🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lời thú tội của một sát thủ kinh tế Ebooks Nhóm Zalo Lời thú tội của một sát thủ kinh tế -Confessions of an Economic Hit Man John Perkins Tác giả: John Perkins Biên dịch: Lê Đồng Tâm Thể loại: Kinh tế NXB: NXB Văn hóa-Thông tin Năm xuất bản: 2007 Số trang: 342 Kích thước: 14x26 Giá bìa: 75.000đ Đánh máy: Nguyễn Ánh Hồng; Nguyễn Huyền Trang Biên tập: Nguyễn Ánh Hồng Chuyển sang e-book: Nguyễn Ánh Hồng Ngày hoàn thành: 6/10/2008 MỤC LỤC Lời tựa. 3 Phần mở đầu. 7 PHẦN I: 1963-1971. 11 1. Sát thủ ra đời 11 2. “Không đường lui”. 17 3. Những bài học cho một EHM... 22 4. Giải thoát một đất nước. 24 5. Bán linh hồn cho quỷ. 27 PHẦN II: 1971-1975. 30 6. Vai trò điều tra của tôi 30 7. Nền văn minh trước vành móng ngựa. 33 8. Jesus, một cách nhìn khác. 36 9. Cơ hội ngàn năm có một 38 10. Vị tổng thống, người anh hùng của Panama. 42 11. Những tên cướp biển ở vùng kênh đào. 45 12. Những người lính và gái điếm.. 47 13. Nói chuyện với tướng toàn quyền. 50 14. Một chặng đường mới đầy nguy hiểm của lịch sử kinh tế. 53 15. Vụ rửa tiền của Ảrập Xêút 56 16. Dẫn khách và đổ tiền cho Osama bin Laden. 64 PHẦN III: 1975-1981. 67 17. Các cuộc đàm phán về kênh đào Panama và Graham Greene. 67 18. Vua của những vị vua. 72 19. Lời xưng tội của một người chịu nhục hình. 75 20. Sự sụp đổ của một vị vua. 78 21. Côlômbia- hòn đá tảng của Châu Mỹ Latinh. 80 22. Nền cộng hòa Mỹ và đế chế toàn cầu. 82 23. Bản lý lịch dối trá. 87 24. Tổng thống Êcuađo đấu tranh với các công ty dầu lửa. 94 25. Tôi ra đi 97 PHẦN IV: 1981- HIỆN TẠI. 100 26. Cái chết của Tổng thống Êcuađo. 100 27. Panama: Lại một vị Tổng thống nữa bị ám sát 103 28. Công ty của tôi, Enron, và George W. Bush. 106 29. Tôi nhận hối lộ. 109 30. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ xâm lược Panama. 112 31. Một thất bại của EHM tại Iraq. 118 32. Sự kiện 11/9 và những ảnh hưởng xấu tới riêng cá nhân tôi 122 33. Vênêzuêla được Saddam cứu giúp. 127 34. Thăm lại Êcuađo. 131 35. Phá vỡ lớp vỏ bọc. 136 Lời kết 143 Tiểu sử John Perkins. 146 Ghi chú. 148 Về tác giả. 155 Chia sẽ ebook : http://downloadsachmienphi.com/ Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree Cộng đồng Google :http://bit.ly/downloadsach LỜI TỰA Những sát thủ kinh tế (EHMs) là những chuyên gia được trả lương hậu hĩnh để đi lừa các nước trên khắp thế giới lấy hàng nghìn tỷ đôla. Họ đổ tiền từ Ngân hàng Thế giới, Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) và các tổ chức “viện trợ” nước ngoài khác vào két sắt của các tập đoàn khổng lồ và vào túi của một số ít các gia đình giàu có – những người đang nắm quyền kiểm soát các nguồn tài nguyên thiên nhiên của hành tinh này. Công cụ của họ là các báo cáo tài chính gian lận, những vụ bầu cử gian trá, các khoản hối lộ, tống tiền, tình dục và giết người. Họ diễn một trò cũ của chủ nghĩa đế quốc, song đã biến đổi theo những chiều hướng mới đáng ghê sợ hơn trong thời đại toàn cầu hóa. Tôi biết điều này; tôi đã từng là một EHM. Tôi viết những dòng đó vào năm 1982 để mở đầu cho cuốn sách có tiêu đề là Lương tâm của một sát thủ kinh tế. Cuốn sách này dành tặng cho hai vị tổng thống của hai nước đã từng là khách hàng của tôi, những người mà tôi đã kính trọng và luôn coi như ruột thịt – Jaime Roldós (Tổng thống Êcuađo) và Omar Torijos (Tổng thống Panama). Cả hai đã mất trong những vụ tai nạn khủng khiếp. Cái chết của họ không phải là ngẫu nhiên. Họ bị ám sát vì họ đã đứng lên chống lại phe phái các công ty, chính phủ và các trùm ngân hàng, những người có chung mục tiêu là thống trị toàn cầu. Những sát thủ kinh tế chúng tôi đã không thể mua chuộc được Roldós và Torrijos, và vì thế một loại sát thủ khác, những tên giết người thực sự của CIA, những kẻ luôn đi sau chúng tôi, đã vào cuộc. Người ta đã thuyết phục tôi không viết cuốn sách đó nữa. Trong 20 năm tiếp sau đó, tôi đã bốn lần bắt tay vào viết tiếp. Lần nào cũng là do tôi bị chứng kiến những sự kiện đang xảy ra trên thế giới: đó là cuộc xâm lược Panama của Mỹ năm 1989, chiến tranh vùng vịnh lần thứ nhất, sự kiện ở Somalia, sự xuất hiện của Osama bin Laden. Nhưng rồi những lời đe dọa hay những khoản đút lót lại níu chân tôi. Năm 2003, Chủ tịch một nhà xuất bản lớn thuộc một tập đoàn quốc tế hùng mạnh đã đọc bản thảo của cuốn sách mà giờ đây có tên là Lời thú tội của một kẻ sát thủ kinh tế. Ông ta đã mô tả nó như “Một câu chuyện mê ly và cần phải được kể lại”. Nhưng rồi ông ta cười buồn bã, gật đầu và nói với tôi rằng, vì các nhà quản lý tại những cơ quan đầu sỏ thế giới có thể sẽ phản đối nên ông ta không dám mạo hiểm xuất bản nó. Ông ta gợi ý tôi viết nó lại dưới dạng một tiểu thuyết. “Chúng tôi có thể quảng bá ông như một tiểu thuyết gia kiểu John Le Carré hoặc GrahamGreene.” Nhưng đây không phải là một cuốn tiểu thuyết. Nó là một câu chuyện thực về cuộc đời tôi. Một nhà xuất bản khác dũng cảm hơn, chẳng thuộc một tập đoàn quốc tế nào, đã đồng ý giúp tôi kể lại nó. Câu chuyện này phải được kể ra. Chúng ta đang sống trong thời đại của những cuộc khủng hoảng trầm trọng - và cả của những cơ hội vô cùng lớn lao. Câu chuyện về sát thủ kinh tế này kể lại công việc chúng tôi đã vươn tới vị trí hiện tại như thế nào và tại sao giờ đây chúng tôi phải đối mặt với những cuộc khủng hoảng tưởng chừng không thể vượt qua. Cần phải kể ra câu chuyện này bởi vì chỉ khi chúng ta hiểu ra những sai lầm trong quá khứ, chúng ta mới có thể tận dụng những được những cơ hội trong tương lai; bởi sự kiện 11/9 đã xảy ra, và chiến tranh Iraq lần thứ 2 cũng đã xảy ra; bởi vì ngoài 3000 người đã chết vào ngày 11/9/2001, mỗi ngày còn có thêm 24000 người chết đói, vì họ không thể kiếm nổi thức ăn(1). Quan trọng nhất là, câu chuyện này cần phải được kể ra vì đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một quốc gia có đủ khả năng, tiền bạc và quyền lực để thay đổi tất cả những điều này. Đó là quốc gia đã sinh ra tôi và tôi đã từng phụng sự với vai trò là một EHM : Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Vậy cuối cùng cái gì đã khiến tôi lờ đi mọi mối đe dọa và những khoản hối lộ? Câu trả lời ngắn gọn là con gái duy nhất của tôi, Jessica, đã tốt nghiệp đại học và đang bước vào thế giới bằng chính đôi chân của nó. Gần đây khi tôi nói với nó rằng tôi đang cân nhắc có nên xuất bản cuốn sách này không và nói cho nó về nỗi sợ của tôi, nó đã nói “Đừng sợ, cha à. Nếu như họ bắt cha, con sẽ tiếp tục những gì cha để lại. Chúng ta cần phải làm điều này cho những đứa cháu mà con hy vọng sẽ sinh cho cha sau này!”. Đó là một câu trả lời ngắn gọn. Câu trả lời dài hơn liên quan đến sự cống hiến của tôi cho đất nước tôi lớn lên, liên quan đến tình yêu của tôi với những lý tưởng mà ông cha tôi, những người khai quốc đã tuyên bố từ ngày thành lập nước, liên quan đến lời cam kết chắc chắn của tôi với một nước Mỹ mà hiện đang hứa hẹn những điều về “cuộc sống, quyền tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc” cho tất cả mọi người, ở mọi nơi và liên quan đến cả quyết tâm sẽ không chịu ngồi yên nữa sau khi xảy ra sự kiện 11/9, khi mà các EHMs đang biến nền Cộng hòa đó thành một đế chế toàn cầu. Đó là những nét phác họa về nội dung của câu trả lời dài hơn; chi tiết cụ thể sẽ được trình bày ở những chương tiếp theo. Đây là một câu chuyện thực. Tôi đã trải qua từng giây phút của câu chuyện này. Cảnh vật, con người, những cuộc đối thoại và những cảm giác mà tôi miêu tả đều là một phần trong cuộc sống của tôi. Mặc dù đó là câu chuyện về cuộc đời riêng của tôi, nhưng được đặt dưới bối cảnh của các sự kiện thế giới lớn lao đã làm nên lịch sử của chúng ta, đã đưa chúng ta đến vị trí hiện tại và xây dựng nên nền tảng cho tương lại của con cháu chúng ta. Tôi đã hết sức cố gắng truyền đạt lại những gì tôi đã trải qua, những con người, những cuộc hội thoại đó một cách chính xác. Mỗi khi bàn về một sự kiện lịch sử hoặc tái tạo lại các cuộc đối thoại với người khác, tôi đều dùng đến nhiều công cụ như: những tài liệu đã xuất bản; những hồ sơ và ghi chép cá nhân; các sưu tập - của tôi và của những người đã từng tham gia; 5 bản thảo tôi đã bắt đầu trước đó; những tài liệu lịch sẻ của các tác giả khác, trong đó đáng chú ý nhất là những tài liệu xuất bản gần đây, có tiết lộ các thông tin mà trước đó được coi là mật hoặc không tồn tại. Các tài liệu tham khảo được liệt kê ở phần cuối để giúp những độc giả quan tâm có thể tìm hiểu sâu hơn về những đề tài này. Nhà xuất bản hỏi tôi liệu chúng tôi có thực sự coi mình là những sát thủ kinh tế không. Và tôi cam đoan với họ rằng chúng tôi thực sự nghĩ như vậy, mặc dù thường chỉ qua những từ viết tắt. Thực tế, vào cái ngày của năm 1971 khi tôi bắt đầu làm việc với “cô giáo” tôi, Claudine, cô đã cho tôi biết “Nhiệm vụ của tôi là huấn luyện anh trở thành một sát thủ kinh tế. Không ai được biết về công việc thật sự của anh – thậm chí cả vợ anh”. Rồi cô ấy nghiêm giọng: “Một khi anh đã dấn thân vào con đường này, anh sẽ không còn đường lui.” Từ đó trở đi, ít khi cô ta dùng tên đầy đủ; chúng tôi chỉ đơn giản là những EHMs. Vai trò của Claudine là một ví dụ hấp dẫn về những mánh khóe thao túng đã làm nên nghề nghiệp của tôi. Đẹp và thông minh, cô thực sự có ảnh hưởng sâu sắc; cô ấy biết các điểm yếu của tôi và tận dụng chúng một cách tôi đa. Nghề nghiệp của cô và cách thức cô thực hiện nó là một thí dụ về sự khôn ngoan của những con người đằng sau hệ thống này. Claudine chưa nói thẳng hết về những gì mà tôi phải làm. Cô ấy nói, công việc của tôi: “khích lệ các nhà lãnh đạo trên thế giới trở thành một phần của cái mạng lưới khổng lồ được dựng nên để củng cố các lợi ích thương mại của Mỹ. Rút cục, những nhà lãnh đạo này sẽ rơi vào gánh nặng của nợ nần và điều này sẽ đảm bảo cho lòng trung thành của họ với Mỹ. Chúng tôi có thể nhờ đến họ bất cứ khi nào chúng tôi cần_để đạt được những nhu cầu về quân sự, chính trị hay kinh tế. Đổi lại, họ củng cố địa vị chính trị của mình bằng việc xây dựng những khu công nghiệp, các nhà máy điện và sân bay cho nhân dân của họ. Những ông chủ của các công ty kỹ thuật_xây dựng sẽ trở nên giàu có một cách khó tin”. Ngày nay chúng ta có thể thấy những kết quả mà cái hệ thống này sản sinh ra bắt đầu quay cuồng. Các vị lãnh đạo ở những công ty được kính trọng nhất đang thuê nhân công với mức lương gần như cho nô lệ để làm quần quật trong những điều kiện làm việc phi nhân đạo tại những xí nghiệp chuyên bóc lột công nhân hết sức tàn tệ ở Châu Á. Các công ty dầu lửa cố tình đổ các chất độc hại xuống các dòng sông trong vùng rừng rậm nhiệt đới, giết chết con người, động vật và thực vật một cách có chủ ý và hủy diệt các nền văn hóa cổ xưa. Ngành công nghiệp dược từ chối cung cấp thuốc men để cứu sống hàng triệu người Châu Phi nhiễm HIV. 12000000 gia đình ở ngay chính nước Mỹ cũng đang phải lo kiếm ăn hàng ngày(2). Ngành năng lượng thì sản sinh ra Eron. Ngành kế toán lại sản sinh ra Adersen. Nhớ năm 1960, thu nhập của 1/5 dân số các nước giàu nhất thế giới chỉ gấp 30 lần thu nhập của 1/5 các nước nghèo nhất thế giới, thì đến năm 1995 khoảng cách này đã tăng lên 74 lần(3). Nước Mỹ đã tiêu tốn 87 tỷ USD cho cuộc chiến ở Iraq, trong khi đó Liên Hợp Quốc ước tính chỉ cần chưa đến một nửa số tiền đó là chúng ta có thể mang lại nước sạch, khẩu phần ăn đầy đủ, dịch vụ y tế và giáo dục cơ bản cho tất cả mọi người trên hành tinh này(4). Và chúng tôi tự hỏi, tại sao những kẻ khủng bố lại tấn công chúng tôi? Một số người đổ lỗi cho việc chúng tôi mắc phải những vấn đề như hiện nay là do một âmmưu có tổ chức. Tôi ước gì nó chỉ đơn giản như vậy. Các thành viên của một âm mưu có thể bị phanh phui và đưa ra xét xử. Song, những gì thực sự đang nuôi dưỡng hệ thống này còn nguy hiểmhơn cả âm mưu. Nó không do một nhóm người nhỏ lẻ nào điều khiển mà nó chịu sự chi phối của một khái niệm đã được coi là chân lý: đó là ý tưởng cho rằng mọi sự tăng trưởng kinh tế đều có lợi cho mọi người và rằng càng tăng trưởng thì lợi ích càng lớn. Đức tin cũng dẫn tới một hệ quả cho rằng, những người có khả năng tạo ra tăng trưởng phải được khen ngợi và trả công, còn những kẻ khốn cùng sinh ra là để bị bóc lột. Tất nhiên khái niệm này là hoàn toàn sai lầm. Chúng ta biết rằng ở rất nhiều nước, tăng trưởng kinh tế chỉ đem lại lợi ích cho một bộ phận nhỏ người dân và thực ra đẩy đa số những người còn lại đến bờ tuyệt vọng. Ảnh hưởng này còn sâu sắc hơn bởi một niềm tin tất yếu rằng những người lãnh đạo dẫn dắt toàn bộ hệ thống phải có một vị trí đặc biệt. Chính niềm tin này là gốc rễ của nhiều vấn đề mà chúng ta đang phải đối mặt và có lẽ cũng là lý do tại sao lại có đầy rẫy các lý thuyết về âm mưu. Khi con người được thưởng vì lòng tham thì sự tham lam sẽ trở thành một động lực tồi tệ. Khi chúng ta coi việc tiêu dùng vô độ các tài nguyên thiên nhiên trên Trái đất là thánh thiện, khi chúng ta dạy con trẻ bắt chước những người đang sống những cuộc sống thiếu lành mạnh, và khi chúng ta định rõ rằng, một phần đông dân số phải quy lụy, phụ thuộc vào một số ít kẻ thuộc tầng lớp cao quý, chúng ta đã tự rước lấy tai họa. Và chúng ta đã gặp tai họa. Trong quá trình tiến tới nền đế chế toàn cầu, các tập đoàn, ngân hàng và chính phủ (gọi chung là tập đoàn trị) đã dùng tiềm lực tài chính và chính trị của họ để đảm bảo rằng, các trường học, giới doanh nhân và các phương tiện truyền thông đều phải ủng hộ khái niệm sai lầm này và hậu quả tất yếu của nó. Họ đẩy chúng ta tới một tình trạng mà ở đó nền văng minh tòan cầu của chúng ta trở thành một cỗ máy quái dị. Lượng nhiên liệu và chi phí bảo dưỡng mà hàng ngày nó đòi hỏi tăng theo cấp số nhân, cuối cùng sẽ ngốn hết những gì có trong tầm mắt và chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc tự hủy diệt mình. Chế độ tập đoàn trị không phải là một âm mưu nhưng các thành viên của nó đã thống nhất theo đuổi những mục tiêu và giá trị chung. Một trong những chức năng quan trọng nhất của chế độ tập đoàn trị là duy trì, không ngừng mở rộng và củng cố hệ thống này. Cuộc sống của những người “tạo ra nó” và gia tài của họ – biệt thự, thuyền buồm, máy bay riêng- được phô bày như những hình mẫu nhằm kích thích tất cả chúng ta tiêu dùng, tiêu dùng và tiêu dùng. Người ta lợi dụng mọi cơ hội để thuyết phục chúng ta rằng mua sắm đồ đạc là trách nhiệm công dân, rằng cướp phá Trái đất là có lợi cho nền kinh tế và do đó sẽ phụng sự cho những lợi ích cao cả. Những người như tôi được trả lương cao đến kỳ quặc để phục tùng hệ thống. Nếu chúng tôi chùn bước, sẽ có một hạng sát thủ còn tàn nhẫn hơn, những tên chó săn giết người, sẽ lại bước lên vũ đài. Và nếu chúng cũng thất bại, thì quân đội sẽ phải làm việc đó. Cuốn sách này là lời thú tôi của người từng là thành viên của một nhóm không nhiều người, từ thời tôi còn là một EHM. Ngày nay, những người có vai trò tương tự như vậy rất nhiều. Họ mang nhiều chức danh ẩn hơn. Có thể tìm thấy họ tại hành lang của các tập đoàn Monsanto, General Electric, Nike, General Motors, Wal-Mart, và hầu hết các tập đoàn lớn khác trên thế giới. Thực chất thì Lời thú tội của một sát thủ kinh tế chính là câu chuyện của họ cũng như của tôi. Đó là câu chuyện của các bạn, câu chuyện về thế giới của bạn và của tôi, câu chuyện về một vấn đề toàn cầu thực sự đầu tiên trong lịch sử. Lịch sử cho chúng ta biết, nếu chúng ta không sửa chữa câu chuyện này, chắc chắn nó sẽ có một kết cục bi thảm. Các đế chế không bao giờ trường tồn. Các đế chế đều đã thất bại thảm hại. Chúng phá hủy rất nhiều nền văn hóa, trong khi chạy đua để có được quyền thống trị lớn hơn và rồi sụp đổ. Không một quốc gia nào hoặc một nhóm quốc gia nào có thể phát triển lâu dài dựa vào việc bóc lột quốc gia khác. Cuốn sách này được viết ra để chúng ta nhận ra vấn đề và sửa chữa lại câu chuyện của chúng ta. Tôi chẳc rằng, khi nhiều người trong chúng ta nhận thức được rằng, chúng ta đang bị cỗ máy kinh tế bóc lột- cỗ máy đó đang khơi gợi lòng tham vô độ đối với các tài nguyên trên thế giới và thúc đẩy chế độ nô lệ- chúng ta sẽ không bao giờ tha thứ cho nó. Chúng ta sẽ đánh giá lại vai trò của chúng ta trong một thế giới mà ở đó, chỉ có một số ít người đang bơi trong sự giàu sang, số đông còn lại bị nhấn chìm trong nghèo đói, ô nhiễm và bạo lực. Tự chúng ta sẽ không thể không hướng tới lòng bác ái, nền dân chủ, và công bằng xã hội cho tất cả mọi người. Thừa nhận vấn đề là bước đầu tiên để tìm ra giải pháp. Thú nhận tội lỗi là bước đầu tiên của sự hối cải. Do vậy, hãy để cuốn sách này là khởi đầu cho việc cứu vớt linh hồn của chúng ta. Hãy để nó truyền cho chúng ta nghị lực để có được những cống hiến mới và giúp chúng ta biến giấc mơ của mình về một xã hội công bằng và cao thượng thành hiện thực. Nếu như không có những người mà tôi đã cùng sống và chia sẻ, và những người mà những trang tiếp theo của cuốn sách này sẽ mô tả, thì có lẽ sẽ không bao giờ có được cuốn sách này. Tôi biết ơn những kinh nghiệm và bài học mà tôi có được từ họ. Hơn nữa, tôi xin