe lữ hành taxi gắn biển tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ả Rập hay Ba T ông trông thấy những người có nghề nghiệp tất bật hối hả như ở khu v est Village, ở đây người ta ít di chuyển, chỉ ngồi - hầu hết là nam giới - t ững chiếc ghế dựa ọp ẹp hoặc bậc thềm, trẻ thì mảnh khảnh, già thì béo t o tròn. Tất cả đều nhìn bằng ánh mắt thận trọng.
Đây là nơi công việc nghiêm túc của đường phố vốn vẫn được thực hiện. Đ nơi Fred Dellray lấy làm văn phòng của mình.
Anh ta sải bước tới một tiệm cà phê, nhìn vào bên trong - hơi khó khăn vì ng tháng trời người ta chưa lau kính.
Cơ hội cuối cùng cho anh ta.
Đập mắt cá chân này vào mắt cá chân kia cốt để chắc chắn rằng khẩu sú o ở cổ chân không bị tuột mất, rồi anh ta mở cửa bước vào.
Chương 11
nh cảm thấy thế nào?” Sachs hỏi trong lúc bước vào phòng thí nghiệm. Rhyme cứng cỏi đáp, “Anh khỏe. Chứng cứ đâu?” Các câu nói không n dấu câu rõ ràng.
“Nhóm kỹ thuật viên và Ron đang đem về. Em tự lái chiếc Cobra về trước.” Rhyme đồ rằng câu ấy có nghĩa là Sachs đã lái xe như điên về. “Còn chị thế nào?” Thom hỏi.
“Ướt.”
Chẳng cần nói cũng thấy. Tóc Sachs đang khô rồi nhưng quần áo của cô v ng nước. Tình trạng của cô không thành vấn đề. Họ biết là cô ổn. Họ đã x nh được điều đó từ lúc nãy. Rhyme đã bàng hoàng khi sự việc xảy ra,
ên bây giờ cô không sao, và anh muốn xem xét đến chứng cứ. Nhưng như thế chỉ là một cách khác để bảo rằng xác suất bốn mươi l ần trăm là sẽ có thêm một người nào đó ở một chỗ nào đó trong thành p w York sắp sửa bị điện giật chết?… Và điều đó có thể xảy ra ngay bây giờ. “Chà, chứng cứ…?”
“Có chuyện gì thế?” Sachs hỏi Thom, đưa ánh mắt về phía Rhyme. “Anh đã bảo anh khỏe mà.”
“Em đang hỏi cậu ấy.” Chính Sachs lúc bấy giờ hơi cáu.
“Huyết áp tăng. Tăng vọt.”
“Và bây giờ nó chẳng còn cao nữa, đúng không, Thom?” Lincoln Rhyme ng hỏi. “Nó ổn, bình thường. Kiểu như nói tới việc Nga đưa tên lửa sa ba ấy. Đã xuất hiện căng thẳng trong một khoảng thời gian. Nhưng vì Mia
ẳng phải một cái hố phóng xạ, tôi cho rằng vấn đề đã tự nó giải quyết xo ng không? Nó, Đã. Là. Quá. Khứ. Hãy gọi Pulaski. Cả nhóm kỹ thuật viên đ Queens. Tôi muốn có vật chứng.”
Anh chàng phụ tá phớt lờ Rhyme, nói với Sachs, “Chưa cần đến thu ưng tôi đang theo dõi.”
Cô đưa mắt đánh giá Rhyme thêm lần nữa. Rồi bảo sẽ lên gác thay quần á “Có vấn đề gì à?” Lon Sellitto hỏi. Anh ta vừa từ trung tâm thành phố tới m út trước. “Anh cảm thấy không khỏe hả Linc?”
“Ôi, lạy Chúa.” Rhyme quát. “Tất cả mọi người điếc hay sao? Tất cả m ười phát lờ tôi hay sao?…” Rồi anh nhìn về phía khung cửa. “A, cuối cù tức từ một đất nước khác cũng đến. Mẹ kiếp, Pulaski, ít nhất cậu cũng dụng. Chúng ta có được gì?”
