🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Luận Về Yêu
Ebooks
Nhóm Zalo
Luận về yêu
- Alain de Botton -
Dịch giả: Trần Quốc Tân
Công ty phát hành: Nhã Nam
Nhà xuất bản: NXB Lao động
Ngày xuất bản: 23/05/2014
Số trang: 256 trang
Kích thước: 14.5 x 20.5 cm
Giá bìa: 68000 VNĐ
Hình thức: bìa mềm
Chụp pic: Phi Phi Yên Vũ
Type: Prince Ashitaka
Beta: Pham Ngoc
Ebook: Annabelle Tran
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Alain de Botton
Sinh năm 1969 tại Zurich, Thụy Sĩ, hiện nay sống ở London. Ông là tác giả của nhiều tiểu luận và được gọi là tác giả của một “triết học về cuộc sống thường ngày”. Các chủ đề của ông có thể là: tình yêu, du lịch, kiến trúc hay văn chương. Các tác phẩm của ông từng trở thành bestseller tại hơn 30 nước.
Một số tác phẩm tiêu biểu của Alain de Botton: Luận về yêu, The News: A User’s Manual, How to Think More about Sex, Status Anxiety, The Art of Travel, How Proust Can Change Your Life.
Sơ lược về tác phẩm
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Cuốn sách này chứa đựng chính xác những gì lâu nay ta vẫn muốn biết về tình yêu: Không thiếu ảo tưởng nhưng cũng đầy sáng suốt, mê đắm nhưng biết giữ khoảng cách, nồng nhiệt và rất hài hước nhưng cùng lúc ngập tràn phân tích lạnh lùng. Chính khía cạnh “phân tích” này làm nên sự hấp dẫn nhất của Luận về yêu, vì tác giả đã sử dụng những triết thuyết tưởng chừng khô cứng để tiếp cận tình yêu một cách thấu đáo, từ rất nhiều phương diện, kể cả những phương diện mà những người đang yêu thường muốn giấu kín.
Luận về yêu, tác phẩm thời trẻ của Alain de Botton, hiện nay là một nhà văn, triết gia và diễn giả nổi tiếng thế giới, còn đặc biệt hấp dẫn vì tùy theo tạng riêng của mình, độc giả có thể đọc nó như một tập tiểu luận sâu sắc, hoặc như một cuốn tiểu thuyết vô cùng hấp dẫn và không hề thiếu kịch tính.
Nhận định
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
“Trong một cuốn tiểu thuyết đầu tay khéo léo và đầy mỉa mai, có thể nói rằng Alain de Botton đã cầm tiếp ngọn đuốc ở nơi Stendhal để nó lại.” - The New Republic.
“[Cuốn sách] thông minh, hài hước, tinh tế, có kết cấu khéo léo, rất thông thái, với những soi rọi đặc biệt sáng suốt.” - The Spectator
Chương 1:
Chương 2: Lý tưởng hóa
Chương 3: Ẩn ngữ của cám dỗ
Chương 4: Tính xác thực
Chương 5: Tâm hồn và thể xác
Chương 6: Thuyết Mác-xít
Chương 7: Những nốt nhạc phô
Chương 8: Tình yêu hay thuyết
Chương 9: Nhan sắc
Chương 10: Thổ lộ tình yêu
Chương 11: Bạn thấy gì ở cô ấy?
Chương 12: Thuyết hoài nghi và đức tin
Chương 13: Sự thân mật
Chương 14: Lời xác nhận thực tồn
Chương 15: Những hục hặc của con tim
Chương 16: Nỗi sợ hạnh phúc
Chương 17: Những sự thu giảm
Chương 18: Sự khủng bố tình ái
Chương 19: Bên ngoài Thiện và Ác
Chương 20: Thuyết định mệnh tâm lý
Chương 21: Tự sát
Chương 22:
Chương 23: Dấu chấm lửng
Chương 24: Những bài học tình yêu
Chương 1
Thuyết định mệnh lãng mạn
1.Chẳng ở đâu người ta khao khát một số mệnh nhiều như trong đời sống tình ái. Tất cả chúng ta, rất thường phải chia chăn sẻ gối với một tâm hồn không đồng điệu, lẽ nào lại không được dung thứ nếu tin (bất chấp mọi phép tắc của thời đại văn minh) rồi một ngày mình sẽ được số phận cho gặp người đàn ông hay phụ nữ trong mơ? Lẽ nào ta lại không được phép mang một niềm tin mông muội rằng sau rốt ta sẽ định vị được sinh vật có thể giúp xoa dịu những mong muốn cháy bỏng của đời ta? Dẫu cho lời nguyện cầu có thể bặt tăm vào sóng bạc, dẫu những mối quan hệ thiếu sự thông hiểu cứ tiếp diễn không ngừng, nhưng giá như trời cao rủ lòng thương, chúng ta có thực sự nghĩ rằng chỉ vì tình cờ mà ta gặp được chàng hoàng tử hay nàng công chúa của lòng mình? Hay lẽ nào ta không thể để mặc yêu đương làm cho mờ mắt và nhất mực coi đó là dấu hiệu của số phận tình ái
2. Một sáng thượng tuần tháng Chạp, tôi ngồi hàng ghế hạng phổ thông trên một chuyến bay của British Airways từ Paris tới London mà trong đầu không hề nghĩ đến những chuyện tình yêu hay đại loại. Máy bay vừa băng qua bờ biển Normandy, nơi lớp mây mù mùa đông xám xịt nhường chỗ cho khung cảnh mặt nước trong xanh óng ánh liền một dải. Buồn chán và không thể tập trung vào việc gì, tôi nhón lấy tờ tạp chí hàng không, hờ hững lướt qua thông tin về những khu resort và dịch vụ ở sân bay. Chuyến bay có chút gì đó an ủi tôi, tiếng động cơ đều đặn từng chặp, nội thất xám tĩnh lặng và nụ cười ngọt lừ của các tiếp viên hàng không. Xe chở thức uống và đồ ăn nhẹ được đẩy dọc lối đi, và mặc dầu chẳng đói chẳng khát, hình ảnh đó làm dấy lên trong tôi một phỏng đoán mơ hồ là thức ăn sắp được mang ra.
3. Có lẽ thấy khó ở, cô hành khách ngồi bên trái tôi tháo tai nghe để săm soi tấm bìa hướng dẫn an toàn bay trên túi đựng phía trước. Nó mô tả một vụ tai nạn lý tưởng, các hành khách đáp nhẹ nhàng và bình tĩnh xuống
mặt đất hay mặt nước, các quý cô tháo giày cao gót, bầy trẻ khéo léo thổi phồng áo phao, thân máy bay vẫn nguyên vẹn và thật kỳ diệu là xăng không bốc cháy.
4. “Máy bay gặp sự cố thì ai cũng chết cả thôi, chả hiểu mấy trò đùa này để làm gì?” cô hành khách hỏi bâng quơ, không nhắm vào riêng ai.
“Chắc để trấn an người ta thôi,” tôi đáp, vì chỉ có tôi là người nghe.
“Chết vậy cũng sướng, nhanh gọn, nhất là rơi cắm đầu xuống đất mà anh lại đang ngồi phía trước. Tôi có ông cậu mất trong một tai nạn máy bay. Anh có quen người nào chết như vậy chưa?”
Câu trả lời là chưa, nhưng tôi không kịp đáp vì cô tiếp viên đã tới và (không hề hay biết về những mối hoài nghi mang tính đạo đức vừa nhắm vào chủ của cô) mang phần ăn trưa cho chúng tôi. Tôi gọi ly nước cam và chực từ chối một phần bánh mỳ kẹp màu sắc nhợt nhạt thì cô bạn cùng bay nói khẽ, “Cứ lấy đi. Tôi sẽ ăn giúp cho, tôi đang đói.”
5. Cô gái mang mái tóc màu hạt dẻ, cắt ngắn làm lộ ra làn da nơi gáy, và đôi mắt xanh to lóng lánh tránh nhìn thẳng vào mắt tôi. Cô vận áo cánh màu lơ, đặt trên gối áo khoác len màu xám. Vai cô gầy, mảnh khảnh, và tình trạng hoang sơ của những móng tay cho thấy chúng thường xuyên bị cắn.
“Anh chắc là tôi không cướp của anh chứ?”
“Tất nhiên là không.”
“Xin lỗi, tôi chưa tự giới thiệu, tôi là Chloe,” cô nói rồi chìa tay qua thành ghế với kiểu bộ tịch khá quyến rũ.
Theo sau đó là cuộc trao đổi về tiểu sử hai bên. Chloe nói cô vừa đến Paris dự một hội chợ thương mại. Năm rồi, cô làm thiết kế đồ họa cho một tạp chí thời trang ở Soho[1]. Cô tốt nghiệp trường Royal College of Art, sinh ra ở York nhưng chuyển đến Wiltshire từ bé, và bây giờ (ở tuổi hai mươi ba) đang sống một mình trong một căn hộ ở Islington.
[1. Khu vực ở London, nơi có đời sống văn hóa rất nhộn nhịp. (Các chú thích là của người dịch)]
6. “Mong là họ không làm mất hành lý của tôi,” Chloe nói khi máy bay bắt đầu hạ cánh xuống sân bay Heathrow. “Anh không sợ mất hành lý ư?”
“Tôi chẳng để ý, nhưng bị dính phốt hai lần rồi, một ở New York, và lần khác ở Frankfurt.”
“Chúa ơi, tôi ghét đi lại,” Chloe thở dài và cắn móng ngón trỏ. “Cảm giác tới nơi còn khó chịu hơn nữa, tôi thực sự mắc chứng khiếp sợ việc đến nơi đấy. Cứ đi đâu được một thời gian là tôi lại nghĩ điều gì đó khủng khiếp đã xảy ra với mình: tất cả bạn bè đều đi đến quyết định ghét tôi hoặc là đám xương rồng nhà tôi vừa chết.”
“Cô trồng xương rồng ư?”
“Cũng được vài cây. Gần đây tôi trải qua giai đoạn xương rồng[2]. Lớn tồng ngồng còn trồng xương rồng, tôi biết hơi nhí nhảnh, nhưng tôi từng sống một mùa đông ở Arizona và có vẻ chúng làm tôi hưng phấn. Anh có trồng cây gì hay ho không?”
“Chỉ trồng một cây tỏi rừng, nhưng tôi vẫn thường nghĩ là bạn bè chắc chả ai ưa tôi.”
[2. Nguyên văn: “cactus phase”. Nhân vật nhại thuật ngữ “phallic phase” (giai đoạn dương vật) của nhà tâm lý học người Áo Sigmund Freud (1856-1939). Theo Freuf, ở giai đoạn này đứa trẻ 3-5 tuổi đã bắt đầu có hứng thú tình dục.]
7. Chúng tôi nói chuyện vẩn vơ, đi lướt qua tính cách nhau giống như cách người ta loáng thoáng nhìn cảnh vật trên đường núi quanh co uốn khúc – thế rồi máy bay tiếp đường băng, động cơ dẫn khí ngược để giảm tốc, và con tàu bay trở bánh về phía nhà ga, nơi người ta dỡ những kiện hàng vào sảnh lưu trú đông nghịt. Khi lấy xong hành lý và bước qua cửa hải quan, tôi đã phải lòng Chloe mất rồi.
8. Phải đến lúc cận kề cái chết, người ta mới tuyên bố được ai là tình yêu của đời mình. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau khi gặp Chloe, tôi gần như không tránh khỏi nghĩ cô chính là người phụ nữ ấy. Về tới London, Chloe và tôi có một buổi chiều cùng nhau. Thế rồi một tu trước Giáng sinh, chúng tôi dùng bữa tối tại một nhà hàng ở phía Tây Lodon và kết thúc buổi tối trên giường, như thể đó là việc làm tuy thực đỗi lạ lùng nhưng cũng thuận theo lẽ tự nhiên nhất. Cô đón Giáng sinh cùng gia đình, còn tôi đi Scotland với bạn bè, nhưng chúng tôi vẫn gọi điện cho nhau hằng ngày, có khi ngày năm lần, dẫu rằng chẳng nói gì cụ thể, chỉ vì cả hai đều cảm thấy mình chưa từng bao giờ nói chuyện với ai như thế, mọi lúc khác đều là sự thỏa hiệp và dối lòng, và chỉ lúc này chúng tôi rốt cuộc có thể thông hiểu và làm bản thân mình được hiểu – và sự chờ đợi (gần giống như chờ sự Cứu thế) đã thực sự trôi qua. Tôi tìm thấy ở cô một hình bóng phụ nữ mà tôi đã ngóng tìm suốt cả đời mình, một sinh vật với nụ cười, đôi mắt, khiếu hài hước và sở thích về sách, những nỗi lo và trí thông minh, kỳ lạ thay, giống hệt mẫu người lý tưởng của tôi.
9. Vì mang cảm giác chúng tôi sinh ra là để dành cho nhau, càng ngày tôi càng không thể gặm nhấm ý nghĩ rằng việc gặp Chloe chỉ đơn thuần là tình cờ. Tôi đã mất đi khả năng xem xét vấn đề tiền định bằng sự hoài nghi cần thiết. Mặc dù cho đến khi đó, không ai trong chúng tôi mê tín, Chloe và tôi vẫn săm soi những chi tiết, dù nhỏ nhặt, như là sự xác nhận về những gì bản năng chúng tôi cảm thấy: rằng số phận của chúng tôi là để dành cho nhau. Chúng tôi nhận ra cả hai đều sinh vào khoảng nửa đêm (cô sinh lúc 11 giờ 45, còn tôi 1 giờ 15), cùng tháng và đều vào năm chẵn. Cả hai chúng tôi đều từng chơi clarinet và đều vào vai trong vở kịch Giấc mộng đêm hè ngày còn đi học (cô đóng Helena, còn tôi là người hầu của Theseus). Cả hai đều có hai đốm tàn nhang lớn ở ngón bàn chân bên trái và có một cái hốc trong cùng răng hàm. Cả hai đều hay bị hắt hơi khi đi dưới nắng và có thói quen dùng dao để lấy xốt cà ra khỏi chai. Chúng tôi thậm chí có cùng một ấn bản Anna Karenina ở trên kệ (ấn bản Oxford cũ) – chỉ là những chi tiết nhỏ thôi, nhưng chẳng lẽ không đủ làm cơ sở để những người có đức tin dựng xây một tôn giáo mới?
10. Chúng tôi gán cho các sự kiên một logic truyện kể mà chúng rõ ràng không thể sở hữu. Chúng tôi huyền thoại hóa cuộc gặp trên máy bay của mình và xem nó như là kịch bản của nữ thần Aphrodite[3], màn Một,
cảnh Một của câu chuyện tình, một bản tự sự khởi thủy. Từ khi mỗi người chúng tôi sinh ra, dường như cái tâm trí lớn lao trên trời cao đã khéo léo xê dịch quỹ đạo của chúng tôi để một ngày nọ chúng tôi gặp nhau trên tuyến đường Paris-London. Bởi vì tình yêu của hai đứa đã trờ thành hiện thực, chúng tôi có thể đã bỏ qua vô số câu chuyện không xảy ra, những màn tình cảm chưa bao giờ được viết bởi người nào đó lỡ chuyến bay hay làm mất số điện thoại. Cũng giống như các sử gia, chúng tôi nhất định đứng về phía những gì đã thực sự diễn ra.
[3. Nữ thần tình yêu và dục vọng theo thần thoại Hy Lạp, tên La Mã là Venus.]
11. Tất nhiên, đáng lẽ chúng tôi nên nhạy cảm hơn. Cả Chloe và tôi đều không thường xuyên qua lại giữa hai thủ đô, cũng không có ý định bay vào khoảng thời gian cụ thể nào. Tờ tạp chí của Chloe cử cô sang Paris vào phút chót sau khi phó ban biên tập ngã bệnh, còn tôi tới đó chỉ vì một cuộc hội thảo về kiến trúc ở Bordeaux đã kết thúc sớm hơn kế hoạch, đủ để tôi dành vài ngày đi chơi Paris với một người bạn. Hai hãng hàng không quốc gia vận hành qua lại giữa Charles de Gaulle và Heathrow cho chúng tôi quay về. Cứ cho là cả hai đều muốn về London vào đầu giờ chiều ngày 6 tháng Chạp, nhưng còn do dự đến phút cuối vì không biết nên đi chuyến nào, thì xác suất để cả hai cùng ngồi trên một chuyến bay (ấy là chưa tính ngồi ở hai ghế cạnh nhau) là một phần sáu.
12. Sau này Chloe kể với tôi rằng cô định bay chuyến mười rưỡi của Air France, nhưng một chai dầu gội trong túi xách bị rỉ nước khiến cô phải sắp lại đồ và mất hết mười phút quý báu. Lúc khách sạn in hóa đơn, cà thẻ tín dụng và gọi taxi cho cô, đã là chín giờ mười lăm và cô khó mà đến kịp chuyến bay mười rưỡi của Air France. Tất tả đến sân bay sau nút kẹt xe như mắc cửi ở gần Porte de la Villette, cửa máy bay đã đóng, và vì không muốn đợi chuyến Air France kế tiếp, cô sang sảnh của British Airways và đặt một vé chuyến mười giờ bốn lăm đến London, nhờ đó mới lên cùng chuyến bay với tôi (trong khi tôi cũng có các lý do của mình).
13. >Sau đó, không hiểu mạng mẽo tính toán thế nào mà lại cho Chloe ngồi bên cánh máy bay ở ghế 15A và tôi ngồi cạnh cô ở ghế 15B. Điều mà chúng tôi đã không biết vào lúc khởi sự bàn luận về tấm thẻ hướng
dẫn an toàn chính là xác suất vô cùng nhỏ để cuộc trò chuyện của hai đứa diễn ra. Bởi vì không ai trong chúng tôi có ý định ngồi ghế hạng sang và có đến 191 ghế hạng phổ thông, và Chloe được xếp ở ghế 15A, còn tôi ở ghế 15B cũng hoàn toàn do tình cờ, xác suất lý thuyết để Chloe và tôi ngồi cạnh nhau (đấy là còn chưa tính đến xác suất chúng tôi quay sang nói chuyện với nhau) là 220 trên 36.290, rút gọn lại còn một trên 164,955.
British Airways Boeing 767
14. Nhưng tất nhiên đó chỉ là xác suất chúng tôi ngồi cạnh nhau nếu như có một chuyến bay duy nhất giữa Paris và London. Bởi vì có đến sáu chuyến bay, và cả hai đã do dự giữa sáu chuyến này tuy rằng sau đó chọn đúng chuyến ấy, khả năng ban đầu giảm đi sáu lần, dẫn đến xác suất cuối cùng để Chloe và tôi gặp nhau và một buổi sáng tháng Chạp trên bầu trời của biển Manche trong một chiếc Boeing của British Airways là một trên 989,727.
Pchuyến =
Pchỗ = ( ) + ( ) = = = Pchuyến x Pchỗ = x
15. Ấy thế mà chuyện đã xảy ra. Phép toán không thuyết phục được chúng tôi về các suy luận lý tính mà chỉ càng củng cố cho cách diễn giải huyền bí về việc chúng tôi ngã lòng trước cổng tình. Nếu khả năng cho một
sự kiện là vô cùng bé, mà nó lại xảy ra, thì liệu chúng ta có đáng trách cứ vì gợi ra một lời giải thích mang màu sắc định mệnh? Nếu tung đồng xu, xác suất để tôi không phải quay sang Chúa trời chất vấn về kết quả là một phần hai. Nhưng khi vấn đề là xác suất một trên 989,727, thì ít nhất dưới ánh sáng của tình yêu, nó chỉ có thể là số phận. Phải viện đến một đầu óc vững vàng lắm mới có thể dự tính (mà không vướng bận mê tín) được điều bất khả khôn cùng là một cuộc gặp đã làm thay đổi cuộc đời của cả hai. Hẳn là ai đó (ở độ cao 10.000 thước) đã giật dây chúng tôi mất rồi.
16. Đắm mình trong tình yêu, chúng ta che đậy bản chất may rủi của đời mình đằng sau bức màn của sự toan tính. Chúng ta khăng khăng cho rằng cuộc gặp với đấng Cứu thế của mình đã được viết từ trước trên một tấm sớ mở ra chậm rãi từ trời cao, một cách khách quan thì theo kiểu trời kêu ai nấy dạ và bởi vậy không có gì chắc chắn. Chúng ta phát minh ra số phận để tránh né nỗi lo âu từ việc phải thừa nhận rằng chính chúng ta đã tạo ra chút ý nghĩa cho đời sống của mình, rằng không có cuộn giấy nào (và bởi vậy không có số phận định trước nào đang đón đợi) và người mà chúng ta có thể gặp hoặc không gặp trên máy bay chẳng có nghĩa lý nào ngoài những gì chúng ta gán cho họ - tóm lại, đó là nỗi lo không ai viết trước câu chuyện tình hay đảm bảo tình yêu cho chúng ta.
17. Thuyết định mệnh lãng mạn bảo vệ Chloe và tôi khỏi ý nghĩ rằng chúng ôi có thể yêu một ai khác tương tự nếu như những sự kiện diễn ra khác đi, thật là một suy nghĩ choáng váng, vì tình yêu gắn kết chặt chẽ với cảm giác về sự cần thiết và độc nhất của người ta yêu. Làm sao tôi có thể tưởng tượng rằng vai trò của Chloe trong cuộc đời tôi có thể được thay thế tương tự bằng một người khác, khi chính đôi mắt cô là thứ làm tôi ngã lòng, và cách cô luộc mì rồi làm ráo nước, chải đầu, và kết thúc một cuộc điện thoại?
18. Sai lầm của tôi là đã nhầm lẫn định mệnh yêu với định mệnh yêu một người xác định. Sai sót ở chỗ tôi nghĩ rằng Chloe, thay vì tình yêu, mới là thứ rơi tõm và cuộc đời tôi. Nhưng sự diễn giải mang màu sắc định mệnh của tôi về sự khởi đầu của mối tình ít nhất cũng minh chứng một điều: tôi yêu Chloe. Thời khắc tôi nhận ra việc chúng tôi có gặp nhau hay không rốt cuộc cũng chỉ là một sự tình cờ, khả năng chỉ là một trên 989,727, cũng là thời khắc tôi sẽ không còn cảm thấy sự cần thiết tuyệt đối của việc gắn kết
cuộcđờitôivớicô–vàvìthế,tôisẽkhôngcònyêucônữa.