cảm ơn những người đã khuyến khích tôi vượt qua tất cả và kể ra câu chuyện này, đó là: Stephan Rechtchaffen, Bill và Lynne Twist, Ann Kemp, Art Roffey, và còn rất nhiều người nữa đã từng tham gia các cuộc hành trình “Thay đổi giấc mơ” và các hội thảo đặc biệt là những người đã cùng tạo điều kiện cho tôi, Ever Bruce, Lyn Roberts- Herrick, Mary Tendall, người vợ tuyệt vời của tôi, người bạn đời của tôi trong suốt 25 năm- Winifred, và con gái Jessica của tôi. Tôi biết ơn những người đã truyền cho tôi những thông tin và hiểu biết riêng về các ngân hàng đa quốc gia, các tập đoàn quốc tế và những ẩn ý chính trị của nhiều quốc gia; tôi đặc biệt cảm ơn Michael Ben-Eli, Sabrina Bologni, Juan Gabriel Carrasco, Jamie Grant, Paul Shaw và rất nhiều người khác, những người tuy không nêu danh tính song họ biết họ là ai. Khi tôi viết xong bản thảo, Steven Piersanti, người sáng lập Berrett-Koehler, không những đã dũng cảm đón nhận tôi mà còn dành rất nhiều thời gian để biên tập lại cuốn sách, giúp tôi chấp nối cuốn sách và hoàn thiện nó. Tôi đặc biết cảm kích Steven, Richard Perl, những người đã giới thiệu tôi với Steven Piersanti, đồng thời tôi cũng cảm ơn Nova Brown, Randi Fiat, Allen Jones, Chris Lee, Jennifer Liss, Laurie Pelloushoud, Jenny Williams, những người đã đọc và cho nhận xét về bản thảo của tôi; tôi cảm ơn David Korten người không chỉ đọc bản thảo và nhận xét giúp tôi mà còn giúp tôi vượt qua khó khăn để đáp ứng cho được những tiêu chuẩn tuyệt vời của ông; tôi cảm ơn Paul Fedorko, người quản lý của tôi; cảm ơn Valerie Brewster đã thiết kế cuốn sách này; cảm ơn Todd Manza, người biên tập, sửa bản in, một tác gia và triết gia tài năng. Tôi đặc biệt tỏ lòng biết ơn Jeevan Sivasubramanian, nhà biên tập Berrett-Koeler, Ken Lupoff, Rick Wilson, María Jesús Aguiló, Pat Anderson, Marina Cook, Michael Crowley, Robin Donovan, Kristen Frantz, Tiffany Lee, Catherine Lengronne, Dianne Platner, tất cả nhân viên của BK, những người ý thức được về sự cần thiết phải năng cao ý thức, những người luôn làm việc không mệt mỏi để làm cho thế giới này tốt đẹp hơn. Tôi phải cảm ơn tất cả những người đã cùng làm việc với tôi ở MAIN và không hề biết về vai trò của mình trong việc giúp EHM hình thành nên một đế chế toàn câu. Tôi đặc biệt cảm ơn những ai đã làm việc cho tôi, những người đã cùng tôi đi đến những vùng đất xa xôi và chia sẻ những khoảnh khắc vô giá. Tôi cũng cảm ơn Ehud Sperlling và nhân viên của ông ở Inner Traditions International, người xuất bản những cuốn sách về các nền văn hóa bản địa và Saman giáo trước đây của tôi; cảm ơn những người bạn đã khuyến khích tôi trên chặng đường trở thành tác giả của cuốn sách này. Tôi cũng không thể không biết ơn những người đã mời tôi tới nhà họ trong những khu rừng, những sa mạc, những vùng núi, trong những ngôi lều tạm bằng bìa các tông dọc theo những con kênh ở Jakarta và những ngôi nhà ổ chuột ở vô số những thành phố khác trên khắp thế giới, những người đã chia sẻ cùng tôi thức ăn và cuộc sống của họ, và đã trở thành nguồn cảm hứng lớn nhất của tôi. John Perkins Tháng 8/2004 PHẦN MỞ ĐẦU Quito, thủ đô của Êcuađo, nằm trải dài qua một thung lũng núi lửa trên dãy Andy, với độ cao so với mặt biển là 9000 feet. Tuy chỉ sống cách đường xích đạo có vài dặm về phía nam, người dân của cái thành phố có từ trước cả khi Columbus đặt chân đến Châu Mỹ này đã quen với việc nhìn thấy tuyết phủ trên những ngọn núi bao quanh. Thành phố Shell, một đồn biên phòng và căn cứ quân sự nằm sắt rừng rậm Amazon của Êcuađo để phục vụ cho công ty dầu lửa mà nó mang tên, nằm thấp hơn so với thủ đô Quito gần 8.000 feet. Một thành phố ẩm thấp với dân cư chủ yếu là những người lính, công nhân khai thác dầu mỏ, với những người bản địa thuộc bộ tộc Shuar và Kichwa hành nghề mại dâm và lao động chân tay cho họ. Để đi từ Quito đến Shell, bạn phải qua một con đường vừa quanh co vừa hiểm trở. Người dân địa phương sẽ nói với bạn rằng con đường này bạn phải trải qua cả bốn mùa chỉ trong một ngày. Mặc dù đã lái xe đi qua con đường này rất nhiều lần nhưng tôi chưa bao giờ cảm thấy chán phong cảnh hùng vĩ ở đây. Một bên đường là những vách đá thẳng đứng, thỉnh thoảng được xen kẽ bởi những thác nước và những cây họ dứa. Phía bên kia là vực sâu, nơi con sông Pastaza, thượng nguồn của Amazon, uốn mình chảy dọc theo dãy Andy. Từ những dòng sông băng của Cotopaxi, một trong những ngọn núi lửa cao nhất trên thế giới đang trong thời kỳ hoạt động và cũng là tên một vị thần của người Incas, nước chảy qua dòng Pastaza để đổ xuống Đại Tây Dương cách đó hơn 3.000 dặm. Năm 2003, từ Quito tôi lái chiếc Subaru Outback đến Shell với một nhiệm vụ không giống bất kỳ nhiệm vụ nào tôi đã từng đảm nhận. Tôi đã hy vọng có thể kết thúc một cuộc chiến mà tôi đã góp phần tạo ra. Cũng như rất nhiều điều mà những EHM chúng tôi phải chịu trách nhiệm, không một nơi nào khác bên ngoài đất nước đang xảy ra cuộc chiến biết đến nó. Tôi đang trên đường đến gặp những người Shuars, người Kichwas và những người thổ dân ở những vùng lân cận là Achuars, Zaparos và Shiwas- những bộ tộc quyết tâm ngăn không cho các công ty khai thác dầu của chúng tôi phá hủy nhà cửa, gia đình, và đất đai của họ ngay cả khi họ phải chết vì điều đó. Với họ, đây là cuộc chiến vì sự sinh tồn của con cháu và nền văn hóa của họ; trong khi đối với chúng tôi đó là cuộc chiến giành quyền lực, tiền bạc và tài nguyên thiên nhiên. Nó là một phần của cuộc đấu tranh giành quyền thống trị thế giới và giấc mơ của một số ít những kẻ thamlam, của Đế chế toàn cầu.(1) Đó là việc mà những EHM chúng tôi thạo nhất: xây dựng nền Đế chế toàn cầu. Chúng tôi là một nhóm người ưu tú, những người tận dụng tối đa các tổ chức tài chính quốc tế để khiến các quốc gia khác phải phụ thuộc vào chế độ tập đoàn trị đang điều khiển các tập đoàn lớn nhất, chính phủ và các ngân hàng của chúng tôi. Chẳng khác nào Mafia, các EHM ban ân huệ. Những ân huệ này tồn tại dưới hình thức các khoản vay để phát triển cơ sở hạ tầng- nhà máy điện, đường cao tốc, bến cảng, sân bay, các khu công nghiệp. Một điều kiện cho những khoản vay như thế là các công ty xây dựng của nước chúng tôi phải được đảm nhiệm công việc xây dựng tất cả các dự án này. Xét về bản chất, hầu hết các khoản tiền trên không bao giờ rời khỏi nước Mỹ; nó chỉ đơn giản được chuyển từ các phòng giao dịch của ngân hàng ở Washington sang cho các công ty xây dựng ở New York, Houston, hoặc San Francisco. Mặc dù thực tế là những khoản tiền trên gần như ngay lập tức sẽ trở lại về các công ty là thành viên của chế độ tập đoàn trị (chủ nợ) nhưng những nước nhận tiền vay vẫn phải trả tất cả, cả tiền gốc và lãi. Nếu một EHM hoàn toàn thành công, thì chỉ sau vài năm các khoản vay sẽ là quá lớn tới mức mà các nước mắc nợ buộc phải tuyên bố vỡ nợ. Khi điều này xảy ra, thì giống như tổ chức Mafia, chúng tôi sẽ đòi nợ. Việc đòi nợ này thường kèm theo một hoặc nhiều yêu cầu sau: kiểm soát những lá phiếu của Liên Hợp Quốc, thiết lập các căn cứ quân sự hoặc khai thác các nguồn tài nguyên quý giá như dầu hay kênh đào Panama. Tất nhiên, nước mắc nợ sẽ vẫn nợ chúng tôi tiền- và lại một nước nữa rơi vào Đế chế toàn cầu của chúng tôi. Lái xe từ Quito đến Shell vào một ngày nắng đẹp năm 2003, tôi nhớ lại 35 năm về trước khi lần đầu tiên tôi đến khu vực này. Tôi đã đọc là dù diện tích của Êcuađo chỉ bằng bang Nevada, nơi đây có hơn 30 núi lửa đang hoạt động, hơn 15% các lòai chim quý trên thế giới và hàng ngàn loại cây vẫn chưa được phân loại và đây là vùng đất đa dạng về văn hóa- nơi vô số người nói tiếng bản địa cổ gần bằng với số người nói tiếng Tây Ban Nha. Tôi thấy đất nước này thật hấp dẫn và kỳ lạ; và những từ ngữ xuất hiện trong tâm trí tôi lúc đó còn trong trắng, vô tội và trinh nguyên. Sau 35 năm, đã có nhiều biến đổi. Khi tôi đến Êcuađo lần đầu tiên vào năm 1968, Texaco vừa mới tìm thấy dầu ở khu vực Amazon của Êcuađo. Ngày nay, dầu chiếm tới gần một nửa lượng hàng hóa xuất khẩu của quốc gia này. Một đường ống dẫn dầu xuyên qua dãy Andy được xây dựng không lâu sau lần đầu tiên tôi đến nơi đây; từ đó đến nay đã làm hơn nửa triệu thùng dầu thấm vào đất của khu rừng nhiệt đới này- nhiều gấp đôi lượng dầu bị tràn do vụ Exxon Valdez.(2) Hiện nay, một đường ống dẫn dầu dài 300 dặm trị giá 1,3 tỷ USD được xây dựng bởi một tập đoàn do các EHM tổ chức hứa hẹn biến Êcuađo trở thành một trong 10 quốc gia hàng đầu thế giới cung cấp dầu cho Mỹ.(3) Nhiều khu vực rộng lớn của rừng mưa nhiệt đới đã bị hủy diệt, vẹt đuôi dài và báo đốm Mỹ đã biến mất, ba nền văn hóa bản địa của người Êcuađo cũng bị dồn đến bờ vực diệt vong, nhiều dòng sông đã bị ô nhiễm. Cũng trong thời gian này, các nền văn hóa bản địa bắt đầu phản công khai. Ngày 7/5/2003 một nhóm luật sư Mỹ đại diện cho hơn 3.000 người Êcuađo bản địa đã tiến hành một vụ kiện đòi 1 tỷ USD của tập đoàn Chevron Texaco. Vụ kiện khẳng định rằng trong khoảng thời gian từ 1971- 1992, mỗi ngày công ty dầu lửa này đổ xuống những hố chôn lộ thiên và các dòng sông hơn 4 triệu gallon nước thải độc hại có chứa dầu, kim loại nặng, các chất gây ung thư, đồng thời công ty này cũng để lại gần 350 hố rác thải lộ thiên và những hố rác đang tiếp tục giết chết con người và động vật.(4) Bên ngoài cửa sổ chiếc xe Outback, những đám mây mù lớn đang lơ lửng bay lên từ khu rừng về phía hẻm núi Pastaza. Mồ hôi thấm đẫm áo tôi và dạ dày tôi bắt đầu sôi lên không chỉ vì cái nóng của vùng nhiệt đới và sự khúc khuỷu của con đường. Tôi lại đang phải trả giá vì tôi đã góp phần hủy hoại đất nước tươi đẹp này. Vì tôi và những đồng nghiệp EHM của mình mà kinh tế Êcuađo ngày nay đã kém xa so với lúc trước khi chúng tôi mang lại cho đất nước này sự kỳ diệu của kinh tế học, của hệ thống ngân hàng và kỹ thuật xây dựng hiện đại. Kể từ những năm 1970, thời kỳ mà người ta thường gọi là bùng nổ dầu mỏ, tỷ lệ đói nghèo chính thức đã tăng từ 50% lên 70%, tỷ lệ thất nghiệp và bán thất nghiệp tăng từ 15% lên 70%, và nợ công tăng từ 240 triệu USD lên 16 tỷ USD. Trong khi đó, phần tài nguyên thiên nhiên dành cho bộ phận dân số nghèo nhất lại giảm từ 20% xuống còn 6%.(5) Thật không may, Êcuađo không phải là trường hợp ngoại lệ.(6) Gần như tất cả cá nước mà chúng tôi, những EHM đã đưa vào dưới vòng cương tỏa của Đế chế toàn cầu đều phải đối mặt với hoàn cảnh tương tự. Khoản nợ của các nước thế giới thứ 3 tăng lên hơn 2,5 nghìn tỷ USD, chi phí để trả cho các khoản nợ đó- hơn 375 tỷ USD mỗi năm theo số liệu năm 2004, lớn hơn tất cả các chi tiêu cho y tế và giáo dục của các nước thế giới thứ 3 cộng lại và gấp 20 lần số tiền viện trợ nước ngoài hàng năm mà các nước đang phát triển nhận được. Có tới hơn một nửa dân số trên thế giới đang sống dưới mức 2 USD một ngày, tương đương với số tiền mà họ nhận được đầu những năm 70. Trong khi đó 1% số hộ gia đình ở các nước thế giới thứ 3 lại chiếm tới 70% đến 90% tiền bạc và bất động sản ở nhữgn nước này; tỷ lệ cụ thể của từng nước phụ thuộc vào từng quốc gia cụ thể.(7) Chiếc Subaru giảm tốc độ khi đi ngang qua những con phố của khu du lịch tươi đẹp Baos, nổi tiếng với những suối nước khoáng nóng chảy từ các dòng sông nằm dưới Tungurahgua, một ngọn lửa đang hoạt động mạnh. Bọn trẻ chay theo xe, vẫy tay và cố nài bán kẹo cao su và các loại bánh. Bỏ lại Baos ở phía sau, chiếu Subaru tăng tốc khỏi thiên đường để đi vào quang cảnh hiện đại của khúc Địa ngục Dante. Một bức tường lớn màu xám như con quái vật khổng lồ đứng sừng sững chắn ngang con sông. Khối bê tông đứng đó hoàn toàn không thích hợp và đối nghịch với phong cảnh. Tất nhiên tôi không hề ngạc nhiên khi thấy nó đứng đó. Suốt dọc đường, tôi đã biết rằng nó đang phục kích ở đây. Trước đây, tôi đã nhìn thấy nó rất nhiều lần và đã từng ca ngợi nó như một biểu tượng cho những thành tựu của EHM. Mặc dù vậy nó vẫn làm tôi sởn gai ốc. Bức tường phi lý và gớm ghiếc đó là một cái đập ngăn dòng chảy của sông Pastaza, làmchuyển dòng nước vào hệ thống đường ngầm lớn chảy xuyên qua ngọn núi và chuyển nguồn năng lượng đó thành điện năng. Đó là dự án thủy điện Agoyan với công suất 156 mêgawatt. Nó cung cấp năng lượng cho các ngành công nghiệp đã giúp cho một vài gia đình ở Êcuađo trở nên giàu có, đồng thời đó cũng là nguồn gốc những nỗi khổ khôn xiết của những người nông dân và người bản địa sống dọc con sông này. Nhà máy thủy điện này chỉ là một trong rất nhiều những dự án được xây dựng nhờ vào nỗ lực của tôi và những EHM khác. Những dự án như vậy chính là nguyên nhân tại sao hiện nay Êcuađo là một thành viên của Đế chế toàn cầu, chúng cũng là lý do tại sao các bộ tộc Shuars và Kichwas cùng những bộ tộc sống ở những vùng lân cận đe dọa tuyên chiến với các công ty dầu lửa của chúng tôi. Vì các dự án do EHM mang lại mà Êcuađo bị ngập chìm trong nợ nước ngoài và phải dành một phần lớn ngân sách quốc gia để trả nợ thay vì dùng số tiền đó để giúp đỡ hàng triệu công dân được chính thức liệt vào danh sách những người hết sức đói nghèo. Cách duy nhất để Êcuađo có thể trả nợ nước ngoài là bán những khu rừng nhiệt đới của họ cho các công ty dầu lửa. Thực chất lý do khiến các EHM nhòm ngó đến Êcuađo là vì biển dầu nằm dưới khu vực rừng Amazon được cho là có tiềm năng ngang với các mỏ dầu ở khu vực Trung Đông.(8) Đế chế toàn cầu đòi nợ dưới dạng quyền khai thác dầu. Những nhu cầu này đặc biệt trở nên cấp thiết sau sự kiện 11/9/2001, khi Mỹ lo sợ rằng các nguồn cung cấp dầu ở Trung Đông sẽ bị ngưng lại. Trên hết, Vênêzuêla, nhà cung cấp dầu lớn thứ 3 của Mỹ, vừa bầu ra một vị tổng thống theo chủ nghĩa dân túy là Hugo Chavez, người có lập trường cứng rắn chống lại cái mà ông gọi là Chủ nghĩa đế quốc Mỹ; ông cũng đe dọa ngừng bán dầu cho Mỹ. EHM đã thất bại ở Iraq và Vênêzuêla nhưng chúng tôi đã thành công ở Êcuađo; và bây giờ chúng tôi sẽ bòn rút tất cả những gì đáng giá. Êcuađo là trường hợp điển hình của các nước trên thế giới đã được EHM đưa vào một nhómcó cùng lợi ích kinh tế- chính trị. Cứ 100 USD dầu thô lấy ra từ các khu rừng nhiệt đới của Êcuađo thì có tới 75 USD rơi vào túi của các công ty dầu lửa. 25 USD còn lại sẽ được dùng để trả nợ nước ngoài. Hầu hết số tiền còn lại sẽ được dùng để trang trải chi phí quân sự và chi tiêu của chính phủ- trong đó khoảng 2,5 USD được chi cho y tế, giáo dục và các chương trình giúp đỡ người nghèo.(9) Như vậy, cứ 100 USD dầu khai thác được tại khu vực Amazon sẽ chỉ có dưới 3 USD đến được với những người cần nó nhất- những người mà cuộc sống của họ bị ảnh hưởng xấu bởi những con đập, việc khoan dầu, các đường ống- và những người đang chết dần chết mòn do thiếu thức ăn và nước uống. Tất cả những người đó- hàng triệu người dân Êcuađo, hàng tỷ người khác trên khắp hành tinh là những tên khủng bố tiềm năng. Không phải bởi họ theo chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa vô chính phủ hay bởi họ thực sự là những tên tội phạm, mà đơn giản chỉ vì họ tuyệt vọng. Nhìn xuống con đập này, tôi phân vân- như cảm giác mà tôi thường có ở rất nhiều nơi khác trên thế giới- rằng khi nào thì những người này sẽ hành động, giống như người Mỹ chống lại nước Anh những năm 1770 và người Mỹ Lating chống lại Tây Ban Nha đầu thế kỷ XIX. Mức độ tinh vi trong việc thiết lập đế chế hiện đại này vượt trội hơn hẳn của những chiến binh La Mã cổ đại, đế quốc Tây Ban Nha và sức mạnh của thực dân Châu Âu thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX. Chúng tôi, những EHM là những kẻ xảo trá; chúng tôi học từ lịch sử. Ngày nay, chúng tôi không dùng gươm kiếm. Chúng tôi không mặc áo giáp hay bất cứ thứ gì để người ta có thể phân biệt được chúng tôi. Ở một số quốc gia như Êcuađo, Nigiêria, Inđônêxia, chúng tôi ăn mặc giống như những giáo viên và những ông chủ cửa hàng. Ở Washington và Paris, chúng tôi trông giống như các quan chức nhà nước và nhân viên ngân hàng. Bề ngoài chúng tôi khiêm tốn và bình dị. Chúng tôi đến thăm những nơi quảng bá chủ nghĩa vị tha, tán tụng với các báo chí địa phương về những điều nhân đạo tuyệt vời mà chúng tôi đang làm. Chúng tôi đem đến các bàn hội nghị của các ủy ban chính phủ những bảng tính và những đề án tài chính, và chúng tôi giảng bài ở Đại học Harvard về sự kỳ diệu của kinh tế vi mô. Chúng tôi được biết đến một cách công khai, giữa thanh thiên bạch nhật. Hay ít ra thì chúng tôi cũng tự thêu dệt nên chính mình và được chấp nhận như thế. Đó là cách mà hệ thống hoạt động. Chúng tôi rất hiếm khi phạm pháp vì bản thân hệ thống này được xây dựng trên sự lừa gạt và hệ thống này trên lý thuyết là hợp pháp. Tuy nhiên, nếu chúng tôi thất bại- và điều này là rất có thể- một thế hệ khác tồi tệ hơn sẽ tiếp nối, thế hệ mà chúng tôi- những EHM đã nói đến như những tên sát nhân thực sự, những kẻ sẽ tiếp tục theo đuổi sự nghiệp của những đế chế trước chúng tôi. Những tên sát nhân luôn chờ sẵn, ẩn nấp trong bóng tối. Khi chúng xuất hiện, người đứng đầu nhà nước sẽ bị lật đổ hoặc chết trong một “tai nạn” khủng khiếp.