Chàng cảnh sát trẻ, đã mặc lại đồng phục, đang đẩy vào những thùng v ng đựng sữa đóng chai mà nhân viên khám nghiệm hiện trường hay dùng n chuyển túi đựng vật chứng.
Lát sau, hai nhân viên đến từ trụ sở bộ phận Khám nghiệm Hiện trường eens mang vào một vật kềnh càng được bọc nilon: sợi dây điện. Thứ vũ ùng nhất Rhyme từng thấy trong một vụ án. Và là một trong những thứ vũ uy hiểm nhất. Họ cũng mang vào cả cánh cửa của ô cửa kiểm soát dưới tầ m trạm điện được bọc theo cách thức tương tự.
“Pulaski? Tiệm cà phê thế nào?”
“Sếp đã đúng. Tôi có một số thông tin đây, thưa sếp.”
Cái nhướn mày của nhà hình sự học nhắc nhở chàng cảnh sát rằng da ng kia là không cần thiết. Nhà hình sự học đã là một đại úy Sở Cảnh sát N rk về chiều. Anh không có quyền mang một danh xưng chính thức hay đư
là “sếp” gì đó hơn bất cứ ai ngoài đường. Và anh từ trước tới nay vẫn ng phá vỡ sự thiếu tự tin ở Pulaski - vì tuổi đời đang trẻ, tất nhiên, nhưng c nguyên nhân khác nữa: Cậu ta bị chấn thương nghiêm trọng ở đầu ng ng vụ án đầu tiên họ hợp tác với nhau. Nó suýt chấm dứt sự nghiệp của c trong lực lượng cảnh sát, tuy nhiên cậu ta đã trụ lại được, bất chấp ch
ương đi kèm theo hậu quả là thỉnh thoảng cậu ta bị lẫn lộn và mất phươ ớng. (Cậu ta có quyết tâm ở lại lực lượng chủ yếu nhờ sự thôi thúc từ qu m tương tự của Rhyme.)
Để biến Pulaski trở thành một sĩ quan khám nghiệm hiện trường hàng đ t trong những yếu tố quan trọng nhất Rhyme cần, dần dần khiến cậu ta th uần là cái tôi biết kháng cự sự phê phán. Người ta có thể có mọi kỹ năng t
này nhưng chúng sẽ vô ích nếu không có lòng dũng cảm hỗ trợ. Trước ết, anh muốn chứng kiến Pulaski giữ một vị trí cao trong lĩnh vực kh hiệm hiện trường ở thành phố New York. Anh biết điều đó có thể trở thà
n thực. Anh có một hình dung đơn giản về hy vọng của mình: Pulaski chs cùng phụ trách bộ phận Khám nghiệm Hiện trường. Đó sẽ là di s yme để lại.
Anh cảm ơn nhóm kỹ thuật viên bộ phận Khám nghiệm Hiện trường khi họ bằng những cái cúi đầu chào trân trọng và vẻ mặt cho thấy họ đang ghi n òng thí nghiệm được trang bị như thế nào. Không có nhiều người thuộc nh sát có thể đến đây gặp trực tiếp Rhyme. Anh chiếm lĩnh một thứ bậc đ
t tại Sở Cảnh sát New York. Mới có thay đổi nhân sự và người phụ trá ng khám nghiệm đã chuyển đến Miami. Hiện tại, vài thám tử cấp cao đa ng nhau phụ trách mảng này cho tới lúc có bổ nhiệm nhân sự chính th ậm chí đã có những trao đổi về việc thuê Rhyme quay lại phụ trách bộ ph ám nghiệm Hiện trường một lần nữa.
Khi phó giám đốc Sở gọi điện đến về việc ấy, Rhyme nêu ý kiến rằng anh gặp phải một số vấn đề đối với bài kiểm tra tiêu chuẩn dành cho đối tượ ển dụng của Sở. Phần kiểm tra sức khỏe thể chất đòi hỏi đối tượng tuy ng phải hoàn thành những nội dung bị tính thời gian: chạy tới một hàng r o gần hai mét rồi nhảy qua nó, khống chế một tội phạm trong tình huống h, chạy lên cầu thang, lôi một người nộm nặng ngót tám mươi kilogram ỏi nơi nguy hiểm, kéo cò súng mười sáu lần bằng tay thuận và mười lăm ng tay kia.