Chương 2
Lý tưởng hóa
1. “Đọc vị người khác thì quá dễ, và việc đó chẳng đưa bạn đến đâu,” Elias Canetti đã nhận xét như vậy, cho thấy chúng ta dễ dàng tìm ra lý do để vạch lá tìm sâu ở người khác, nhưng chuyện đó hoàn toàn vô ích. Chẳng phải chúng ta yêu ai đó một phần vì ý định tức thời là để trì hoãn việc đọc vị người ấy, ngay cả với cái giá là làm thế thì phải tự bịt mắt một chút hay sao? Nếu tính kén chọn và tình yêu nằm ở hai đầu một quang phổ, chẳng phải thỉnh thoảng chúng ta vẫn ngã lòng trước ai đó để trốn thoát sự kén chọn bó buộc con người mình sao? Chẳng phải bất cứ tiếng sét ái tình nào cũng bao hàm sự thổi phồng cố ý nào đó về các phẩm của người ta thương – sự thổi phồng làm ta sao nhãng khỏi sự bi quan theo thói quen và tập trung năng lượng mình vào một ai đó mà ta tin cậy, dẫu cho ta chưa bao giờ tin cậy chính mình ư?
2. Tôi lạc mất Chloe giữa đám đông ở khu kiểm soát hộ chiếu, nhưng tìm ra cô ở nơi nhận hành lý. Cô đang hì hục đẩy, còn chiếc xe cứ ngoan cố bẻ lái sang phải dù cho băng chuyền hành lý của chuyến bay Paris nằm mãi bên trái sảnh. Vì xe đẩy của tôi không gặp trục trặc gì, tôi bước đến đưa nó cho cô nhưng cô không nhận, nói rằng người ta nên trung thành với xe đẩy của dù cho chúng có cứng đầu thế nào và một bài tập cơ bắp cũng không đến nỗi bi đát lắm sau một chuyến bay. Một cách gián tiếp (qua sảnh tới của chuyến từ Karachi), chúng tôi đến băng chuyền của chuyến Paris, đã tấp nập những khuôn mặt vô tình trở nên quen thuộc kể từ khi lên máy bay ở Charles de Gaulle. Những kiện hành lý đầu tiên bắt đầu lăn xuống thảm cao su xếp lớp, và những khuôn mặt nhìn chăm chăm lo lắng vào những băng chuyền đang chạy để định vị hành lý của mình.
3. “Đã bao giờ anh bị bắt giữ ở cửa hải quan chưa?” Chloe hỏi. “Chưa. Còn cô?”
“Cũng không hẳn, nhưng có một lần tôi thú nhận với họ. Gã Quốc xã ấy hỏi tôi có gì để khai báo hay không, và tôi bảo có, mặc dù tôi chẳng mang thứ gì bất hợp pháp cả.”
“Vậy sao cô bảo có?”
“Tôi không biết, tôi cảm thấy tội lỗi: Tôi có khuynh hướng thú nhận những điều mà tôi không làm. Việc đó giúp tôi thoải mái phần nào.”
4. “Dù thế nào, cũng đừng nhìn túi mà đánh giá tôi,” Chloe nói trong khi chúng tôi tiếp tục nhìn và chờ đợi trong khi những người khác may mắn hơn. “Tôi mua nó vào phút chót ở cửa hàng giảm giá trên Rue de Rennes. Trông như dở hơi ấy.”
“Chờ đến va li của tôi mà xem. Tôi còn chẳng biết viện cái cớ gì nữa cơ. Tôi dùng hơn năm rồi đấy.”
“Tôi nhờ anh được không? Anh trông hộ tôi xe đẩy trong lúc tôi tìm chỗ đi vệ sinh nhé? Chỉ một phút thôi. Với lại, nếu anh thấy cái túi xách hồng với quai cầm màu xanh dạ quang thì lấy giùm tôi.”
5. Một lát sau, tôi thấy Chloe bước qua sảnh về phía tôi, mang vẻ mặt mà sau này tôi mới biết là biểu lộ đau đơn và hơi lo âu thường thấy của cô. Gương mặt cô lúc nào cũng trông như sắp khóc, đôi mắt cô mang nỗi sợ của một người sắp sửa nghe một tin gì đó vô cùng xấu. Điều gì đó ở cô khiến người ta muốn an ủi, muốn trao cho cô sự đảm bảo, hay đưa cho cô một bàn tay.
6. Tôi cảm nhận được tình yêu một cách rất đột ngột, ngay sau khi cô khơi gợi một câu chuyện hứa hẹn là sẽ rất dài và rất chán (gián tiếp lóe lên nhờ băng chuyền của chuyến bay Athens vừa đáp khởi động ngay cạnh chúng tôi) là một kỳ nghỉ của cô với anh trai ở Rhodes vào một mùa hè. Trong khi Chloe nói chuyện, tôi thấy hai tay cô nghịch vu vơ thắt lưng của cái áo choàng len màu be (tôi trông thấy hai đốm tàn nhang dưới ngón trỏ) và nhận ra (như thể đây vốn là điều hiển nhiên nhất trong các chân lý) rằng tôi yêu cô. Tuy cô lúng túng đén nỗi hiếm khi nói cho hết câu, hoặc đang có điều gì lo lắng, và có lẽ gu đeo bông tai của cô không được tốt, nhưng trông
cô thật kiều diễm. Tôi trở thành nạn nhân cho một khoảnh khắc lý tưởng hóa không kiềm chế được, chủ yếu xuất phát từ sự nông nổi đầy xúc cảm của tôi cũng như sự thanh lịch của cái áo choàng cặc, rồi những tác động hậu chuyến bay và phần nội thất chán òm của khu hành lý Ga số 4, đối lập với vẻ đẹp rạng ngời của Chloe.
7. Hòn đảo đầy khách du lịch, song hai anh em tôi thuê hai chiếc xe gắn máy và… Chuyện kỳ nghỉ của Chloe thật cán ngắt, nhưng sự tẻ nhạt của nó không làm mọi thứ tệ đi. Tôi ngừng gán cho nó thứ logic trần tục của những cuộc trò chuyện thông thường. Tôi không còn muốn xem nó là sâu sắc hay hài hước, vấn đề không còn ở chỗ cô nói cái gì, mà ở chỗ cô ấy đang nói ra điều đó – và sự thật là tôi đã quyết định tìm thấy sự hoàn mỹ trong mọi điều cô thốt ra. Tôi cảm thấy sẵn sàng đi cùng cô với bất cứ chuyện vặt vãnh nào (cửa hàng này có bán trái ô liu tươi…), tôi sẵn sàng yêu mến từng câu chuyện đùa nhạt nhẽo, từng dòng hồi tưởng vốn đã mất đi sợi dây dẫn. Tôi sẵn sàng từ bỏ sự mê mải của bản thân để đổi lại sự cảm thông kỹ càng, để phân loại từng mảnh ký ức của Chloe, để trở thành sử gia của tuổi thơ cô, để biết được tất thảy tình yêu và nỗi sợ của cô. Mọi thứ có thể diễn ra trong tâm trí và thể xác cô đều lập tức trở nên quyến rũ lạ kỳ.
8. Rồi hành lý cũng tới, va li của tôi rồi sau vài cái cặp nữa là đến túi của cô, chúng tôi sắp chúng lên xe đẩy và bước ra ngoài qua cổng dành cho những người không cần khai báo.
9. Điều kinh hãi nhất là làm sao chúng ta có thể lý tưởng hóa người khác như thế, khi mà bản thân chúng ta còn phải vật lộn mới dung thứ được cho chính mình – hay chính vì những vật lộn ấy… Đáng lẽ tôi phải nhận ra Chloe cũng chỉ là con người, với tất cả những hàm ý của từ đó, nhưng liệu tôi có đáng trách khi khao khát trì hoãn một suy nghĩ như vậy? Ai khi yêu cũng đều hy vọng làm lu mờ lý trí. Ai khi yêu cũng mong mình không tìm thấy ở người kia những gì ta biết là thuộc về mình, toàn bộ sự yếu hèn, chầy đuối, lười nhác, thiếu trung thực, thỏa hiệp và xuẩn ngốc. Chúng ta tung vòng h tình yêu quanh người được chọn và quyết định rằng mọi thứ bên trong đó đều ít nhiều không chứa đựng những khuyết điểm của bản thân ta. Chúng ta nhìn thấy bên trong người kia một sự hoàn mỹ để tránh phải nhìn vào bên trong bản thân mình, và qua sự hòa hợp với người mình yêu, ta hy vọng giữ lại một niềm tin mong manh (dẫu rằng trái với tất thảy những gì ta
biết) và chủng loài mang tên mình.
10. Biết như thế, tại sao tôi vẫn ngã lòng trước cổng tình? Bởi lẽ, sự phi logic và bồng bột trong khao khát của tôi đã không vượt quan nổi nhu cầu được tin vào cái gì đó. Tôi biết có một khoảng trống mà sự say sưa tình ái có thể khỏa lấp, tôi biết niềm hồ hởi của việc nhân ra ai đó, bất cứ ai, là đáng yêu. Từ lâu trước khi để ý Chloe, hẳn tôi đã cần tìm ở khuôn mặt người khác một sự vẹn nguyên mà tôi chưa bao giờ tìm thấy ở bản thân mình.
11. “Anh làm ơn cho kiểm tra túi,” nhân viên hải quan nói. “Anh có gì để khai báo không, chất có cồn, thuốc lá, vũ khí…?”
Giống như Oscar Wilde với tài năng thiên bẩm của ông, tôi chực nói, “Chỉ có tình yêu của tôi thôi,” nhưng tình yêu không phải một tội, ít nhất thì chưa.
“Tôi đang đứng đợi anh nhé?” Chloe hỏi.
“Anh đi cùng quý cô này ư?” nhân viên hải quan thắc mắc.
Lo bị xét nét, tôi nói không, nhưng vẫn bảo Chloe đợi mình phía bên kia lằn ranh.
12. Tình yêu làm sống lại những nhu cầu trong ta với tốc độ vô song. Sự thiếu kiên nhẫn của tôi trước trình tự hải quan chứng tỏ Chloe, người mà cách đó vài giờ tôi hoàn toàn không quen biết, đã trở thành đối tượng của ham muốn. Tôi sẽ chết mất nếu để lạc cô ấy ngoài kia, tôi sẽ chết vì một ai đó chỉ mới bước vào cuộc đời mình lúc mười một rưỡi sáng cùng ngày.
13. Chloe đứng đợi, nhưng chúng tôi chỉ ở cạnh nhau thêm chốc lát. Cô đậu xe ở gần đấy. Tôi phải đón taxi đến văn phòng. Cả hai đều do dự không biết có nên tiếp tục câu chuyện hay chăng.
“Tôi sẽ gọi điện cho cô,” tôi nói xã giao, “ta có thể cùng nhau đi mua túi.”
“Ý tưởng hay đấy,” Chloe nói, “anh có số của tôi chưa?”
“Tôi e là nó hằn vào đầu tôi rồi, từ tấm thẻ trên túi của cô.”
“Anh có khiếu điều tra đấy, hy vọng trí nhớ của anh không tồi. Rất vui được gặp anh,” Chloe nói và chìa tay.
“Chúc may mắn với đám xương rồng,” tôi nói với theo khi thấy cô tiến đến thang máy, xe đẩy của cô vẫn cứng dầu ngoặt sang bên phải.
14. Trên taxi vào thành phố, tôi cảm thấy một nỗi mất mát lạ lùng. Liệu đây có thực sự là tình yêu? Nói đến tình yêu sau khi chúng tôi mới chỉ trải qua một buổi sáng cùng nhau tức là đang đối mặt với hàng đống ảo tưởng lãng mạn và sự dại dột về ngữ nghĩa. Song, có lẽ chúng ta chỉ phải lòng khi không thực sự biết người chúng ta phải lòng là ai. Niềm háo hức ban sơ cần xây dựng trên nền móng của sự không biết. Tình yêu hay chỉ là nỗi ám ảnh đơn thuần? Nếu không phải thời gian (vốn nằm trên con đường riêng của nó), thì ai có thể nói được?
Chương 3
Ẩn ngữ của cám dỗ
1. Những người yêu bằng sự chắc chắn không dễ dàng bị lạc trong lãnh thổ của cám dỗ. Mỗi nụ cười và lời nói đều dẫn đến hàng chục, thậm chí là hàng vô số khả năng. Những lời nói trong cuộc sống bình thường (tức là, cuộc sống không có tình yêu) rõ ràng là thế, giờ cần hàng đống từ điển với vô vàn ý nghĩa sắc thái mới hòng hiểu nổi. Và với người đi chinh phục, những mối hoài nghi vo viên họ trong một câu hỏi trung tâm, đẩy họ đối mặt với cơn run rẩy của tên tội phạm đang đợi bản án: Liệu cô/ anh ta có thèm khát mình chăng?
2. Suy nghĩ về Chloe không ngừng ám ảnh tôi những ngày sau cuộc gặp gỡ đầu tiên. Mặc dù áp lực phải hoàn thành đồ án cho tòa văn phòng gần King’s Cross, tâm trí tôi vẫn bải hoải lưu lạc về phía cô, lơ đễnh nhưng bất khả kháng cự. Tôi cần phải tìm hiều đối tượng mà tôi tôn sùng, hình ảnh của cô cứ xen vào tâm trí tôi như một vấn đề cấp bách cần xử lý, dẫu cho cô chẳng can hệ gì đến dòng suy nghĩ của tôi, những hình ảnh ấy (khách quan mà nói) hoàn toàn vô thưởng vô phạt. Những mơ mộng về Chloe cứ diễn ra theo kiểu, “Ôi, em mới ngọt ngào làm sao, giá như tôi được…”
Những hình ảnh khác thì có đường có nét hơn:
(i Chloe ngồi cạnh cửa sổ máy bay
(ii) Đôi mắt xanh ngấn nước của cô
(iii) Hàm răng bấm nhẹ vào môi dưới của cô
(iv) Cái cổ nghiêng khi cô ngáp
(v) Kẽ giữa hai răng cửa của cô
3. Giá mà tôi nhọc tâm một chút để nhớ số điện thoại của cô, thì các con số đã không cùng lúc bay ra khỏi trí nhớ tôi (một trí nhớ có xu hướng dành thời gian khôi phục những hình ảnh về môi dưới của Chloe). Mấy số 0, 7, 1 sắp xếp thế nào nhỉ?
607 9187 609 7187
601 7987
690 7187
610 7987
670 9817
687 7187?
4. Cuộc tìm kiếm khởi đầu không may mắn. 607 9187 không phải số của người tôi thầm thương trộm nhớ mà của một dịch vụ tang lễ ở Upper Street, mặc dù phải đến cuối cuộc gọi tôi mới nhận ra chỗ này làm dịch vụ ấy, và trong hãng Hậu Kiếp này cũng có một nhân viên tên Chloe, người đã được gọi đến chỗ điện thoại và mất nhiều phút khổ sở để cố định vị tên tôi (cuối cùng xác định tôi là một khác hàng đã hỏi về những bình đựng di cốt) cho đến khi tôi nhận ra có nhầm lẫn về tên tuổi và gác máy, đỏ mặt tía tai, vã cả mồ hôi hột, như là sắp chết đến nơi.
5. Khi rốt cuộc tôi cũng gọi được cho Chloe của tôi ở chỗ làm việc vào ngày hôm sau, cả cô dường như cũng muốn đưa tôi sang một thế giới khác. “Ở đây mọi việc đang rối bù cả lên. Anh đợi máy một phút nhé?” cô nói chuyện như nhân viên tổng đài.
Tôi bực bội giữ máy. Bất chấp sự thân mật tôi đã mặc sức tưởng tượng ra là gì, trở về chốn văn phòng hai đứa tôi là hai người xa lạ.
“Nghe này, tôi xin lỗi,” cô nói khi trở lại, “bây giờ tôi không thể nói chuyện được, bọn tôi đang phải chuẩn bị in một phụ trương vào ngày mai. Tôi gọi lại cho anh sau được không? Khi nào tình hình ổn tôi sẽ gọi đến nhà hay văn phòng anh.”
6. Chiếc điện thoại trở thành dụng cụ tra tấn trong đôi bàn tay quỷ quái của người tôi thương, cô đã không gọi. Khi Chloe gọi vài ngày sau đó, tôi đã diễn tập lại bài nói của mình nhiều đễn nỗi không thể nói ra trôi chảy. Tôi bị gọi đường đột trong lúc đang phơi tất chân. Tôi chạy đến phòng ngủ để bắt máy. Giọng tôi đầy vẻ căng thẳng và giận dữ trong khi lẽ ra tôi đã có thể che giấy nếu như viết cho cô trên giấy. Những người kém tài ăn nói thường chọn giao tiếp bằng cách viết.
“Thật bất ngờ khi cô gọi,” tôi nói, giọng ngập ngừng. “Lúc nào đó phải đi ăn trưa mới được.”
“Ăn trưa. Ôi trời đất. Thực sự tuần này tôi không thể.”
“Ừm. Thế ăn tối thì sao?”
“Tôi đang xem lịch đây, và anh không tin là tôi kẹt thế nào đâu, ăn tối coi bộ cũng khó.”
“Không sao,” tôi nói bằng một giọng cho thấy rõ điều ngược lại.
“Hay là, thế này nhé, anh có cách nào nghỉ buổi chiều nay được không? Chúng ta có thể gặp ở văn phòng của tôi và đi đến Bảo tàng Quốc gia hay chỗ nào đó.”
7. Tôị cuốn vào những câu hỏi. Chloe đã nghĩ gì khi chúng tôi đi từ văn phòng cô ở đường Bedford đến quảng trường Trafalagar? Một mặt, cô rất vui khi nghỉ một buổi chiều để đi một vòng bảo tàng với người đàn ông cô chỉ gặp thoáng trên máy bay một tuần trước đó. Nhưng mặt khác, trong cách cư xử của cô, không có gì chứng tỏ cuộc gặp này vượt ra ngoài một cuộc trò chuyện bạn bè. Bị kẹp giữa một bên thơ ngây và một bên thông đồng tội lỗi, mỗi cử chỉ của Chloe bắt đầu thấm đẫm những hàm ý rất khó giải thích. Liệu có đúng là sau mỗi câu nói hay nơi khóe miệng mỗi khi cô cười đều mang dấu hiệu tán tỉnh, hay chỉ đơn thuần là khao khát của tôi được phóng chiếu lên gương mặt ngây thơ ấy?
8. Lúc đầu, chúng tôi tham quan phòng tranh Ý giai đoạn sơ Phục
hưng, nhưng suy nghĩ của tôi (tôi đã mất toàn bộ cái nhìn phối cảnh, lũ tranh ấy tự đi mà phối cảnh nhau) bị sao nhãng. Trước bức Đức Mẹ đồng trinh, đứa trẻ và các Thánh, Chloe quay sang nhận xét rằng cô đã luôn cảm thấy điều gì đó về Signorelli và, đâm lao thì phải theo lao, tôi tự bịa ra niềm đam mê với bức Chúa bị đóng đinh của Antonello. Cô có vẻ trầm tư, đắm chìm vào những bức tranh, không vướng bận bởi tiếng ồn ào và hoạt động trong phòng tranh. Tôi đi theo sau cô vài bước chân, cố tập trung xem tranh, nhưng chỉ biết nhìn những gì cô xem.
Trong phòng tranh Ý thứ hai và đông đúc hơn (thời kỳ 1500- 1600), chúng tôi đứng gần nhau tới nỗi tay tôi khẽ chạm tay cô. Cô không rụt tay lại và trong thoáng chốc cảm giác về làn da cô làm tôi rộn ràng. Chúng tôi đứng trước bức tranh của Bronzino, Phúng dụ Venus và Cupid. Cupid hôn lên Venus mẹ chàng, còn nàng thì lén lút rút một mũi tên của chàng: nhan sắc làm mù lòa tình yêu.
9. Rồi bỗng dưng, như thể một lỗi lầm chợt phơi bày, bàn tay cô nhích ra chỗ khác.
“Em thích những dáng người nhỏ ở phông nền, những tiêu tiên nữ và các vị thần giân dữ, đại loại thế,” Chloe nói. “Anh có hiểu được tất cả các biểu tượng này không
“Không hẳn, anh chỉ biết Venus và Cupid thôi.”
“Em còn chẳng biết nữa cơ, vậy là anh ghi được một điểm rồi nhé. Giá mà em đọc thần thoại cổ đại nhiều hơn,” cô nói tiếp. “Nhưng quả thật, em thích nhìn vào sự vật mà không thực sự biết chúng có ý nghĩa gì.”
Cô quay sang bức tranh, tay cô một lần nữa chạm vào tay tôi.
10. Bàn tay là biểu tượng (tinh tế hơn các biểu tượng của Bronzino và không được vẽ nhiều bằng) của khao khát hay chỉ là sự co rút ngây thơ, vô thức của một cánh tay mỏi mệt? Tôi có thể nghĩ gì về cách Chloe vuốt phẳng nếp váy khi chúng tôi bước vào phòng Sơ Phục hưng Bắc Âu hay lúc cô húng hắng ho bên cạnh bức Đám cưới Giovani Arnolfini của van Eyck hay đưa tôi cuốn ca ta lô để thoải mái lấy tay chống cằm.
Khao khát đã biến tôi thành một kẻ ham mê săn tìm manh mối, một kẻ loạn óc lãng mạn, đi tìm ý nghĩa trong mọi thứ. Nhưng bất kể có nôn nao với các nghi thức cám dỗ đến đâu, tôi vẫn biết sự bí ẩn đã đem đến cho Chloe vẻ lôi cuốn đặc biệt. Người quyến rũ nhất không phải người ngay lập tức cho ta hôn (chúng sẽ sớm mất đi hứng thú) hay người không bao giờ cho phép ta hôn họ (chúng ta sẽ chóng lãng quên), mà là người biết làm thế nào phân phát đủ liều lượng khác nhau của niềm hy vọng và tuyệt vọng.
11. Venus muốn uống thứ gì đó, vậy nên nàng và Cupid ra chỗ thang máy. Trong quán cà phê, Chloe đặt một cái khay lên kệ.
“Anh muốn uống trà không?” cô hỏi.
“Có, nhưng để anh tự lấy.
“Anh dớ dẩn quá, để em lấy.”
“Thôi để anh lấy mà.”
“Không, không, để em.”
Trò chơi tiếp tục thêm vài vòng nữa, sự hăng hái của nó rõ ràng xuất phát từ nỗi lo âu phi lý tính của cả hai về sự ràng buộc bao hàm trong việc để người kia trả tiền thức uống. Chúng tôi ngồi nhìn ra quảng trường Trafalgar, ánh đèn trên cây thông Noel mang đến bầu không khí hội hè kỳ quái trong khung cảnh thành thị. Chúng tôi bắt đầu nói chuyện nghệ thuật, rồi chuyển sang các nghệ sĩ, rồi từ các nghệ sĩ, chúng tôi đi đến tách trà thứ hai (cô thắng) và chiếc bánh (tỉ số lúc này là 2-1), rồi đi lạc sang chủ đề nhan sắc, và từ nhan sắc đi sang tình yêu.