(10) Và nếu chẳng may những tên sát nhân thất bại, như chúng đã thất bại ở Afganistan và Iraq thì mô hình cũ lại nổi lên. Khi những tên sát nhân thất bại, lớp trẻ Mỹ được cử đi để giết và để chết. Đi qua con quái vật, cái bức tường xi măng màu xám đồ sộ và khổng lồ đang hiện ra trên dòng sông này, mồ hôi càng ướt đẫm áo tôi và ruột gan tôi càng xiết chặt. Tôi rảo bước về phía khu rừng để gặp những người dân bản địa, những người quyết tâm chống lại đến cùng để ngăn chặn đế chế mà tôi góp phần tạo ra và cảm giác tội lỗi dâng trào trong tôi. Tôi tự hỏi, làm thế nào mà một đứa trẻ xinh xắn từ New Hampshire lại có thể nhúng tay vào một việc bẩn thỉu như vậy? PHẦN I: 1963-1971 Chương 1 Sát thủ ra đời Câu chuyện bắt đầu thật tình cờ. Tôi sinh năm 1945, là con duy nhất trong một gia đình trung lưu. Cha mẹ tôi đều là dân gốc Bắc Mỹ, đã sinh sống ba đời ở bang New England. Sự khuôn phép, nghiêm khắc và lòng trung thành là dấu ấn mà tổ tiên hà khắc để lại trong họ qua nhiều thế hệ. Họ là những người đầu tiên trong gia đình đi học đại học bằng học bổng. Mẹ tôi là giáo viên dạy tiếng Latinh ở trường trung học. Trong Đại chiến Thế giới II, cha tôi tham gia quân đội, là đại úy hải quân, phụ trách đội pháo thủ bảo vệ thương thuyền chở dầu trên Đại Tây Dương. Khi tôi chào đời ở Hanlover, bang New Hanpshire, cha tôi vẫn đang nằm viện ở Texas vì bị gãy xương hông. Lên một tuổi tôi mới được gặp cha. Sau đó, cha tôi dạy ngoại ngữ ở trường Tilton shool, một trường nội trú nam ở vùng ngoại ô New Hanpshire. Ngôi trường vươn mình kiêu hãnh ( hay ngạo nghễ theo như cách nói của dân địa phương)- trên một quả đồi, phía dưới là một thị trấn cũng cùng tên Tilton. Mỗi năm, trường tư này chỉ nhận 50 học sinh cho mỗi lớp từ lớp 9 đến lớp 12. Học sinh ở đây phần lớn là con cái của những gia đình giàu có từ Buenos Aires, Caracas, Boston và New York. Nhà tôi luôn thiếu tiền, nhưng chúng tôi không bao giờ tự cho mình là nghèo. Mặc dù đồng lương giáo viên của bố mẹ tôi rất ít ỏi, nhưng tất cả nhu cầu thiết yếu của chúng tôi như thực phẩm, nhà ở, lò sưởi, nước, cắt cỏ hay dọn tuyết được cung cấp miễn phí. Từ lúc lên 4, tôi ăn ở bếp ăn nhà trường, nhặt bóng cho đội bóng mà cha tôi huấn luyện, được sử dụng khăn mặt ở phòng thay đồ. Dù có tỏ ra khiêm tốn thì các giáo viên và vợ con họ vẫn coi mình thuộc tầng lớp cao quý hơn dân địa phương. Tôi từng nghe bố mẹ đùa rằng họ là chủ trang viên, cai quản những nông dân hèn kém- ý nói những người dân thị trấn. Tôi biết đó không chỉ đơn thuần là một câu đùa. Các bạn học cấp I và cấp II của tôi thuộc tầng lớp nông dân đó. Chúng rất nghèo. Bố mẹ chúng là những người lao động chân lấm tay bùn, thợ xẻ gỗ hay thợ xay bột. Họ không ưa “ lũ học sinh trường tư” chúng tôi, và ngược lại, bố mẹ tôi cũng không thích tôi kết thân với những cô bạn thị trấn mà ông bà hay gọi là đồ “hư hỏng”. Nhưng từ hồi học lớp 1, tôi đã dùng chung sách giáo khoa và bút chì màu với mấy cô bạn trong lớp. Hồi đó, tồi phải lòng ba cô bạn: Ann, Priscilla và Judy. Vì vậy, khó mà chấp nhận quan điểm của cha mẹ tôi. Nhưng tôi vẫn tôn trọng ý muốn của họ. Năm nào cũng vậy, cứ đến khi cha tôi được nghỉ hè ba tháng, chúng tôi lại đến ngôi nhà bên hồ do ông tôi xây vào năm 1921. ngôi nhà nằm giữa rừng. Vào ban đêm, chúng tôi có thể nghe thấy tiếng cú và tiếng sư tử núi. Ở đây, chúng tôi chẳng có hàng xóm láng giềng nào và tôi là đứa trẻ duy nhất. Khi còn nhỏ, tôi thường giả định rằng những cái cây trong rừng là hiệp sĩ Bàn Tròn và các thiếu nữ tên là Ann, Priscilla và Judy ( tùy từng năm) đang gặp nạn. Sự đam mê của tôi chắc chắn cũng mạnh mẽ như mối tình của Lancelot với Guilevere- và thậm chí còn nồng nàn hơn thế nhiều. Mười bốn tuổi, tôi được nhận học bổng của trường Tilton School. Với sự khích lệ của cha mẹ, tôi từ bỏ mọi vương vấn nơi thị trấn và không còn gặp những người bạn thủa nào nữa. Khi những bạn mới của tôi trở về biệt thự của họ để nghỉ hè, tôi còn lại có một mình trên đồi. Họ có bạn gái mới; tôi thì chẳng có cô nào, tất cả những cô gái tôi biết đều là đồ “gái điếm”; tôi đã bỏ họ và họ cũng đã quên tôi. Tôi chỉ còn lại một mình- thất vọng tràn trề. Tuy nhiên, cha mẹ tôi thật giỏi trong việc điều khiển tôi. Họ quả quyết với tôi rằng tôi thật là may mắn khi có được một cơ hội tốt như vậy và một ngày nào đó, tôi sẽ biết ơn điều ấy. Tôi sẽ tìm được một người vợ hoàn hảo, một người phù hợp với những chuẩn mực đạo đức cao siêu của gia đình tôi. Dù thế, trong sâu thẳm, tôi sôi lên sùng sục. Tôi thèm muốn một người đàn bà- tình dục; tôi thậm chí còn nghĩ đến hạng gái điếm. Nhưng thay vì nổi loạn, tôi nén sâu nổi tức giận của mình, luôn cố tỏ ra xuất sắc trên mọi phương diện nhằm biểu lộ sự chán nản. Tôi là sinh viên danh dự, đội trưởng hai đội thể thao của trường và là tổng biên tập tờ báo tường của trường. Tôi quyết làm bẽ mặt những lũ bạn học giàu có và xa rời thị trấn Tilton mãi mãi. Trong năm học cuối, tôi nhận được 2 học bổng toàn phần; một học bổng thể thao của trường Brown và một học bổng hàn lâm của trường Middlebury. Tôi chọn Brown, chủ yếu vì tôi muốn trở thành vận động viên- và vì nó ở thành phố. Nhưng vì mẹ tôi tốt nghiệp Middlebury và cha tôi học cao học ở đó, mặc dù trường Brown nằm trong tay Ivi League, họ thích Middlebury. Cha tôi hỏi: “Thế nhỡ con bị gẫy chân thì sao? Nhận học bổng hàn lâm là hơn con ạ.” Theo tôi thì Middlebury cũng chỉ là hình ảnh phóng to của Tilton- dù nó có nằm ở ngoại ô Vermont thay vì ngoại ô New Hampshire. Đúng là trường đó dành cho cả nữ sinh thật, nhưng tôi nghèo, trong khi hầu hết sinh viên ở đó lại giàu có, và trong suốt bốn năm vừa rồi, tôi đã không hề học chung với phái nữ. Tôi mất hết tự tin, thấy mình như ngoài cuộc, và cảm thấy thật khổ sở. Tôi năn nỉ xin cha cho tôi được bỏ học hay nghỉ hẳn một năm. Tôi muốn đến Boston, để biết thế nào là cuộc sống và đàn bà. Tất nhiên cha tôi không thể chấp nhận. Ông nói: “Làm sao bố có thể dạy dỗ con cái người khác vào đại học trong khi bản thân con của mình lại không học đại học?” Đến lúc này, tôi hiểu ra rằng, cuộc đời là hàng loạt những sự ngẫu nhiên. Nhưng cách mà chúng ta phản ứng lại những điều ngẫu nhiên đó- chúng ta sử dụng cái mà nhiều người gọi là quyền tự quyết như thế nào- mới quyết định tất cả. Việc chúng ta chọn gì khi đứng trước những bước ngoặt của cuộc đời sẽ quyết định số phận của chúng ta. Hai biến cố quan trọng quyết định cuộc đời tôi xảy ra ở Middlebury. Một là từ một người Iran, con trai một vị tướng, cố vấn riêng cho nhà vua Iran. Còn biến cố thứ hai xuất hiện từ một cô gái xinh đẹp tên là Ann, trùng với tên cô bạn gái thủa thiếu thời của tôi. Người thứ nhất là Farhad, đã từng chơi bóng đá chuyên nghiệp ở Rome. Với thể lực của một vận động viên mái tóc quăn đen, đôi mắt màu hạt dẻ, cộng thêm xuất thân và sức quyến rũ thiên bẩm, anh ta khiến phụ nữ bị mê hoặc. Anh ta trái ngược hẳn với tôi ở nhiều điểm. Phải vất vả lắm tôi mới kết bạn được với anh ta, và sau đó được anh ta dạy rất nhiều thứ có ích cho tôi trong những năm sau này. Tôi cũng đã gặp Ann. Mặc dù khi đó cô ấy đang có mối quan hệ nghiêm túc với một anh chàng ở trường khác, nhưng cô ấy đã đón nhận tôi. Mối tình trong trắng giữa hai chúng tôi là mối tình thực sự đầu tiên mà tôi từng có. Farhad khuyến khích tôi uống rượu, đi chơi và phớt lờ cha mẹ. Tôi chẳng học hành gì cả. Tôi quyết định sẽ làm hỏng sự nghiệp học hành của mình để trả đũa cha tôi. Điểm số của tôi rớt thảm hại. Tôi bị mất học bổng. Vào những năm thứ hai, tôi quyết định bỏ học. Bố đe dọa sẽ từ tôi. Farhad thì lại xúi thêm tôi. Tôi đến thẳng phòng hiệu trưởng và tuyên bố bỏ học. Khoảnh khắc đó đã thay đổi cuộc đời tôi. Farhad và tôi đã kỷ niệm đêm cuối cùng của tôi tại thị trấn trong một quán bar. Một nông dân với tầm vóc khổng lồ say rượu, buộc tôi tán tỉnh vợ ông ta. Ông ta nhấc bổng tôi lên và quẳng tôi vào tường. Farhad nhảy vào giữa chúng tôi, rút dao chém đúng vào má ông ta. Rồi anh ta kéo tôi qua phòng, đẩy tôi qua cửa sổ xuống rìa con lạch Otter. Chúng tôi nhảy xuống, bơi dọc sông về ký túc xá. Sáng hôm sau, khi bị cảnh sát thẩm vấn, tôi đã nói dối và từ chối không nhận bất cứ chi tiết nào về vụ rắc rối đó. Tuy nhiên, Farhad cũng bị đuổi học. Chúng tôi chuyển đến Boston và thuê chung một căn phòng ở đó. Cuối cùng, tôi kiếm được việc làm tại tòa soạn báo Hearst’s Record American/ Sunday Advertiser, làm trợ lý riêng cho Tổng biên tập tờ Sunday Advertiser. Cuối năm 1965, một vài người bạn tôi làm việc trong tòa soạn bị bắt đi quân dịch. Để tránh số phận tương tự, tôi đăng kí học quản trị kinh doanh tại Trường Đại học Boston University (BU). Cũng vào thời điểm đó, Ann chia tay với bạn trai cũ và thường đi Middlebury đến thăm tôi. Tôi vui mừng đón nhận sự quan tâm của cô ấy. Ann tốt nghiệp năm 1967, trong khi tôi vẫn còn 1 năm nữa ở BU. Nhưng cô ấy nhất định ko chịu sống chung với tôi chừng nào chúng tôi chưa cưới. Tuy vẫn nói đùa là mình bị “tống tình”, nhưng tôi thực sự bực mình vì tôi thấy yêu cầu của cô ấy không khác gì 1 sự tiếp nối những chuẩn mực đạo đức cổ lỗ và lập dị của cha mẹ mình, song tôi thật sự hạnh phúc khi ở bên cô ấy và tôi muốn nhiều hơn thế nữa. Chúng tôi lấy nhau. Bố Ann, 1 kĩ sư giỏi, đã thiết kế hệ thống điều khiển cho 1 hệ thống tên lửa cực kì quan trọng và giữ 1 chức vị cao trong hải quân. Người bạn thân của ông mà cô ấy thường gọi là chú Frank (đây ko phải tên thật của ông ta) , là ủy viên cao cấp của cục an ninh quốc gia (NSA), 1 tổ chức gián điệp được rất ít người biết đến nhưng được coi là tổ chức gián điệp lớn nhất của Mỹ. Không lâu sau khi cưới, tôi nhận được giấy triệu tập đi khám sức khỏe của quân đội. Tôi đạt tiêu chuẩn về thể lực và có nguy cơ phải đi chiến đấu ở Việt Nam ngay sau khi tốt nghiệp. Ý nghĩ phải chiến đấu ở Đông Nam Á giằng xé tôi, mặc dù chiến tranh vẫn luôn hấp dẫn tôi. Tôi lớn lên qua những câu chuyện về tổ tiên tôi từ thời thuộc địa, trong đó có cả Thomas Paine và Ethan Allen- tôi đã từng đi khắp bang New England, đến thăm những chiến trường phía bắc bang New York, nơi từng diễn ra cuộc chiến giữa người Pháp với người da đỏ, và những cuộc chiến cách mạng. Tôi từng đọc tất cả những cuốn tiểu thuyết lịch sử mà tôi có thể tìm được. Thực ra, khi những đơn vị đầu tiên của lực lượng quân đội đặc biệt đặt chân đến Đông Nam Á, tôi đã hăm hở định nhập ngũ. Nhưng khi các phương tiện thông tin đại chúng phơi bày sự tàn nhẫn của chiến tranh và tính bất nhất trong các chính sách của chính phủ Mỹ, tôi đã thay đổi thái độ. Tôi luôn tự hỏi, nếu ở vào địa vị của tôi, không biết Paine sẽ đứng về phía nào? Và tôi dám chắc ông sẽ gia nhập Việt Cộng, kẻ thù của chúng tôi. Chú Frank đã cứu tôi. Ông cho tôi hay một công việc ở NSA sẽ giúp tôi hoãn phải đi quân dịch. Ông thu xếp cho tôi một loạt những cuộc gặp gỡ tại NSA, cả một ngày dài với những cuộc phỏng vấn đến kiệt sức với máy đo nhịp tim. Người ta nói, những cuộc kiểm tra đó cốt để xác định xem liệu tôi có phù hợp với công việc mà NSA tuyển và đào tạo hay không. Và nếu tôi đáp ứng được, họ sẽ lập ra cả một hồ sơ về những điểm mạnh, điểm yếu của tôi để rồi từ đó quyết định con đường sự nghiệp của tôi sau này. Với thái độ của tôi về cuộc chiến tranh ở Việt Nam, tôi tin chắc mình sẽ trượt. Trong đợt kiểm tra, tôi thú nhận rằng là môt người Mỹ trung thành, tôi phản đổi chiến tranh và tôi ngạc nhiên khi thấy những người phỏng vấn tôi chẳng quan tâm gì đến đề tài này. Thay vào đó, họ tập chung vào nền giáo dục mà tôi được hưởng, thái độ của tôi đối với cha mẹ, và cả những cảm xúc nảy sinh từ hoàn cảnh sống của tôi: Lớn lên trong một gia đình nghèo và hết sức nghiêm khắc, giữa quá nhiều bạn bè trường tư giàu có và trác táng. Họ cũng tìm hiểu kỹ tâmtrạng chán nản của tôi về cuộc sống thiếu đàn bà và tiền bạc cùng cái thế giới tưởng tượng của tôi xuất phát từ sự thiếu thốn đó. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy họ đặc biệt chú ý tới mối quan hệ giữa tôi và Farhad, và cả việc tôi sẵn sàng nói dối để bảo vệ cậu ta ở đồn cảnh sát. Thoạt đầu, tôi cho rằng, tất cả những điều mà tôi cho là quá tiêu cực này sẽ khiến NSA không nhận tôi, nhưng rồi những cuộc phỏng vấn vẫn tiếp tục. Mọi việc đã không như tôi nghĩ. Phải vài năm sau, tôi mới nhận ra rằng, những yếu tố tiêu cực này theo quan điểm của NSA lại là tích cực. Theo những đánh giá của họ, lòng trung thành của tôi với đất nước không quan trọng bằng sự chán nản của tôi trong đời. Sự hằn học của cha mẹ, nỗi ám ảnh về phụ nữ, và cả cái thamvọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn của tôi đã giúp họ tạo ra một cạm bẫy. Tôi đã bị xiêu lòng. Quyết tâm thể hiện trong học tập và trong thể thao, sự nổi loạn tột bậc chống lại cha tôi, khả năng kết thân với người nước ngoài và việc tôi sẵn sàng nói dối cảnh sát chính là cái kiểu tính cách mà họ đang tìm kiếm. Sau này, tôi cũng phát hiện ra rằng cha của Farhad làm việc cho những tổ chức tình báo Mỹ ở Iran, do vậy, tình bạn giữa tôi và Farhad rõ ràng đã cộng cho tôi thêm một điểm. Vài tuần sau cuộc kiểm tra của NSA, tôi được mời tham gia một khóa huấn luyện tình báo. Khóa này sẽ bắt đầu vài tháng ngay sau khi tôi nhận bằng tốt nghiệp tại BU. Tuy nhiên, trước khi chính thức nhận lời mời này, tôi lại bốc đồng tham dự một hội thảo do một nhân viên tuyển mộ thuộc Quân đoàn Hòa bình tổ chức tại BU. Điểm hấp dẫn nhất ở đây là, cũng giống như NSA, với việc làm ở Quân đoàn Hòa bình tôi sẽ được hoãn quân dịch. Quyết định tham gia hội thảo đó là một trong những sự kiện ngẫu nhiên mà vào thời điểmđó dường như chẳng có gì quan trọng, nhưng sau này lại làm thay đổi cả cuộc đời tôi. Người tuyển mộ giới thiệu một số nơi trên thế giới hiện đang rất cần các tình nguyện viên. Ông ta nhấn mạnh, một trong những địa điểm đó là rừng rậm Amazon, nơi mà những người bản xứ vẫn đang sống cuộc sống của những thổ dân Bắc Mỹ trước khi có sự xuất hiện của người Châu Âu. Tôi luôn mơ được sống như những người Abnakis, những người đã sinh sống ở New Hamphshire khi tổ tiên của tôi lần đầu tiên định cư tại vùng đất này. Tôi biết dòng máu Abnaki chảy trong huyết quản của mình, và tôi cũng muốn được học toàn bộ những hiểu biết và truyền thuyết về rừng mà họ có. Sau cuộc nói chuyện, tôi tìm gặp người tuyển mộ và hỏi về khả năng được cử đến Amazon. Ông ta cam đoan với tôi rằng, vùng này đang cần rất nhiều người tình nguyện và rất có khả năng là tôi sẽ được cử đến đó. Tôi gọi điện cho chú Frank. Trước sự ngạc nhiên của tôi, chú Frank khuyến khích tôi tham gia Quân đoàn Hòa bình. Ông tiết lộ, sau sự sụp đổ của Hà Nội- mà vào những ngày đó, đối với những người ở vị trí của ông, điều đó tưởng như đã chắc chắn- Amazon sẽ trở thành một điểm nóng. “Vùng đó có rất nhiều dầu lửa”, ông nói. “Ở đó chúng ta sẽ cần đến những đặc vụ giỏi những người hiểu rõ dân bản địa”. Ông đảm bảo với tôi rằng Quân đoàn Hòa bình sẽ là một trường đào tạo tuyệt vời. Ông cũng khuyên tôi nên thạo tiếng Tây Ban Nha cũng như tiếng địa phương. Ông cười: “ Rất có thể rốt cuộc cháu sẽ làm cho một công ty tư nhân chứ không phải cho chính phủ đâu”. Khi đó, tôi không hiểu ông có ý gì. Tôi đang được đào tạo nâng cao để từ một gián điệp trở thành một EHM mặc dầu trước đó và cho đến cả vài năm nữa, tôi vẫn chưa được nghe tới từ này. Tôi chẳng có khái niệm gì về việc có đến hàng trăm người, cả đàn ông, đàn bà, rải rác trên khắp thế giới, làm việc cho các công ty tư vấn và những công ty tư nhân khác. Họ chưa bao giờ nhận một đồng lương từ bất kỳ một tổ chức chính phủ nào, song vẫn không ngừng phục vụ vì lợi ích của cả một đế chế. Tôi cũng chẳng thể đoán nổi rằng, đến cuối thiên niên kỷ này, một nghề mới, được che đậy dưới rất nhiều cái tên khác nhau, sẽ thu hút đến hàng nghìn con người và rằng, tôi sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo dựng nên cả một đội quân không ngừng lớn mạnh. Ann và tôi nộp đơn xin gia nhập Quân đoàn Hòa bình và yêu cầu được đến vùng Amazon. Khi giấy báo chúng tôi được chấp nhận, cảm giác đầu tiên của tôi là cực kỳ thất vọng. Giấy báo viết, chúng tôi được cử đến Êcuađo. Trời ạ, tôi nghĩ, nơi tôi muốn đến là Amazon chứ không phải Châu Phi. Tôi kiến tập bản đồ và tìm Êcuađo. Tôi mất hết cả tinh thần khi chẳng thể tìm thấy Êcuađo trên bản đồ lục địa Châu Phi. Đến khi xem bảng chú giải, tôi mới biết rằng, thực ra Êcuađo nằm ở Châu Mỹ Lating và nhìn trên bản đồ, tôi thấy hệ thống sông chảy từ dãy núi băng Andy tạo thành thượng nguồn cho dòng sông Amazon hùng vĩ. Đọc thêm nữa, tôi càng chắc rằng những khu rừng rậm nhiệt đới của Êcuađo nằm trong số những khu rừng đa dạng và bí hiểm nhất thế giới. Những người bản xứ ở đó vẫn sống cuộc sống như họ đã sống từ hàng nghìn năm trước. Và chúng tôi đồng ý. Ann và tôi hoàn thành khóa đào tạo của Quân đoàn Hòa bình ở miền Nam California. Tháng 9 năm 1968, chúng tôi đi về phía Êcuađo. Chúng tôi đã sống trong rừng Amazon với người Shuar. Họ sống cuộc sống gần giống với cuộc sống của thổ dân Bắc Mỹ từ trước thời thuộc địa. Chúng tôi đã ở cùng với