Rhyme do dự, trình bày với các quan chức Sở Cảnh sát New York đến g h về việc anh không bao giờ có thể hoàn thành bài kiểm tra đó. Nhưng an tâm của họ khiến anh phổng hết cả mũi.
Sachs quay xuống gác, mặc quần jean và áo len màu xanh lam nhạt bỏ tro ần, tóc cô đã gội và còn hơi ẩm, được buộc ra sau thành đuôi ngựa bằng n đen.
Đúng lúc ấy, có tiếng chuông cửa, Thom đi ra mở cửa và một nhân vật n ớc vào.
Người đàn ông mảnh khảnh, mà thái độ nhút nhát khiến người ta nghĩ tới m ân viên kế toán hay một ông bán giày tuổi trung niên, là Mel Cooper, th an điểm của Rhyme thì là kỹ thuật viên phòng khám nghiệm pháp y giỏi n ớc. Có bằng cử nhân toán, vật lý và hóa hữu cơ, là chuyên viên cao cấp ở ệp hội quốc tế về nhận dạng lẫn Hiệp hội quốc tế về phân tích mẫu máu, a
uôn là niềm ao ước lớn của các đơn vị Khám nghiệm Hiện trường. Nhưng ch đấy nhiều năm, Rhyme đã bắt cóc người kỹ thuật viên này từ phía b ng New York đưa về Sở Cảnh sát thành phố, người ta hiểu rằng Cooper ông những công việc đang làm, tới ngay Manhattan nếu Rhyme sát cá ng Sellitto giải quyết một vụ án và muốn anh ta có mặt.
“Mel, thật mừng là anh đến được.”
“Hừm. Đến được… Chẳng phải anh đã gọi cho tay trung úy của tôi và đe d h ta đủ thứ kinh khủng nếu anh ta không thả tôi ra khỏi vụ Hanover-Ste o?”
“Tôi làm như thế vì anh, Mel ạ. Anh đang bị lãng phí vào ba cái vụ giao d gián.”
“Và tôi cảm ơn anh về lệnh ân xá đó.”
Cooper gật đầu chào mọi người trong phòng, đặt cặp kính Harry Potter ng mũi và, trong đôi giày hiệu Hush Puppies màu nâu êm ái, bước ngang q òng thí nghiệm đến chỗ chiếc bàn khám nghiệm. Mặc dù là người có bề ng m khỏe mạnh nhất mà Rhyme từng gặp, tất nhiên không kể chính bản th h, Mel Cooper bao giờ cũng di chuyển với vẻ duyên dáng của một cầu ng đá, và nó khiến Rhyme nhớ ra rằng anh ta là nhà vô địch khiêu vũ cổ điể
“Chúng ta hãy nghe chi tiết nào.” Rhyme nói, quay sang Sachs. Cô mở phần ghi chép và trình bày những gì người giám sát thực địa c ng ty điện lực đã nói với mình.
“Liên hợp Điện lực Algonquin cung cấp điện cho hầu hết khu vực n nnsylvania, New York, New Jersey, Connecticut.”
“Là những ống khói bên bờ sông Đông ấy à?”
“Phải” Sachs trả lời Cooper. “Trụ sở chính của họ ở đó. Họ có một nhà m nước và phát điện. Bây giờ, theo nhân viên giám sát của Algonquin, ợng có lẽ đã đột nhập vào trạm điện một thời điểm nào đó trong khoảng ươi sáu tiếng đồng hồ vừa qua. Thông thường, các trạm điện đều không ười. Khoảng hơn mười một giờ sáng nay một chút, hắn, hoặc bọn chúng, m nhập hệ thống máy tính Algonquin, đánh sập các trạm điện thuộc khu v y và cho tất cả điện đi qua trạm trên phố Năm mươi bảy. Khi điện áp tăng n một mức nhất định, nó phải hoàn thành một mạch điện. Không thể ng ặn được. Nó hoặc truyền sang một dây dẫn khác hoặc truyền sang một p đất. Bình thường các aptomat trong trạm sẽ nhảy, nhưng thủ phạm đã lại để chúng chịu phụ tải cao gấp mười lần, vì thế dòng điện nằm ở đó.” sợi cáp, “đợi tới lúc bùng nổ. Như một đập nước. Áp lực tích tụ và điện p yền đi đâu đấy.”