“Em không hiểu,” Chloe nói, “anh tin hay là không tin vào thứ gọi là tình yêu đích thực?”
“Anh thấy chủ đề này rất chủ quan. Em không thể cho là có một phẩm chất gọi là ‘tình yêu’, người ta gán cho từ ấy những thứ rất khác nhau. Thật khó để phân biệt giữa đam mê và tình yêu, mê đắm và tình yêu…”
“Anh không thấy cái bánh này kinh khủng sao?” Chloe cắt ngang. “Lẽ ra mình đừng mua nó. Ý em là, lẽ ra anh đừng mua nó cho em. Ôi trời,
em lỗ mãng quá.”
“Anh chờ đợi một lời xin lỗi viết ra giấy.”
“Nhưng thực sự, nếu anh hỏi hầu hết mọi người là liệu họ có tin vào tình yêu, học có thể sẽ nói không. Đấy không hẳn là điều họ thực sự nghĩ. Đó chỉ là cách họ bảo vệ mình trước cái họ muốn. Họ tin vào tình yêu, nhưng giả vờ là không cho đến khi họ được phép. Hầu hết mọi người sẽ ném đi toàn bộ nỗi khắt khe của họ nếu có thể. Đa số không bao giờ có cơ may làm vậy.
12. “Hầu hết mọi người” mà cô nói đến là gì? Có phải tôi sẽ là người xua đuổi nỗi hoài nghi của Chloe? Chúng tôi nói chuyện về tình yêu một cách trừu tượng, vờ như không biết vấn đề quan trọng lúc này không pphair là bản chất tình yêu đúng nghĩa, mà là câu hỏi đau đầu rằng chúng tôi là ai và sẽ là người thế nào với người kia.
Hay quả thật lúc này chẳng có gì quan trọng ngoài chiếc bánh cà rốt bị cắn nửa và hai tách trà? Có phải Chloe đang trở nên trừu tượng như cô muốn, thực sự muốn nói những điều ấy, như vậy là đối lập hoàn toàn với quy tắc đầu tiên của sự tán tỉnh, nơi thứ được nói ra không bao giờ đúng là những gì ta nghĩ?
13. Sự lưỡng lự của chúng tôi là một trò chơi, nhưng là một trò hữu ích và nghiêm túc, nó giảm thiểu việc xúc phạm khi đối phương chưa sẵn sàng và làm dịu lòng kẻ hăm hở đến vừa mức khao khát của đôi bên. Mối nguy của mấy từ quá lớn lao “Anh yêu em” có thể được làm dịu đi bằng cách nói thêm, “nhưng không nhiều đến nỗi anh sẽ nói thẳng với em điều ấy…” Chloe và tôi đang lịch sự miễn cho nhau nhu cầu phải thanh toán trọn vẹn cho một lời tuyên bố tình yêu chân thành.
14. Chúng ta giúp định nghĩa cái chúng ta muốn bằng cách liên đới đến người khác. Một đồng nghiệp của Chloe có một thiên tình sử với các dạng bạn trai không phù hợp. Người được tuyển mộ hiện tại là một tay ngây ngô.
“Em không hiểu tại sao cô ấy cặp kè với một gã cục mịch to xác mặc quần da bốc mùi thuốc lá và chỉ đang lợi dụng cô ấy cho chuyện tình
dục? Chuyện đó cũng được thôi nesu cô ấy muốn dùng anh ta vào việc chăn gối, nhưng thậm chí anh ta còn chẳng cương được lâu thế.”
“Tệ thật,” tôi đáp, âu lo về một địa có thể cho chuyện “lâu”.
“Đáng buồn thì đúng hơn. Người ta phải đi tới các mối quan hệ với những sự trông đợi ngang nhau, sẵn sàng cho đi nhiều bằng như người kia, chứ không phải một bên thì chớt nhả còn bên kia thực sự yêu. Em nghĩ đó là nguồn gốc mọi đau khổ.”
15. Vì đã quá sáu giờ và văn phòng cô sắp đóng cửa, tôi hỏi Chloe rốt cuộc cô có rảnh để đi ăn tối với tôi hôm đó. Cô mỉm cười trước đề nghị, thoáng quay qua cửa sổ, nhìn chiếc xe buýt đang chạy qua nhà thờ St Martin-in-the-Fields, rồi quay lại và nói, “Thôi, em cảm ơn, thực sự là không được.”
Thế là, ngay khi tôi sắp tuyệt vọng, mặt cô đỏ gay.
16. Đối mặt với những tín hiệu lập lờ, còn lời giải thích nào tốt hơn sự xấu hổ: kẻ được yêu khao khát, nhưng xấu hổ không dám nói ra. Còn kẻ chinh phục, ước gì nạn nhân của anh ta đang xấu hổ, sẽ không bao giờ phải thất vọng.
“Ôi trời, em vừa quên mất một chuyện kinh khủng,” Chloe nói, đưa ra một lời giải thích khác cho đôi má ửng hồng, “em định gọi sang nhà in chiều nay. Em không thể tin là mình quên bẵng. Đầu óc em bị làm sao ấy.”
Người ấy đang mời gọi tôi cảm thông.
“Nhưng anh này, chuyện ăn tốt, chúng ta có thể chọn một lúc khác. Em thích đi với anh, thực sự là thế. Chỉ là lúc này hơi khó, nhưng em sẽ xem lại lịch rồi gọi anh vào ngày mai, em hứa, vè có thể chúng ta sẽ chọn được lúc nào đấy trước cuối tuần
Chương 4
Tính xác thực
1. Một trong những trớ trêu của tình yêu là chúng ta thường tự tin nhất khi tán tỉnh người ít hấp dẫn mình nhất. Đứng trước Chloe, tôi không có chút niềm tin nào vào sự xứng đáng của bản thân mình. Tôi có thể là ai bên cạnh cô? Chẳng phải thật là vô cùng vinh hạnh khi cô đồng ý nhận lời đi ăn tối, lại còn vận đồ quá mức thanh lịch (“Thế này ổn không?”, cô ấy hỏi trên xe khi tôi đưa cô đến nhà hàng, “Ổn rồi thì tốt, vì em không thay đồ đến lần thứ sáu đâu”), ấy là chưa kể cô còn thuận lòng đáp lại tử tế một vài thứ rơi ra (ước gì tôi có thể rụt lại lưỡi) từ đôi môi không xứng đáng của tôi?
2. Đó là tối thứ sáu, Chloe và tôi ngồi trong góc khuất ở Les Liaisons Dangereuses, một nhà hàng Pháp mới mở cuối đường Fullham. Không còn sự sắp đặt nào phù hợp hơn nữa để tôn vinh vẻ đẹp của Chloe. Những ngọn nến cắm trên giá hắt bóng mềm lên khuôn mặt cô, những bức tường xanh nhợt tiệp màu với đôi mắt xanh nhợt của cô. Tuy vậy, cứ như thể thẫn thờ bởi thiên thần ngồi đối diện, tôi đánh mất tất thảy khả năng nghĩ hay nói và chỉ có thể lặng lẽ vẽ những họa tiết vô hình lên tấm trả bàn hồ bột cứng và hớp những ngụm nước có ga không cần thiết từ một cái ly lớn.
3. Cảm giác thấp kém gây cho tôi ham muốn khoác lên mình một tính cách không phải của mình, một cái tôi đi chinh phục đáp trả mọi đòi hỏi và đề nghị từ phía người đi cùng cao quý. Tình yêu buộc tôi nhìn vào bản thân như thể qua đôi mắt tưởng tượng của Chloe. “Mình phải trởhế nào để vừa lòng cô ấy?” tôi tự hỏi. Tôi không đơm đặt những lời nói dối trắng trợn, tôi chỉ cố tiên đoán tất cả những gì tôi tin là cô có thể muốn nghe.
“Em muốn dùng rượu vang không?” tôi hỏi cô.
“Em không biết nữa, anh muốn uống à?” cô hỏi lại.
“Anh không sao, nếu em muốn thì cứ gọi,” tôi đáp.
“Anh cứ tự nhiên đi mà,” cô tiếp tục.
“Anh thì có hay không cũng được.”
“Em đồng ý.”
“Thế là uống hay là không?”
“Ừm, em không nghĩ là em sẽ uống đâu,” Chloe mạo muội. “Em nói đúng, anh cũng chẳng thích uống,” tôi đồng tình.
“Thế thì đừng uống rượu vang,” cô kết luận.
“Tốt, thế thì ta chỉ dùng nước thôi nhé.”
4. Món đầu tiên được mang lên, bày trên những cái địa với sự đối xứng của khu vườn kiểu Pháp truyền thống.
“Đẹp quá, em không dám đụng vào đâu,” Chloe nói (chao ôi, cảm giác ấy tôi biết quá rõ), “Em chưa bao giờ ăn sò nướng như thế này.
Chúng tôi bắt đầu ăn. Âm thanh duy nhất là tiếng dao nĩa chạm vào mặt sứ. Dường như chẳng có gì để nói. Trong đầu tôi từ bấy giờ chỉ có Chloe, nhưng tôi không thể nói với cô suy nghĩ duy nhất của tôi vào lúc này.
Sự im lặng chết tiệt. Sự im lặng với một người thiếu hấp dẫn hàm ý rằng họ đáng chán. Sự im lặng với một người hấp dẫn ngay lập tức bảo rằng bạn mới là kẻ nhạt nhẽo.
5. Sự im lặng và vụng về đương nhiên có thể được xem là minh chứng đáng thương của lòng khao khát. Tán tỉnh một ai mà bạn cảm thấy dửng dưng thì dễ, kẻ tán tỉnh vụng về nhất cũng có thể được xem là tay tài tình nhất. Nghịch lý thay, việc không tim được đúng từ để nói ra lại là bằng chứng tốt nhất về điều mà ta muốn nói. Ở một Les Liaisons Dangereuses[1] khác, nữ hầu tước de Merteuil chê tử tước de Valmont vì viết những bức thư tình quá hoàn hảo, quá hợp lý, chúng không thể là lời lẽ của một kẻ đang yêu thực thụ, kẻ mà những ý nghĩ sẽ bị trật trìa và những lời trơn tru lúc nào
cũng lảng tránh. Khao khát đích thực luôn thiếu sự lưu loát – nhưng lúc bấy giờ tôi chỉ mong làm sao được hoán đổi cơn tắc tị của mình với sự ba hoa của vị tử tước.
[1. Nói đến tác phẩm phong tình Les Liaisons dangereuses (Những mối quan hệ nguy hiểm) của nhà văn Pháp Pierre Choderlos de Lacios (1741-1803)]
6. Tôi phải tìm hiểu thêm về Chloe, bởi vì làm sao có thể vứt bỏ cái tôi của mình nếu không biết sẽ cần chọn một cái tôi giả hiệu như thế nào cho thích hợp? Song, nếu như cần đến sự nhẫn nại và thông minh để thăm dò một ai đó thì tâm trí đầy lo âu, mê dại của tôi không thể kham nổi. Tôi cư xử như một nhà tâm lý học xã hội thích quy gián, chỉ chực đẩy đối tác của mình vào những phạm trù đơn giản, chứ không cẩn mực như một tiểu thuyết gia sẵn sàng nắm bắt những điều vi tế của bản chất con người. Chỉ trong món đầu tiên, tôi đã hớ hênh với nặng nề như chất vấn: Em thích đọc gì? (“Joyce, Henry James, rỗi rãi thì em đọc tờ Cosmopolitan”), Em có thích công việc của mình không? (“Việc nào cũng như cứt cả thôi, anh có nghĩ thế không?”), Giả dụ thích ở đâu cũng được, em thích ở nước nào? (“Em vẫn sống tốt ở đây, hay bất cứ đâu miễn là em không phải đổi trấu cắm điện cho máy sấy tóc của mình”), Em thích làm gì vào cuối tuần? (“Đi xem phim vào thứ Bảy, Chủ nhật, tọng sô cô la thả phanh rồi tối đến lại lo âu bứt rứt”).
7. Đằng sau những câu hỏi vụng về như thế (thêm mỗi câu hỏi, dường như tôi càng bớt hiểu cô hơn) là ham muốn chộn rộn đến ngay câu hỏi trực diện nhất: “Em là ai?”, và sau đó: “Anh phải là người thế nào?” Nhưng tôi đã thất bại trong việc đối đầu trực diện, và tôi càng thi hành chiến thuật đó, đối tượng càng vuột thoát khỏi tấm lưới, mặc dù vẫn cho tôi biết tạp chí cô đọc và thứ nhạc cô thích nhưng không khai sáng cho tôi chút gì về con người thực của cô.
8. Chloe ghét nói về bản thân mình. Có lẽ cá tính rõ ràng nhất ở cô là sự chừng mực và khuynh hướng tự hạ thấp bản thân. Khi cuộc đối thoại đưa cô đến chỗ phải nói về mình, câu chuyện sẽ không đơn giản là về “em” hay “Chloe”, mà là “một con đụt như em”. Khuynh hướng tự hạ thấp bản thân ở cô thậm chí còn cuốn hút hơn bởi dường như nó không có gì chung với những lời van vỉ ngụy trang của những kẻ tự thương hại, cái thứ tự hạ thấp
bản thân giả hiệu theo kiểu Em thật ngu xuẩn/Ồ không, em đâu phải thế.
Tuổi thơ của cô thật kỳ quặc, nhưng cô ngấm ngầm chịu đựng mọi chuyện (“Em ghét kịch tính hóa tuổi thơ, như thể bố mẹ cưng anh Job hơn em vậy”). Cô lớn lên trong một gia đình khá ỉa. Cha cô (“Mọi vấn đề của ba nảy sinh khi ông nội gọi ba là Barry”) từng là dân học thuật, một giáo sư luật, còn mẹ cô (“Claire”) từng có thời gian mở một hiệu bán hoa. Chloe là con thứ, một vịt giời kẹp giữa hai cậu ấm cưng không bao giờ bị phạt lỗi. Khi anh của Chloe mất vì ung thư máy ngay sau sinh nhật lần thứ tám của cô, nỗi đau đớn của bố mẹ cô trở thành cơn giận dữ giáng lên đầu cô con gái, chậchạp ở trường và ù lì ở nhà, cứ sống dai sống dẳng thay cho đứa con trai yểu mệnh của họ. Cô lớn lên trong mặc cảm tội lỗi, ngập tràn cảm giác bị trách cứ vì những chuyện đã xảy ra, và cảm giác rằng mẹ cô không cố gắng làm nó thuyên giảm. Mẹ cô thích thú đá xoáy vào những khuyết điểm tệ nhất của một người và không bao giờ ngưng. Chloe luôn được nhắc nhở về việc cô học kém thế nào so với người anh đã khuất, cô vụng về ra sao, và bạn bè cô xớn xác như thế nào (những lời phê phán không thực sự đúng, nhưng cứ mỗi ngày một đay nghiến hơn). Hồi bé, Chloe hướng sang người cha để tìm tình trìu mến, nhưng cách ông bưng kín cảm xúc cũng giống cách ông phô bày kiến thức luật, ông chia sẻ nó với cô một cách mô phạm như cách thức thay thế cho tình thương, cho tới khi cô đến tuổi thiếu niên, ấy là lúc nỗi bực dọc của Chloe với cha chuyển thành giận dữ và cô công khai chống đối ông và mọi thứ ông ủng hộ (cũng may là tôi đã không chọn theo nghề luật).
9. Về những bạn trai trong quá khứ, chỉ có những lời bóng gió lộ ra trong bữa ăn: một người từng làm thợ sửa xe máy ở Ý và đã đối xử tệ với cô, còn anh chàng tử tế với cô rốt cuộc vào tù vì tàng trữ ma túy. Người thứ ba là triết gia nhánh phân tích ở Đại học London (“Anh không cần phải là Freud cũng thấy anh ta là dạng ông bố em không bao giờ lên giường cùng”), người thứ tư là một thợ lái thử xe cho hãng Rover (“Cho đến giờ em vẫn không hiểu tại sao mình thích người này. Chắc là em thích giọng Birmingham của anh ấy”). Nhưng tôi vẫn chưa thấy được bức tranh toàn vẹn và vì vậy trong đầu tôi, mẫu đàn ông lý tưởng của cô ấy vẫn phải thường xuyên được điều chỉnh. Có khi vừa ca ngợi xong một thứ thì cô đã dè bỉu nó, khiến tôi đến phát cuồng vì phải sắp xếp lại mọi thứ. Khi thì cô có vẻ ca ngợi sự mong manh dễ vỡ, khi khác cô lại chê bai nó và ca ngợi tính độc lập. Tuy rằng sự chung thủy được cô tán dương như là giá trị tối thượng nhưng sau đó cô lại bào chữa cho tội ngoại tình để phê phán thói đạo đức giả trong hôn
nhân.
10. Sự phức tạp trong các cách nhìn của cô đẩy tôi vào trạng thái tâm thần phân liệt. Món chính (tôi dùng thịt vịt, cô ăn cá hồi) là một vũng đầm lầy cắm đầy mìn. Phải chăng tôi đã nghĩ vợ chồng nên sống với nhau đến đầu bạc răng long? Tuổi thơ tôi có bao giờ gian khó không nhỉ? Tôi đã thực sự yêu ai đó? Tôi là người cảm tính hay lý trí? Tôi đã bầu ai trong đợt bầu cử vừa rồi? Màu ưa thích của tôi là màu gì? Tôi có nghĩ là phụ nữ bất định hơn đàn ông? Vì việc trả lời những câu này bao hàm rủi ro ta phải xa cách những ai không đồng tình, thành thử tôi tuyệtchứng tỏ được mình có chút độc đáo nào.
11. Rồi đến lúc Chloe gặp phải một lựa chọn khó khác, vì đã đến món tráng miệng, và mặc dù chỉ có một lựa chọn, cô vẫn có nhiều hơn một ham muốn.
“Anh nghĩ nên dùng sô cô la hay ca ra men?” cô hỏi, những nếp tội lỗi hằn trên trán. “Hay là anh chọn một thứ, em một thứ rồi chúng mình ăn cùng.”
Tôi không thích giải pháp nào, bụng tôi đang khó tiêu, nhưng vấn đề không phải chỗ đó.
“Em thích sô cô la, anh thì sao? Chloe hỏi. “Em không thể hiểu nổi người nào không thích sô cô la. Có lần em đi chơi với một gã, anh chàng Robert em vừa kể, em chưa bao giờ thấy thoải mái với anh ta, nhưng em không lý giải được tại sao. Rồi một ngày mọi thứ trở nên rõ ràng: anh ta không thích sô cô la. Ý em là anh ta không chỉ không thích, mà còn ghét nó. Cứ thử đặt một thanh trước mặt anh ta mà xem, anh ta sẽ không bao giờ đụng vào. Trước nay em không bao giờ dính dáng với những ai có kiểu suy nghĩ cực đoan như thế. Tất nhiên sau đó, anh thấy đấy, rõ ràng bọn em phải chia tay.”
“Trong trường hợp này chúng ta nên gọi tráng miệng cho cả hai và nếm thử của nhau. Nhưng mà em thích gì?”
“Gì cũng được,” Chloe nói dối.
“Thật ư? Vậy nếu em không phiền, thì anh ăn sô cô la, món khoái khẩu của anh đấy. Em có thấy bánh sô cô la hai lớp ở đằng kia không? Chắc là anh sẽ gọi món đó. Nó nhiều sô cô la hơn.”
“Trông anh có vẻ tội lỗi lắm đấy,” Chloe nói, cắn môi dưới trong một cử chỉ đề phòng và xấu hổ, “nhưng sao lại không nhỉ? Anh nói đúng. Đời là mấy tí.”
12. Thế là tôi lại nói dối lần nữa (tôi bắt đầu ng thấy tiếng đàn gà gáy trong bếp). Trước giờ tôi luôn dị ứng với sô cô la không ít thì nhiều, nhưng làm sao tôi có thể thành thật khi biết tình yêu sô cô la trở thành tiêu chuẩn độc nhất cho sự tương đồng với Chloe?
Tôi đã quyết định rằng sự cuốn hút đồng nghĩa với việc xóa bỏ tất cả các đặc điểm cá nhân, cái bản ngã đich thực của tôi sẽ xung đột và vô giá trị trước những điểm hoàn mỹ ở người tôi yêu.
13. Tôi đã nói dối, nhưng liệu Chloe có thích tôi hơn? Kỳ lạ thay, cô chỉ hơi tỏ vẻ thất vọng khi nghĩ về hương vị của bánh ca ra men, trong khi tôi đã khăng khăng đòi ăn sô cô la, cho thấy thích hay ghét sô cô la cũng đều dẫn đến rắc rối như nhau.
14. Chúng ta trở nên hấp dẫn nhờ sự trùng hợp nhiều hơn là nhờ dự tính. Chloe đã làm gì để khiến tôi ngã lòng với cô ấy? Dòng cảm xúc của tôi liên quan mật thiết đến cử chỉ kiều diễm của cô, từ cách cô hỏi bồi bàn thêm bơ, cho tới quan điểm của cô về chính trị hay bộ đầm mà cô lựa kỹ.
Hiếm khi nào tôi hồi đáp những bước phụ nữ thường dùng để quyến rũ tôi. Tôi thường bị cuốn hút bởi những chi tiết xa lạ mà ả quyến rũ thậm chí còn không màng trưng ra vị trí nổi bật. Có lần tôi gặp một cô gái có lưa thưa ria mép. Tuy lúc bình thường thì khó chịu đấy, nhưng không hiểu sao lần đó tôi lại thấy thích thú kỳ lạ, khao khát của tôi bị thu hút vào chỗ đặc biệt đó thay vì vào nụ cười ấm áp hay cách nói chuyện thông minh của cô nàng. Khi nói chuyện này với đám bạn, tôi phải phân bua mãi khi cho rằng đích thị có một “luồng nhân điện” không thể phân định – nhưng tôi không thể tự che giấu mình chuyện tôi say nắng một cô gái có ria mép. Khi tôi gặp lại người phụ nữ ấy, hẳn ai đó đã đề xuất cô triệt lông bằng điện
phân, nên phần ria mép không còn, và (mặc cho nhiều đức tính khác của cô) khao khát ở tôi cũng dần biến mất.
15. Đường Euston vẫn chật ních xe khi chúng tôi trên đường về lại khu Islington. Trước khi những khúc mắc trở nên quan trọng, cả hai đã nhất trí là tôi đưa Chloe về nhà, thế nhưng những song đề của sự quyến rũ vẫn còn hiển hiện đậm đà trên xe. Khi vở kịch đã diễn đến mức ấy, có khi diễn viên buộc phải hy sinh bớt khán giả của mình. Tuy nhiên, đến trước cửa nhà 23A đường Liverpool, vì lo sợ hiểu sai ý nghĩa các dấu hiệu, tôi nhận định đây vẫn chưa phải lúc gợi ý cô mời mình lên nhà uống một tách cà phê ẩn dụ.
Nhưng sau bữa ăn căng thẳng và giàu sô cô la, dạ dày tôi đột nhiên phát lộ những thứ bậc ưu tiên khác nhau, và tôi buộc phải hỏi cô cho phép tôi lên nhà. Tôi theo Chloe lên cầu thang, vào phòng khách và được dẫn đến phòng tắm. Vài phút sau với ý định vẫn không thay đổi, tôi với lấy áo khoác và thông báo, với tất cả thầm quyền suy nghĩ của một người đã quyết định tốt nhất là nên kiềm chế và giữ nguyên hiện trạng các huyễn tưởng trải qua trong những tuần vừa rồi, rằng tôi đã có một buổi tối đáng yêu, hy vọng gặp lại cô sớm và sẽ gọi cho cô sau lễ Giáng sinh. Hài lòng với sự chín chắn đó, tôi hôn vào hai má cô, chúc cô ngủ ngon và quay ra về.
16. Bởi thế, may mắn thay là Chloe không dễ dàng bị thuyết phục, nàng chặn cuộc tẩu thoát của tôi bằng cách nắm lấy hai đầu khăn quàng cổ. Nàng kéo tôi vào nhà, quàng hai tay lên cổ tôi và đứng hình nhìn tôi với một nụ cười mà hẳn nàng đã để dành trước đó cho câu chuyện về sô cô la chưa có hồi kết, và thì thầm, “Mình có phải trẻ con đâu anh.” Sau lời nói đó, môi nàng chạm lên môi tôi và hai đứa có một trong những nụ hôn dài nhất và tuyệt vời nhất mà loài người từng biết đến.
Chương 5
Tâm hồn và thể xác
1. Ít có thứ gì trái ngược với tình dục nhiều như suy nghĩ. Tình dục là bản năng, phi lý trí v tự phát, trong khi suy nghĩ thì thận trọng, tách bạch và mang tính đánh giá. Suy nghĩ trong khi làm tình là vi phạm luật cơ bản của việc giao hợp. Nhưng tôi có lựa chọn nào không?
2. Đó là nụ hôn ngọt ngào nhất, là tất thảy mọi điều người ta mơ mộng về một nụ hôn. Nó bắt đầu với cái nhìn đắm đuối âu yếm và những xâm nhập thăm dò đầy dịu dàng, tiết ra mùi hương riêng biệt của hai làn da. Rồi áp lực tăng lên, hai đôi môi chạm trở lại và tách ra, môi tôi rời môi Chloe trong thoáng chôc để lướt dọc hai má, thái dương và tai cô. Cô áp người cô lại gần và hai chân chúng tôi quấn vào nhau. Đờ đẫn, cả hai đổ người xuống sofa, ghìm chặt lấy nhau.
3. Tuy nhiên, vẫn có thứ gì làm gián đoạn cảm giác thiên đường này, đó là ý thức của tôi rằng thật hoang lạ khi nhận ra mình đương nằm trong phòng khách của Chloe, môi áp vào môi cô và cảm nhận được hơi ấm của cô bên cạnh mình. Sau toàn bộ sự nhập nhằng, nụ hôn xảy đến bất ngờ đến nỗi tâm trí tôi không nỡ nhường lại quyền kiểm soát cho thể xác. Điều tôi để ý là ý nghĩ về nụ hôn, chứ không phải bản thân nụ hôn ấy.
4. Tôi không thể dứt mình ra khỏi suy nghĩ rằng một người phụ nữ mà cơ thể chỉ vài giờ trước còn là một khu vực riêng tư tuyệt đối (chỉ thấp thoáng ẩn hiện qua lớp áo và diềm váy) lúc này chuẩn bị cởi bỏ xiêm y trước mặt tôi. Mặc dù chúng tôi đã nói chuyện với nhau một thời gian, tôi vẫn cảm thấy thiếu sự cân xứng trong hiểu biết của tôi về Chloe-ban-ngày và cô-ấy ban-đêm, giữa sự thân mật bao hàm trong việc tiếp xúc với cơ thể cô và những địa hạt còn lại trong cuộc sống của cô mà phần nhiều tôi còn chưa biết đến. Song sự hiện diện của những ý nghĩ cứ chảy trôi giữa cơn nín thở
về mặt vật lý dường như đối chọi gay gắt với các quy luật của khao khát. Những suy nghĩ ấy dường như đạt đến độ khách quan làm tôi khó chịu, giống như có một người thứ ba đang quan sát, chứng kiến, và thậm chí đánh giá
5. “Chờ đã anh,” Chloe nói khi tôi cởi khuy áo cô. “Để em kéo rèm, em không muốn cả thiên hạ trông thấy. Sao chúng ta không vào phòng ngủ nhỉ? Trong đấy rộng rãi hơn.”
Chúng tôi đứng lên khỏi ghế sofa tù túng, bước dọc hành lang kê đầy sách để vào phòng ngủ của Chloe. Chiếc giường lớn màu trắng nằm giữa, chất đống chăn gối và sách báo, quần áo và một chiếc điện thoại.
“Bừa bộn quá,” Chloe nói, “đây mới là nơi em ở, những chỗ khác chỉ để ngắm thôi.”
Có một con thú nằm trên đống lộn xộn.
“Chào Guppy đi anh – mối tình đầu của em đấy,” Chloe nói, đưa cho tôi một con voi xám đầy lông, mặt nó không biểu hiện chúng ghen tuông nào.
6. Chloe có vẻ ngượng nghịu trong lúc dọn đồ đạc trên giường, sự háo hức của cơ thể chúng tôi chỉ một phút trước đã nhường chỗ cho bầu im lặng nặng nề, bởi cả hai đều lo âu biết sắp đến lúc phải trút bỏ quần áo.
7. Khi Chloe và tôi cởi quần áo cho nhau trên chiếc giường lớn màu trắng, nhờ ánh sáng từ ngọn đèn nhỏ bên cạnh giường, lần đầu tiên nhìn thấy nhau lõa thể, chúng tôi cố gắng làm ra vẻ không mấy chú tâm, giống Adam và Eva trước khi sa ngã. Tôi lần hai tay dưới váy Chloe và cô cởi khuy quần dài của tôi với một vẻ dửng dưng bình thường như ai đó mở nắp thùng thư hay thay ga trải gi
8. Song, nếu có một thứ làm thui chột niềm đam mê, hẳn đó là sự vụng về. Chính sự vụng về đã nhắc nhở tôi và Chloe về vẻ nực cười và oái ăm của việc cuối cùng phải lên giường cùng nhau, tôi cố gắng cởi quần lót
của cô (một phần của nó bị vướng ở đâu đó gần đầu gối), còn cô gặp khó khăn với những khuy áo sơ mi của tôi, tuy vậy cả hai đều cố không bình luận, thậm chí không cười, nhìn nhau với một vẻ đầy đứng đắn của ham muốn, như thể không nhớ tới cái phần đầy tiềm năng gây cười của sự việc đang diễn ra, ngồi bán khỏa thân trên thành giường, hai khuôn mặt đỏ ửng giống như hai đứa học trò đang phạm tội.
9. Nhà triết học ở trên giường cũng lố bịch như nhà triết học ở hộp đêm. Ở cả hai đấu trường, bởi vì cơ thể là thứ thống lĩnh và dễ tổn thương nên tâm trí trở thành tay sai cho sự đánh giá tách bạch, im lìm. Tính bất trung của ý nghĩ nằm ở sự riêng tư của nó. “Nếu có thứ gì đó anh không thể nói với em,” một người tình sẽ hỏi, “những ý nghĩ anh chỉ dành riêng mình, liệu anh có thực sự đáng tin không?”
Tôi không mang một suy nghĩ nào độc ác khi tay và môi tôi lướt dọc theo cơ thể Chloe, chỉ là tôi sợ tâm trí Chloe hẳn sẽ bị khuấy động nếu biết người nằm cạnh cô đang suy nghĩ điều gì đó. Bởi ý nghĩ bao hàm sự đánh giá, và chúng ta đều bị hoang tưởng đủ để nghĩ rằng các đánh giá đều tiêu cực, rất chính đáng, trong phòng ngủ suy nghĩ là thứ đáng ngờ. Bởi vậy tiếng thở hổn hển nhận chìm âm hanh suy nghĩ của hai kẻ đang yêu xác nhận rằng: Ta đang quá đắm say nên không thể suy nghĩ bất cứ điều gì. Tôi hôn cô, và bởi vậy tôi không suy nghĩ – đó là huyền thoại chính thức ngự trị phía trên việc làm tình, căn phòng ngủ như không gian độc nhất nơi hai đối tác ngầm thoải thuận không nói với nhau về niềm ngạc nhiên xuất phát từ nỗi kinh sợ về sự khỏa thân của họ.
10. Có câu chuyện về một nữ đồng trinh mộ đạo thế kỷ 19, vào ngày cưới của mình, cô được mẹ cảnh báo, “Tối nay, chồng con sẽ lên cơn động kinh, nhưng sáng mai con sẽ thấy nó hồi phục.” Vả chăng có phải tâm trí không làm ta bất mãn là bởi nó tượng trưng cho sự từ chối cuộc điên loạn này, giống như khi một người cố giữ mình trấn tĩnh trong khi kẻ kia đang sắp hết hơi tắt thở?
11. Ở thời điện phương pháp Masters và Johnson[1]gọi là giai đoạn sắp sửa phun trào thì Chloe ngước nhìn tôi và hỏi:
[1. Một phương pháp điều trị xuất tinh sớm.]
“Anh đang nghĩ gì thế, Socrates?”
“Anh không nghĩ gì,” tôi đáp.
“Đừng có xạo, em thấy trong mắt anh, anh cười gì thế?”
“Chẳng gì cả, anh đã bảo em rồi, hoặc nếu muốn anh có thể nói trăm nghìn thứ về em, buổi tối nay, việc chúng ta đi đến chuyện này, về cảm giác hoang lạ nhưng thật thoải mái.”
“Hoang lạ?”
“Anh không biết, ừ, hoang lạ, anh thấy mình bắt đầu ý thức đến độ phi lý về mọi thứ.”
Chloe cười.
“Có gì đáng cười đâu nhỉ?”
“Anh xoay lại xem nào. “Để làm gì mới được?”
“Cứ xoay người lại đi.”
Phía bên kia phòng, đặt trên tủ kéo và xoay làm sao để Chloe vẫn thấy được khi nằm trên giường, một tấm gương lớn đang soi thân thể chúng tôi nằm cạnh nhau trong chăn.
Có phải Chloe đang quan sát cả hai từ bấy giờ?
“Em xin lỗi, em nên nói với anh trước,” cô mỉm cười, “chỉ là em không muốn nhắc đến ngay đêm đầu tiên của chúng mình. Có thể nó là lý do làm anh nhột nhạt.”
Chương 6
Thuyết Mác-xít
1. Khi nhìn ai đó (một thiên thần) từ địa vị một kẻ yêu đơn phương và tưởng tượng những khoái cảm có thể có khi ở cùng họ trên thiên đường, chúng ta sẽ có khuynh hướng lờ đi một mối nguy hại to lớn: sức hấp dẫn của họ sẽ mau chóng phai nhạt đến thế nào nếu họ cũng đem lòng yêu chúng ta. Chúng ta ngã vào tình yêu bởi vì khao khát trốn thoát sự sa đọa của bản thân cùng với ai đó ta xem là lý tưởng. Nhưng nếu có ngày con người ấy lại đi yêu chúng ta thì sao? Sốc lắm chứ. Làm sao họ có thể thánh thiện như chúng ta hy vọng, khi mà gu của họ tệ hại đến độ chấp nhận một người như ta? Nếu để mà yêu, chúng ta phải tin rằng người ta thương vượt trội chúng ta theo cách nào đó, chẳng hóa ra thật là một nghịch lý tai ác khi chúng ta chứng kiến tình yêu này được hồi đáp ư? “Nếu anh/cô ấy quá tuyệt vời, làm sao anh/cô ấy có thể yêu một người như mình?”
2. Với sinh viên ngành tâm lý tình ái, không có lãnh địa nào phong phú hơn là bầu không khí của buổi sáng hôm sau. Nhưng Chloe có những mối quan tâm khác khi bước ra khỏi giường. Cô sang phòng tắm bên cạnh để gội đầu và khi tỉnh dậy, tôi nghe thấy tiếng nước đập xuống nền đá hoa. Tôi nằm nán lại trên giường, bọc mình trong hình hài và mùi hương cơ thể cô còn vương vất nơi tấm chăn. Đó là buổi sáng thứ Bảy, và những tia nắng tháng Chạp bẽn lẽn rọi qua rèm cửa. Quả là một đặc ân khi được cuộn tròn trong chốn ở linh thiêng của Chloe, nhìn những đồ vật đã tạo nên cuộc sống thường ngày của cô, ngắm những bức tường bao quanh khi cô thức dậy mỗi sáng, chiếc đồng hồ báo thức, một vỉ aspirin, đồng hồ đeo tay và đôi bông tai của cô trên bàn đầu giường. Tình yêu của tôi chính là sự say đắm mọi thứ Chloe sở hữu, mọi dấu hiệu vật chất của một cuộc sống tôi vẫn chưa khám phá hết nhưng có vẻ là phong phú vô chừng, đầy ắp những điều kỳ diệu mà cuộc sống trao cho đôi bàn tay của một cá nhân phi thường. có một cái radio vàng ửng ở một góc, một bức tranh Matisse tựa vào ghế, quần áo của cô từ đêm hôm trước treo trong tủ bên cạnh tấm gương. Trên mặt tủ có một tập
giấy tờ, bên cạnh đó là túi xắc và chùm chìa khóa, một chai nước và con voi Guppy. Theo một hình thức lan truyền, tôi đã ngã lòng yêu mọi thứ cô sở hữu, tất cả dường như quá khơi gợi, đầy tính thẩm mỹ, khác xa những gì mà người ta có thể mua được ở cửa hàng.
3. “Anh có thử mặc quần lót của em không đấy?” một lát sau Chloe hỏi khi bước ra khỏi phòng tắm, quấn trên mình một cái áo choàng trắng mịn như nhung và chiếc khăn tắm quấn quanh đầu. “Anh làm gì từ bấy đến giờ thế? Anh ra khỏi giường đi chứ, mình không thể phí phạm ngày hôm nay được.”
Tôi thở dài đểu giả.
“Em sắp sửa đi mua đồ và chuẩn bị bữa sáng cho cả hai, trong lúc đó anh tranh thủ tắm đi. Trong tủ có mấy cái khăn tắm sạch đấy. Hôn em đi chứ?”
4. Phòng tắm lại là một kỳ quan khác, đầy những hũ kem, lotion và nước hoa: thánh địa của cơ thể cô, còn chuyến ghé thăm của tôi là cuộc hành hương sũng nước. Tôi gội đầu, hát như một con linh cẩu ở dưới chân thác nước, lau khô người và thử bàn chải đánh răng mới Chloe vừa đưa. Khi tôi quay lại phòng ngủ độ mười lăm phút sau, cô đã đi khỏi, giường đã dọn, căn phòng ngăn nắp và rèm đã kéo.
5. Chloe không chỉ nướng bánh mì, cô chuẩn bị cả một bữa thịnh soạn. Có một giỏ bánh sừng bò, nước ép cam, một ấm cà phê thơm, vài trái trứng và bánh mì nướng, và một tô to kềnh ở giữa bàn đựng những bông hoa màu vàng và đỏ.
6. “Tuyệt,” tôi ta thán, “em sửa soạn toàn bộ thứ này chỉ trong lúc anh tắm và thay đồ.”
“Vì em không chây lười như anh. Thôi nào, ăn trước khi đồ ăn nguội mất.”
“Cứ thế này, em thật dễ thương.”
“Thôi đi ông tướng.”
“Không, anh nói thật đấy. Không phải ngày nào anh cũng có bữa sáng chuẩn bị sẵn đâu,” tôi nói, vòng tay ôm eo cô. Cô không quay lại nhìn tôi, nhưng nắm tay tôi và siết một lúc.
“Thôi đừng tự sướng nữa, em làm thế không phải vì anh đâu. Cuối tuần nào em chẳng ăn thế này.”
Lời nói dối ấy ngầm ẩn một niềm kiêu hãnh, trong cách cô chế nhạo chuyện tình cảm, trong việc tỏ ra hờ hững, dửng dưng, khắc kỷ, tuy rằng trong tim cô hoàn toàn trái ngược: lý tưởng hó mơ mộng, chân thành và gắn bó sâu sắc với mọi thứ cô tự cho là ủy mị.
7. Trong suốt bữa sáng cực kỳ ủy mị ấy, tôi nhận ra một điều dường như rõ ràng, khiến tôi cảm thấy vừa ngoài dự tính vừa phức tạp: Chloe bắt đầu cảm nhận ở tôi một chút gì đó của những gì tôi đã cảm thấy với cô từ nhiều tuần trước. Nói khách quan, đó không phải một suy nghĩ bất thường, nhưng khi ngã lòng yêu cô, tôi đã hoàn toàn làm lơ khả năng của sự hồi đáp. Tôi tin vào việc yêu hơn là được yêu. Và có lẽ tôi đã chủ yếu tập trung vào động lực yêu là bởi được yêu lúc nào cũng phức tạp hơn yêu, mũi tên của thần Cupid luôn dễ bắn ra hơn đón lấy.
8. Chính khó khăn trong việc nhận lấy này đã làm tôi trăn trở suốt bữa sáng, vì mặc cho bánh sừng bò nên có thêm bơ và cà phê nên nồng hơn, thứ gì đó về sự thu hút và âu yếm mà chúng tượng trưng vẫn quấy nhiễu tôi. Chloe đã trao thân thể cho tôi vào đêm trước, sáng hôm sau cô trao cho tôi gian bếp, nhưng lúc này tôi không thể ngăn mình có một cảm giác bất tiện, cái thứ liền kề với sự cáu bẳn và thuộc về ý nghĩ bị bóp nghẹt: “Ta đã làm chi đời ta để phải nhận lấy điều này?”
9. Nếu như ai đó không hoàn toàn chấp nhận được vẻ đáng yêu của họ, thì việc nhận được tình yêu thương có thể trông thật giống khi họ được ban vinh dự cho một kỳ công mà người dó cảm thấy không có liên hệ gì. Những tình nhân không may mắn phải chuẩn bị bữa sáng cho típ người như vậy buộc phải gắng hết sức cho những sự buộc tội lẫn nhau phát sinh bởi tất cả kẻ bợ đỡ giả tạo.
10. Tranh cãi về cái gìquan trọng bằng sự bất tiện khi lấy chúng làm lý do bào chữa. Những tranh cãi của chúng tôi bắt đầu từ một hũ mứt dâu.
“Em có hũ mứt dâu tây nào không?” tôi hỏi Chloe, săm soi cái bàn oằn xuống vì nặng.
“Không, nhưng có mứt mâm xôi, anh lấy không?”
“Thôi cũng được.”
“À, có cả mứt dâu đen nữa.”
“Anh ghét dâu đen lắm, em thích ư?”
“Vâng, có gì mà không thích?”
“Ăn tởm lắm. Vậy là không có thứ mứt nào tử tế ư?”
“Anh khác, em khác. Có đến năm hũ mứt trên bàn, chỉ là không có dâu tây thôi.”
“Ừ, anh biết rồi.”
“Mà sao anh phải quan trọng chuyện đó như thế?”
“Vì anh ghét ăn sáng mà không có mứt dâu tây tử tế.”
“Có dâu tử tế đấy chứ, phải mỗi cái là không phải loại anh thích.”
“Hàng tạp hóa có gần đây không?”
“Để làm gì?”
“Anh ra ngoài mua một ít.”
“Ôi trời, bây giờ chỉ việc ngồi xuống ăn thôi mà, anh ra ngoài thì đồ ăn nguội mất.”
“Anh phải đi.”
“Vì anh cần mứt, đó là lý do.”
“Anh bị làm sao thế?”
“Chẳng sao cả, em hỏi làm gì?”
“Anh hâm vừa thôi chứ.”
“Không, anh không hề hâm nhé.”
“Anh hâm.”
“Anh chỉ cần mứt thôi.”
“Tại sao anh cứ làm khó lên nhỉ? Em đã nấu cho anh cả bữa sáng này, thế mà anh chỉ biết càm ràm về một hũ mứt. nếu anh thực sự muốn ăn mứt, thì biến ra khỏi đây và đến nhà người khác mà ăn.”
11. Một quãng im lặng, ánh mắt Chloe như tóe lửa điện, rồi cô đột nhiên đứng dậy, bước vào phòng ngủ và đóng sầm cánh cửa sau lưng mình. Tôi ngồi ở bàn, lắng nghe tiếng thút thít, cảm thấy mình giống như một gã hề vì làm người phụ nữ mình yêu thất vọng.
12. Mối tình không được đền đáp có thể gây đau đơn, nhưng là đau đớn trong khuôn khổ an toàn, vì nó không giáng thiệt hại lên ai khác trừ khổ chủ, một nỗi đau đớn riêng tư ngọt ngào và cay đắng vì đó là do họ tự gây ra cho mình. Nhưng ngay khi tình yêu được hồi đáp, người đó phải chuẩn bị từ bỏ tính thụ động của việc chỉ là người đang bị tổn thương để lãnh lấy trách nhiệm làm tổn thương chính mình.
1 Từ mối ác cảm tôi tự cảm thấy khi làm tổn thương Chloe, trong chốc lát tôi chuyển sang ác cảm với chính cô. Tôi ghét cô bởi tất cả cố gắng cô đã làm cho tôi, bởi sự yếu đuối của cô khi tin tưởng tôi, bởi cái gu tệ hại của cô khi cho phép tôi làm cô thất vọng. Bỗng dưng tôi thương xót việc cô đã đưa tôi bàn chải đánh răng, chuẩn bị cho tôi bữa sáng, và òa khóc trong phòng như một đứa trẻ. Trong tôi dấy lên niềm thôi thúc vô bờ là hạnh hạ Chloe vì sự yếu đuối của cô.
14. Điều gì đã biến tôi thành một con quái vật như vậy? Đó là vì tôi luôn mang trong mình một phần của tín đồ Mác-xít.
15. Có một chuyện cười thế này: chàng Marx cười nhạo việc không thèm tham gia một câu lạc bộ đã chấp nhân một người như anh là thành viên, và trong tình yêu cũng như trong danh hiệu thành viên của câu lạc bộ, đó là một chân lý. Chúng ta cười nhạo lập trường Mác-xít vì sự mâu thuẫn phi lý của nó: Làm sao tôi có thể vừa muốn tham gia một hội nhóm, vừa mất ngay ham muốn ấy khi điều đó trở thành hiện thực? Làm sao tôi vừa mong Chloe yêu tôi, lại vừa bị cô ấy làm cho cáu bẳn vì cô đã yêu tôi?