hậu duệ của người Incas trên núi Andy. Đó là phần của thế giới mà tôi chưa từng nghĩ là vẫn còn tồn tại. Cho đến khi đó, những người Mỹ Latinh duy nhất mà tôi từng biết là những học sinh tư thục giàu có ở trường của cha tôi. Tôi thấy mình gắn bó với những người bản xứ, những người vốn chỉ sống dựa vào săn bắn và trồng trọt. Thật kỳ lạ, tôi có cảm giác như họ là những người ruột thịt của tôi vậy. Dù sao thì họ cũng làm tôi nhớ tới đám bạn bè thị trấn mà tôi đã bỏ lại đằng sau. Một hôm, có người đàn ông, đóng bộ complet rất lịch sự, tên là Einar Greve, bay đến chỗ chúng tôi. Ông là Phó chủ tịch Chas.T.Main,Inc. (MAIN), một hãng tư vấn quốc tế rất ít khuyếch trương, có trách nhiệm tiến hành các nghiên cứu để quyết định xem Ngân hàng Thế giới có nên cho Êcuađo và những quốc gia láng giềng vay hàng tỷ đô la để xây dựng đập thủy điện và những dự án hạ tầng cơ sở khác hay không. Einar cũng là đại tá trong lực lượng Quân dự bị Mỹ. Einar bắt đầu kể cho tôi nghe về những lợi ích khi làm việc cho một công ty kiểu như MAIN. Khi tôi nói, tôi từng được NSA tuyển trước khi gia nhập Quân đoàn Hòa bình, và rằng tôi đang cân nhắc việc quay trở lại làm việc cho họ, ông ta cho tôi hay, ông còn đóng vai trò sĩ quan liên lạc của NSA. Ánh mắt của ông ta khiến tôi ngờ rằng, một trong những nhiệm vụ của ông ta ở đây là đánh giá năng lực của tôi. Giờ thì tôi tin chắc rằng khi đó ông ta đang cập nhập hồ sơ của tôi, và đặc biệt là đánh giá khả năng sống sót của tôi trong những môi trường mà hầu hết người Bắc Mỹ thấy không thể chịu đựng được. Chúng tôi làm việc với nhau vài ngày ở Êcuađo, rồi sau đó chỉ liên hệ qua thư từ. Ông ta đề nghị tôi gửi cho ông ta các báo cáo đánh giá triển vọng kinh tế của Êcuađo. Tôi có một máy chữ xách tay loại nhỏ, lại thích viết lách và rất thích thú với đề nghị này. Trong khoảng một năm, tôi đã gửi cho Einar ít nhất khoảng mười lăm lá thư dài. Trong thư, tôi nhận định tương lai kinh tế, chính trị của Êcuađo, bình luận về nỗi tuyệt vọng ngày càng lớn dần của những người dân bản địa khi họ chiến đấu chống lại các công ty dầu mỏ, các tổ chức phát triển quốc tế và cả những thế lực khác hòng kéo họ vào cái thế giới hiện đại của chúng tôi. Khi nhiệm vụ của tôi ở Quân đoàn Hòa bình kết thúc, Einar mời tôi tham gia phỏng vấn xin việc tại trụ sở chính của MAIN ở Boston. Trong cuộc gặp riêng giữa hai chúng tôi, Einar nhấn mạnh, MAIN chủ yếu hoạt động trong ngành công trình. Song, khách hàng lớn nhất của công ty là Ngân hàng Thế giới gần đây lại nhất định muốn ông tuyển thêm nhân viên là các nhà kinh tế, những người có thể đưa ra những dự báo kinh tế quan trọng, nhằm xác định tính khả thi và quy mô của các dự án đầu tư. Einar tiết lộ cho tôi biết, trước đây ông ta đã từng thuê ba nhà kinh tế tầmcỡ không chê vào đâu được- hai trong số đó có bằng cao học và một số có bằng tiến sỹ. Nhưng họ đều thất bại thảm hại. Einar nói: “Không ai trong số họ có khả năng dự báo kinh tế cho những quốc gia nơi chẳng hề có con số thống kê đáng tin cậy nào”. Ông ta còn bảo, tất cả bọn họ đều thấy không thể đảmđương được những công việc mà ông ta yêu cầu, như đến những vùng xa xôi ở những nước như Êcuađo, Inđonêxia, Iran hay Ai Cập, gặp gỡ với lãnh đạo địa phương, rồi đưa ra những đánh giá cá nhân về triển vọng phát triển kinh tế của những vùng đó. Một người thậm chí đã suy nhược thần kinh phải sống trong một ngồi làng biệt lập ở Panama. Cảnh sát nước này phải đưa anh ta ra sân bay và tống lên máy bay trở về Mỹ. “Những lá thứ của cậu cho tôi thấy rằng cậu sẵn sàng liều mạng, ngay cả khi cậu chẳng có chút dữ liệu đáng tin cậy nào. Và nhìn điều kiện sống của cậu ở Êcuađo, tôi tin cậu có thể sống sót ở bất cứ đâu”. Einar nói với tôi rằng ông ta đã sa thải một trong ba nhà kinh tế kia và sẵn sàng sa thải nốt hai người còn lại nếu tôi đồng ý làm công việc này. Vậy là, tháng 1 năm 1971, tôi được đề nghị trở thành chuyên gia kinh tế cho MAIN. Tôi đã qua tuổi hai sáu- một cái tuổi kỳ diệu vì tôi không còn lo phải đi lính nữa. Tôi hỏi ý kiến gia đình Ann. Mọi người khích lệ tôi nhận công việc này, và tôi nghĩ chú Frank chắc cũng đồng tình với họ. Tôi nhớ lại hồi ông nói rồi tôi có thể sẽ làm cho một công ty tư nhân. Chẳng có gì rõ ràng ngay từ đầu cả, nhưng tôi chắc rằng, công việc của tôi ở MAIN rõ ràng là kết quả của chính những sự sắp đặt mà chú Frank đã chuẩn bị cho tôi từ ba năm trước, cộng thêm những kinh nghiệm của tôi ở Êcuađo và việc tôi yêu thích nghiên cứu về thực trạng kinh tế, chính trị của quốc gia này. Tôi trăn trở trong nhiều tuần, và cái tôi trong tôi trỗi dậy. Tấm bằng cử nhân mà tôi nhận được từ BU không thể mang lại cho tôi vị trí một nhà kinh tế tại một công ty tư vấn tiếng tăm đến như vậy. Tôi biết, rất nhiều bạn học của tôi, những người không đủ tiêu chuẩn đi lính và đã kịp kiếm thêm bằng cao học hay trên đại học khác nữa sẽ phát ghen lên với tôi. Tôi tự hình dung ra mình trong vai trò một điệp viên bí mật hào hoa, ở những vùng đất lạ, nhỏn nhơ bên những bể bơi khách sạn, xung quanh là hàng tá đàn bà mặc bikini tuyệt đẹp với ly rượu Matini trên tay. Dù đó đơn thuần chỉ là tưởng tượng, song tôi biết sự thật cũng sẽ gần như thế. Einar đã tuyển tôi để làm chuyên gia kinh tế, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra rằng, công việc thật sự của tôi còn đi xa hơn thế. Quả thực, nó giống với công việc của một James Bond hơn những suy đoán của tôi rất nhiều. Chương 2 “Không đường lui” Về mặt luật pháp, MAIN là một công ty cổ phần không công khai; chỉ có khoảng 5% trong số 2.000 nhân viên sở hữu toàn bộ công ty này. Người ta gọi họ là các đối tác hay các hội viên, vị trí mà rất nhiều người ao ước. Chẳng những các đối tác có quyền sai khiến tất cả mọi người mà họ còn kiếm được rất nhiều tiền. Điểm khác biệt là họ kín đáo. Họ thân quen với các nguyên thủ quốc gia, lãnh đạo các tập đoàn, những người luôn đòi hỏi các chuyên gia tư vấn, cũng giống như các luật sư và bác sĩ tâm lý của họ phải tuân thủ những chuẩn mực cực kỳ chặt chẽ về sự cẩn mật tuyệt đối. Nói chuyện với báo chí là điều cấm kỵ. Điều này đơn giản là không thể tha thứ được. Vì vậy mà hầu hết như chẳng có ai ngoài những nhân viên của MAIN biết về công ty, mặc dù nhiều người trong số họ có thể quen thuộc với những đối thủ của chúng tôi như Arthur D.Little, Stone & Webster, Brown & Root, Halliburton, và Bechtel. Cụm từ “những đối thủ” mà tôi dùng không chính xác lắm vì trên thực tế những công ty này cũng cùng hội cùng thuyền với MAIN. Phần lớn nhân viên có chuyên môn của chúng tôi là các kỹ sư, mặc dù chúng tôi chẳng hề có máy móc thiết bị gì và cũng chưa từng xây dựng dù chỉ là một kho chứa đồ. Nhiều nhân viên của MAIN từng tham gia quân đội; tuy nhiên, chúng tôi chẳng có liên hệ gì với Bộ Quốc phòng hay với bất kỳ đơn vị quân đội nào. Phương tiện làm việc của chúng tôi khác lạ đến nỗi trong những tháng đầu làm việc ở đó, tôi không thể hiểu nổi công việc thực sự của chúng tôi là gì. Điều duy nhất mà tôi biết là nhiệm vụ đầu tiên của tôi sẽ là Inđônêxia, trong một nhóm gồm 11 người, được cử đến để xây dựng quy hoạch năng lượng tổng thể cho đảo Java. Tôi cũng biết là Einar và những người có liên quan đến công việc này đang cố thuyết phục tôi rằng nền kinh tế Java sẽ tăng trưởng mạnh, và nếu tôi muốn được coi là một chuyên gia dự báo kinh tế giỏi (và nhờ vậy sẽ có cơ hội thăng tiến), tôi sẽ phải đưa ra những dự báo đúng như vậy. “Từ những biểu đồ trong bản dự báo”, Einar thường nói. Ông ta vung tay trên đầu: “Một nền kinh tế sẽ bay vút lên như một cánh chim”. Einar thường đi công tác ngắn hạn, chỉ trong vòng hai đến ba ngày. Không ai bàn luận gì về những chuyến đi này và có vẻ như chẳng ai biết là ông ta đi đâu. Lúc tôi có mặt ở văn phòng, ông ta thường mời tôi vào nói chuyện đôi lát bên tách cà phê. Ông hỏi về Ann, về căn hộ mới của chúng tôi và về con mèo mà chúng tôi mang về từ Êcuađo về. Và tôi cố tìm hiểu thêm về ông cũng như về điều mà mọi người trông chờ tôi thực hiện. Nhưng ông thường tránh không trả lời. Einar cực giỏi trong việc lái các câu chuyện sang hướng khác. Một lần, trong một cuộc nói chuyện tương tự, tôi thấy ông nhìn tôi rất lạ: “Anh không cần phải lo lắng đến thế”, ông ta nói. “Chúng tôi trông đợi nhiều ở anh. Mới đây tôi có đến Washington...” Ông kéo dài giọng và mỉm cười bí hiểm. “Dầu sao đi nữa, thì anh cũng nên biết rằng, chúng ta hiện có một dự án lớn ở Cô oét. Vẫn còn thời gian trước khi anh phải đi Inđônêxia. Tôi nghĩ anh nên dành thời gian trước khi anh phải đi Inđônêxia. Tôi nghĩ anh nên dành thời gian đó để nghiên cứu về Cô oét. Thư viện Công cộng Boston (BPL) có nguồn tư liệu rất lớn, và chúng tôi cũng có thể giới thiệu anh đến các thư viện của MIT và Harvard”. Sau cuộc nói chuyện hôm đó, tôi đã dành nhiều thời gian đến những thư viện này, đặc biệt là Thư viên Công cộng Boston, chỉ cách văn phòng có vài tòa nhà và rất gần với căn hộ của tôi ở Back Bay. Tôi trở nên quen thuộc với Cô oét, và đọc rất nhiều sách về thống kê kinh tế do Liên Hiệp Quốc, Quỹ tiền tệ (IMF), và Ngân hàng Thế giới (WB) phát hành. Tôi biết, người ta đang mong chờ tôi xây dựng các mô hình kinh tế lượng cho Inđônêxia và Java. Tôi quyết định bắt đầu bằng cách làm một mô hình cho Cô oét. Tuy vậy, bằng cử nhân quản trị kinh doanh không chuẩn bị cho tôi thành một nhà kinh tế lượng, vì thế, tôi đã phải bỏ ra rất nhiều thời gian để tìm hiểu về môn này. Tôi thậm chí còn đăng ký tham gia một vài khóa học về nó nữa. Trong quá trình hoc, tôi nhận thấy rằng, các số liệu thống kê có thể được trình bày theo nhiều cách để đi đến rất nhiều kết luận khác nhau, kể cả để làm theo ý thích của người phân tích. MAIN là công ty của phái mạnh. Vào năm 1971, chỉ có 4 phụ nữ nắm giữ các vị trí chuyên môn. Tuy nhiên, có khoảng 200 nhân viên nữ giữ các vị trí thư ký- mỗi vị phó chủ tịch và giám đốc công ty có 1 thư ký- và có cả một nhóm tốc ký, phục vụ những nhân viên khác. Tôi đã quen với sự bất bình đẳng giới này. Vì vậy mà một hôm, trong phòng tra cứu của Thư viện Công cộng Boston, tôi vô cùng sửng sốt trước những gì xảy ra. Một cô gái tóc nâu quyến rũ xuất hiện và ngồi vào chiếc ghế bên cái bàn đối diện với tôi. Trong bộ vét nữ xanh thẫm, trông cô ta thật sành điệu. Tôi đoán cô ta hơn tôi vài tuổi, song tôi cố không chú ý đến cô ta, và giả bộ thờ ơ. Vài phút sau, chẳng nói một lời, cô ta đẩy một cuốn sách đang mở về phía tôi. Trong đó có một danh mục các thông tin mà tôi đang tìm kiếm về Cô oét- và một tấm danh thiếp có tên cô ta, Claudine Martin, với chức danh chuyên gia tư vấn đặc biệt của Chas.T.Main,Inc. Tôi ngẩng lên, nhìn vào đôi mắt xanh nhạt của cô, và cô chìa tay ra. “Tôi được giao nhiệm vụ hướng dẫn anh”, cô ta nói. Có trong mơ tôi cũng không thể tưởng tượng được điều đang xảy ra với tôi. Kể từ ngày hôm sau, chúng tôi gặp nhau ở căn hộ của Claudine trên phố Boston, cách Trung tâm Prudential nơi MAIN đặt trụ sở vài tòa nhà. Ngay từ đầu, Claudine đã giải thích, vị trí của tôi rất đặc biệt và vì vậy chúng tôi phải hết sức giữ bí mật. Cô cũng nói, chẳng ai có thể nói cụ thể về công việc cho tôi cả vì không ai có quyền làm như vậy- trừ cô ta. Rồi Claudine cho tôi biết, nhiệm vụ của cô ta là biến tôi trở thành một sát thủ kinh tế (EHM). Cái tên đó đã đánh thức những giấc mơ trinh thám xưa cũ của tôi. Tôi bối rối vì tiếng cười bồn chồn của mình. Cluadine mỉm cười và cam đoan với tôi rằng, sự hài hước chính là một trong những lý do để họ chọn cụm từ này. “Ai có thể ngờ đó thật chứ?”, cô ta nói. Tôi phải thú nhận rằng mình chẳng hiểu tí gì về vai trò của một sát thủ kinh tế. “Anh không phải là người duy nhất không biết điều này”, cô cười lớn. “sát thủ kinh tế là những con át chủ bài trong một ván bài bẩn thỉu. Không ai được biết về công việc của anh- thậmchí cả vợ anh”. Cô ta nghiêm giọng. “Tôi sẽ rất thành thật với anh, trong những tuần tới, tôi sẽ dạy anh tất cả những gì tôi biết. Sau đó anh phải lựa chọn. Quyết định của anh là cuối cùng. Một khi đã dấn thân vào, anh sẽ không có có đường lùi.” Kể từ đó, hiếm khi cô ta sử dụng tên đầy đủ; chúng tôi chỉ đơn giản là những EHM. Giờ thì tôi đã biết những gì mà khi đó tôi chưa biết. Thực sự là Claudine đã lợi dụng được tất cả những điểm yếu trong tính cách của tôi mà tập hồ sơ ở NSA đã phơi bày. Tôi không biết ai đã cung cấp cho Claudine các thông tin đó- Einar, NSA, phòng nhân sự của MAIN, hay một ai khác, chỉ biết rằng cô ta đã sử dụng chúng hết sức tài tình. Cô ta dùng cả sức hấp dẫn ngoại hình của mình, và cả lời nói để điều khiển tôi, mặc dù vậy, tất cả vẫn đúng mực, vẫn trong khuôn phép của những cách thức thông thường mà tôi đã thấy người ta áp dụng trong những phi vụ làm ăn tuy béo bở nhưng đầy mạo hiểm. Ngay từ đầu, Claudine biết rằng tôi không đời nào mạo hiểm cuộc hôn nhân của mình để tiết lộ ra những hoạt động của chúng tôi. Cô ta thẳng thắn đến tàn nhẫn khi nói về sự đen tối của những gì mà tôi sẽ phải làm. Đến giờ tôi vẫn không biết ai trả lương cho Claudine, tuy vậy chẳng có lý do gì mà không tin rằng đó là MAIN, như chính danh thiếp của cô ta cũng cho thấy. Nhưng khi đó, tôi quá ngây thơ, quá choáng váng và khiếp sợ nên không thể hỏi những câu hỏi mà giờ đây đã trở nên quá rõ ràng. Claudine nói rằng công việc của tôi nhằm hai mục tiêu chính. Trước tiên, tôi phải hợp lý hóa những khoản vay quốc tế khổng lồ mà sau này sẽ đổ trở lại MAIN và các công ty Mỹ khác (như Bechtel, Halliburton, Stone & Webster, và Brown & Root) qua các dự án xây dựng và công trình quy mô lớn. Sau đó, tôi sẽ làm cho những nước nhận các khoản vay này vỡ nợ (tất nhiên là sau khi họ đã trả tiền cho MAIN và các nhà thầu Mỹ khác) để vì thế mà các nước này sẽ mãi mãi phải chịu ơn chủ nợ. Nhờ vậy, mỗi khi chúng ta cần gì họ sẽ sẵn sàng đáp ứng, kể từ việc đặt các căn cứ quân sự, hay bỏ phiểu ở Liên Hợp Quốc, cho đến khả năng tiếp cận dầu và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác. Claudine nói, công việc của tôi là dự báo tác động của việc đầu tư cho một nước hàng tỷ đô la. Cụ thể là tôi sẽ phải đưa ra những nghiên cứu về dự báo tăng trưởng kinh tế cho 20 đến 25 năm sau, và đánh giá tác động của hàng lọat các dự án. Ví dụ, nếu người ta quyết định cho một nước vay 1 tỷ USD để thuyết phục nước này không liên kết với Liên Xô, tôi sẽ phải so sánh giữa lợi ích của việc đầu từ cho một mạng lưới đường sắt quốc gia mới hoặc một hệ thống viễn thông. Hoặc người ta có thể bảo tôi rằng nước đó đang có cơ hội được tiếp nhận một hệ thống điện hiện đại. Và rằng nhiệm vụ của tôi là phải chứng minh được, một hệ thống như vậy sẽ mang lại mức tăng trưởng kinh tế đủ mạnh, tương xứng với khoản vay đó. Trong mọi trường hợp, yếu tố mang tính quyết định là tổng sản phẩm quốc dân GNP. Dự án thắng cuộc là dự án mang lại tốc độ tăng trưởng GNP trung bình hàng năm cao nhất. Nếu chỉ có một dự án cần được xem xét, tôi sẽ phải chứng minh rằng dự án đó sẽ mang lại những lợi ích tốt nhất cho GNP. Điều không bao giờ được nói ra trong những dự án kiểu này là chúng được dựng lên nhằm mang lại những khoản lợi nhuận béo bở cho các nhà thầu và chỉ làm lợi cho một số ít những người giàu có và có thế lực ở nước nhận dự án mà thôi, còn thì vẫn phải bảo đảm rằng, các nước này về lâu dài phải chịu phụ thuộc về tài chính và từ đó buộc phải trung thành với nước Mỹ. Khoản vay càng lớn càng tốt. Người ta đã không tính đến cái khả năng gánh nặng nợ đặt lên vai một nước sẽ cướp đi của những người dân khốn cùng ở nước đó sức khỏe, giáo dục và các dịch vụ xã hội khác trong nhiều thập niên tiếp theo. Claudine và tôi đã tranh luận hết sức cởi mở về bản chất dối lừa của GNP. Ví dụ GNP có thể tăng ngay cả khi sự tăng trưởng đó có thể chỉ mang lại lợi ích cho một người, ví dụ như chủ một công ty dịch vụ công, trong khi phần đông dân chúng phải oàn vai gánh nợ. Người giàu càng giàu hơn, người nghèo ngày càng nghèo đi. Mặc dù vậy, theo những con số thống kê, điều này vẫn được nhìn nhận là tiến bộ kinh tế. Như phần lớn các công dân Mỹ, hầu hết những người làm cho MAIN tin rằng chúng ta đang ban phát đặc ân cho các nước khác khi xây dựng các nhà máy điện, đường cao ốc, và cảng biển. Trường học và báo chí dạy chúng ta rằng, tất cả những việc làm của chúng ta xuất phát từ lòng bác ái. Trong nhiều năm trời, tôi được nghe đi nghe lại những câu nói như “Nếu họ đốt cờ Mỹ và biểu tình chống sứ quán của chúng ta thì tại sao chúng ta không bỏ đi khỏi cái đất nước chết tiệt của họ và để họ sa lầy trong chính sự nghèo đói của họ nhỉ?” Những người nói như vậy thường là những người có bằng cấp, bằng chứng cho thấy họ được giáo dục tốt. Song, họ không hề biết rằng, lý do chính để chúng ta đặt đại sứ quán của mình trên khắp thế giới là để phục vụ cho lợi ích của chính chúng ta, và trong nửa cuối thế kỷ XX, điều này có nghĩa là biến nước Mỹ thành một Đế chế toàn cầu. Bằng cấp cũng không làm cho họ hiểu biết hơn những tên thực dân thể kỷ XVIII khi những tên này tin rằng những người da đỏ đang chiến đấu bảo vệ đất đai của chính mình là tôi tớ của quỷ Sa tăng. Trong vài tháng sau đó, tôi sẽ phải đến đảo Java của Inđônêxia, khi đó được mô tả như một điểm có mật độ dân số đông nhất hành tinh. Rất ngẫu nhiên, Inđônêxia cũng là một nước Hồi giáo có nhiều dầu mỏ,... “Đó sẽ là quân đôminô tiếp sau Việt Nam”, Claudine thường nói. “Chúng ta phải lôi kéo người dân Inđônêxia về phía mình. Chà, họ mà không theo chúng ta thì...” cô ta đưa ngón trỏ lên vạch ngang qua cổ và mỉm cười ngọt ngào. “Thôi, chỉ cần biết là anh phải đưa ra được một dự báo cự kỳ lạc quan về nền kinh tế, rằng nó sẽ lớn mạnh đến thế nào khi mà tất cả các nhà máy, mạng lưới điện được xây dựng. Dự báo đó sẽ khiến USAID và các ngân hàng quốc tế đồng ý cho nước này vay tiền. Tất nhiên, anh sẽ được trả công xứng đáng, anh có thể tiếp tục đến với những dự án khác ở những nơi mới lạ. Thế giới sẽ là của anh”. Song, cô ta cũng nói trước là vai trò của tôi sẽ vô cùng khó khăn. “Các chuyên gia ngân hàng sẽ bám sát anh. Nhiệm vụ của họ là tìm ra những kẽ hở trong các dự báo của anh- đó là nghề của họ. Phát hiện ra những điểm yếu của anh là công việc của họ”. Một hôm, tôi nhắc với Claudine là còn có 10 người khác nữa trong nhóm nhân viên của MAIN được cử đế Java. Liệu có phải tất cả họ đều đang được huấn luyện như tôi không? Claudine đảm bảo với tôi là không. “Họ là các kỹ sư”, cô ta nói. “Họ thiết kế các nhà máy điện, các mạng lưới truyền tải và phân phối điện, các cảng biển, đường bộ để chuyển tải nhiên liệu. Còn anh có nhiệm vụ dự báo tương lai. Các dự báo của anh sẽ quyết định quy mô của những hệ thống mà họ thiết kế- và vì thế cả quy mô của khoản vay. Anh thấy đấy anh là người quan trọng nhất”. Mỗi lần ra khỏi căn hộ của Claudine, tôi tự hỏi liệu những điều mình đang làm có đúng không? Tự trong đáy lòng, tôi thấy nghi ngờ những việc mình đang làm. Nhưng rồi những chán nản của quá khứ cứ bám riết lấy tôi. Dường như MAIN đã mang lại cho tôi mọi điều mà từ trước tới nay tôi chưa bao giờ có. Tuy nhiên, tôi cứ tự hỏi, nếu ở địa vị của tôi, liệu Tom Pain có làm như thế không? Cuối cùng, tôi tự thuyết phục mình rằng chính bằng việc tìm hiểu nhiều hơn, và trải nghiệm những điều đó, sau này tôi sẽ có thể vạch trần nó- tham gia vào để hiểu là cách chứng minh xưa cũ nhất. Khi tôi nói điều này với Claudine, cái nhìn của cô ta khiến tôi bối rối. “Đừng có ngớ ngẩn thế. Một khi đã dấn thân vào, anh sẽ không có đường lui. Anh phải quyết định, trước khi tiến xa hơn nữa.” Tôi hiểu, và những gì Claudine nói khiến tôi hoảng sợ. Sau khi rời căn hộ của Claudine, tôi lang thang xuống đại lộ Commonwealth, qua phố Darmouth, và tự nhủ rằng mình là một ngoại lệ. Vài tháng sau, vào một buổi chiều, Claudine và tôi ngồi trên ghế sofa cạnh cửa sổ ngắmtuyết rơi trên phố Beacon. “Chúng tôi là một nhóm đặc biệt”, cô ta nói. “Chúng ta được trả công rất hậu hĩnh- để đi khắp thế giới lừa đảo hàng tỷ đô la. Phần lớn công việc của anh là khuyến khích lãnh đạo các nước trên thế giới tham gia vào một mạng lưới vô cùng rộng lớn nhằm phục vụ cho lợi ích thương mại của nước Mỹ. Kết cụ là, các nhà lãnh đạo này sẽ bị sa lầy vào một mớ nợ nần. Gánh nặng nợ này bảo đảm rằng họ sẽ phải trung thành với nước Mỹ. Chúng ta có thể bòn rút của họ bất cứ khi nào chúng ta muốn- để thỏa mãn những nhu cầu kinh tế, chính trị hoặc quân sự của chúng ta. Đổi lại, các nhà lãnh đạo đó sẽ có cơ hội củng cố vị thế chính trị của họ bằng việc mang lại cho người dân của mình những khu công nghiệp, nhà máy điện, và sân bay. Cùng lúc, các công ty xây dựng và lắp ghép Mỹ cũng sẽ trở nên rất giàu có”. Buổi chiều đó, trong căn phòng yên ả của Claudine, thư thả ngắm những bông tuyết xoay xoay bên cửa sổ, tôi biết thêm về nguồn gốc công việc mà tôi sắp dấn thân vào. Claudine kể, trong hầu hết chiều dài lịch sử, các đế chế lớn đều được tạo dựng nhờ sức mạnh quân sự hoặc mối đe dọa của nó. Song, cùng với sự kết thúc của cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ II, sự lên ngôi của Liên bang Xô viết, và nỗi ám ảnh về sự hủy diệt của vũ khí hạt nhân đã khiến chiến tranh trở thành một giải pháp quá nguy hiểm. Năm 1951 là thời điểm mang tính quyết định khi Iran vùng lên chống lại một công ty dầu khí Anh đang khai thác tài nguyên thiên nhiên và bóc lột người dân nước này. Công ty này chính là tiền thân của tập đoàn dầu mỏ BP ngày nay. Thủ tướng Iran, người được bầu hết sức dân chủ và chiếm được lòng dân (người đã từng đạt danh hiệu Người đàn ông của năm do tạp chí Time bình chọn năm 1951), Mohammad Mossadegh, đã tiến hành quốc hữu hóa tất cả các tài sản dầu khí của Iran. Bị lăng nhục, nước Anh đã tìm sự giúp đỡ từ đồng minh trong Thế chiến Hai, đó là Mỹ. Song, cả hai nước đều sợ rằng sự trả đũa bằng quân sự sẽ khiến Liên Xô đứng ra thay Iran hành động. Do vây, thay vì cử binh chủng lính thủy đánh bộ đến Iran, Washington đã phái nhân viên mật vụ CIA Kermit Rooservelt (cháu nội của Theodore) đi. Anh ta đã hoàn thành sứ mệnh một cách hoàn hảo, lôi kéo người dân Iran bằng cả tiền và những lời đe dọa. Rồi anh ta xúi giục họ dấy lên hàng loạt những vụ phá rối trên đường phố và các cuộc biểu tình bạo động, nhằm tạo ấn tượng là Mossadegh không được lòng dân và không có năng lực lãnh đạo. Cuối cùng, Mohammad Reza Sha, một kẻ thân Mỹ lên nắm quyền và trở thành một tên độc tài chưa từng có. Kermit Roosevelt đã dựng lên một vũ đài cho một nghề nghiệp mới, cái nghê mà tôi sắp bước vào.(1) Viên gạch đầu tiên mà Rooservelt đặt đã tái hiện lịch sử của Trung Đông, đồng thời biến tất cả những chiến lược nhằm mưu đồ quyền lực trước đây trở nên lạc hậu. Nó diễn ra cùng lúc với việc bắt đầu hàng loạt các cuộc thử nghiệm “can thiệp quân sự phi hạt nhân”, mà cuối cùng đưa đến sự thất bại ê chề của Mỹ ở Triều Tiên và Việt Nam. Đến năm 1968, năm mà tôi được NSA phỏng vấn, thì vấn đề đã trở nên khá rõ ràng. Nếu muốn thực hiện giấc mơ trở thành một đế quốc toàn cầu (như nguyện vọng của Tổng thống Johnson và Nixon), thì Mỹ buộc phải áp dụng chiến lược kiểu như Rooservelt đã thực hiện ở Iran. Đó là cách duy nhất để đánh bại Liên Xô, đồng thời tránh được hiểm họa bùng nổ một cuộc chiến tranh hạt nhân. Song còn một vấn đề nữa. Kermit Rooservelt là một nhân vật của CIA. Nếu bị bắt, hậu quả sẽ thật kinh khủng. Anh ta đã dàn dựng thành công âm mưu lật đổ một chính phủ nước ngoài đầu tiên của Mỹ, và nhiều người sẽ nối tiếp anh ta, nhưng điều quan trọng là tìm cách giấu đi vai trò của Washington. Thật may cho các nhà chiến lược, những năm 60 còn chứng kiến một cuộc cách mạng khác nữa: đó là việc trao quyền cho các tập đoàn quốc tế và các tổ chức đa quốc gia như Ngân hàng Thế giới- WB, Quỹ tiền tệ- IMF chủ yếu do Mỹ và các cường quốc chị em ở Châu Âu tài trợ. Mối quan hệ hai bên cùng có lợi giữa các chính phủ, các tập đoàn, và các tổ chức đa quốc gia được hình thành. Vào thời điểm tôi ghi tên vào khoa quản trị kinh doanh của BU, giải pháp cho vấn đề Roosevelt- là mật vụ CIA đã được đưa ra. Các cơ quan tình báo Mỹ- trong đó có NSA có nhiệm vụ phát hiện những người có khả năng trở thành EHM, và sau đó các tập đoàn quốc tế sẽ thuê họ. Các EHM này sẽ không bao giờ nhận lương từ chính phủ; thay vào đó, khu vực tư nhân sẽ trả lương cho họ. Kết quả là, các công việc bẩn thỉu của họ, nếu có bị bại lộ, sẽ chỉ bị coi là sự hámlợi của các tập đòan chứ không phải do các chính sách của chính phủ. Hơn nữa, các tập đòan thuê họ, dù được các tổ chức chính phủ và các đối tác ngân hàng đa quốc gia trả lương (bằng tiền thuế của người dân), sẽ tránh được sự giám sát của quốc hội và tai mắt của công chúng, được bảo vệ bởi một hàng rào luật pháp với những điều luật như luật thương hiệu, luật thương mại quốc tế và luật về tự do thông tin.(2) “Anh thấy không”, Claudine kết luận, “chúng ta chỉ là thế hệ tiếp bước một truyền thống đáng tự hào có từ khi anh còn học lớp một”. Chương 3 Những bài học cho một EHM Ngoài việc tìm hiểu thêm về công việc mới, tôi cũng dành nhiều thời gian để đọc những cuốn sách viết về Inđônêxia. Claudine khuyên: “Càng hiểu rõ về đất nước mà anh sắp đến thì công việc của anh sẽ càng dễ dàng hơn”. Một lời khuyên mà tôi luôn ghi lòng tạc dạ. Năm 1492, Columbus căng buồm ra khơi với cái đích là Inđônêxia, lúc đó được biết đến dưới cái tên Quần đảo Hương liệu. Trong suốt thời kỳ thực dân, quần đảo này được coi là một kho báu còn đáng giá hơn cả châu Mỹ. Đảo Java, với các chủng loại vải vóc phong phú, các loại gia vị hư truyền, những vương quốc thịnh thượng, là viên ngọc quý nhưng cũng là nơi luôn xảy ra những cuộc xung đột giữa các nhà thám hiểm người Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh và Bồ Đào Nha. Năm 1750, Hà Lan giành chiến thắng, nhưng cho dù có kiểm soát được Java, phải mất 150 nămsau họ mới chinh phục được hết các hòn đảo xung quanh. Trong Đại chiến Thế giới lần II, quân Nhật xâm lược Inđônêxia, Hà Lan chống cự rất yếu ớt. Kết quả là người dân Inđônêxia, đặc biệt là dân đảo Java, phải chịu đựng sự thống trị rất khắc nghiệt. Sau khi quân Nhật đầu hàng, Sukarno, một nhà lãnh đạo có uy tín đứng lên giành độc lập. Cuộc chiến kéo dài bốn năm, cuối cùng đã kết thúc vào ngày 27 tháng 12 năm 1949, khi thực dân Hà Lan hạ cờ và trả lại chủ quyền cho một dân tộc trong suốt ba thế kỷ không biết đến gì khác ngoài những cuộc đấu tranh và vươn tới. Sukarno trở thành vị Tổng thống đầu tiên của nước cộng hòa non trẻ. Tuy nhiên điều hành đất nước Inđônêxia lại là một thách thức lớn hơn nhiều so với đấu tranh chống lại thực dân Hà Lan. Quần đảo gồm 17.500 hòn đảo nhỏ không đồng nhất này luôn sôi sục bởi những cuộc xung đột giữa các bộ tộc, các nền văn hóa cùng hàng chục các ngôn ngữ và thổ ngữ, những nhóm dân tộc thiểu sổ hận thù nhau hàng thế kỷ. Sukarno đã phải quyết liệt ngăn chặn các cuộc xung đột ác liệt thường xuyên xảy ra. Năm 1960, ông giải tán Quốc hội và vào năm1963 được bổ nhiệm làm Tổng thống vô thời hạn. Ông hình thành những liên minh với các chính phủ cộng sản trên khắp thế giới để đổi lấy các trang thiết bị và đào tạo về quân sự. Ông cử những đội quân Inđônêxia được Nga trang bị vũ khí sang nước láng giềng Malaysia nhằm khuyếch trương chủ nghĩa cộng sản ra tòan khu vực Đông Nam Á và để giành được sự chấp nhận từ phía các nhà lãnh đạo các nước xã hội chủ nghĩa. Vào năm 1965, phe đối lập hình thành và một cuộc đảo chính được phát động. Sukarno thoát chết trong vụ ám sát chỉ nhờ vào sự nhanh trí của tình nhân. Nhưng nhiều sĩ quan cao cấp trong quân đội và những phụ tá thân cận của ông đã không may mắn như vậy. Sự kiện này chẳng khác gì những vụ việc xảy ra ở Iran năm 1953. Cuối cùng, Đảng Cộng sản- đặc biệt là những phe phái có liên minh với Trung Quốc bị quy kết trách nhiệm. Trong những cuộc thảm sát do quân đội tiến hành sau đó, ước tính có khoảng ba trăm nghìn đến năm trăm nghìn người bị giết. Người đứng đầu quân đội, Tướng Suharto, tiếp quản chức vụ Tổng thống năm 1968. Năm 1971, những diễn biến bất lợi của cuộc Chiến tranh Việt Nam khiến Mỹ càng nâng cao quyết tâm thuyết phục Inđônêxia từ bỏ chủ nghĩa cộng sản. Vào mùa hè năm 1969, Tổng thống Nixon cho bắt đầu các cuộc rút quân hàng loạt và Mỹ bắt đầu một chiến lược toàn cầu hơn. Chiến lược của Mỹ đặc biệt hướng vào một số nước; Inđônêxia đóng vai trò then chốt. Dự án điện khí hóa của MAIN là một phần trong toàn bộ kế hoạch nhằm đảm bảo cho vị thế của Mỹ tại khu vực Đông Nam Á. Theo quan điểm ngoại giao của Mỹ, Suharto sẽ phục vụ Washington như Sa của Iran đã từng làm. Mỹ cũng hy vọng Inđônêxia sẽ là một hình mẫu cho các quốc gia khác trong khu vực. Một phần chiến lược của Washington dựa trên giả định rằng những lợi ích đạt được ở Inđônêxia có thể sẽ ảnh hưởng tích cực đến toàn thế giới Hồi giáo, đặc biệt là điểm nóng Trung Đông. Và nếu điều đó chưa đủ khích lệ thì điều quan trọng là Inđônêxia có dầu. Không ai biết rõ về khối lượng hoặc chất lượng dự trữ dầu mỏ của Inđônêxia nhưng các nhà địa chất học của công ty dầu mỏ lại tràn đầy lạc quan. Càng nghiền ngẫm các cuốn sách tại PBL, tôi càng cảm thấy phấn khích. Tôi bắt đầu tưởng tượng về những cuộc thám hiểm sắp tới. Làm việc cho MAIN, tôi sẽ có một cuộc sống sang trọng và xa hoa thay cho lối sống khắc khổ trong Quân đoàn Hòa bình. Mối quan hệ với Claudine đã biến những gì trước đây chỉ là trong trí tưởng tượng của tôi trở thành sự thật; tất cả như trong một giấc mơ. Tôi cảm thấy phần nào được đền đáp cho quãng thời gian tù túng mà tôi phải trải qua tại các trường nội trú chỉ dành cho học sinh nam. Có một sự thay đổi khác nữa trong cuộc đời tôi: Ann và tôi đã không còn gắn bó nữa. Tôi chắc cô ấy phải cảm nhận được rằng tôi đang sống một cuộc sống hai mặt. Tôi tự bào chữa điều đó là kết quả sự phẫn uất của tôi đối với cô ấy vì cô ấy đã ép chúng tôi làm đám cưới. Dù cô ấy đã chăm sóc và ủng hộ tôi trong suốt quãng thời gian khó khăn tại Quân đoàn Hòa bình ở Êcuađo. Song, cô ấy khiến tôi thấy mình vẫn chưa thoát khỏi sự kìm kẹp của bố mẹ. Tất nhiên, suy cho cùng, tôi biết chắc rằng mối quan hệ của tôi với Claudine mới là nhân tố chính. Tôi không thể kể cho Ann biết về mối quan hệ này, nhưng cô ấy cảm nhận được điều đó. Dẫu sao đi nữa, chúng tôi cũng quyết định bắt đầu sống ly thân. Vào một ngày trong năm 1971, khoảng một tuần trước khi phải đến Inđônêxia theo kế hoạch, tôi đến chỗ Claudine. Trên chiếc bàn nhỏ trong phòng ăn có bày nhiều loại pho mát với bánh mì và cả một chai Beaujolais loại ngon. Claudine nâng cốc chúc mừng tôi. “Anh đã thành công”. Cô ta mỉm cười nhưng tôi thấy dường như nụ cười của cô ấy không được chân thành cho lắm. “Bây giờ chúng ta đã cùng hội cùng thuyền.” Chúng tôi trò chuyện khoảng nửa tiếng đồng hồ, sau đó, khi đã gần uống cạn chai rượu, cô ta nhìn tôi với ánh mắt mà tôi chưa từng bắt gặp ở bất cứ ai. “Đừng bao giờ thú nhận với ai về những lần chúng ta gặp nhau”, cô ta nói một cách lạnh lùng. “Nếu anh làm như vậy tôi sẽ không tha thứ, và sẽ phủ nhận là đã từng gặp anh”. Cô ta nhìn tôi chằm chằm- và sau đó cười nhạt. “Kể cho người khác nghe về chúng ta sẽ chỉ làm cho cuộc sống của anh trở nên nguy hiểm”. Tôi choáng váng. Tôi bàng hoàng. Nhưng sau đó, khi một mình quay trở lại Trung tâm Prudential, tôi phải thừa nhận cái kế hoạch của cô ấy thật sự thông minh. Sự thật là tất cả những lần chúng tôi gặp nhau đều diễn ra tại căn hộ của cô ấy. Không có bất cứ một bằng chứng nào về mối quan hệ của chúng tôi, và không ai ở MAIN dính líu đến chuyện này. Một phần nào đó, tôi thầm đánh giá cao sự trung thực của cô ấy; cô ta đã không lừa tôi như bố mẹ tôi trong vụ Tilton và Middlebury. Chương 4 Giải thoát một đất nước. Tôi có một cái nhìn lãng mạn về Inđônêxia, đất nước mà tôi sắp đến sinh sống trong vòng ba tháng tới. Những bức tranh trong một vài quyển sách tôi đọc mô tả những người phụ nữ xinh đẹp với những chiếc sarông màu sắc tươi sáng, những vũ công Bali hấp dẫn, những vị pháp sư thổi lửa, và những chiến binh chèo thuyền độc mộc trên làn nước xanh biếc dưới chân những ngọn núi lửa. Ấn tượng nhất là một loạt ảnh về những chiến thuyền với những cánh buồm đen lộng lẫy của những tên cướp biển thuộc quần đảo, những kẻ đã làm cho các thủy thủ người Châu Âu trước đây phải khiếp sợ đến nỗi họ trở về nhà và dọa bọn trẻ: “Các con phải ngoan, nếu không bọn cướp biển Bugi sẽ đến bắt các con đi đấy”. Ôi, những bức ảnh này làm tâm hồn tôi xao xuyến biết bao. Lịch sử và những truyền thuyết của đất nước này là một kho tàng lớn với những nhân vật phi thường; những vị thánh đầy giận dữ, những con rồng Cômôđô, những tộc trưởng các bộ lạc Hồi giáo, và những câu chuyện cổ tích mà từ trước khi chúa Giêsu ra đời đã vượt qua những ngọi núi ở Châu Á, xuyên qua các sa mạc xứ Ba Tư và qua cả vùng biển Địa Trung Hải để rồi khắc sâu vào tâm khảm chúng ta. Những cái tên của các hòn đảo huyền thoại- Java, Sumatra, Borneo, Sulawesi làm mê mẩn tâm trí. Đây là một vùng đất của sự huyền bí, tính thần thoại, và vẻ đẹp gợi tính là kho báu luôn ẩn mình mà Columbus tìm nhưng chưa bao giờ thấy; là nàng công chúa mà cả người Tây Ban Nha, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Nhật Bản luôn muốn chinh phục nhưng chưa bao giờ là sở hữu của riêng ai; là ảo ảnh và giấc mơ. Tôi kỳ vòng rất nhiều, có lẽ chẳng khác nào những nhà thám hiểm vĩ đại trước đây. Nhưng cũng giống như Columbus, đáng lẽ tôi phải biết kiềm chế bớt những ảo tưởng. Đáng lẽ tôi phải biết rằng ngọn đèn của số phận chẳng bao giờ là hình ảnh trong tưởng tượng. Inđônêxia là kho báu đầy hứa hẹn nhưng không phải là một phương thuốc trị bách bệnh mà tôi mong đợi. Thật ra, những ngày đầu tiên của tôi ở thủ đô Jakarta đầy ẩm thấp vào mùa hè năm 1971 là một cú sốc. Vẻ đẹp vẫn hiện hữu. Những phụ nữ xinh đẹp trong bộ sarông sặc sỡ. Những khu vườn sang trọng rực rỡ đầy hoa. Những vũ công Bali thật hấp dẫn. Những chiếc xích lô với những hình vẽ bảy sắc cầu vồng vui mắt. Những khu biệt thự và những ngọn tháp nhà thờ từ thời thuộc địa Hà Lan. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cái xấu và sự bi thảm cũng tồn tại. Thay cho bàn tay lành lặn là những cùi tay đầy máu của những người bị bệnh phong. Những cô gái trẻ bán thân chỉ để nhận vài đồng. Những con mương tuyệt đẹp từ thời thuộc địa nay đã trở nên ô nhiễm. Những căn nhà làmbằng bìa các tông dọc hai bên bờ rác rưởi của những con sông đen kịt nơi có nhiều gia đình chui rúc. Những tiếng còi inh ỏi và khói bụi đến nghẹt thở. Nét đẹp và cái xấu, sự thanh tao bên cạnh cái thô thiển, tính thiêng liêng và sự trần tục. Đó chính là Jakarta, nơi mà mùi thơm đầy quyến rũ của cây đinh hương và những loài hoa lan nở rộ phải chống chọi lại với luồng khí độc xông lên từ các cống rãnh lộ thiên. Tôi đã từng nhìn thấy cảnh đói nghèo. Một vài người bạn học ở New Hamsphire đã sống trong những ngôi nhà bằng giấy nhựa lụp xụp, đến trường trong chiếc áo khoác mỏng và đi những đôi giầy thể thao sờn cũ giữa những tháng ngày mùa đông khi nhiệt độ dưới 00; người họ bốc lên mùi mồ hôi và mùi phân bón lâu ngày vì không được tắm rửa. Tôi đã từng sống trong những căn lều đắp bằng bùn cùng những người nông dân vùng núi Andy với những bữa ăn chỉ toàn ngô và khoai tây khô, ở những nơi mà nhiều lúc dường như một đứa trẻ chết ngay khi vừa mới chào đời. Tôi đã từng thấy sự nghèo đói, nhưng không có nơi nào giống với Jakarta. Tất nhiên đoàn chúng tôi ở lại khách sạn đẹp nhất nước này, khách sạn Inter Continental Inđônêxia. Sở hữu bởi hãng hàng không Pan America, cũng giống như một chuỗi khách sạn Inter Continental khác nằm rải rác khắp toàn cầu, khách sạn này luôn chiều theo ý những người ngoại quốc giàu có, đặc biệt là những tay giám đốc của các công ty dầu lửa và gia đình họ. Vào buổi tối đầu tiên, tay quản lý dự án, Charlie Illingworth, mở tiệc chiêu đãi chúng tôi tại nhà hàng sang trọng trên tầng thượng. Charlie là một người rất am hiểu chiến tranh; ông ta dành phần lớn thời gian rảnh rỗi để đọc sách và các tiểu thuyết lịch sử về những vị tướng lĩnh vĩ đại và những trận chiến lẫy lừng. Ông ta là một ví dụ điển hình về những người lính không trực tiếp tham gia chiến đấu nhưng rất ủng hộ cuộc chiến tranh Viêt Nam. Như thường lệ, buổi tối hôm đó ông ta mặc bộ quần áo kaki có hai cầu vai kiểu quân đội trên vai chiếc áo cộc tay. Sau khi chào đón chúng tôi, ông ta châm một điếu xì gà. “Mừng cuộc sống tốt đẹp”, ông ta nói và nâng cao ly rượu sâm banh. “Mừng cuộc sống tốt đẹp”, chúng tôi cũng đáp lại, và cùng chạm cốc. Khói thuốc xì gà cuộn tròn quanh Charlie, ông ta liếc nhìn quanh căn phòng. “Ở đây chúng ta sẽ được nuông chiều,” ông ta vừa nói vừa gật đầu một cách tán thưởng. “Người Inđônêxia sẽ chăm sóc chúng ta. Người ở Sứ quán Mỹ cũng vậy. Nhưng đừng quên là chúng ta còn có sứ mệnh phải hoàn thành”. Ông ta nhìn xuống tập giấy viết sẵn. “Đúng vậy, chúng ta đến đây để lập một bản qui hoạch tổng thể về điện khí hóa cho đảo Java- vùng đất có mật độ dân số đông nhất thế giới. Nhưng đó mới chỉ là bề mặt của tảng băng.” Ông ta bỗng trở nên nghiêm túc; ông ta làm tôi liên tưởng tới George C. Scott, người đã từng đóng vai Tướng Patton, một trong những người hùng của Charlie. “Chúng ta đến đây để thực hiện không gì khác ngoài nhiệm vụ giải thoát đất nước này. Như các bạn đã biết, Inđônêxia đã trải qua một lịch sử dài và đầy bi thảm. Khi mà đất nước này sẵn sàng bước vào thế kỷ hai mươi thì một lần nữa lại phải đối mặt với thử thách. Trách nhiệm của chúng ta là phải đảm bảo rằng Inđônêxia không đi theo bước chân của những người hàng xóm. Một hệ thống điện hợp nhất là nhân tố chủ chốt. Nhân tố đó, hơn cả các yếu tố đơn lẻ khác (có lẽ chỉ loại trừ yếu tố dầu mỏ), sẽ bảo đảmcho sự thống trị của chủ nghĩa tư bản và chế độ dân chủ”. “Nói đến dầu mỏ”, ông ta rít một hơi thuốc lá và búng nhẹ lên một tờ giấy. “Tất cả chúng ta đều biết đất nước của chúng ta phụ thuộc vào dầu mỏ đến mức nào. Xét về khía cạnh đó, Inđônêxia có thể là một đồng minh hùng mạnh của chúng ta. Vì thế, khi các bạn dựng bản qui hoạch tổng thể này, hãy làm tất cả để bảo đảm cho ngành công nghiệp dầu mỏ và tất cả những ngành phụ trợ- cầu cảng, ống dẫn dầu, công ty xây dựng- có được lượng điện họ cần thiết trong suốt khoảng thời gian của kế hoạch hai mươi lăm năm”. Ông ta rời mắt khỏi tập giấy và nhìn thẳng vào tôi. “Thà cứ phóng đại lên còn hơn là dự báo quá thấp.” Đêm hôm đó, khi nằm trên giường, cao vượt lên khỏi thành phố, an toàn trong sự xa hoa của căn phòng hạng nhất, hình ảnh của Claudine lại đến với tôi. Những bài giảng của cô ta về nợ nước ngoài cứ ám ảnh tôi. Tôi tự an ủi mình bằng cách nhớ lại những bài học trong các khóa học kinh tế vĩ mô tại trường kinh tế. Suy cho cùng, tôi tự nhủ, tôi đến đây để giúp Inđônêxia thoát khỏi một nền kinh tế thời Trung cổ và để có chỗ đứng trong thế giới công nghiệp hiện đại. Nhưng tôi cũng biết rằng, ngay sáng hôm sau, tôi sẽ nhìn ra ngoài cửa sổ, và xa khỏi sự sang trong của những khu vườn và bể bơi của khách sạn, tôi sẽ thấy những ngôi nhà tôi tàn trải dài hàng dặmtheo hình quạt phía bên dưới. Tôi biết rằng ở đó trẻ sơ sinh đang chết vì thiếu lương thực và nước uống, và rằng trẻ em cũng như người lớn đang phải gánh chịu những loại bệnh tật truyền nhiễm khủng khiếp và sống trong điều kiện tồi tệ. Trằn trọc trên giường, tôi nhận thấy không thể chối cãi rằng Charlie và những người khác trong nhóm chúng tôi đến đây với những lý do ích kỷ. Chúng tôi đang giúp đẩy mạnh chính sách đối ngoại của Mỹ và lợi ích của các doanh nghiệp. Chúng tôi bị chi phối bởi lòng tham hơn là mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho phần lớn người dân Inđônêxia. Một từ xuất hiện trong đầu tôi: tập đoàn trị. Tôi không chắc đã nghe từ này trước đây hay vừa mới nghĩ ra nó, nhưng dường như nó miêu tả rất chính xác nhóm người đầy thế lực với quyết tâm thống trị toàn thế giới. Đó là một nhóm nhỏ gồm những người có chung một mục đích và các thành viên trong nhómcó thể dễ dành chuyển đổi vị trí thường là giữa các vị trí cấp cao của các tập đoàn và của chính phủ. Tôi chợt nhận ra là chủ tịch đương nhiệm của Ngân hàng Thế giới- Robert Mc Mamara là một ví dụ hoàn hảo. Ông ta đã chuyển từ vị trí là giám đốc của công ty Ford Motor sang là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dưới thời Tổng thống Kenedy và Johnson, và bây giờ lại nắm giữ vị trí cao nhất của một tổ chức tài chính có quyền lực lớn nhất thế giới. Tôi cũng nhận ra rằng các giáo sư đại học của tôi đã không hiểu hết được bản chất thật sự của kinh tế vĩ mô: rằng trong nhiều trường hợp, giúp một nền kinh tế tăng trưởng chỉ làm cho một số ít người đã giàu lại càng giàu thêm, trong khi chẳng làm được gì cho những người ở dưới đáy xã hội ngoại trừ việc đẩy họ xuống thấp hơn. Quả thực, củng cố chủ nghĩa tư bản thường dẫn đến một hệ thống cũng tương tự như những xã hội phong kiến thời Trung cổ. Nếu bất kỳ một giáo sư nào của tôi biết điều này, họ cũng không thừa nhận nó- có thể là vì các tập đoàn lớn và những ông chủ tập đoàn là người tài trợ cho các trường đại học. Vạch trần sự thật chắc chắn sẽ làm những vị giáo sư đó mất việc- cũng như tiết lộ bí mất sẽ làm tôi trắng tay. Những suy nghĩ đó tiếp tục làm xáo trộn giấc ngủ của tôi hằng đêm ở khách sạn Inter Continental Inđônêxia. Cuối cùng, tôi tìm cách biện hộ cho chính bản thân mình: tôi đã phải đấu tranh để tìm đường thoát khỏi New Hamsphire, thoát khỏi trường nội trú, và thoát quân dịch. Vị trí trong cuộc sống tươi đẹp mà tôi hiện có là kết quả của sự kết hợp giữa một chuỗi các sự kiện ngẫu nhiên và lao động miệt mài. Tôi cũng cảm thấy nhẹ nhõm với sự thật rằng tôi đang làm việc đúng đắn xét theo cái nhìn từ nền văn hóa của chúng tôi. Tôi đang trên đường trở thành một nhà kinh tế học thành công và được kính trọng. Tôi đang làm theo những gì đã được học ở trường kinh tế. Tôi đang giúp thực hiện một mô hình phát triển đã được những chuyên gia cố vấn hàng đầu thế giới với những bộ óc vĩ đại thừa nhận. Tuy nhiên, những lúc nửa đểm, tôi thường phải tự an ủi bản thân với một lời hứa rằng một ngày nào đó tôi sẽ nói lên sự thật. Rồi tôi đọc những tiểu thuyết của Louis L’amour về những tay súng Miền Tây cho đến khi ngủ thiếp đi. Chương 5 Bán linh hồn cho quỷ Nhóm mười một người chúng tôi ở lại Jakarta sáu ngày, đến đăng ký với Sứ quán Mỹ, gặp gỡ các quan chức, sắp xếp công việc và thư giãn bên bể bơi. Tôi ngạc nhiên khi thấy có rất nhiều người Mỹ sống tại khách sạn Inter Continental. Tôi thích thú ngắm nhìn những phụ nữ trẻ đẹp- vợ của những tay giám đốc công ty dầu lửa và công ty xây dựng- ngày ngày ở bên bể bơi và tối lang thang khắp nửa tá quán ăn sang trọng trong và ngoài khách sạn. Sau đó Charlie chuyển nhóm chúng tôi đến Bandung, một thành phố miền núi. Nơi đây khí hậu ôn hòa hơn, người ta ít nhìn thấy cảnh nghèo khổ hơn song cũng ít thú tiêu khiển hơn. Chúng tôi ở lại một khách sạn của Chính phủ tên là Wisma, với một người quản lý, một đầu bếp, một người làm vườn và một đội ngũ nhân viên phục vụ. Được xây dựng từ thời thuộc địa Hà Lan, Wisma vốn là một bến cảng. Đứng trên hiên nhà khách có thể nhìn ra những vườn chè trải dài, qua những quả đồi nhấp nhô, lên tới tận những sườn núi lửa của Java. Ngoài nhà ở, chúng tôi còn được cấp mười một chiếc Toyota, mỗi chiếc xe lại có một lái xe và một phiên dịch riêng. Cuối cùng, chúng tôi được mời làm thành viên của hai nơi sang trọng bậc nhất là Câu lạc bộ Golf và Quần vợt Bandung, và được đặt văn phòng trong khuôn viên của chi nhánh Perusahaan Umum Listrik Negara (PLN), công ty điện lực nhà nước. Đối với tôi, những ngày đầu ở Bandung là hàng loạt những cuộc gặp gỡ với Charlie và Howard Parker. Howard hơn 70 tuổi và từng là chuyên gia dự báo chính về tải điện cho Hệ thống Điện của New England. Lúc này ông ta đảm trách công việc dự báo về nguồn năng lượng và khả năng sản xuất điện của toàn bộ đảo Java trong vòng hai lăm năm tới, cũng như dự báo riêng cho từng thành phố và các vùng. Vì nhu cầu về điện liên quan chặt chẽ tới tăng trưởng kinh tế nên những dự báo của ông ta cần dựa vào những dự báo kinh tế của tôi. Sau đó, những người còn lại trong nhóm chúng tôi sẽ xây dựng bản qui hoạch tổng thể dựa trên những dự báo này, xác định địa điểm đặt các nhà máy điện, thiết kế các nhà máy, các đường dây tải điện và phân phối điện, các hệ thống cung cấp nhiên liệu làm sao để đáp ứng hiệu quả nhất các dự án của chúng tôi. Trong các buổi gặp gỡ, Charlie bao giờ cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của công việc mà tôi làm. Ông ta nhắc đi nhắc lại là tôi phải rất lạc quan khi đưa ra dự báo. Claudine đã nói đúng. Tôi chính là yếu tố then chốt trong toàn bộ qui hoạch tổng thể. “Những tuần đầu tiên ở đây”, Charlie giải thích, “là để thua thập số liệu”. Charlie, Howard và tôi ngồi trên những chiếc ghế mây to trong phòng làm việc sang trọng của Charlie. Những bức tường được trang trí bằng những tấm thảm thêu theo kiểu batic mô tả câu chuyện sử thi Ramayana bằng văn tự Hindu cổ. Charlie hút một điếu xì gà to. “Các kỹ sư sẽ đưa ra một bức tranh chi tiết về hệ thống điện, năng lực cầu cảng, đường sá, đường ray xe lửa, tất cả mọi thứ đại loại như thế trong hiện tại”. Ông ta chĩa điếu xì gà về phía tôi. “Anh phải nhanh lên. Đến cuối tháng thứ nhất, Howard phải có được một cách tương đối chính xác con số dự báo sơ bộ về mức độ tăng trưởng kinh tế thần kỳ sẽ xảy ra khi chúng ta có mạng lưới điện. Cuối tháng thứ hai, anh ta sẽ cần nhiều thông tin chi tiết hơn, tức là phải có được dự báo cho từng vùng. Tháng cuối cùng sẽ là lúc làm nốt những gì còn thiếu. Đó là điều then chốt. Tất cả chúng ta sẽ phải cùng bàn bạc với nhau. Vậy là, trước khi rời khỏi đây chúng ta phải hoàn toàn chắc rằng chúng ta đã có đầy đủ tất cả các thông tin cần thiết. Chúng ta sẽ được về nhà để nghỉ lễ Tạ ơn, đó là phương châm của tôi. Không quay lại nữa đâu”. Thọat nhìn, Howard có vẻ là một ông già tốt bụng, nhưng thực sự ông là một người đàn ông lúc nào cũng có vẻ cay đắng vì bị đời lừa dối. Ông ta chưa bao giờ đạt được vị trí cao nhất ở Hệ thống điện New England và vô cùng phẫn nộ về điều đó. “Tôi luôn bị bỏ qua”, ông ta lặp đi lặp lại với tôi, “bởi vì tôi đã không để bị mua chuộc”. Ông ta bị buộc phải nghỉ hưu, để rồi không thể chịu đựng được việc ngày ngày phải ở nhà với vợ, ông ta nhận làm tư vấn cho MAIN. Đây là nhiệm vụ thứ hai của ông ta. Cả Einar và Charlie đều cảnh báo tôi phải dè chừng ông ta. Họ mô tả ông ta như một kẻ ngoan cố, bần tiện, và đầy thù hận. Nhưng hóa ra Howard lại là một trong những người thầy giàu kinh nghiệm nhất mà tôi có được, mặc dù lúc đó tôi khó lòng chấp nhận điều này. Ông ta chưa bao giờ được đào tạo như Claudine đã đào tạo tôi. Tôi đoán họ cho rằng ông ta đã quá già hoặc có lẽ quá ngoan cố. Cũng có thể họ tính ông ta chỉ có thể làm dự án này trong một thời gian ngắn cho đến khi họ lôi kéo thêm được những người làm việc lâu dài và dễ bảo như tôi. Bất luận thế nào đi nữa thì xét từ quan điểm của họ, ông ta rồi cũng trở thành một chướng ngại. Rõ ràng là Howard hiểu rõ tình huống cũng như vai trò mà họ muốn ông ta nắm giữ, và ông ta quyết tâm không trở thành quân cờ trong tay họ. Tất cả những từ mà Einar và Charlie gán cho ông ta là rất thích đáng, nhưng sự ngoan cố của ông ta một phần nào đó bắt nguồn từ sự cam kết của chính bản thân ông ta là không trở thành tay sai cho họ. Tôi ngờ rằng ông ta chưa bao giờ nghe thấy thuật ngữ sát thủ kinh tế, nhưng ông ta biết họ có ý dùng ông ta để xây dựng nên một thứ chủ nghĩa đế quốc mà ông ta không thể chấp nhận được. Một lần, sau cuộc họp với Charlie, ông ta kéo riêng tôi ra một chỗ. Ông ta đeo một cái máy trợ thính và vân vê chiếc hộp nhỏ đặt trong áo sơ mi để điều chỉnh âm lượng. “Đây chỉ là chuyện giữa hai chúng ta”. Howard nói với giọng bí mật. Chúng tôi đứng cạnh cửa sổ trong văn phòng, nhìn ra con mương đầy nước tù đọng dẫn ra tòa nhà PLN. Một người đàn bà trẻ đang tắm trong dòng nước hôi hám đó, che mình bằng chiếc sarong quấn quanh người. “Họ cố gắng thuyết phục anh rằng nền kinh tế này sẽ tăng trưởng thần tốc”, ông ta nói. “Charlie rất tàn nhẫn. Đừng chọc giận ông ta.” Những lời nói của ông ta khiến tôi có linh cảm về một điềm chẳng lành nhưng cũng làm tôi muốn thuyết phục ông ta rằng Charlie đã đúng. Dù gì, sự nghiệp của tôi cũng phụ thuộc vào việc làm hài lòng các ông chủ ở MAIN. “Chắc chắn nền kinh tế này sẽ phát triển rất nhanh”, tôi nói, mắt vẫn hướng về phía người phụ nữ dưới con mương. “Cứ nhìn vào những gì đang xảy ra thì thấy”. “Ra là vậy”, ông ta lẩm bẩm, rõ ràng chẳng để ý gì đến cảnh tượng đang diễn ra trước mắt chúng tôi. “Anh đã bị họ mua chuộc rồi, phải không?” Một việc xảy ra ở bờ mương khiến tôi chú ý. Một người đàn ông lớn tuổi đi xuống phía bờ mương, tụt quần và ngồi xổm bên mép nước để đáp lại tiếng gọi của tự nhiên. Người phụ nữ trẻ nhìn thấy ông ta nhưng cũng chẳng ngăn cản; cô ta vẫn tiếp tục tắm. Tôi xoay lưng lại phía cửa sổ và nhìn thẳng vào Howard. “Tôi đã đi nhiều nơi”, tôi nói, “có thể tôi ít tuổi nhưng tôi vừa trở về sau ba năm sống tại Nam Mỹ. Tôi đã thấy những gì có thể xảy ra khi dầu mỏ được tìm thấy. Mọi thứ thay đổi rất nhanh”. “Ồ, tôi cũng đã đi rất nhiều nơi”, ông ta nói một cách chế giễu. “Rất nhiều năm. Để tôi nói cho anh biết điều này, anh bạn trẻ. Tôi chẳng quan tâm đến mấy vụ tìm ra dầu mỏ của anh và tất cả những thứ khác. Tôi đã dự báo về tải trọng điện cả đời rồi- suốt từ thời Đại khủng hoảng Kinh tế, Thế chiến thứ II, qua các chu kỳ suy thoái và tăng trưởng. Tôi đã từng thấy những gì mà Tuyến đường 128 hay còn gọi là Sự thần kỳ Massachusetts đã đem lại cho Boston. Và tôi có thể cam đoan là không có nơi nào tốc độ tăng trưởng tải điện có thể duy trì ở mức bẩy đến chín phần trămmột năm liên tục trong một thời gian dài. Và đó là vào những thời kỳ tốt nhất. Sáu phần trăm thì hợp lý hơn.” Tôi nhìn ông ta chằm chằm. Một phần nào đó trong tôi ngờ rằng ông ta đúng, nhưng tôi vẫn cảm thấy phải tự vệ. Tôi biết tôi cần phải thuyết phục ông ta vì tôi thấy lương tâm mình cần được bào chữa. “Howard, đây không phải là Boston. Đây là đất nước mà cho đến giờ người ta vẫn chưa có điện để dùng. Mọi thứ ở đây khác hẳn.” Ông ta quay ngoắt đi và phẩy tay như thể muốn xua tôi đi. “Cứ tự nhiên”, ông ta gầm gừ. “Cứ bán tất đi. Tôi chẳng cần biết anh sẽ nghĩ ra cái gì.” Ông ta kéo mạnh các ghế phía sau bàn làm việc và buông mình xuống. “Tôi sẽ đưa ra dự báo về lượng tải điện dựa trên những điều tôi tin tưởng chứ không phải những nghiên cứu kinh tế theo kiểu bánh vẽ”. Ông ta nhặt chiếc bút chì lên và bắt đầu vẽ nguệch ngoạch lên một tập giấy. Đây quả là một sự thách thức mà tôi không thể làm ngơ. Tôi đi tới và đứng trước bàn làm việc của ông ta. “Người ta sẽ coi ông là thằng ngu nếu tôi chứng minh được những gì mọi người đang trông chờ- một sự phát triển rực rỡ sánh ngang với thời kỳ sốt vang ở California- trong khi ông ta đưa ra dự báo mức tăng trưởng của ngành điện chỉ ở mức ngang với ở Boston vào những năm 