Sachs cầm lên một túi đựng những miếng kim loại hình giọt nước mắt. “Và đã bùng nổ.” Cô lặp lại lần nữa. “Những miếng kim loại này văng tứ ph ư những mảnh đạn.”
“Cái gì thế?” Sellitto hỏi.
“Những giọt kim loại nóng chảy từ cây cột gắn biển báo xe buýt. Văng a. Găm vào bê tông và xuyên thủng thành một số xe ô tô. Nạn nhân bị bỏ ưng đó không phải là nguyên nhân khiến anh ta tử vong.” Rhyme để ý th
ng Sachs dịu đi. “Nó giống như cả loạt đạn súng ngắn. Các vết thương bị áy bằng sắt nung.” Cô nhăn mặt. “Nó khiến anh ta vẫn tỉnh táo một lúc trư chết. Các anh nhìn này.” Cô hất đầu ra hiệu với Pulaski.
Chàng cảnh sát cắm thẻ từ vào một máy tính ở gần và tạo file cho vụ án. u, các bức ảnh hiện lên trên mấy màn hình độ nét cao gần đấy. Bao nh m làm việc trong lĩnh vực khám nghiệm hiện trường, Rhyme hầu như đã qu
những hình ảnh thậm chí rùng rợn nhất. Mặc dù vậy, những hình ảnh n n khiến anh cảm thấy xáo động. Thi thể nạn nhân trẻ tuổi bị những giọt k i xuyên thủng lỗ chỗ. Hầu như không chảy máu, vì nhiệt độ của sắt nu u thủ phạm có biết trước rằng thứ vũ khí mà hắn tạo ra sẽ có tác dụng n , hàn kín các vết thương? Giữ nạn nhân tỉnh táo để cảm thấy nỗi đau đớ ều này nằm trong phương thức hành động của hắn chăng? Bây giờ thì Rhy thể hiểu tại sao Sachs lại bất an tới mức ấy.
“Lạy Chúa.” Viên thám tử to lớn lẩm bẩm.
Rhyme rũ những hình ảnh đó ra khỏi đầu và hỏi, “Anh ta là ai?” “Tên là Luis Martin. Phó quản lý một cửa hàng sản phẩm âm nhạc. Hai mư m tuổi. Không tiền án tiền sự gì.”
“Không có quan hệ gì với Algonquin hay Cơ quan Giao thông Đô thị… có gì để một kẻ nào đó muốn anh ta chết không?”
“Không.” Sachs nói.
“Chẳng may không đúng lúc, không đúng chỗ,” Sellitto tóm tắt lại. Rhyme nói, “Ron. Tiệm cà phê thế nào? Cậu tìm thấy gì hả?” “Một người đàn ông mặc đồng phục quần yếm màu xanh lam thẫm vào đ
chừng mười giờ bốn mươi lăm. Gã mang theo laptop. Có kết nối mạng.” “Quần yếm màu xanh lam à?” Sellitto hỏi “Có logo không? Có nhận dạ ông?”
“Không ai trông thấy có logo hay không. Nhưng các công nhân Algonq ng có mặt tại đấy, đồng phục của họ cũng màu xanh lam thẫm.” “Có mô tả hình dáng không?” Viên thám tử quần áo nhàu nhĩ tiếp tục hỏi. “Có lẽ là da trắng, có lẽ độ tứ tuần, đeo kính, đội mũ màu tối. Đôi ba người o không đội mũ, cũng chẳng đeo kính. Người thì bảo tóc vàng, người thì b đỏ, người lại bảo tóc tối màu.”