16. Có lẽ bởi, khởi nguồn của một thứ tình yêu nào đó nằm ở niềm thôi thúc thoát khỏi con người và khuyết điểm của chúng ta nhờ một sự liên minh với sắc đẹp và sự cao quý. Nhưng nếu người ta yêu yêu lại ta, chúng ta buộc phải quay về với chính mình, và do đó chúng ta được nhắc nhở về những thứ đã đưa chúng ta vào tình yêu lúc đầu. Có lẽ rốt cuộc chúng ta đâu có mong muốn tình yêu, có lẽ chỉ đơn giản là ta muốn có một ai đó để tin tưởng, nhưng làm sao chúng ta có thể tiếp tục tin vào người mình yêu khi mà giờ đây họ đặt niềm tin ngược lại vào chúng ta?
Tôi không biết làm sao mà biện minh được cho Chloe vì nghĩ rằng cô có thể đặt đời sống cảm xúc của cô dựa vào một kẻ vô lại như tôi. Nếu có một chút gì đó yêu tôi, phải chăng đó đơn giản là vì cô hiểu sai tôi?
18. Mặc dù từ vị trí của một tình yêu không được hồi đáp, họ khao khát nhìn thấy tình yêu của mình được phản hồi, các nhà Mác-xít trong vô thức vẫn mong muốn những giấc mơ của họ nằm mãi trong địa hạt của huyễn tưởng. Tại sao người khác không nghĩ tốt về họ hơn cách họ nghĩ về mình? Chỉ khi nào kẻ được yêu tin rằng người Mác-xít nhìn chung là vô giá trị, người Mác-xít mới có thể tiếp tục tin rằng kẻ được yêu là tất thảy trên đời. Tôi đánh giá thấp Chloe vì cô đã ngủ với tôi là bởi trong cuộc tình này Chloe đã gặp phải một trường hợp tệ hại của ca bệnh biến dạng thăng[1].
[1. Nguyên văn: I-infection. Trong nhóm ngôn ngữ Celtic, xảy ra
hiện tượng biến dạng nguyên âm (vowel affection). Chẳng hạn, trong tiếng Ailen, i-infection chỉ quá trình một nguyên âm có độ mở trung bình (e hoặc o) được nâng lên nguyên âm cao (i hoặc u). Ví dụ: mil (mật ong) biến thành melit; suide (ghế) thành sodiiom. A-infection để chỉ trường hợp ngược lại.]
19. Tôi vẫn thường thấy người khác mang quan điểm Mác-xít khi yêu. Năm mười sáu tuổi, tôi yêu một co bé mười lăm, vừa là đội trưởng đội bóng chuyền, rất xinh xắn, vừa là một tay Mác-xít dấn thân.
“Nếu một cậu con trai nói rằng cậu ta sẽ gọi cho tớ vào chín giờ,” cô bé nói với tôi bên ly cam ép tôi mua cho cô ở căng tin trường, “và quả thật cậu ta gọi lúc chín giờ, tớ sẽ dập máy ngay. Rốt cuộc cậu ta tha thiết cái gì kia chứ? Tớ chri thích người con trai cứ làm tớ chờ đợi, đến lúc chín rưỡi tớ sẽ làm mọi điều vì cậu ta.”
Ở tuổi đó hẳn tôi đã có một cách hiểu theo bản năng về triết thuyết Mác-xít của cô ấy, vì tôi còn nhớ mình đã cố gắng dửng dưng trước bất cứ điều gì cô nói hay làm. Phần thưởng của tôi đến bằng nụ hôn đầu tiên vài tuần sau đó, nhưng mặc cho cô xinh xắn không cần bàn cãi (và lão luyện trong nghệ thuật yêu cũng như trong bóng chuyền), mối quan hệ của chúng tôi không kéo dài lâu. Thật quá mệt mỏi để tìm cách thanh minh cho việc luôn gọi điện trễ.
20. Vài năm sau, tôi quen một cô gái khác (giống một người Mác-xít ngoan ngoãn) tin rằng đàn ông nên tìm cách nào đó thách thức cô để được trao cho tình yêu. Một buổi sáng, trước khi đi dạo bộ với cô trong công viên, tôi mặc lên người chiếc áo pull nhàu nhĩ màu lam chiều.
“Này, nói để biết trước, em sẽ không đi chơi với anh trong bộ dạng đó đâu,” Sophie la lên khi thấy tôi bước xuống cầu thang. “Chắc là anh đùa, anh thử nghĩ người ta thấy em đi với ai đó mặc cái áo chui đầu thổ tả này xem.”
“Sophie à, anh mặc gì thì đâu quan trọng? Chúng ta chỉ đi dạo trong công viên thôi mà,” tôi đáp, cũng ngờ ngợ là cô đang nói chuyện nghiêm túc.
“Em không cần biết chúng ta đi đâu, em đã nói rồi, em sẽ
không đi công viên với anh chừng nào anh chưa chịu thay nó.”
Không hiểu sao lúc ấy tôi lại không làm theo ý muốn của Sophie, tôi gân cổ cãi cho cái áo chui đầu màu lam đến nỗi một lúc sau cả hai đã dạo bộ đến khuôn viên của Royal Hospital, tôi vẫn không chịu cởi chiếc áo mắc dịch. Khi chúng tôi đến cổng công viên, Sophie, đến lúc đó vẫn dằn dỗi, đột nhiên phá vỡ bầu im lặng, cầm lấy tay tôi, hôn tôi và nói những lời có lẽ mang cho cả hai một chân lý của chủ thuyết Mác-xít, “Anh đừng lo, em không giận anh đâu, em mừng là anh vẫn mặc chiếc áo gớm ghiếc ấy, biết đâu em sẽ nghĩ là anh quá yếu đuối nếu anh làm những gì em bảo.”
21. Được ai đó yêu tức là nhận ra họ cũng chia sẻ cùng các nhu cầu nằm ở nền tảng mối quan tâm của chúng ta dành cho họ. Albert Camus cho rằng chúng ta ngã lòng yêu người khác bởi vì, nhìn từ bên ngoài, họ trông quá toàn vẹn, toàn vẹn vừa theo nghĩa vật lý vừa cảm tính – trong khi khách quan mà nói, chúng ta cảm thấy phân tâm và mơ hồ. Chúng ta sẽ không yêu nếu bản thân chúng ta không có điểm gì khiếm khuyết, nhưng chúng ta bực bội vì phát hiện ra một sự khiếm khuyết tương tự ở người khác. Hy vọng tìm thấy câu trả lời, chúng ta chỉ tìm thấy bản sao trục trặc của chính chúng ta.
22. Trong tư tưởng phương Tây, có một truyền thống dài lâu và ảm đạm cho rằng tình yêu về bản chất là cảm xúc không thể hồi đáp, đầy tính Mác-xít và khao khát chỉ có thể nảy nở nhờ sự bất khả của mối quan hệ tương hỗ. Theo quan điểm này, tình yêu chỉ đơn giản là một hướng đi, không phải nơi chốn, và đốt cháy chính nó để đạt được mục đích của mình, đó là sự sở hữu (trên giường hay một cách nào đó khác) người ta yêu. Toàn bộ nền thi ca hát rong[2] ở Provence thế kỷ 12 được dựa trên sự trì hoãn giao hợp, người thi sĩ cứ khăng khăng than vãn với người phụ nữ nhất mực khước từ lời mời chảo của một quý ông tuyệt vọng. Vài thế kỷ sau, Montaigne tuyền bố, “Trong tình yêu, không có gì ngoài niềm khao khát cuồng loạn những thứ lẩn tránh chúng ta,” ý tưởng ấy sau này vang vọng trong cách ngôn của Anatole France, “Thường thì người ta không yêu những gì mình có.” Còn Stendhal tin rằng tình yêu chỉ có thể xảy ra dựa trên nỗi sợ đánh mất người mình yêu và Denis de Rougemont xác nhận, “Cản trở nghiêm trọng nhất chính là thứ được ưa thích nhất. Ấy mới là món thích hợp nhất để gia tăng nỗi đam mê.” Theo như quan điểm này, các tình nhân không thể làm gì khác ngoại trừ dao động giữa hai thái cực sóng đôi, giữa lòng mong mỏi có được ai đó và khao khát dứt áo ra đi khỏi họ.
[2. Troubadour: Thi sĩ thời trung kỳ Trung cổ, sáng tác những bài thơ bằng ngôn ngữ Oc (miền Provence nước Pháp).]
23. Có một mối nguy mà Chloe và tôi đang vướng vào, trong vòng tròn ốc Mác-xít như vậy. Nhưng một cách giải quyết đẹp đẽ hơn đã xảy ra. Tôi trở về nhà sau tội lỗi của bữa sáng, bẽ bàng, hối hận và sẵn sàng làm bất cứ thứ gì để giành lại Che. Điều này không dễ. Thoạt đầu cô lơ tôi, sau đó cô hỏi liệu tôi thường cư xử như một gã bựa quê mùa với những phụ nữ ngủ với mình hay không. Nhưng sau những lời xin lỗi, sỉ nhục, cười cợt và nước mắt, Romeo và Juliet lại đi cùng với nhau vào buổi chiều, nắm tay nhau sướt mướt trong bóng tối của suất chiếu bốn rưới chiều phim Tình yêu và cái chết[3] ở Rạp chiếu phim Quốc gia. Một kết thúc có hậu, ít nhất là đến lúc này.
[3. Love and Death (1975), phim của đạo diễn Woody Allen.]
24. Luôn luôn có một khoảnh khắc Mác-xít trong bất cứ mối quan hệ nào, khoảnh khắc người ta biết rõ tình yêu được hồi đáp. Việc giải quyết nó thế nào tùy thuộc vào mối cân bằng giữa lòng tự ái và thói tự ghét bản thân. Nếu lòng tự ghét thắng thế, người được nhận tình yêu sẽ tuyên bố rằng kẻ họ yêu (vì lý do nào đó) không xứng với họ (không xứng là bởi đi kèm với những điểm không-tốt). Nhưng nếu lòng tự ái thắng thế thì cả hai sẽ chấp nhận rằng, việc thấy tình yêu của họ hồi đáp không phải là minh chứng cho kẻ được yêu thấp kém thế nào, mà cho thấy bản thân họ đáng yêu ra sao.
Chương 7
Những nốt nhạc phô
1. Trước khi có cơ hội thực sự thân thuộc với người mình yêu, lòng ta có thể chất chứa cảm giác kỳ lạ rằng mình đã biết họ từ lâu. Có thể giống như chúng ta đã gặp họ từ trước ở đâu đó, có lẽ trong tiền kiếp, hoặc trong các giấc mơ. Trong quyển Tranh biện[1]của Plato, Aristophanes lý giải cảm giác thân thuộc này bằng cách cho rằng kẻ được yêu là một “nửa còn lại” từ lâu đã mất mà cơ th của chúng ta kết dính ngay từ đầu. Thoạt kỳ thủy, tất thảy loài người đều là động vật lưỡng tính với lưng và hông kép, bốn tay, bốn chân và hai khuôn mặt quay về hai hướng đối diện trên cùng cái đầu. Những động vật lưỡng tính này vô cùng mạnh mẽ và lòng kiêu hãnh của chúng ngạo mạn đến độ thần Zeus buộc phải tách chúng làm hai, nửa đực và nửa cái, và kể từ ngày đó, mọi đàn ông và phụ nữ đều nóng lòng, trong nỗi hoài nhớ mù mờ không phân định, kết nối lại với nửa kia mà anh ta hay cô ta đã bị cắt đi.
[1. Symposiom: tác phẩm triết học của Plato, viết vào khoảng năm 385-380 trước Công nguyên. Tác phẩm có bàn đến căn nguyên và bản chất của tình yêu, được xem là điểm xuất phát của khái niệm “tình yêu kiểu Plato” (platonic love).]
2. Giáng sinh năm ấy, Chloe và tôi không ở cùng, nhưng khi cả hai trở lại London vào dịp năm mới, chúng tôi bắt đầu dành trọn thời gian cho nhau. Chúng tôi đi theo nguyên mẫu chuyện tình thành thị hồi cuối thế kỷ 20, bị kẹp chặt vào giờ giấc bù bận nơi công sở và rộn ràng bởi những sự kiện ngoại vi vụn vặt như dạo bộ trong công viên, lang thang các hiệu sách, và những bữa ăn quán. Chúng tôi tìm được tiếng nói chung trong rất nhiều vấn đề khác nhau, chúng tôi cùng ghét hoặc cùng thích rất nhiều thứ, đến nỗi sau một thời gian ngắn, có vẻ hơi ti tiện nếu không thừa nhận rằng dẫu thiếu vắng những dấu hiệu phân tách rõ rệt, chúng tôi hẳn từng là hai nữa của cùng một thân xác.
3. Chính nhờ sự tương đẳng mà cuộc sống của tôi với Chloe thật hấp dẫn. Sau những người tình không thể nhất trí với tôi trong chuyện tình yêu, cuối cùng tôi đã tìm thấy ai đó kể các chuyện cười làm cho tôi hiểu mà không cần đến từ điển, có quan điểm gần gụi với tôi một cách thần kỳ, có những sở thích và sự ghét sóng đôi với tôi, người khiến tôi lặp lại không ngừng với chính mình, “Kỳ lạ thật. Mình cũng đang định nói/nghĩ/làm/thổ lộ điều ấy...”
4. Các lý thuyết gia tình yêu có khuynh hướng chính đáng khi nghi ngờ sự dung hợp, mối hoài nghi của họ bắt nguồn từ cảm giác rằng việc quy tội cho những mối tương đồng thì dễ dàng hơn là điều tra sự khác biệt. Chúng tôi đổ việc yêu nhau cho nhu cầu xác thịt thiếu thốn và bổ sung sự ngu dốt bằng niềm khát khao. Song, các lý thuyết gia này chỉ ra, thời gian sẽ cho chúng ta thấy làn da chia cất hai cơ thể của chúng ta không chỉ là giới hạn về vật lý, mà còn là thể hiện của một đường rẽ nước sâu thẳm hơn, mang tính tâm lý, mà chúng ta sẽ rất ngu dốt nếu cứ tìm cách thử và vượt qua.
5. Bởi vậy, với tình yêu trưởng thành, chúng ta không bao giờ nên sa ngã từ cái nhìn đầu tiên. Chúng ta nên kìm lòng cho tới khi nhìn thấu được lòng sâu và bản chất con nước. Chỉ sau khi đã có cuộc hội kiến thấu đáo về chuyện con cái, chính trị, nghệ thuật, khoa học, và món ăn nhẹ thích hợp ở trong bếp, cả hai mới nên đi đến quyết định là họ sẵn sàng để yêu nhau. Trong tình yêu trưởng thành, chỉ khi nào chúng ta thực sự biết rõ người kia thì tình yêu mới xứng đáng có cơ hội thăng hoa và phát nở. Và song le, trong hiện thực ngang ngược của tình yêu (tình yêu sinh ra chính xác trước khi chúng ta kịp biết) việc trau dồi hiểu biết có thể sẽ là chướng ngại cũng như niềm khích lệ, vì nó có thể đưa thế giới không tưởng vào mối xung đột đầy nguy hiểm với hiện thực.
6. Vào một thời khắc đâu đó giữa tháng Ba khi Chloe cho tôi xem đôi giày mới của cô, ấy chính là lúc tôi nhận ra rằng, bất kể những tương đồng đầy lôi kéo mà chúng tôi xác định với nhau, Chloe có lẽ không phải là người mà cú đánh tàn nhẫn của Zeus giáng xuống tôi. Có lẽ việc đi đến quyết định đó là một vấn đề mô phạm, nhưng giày vẫn là biểu tượng tối cao của thẩm mỹ, và theo đó, của tính tương thích, nếu xét rộng ra về mặt tâm lý học. Một vài khu vực và trang sức nào đó trên cơ thể cho chúng ta biết về một người
nhiều hơn các thứ khác: giày chứng tỏ nhiều điều hơn áo pull, ngón cái nhiều hơn khuỷu tay, quần lót nhiều hơn áo choàng, mắt cá nhiều hơn
7. Đôi giày của Chloe bị làm sao? Khách quan mà nói, chẳng sao cả, nhưng có ai yêu mà tâm trí khách quan đâu? Cô mua chúng vào buổi sáng thứ Bảy ở một cửa hàng trên King’s Road, chuẩn bị cho một bữa tiệc chúng tôi được mời vào tối hôm đó. Tôi hiểu ý định pha trộn giữa giày gót cao và giày gót thấp của người thiết kế, nền đế đang bằng phẳng bỗng uốn cao lên tới cái gót – vừa to bè như một giày đế bằng vừa cao như một cái dùi. Rồi có một vòng đai cao, hơi hướm rococo, trang trí với cây cung và những ngôi sao, được viền bằng một dải ruy băng thô kệch. Đôi giày là đỉnh cao của thời trang, trông chúng rất ổn, giàu trí tưởng tượng, và tôi thực sự ghê tởm chúng.
8. “Em biết là anh sẽ thích đôi giày,” Chloe vừa nói vừa gỡ mảnh giấy gói màu tím, “em sẽ đi chúng hằng ngày. Nhưng phải công nhận là chúng thật đẹp, có lẽ em nên bọc lại, để trong hộp và đừng bao giờ đi.”
“Ý tưởng hay đấy.”
“Em sẵn sàng mua cả cửa hiệu. Họ có nhiều món thật tuyệt. Anh phải xem đôi giày bốt ở đó cơ.”
Miệng tôi khô khốc. Tôi cảm thấy có nhói lạ lùng đằng sau cổ. Tôi không thể lý giải làm sao Chloe có thể bị hút hồn với thứ giày dép đầy màu thỏa hiệp như vậy. Trong đầu tôi, việc cô là ai, sự chắc chắn kiểu Aristophanes của tôi về cá tính của cô, chưa bao giờ bao hàm sự hào hứng quái đản ấy. Bị tổn thương và nhiễu động trước bước ngoặt khôn lường trong mối quan hệ này, tôi tự hỏi, “Làm sao một phụ nữ bước vào đời tôi (trong đôi giày đen bệt gợi cảm mà hẳn các nữ sinh và nữ tu ưa dùng), tuyên bố yêu và hiểu tôi lại có thể bị thứ giày ấy thu hút?” Tuy nhiên, ngoài mặt tôi chỉ hỏi (bằng cái giọng tôi tin là ngây thơ đáng nể), “Em có giữ hóa đơn không?”
9. Ngay lập tức có thể thấy nếu không biết gì về Chloe thì sẽ dễ yêu cô hơn. Trong một bài thơ văn xuôi, Baudelaire miêu tả một chàng nọ dành cả một ngày để đi bộ quanh Paris với một phụ nữ mà anh ta cảm thấy sẵn sàng yêu. Họ hợp ý nhau nhiều thứ đến nỗi vào buổi tối, anh ta tin là mình đã tìm thấy một người bạn đồng hành mà tâm hồn anh có thể đồng điêu.
Khát nước, họ đi đến một quán cà phê mới đẹp đẽ ở góc đại lộ, nơi anh chàng để ý một gia đình vừa đến, bần cùng, tầng lớp lao động, họ đến và nhìn chằm chằm qua cửa sổ kính của quán cà phê, vào các vị khách thanh lịch, những bức tường trắng chói mắt, và sự bài trí trang hoàng. Đôi mắt những nghèo ngỡ ngàng trước khung cảnh giàu có và vẻ đẹp đẽ ở bên trong, và biểu lộ của họ làm cho người kể chuyện dâng trào lòng thương cảm và nỗi xấu hổ trước địa vị đặc quyền của mình. Anh quay sang người mình yêu với hy vọng nhìn thấy nỗi bối rối và cảm xúc của anh được phản chiếu trong mắt cô. Nhưng người phụ nữ mà tâm hồn anh chuẩn bị hợp nhất có một lộ trình khác. Cô gắt lên rằng những kẻ thảm hại với đôi mắt thao láo khiến cô không thể chịu được, cô tự hỏi họ đang muốn cái quái gì và nhờ anh nói với người chủ đuổi họ đi ngay lập tức. Có phải mọi chuyện tình đều có những khoảnh khắc như vậy? Một cuộc tìm kiếm đôi mắt sẽ phản chiếu ý nghĩ của ai đó và kết thúc bằng một sự bất đồng (vừa bi vừa hài) – dẫu liên quan đến đấu tranh giai cấp hay là một đôi hài.
10. Có lẽ, dễ khiến ta yêu nhất là những người mà chúng ta không biết gì. Các chuyện tình không bao giờ thuần khiết như những gì chúng ta tưởng tượng trong những cuộc hành trình dài trên xe lửa, khi chúng ta trộm ngắm nhìn một người xinh đẹp nhìn chằm chằm ra cửa sổ - một câu chuyện tình hoàn hảo chỉ bị gián đoạn khi kẻ được yêu nhìn lại vào toa hành khách và bắt đầu một cuộc đối thoại ngớ ngẩn về miếng bánh mì kẹp quá đắt trên tàu với người ngồi bên hoặc ầm ĩ xịt mũi vào khăn mùi xoa.
11. Việc mỗi lúc một thân thuộc với người ta yêu có thể dẫn đến sự thoái chí sánh ngang với chuyện soạn một bản giao hưởng trong đầu rồi nghe một dàn giao hưởng chơi nó trong phòng hòa nhạc. Mặc dầu vẫn ấn tượng khi thấy rất nhiều ý tưởng của chúng ta được ghi nhận qua cuộc diễn, chúng ta vẫn không thể không chú ý đến các chi tiết vốn không giống như những gì chúng ta muốn. Vả chăng một tay trong ban vĩ cầm bị lệch tông chút xíu? Vả chăng tay sáo tây vào nhịp hơi trễ? Vả chăng bộ gõ chơi hơi lớn tiếng? Những người chúng ta yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên không tránh khỏi các gu mâu thuẫn nhau về giày dép hay văn chương, cũng giống như dàn giao hưởng thiếu đề mô không tránh khỏi những tay vĩ cầm lệch tông hay sáo tây vào trễ nhịp. Nhưng ngay khi huyễn tưởng được thực thi, những sinh thể thiên thần lả lơi trôi qua ý thức lại bộc lộ chúng như là các cá thể vật chất, mang gánh lịch sử tinh thần và thể xác của chính mình.
12. Đôi giày của Chloe chỉ là một trong số những nốt nhạc phô được phơi bày vào giai đoạn đầu của mối quan hệ. Sống với cô ngày này qua ngày khác giống như tôi phải thích nghi với một đất nước xa lạ, và do đó cảm thấy bị giày vò bởi tính bài ngoại thỉnh thoảng xảy đến mỗi khi tôi vướng mắc những thói quan và mong đợi cố hữu của mình.