60.” Ông ta ném chiếc bút chì xuống bàn và nhìn tôi trừng trừng. “Vô lương tâm! Đúng vậy. Anh và tất cả các người.” Ông ta chỉ tay về phía dãy văn phòng bên ngoài, “anh đã bán linh hồn mình cho quỉ dữ. Anh tham gia vụ này cũng chỉ vì tiền thôi”. Bây giờ, ông ta nhếch mép và cho tay vào trong áo, “tôi sẽ tắt máy trợ thính và trở lại làm việc.” Chuyện này làm tôi choáng váng đến tận tâm can. Tôi lao ra khỏi phòng và đi về phía phòng làm việc của Charlie. Được nửa đường, tôi dừng lại, tôi không chắc mình định làm gì. Thay vì đi tiếp, tôi quay lại và đi xuống cầu thang, ra khỏi cửa, hòa mình vào ánh nắng chiều. Người phụ nữ trẻ đang leo lên bờ mương, chiếc sarong quấn chặt lấy thân hình. Người đàn ông lớn tuổi đã biến mất. Có vài thằng bé đang chơi dưới mương, té nước và la hét với nhau. Một cụ bà đang đứng dưới mương, nước ngập đến đầu gối để đánh răng; một người khác đang giặt quần áo. Tôi cảm thấy cổ họng mình nghẹn lại. Tôi ngồi xuống một phiến bêtông bị vỡ, cố không để ý đến mùi hôi hám từ phía con mương. Phải cố gắng lắm tôi mới ngăn được nước mắt; tôi phải hiểu được tại sao mình lại cảm thấy đau khổ đến vậy? Anh tham gia vụ này chỉ vì tiền thôi. Những lời nói của Howard cứ văng vẳng bên tai. Ông ta đã chạm vào nỗi đau của tôi. Mấy thằng bé vẫn tiếp tục trò té nước, tiếng la hét vui sướng vang vọng cả không gian. Tôi tự hỏi mình phải làm gì. Làm gì để được vô tư như bọn chúng? Câu hỏi cứ dày vò khi tôi ngồi đó nhìn bọn trẻ chơi đùa một cách ngây thơ đầy hạnh phúc, chúng rõ ràng không nhận thức được những nguy cơ có thể gặp phải khi chơi đùa dưới dòng nước hôi hám đó. Một người đàn ông lưng gù chống gậy xù xì vặn vẹo đang đi khập khiễng dọc theo bờ mương. Ông ta dừng lại nhìn bọn trẻ và trên khuôn mặt già nua nở nụ cười móm mém. Có lẽ tôi nên giãi bày tâm sự với Howard và có thể, chúng tôi sẽ cùng nhau tìm ra một giải pháp gì đó. Tôi bỗng cảm thấy nhẹ cả người. Tôi nhặt một hòn đá nhỏ lên và ném nó xuống con mương. Khi mặt nước phẳng lặng trở lại thì sự phấn khích trong tôi cũng tiêu tan. Tôi biết tôi không thể làm điều đó. Howard đã già và đầy cay đắng. Ông ta đã bỏ qua những cơ hội thăng tiến. Chắc chắn là bây giờ ông ta sẽ không tiếp tục phấn đấu nữa. Tôi còn trẻ, vừa mới vào đời và chẳng hề muốn kết thúc như ông ta. Nhìn chăm chăm vào dòng nước dưới con kênh hôi hám đó, tôi thấy lại hình ảnh của ngôi trường nội trú dành cho nam sinh New Hamsphire trên quả đồi, nơi tôi đã phải trải qua những tháng ngày cô độc trong khi những đứa trẻ khác đi đến những vũ hội đầu tiên trong đời. Sự thật đáng thương đó cứ chầm chậm hiện về. Lại một lần nữa, chẳng có ai để tôi có thể dốc bầu tâm sự. Tối hôm đó nằm trên giường, tôi suy nghĩ rất lâu về những người tôi đã gặp trong đời Howard, Charlie, Claudine, Ann, Einar, chú Frank- tự hỏi cuộc đời tôi sẽ ra sao nếu tôi không bao giờ gặp họ. Tôi sẽ sống ở đâu? Không thể là Inđônêxia, điều đó là chắc chán. Tôi cũng băn khoăn về tương lai của mình, về nơi mà tôi sẽ tới. Tôi suy nghĩ về quyết định mà mình đang phải đương đầu. Charlie đã nói rõ ràng ông ta muốn Howard và tôi đưa ra con số tăng trưởng ít nhất là 17%/năm. Tôi phải đưa ra dự bảo kiểu gì đây? Một ý nghĩ chợt đến xoa dịu tâm hồn tôi. Tại sao tôi không nghĩ ra điều đó sớm hơn nhỉ? Đó hoàn toàn không phải là quyết định của tôi. Howard đã từng nói ông ta sẽ chỉ làm những điều ông ta cho là đúng, bất chấp kết luận của tôi. Tôi sẽ làm hài lòng các ông chủ của mình bằng cách đưa ra mức dự báo kinh tế cao và ông ta sẽ đưa ra quyết định riêng của mình; công việc của tôi sẽ không ảnh hưởng gì đến bản qui hoạch tổng thể. Mọi người cứ nhấn mạnh tầm quan trọng của tôi, nhưng họ đã nhầm. Gánh nặng lớn đã được rũ bỏ. Tôi chìm vào giấc ngủ sâu. Vài ngày sau, Howard bị ốm nặng do nhiễm amíp. Chúng tôi đưa ông ta vào Bệnh viện Công giáo. Các bác sĩ kê đơn thuốc và khuyên ông ta nên trở về Mỹ. Howard cam đoan rằng ông ta đã có tất cả dữ liệu cần thiết và có thể dễ dàng hoàn tất phần dự báo về lượng tải điện từ Boston. Khi chia tay, ông ta lại lặp lại lời cảnh báo của mình trước đó. “Không cần phải làm giả số liệu”, ông ta nói, “tôi sẽ không tham gia vào mưu đồ đó, bất luận anh dự báo gì về sự kỳ diệu của tăng trưởng kinh tế!” PHẦN II: 1971-1975 Chương 6 Vai trò điều tra của tôi Theo những hợp đồng chúng tôi ký với chính phủ Inđônêxia, Ngân hàng Phát triển châu Á và USAID, phải có một người trong nhóm chúng tôi đi thực địa đến tất cả các địa bàn dân cư quan trọng nhất nằm trong qui hoạch tổng thể. Tôi được chỉ định đứng ra làm nhiệm vụ này. Như Charlie nói, “anh đã sống được ở Amazon; anh biết cách giải quyết lũ bọ, rắn và nước bẩn”. Cùng với một lái xe và một phiên dịch, tôi đã đi thăm rất nhiều cảnh đẹp cũng như ở trong một số phòng trọ khá tồi tàn. Tôi gặp gỡ các doanh nhân và chính trị gia ở địa phương và lắng nghe ý kiến của họ về triển vọng tăng trưởng kinh tế. Song tôi thấy phần lớn họ đều rất miễn cưỡng khi chia sẻ thông tin với tôi. Hình như họ cảm thấy bị đe dọa bởi sự hiện diện của tôi. Cụ thể là họ thường nói với tôi rằng tôi phải soát lại thông tin với cấp trên của họ, với các cơ quan chính phủ hay với các trụ sở công ty ở Jafarta. Đôi lúc tôi ngờ rằng đang có một âm mưu nào đó nhằm vào tôi. Những chuyến công tác thường xuyên là ngắn hạn, chỉ khoảng hai đến ba ngày. Giữa các chuyến đi, tôi trở lại Wisma ở Bandung. Bà quản lý ở đó có một cậu con trai kém tôi vài tuổi. Tên cậu ta là Rasmon, nhưng tất cả mọi người trừ mẹ cậu ta đều gọi cậu ta là Rasy. Là một sinh viên kinh tế tại trường đại học địa phương, cậu ta ngay lập tức quan tâm đến công việc của tôi. Thật ra, tôi nghĩ sẽ có lúc cậu ta nhờ tôi kiếm việc. Cậu ta bắt đầu dạy tôi tiếng Bahasa Inđônêxia. Sáng tạo ra một loại ngôn ngữ dễ học vốn là ưu tiên hàng đầu của Tổng thống Sukarno sau khi Inđônêxia giành được độc lập từ tay người Hà Lan. Trên quần đảo này có đến hơn ba trăm nămmươi ngôn ngữ và tiếng địa phương được sử dụng, và Sukarno nhận thấy, đất nước ông cần một ngôn ngữ chung để đoàn kết người dân từ nhiều hòn đảo, thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau. Ông đã tuyển một đội ngũ các nhà ngôn ngữ học quốc tế, và sự ra đời của tiếng Bahasa Inđônêxia là một thành công đánh kể. Dựa vào tiếng Mã Lai, Bahasa đã tránh được rất nhiều cách chia động từ, những động từ bất quy tắc, và các phép biến đổi khác mà hầu hết các ngôn ngữ thường đòi hỏi. Vào đầu thập kỷ 70, đa số người Inđônêxia đã sử dụng tiếng Bahasa, mặc dù họ vẫn tiếp tục dùng tiếng Java và các thổ ngữ khác trong cộng đồng riêng của mình. Rasy là một giáo viên giỏi với một khiếu hài hước tuyệt vời, và so với việc học tiếng Shuar hay thậm chí tiếng Tây Ban Nha, học tiếng Bahasa dễ hơn nhiều. Rasy có một chiếc xe gắn máy và dùng nó chở tôi đi khắp nơi để giới thiệu về thành phố và con người ở đây. “Tôi sẽ chỉ cho anh một Inđônêxia mà anh chưa từng biết đến,” một tối cậu ta hứa với tôi và giục tôi leo lên sau xe. Chúng tôi đi ngang qua những đám múa rối, các nhạc công chơi nhạc cụ dân tộc, những người diễn trò thổi lửa, các nghệ sĩ làm xiếc tung hứng và những người bán hàng rong với tất cả các loại mặt hàng, từ những băng cát xét lậu của Mỹ đến những món đồ cổ bản xứ. Cuối cùng, chúng tôi dừng lại ở một quán cà phê. Ở đây, những người trẻ tuổi mặc quần áo, đội mũ và để tóc giống hệt như trong một buổi hòa nhạc của Beatles vào những năm 60; duy chỉ khác là họ là người Inđônêxia. Rasy giới thiệu tôi với một nhóm người ngồi quanh một chiếc bàn và chúng tôi cùng ngồi trò chuyện. Họ đều nói tiếng Anh, với mức độ lưu loát khác nhau, nhưng họ đánh giá cao và khuyến khích tôi nói tiếng Bahasa. Họ nói về điều này rất cởi mở và hỏi tôi tại sao người Mỹ lại không bao giờ học ngôn ngữ của họ. Tôi không có câu trả lời. Cũng như tôi không thể giải thích tại sao tôi là người Mỹ hay người Châu Âu duy nhất đến khu này của thành phố, mặc dù người ta có thể thấy rất nhiều người như tôi tại câu lạc bộ golf và quần vợt, trong các nhà hàng sang trong, các rạp chiếu phim và những siêu thị đắt tiền. Đó là một buổi tối mà tôi sẽ nhớ mãi. Rasy và những người bạn của cậu ta đối với tôi thật thân tình. Ở đó, tôi cảm thấy thật hạnh phúc, trong cùng một thành phố với họ, cùng thưởng thức đồ ăn và âm nhạc, ngửi mùi hương của những điếu thuốc làm từ nụ hoa đinh hương và những hương vị khác vốn là một phần cuộc sống của họ, cười đùa vui vẻ với họ. Tôi như được sống lại những ngày ở Quân đoàn Hòa bình. Và bỗng nhiên, tôi tự hỏi tại sao tôi lại nghĩ là mình muốn đi vé hạng nhất và tách khỏi những người như họ. Họ rất muốn biết tôi nghĩ gì về đất nước của họ và về cuộc chiến tranh mà đất nước tôi đã khởi xướng ở Việt Nam. Tất cả họ đều cảm thấy khiếp sợ cái mà họ nói đến như một “sự xâm lược bất hợp pháp”, và họ cảm thấy yên tâm khi biết rằng tôi cũng có chung một cảm giác như vậy. Khi tôi và Rasy quay trở lại nhà nghỉ thì đã rất khuya và xung quanh rất tối. Tôi cảm ơn cậu ta vì đã đón nhận tôi vào thế giới của cậu; cậu ta cảm ơn tôi vì tôi đã cởi mở với những bạn bè của cậu ta. Chúng tôi hứa sẽ còn có những chuyến đi như vậy, chúng tôi ôm nhau, chào tạm biệt và đi về phòng mình. Những lần đi với Rasy càng khiến tôi muốn có thời gian riêng tách khỏi nhóm. Sáng hôm sau, tôi gặp Charlie và nói với ông ta rằng tôi đã quá chán nản khi cứ phải tìm cách thu thập thông tin từ phía người dân địa phương. Hơn nữa, hầu hết những số liệu thống kê mà tôi cần cho dự báo phát triển kinh tế chỉ có thể được tại các văn phòng chính phủ ở Jakarta. Charlie và tôi nhất trí là tôi phải ở lại Jakarta thêm một đến hai tuần nữa. Ông ta tỏ ra rất ái ngại vì tôi phải rời khỏi Bandung để đến thủ đô nóng như thiêu như đốt, và tôi nói là tôi cũng chẳng thích thú gì. Nhưng thực ra, tôi rất phấn khởi khi có cơ hội dành chút thời gian cho riêng mình để khám phá Jakarta và để lại được ở tại khách sạn thanh lịch Inter Continental Inđônêxia. Tuy nhiên, khi ở Jakarta, tôi phát hiện ra giờ đây mình đã nhìn cuộc sống từ một khía cạnh khác. Buổi tối với Rasy và những người Inđônêxia trẻ tuổi cũng như những chuyến đi khắp đất nước này đã làm tôi thay đổi. Tôi thấy mình đã nhìn những người đồng hương bằng cái nhìn khác. Những cô vợ trẻ dường như không còn quá đẹp. Cái hàng rào xung quanh bể bơi và những chấn song sắt ngoài cửa sổ dưới tầng trệt, những thứ mà trước đây tôi gần như không để ý thấy, giờ trông thật bất ổn. Thức ăn tại những nhà hàng thanh lịch của khách sạn cũng trở nên vô vị. Tôi cũng còn nhận thấy vài điều khác nữa. Trong những cuộc họp với các doanh nghiệp và quan chức cấp cao, tôi thấy cái cách mà họ đối xử với tôi thật xảo quyệt. Trước đây tôi không nhận ra điều này, nhưng giờ tôi thấy rõ những người trong số họ không hài lòng với sự có mặt của tôi. Ví dụ khi họ giới thiệu tôi với những người khác, họ thường dùng những cụm từ mà theo như từ điển Bahasa của tôi có nghĩa là người điều tra, và người thẩm vấn. Tôi cố tình giấu việc tôi hiểu tiếng nói của họ- ngay cả người phiên dịch cho tôi cũng chỉ biết là tôi có thể nói vài câu giao tiếp đơn giản- và tôi đã mua một cuốn từ điển Bahasa-Anh khá tốt để dùng sau mỗi lần gặp họ. Những lời ám chỉ đó có phải chỉ là sự trùng hợp về mặt ngôn ngữ? Hay từ điển của tôi dịch sai? Tôi cố thuyết phục bản thân rằng đúng là như vậy. Nhưng càng tiếp xúc với những người đó, tôi càng thấy rằng tôi chính là kẻ không mời mà đến, rằng họ được lệnh của một ai đó ở trên bắt họ phải hợp tác với tôi, và họ chẳng có sự lựa chọn nào ngoài việc phải tuân theo. Tôi không biết người đưa ra lệnh đó là ai: một quan chức chính phủ, một chủ nhà băng, một sĩ quan cao cấp trong quân đội hay là Sứ quán Mỹ. Tất cả những gì tôi biết là cho dù họ mời tôi đến văn phòng, mời tôi uống trả, trả lời các câu hỏi của tôi một cách lịch sự, và tỏ vẻ như rất hoan nghênh sự có mặt của tôi, nhưng thực chất đằng sau đó là bóng đen của sự cam chịu và lòng thù oán. Điều đó cũng khiến tôi nghi ngờ cả những câu trả lời của họ cũng như tính chính xác của những số liệu mà họ cung cấp cho tôi. Ví dụ như, tôi không bao giờ có thể đi thẳng đến một văn phòng, cùng với người phiên dịch, gặp mặt một ai đó. Bao giờ chúng tôi cũng phải hẹn trước. Bản thân điều này không có gì khác thường, trừ việc chúng tôi phải tốn quá nhiều thời gian. Vì hiếm khi liên lạc được bằng điện thoại nên chúng tôi phải đi xe qua những con phố ngoằn nghèo tắc nghẽn đến mức phải mất cả tiếng đồng hồ mới đến được tòa nhà chỉ cách đấy vài cao ốc. Đến nơi, người ta bắt chúng tôi điền vào rất nhiều tờ khai. Cuối cùng, một nam thư ký cũng xuất hiện. Rất lịch sự- luôn kèm theo nụ cười nhã nhặn điển hình của người Java- anh ta sẽ hỏi tôi về những thông tin mà tôi cần và sau đó anh ta sẽ hẹn ngày gặp. Bao giờ cũng vậy, để có được buổi hẹn trước phải mất đến vài ngày, và khi buổi gặp mặt diễn ra, họ trao cho tôi một tập tài liệu đã chuẩn bị sẵn. Các nhà tư bản công nghiệp đưa cho tôi bản kế hoạch 5 năm và 10 năm, các ông chủ nhà băng thì có những bảng biểu và đồ thị, và các quan chức chính phủ thì cung cấp danh sách các dự án đang sắp biến thành động lực tăng trưởng kinh tế. Mọi thứ do các chủ doanh nghiệp và chính phủ cung cấp và tất cả những gì họ nói trong mỗi lần tôi gặp họ đều cho thấy Java đã sẵn sàng cho một sự bùng nổ kinh tế mạnh mẽ nhất mà chưa từng có nền kinh tế nào đạt được. Chưa có ai- dù chỉ là một người- đặt câu hỏi nghi vấn về giả thuyết này cũng như cung cấp cho tôi những thông tin trái chiều. Vì thế mỗi lần về lại Bandung, tôi lại thấy băn khoăn về tất cả những gì tôi thấy ở Jakarta; có điều gì đó làm tôi lo lắng. Tôi thấy mọi thứ đang làm ở Inđônêxia giống như một trò chơi hơn là thực tế. Cứ như là chúng tôi đang chơi poker. Chúng tôi giữ kín những quân bài của mình. Chúng tôi không thể tin tưởng lẫn nhau hay tin vào những thông tin mà chúng tôi chia sẽ. Thế nhưng trò chơi này lại hết sức nghiêm túc và nó sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu người trong nhiều thập niên tới. Chương 7 Nền văn minh trước vành móng ngựa “Tôi sẽ đưa anh đi xem một dalang”, Rasy cười nói. “Anh biết đấy, những nghệ nhận múa rối nổi tiếng của Inđônêxia”. Rõ ràng là anh ta rất vui khi thấy tôi quay lại Bandung. “Tối nay ở đây có một dalang rất quan trọng”. Anh đưa tôi đi qua nhiều nơi trong thành phố trên chiếc xe máy của mình, những nơi mà tôi chưa từng nghĩ là có trên đời, qua những khu nhà kampong truyền thống của những người nghèo Java, trông giống như những ngôi nhà đền nhỏ lợp mái ngói. Ở đấy không có những ngôi biệt thự từ thời thuộc địa Hà Lan và những cao ốc văn phòng sang trọng. Người dân nơi đây rõ ràng là rất nghèo nhưng họ mang trong mình sự kiêu hãnh. Họ mặc sarong batik tuy đã cũ nhưng sạch sẽ, áo sơmi sáng màu, và đội những chiếc mũ rơm rộng vành. Đến bất cứ đâu chúng tôi cũng đều được chào đón bằng những nụ cười. Khi chúng tôi dừng xe, lũ trẻ lao tới để chạm vào tôi và sờ vào lớp vải của chiếc quần bò tôi đang mặc. Một cô bé gài bông hoa đại thơm ngát lên tóc tôi. Chúng tôi dựng xe gần một rạp hát vỉa hè, nơi có tới vài trăm người đang tụ tập, một số người đang đứng, số khác thì ngồi trên những chiếc ghế xếp. Một buổi tối thật đẹp và bầu trời thật quang đãng. Mặc dù chúng tôi đang đứng lại trung tâm của khu phố cổ Bandung, nhưng không hề có đèn đường, chỉ có những ngôi sao sáng lấp lánh trên đầu. Không khí tràn ngập mùi thơm của những thanh củi đang cháy, của những cây lạc và cây đinh hương. Rasy biến mất trong đám đông và nhanh chóng quay trở lại với đám bạn mà trước đó tôi đã gặp ở quán cà phê. Họ mời tôi thưởng thức trà nóng, những chiếc bánh nhỏ, và sate, những miếng thịt nhỏ tẩm dầu lạc. Hẳn là trông tôi khá do dự khi ăn thử một miếng sate, vì một trong số những người phụ nữ chỉ vào đám lửa nhỏ và nói với tôi: “Thịt tươi đấy”, cô ta cười, “vừa mới nướng xong”. Và sau đó tiếng nhạc bắt đầu vang lên những âm thanh văng vẳng bí ẩn của gamalong, một loại nhạc cụ làm người ta liên tưởng tới những tiếng chuông ở đền thờ. “Dalang tự mình chơi tất cả các nhạc cụ”, Rasy thì thầm. “Ông ta cũng điều khiển tất cả các con rối và lồng tiếng cho chúng bằng nhiều ngôn ngữ. Chúng tôi sẽ dịch cho anh”. Đó là một buổi biểu diễn rất xuất sắc, kết hợp các câu truyện truyền thuyết với các sự kiện đương đại. Về sau, tôi được biết, dalang là một pháp sư và biểu diễn trong trạng thái bị thôi miên. Ông ta có hơn một trăm con rối và lồng tiếng cho mỗi con rối bằng một giọng khác nhau. Đó là một buổi tối mà tôi sẽ không bao giờ quên, và nó còn ảnh hưởng sâu sắc tới suốt phần đời còn lại của tôi. Sau khi biểu diễn xong một tác phẩm kinh điển trong sử thi Ramayana bằng ngôn ngữ cổ, dalang đem ra một con rối có hình Richard Nixon, đầy đủ cả cái mũi dài và cái cằm sệ đặc trưng. Tổng thống Mỹ mặc trang phục của Chú Sam, áo đuôi tôm cùng cái mũ cao có sao và vạch. Theo sau là một con rối khác mặc bộ vét kẻ sọc có áo gi lê. Con rối thứ hai xách một cái xô có vẽ ký hiệu đồng đôla. Nó