“Nhân chứng đấy.” Rhyme lầm bầm dè bỉu. Có thể xảy ra tình huống như y: Một tay súng cởi trần bắn chết người trước mắt mười nhân chứng, thì ười nhân chứng sẽ mô tả hắn mặc áo phông với mười màu khác nhau. M m qua, sự thiếu tin tưởng của anh vào giá trị của nhân chứng đã giảm đi ph o - nhờ kỹ năng thẩm vấn của Sachs, và nhờ Kathryn Dance, người đã chứ nh rằng việc phân tích ngôn ngữ hình thể có đủ tính khoa học để đưa ra c quả lặp lại trong hầu hết những vụ án. Tuy nhiên, anh vẫn chưa bao àn toàn rũ bỏ được hoài nghi.
“Và chuyện gì đã xảy ra với kẻ mặc quần yếm?”
“Chẳng ai thực sự chắc chắn. Lúc đó khá hỗn loạn. Tất cả những gì họ biế nghe thấy tiếng nổ khủng khiếp, toàn bộ con phố sáng lòa và mọi người nh ra khỏi tiệm.”
“Hắn mang cốc cà phê theo à?” Rhyme hỏi. Anh mê những dụng cụ đựng ng. Chúng giống như thẻ căn cước vậy, mang thông tin về ADN, vân t ững dấu vết bám chặt nhờ bản chất kết dính của sữa, đường cùng các c ụ gia.
“E là vậy.” Pulaski xác nhận.
“Mẹ kiếp. Cậu tìm thấy gì ở bàn?”
“Cái này ạ.” Pulaski lôi từ thùng đựng sữa ra một phong bì nhựa. “Phong bì không.” Sellitto nheo nheo mắt và cào cái bụng bệ vệ, có thể là ứa, có thể là bất giác giật mình khi nhận thấy chế độ ăn kiêng gần đây n ông có tác dụng gì.
Nhưng Ryme chỉ nhìn chiếc phong bì nhựa và mỉm cười. “Làm tốt đấy, c binh.
“Làm tốt á?” Viên trung úy lẩm bẩm. “Chẳng có gì bên trong.” “Loại chứng cứ tôi yêu thích đấy, Lon. Những thứ vô hình. Chút nữa chúng xem xét. Tôi đang băn khoăn về bọn hacker.” Giọng Rhyme trầm ngâ ulaski, mạng không dây ở tiệm cà phê thì sao? Tôi đã suy nghĩ về nó và nh cuộc là không có.”
“Sếp đoán đúng. Bằng cách nào mà sếp biết được?”
“Hắn không thể để phụ thuộc vào cái mạng đó, nhỡ nó gặp sự cố. Hắn ch ng truy cập thông qua điện thoại di động. Nhưng chúng ta phải phát h ợc cách hắn xâm nhập hệ thống máy tính của Algonquin. Lon, hãy đề nghị ận Tội phạm Mạng giúp đỡ. Họ cần liên lạc với người chịu trách nhiệm về
h mạng ở Algonquin. Thử xem Rodney có tham gia được không.” Bộ phận Tội phạm Mạng thuộc Sở Cảnh sát New York là một tập thể ưu m khoảng ba mươi thám tử và nhân viên hỗ frợ. Rhyme thỉnh thoảng vẫn l c với một người trong số đó, Thám tử Rodney Szamek. Rhyme vốn vẫn n anh ta kiểu như một người trẻ, nhưng thực ra anh không biết tuổi anh ta h ta có cái thái độ trẻ con, quần áo luộm thuộm và mái tóc bù xù của m
cker - một hình ảnh và khuynh hướng làm giảm tuổi thật của người ta ều.
Sellitto gọi điện và sau cuộc đối thoại ngắn gọn thì kết thúc liên lạc, thông b rằng Szamek sẽ gọi điện cho nhóm IT của Algonquin ngay lập tức để trao việc các máy chủ của công ty điện lực bị hack.
Cooper đang kính nể nhìn sợi cáp. “Vậy ra đây là nó?” Rồi cầm lên một cái ác đựng những mảnh kim loại méo mó, những mảnh bom, anh ta nói thê ay là lúc ấy không có ai đi bộ ngang qua. Nếu vụ này xảy ra ở đại lộ Năm, đã có khoảng hai chục người thiệt mạng.”