13. Những khác biệt đáng lo không nảy sinh từ các điểm mấu chốt (quốc tịch, phái tính, tầng lớp, nghề ngỗng) mà ở những mấu nối nhỏ nhặt về gu và cách nhìn. Chloe cứ đòi để mì ống sôi thêm vài phút, thế có chết không cơ chứ? Còn tôi, sao mãi không chịu thay cặp kính mới? Sao cô phải tập thể dục mỗi sáng trên giường? Tại sao tôi luôn phải ngủ đủ mỗi ngày tám tiếng? Tại sao cô không có thời gian đi nghe opera? Tại sao tôi không nghe được nhạc Joni Mitchell? Tại sao cô ghét hải sản đến thế? Đố ai biết được lý do tôi tránh xa hoa lá cành và chuyện làm vườn? Hay việc cô tránh những chuyến đi chơi có dính dáng tới nước? Tại sao cô cứ thích giữ thái độ mở về Chúa (“tới lúc bị ung thư hẵng tính”). Còn tôi, sao lại khép kín về vấn đề ấy đến vậy?
14. Các nhà nhân loại học bảo chúng ta rằng xã hội có trước cá nhân, để nắm được cá nhân thì phải hiểu xã hội, dưới các hình thức quốc gia, bột ộc, bộ lạc, hay gia đình. Chloe không đặc biệt yêu quý gia đình mình, nhưng khi bố mẹ cô mời chúng tôi đến thăm nhà họ ở gần Marlborough vào Chủ nhật, với tinh thần nghiên cứu khoa học, tôi đã hối thúc cô nhận lời.
15. Mọi thứ về Mái Nhà Tranh Có Cây Sồi Nhàu Nhĩ đều là dấu hiệu cho thấy Chloe sinh ra ở một thế giới, hay một dải thiên hà, còn tôi sinh ra ở một thế giới, một dải thiên hà khác. Phòng khách được trang trí đồ gỗ nhái theo hiệu Chippendale, tấm thảm màu nâu đỏ ố bẩn, những kệ sách bám bụi với các pho sách của Trollope và những bức tranh phong cách Stubbs treo dọc tường, ba con chó nhỏ dãi chạy qua chạy lại giữa phòng khách và khu vườn, những cây lớn giăng đầy tơ nhện võng xuống mỗi góc vườn nhà. Mẹ Chloe vận chiếc áo chui đầu dày màu tím lủng lỗ chỗ, một chiếc váy lùng thùng hoa hòe hoa sói, và mái tóc hoa râm dài lòa xòa đằng sau không theo hình thù gì. Nhìn kiểu người như thế, người ta dễ nghĩ trên người bà vương mấy cọng rơm, cái tác phong xuề xòa dân dã càng gia tăng do bà cứ liên tục
quên tên tôi (và rất sáng tạo khi đặt cho tôi tên mới). Tôi nghĩ về sự khác biệt giữa mẹ Chloe và mẹ tôi, sự tương phản trong cách hai bà thể hiện ra bên ngoài. Cho dù Chloe có chạy bưng chạy biến ra khỏi tất thảy khung cảnh này để đến nơi đô hội, để đến với những giá trị và bạn bè của riêng cô, gia đình vẫn cho thấy một dấu hằn về gien, về lịch sử gắn liền với cô. Tôi để ý thấy một sự giao nhau giữa các thế hệ: mẹ Chloe giống hệt cô, từ cách gọt khoai tây, giã tỏi với bơ rồi rắc muối nghiền lên chúng, cho tới mối quan tâm nhiệt thành với hội họa, hay thú đọc ngấu nghiến báo ngày Chủ nhật. Cha cô là một người thích dạo chơi, và Chloe cũng thích đi bộ, thỉnh thoảng còn rủ tôi làm một chuyến đi chớp nhoáng cuối tuần đến công viên Hampstead Heath, khẳng định lợi ích của việc hít thở không khí trong lành có lẽ cũng y như cách của bố cô.
16. Mọi thứ thật mới mẻ và lạ lẫm. Ngôi nhà nơi cô lớn lên làm hiện ra toàn bộ một quá khứ mà tôi chưa từng biết, và ấy là thứ tôi phải nắm rõ để có thể hiểu cô. Bữa ăn chủ yếu là cuộc vấn đáp qua lại giữa Chloe và bố mẹ cô về những khía cạnh khác nhau của phong tục gia đình: Bên bảo hiểm đã thanh toán hóa đơn nằm viện của Granny chưa? Bể nước đã sửa chưa? Carolyn đã nghe thông tin gì từ hãng môi giới nhà đất chưa? Có thật là Lucy sắp sang Mỹ học? Có ai trong nhà đọc tiểu thuyết của dì Sarah chưa? Có thật là Henry sắp sửa cưới Jemima? (ất cả các nhân vật ấy đã can dự vào đời sống Chloe trước tôi từ lâu, và có lẽ với sự dai dẳng của mọi thứ vốn thuộc về gia đình, vẫn tồn tại ở đó khi tôi đi khỏi.)
17. Thật khó nghĩ khi thấy bố mẹ Chloe hình dung về cô khác hẳn so với cách hình dung của tôi. Tôi thì cho cô là người hay giúp đỡ và rộng lượng, còn ở nhà cô bị xem là cô bé hống hách và sách nhiễu. Khi còn nhỏ, cô thật giống một kẻ hách dịch nhỏ xíu, đến độ bố mẹ đặt cho cô biệt danh Nàng Pompadosso, theo tên nhân vật nữ chính trong một quyển sách trẻ con. Tôi thì cho Chloe là người khôn ngoan về tiền tài và sự nghiệp, cha cô lại nhận xét rằng con gái ông “không biết một tí gì về mọi điều ngoài thực tế,” còn mẹ cô bông đùa việc cô “bắt nạt tất cả bạn trai để đè đầu cưỡi cổ chúng nó”. Tôi buộc phải thêm vào hiểu biết của mình về Chloe toàn bộ cái chương vừa được khai mở sau chuyến thăm của mình, viễn tượng của tôi về cô va chạm với câu chuyện nguyên sơ của gia đình cô.
18. Buổi chiều, Chloe dẫn tôi đi tham quan nhà. Cô đưa tôi lên căn
phòng trên cùng, nơi hồi nhỏ cô rất sợ bước vào, vì cậu cô có lần kể về một hồn ma sống trong cây đàn dương cầm. Hai đứa nhìn vào phòng ngủ hồi bé của cô, lúc này đã được mẹ cô dùng làm phòng tạp vụ, và cô chỉ cho tôi cái cửa cô từng dùng để chui lên gác xép trốn cùng với con voi Guppy mỗi lần buồn bực. Chúng tôi dạo bước trong vườn, đi qua cái cây vẫn còn sứt sỉa ở chân dốc nơi chiếc xe nhà cô từng phải khốn khổ lui và khi có lần cô thách anh trai mình nhả thắng tay. Cô chỉ cho tôi những nhà hàng xóm, có bụi mâm xôi mà từng hái trụi vào những dịp hè và có đứa con trai của người chủ trước mà cô từng hôn trên đường từ trường về nhà. Cậu ấy mất rồi, Chloe nói với vẻ dửng dưng kỳ lạ, “trong một tai nạn với máy đập ngô”.
19. Cuối buổi chiều, tôi đi bộ trong vườn với cha cô, một người tự mãn mà ba mươi năm hôn nhân đã truyền cho một số cách nhìn riêng biệt về sự vật
“Đứa con gái mà tôi biết khác với đứa anh đang thích. Tôi không phải chuyên gia về chuyện tình yêu, nhưng tôi nói với anh điều này. Sau cùng, tôi nhận ra rằng chuyện chúng ta cưới ai không phải điều quan trọng. Lúc đầu anh thích họ, có thể sau này anh không thích nữa. Nhưng nếu anh ghét họ, thì luôn luôn còn cơ hội là sau cùng anh sẽ nghĩ họ thích hợp với mình.”
20. Trên chuyến tàu hỏa về London tối hôm đó, tôi thấy mệt lả, rã rời trước tất cả những khác biệt giữa thế giới Chloe trước kia và thế giới của cô trong tôi. Những câu chuyện và bối cảnh của quá khức cô lôi cuốn tôi, nhưng chúng vẫn tỏ ra đáng kinh hãi và lạ lùng, tất cả những năm tháng và thói quen trước khi tôi biết cô, nhưng đó cũng là một phần con người cô, giống như hình dáng gờ mũi hay màu mắt cô. Tôi cảm thấy mỗi nỗi hoài hương nguyên thủy về những điều xung quanh thân thuộc, nhận ra sự gãy vỡ mà mọi mối quan hệ đều hàm chứa, một con người hoàn toàn mới chúng ta phải tìm hiểu, phải sấn sổ đến, phải thích nghi mình vào. Đó có lẽ là khoảnh khắc sợ hãi trước ý nghĩ về mọi khác biệt mà tôi sẽ tìm thấy ở Chloe, về mọi lúc khi cô là một người thế này, còn tôi là kẻ khác hẳn, khi thế giới quan của chúng tôi không thể đặt kề nhau ngay ngắn. Nhìn ra cửa sổ về phía miền quên Wiltshire, tôi có cảm giác như một đứa trẻ bị lạc, mong mỏi một ai đó mà cho đến giờ mình đã có thể hiểu toàn bộ, những nét lập dị của một người mà ngôi nhà, bố mẹ và tiểu sử tôi đã trở nên thân thuộc.
Chương 8
Tình yêu hay thuyết tự do
1. Nếu được phép quay lại với đôi giày của Chloe trong chốc lát, tôi thấy cần kể rõ ràng việc khai trương chúng không kết thúc bằng việc ác phẩm chất của chúng, tuy tiêu cực nhưng chỉ là thầm kín trong đầu. Tôi xin thú nhận là chuyên ấy đã kết thúc bằng cuộc cãi vã lớn thứ nhì của bọn tôi, trong nước mắt, nhục mạ, gào ghét và chiếc giày bên chân phải đã phá vỡ kính cửa sổ phóng thẳng xuống vệ hè đường Denbigh. Gạt sang một bên mối căng thẳng mang mày sắc kịch tính mê lô, sự kiện này vẫn hết sức hấp dẫn ở mặt triết học bởi nó biểu trưng cho một sự lựa chọn cấp tiến trong bầu không gian cá nhân cũng như không gian chính trị: một lựa chọn giữa tình yêu và chủ thuyết tự do.
2. Lựa chọn này vẫn thường bị bỏ qua trong đẳng thức đầy lạc quan của hai khái niệm, vế trước được xem như vặt vãnh so với vế sau. Nhưng mặc dù các khái niệm đã kết nối với nhau, chúng vẫn luôn ở trong một cuộc hôn phối đáng ngờ, bởi lẽ làm gì có chuyện vừa nói về yêu vừa cứ thế mà sống, và nếu cứ thế mà sống, không phải lúc nào ta cũng được yêu. Chúng ta cũng có thể hỏi tại sao các đôi tình nhân chỉ được phép bộc lộ mối thù hằn một cách công khai. Thế nên, để bắc cầu giữa câu chuyện đôi giày và các quốc gia, chúng ta có thể hỏi tại sao những đất nước không có ngôn ngữ cộng đồng hay quốc tịch chung luôn để cho người dân của họ biệt lập trong yên ổn, còn những đất nước mở miệng nói rất nhiều về tình yêu, họ hàng và tình đồng chí lại thường kết cục bằng những vết thương đẫm máu hằn trên lưng dân tộc.
3. “Là sao, anh hỏi em có giữ hóa đơn không ư?” Chloe hét lên.
“Anh chỉ muốn xem nhỡ đôi giày của em có gì trục trặc không mà.”
“Có phải ti vi đâu mà anh lo.”
“Anh biết đâu, nhỡ cái gót giày kẹt giữa hai hòn đá vỉa khi em bước lên khỏi một chiếc thuyền gondala thì sao. Hay là tự dưng em không thích chúng nữa.”" align="justify">“Anh nói với em là anh ghét chúng không được sao?”
“Anh không ghét đôi giày. (Ngừng một chút.) Thôi được rồi, anh ghét.”
“Anh ghen tị thì có.”
“Anh luôn muốn mình trông như một con bồ nông mỏ nhiễu.” “Và một kẻ dở người.”
“Anh xin lỗi, nhưng anh không nghĩ là đôi giày hợp cho bữa tiệc tối nay.”
“Sao cái gì anh cũng bởi lông tìm vết thế nhỉ?”
“Vì anh chăm chút đến em. Ai đó phải nói với em sự thật.”
“Gemma nói là cô ấy thích chúng. Và Leslie đảm bảo thích mê tơi. Và em không thể tưởng tượng Abigail có vấn đề gì với chúng. Thế thì anh bị làm sao?”
“Các cô bạn của em không yêu em. Không yêu đúng cách. Họ đâu có yêu em theo cái cách phải nói ra sự thật dẫu làm mất lòng nhau.”
“Nhưng anh có khó chịu gì đâu.”
“Anh có.”
“Anh ráng mà chịu.”
4. Bạn đọc không cần để tâm đến toàn bộ diễn biến kịch tính, nhưng cũng cần phải nói rằng một chốc sau đó, cơn bão mới khởi phát đã đạt đến đỉnh điểm, Chloe tháo một chiếc trong đôi giày gớm ghiếc của mình, ban đầu định để tôi nhìn nó, nhưng đúng hơn là định dùng nó mưu hại tôi, tôi
chọn cách cúi xuống né cái vật phóng tới, nó phóng vỡ cửa sổ đằng sau tôi và rơi xuống đường, lọt để rác giữa đống tàn dư của món cà ri gà Ấn Độ của một nhà hàng xóm.
5. Cuộc tranh cãi của chúng tôi được bồi liên hồi bằng những nghịch lý về tình yêu và thuyết tự do. Chuyện đôi giày Chloe trông thế nào thì quan trọng gì kia chứ? Có rất nhiều khía cạnh đẹp đẽ khác ở cô, việc tôi cứ nhìn chăm chăm vào chi tiết ấy không phải là phá hỏng cuộc chơi ư? Sao tôi không lịch thiệp nói dối cô như cách tôi có thể làm với một người ban? Lý do duy nhất là tôi yêu cô, cô là mẫu người lý tưởng của tôi – không tính đôi giày – và bởi thế tôi phải chỉ ra thiếu sót này, một điều tôi hẳn không bao giờ làm với người bạn bởi họ đã quá lệch khỏi khuôn mẫu lý tưởng của tôi, một tình ban mà ở đó khái niệm về một sự lý tưởng hẳn chưa bao giờ có mặt trong suy nghĩ của tôi. Bởi vì mình yêu cô ấy, nên mình phải nói, đó là lời biện hộ duy nhất.
6. Vào những lúc êm ấm, chúng tôi tưởng tượng tình yêu lãng mạn phải xêm xêm với tình yêu Ki tô giáo, một cảm xúc không xét đoán, rộng lượng, chứng tỏ rằng anh sẽ yêu em vì toàn bộ con người em, một tình yêu không điều kiện, không biên giới, ngưỡng mộ đến chiếc giày cuối cùng, một vật hiện thân của sự chấp nhận. Nhưng những cuộc cãi vã bám lấy các tình nhân là lời nhắc nhở rằng tình yêu kiểu Ki tô giáo không xu hướng bất diệt sau bước đưa nhau lên giường. Thông điệp lãng mạn dường như thích hợp với số đông quảng đại hơn là với từng người, thích hợp với tình yêu của tất cả đàn ông dành cho tất cả đàn bà, thích hợp với tình yêu của hai người hàng xóm không nghe thấy tiếng của nhau.
7. Tuy rằng ở đây không phải vấn đề sai sót của thợ lắp kính, nhưng chủ thuyết phi tự do không bao giờ soi rọi thiên lệch về một phía. Cũng có hàng nghìn thứ về tôi khiến cho Chloe rối trí: Tại sao tôi chán đến nhà hát? Tại sao tôi cứ đòi mặc chiếc áo choàng trông như lỗi mốt cả thế kỷ? Tại sao tôi luôn đạp chăn khỏi giường trong lúc ngủ? Tại sao tôi nghĩ Saul Bellow là một nhà văn lớn đến ế? Tại sao tôi vẫn chưa học được cách đỗ xe mà không lấn già nửa bánh lên vỉa hè? Tại sao tôi cứ luôn gác chân lên gối? Đó là những thứ cấu thành nên quần đảo gulag của mỗi người, là những cố gắng thường ngày để kéo người ta yêu lại gần hơn địa phần lý tưởng của chúng ta.
8. Và đâu là lý do cho chuyện này? Không gì cả, ngoại trừ một câu nói cũ mèm mà cha mẹ và các chính khác sẽ viện đến trước khi mang con dao ra mổ xẻ: Ta quan tâm đến con, thế nên ta sẽ làm con khó chịu, ta đã ban cho con một viễn tượng về con người con nên là, bởi vậy ra sẽ làm con đau.
9. Chloe và tôi hẳn sẽ không bao giờ nặng tay với các ban của mình như là cách chúng tôi đối xử với nhau. Nhưng chúng tôi coi sự thân mật tương đương với một hình thức sở hữu và giấy phép. Chúng tôi có thể tử tế, nhưng không còn lịch thiệp. Khi một đêm hai đứa bắt đầu cãi nhau về những bộ phim của Eric Rohmer (cô ghét chúng, còn tôi lại thích), chúng tôi quên mất khả năng phim của Rohmer có thể vừa hay vừa dỏ tùy thuộc người xem. Cô hạ giá tôi thậm tệ khi gọi tôi là “tên đê tiện thối mùi trí thức hẹp hòi”, tôi đáp trả bằng cách coi cô là “một sản phẩm hạ cấp của chủ nghĩa tư bản hiện đại” (chứng tỏ cô cáo buộc tôi cũng chẳng ngoa).
10. Có lẽ không thích hợp khi gắn lĩnh vực chính trị với tình yêu, nhưng chẳng lẽ từ những trang lịch sử đẫm máu của Cách mạng Pháp, chủ nghĩa Phát xít hay Cộng sản, chúng ta không nhận thấy thứ gì đó có cùng cấu trúc cưỡng bức, cùng sự không dung thứ với những quan điểm bất đồng được thôi thúc bởi các lý tưởng nhiệt huyết? Chính trị tình ái bắt đầu lịch sử đáng hổ thẹn của nó bằng cuộc Cách mạng Pháp, đó là lúc người ta đề xuất (y như một cuộc hãm hiếp) rằng nhà nước sẽ không chỉ cai trị mà còn yêu các công dân của mình, các công dân cũng phải cư xử tương tự, nếu không thi họ sẽ phải đối mặt với máy chém. Mở đầu những cuộc cách mạng, xét về mặt tâm lý, giống y như sự khởi đầu của một mối quan hệ: nhấn mạnh vào sự thống nhất, cảm giác về quyền vạn năng, khao khát xóa bỏ những bí mật (vì sợ rằng nếu không sẽ dẫn đến chứng hoang tưởng của người tình và việc lập ra một cơ quan mật vụ).
11. Nhưng nếu tình yêu và chính trị tình ái đều có những khởi đầu màu hồng như nhau, các kết thúc của chúng cũng đẫm máu giống nhau. Chúng ta đã quen với tình yêu mang màu chính trị thường kết thúc bằng sự bạo ngược, nơi sự kết án chắc nịch của kẻ thống trị rằng hắn ta có mối quan tâm đích thực đến quốc gia của mình trong tâm khảm rốt cuộc sẽ cho hắn sự tự tin để giết người mà không hề day dứt (và “để tốt cho chúng thôi”), tất cả
những ai bất đồng với hắn. Tương tự, những người tình lãng mạn có xu hướng trút sự vỡ mộng của mình lên những kẻ chống đối và dị giáo.
12. Vài ngày sau sự cố chiếc giày, tôi đi đến sạp để mua một tờ báo và một thùng sữa. Ông Paul bảo tôi rằng ông vừa hết loại sữa ít béo, nhưng nếu tôi có thể đợi thì ông sẽ lấy một thùng khác từ trong kho. Nhìn ông bước ra để đi về phía sau cửa hàng, tôi để ý ông Paul mang một đôi vớ giày màu xám và đôi xăng đan da màu nâu. Chúng xấu kinh khủng, nhưng nói gì thì nói, hoàn toàn vô hại. Tại sao tôi không thể giữ được sự điềm tĩnh như vậy khi nhìn thấy đôi giày của cô? Tại sao tôi không thể cư xử điềm tĩnh với người phụ nữ tôi yêu giống như với chủ sạp báo bán sữa cho tôi hằng ngày?
13. Lòng ao ước thay thế mối quan hệ đao phủ-tử tù bằng người bán báo-khách hàng đã từ lâu thống trị tư tưởng chính trị. Tại sao những kẻ cai trị không thể cư xử lịch thiệp với thần dân của họ, chấp nhận những đôi xăng đan, sự đối kháng và bất đồng? Câu trả lời từ các nhà tư tưởng tự do là sự điềm tĩnh chỉ có thể nảy sinh khi các nhà cai trị từ bỏ việc lèm bèm về việc thiết trị tình yêu đối với các công dân của họ, và thay vào đó tập trung vào việc gìn giữ sự cai quản có ích, can thiệp một cách tối thiểu. Trong địa hạt chính trị tự do, nhà biện giải vĩ đại nhất là John Stuart Mill, năm 1859 xuất bản một tác phẩm kinh đi biện hộ cho chủ nghĩa tự do không có tình yêu, Bàn về tự do, một lời khẩn nài đanh thép rằng các chính phủ, dẫu thốt lên lời thơm tiếng ngọt thế nào, nên để cho các công dân được yên và không nên dạy họ phải sống cuộc đời mình ra sao, phải thờ phụng vị thần nào hay đọc cuốn sách gì. Mill lập luận rằng mặc dù các vương quốc và chính thể chuyên quyền đều cảm thấy họ gắn liền với việc giữ “một mối quan tâm sâu sắc đối với kỷ luật về tinh thần và thể xác của từng công dân của mình”, thì nhà nước hiện đại vẫn nên đứng lùi ra sau càng xa càng tốt và để người dân thiết trị chính mình. Giống như một người bị quấy rối trong một mối quan hệ, chỉ đơn giản là cầu xin được để yên, Mill lên tiếng:
Sự dự do duy nhất xứng đáng vinh danh là tự do mưu cầu điều gì tốt cho ta, theo cách của riêng ta, miễn là chúng ta đừng tìm cách tước đi điều tốt của người khác, hay ngăn trở người khác đạt được nó… Mục đích duy nhất để quyền lực có thể được thực thi chính đáng với bất kỳ thành viên nào của một xã hội văn minh, chống lại ý muốn của anh ta, là việc ngăn anh ta khỏi bị người khác làm hại. Lợi ích của anh ta, bất kể về thể chất hay tinh
thần, đều không phải là điều kiện đủ để bảo đảm.
Bàn về tự do, John Stuart Mill
14. Luận đề của Mill thông thái đến nỗi ta những muốn thấy nó được áp dụng cả trong các mối quan hệ chứ không chỉ cho các chính phủ. Tuy vậy, nếu suy xét kỹ, dường như nó mất đi nhiều vẻ hấp dẫn khi được áp dụng cho các mối quan hệ. Nó làm ta nghĩ đến những cuộc hôn nhân mà tình yêu đã từ lâu bay biến, nơi vợ chồng ngăn giường xẻ gối, nói với nhau dăm lời xã giao khi chạm mặt trong bếp trước lúc đi làm, nơi cả hai đều từ lâu từ bỏ hy vọng thấu hiểu được nhau, thay vào đó là tạo dựng một tình bạn nhạt nhẽo dựa trên sự hiểu nhau lệch lạc có kiểm soát, sự lịch thiệp khi họ chịu đựng cho xong món thịt băm nấu khoai tây hầm, hay nỗi cay đắng vào lúc ba giờ sáng trước sự rơi rụng cảm xúc phủ vây họ.
15. Có vẻ chúng ta đang bị đẩy trở lại lựa chọn giữa tình yêu và chủ thuyết tự do. Đôi xăng đan của ông chủ sạp báo không gây phiền nhiễu cho tôi bởi tôi không quan tâm tới ông ta, tôi chỉ muốn lấy tờ báo và sữa của mình rồi đi khỏi. Tôi không ước muốn tựa vào vai ông mà khóc hay thổ lộ tâm tình, vậy nên thứ ông ta mang ở chân không can dự đến tôi. Nhưng giả sử tôi ngã lòng yêu ông Paul, liệu tôi có thể tiếp tục đối mặt với đôi xăng đan của ông bằng sự bình thản, hay có thể không đi đến thời khắc mà (nhờ tình yêu) tôi sẽ phải hít một hơi thật sâu và đưa ra phương án thay thế?
16. Mối quan hệ của tôi với Chloe chưa bao giờ chuyển sang giai đoan Khủng bố có lẽ bởi vì cô ấy và tôi có thể dung hòa lựa chọn giữa tình yêu và chủ thuyết tự do bằng một yếu tố ít thấy trong những mối quan hệ và còn ít thấy hơn ở tay các chính trị gia tình ái (Lenin, Pol Pot, Robespierre), một yếu tố có thể cứu cả những nhà nước lẫn các cặp yêu nhau (nếu đủ hàm lượng) khỏi sự không dung thứ óc hài hước.
17. Cũng cần để ý là các nhà cách mạng giống những cặp tình nhân ở khuynh hướng nghiêm nghị đến đáng sợ. Chọc cười Stalin chắc cũng khó như trêu chọc nàng Wether. Cả hai đều căng thẳng kinh khiếp, dẫu theo cách khác nhau. Không thể cười dẫn đến không thể nhận thức được những đối lập cố hữu trong mỗi một xã hội hay mối quan hệ, sự đa bội và va chạm của các
khao khát, cái nhu cầu chấp nhận rằng người cặp với mình sẽ không bao giờ biết cách đỗ xe, hay lau chùi nhà tắm, hay chịu nghe Joni Mitchell, nhưng bù lại họ rất quan tâm đến chúng ta.
18. Chloe và tôi vượt qua được một số khác biệt là bởi chúng tôi sẵn sàng tạo chuyện cười ở những ngõ cụt mà cả hai tìm thấy trong tính cách của nhau. Tôi không thể ngừng ghét đôi giày của Chloe, còn cô vẫn tiếp tục thích chúng (tôi đã được huy động để xuống và nhặt chiếc bên trái và lau cho sạch), nhưng ít nhất chúng tôi vẫn tìm được cách biến sự cố ấy thành câu chuyện cười. Bằng cách hăm dọa “ném (đồ của nhau) qua cửa sổ” bất cứ khi nào cuộc tranh cãi bị hâm nóng, chúng tôi đảm bảo luôn tạo ra một trận cười và dung hòa nỗi căng thẳng. Tôi không thể cải thiện kỹ năng lái xe, nhưng nhờ đó tôi có cái tên “Alain Prost”[1], ấy là cách Chloe đặt tên cho tinh thần tử vì đạo của tôi, nhưng ít ra tôi cũng có thể đáp trả bằng cách gọi cô là “Jeanne d’Arc”[2]. Hài hước ở đây không có nghĩa là một sự đối đầu trực diên, chúng tôi có thể vượt qua sự cáu gắt, nháy mắt cạnh khóe nó, đưa ra lời phê bình mà không cần phải gọi tên sự cáu bẳn.
[1. Alain Prost (sinh năm 1955): tay đua Thể thức 1 người Pháp.]
[2. Jeanne d’Arc (1412-1431): nữ anh hùng trong cuộc chiến Trăm năm giữa Pháp-Anh, bị quân Anh thiêu sống.]
19. Một dấu hiệu cho thấy hai người đã thôi yêu nhau (hoặc ít nhất là thôi vun đắp, điều cấu thành chín mươi phần trăm tình yêu) có thể nằm ở chỗ họ không còn có thể biến những khác biệt thành chuyện cười. Sự hài hước nằm men theo bức tường ngăn sự đụng độ giữa các lý tưởng của chúng ta và hiện thực: đằng sau mỗi chuyện cười là một cảnh báo về sự khác biệt, hay thậm chí về nỗi thất vọng, nhưng đó là sự khác biệt đã được hóa giải, và nhờ đó có thể ném qua cửa sổ mà không cần đến cuộc hành quyết.
Chương 9
Nhan sắc
1. Nhan sắc khai sinh tình yêu hay tình yêu khai sinh nhan sắc? Có phải tôi yêu Chloe vì cô ấy đẹp hay cô ấy trở nên đẹp vì tôi yêu cô ấy? Bị vây quanh bởi vô số người, chúng ta có thể hỏi (nhìn chăm chăm vào người yêu mình trong lúc họ nói chuyện điện thoại hay nằm đối diện ta trong bồn tắm) tại sao khao khát của chúng ta lại chọn cách yên vị trên chính khuôn mặt ấy, chính cái miệng, cái mũi hay cái tai ấy, tại sao đường cong ở cổ hay lúm đồng tiền trên má lại đáp ứng quá chính xác tiêu chuchúng ta về sự hoàn mỹ? Mỗi người tình của chúng ta lại đưa ra một lời giải khác cho bài toán nhan sắc, và tuy vậy họ vẫn thành công trong việc giúp chúng ta tái định nghĩa độ hấp dẫn theo một cách vừa nguyên thủy vừa đặc thù như chính đường nét khuôn mặt họ.
2. Nếu như Marsilio Ficino[1](1433-1499) định nghĩa tình yêu là “niềm khao khát sắc đẹp”, thì Chloe đã đáp ứng khao khát này bằng cách nào? Đừng nghĩ đến chuyện nghe Chloe nói về mình. Không cách gì có thể làm cô thay đổi suy nghĩ rằng cô là sinh vật đáng ghê tởm. Cô khăng khăng cho rằng mũi mình quá nhỏ, miệng quá rộng, cằm không đủ hấp dẫn, tai thì quá tròn, mắt không đủ sắc lục, tóc không đủ lượn, ngực quá nhỏ, chân quá to, bàn tay quá rộng và cổ tay quá thể bé. Cô say mê ngắm những khuôn mặt trên Elle hay Vogue và tuyên bố rằng nếu soi vào ngoại hình cô, làm gì có chuyện trời xanh có mắt.
[1. Nhà triết học Ý, người dịch toàn bộ tác phẩm của Plato sang tiếng Latin.]
3. Chloe tin rằng nhan sắc có thể được đong đếm dựa vào một tiêu chuẩn khách quan, một tiêu chuẩn mà đơn giản là cô không thể đạt đến. Tuy không biết là như vậy, cô cương quyết tự trói buộc mình vào một thứ quan niệm kiểu Plato về nhan sắc, một tiêu chuẩn mỹ học cô chia sẻ với các tạp
chí thời trang hàng đầu thế giới, và cung cấp cho cô xúc cảm hằng ngày để tự chê bai mình trước gương. Theo Plato và biên tập viên của Vouge, tồn tại một thứ như là hình thức lý tưởng của sắc đẹp, có được nhờ mối quan hệ cân bằng giữa các bộ phận, so với hình thức lý tưởng ấy thì các cơ thể trần tục kém hơn, ở các mức độ khác nhau. Có một nền tảng về mặt toán học của nhan sắc, Plato đề xuất, thế nên khuôn mặt trên trang bìa một tạp chí luôn cuốn hút một cách nhất thiết chứ không phải theo lối ngẫu nhiên.
4. face="Times New Roman">Trên mặt có nhiều sai sót về mặt toán học đến đâu thì Chloe vẫn thấy các bộ phận khác của cô còn thiếu cân đối hơn. Trong khi tôi thích ngắm nhìn nước bọt xà phòng chảy qua bụng và chân cô trong khi tắm, mỗi lần nhìn mình trong gương cô lại tuyên bố rằng có thứ gì đó “bị lệch”, mặc dù tôi nhìn căng mắt vẫn không bao giờ phát hiện ra. Leon Battista Alberti[2](1409-1472) có thể còn biết nhiều hơn, bởi ông ta tin rằng bất cứ cơ thể đẹp nào cũng có những tỷ lệ cố định được ông gọi bằng một cái tên toán học, sau khi chia cơ thể của một cô gái Ý xinh đẹp thành sáu trăm bộ phận, rồi tính toán khoảng cách giữa các phần. Tóm gọn kết quả của mình trong quyển Về điêu khắc, Alberti định nghĩa sắc đẹp như là “sự Hài hòa của tất cả các Bộ phận, trong bất cứ Chủ thể nào, vừa vặn với nhau bằng tỷ lệ và sự liên kết, mà không gì có thể được thêm vào, bỏ đi hay thay đổi, bằng không chỉ làm xấu đi”. Tuy vậy, theo Chloe, hầu như chỗ nào trên cơ thể cô cũng có thể được thêm thắt, cắt xén hay thay đổi mà không làm xấu đi bất cứ gì mà tự nhiên còn chưa kịp tàn phá.
[2. Nhà kiến trúc, học giả Ý, người khởi xướng lý thuyết nghệ thuật Phục hưng.]
5. Rõ ràng Plato và Leon Battista Alberti đã bỏ qua thứ gì đó trong thuyết mỹ học của họ, bởi tôi nhận thấy Chloe đẹp quá đỗi. Tôi thích đôi mắt xanh, mái tóc sẫm màu, khuôn miệng tròn đầy của cô chăng? Tôi lừng khừng không muốn xác định vẻ hấp dẫn của cô. Những tranh luận về vẻ đẹp thể chất cũng khá phù phiếm như những cuộc tranh cãi giữa các nhà lịch sử nghệ thuật, cố lý giải cho tài năng của từng nghệ sĩ khác nhau. Một bức tranh của Van Gogh hay một tác phẩm của Gauguin? Người ta có thể tìm cách mô tả lại một công trình bằng ngôn ngữ (“sự thông thái đầy ngữ điệu của những bầu trời Biển Nam của Gauguin…” bên cạnh “chiều sâu kiểu Wagner trong màu xanh của Van Gogh…”) hoặc thế nào đó để làm sáng rõ kỹ thuật hay
các chất liệu (“một nỗi thấu cảm của phái biểu hiện trong những tác phẩm giai đoạn sau của Van Gogh…” hay “sự tuyến tính kiểu Cezanne trong tranh Gauguin…”). Nhưng liệu tất thảy thứ đó có giúp giải thích tại sao một bức tranh lại vô cùng lôi cuốn còn bức khác làm ta lạnh nhạt? Ngôn ngữ của đôi mắt luôn cứng đầu kháng cự lại sự diễn dịch sang thế giới ngôn từ.
Thứ tôi đang cố miêu tả không phải sắc đẹp, mà chỉ là phản ứng cá nhân của tôi trước diện mạo của Chloe. Tôi chỉ có thể nói khao khát của mình từ đâu xuất hiện, trong khi vẫn chấp nhận việc người khác sẽ chỉ ra sự hoàn mỹ tương tự trên những cơ thể khác. Bằng cách đó, tôi buộc phải khước từ quan niệm kiểu Plato về một tiêu chuẩn khác quan cho sắc đẹp, thay vào đó tôi chia sẻ quan điểm của Kant trong quyển Phê phán năng lực phán đoán, rằng những phán đoán mỹ học là những thứ “có nền tảng xác định đích thị là ý thức chủ quan”.
7. Cách tôi nhìn Chloe có thể được sánh như ảo giác Müleer-Lyer nổi tiếng, khi hai đường thẳng có chiều dài bằng nhau sẽ trông khác kích thước tùy thuộc vào bản chất hai mũi tên ở hai đầu. Cách tôi trìu mến nhìn Chloe cũng giống như hai mũi tên hướng ra ngoài, làm một đường thẳng bình thường có một độ dài trông lớn hơn so với thực tế.
Ảo giác Müleer-Lyer
8. Stendhal đưa ra một định nghĩa về nhan sắc, có thể tóm tắt chính xác hơn cảm giác của tôi dành cho Chloe. Ông viết, “Sắc đẹp là hứa hẹn của hạnh phúc”, ý nói đến cách mà khuôn mặt Chloe ngầm chỉ những phẩm chất tôi gán vào cuộc đời với sự mãn nguyện: vẻ hài hước trên mũi cô, những tàn nhang nói lên sự ngây thơ, và hàm răng cô cho thấy sự không đếm xỉa gì đến quy chuẩn. Tôi không coi khoảng cách giữa hai răng cửa của cô như là độ
lệch hỗn xược so với sự sắp đặt lý tưởng, mà là dấu chỉ cho một phẩm hạnh về mặt tâm lý.
Tôi hãnh diện khi thấy Chloe còn đẹp hơn những gì một người theo thuyết của Plato có thể cảm thấy. Những khuôn mặt hấp dẫn nhất thường dao động giữa lôi cuốn và khúc khuỷu. Sự hoàn mỹ luôn mang tính chuyên quyền, thậm chí tẻ nhạt, tự thể hiên trong toàn bộ dáng vẻ giáo điều của một công thức khoa học. Còn một kiểu nhan sắc khác, hấp dẫn hơn, chỉ có thể nhận ra từ một vài góc độ, không phải trong mọi loại ánh sáng và vào mọi lúc. Thứ nhan sắc ấy lẳng lơ đầy nguy hiểm với sự xấu xí, nó mạo hiểm, nó không nằm thoái mái bên cạnh những quy tắc về tỉ lệ theo kiểu toán học, nó nổi bật nhờ những chi tiết mang đồng thời sự xấu xí. Như Proust từng nói, các phụ nữ đẹp kiểu cổ điển nên được dành cho những người đàn ông không có trí tưởng tượng.
10. Trí tưởng tượng của tôi thích chơi đùa giữa khoảng cách các răng của Chloe. Sắc đẹp của cô bị đứt đoạn đủ để có thể hỗ trợ cho việc tái sắp đặt mang tính sáng tạo. Trong sự lập lờ ấy, khuôn mặt cô có thể so sánh với hình ảnh thỏ-vịt của Wittgenstein, cùng một hình ảnh mà vừa giống vịt vừa giống thỏ[3]. Phần nhiều tùy thuộc vào thái độ của người xem: nếu sự tưởng tượng tìm đến một con vịt, thể nào nó cũng là vịt, và tương tự nếu ta tìm kiếm một con thỏ. Điều qan trọng là thiên tính của người xem. Tất nhiên là tình yêu đã rộng rãi chỉ đường cho tôi. Biên tập viên của Vogue hẳn phải gặp khó khăn khi đăng các bức hình Chloe trên một số báo, nhưng đây chỉ là lời chứng thực cho sự độc nhất mà tôi đã tìm thấy ở bạn gái mình. Tôi đã làm sống động khuôn mặt cô cho tương hợp với tâm hồn cô.
[3. Bức hí họa “Thỏ và vịt” xuất hiện lần đầu trên tạp chí Đức Fliegende Blätter năm 1892, sau đó được Wittgenstein dùng trong quyển Các truy tầm về triết học (1953) để mô tả hai cách nhìn.]
Hình ảnh vừa vịt vừa thỏ của Wittgenstein
11. Với dạng sắc đẹp không giống như một bức tượng Hy Lạp, mối nguy hiểm nằm ở chỗ nó đẹp hay xấu tùy thuộc nhiều vào người xem. Một khi trí tưởng tượng quyết định tránh khỏi những kẽ răng, phải chăng lúc đó ta sẽ viện đến một bác sĩ chỉnh nha có tay nghề? Một kh chúng ta định vị được sắc đẹp trong mắt người thưởng ngoạn, điều gì sẽ xảy ra khi người thưởng ngoạn nhìn vào chỗ khác? Nhưng có lẽ tất cả những thứ ấy là một phần trong sự thu hút của Chloe. Tuyệt diệu thay, một lý thuyết khách quan về sắc đẹp khiến cho một nhân tố không thể vắng mặt, đó là người ngắm.
Chương 10
Thổ lộ tình yêu
1. Giữa tháng Năm, Chloe tổ chức sinh nhật lần thứ hai mươi tư của cô. Từ lâu cô đã ướm lời về chiếc áo pull bằng len casơmia đỏ bày ở cửa kính một cửa hàng tại Piccadilly, thế nên hôm trước ngày sinh nhật, tôi đã mua trên đường đi làm về, và đến nhà, bọc nó trong giấy gói màu xanh với nơ hồng. Nhưng trong lúc chuẩn bị thiệp, tôi chợt nhận ra rằng tôi chưa bao giờ nói với Chloe rằng tôi yêu cô ấy.
2. Lẽ dĩ nhiên, kiểu gì cũng phải nói lời tuyên bố, nhưng sự thật rằng tôi vẫn chưa nói ra quả là đáng kể. Áo pull có thể là dấu hiệu của tình yêu giữa một đàn ông và một phụ nữ, nhưng chúng tôi vẫn phải chuyển dịch cảm xúc của mình sang ngôn ngữ. Giống như thể cái cốt lõi của mối quan hệ này, được định hình xung quanh từ yêu, bằng cách nào đó không thể được nói ra, nó vừa quá hiển nhiên, vừa quá to lớn không thể thốt thành lời.
3. Cũng dễ hiểu khi Chloe chưa nói bất cứ gì. Cô hoài nghi ngôn từ. “Nói ra có thể làm cho vấn đề trở nên tồn tại thực sự,” cô từng nói, và cũng như các vấn đề có thể đi ra từ lời nói, những thứ tốt đẹp cũng có thể bị lời nói hủy hoại. Tôi nhớ Chloe từng kể, năm cô mười hai tuổi, bố mẹ gử cô đi một trại hè. Ở đó cô ngã lòng yêu một cậu trai bằng tuổi mình, và sau nhiều cơn đỏ mặt và do dự, cuối cùng họ dạo bộ quanh hồ. Bên cạnh một bờ hồ ngả bóng nắng, cậu ta mời cô ngồi xuống, và sau một chốc, nắm lấy bàn tay túa mồ hôi của cô. Đó là lần đầu tiên một người con trai nắm tay cô. Cô rất phấn chấn, cô thoải mái nói với cậu ta bàng tất cả sự nghiêm chỉnh của tuổi mười hai, rằng cậu là “điều tuyệt vời nhất từng xảy đến với cô”. Hôm sau, cô phát hiện ra lời nói của mình đã được lan truyền khắp khu trại. Một nhóm bạn gái hát vè nhại theo “điều tuyệt vời nhất từng xảy đến với em” khi Chloe đi vào phòng ăn, lời tuyên bố thành thật của cô được tua lại nhằm chế nhạo tính mỏng manh dễ vỡ của cô. Cô đã trải nghiệm sự phản bội dưới bàn tay
của ngôn từ, theo cách những lời nói thân mật bị hoán đổi thành thứ đồng tiền chung, và kể từ đó Chloe ẩn sau lớp mạng của sự thực dụng và mỉa mai.
4. Với tính đối kháng thường trực của cô trước những thứ mang sắc màu nhuộm hồng, Chloe hẳn sẽ nhún vai buông một câu nói đùa trước một lời tỏ tình, chẳng phải vì cô không muốn nghe, mà bởi bất cứ một thứ gì được nói ra rõ ràng cũng sẽ tiến gần đầy nguy hiểm tới trọn ven cliché và toàn bộ sự trần trụi. Cũng chẳng phải là Chloe không đa cảm, chỉ là cô quá thận trọng với cảm xúc của mình nên không nói về chúng trong thứ ngôn ngữ tình ái sáo mòn, thông thường. Mặc dầu những cảm xúc của cô có thể hướng trực tiếp đến tôi, theo một cách lạ lùng, chúng vẫn không được phơi bày công khai cho tôi biết.
5. Cây bút của tôi vẫn do dự trên tấp thiệp (hình con hươu cao cổ đang thổi nến trên chiếc bánh hình trái tim). Bất kể sự đối kháng của cô và mối lo ngại của tôi là gì, tôi vẫn cảm thấy dịp sinh nhật của cô lần này kêu gọi một sự xác nhận bằng ngôn ngữ cho mối khăng khít của hai đứa. Tôi tưởng tượng cô sẽ nghĩ thế nào về những lời tôi đề trên thiệp, có lẽ cô sẽ nghĩ về chúng trên đường đi làm hay trong khi tắm, hài lòng nhưng do dự ngay cả để nhấm nháp niềm thỏa mãn của mình.
6. Tuy vậy sự khó của một lời tỏ tình mở ra những mối quan tâm chuẩn triết học[1]về ngôn ngữ. Nếu tôi bảo Chloe rằng tôi bị đau dạ dày hay vườn nhà đầy hoa thủy tiên, tôi có thê rmong đợi cô hiểu. Một cách tự nhiên, hình ảnh của tôi về một khu vườn mọc đầy hoa thủy tiên có thể hơi khác với tưởng tượng của cô, nhưng cũng sẽ có một mối tương đồng hợp lý giữa hai hình ảnh đó. Từ ngữ sẽ vận hành như là những người đưa tin trung thành của ý nghĩa. Nhưng tấm thiệp tôi đang cố viết lúc này không gắn những bảo đảm như vậy. Từ ngữ là thứ nhập nhằng nhất trong ngôn ngữ, bởi các thứ chúng trỏ đến thậm thiếu một ý nghĩa vững chắc. Tất nhiên các lữ khách đã từ con tim quay trở lại và tìm cách trình bày những gì họ đã thấy, nhưng tình yêu rốt cuộc giống như một loài bướm hoa khan hiếm, có khi người ta vẫn nhìn thấy, nhưng chưa bao giờ đoan quyết được.
[1. Quasi-philosophical: có vẻ giống triết học, nhưng thực sự thì không phải.]
7. Ý nghĩ là môt kẻ lữ hành cô độc: việc hiểu nhầm một từ nào đấy, ngay cả các tay ngôn ngữ học mô phạm cũng chẳng buồn tranh cãi, nhưng những tình nhân sẽ chẻ sợi tóc làm tư, bởi họ da diết cần được hiểu đúng. Chloe và tôi có thể đều nói rằng mình đang yêu, nhưng tình yeu này có thể là những thứ rất đỗi khác biệt bên trong mỗi chúng tôi. Chúng tôi vẫn thường đọc cùng cuốn sách trên giường hằng tối, và sau đó nhận ra rằng những cuốn sách ấy đã chạm vào chúng tôi ở các điểm khác nhau: chúng là những cuốn sách khác nhau đối với từng người. Liệu cùng một sự bất đồng có thể diễn ra trên một đường tình đơn nhất? Tôi cảm thấy mình là hoa bồ công anh đang rải hàng trăm dây mầm vào không khí, và không biết có cái nào trong số chúng sẽ đến đích.
8. Toàn bộ ngôn ngữ tình yêu đã suy đồi bởi bị sử dụng đến mòn vẹt. Khi tôi nghe radio trên xe, tình yêu của tôi đớp ngay tắp lự những bản tình ca đang phát, chẳng hạn, niềm tha thiết của một nữ ca sĩ Mỹ đen, với ngữ điệu làm tôi xúc động mạnh khi cô phát âm từ “baby” và làm tôi nghĩ đến Chloe.
LIệu không đẹp sao khi
Ôm em trong tay anh
Và yêu em, baby? Khi
Ôm em trong tay anh
Và yeah anh sẽ nói, thật đấy, anh sẽ nói Anh yêu em được không baby?
9. Bao nhiêu phần suy nghĩ tôi dành cho Chloe đã bị tác động bởi những bài hát như thế này? Có lẽ nào tâm trạng khi yêu của tôi là kết quả của việc sống trong một kỷ nguyên văn hóa đặc trưng thế này? Có lẽ nào xã hội, chứ không phải bất cứ thôi thúc nguyên sơ nào, mới khích lệ tôi lấy làm kiêu hãnh về mối tình lãng mạn? Giả sử ở những thời đại và nền văn hóa trước đây, chẳng phải tôi sẽ được dạy cách bỏ qua cảm xúc của mình với Chloe, giống như lúc này tôi được dạy bỏ qua (đại loại) niềm thôi thúc mang vớ hay đáp lại sự lăng nhục bằng lời thách thức đấu súng tay đôi?
“Một số người sẽ không bao giờ ngã lòng yêu nếu họ chưa
bao giờ nghe về tình yêu”, La Rochefoucauld đã cách ngôn như thé, và chẳng phải lịch sử đã chứng minh là ông đúng hay sao? Tôi có nghĩa vụ đưa Chloe đến một nhà hàng người Hoa ở Camden, nhưng những tuyên bố tình yêu có lẽ là thích hợp hơn ở chỗ khác, vì người Hoa theo truyền thống vốn bẽn lẽn trước tình yêu. Theo nhà nhân loại học tâm ls L. K. Hsu, trong khi các nên văn hóa phương Tây “lấy nhân vị làm trọng tâm” và nhấn mạnh vào cảm xúc, thì ngược lại văn hóa Trung Quốc “lấy cảnh huống làm trọng tâm” và tập trung vào nhóm xã hội hơn là cặp đôi và tình yêu của họ (mặc dù người quản lý nhà hàng của Lão tử vẫn thích nhận sự đặt chỗ của tôi). Tình yêu không bao giờ là thứ được cho sẵn, nó được xây đắp và định nghĩa bởi các xã hội khác nhau. Ít nhất là trong một xã hội, người Manu ở Tân Guinea, thậm chí không có từ để chỉ tình yêu. Trong các nền văn hóa khác, tình yêu tồn tại nhưng được trao cho các hình thức để phân biệt. Thơ ca tình ái của người Ai Cập cổ đại không quan tâm đến những cảm xúc xấu hổ, tội lỗi hay yêu ghét bất phân. Người Hy Lạp chẳng nghĩ ngợ quái gì về đồng tính luyến ái, người Ki tô giáo cấm tiệt thể xác, các nhà thơ Troubadour đánh đồng tình yêu với niềm đam mê bất khả hồi đáp, những nhà Lãng mạn biến tình yêu thành một tôn giáo, và nhà nghiên cứu tuy có gia đình nhưng có lẽ không hạnh phúc lắm S. M. Greenfield, trong một bài báo trên Sociological Quarterly mà tôi đọc được ở một phòng khám nha khoa (tôi cũng không biết nó đặt ở đó để làm gì), viết rằng tình yêu ngày nay được chủ nghĩa tư bản hiện đại giữ cho tồn tại chỉ để
…khích lệ các cá nhân – khi không còn phương tiện nào khác khích lệ họ - để giữ các vị trí người chồng-cha và vợ-mẹ và tạo thành các gia đình hạt nhân không chỉ thiết yếu cho sự sản sinh và quan hệ xã hội mà còn duy trì những sắp đặt cố hữu cho sự phân phối và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, và nói chung, để gữi hệ thống xã hội trong một trật tự làm việc thích hợp và nhờ đó duy trì nó như là một điều đáng quan tâm.
10. Sự khó ở, buồn nôn, và khao khát mà thỉnh thoảng tôi cảm nhận được khi nghĩ về Chloe, ở một vài xã hội, có thể được xem như dấu hiệu của một trải nghiệm về tôn giáo. Khi Thánh Teresa thành Avila (1515-1582), người khai sinh ra dòng tu Cát Minh, được một thiên thần ghé thăm, bà miêu tả cuộc gặp gỡ theo cách mà phải cần một nhà tư tưởng đương đại đặc biệt cởi mở mới không đánh đồng nó với sự cực khoái:
Thiên thần rất đẹp, khuôn mặt chàng rực sáng, chàng xuất hiện như là một trong những hình thức cao nhất của thiên thần, dường như
khắp người đều rực cháy… Trong bàn tay chàng tôi thấy một cây thương bằng vàng và ở mũi nhọn bằng sắt tựa như rực lửa. Với cây thương, chàng dường như xé toang tim tôi nhiều lần đến nỗi nó đâm xuyên qua ruột gan tôi… Sự đau đớn quá rõ ràng đến nỗi tôi tôi thốt lên những lời rên rỉ; và sự ngọt ngào quá đỗi gây ra cho tôi bởi nỗi đau bao liệt ấy khiến người ta không bao giờ muốn nguôi, cũng như tâm hồn người đó sẽ không bao giờ bằng lòng với những gì thấp hơn Chúa trời.
11. Cuối cùng, tôi quyết định tấm thiệp với con hươu cao cổ có thể không phải là chỗ thích hợp nhất để nói rõ cảm xúc của mình, và tôi nên đợi cho đến bữa tối. Khoảng tám giờ, tôi lái xe đến căn hộ của Chloe để đón cô và trao quà. Cô mừng rỡ nhận ra là tôi đã lắng nghe những lời gợi ý của cô nơi ô kính cửa hàng ở Piccadilly, tiếc nuối duy nhất (được khéo léo truyền tải vài ngày sau đó) là việc chiếc áo pull có màu xanh lam chứ không phải màu đỏ mà cô thực sự ám chỉ (mặc dù cái hóa đơn cho chúng tôi cơ hội thứ nhì, sau khi tôi đã tính đến nhưng ghìm lại vì không muốn bị ném qua cửa sổ).
12. Nhà hàng không thể lãng mạn hơn. Xung quanh không gian của Lão tử, các cặp đôi giống tôi (mặc dù cảm giác khách quan về sự độc nhất không cho phép chúng tôi nghĩ như vậy) đều nắm tay nhau, uống rượu vang, và vụng về cầm đũa (một hạt điều từ bàn bên cạnh bỗng nhiên đậu lên đùi của Chloe).
“Chúa ơi, em thấy khá lên rồi, em đói muốn chết đây. Em bị trầm cảm suốt ngày hôm nay,” Chloe nói.
“Sao thế?”
“Vì em có cảm giác những ngày sinh nhật luôn gợi nhắc vê cái chết và sự vui chơi bị cưỡng bách. Nhưng quả thật em nghĩ lần này rốt cuộc không trở nên quá tồi tệ. Quả thật là rất ổn, nhờ một chút giúp đỡ từ bạn em.”
Cô ngước nhìn tôi và mỉm cười.
“Anh có biết giờ này năm ngoái em ở đâu không?” cô hỏi. “Không, ở đâu?”
“Được bà dì khủng khiếp đưa đi ăn tối. Thật kinh khủng, em cứ phải đi vào toa lét để khóc, em thất vọng vì đó là sinh nhật của em và người duy nhất mời em đi chơi là dì em với cái tật nói lắp đến phát cáu, cứ luôn miệng bảo em là dì không thể hiểu làm sao một cô gái tốt như em lại không có người đàn ông nào trong đời. Thế nên chắc cũng không đến nỗi tệ khi em cặp với anh…”
13. Thực sự cô rất thu hút (đấy là suy nghĩ của một người đang yêu, một chứng nhân không đáng tin nhất trong những chuyện thế này). Nhưng làm sao tôi có thể bảo cô như thế, theo một cách chứng tỏ tôi bị cô thu hút theo một cách riêng? Những từ như tình yêu hay tận hiến hay cuồng say đã lỗi thời bởi những câu chuyện yêu đương không bao giờ cạn, bởi các lớp nghĩa áp đặt lên chúng đã được người khác dùng. Vào lúc tôi mong muốn ngôn ngữ trở nên uyên nguyên nhất, mang tính cá nhân và hoàn toàn riêng tư, tôi đi đến chỗ chống đối bản chất phơi bày ra bàn dân thiên hạ của việc giao tiếp về mặt cảm xúc.
14. Nhà hàng này không giúp ích gì hơn, bởi sự sắp đặt của nó khiến tình yêu quá dễ nhận ra, bởi thế không trung thực. Trên loa đang phát một bản Nocturnes của Chopin và có một ngọn nến hình trái tim trên bàn. Chúng tôi nghe lỏm người đàn ông ở bàn kế bên (có lẽ theo thuyết Darwin) đùa cợt rằng đáng lẽ ngọn nến là hình con cu. Dường như không có cách nào truyền tải tình yêu bằng các ký tự Y-Ê-U mà không cùng lúc gom các từ liên tưởng tầm thường nhất vào cùng một rổ. Cái từ ấy quá phong phú trong lịch sử nước ngoài: mọi thứ từ các nhà thơ Troubadour cho đến phim Casablanca đã khắc văn bia vào những chữ cái ấy. Chẳng phải bổn phận của tôi là làm tác giả cho chính cảm xúc của mình ư? Liệu tôi có phải đưa ra lời tỏ tình độc nhất để phù hợp với kiểu cách Chloe? Tôi bối rối nhận ra hoàn cảnh quá ư bình thường lúc này: một đàn ông và một phụ nữ, tình nhân của nhau, tổ chức sinh nhật trong một nhà hàng Trung Hoa, vào một buổi tối trong thế giới Tây phương, đâu đó gần cuối thế kỷ hai mươi. Không, ý muốn của tôi không bao giờ có thể truyền tải qua những chữ cái Y-Ê-U. Nó sẽ phải tìm kiếm một sự chuyên chở thay thế.
15. Rồi tôi để ý một đĩa nhỏ đựng kẹo xốp dẻo nằm kế cùi chỏ Chloe và chợt nhận ra tôi không yêu Chloe đến độ kẹo xốp dẻo cô. Vì lẽ gì mà một
đĩa kẹo xốp dẻo bỗng kết hợp quá hoàn hảo với cảm xúc của tôi dành cho cô, tôi không bao giờ biết, nhưng cái từ ấy dường như nắm bắt được căn cốt trạng thái tình ái của tôi với độ chính xác mà từ yêu, đuội tắt bởi dùng quá liều, dầu muốn cũng không làm được. Thậm chí còn khó lý giải hơn, khi tôi nắm tay Chloe và bảo rằng tôi có điều rất quan trọng muốn nói, rằng tôi đã kẹo xốp dẻo cô, dường cô hiểu hết, và nói đó là điều ngọt ngào nhất cô từng nghe.
16. Kể từ đó, ít nhất là với Chloe và tôi, tình yêu không đơn giản là yêu, nó là một đối tượng đường mật, phập phù, có đường kính chỉ vài mi li mét đang tan chảy tuyệt diệu trong miệng.
Chương 11
Bạn
1. Mùa hè đến vào tuần đầu tiên tháng sáu, tạo nên một thành phố London kiểu Địa Trung Hải, kéo mọi người ra khỏi nhà và văn phòng để đi đến công viên và quảng trường. Sức nóng kết hợp với việc tôi có một đồng nghiệp mới, một kiến trúc sư người Mỹ, được thuê làm sáu tháng với chúng tôi trong dự án thiết kế một tổ hợp văn phòng gần Waterloo.
2. “Thế mà họ bảo tôi là ngày nào London cũng mưa, trông kìa!” Will nhắc khi chúng tôi ngồi ăn trưa trong một nhà hàng ở Covent Garden. “Thật tuyệt diệu, nhưng tôi mang toàn áo pulll thôi.”
“Lo gì, Will, ở đây họ cũng bán T-shirt mà.”
Tôi đã gặp William Knot năm năm trước, khi chúng tôi học với nhau một năm trong cùng học bổng ở Yale. Anh ta cao ngồng, da bánh mật, nụ cười can trường, và khuôn mặt nhám của một nhà thám hiểm, nhưng đôi bàn tay thì của một nghệ sĩ dương cầm. Sau khi học xong ở Berkeley, anh đã gây dựng một sự nghiệp thành công ở Bờ Tây, nói anh được coi là một trong những kiến trúc sư khá nhất của thế hệ mình. Architects’ Journal đã mô tả anh, với một chút quan tâm đến hiện thực về mặt sinh học, như là “đứa con ngoài giá thú của Miles van der Rohe[1]và Geoffrey Bawa[2]” và ngay cả tờ tạp chí thông thường dè dặt Architectural Review cũng đã ca ngợi cách anh sử dụng bê tông.
[1. Kiến trúc sư người Mỹ gốc Đức (1886-1969), khai sinh kiến trúc tối giản.]
[2. Kiến trúc sư người Sri Lanka (1919-2003), chuyên về phong cách nhiệt đới hiện đại.]
3. “Kể tôi nghe, cậu có đang qu cô nào không?” Will hỏi khi chúng tôi bắt đầu uống cà phê. “Cậu vẫn đang cặp với cái cô tên gì ấy nhỉ?”
“À không, chuyện đó qua lâu rồi. Tôi đang dính vào một chuyện nghiêm trọng đây.”
“Hay quá, kể tôi nghe đi.”
“Ừ, cậu phải qua nhà tôi ăn tối và gặp cô ấy.”
“Được đấy. Tiếp đi.”
“Tên cô ấy là Chloe, hăm bốn tuổi, làm thiết kế đồ họa. Cô ta thông minh, xinh đẹp, rất hài hước…”
“Tuyệt quá còn gì.”
“Còn cậu thế nào?”
“Cũng chả có gì, tôi đang hẹn hò với một cô từ UCLA, đang trong quá trình tìm hiểu, kiểu như cả hai cùng đang kéo một dây dù. Bọn tôi chưa sẵn sàng để nghĩ đến chuyện lâu dài… Nhưng kể thêm tôi nghe về Chloe đi, cậu thấy gì ở cô ấy?”
4. Tôi thấy gì ở cô ấy ư? Câu hỏi này quay trở lại với tôi tối hôm đó ở giữa tiệm Safeway, quan sát Chloe đứng ở quầy, tôi mê mẩn cách cô gói ghém hàng tạp hóa vào túi ni lông. Vẻ quyến rũ trong các cử chỉ nhỏ nhặt ấy khiến tôi sẵn sàng chấp nhận bất cứ gì làm minh chứng không thể chối cãi rằng cô ấy thật hoàn hảo. Tôi thấy gì ở cô ấy ư? Hầu như mọi thứ.
5. Trong thoáng chốc, tôi chợt hoang tưởng rằng mình có thể biến thành một thùng yogurt để được trải qua quá trình cô nhẹ nhàng và cẩn thận nhét vào túi xách, giữa một hộp cá mòi và chai dầu ô liu. Cũng may là không khí vô cảm không thích hợp của siêu thị (“Tuần lễ hạ giá gan gà, heo, bò”) đã cảnh báo tôi nên dừng lại trước khi trượt quá xa vào khoa nghiên cứu bệnh học theo kiểu
6. Trên đường ra xe, tôi khen Chloe khéo đi siêu thị mua đồ.
“Anh dớ dẩn vừa thôi,” cô đáp. “Anh mở túi giúp em với, em để chìa khóa xe trong đấy.”
7. Không khó để tìm thấy nét đẹp trong đôi mắt hay viền môi của một khuôn miệng xinh xắn. Cái khó là tìm ra điều đó trong chuyển động của một bàn tay phụ nữ ở quầy tính tiền siêu thị. Những cử chỉ của Chloe giống như phần nổi của một tảng băng, một dấu chỉ cho những gì nằm ẩn bên dưới. Lẽ nào một người đang yêu lại không thấy mnifh có nghĩa vụ đi tìm giá trị đích thực của chúng, dẫu rằng giá trị ấy dường như vô nghĩa với những ai không mấy tò mò, không mấy yêu đương?
8. Tuy nhiên tôi vẫn tư lự trên đường lái xe về nhà qua giờ cao điểm buổi tối. Tình yêu của tôi bắt đầu tự vấn. Là nghĩa lý gì nếu những thứ tôi coi là quyến rũ ở Chloe thì cô lại coi là tai nạn hay không thích hợp với bản ngã thực của cô? Có phải tôi đang rút ra những thứ chỉ đơn giản là không thuộc về cô ấy? Tôi nhìn bờ vai nghiêng và lọn tóc ở chỗ cô tựa đầu vào ghế. Cô quay sang tôi và mỉm cười, thế là bỗng dưng tôi nhìn thấy kẽ hở giữa hai răng cửa của cô. Người đi cùng tôi đang mang bao nhiêu phần của người tình đa cảm, đa mang của tôi?
9. Tình yêu bộc lộ sự điên cuồng bằng cách từ chối thừa nhận tính bình thường cố hữu của người mà ta yêu. Hẳn những người ngoài cuộc sẽ thấy chán nản với những kẻ đang yêu. Họ sẽ thấy gì ở những người được yêu ngoài việc chỉ là một con người khác? Tôi vẫn thường tìm cách chia sẻ niềm hào hứng của mình về Chloe với các bạn tôi, những người trong quá khứ tôi đã tìm thấy nhiều điểm chung về phim ảnh, sở và chính trị, nhưng lúc này đây họ nhìn tôi với nỗi hoang mang muôn thuở của kẻ vô thần đối diện với sự sốt sắng mang tính Cứu thế. Sau chừng mười lần kể với bạn bè những câu chuyện về Chloe ở cửa hàng giặt khô, hay chuyện Chloe và tôi đi xem phim, hay Chloe và tôi đi mua thức ăn nhanh, những câu chuyện không cốt truyện và thiếu phần hành động, chỉ có nhân vật trung tâm đứng giữa trong một chuyện tào lao gần như không có chuyển động, tôi buộc phải nhận ra tình yêu là một cuộc mưu cầu cô độc.
10. Dĩ nhiên, cũng chẳng có gì đáng yêu trong cách Chloe gói đồ ở
tiệm tạp hóa, tình yêu đơn thuần là cái gì đó tôi đã quyết định gán cho nhất cử nhất động của cô, các cử chỉ hẳn được phiên dịch rất khác bởi những người cùng đứng chờ với chúng tôi ở Safeway. Một người không tự nhiên là tốt đẹp hay dở hơi, tức là việc yêu hay ghét họ về cơ bản cần có một yếu tố mang tính chủ thể, và có lẽ cả chất ảo tưởng nữa. Tôi nhớ câu hỏi của Will đã tạo ra sự phân biệt giữa các phẩm chất thuộc về một người và những thứ mà người yêu gán cho họ. Cậu ấy đã thận trọng hỏi tôi, không phải Chloe là ai, mà chính xác hơn, tôi đã thấy gì ở cô ấy.
11. Ngay sau khi anh trai cô mất, Chloe (khi ấy vừa mới qua sinh nhật lần thứ tám) trải qua một giai đoạn mang tính triết học sâu sắc. “Em bắt đầu chất vấn mọi thứ,” cô nói với tôi, “em phải suy nghĩ cái chết là gì, chỉ riêng điều đó đủ biến người ta thành triết gia.” Một trong những ám ảnh lớn của cô, khiến những người trong gia đình cô đến bây giờ vẫn còn ám chỉ, liên quan đến các tư tưởng mà có lẽ các độc giả của Descartes hay Berkeley đã quen thuộc. Chloe sẽ lấy tay bịt mắt vào bảo gia đình cô rằng anh trai cô vẫn còn sống bởi vì cô có thể thấy anh trai trong tâm trí cũng như cách cô thấy họ. Tại sao họ bảo cô rằng anh ấy chết nếu như cô có thể thấy anh trong tâm trí? Thế là ở một thách thức hiện thực xa hơn, và do cách cô cảm nhận về họ ( với nụ cười xòa của một đứa trẻ sáu tuổi đối diện với quyền năng của những thôi thúc thù địch trong mình) Chloe sẽ bảo bố mẹ rằng cô sẽ giết chết họ bằng cách nhắm măt lại và không bao giờ nghĩ về họ nữa, một kế hoạch rõ ràng khiến bố mẹ cô phản ứng lồng lộn theo một cách không triết học tí nào.
12. Tuy nhiên thuyết duy ngã cũng có những giới hạn. Liệu cách nhìn của tôi về Chloe có ở đâu đó gần hiện thực, hay là tôi đã hoàn toàn mất năng lực đánh giá? Chắc chắn là cô có vẻ đáng yêu với tôi, nhưng liệu cô có thực sự đáng yêu như tôi nghĩ? Đó là vấn đề cũ mèm về màu sắc theo kiểu Descartes: một người có vẻ thấy chiếc xe buýt màu đỏ, nhưng có phải nó thực sự và về bản chất có màu đỏ? Khi Will gặp Chloe vài tuần sau đó, anh chắc chẵn có những hoài nghi của mình, tất nhiên không để lộ ra, nhưng rõ ràng trong cách anh hơi quan tâm đến cô, lại làm cô chán ngán với bài nói tràng giang đại hải về việc anh từng làm mái nhà đỡ bao lơn cho một biệt thự ở La Jolla, và trong cách hôm sau đó anh kể với tôi ở chỗ làm rằng, với một người California như anh, phụ nữ Anh tất nhiên “rất đặc biệt”.