dùng tay kia để vẫy một lá cờ Mỹ trên đầu Nixon theo kiểu nô lệ quạt mát cho ông chủ. Bản đồ Trung Đông và Viễn Đông xuất hiện đằng sau hai con rối, tên rất nhiều quốc gia được treo trên những cái móc theo đúng vị trí của chúng. Nixong ngay lập tức tiến lại gần tấm bản đồ, nhấc Việt Nam ra khỏi móc treo, và nhét vào mồm. Ông ta hét lên một câu được dịch ra là: “Thật nhục nhã! Đồ rác rưởi. Thế này là quá đủ rồi!” Sau đó ông ta ném nó vào xô và tiếp tục làm như thế với các nước khác. Tuy vậy, tôi rất ngạc nhiên khi thấy những lựa chọn tiếp theo của ông ta không phải là những quốc gia Đông Nam Á nằm trong vòng ảnh hưởng của hiệu ứng domino. Thay vào đó, tất cả đều là các nước Trung Đông- Palestin, Kuwait, Saudi Arabia, Iraq, Siri và Iran. Sau đó, ông ta chuyển sang Pakistan và Afghanistan. Mỗi lần như thế, con rối Nixon lại hét lên một bí danh nào đó trước khi ném nước đó vào trong xô, và mỗi lần như vậy lời lẽ chửi rủa của ông ta đều nhằmchống lại đạo Hồi: “Bọn chó Hồi giáo”, “những con quái vật của Mohammed”, và “những con quỷ đạo Hồi”. Đám đông trở nên kích động, mức độ căng thẳng tăng lên mỗi khi có thêm một nước bị némvào xô. Họ như bị giằng xé giữa những trận cười, sự căm phẫn và giận dữ. Mỗi lần như thế, tôi cảm thấy họ hết sức khó chịu vì những ngôn ngữ của người điều khiển con rối. Tôi cũng cảm thấy bị đe dọa, và tôi sợ họ sẽ chĩa sự giận dữ về phía tôi. Rồi con rối Nixon nói vài điều khiến tôi tóat cả mồ hôi khi Rasy dịch ra. “Hãy đưa cái này cho Ngân hàng Thế giới. Xem xem nó có thể làm gì giúp chúng ta moi tiền của Inđônêxia.” Ông ta nhấc Inđônêxia ra khỏi bản đồ và ném nó vào xô, nhưng đúng lúc đó một con rối khác bước ra từ bóng tối. Con rối này đại diện cho một người đàn ông Inđônêxia, mặc áo sơmi batik và quần kaki, ông ta đeo một tấm bảng có in tên của mình trên đó. “Một chính trị gia nổi tiếng ở Bandung”, Rasy giải thích. Con rối này gần như bay đến giữa Nixon và người đàn ông xách cái xô và giơ tay lên. “Dừng lại!”, ông ta hét lên. “Inđônêxia là một nước có chủ quyền”. Đám đông vỗ tay rào rào. Người đàn ông xách xô năng lá cờ lên và phóng nó đi như một ngọn giáo, đâm vào nhà chính trị Inđônêxia, làm ông này lảo đảo và chết một cách rất bi thương. Khán giả la ó, huýt gió, gào thét, và vung nắm đấm lên. Nixon và người đàn ông xách xô đứng đó, nhìn xuống chúng tôi. Tất cả cúi chào rồi rời khỏi sân khấu. “Tôi nghĩ tôi nên rời khỏi đây”, tôi nói với Rasy. Anh ta quàng tay qua vai tôi như để bảo vệ. “Sẽ ổn cả thôi”, anh ta nói. “Họ chẳng có ý phản đối cá nhân anh đâu.” Tôi thì không dám chắc. Sau đó tất cả chúng tôi đi về quán cà phê. Rasy và những người khác bảo đảm với tôi rằng họ không được thông báo trước về vở kịch Nixon- Ngân hàng Thế giới. “Anh không bao giờ biết được nghệ sĩ múa rối đó sẽ chuẩn bị diễn vở gì”, một trong những người trẻ tuổi nhận xét. Tôi nói với họ không biết có phải vở kịch đó được công diễn là do sự có mặt của tôi hay không. Ai đó cười và nói quả là cái Tôi trong tôi quá lớn. “Đó là tính cách điển hình của dân Mỹ các anh”, anh ta nói thêm và vỗ vai tôi một cách thông cảm. “Người Inđônêxia ý thức rất rõ về chính trị”, người đàn ông ngồi trên chiếc ghế bên cạnh tôi nói. “Người Mỹ không đi xem những buổi biểu diễn như thế này sao?” Một cô gái xinh đẹp là sinh viên khoa Anh ngữ tại trường đại học ngồi đối diện với tôi hỏi: “Nhưng có đúng là anh đang làm việc cho Ngân hàng Thế giới không?” Tôi nói với cô ta là nhiệm vụ hiện tại của tôi là làm cho một dự án Ngân hàng phát triển châu Á và Cơ quan Phát triển Quốc tế của Mỹ (USAID). “Chẳng phải cũng như nhau cả sao?” Cô ta không thèm đợi câu trả lời của tôi. “Nó không giống những gì trong vở kịch tối nay hay sao? Chính phủ của anh lại chẳng xem Inđônêxia và các nước khác giống như một chùm...” Cô ta tìm từ cho phù hợp. “Nho”, một người bạn của cô ta nhắc. “Chính xác. Một chùm nho. Anh có thể chọn lựa kỹ càng. Giữ nước Anh lại. Ăn Trung Quốc và quẳng Inđônêxia đi.” “Sau khi các anh đã vét cạn kho dầu của chúng tôi”, một người phụ nữ khác thêm vào. Tôi cố bênh vực mình nhưng không thể được. Tôi muốn lấy làm tự hào vì tôi đã đến khu này của thành phố và đã ở lại xem một buổi biểu diễn hoàn toàn chống lại nước Mỹ mà tôi đã nhìn nhận như một sự tấn công cá nhân tôi. Tôi muốn họ nhìn nhận lòng can đảm của tôi, biết rằng tôi là thành viên duy nhất trong nhóm nhân viên của MAIN muốn học tiếng Bahasa hay có ý định đón nhận nền văn hóa của họ, và chỉ ra rằng tôi là người nước ngoài duy nhất tham gia vào buổi biểu diễn này. Nhưng rồi tôi quyết định tốt hơn là nên thận trọng không đề cập đến bất cứ điều gì về buổi biểu diễn này. Thay vào đó, tôi cố gắng tập trung vào cuộc nói chuyện. Tôi hỏi họ rằng tại sao ngoại trừ Việt Nam, tất cả những nước mà dalang chọn đều là các nước đạo Hồi. Cô sinh viên Anh ngữ xinh đẹp bật cười vì câu hỏi đó. “Bởi vì đó chính là kế hoạch.” “Việt Nam chỉ là khởi đầu”, một người đàn ông xen vào, “như Hà Lan đối với phát xít Đức. Một bàn đạp.” “Mục tiêu thực sự”, cô sinh viên tiếp tục “là nhằm vào thế giới Hồi giáo”. Tôi không thể làm ngơ trước nhận xét này. Tôi phản đối: “Chắc cô không tin rằng nước Mỹ chống lại đạo Hồi chứ?” “Không à?”, cô ta hỏi lại. “Từ bao giờ thế? Anh phải đọc những gì mà một trong số những nhà sử học của các anh đã viết- một người Anh tên là Toynbee. Vào những năm 50 ông ta đã dự đóan rằng cuộc chiến thực sự trong thế kỷ tiếp theo sẽ không phải là giữa những người cộng sản và những nhà tư bản mà là giữa những người Thiên chúa giáo và những người Hồi giáo.” “Arnold Toynbee đã nói như thế sao?” tôi thực sự sửng sốt. “Đúng thế. Hãy đọc cuốn Nền văn minh bị lên án và Thế giới và phương Tây.” “Nhưng tại sao lại có sự thù hận như thế giữa những người theo đạo Hồi và những người theo đạo Thiên chúa?”, tôi hỏi Những người ngồi xung quanh nhìn nhau. Họ dường như không thể tin nổi là tôi lại hỏi một câu ngu xuẩn đến thế. “Bởi vì” cô ta nói một cách chậm rãi, như thể đang nói với người chậm hiểu hoặc bị lãng tai, “phương Tây- đặc biệt là nước đứng đầu, nước Mỹ- muốn thống trị thế giới, để trở thành đế quốc hùng mạnh nhất trong lịch sử. Nó cũng đã đến gần sự thành công. Liên bang Xô Viết sẽ không tồn tại lâu. Toynbee đã nhìn thấy điều đó. Họ không có tôn giáo, không có đức tin, không có căn bản vững chắc đằng sau hệ tư tưởng của ho. Lịch sử chứng minh rằng đức tin- linh hồn, một niềm tin vào những quyền năng cao cả- là điều cần thiết. Những người Hồi giáo chúng tôi có nó. Chúng tôi có đức tin mạnh hơn bất cứ ai trên thế giới, mạnh hơn cả những người Thiên chúa giáo. Vì thế chúng tôi chờ đợi. Chúng tôi sẽ ngày càng lớn mạnh.” “Chúng tôi cứ thong thả” một trong số những người đàn ông ngắt lời, “và rồi như một con rắn, chúng tôi sẽ tấn công.” “Thật là một ý nghĩ kinh khủng!” Tôi không thể kiềm chế bản thân. “Chúng ta có thể làm gì để thay đổi điều này?” Cô sinh viên Anh ngữ nhìn thẳng vào mắt tôi. “Đừng quá tham làm”, cô ta nói, “và quá ích kỷ như thế. Hãy nhìn nhận là còn có rất nhiều điều khác trên thế giới ngòai những ngôi nhà lớn và những cửa hàng sang trọng của các ngài. Có những con người đang chết đói và các ngài thì lại lo lắng về dầu cho những chiếc xe hơi của mình. Trẻ em đang chết khát và các ngài thì lại đang ngắm những mẫu mới nhất trong các tạp chí thời trang. Những quốc gia như chúng tôi đang đắmchìm trong nghèo đói, nhưng người dân ở nước này thậm chí không thèm nghe tiếng kêu cứu của chúng tôi. Các ngài thậm chí không thèm để ý đến những tiếng nói của những người đang cố kể cho các ngài biết về những điều này. Các ngài gán cho họ là những người cực đoan hoặc những người cộng sản. Các ngài nên mở rộng tấm lòng với những người nghèo đói và nô lệ. Chẳng còn nhiều thời gian nữa. Nếu các ngài không thay đổi, các ngài sẽ bị hủy diệt.” Vài ngày sau, chính trị gia nổi tiếng ở Bandung, người mà trong vở rối đã dũng cảm đương đầu với Nixon và bị người đàn ông xách cái xô đâm chết, đã bị một tên lái xe đam chết rồi bỏ chạy. Chương 8 Jesus, một cách nhìn khác Ký ức về dalang đó luôn ám ảnh tôi. Những lời nói của cô gái sinh viên Anh ngữ xinh đẹp cũng vậy. Cái đêm đó ở Bandung đã buộc tôi phải suy nghĩ và cho tôi cách nhìn khác. Mặc dù không hẳn là tôi lờ đi những lý do thật cho những việc làm của mình ở Inđônêxia, và thường bị tình cảm chi phối, song tôi luôn kiềm chế được những cảm giác của mình bằng cách viện dẫn đến lẽ phải, đến ví dụ trong lịch sử, cũng như đến những đòi hỏi tự nhiên của con người. Tôi biện minh rằng, sự dính líu của chúng tôi cũng là do hoàn cảnh bình thường, và tự thuyết phục bản thân mình là: Einar, Charlie, và những người còn lại trong nhóm chúng tôi cũng hành động như bao người khác vẫn làm, đó là chăm sóc cho bản thân và gia đình của chúng tôi. Song, những thanh niên Inđônêxia mà tôi nói chuyện hôm đó đã khiến tôi nhìn vấn đề ở một góc độ khác. Qua đôi mắt họ, tôi thấy những chính sách ngoại giao ích kỷ chẳng phục vụ hay bảo vệ cho thế hệ tương lai ở bất kỳ nơi nào. Nó cũng thiển cận như những báo cáo thường niên của các công ty hay những chiến lược vận động bầu cử của các nhà chính trị, những người dựng lên cái chính sách ngoại giao ấy. Cuối cùng thì những số liệu mà tôi cần để làm dự báo kinh tế cũng khiến tôi thường xuyên ở đây để suy ngẫm về những điều này và viết chúng vào một quyển nhật ký. Tôi lang thang khắp thành phố, cho những người ăn xin tiền, và bắt chuyện với những người bị bệnh phong, gái điếm, và những đứa trẻ bụi đời. Cùng lúc đó, tôi nghĩ về bản chất của viện trợ nước ngoài, về vai trò hợp pháp mà cá nước phát triển (DCs, theo thuật ngữ của Ngân hàng Thế giới) khi giúp đỡ các nước kém phát triển (LCDs) xóa đói giảm nghèo. Tôi bắt đầu tự hỏi, khi nào nó chỉ là để phục vụ cho lòng tham và sự ích kỷ. Thật sự, tôi bắt đầu nghi ngờ liệu có khi nào sự giúp đỡ này bắt nguồn từ lòng nhân hậu thật không, và nếu không thì liệu có cách nào thay đổi được điều này. Tôi tin rằng những nước như chính đất nước tôi phải kiên quyết đứng lên giúp đỡ những người bệnh tật và nghèo đói trên thế giới, song tôi cũng tin chắc rằng hiếm khi nào đó lại là động lực chính cho sự can thiệp của chúng tôi. Một câu hỏi lớn cứ lởn vởn trong đầu tôi: Có sai trái quá không nếu mục tiêu của viện trợ nước ngoài là xây dựng chủ nghĩa đế quốc? Tôi thường cảm thấy ghen tỵ với những người như Charlie, những người tin tưởng vào chế độ của chúng ta đến mức họ muốn áp đặt chế độ đó cho tất cả các nước khác trên thế giới. Tôi cũng ngờ rằng những nguồn lực có hạn khó mà cho phép cả thế giới sống một cuộc sống giàu sang như nước Mỹ, bởi ngay cả nước Mỹ cũng có hàng triệu người đang sống trong nghèo đói. Hơn nữa, tôi cũng không rõ là có thật người dân ở nước khác muốn có một cuộc sống như chúng tôi hay không. Những con số thống kê của chính nước Mỹ về bạo lực, tình trạng suy sụp, nghiện hút, ly hôn, và tội phạm đã cho thấy mặc dù xã hội của chúng tôi là một trong những xã hội thịnh vượng nhất trong lịch sử, nhưng đó cũng có thể là một trong những xã hội bất hạnh nhất. Tại sao chúng tôi lại muốn các nước khác phải giống mình? Có thể Claudine đã cảnh bảo cho tôi về tất cả những điều này. Tôi chẳng còn chắc cô ấy đã cố nói với tôi điều gì. Dù sao đi nữa, gạt lý trí sang một bên, sự thật đau lòng là tôi đã mất đi sự vô tội. Tôi viết trong nhật ký. Liệu có ai ở Mỹ là vô tội không? Mặc dù những người giàu có và đầy quyền lực là những người được lợi nhiều nhất, thì hàng triệu người chúng ta, gián tiếp hay trực tiếp, đều đang sống nhờ vào sự bóc lột các nước kém phát triển. Hầu hết các nguồn lực và nhân công rẻ phục vụ cho hoạt động kinh doanh mà chúng ta có đều từ những nơi như Inđônêxia, và hiếm khi quay trở lại. Những khoản nợ dưới dạng viện trợ nước ngoài đảm bảo rằng con cái, rồi cháu chắt của những người lao động này sẽ còn phải tiếp tục trả nợ thay cho cha mẹ họ. Họ buộc phải đồng ý để cho các công ty của chúng ta tàn phá tài nguyên thiên nhiên của họ, và phải từ bỏ giáo dục, y tế, và các dịch vụ xã hội khác chỉ để trả nợ cho chúng ta. Việc các công ty của chúng ta nhận hầu hết số tiền này để xây dựng các nhà máy điện, sân bay, và các khu công nghiệp chẳng đóng góp được gì trong việc này. Liệu lời bào chữa là phần lớn người Mỹ không ý thức được điều này có giúp họ trở nên vô tội không? Đúng là họ không có thông tin hoặc bị cung cấp những thông tin sai lệch, nhưng vô tội ư? Tất nhiên, tôi cũng phải đối diện với sự thật là hiện giờ chính tôi cũng đang ở trong số những người chủ động đưa ra những thông tin sai lệch. Khái niệm về một cuộc chiến tranh tôn giáo trên toàn thế giới là một khái niệm gây nhiều tranh cãi, nhưng càng suy nghĩ về điều này, thì tôi càng tin rằng rất có khả năng nó sẽ xảy ra. Song theo tôi, nếu cuộc chiến tranh này có xảy ra, thì đó sẽ không phải là cuộc chiến giữa người Hồi giáo với Thiên chúa giáo, mà là giữa những nước kém phát triển với nước phát triển, mà có thể người Hồi giáo sẽ đi tiên phong. Chúng tôi, người dân những nước phát triển là những nhà cung cấp. Một lần nữa, đây lại vẫn là hệ thống buôn bán thuộc địa, được dựng lên để giúp những nước mà tài nguyên thiên nhiên hạn chế song có quyền lực dễ bóc lột hơn những nước giàu tài nguyên nhưng không có sức mạnh. Tôi không có cuốn sách của Tonybee, nhưng tôi biết lịch sử đủ để hiểu rằng khi những nhà cung cấp bị bóc lột quá lâu, họ sẽ nổi dậy. Tôi phải nhắc lại hình mẫu về cuộc cách mạng Mỹ và Tom Paine. Tôi nhớ rằng nước Anh đã thanh minh cho việc thu thuế của mình bằng cách quả quyết rằng nước Anh đang viện trợ cho các nước thuộc địa dưới hình thức cho quân đội bảo vệ những nước này khỏi người Pháp và người da đỏ. Song những người định cư lại giải thích hoàn toàn khác. Những gì mà Paine để lại cho đồng hương của mình trong cuốn Lẽ phải nổi tiếng chính là tâmhồn mà những người bạn trẻ Inđônêxia đã từng nói tới- một ý tưởng, một niền tin vào công lý của một sức mạnh lớn hơn, và một tôn giáo của tự do và công bằng, hoàn toàn đối lập với nền quân chủ Anh và các chế độ giai cấp thượng lưu của nó. Những điều người Hồi giáo đưa ra cũng tương tự: lòng tin vào một sức mạnh lớn hơn, và niềm tin rằng các nước phát triển không có quyền nô dịch và bóc lột các nước khác trên thế giới. Giống như những người Mỹ trước đây đã từng vùng lên chống lại thuộc địa Anh, những người Hồi giáo cũng đang đe dọa sẽ đấu tranh vì quyền lợi của họ, và cũng chẳng khác gì những người Anh vào những năm 1770, chúng tôi quy những hành động này là khủng bố. Lịch sử dường như đang lặp lại. Tôi tự hỏi thế giới sẽ ra sao nếu nước Mỹ và đồng mình của họ thay vì dùng tiền để tiến hành những cuộc chiến tranh- như cuộc chiến ở Việt Nam- để xóa đi nạn đói trên thế giới hoặc đưa giáo dục và chăm sóc y tế cơ bản tới tất cả mọi người, kể cả đồng bào tôi. Tôi tự hỏi những thế hệ tương lai sẽ thế nào nếu chúng ta cam kết xóa bỏ sự nghèo khổ và quyết tâm bảo vệ nguồn nước, rừng, và các tài nguyên thiên nhiên, những thứ đảm bảo cho chúng ta có được nguồn nước sạch, không khí trong lành và tất cả những gì đang nuôi sống tinh thần cũng như thể xác chúng ta. Tôi không thể tin rằng, cha ông tôi, những người lập nước lại hình dung quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc lại chỉ để dành riêng cho người Mỹ. Và vì thế, tại sao giờ đây chúng tôi lại đang thực hiện những chiến lược nhằm củng cố các giá trị của chủ nghĩa đế quốc mà cha ông chúng tôi đã từng đấu tranh chống lại? Đêm cuối cùng ở Inđônêxia, tôi bừng tỉnh bởi một giấc mơ, ngồi dậy và bật đèn. Tôi cảm giác như có ai đó đang ở trong phòng. Tôi nhìn quanh những đồ đạc quen thuộc của khách sạn InterContinental, những tấm thảm được thêu kiểu batik, và bóng những con rối trong khung treo trên tường. Và giấc mơ quay trở lại. Tôi thấy Chúa đứng trước mặt mình. Người không khác với Chúa Giêsu mà tôi vẫn hằng đêmcùng nói chuyện và chia sẻ suy nghĩ sau khi cầu nguyện ngày tôi còn bé. Ngoại trừ một điều, Chúa Giêsu trong ký ức thời thơ ấu của tôi da trắng và tóc vàng, trong khi người đứng trước mặt tôi lại có mái tóc xoăn đen và nước da ngăm. Người cúi xuống và nâng một vật gì đó lên vai. Tôi nghĩ đó là cây thánh giá. Nhưng không phải, tôi nhìn thấy trục xe ô tô cùng với vành bánh xe hiện lên trên đâu của người tạo ra một vầng hào quang bằng kim loại. Dầu mở chảy xuống như máu trên trán của người. Người đứng thẳng, nhìn vào mắt tôi và nói: “Nếu bây giờ ta giáng thế, con sẽ thấy ta khác”. Tôi hỏi người tại sao. “Tại thế giới đã thay đổi”, người trả lời. Kim đồng hồ chỉ trời đã gần sáng. Tôi biết tôi không thể ngủ tiếp, tôi dậy mặc đồ, đi thang máy xuống tiền sảnh vắng vẻ và tha thẩn trong khu vườn bao quanh bể bơi. Trăng hôm nay thật sáng và mùi hương ngọt ngào của hoa lan phảng phất trong không khí. Tôi ngồi xuống chiếc ghế dài và tự hỏi mình đang làm gì ở đây, tại sao những biến cố của cuộc sống lại đưa tôi đi theo con đường này, tại sao lại là Inđônêxia. Tôi biết cuộc sống của tôi đã thay đổi, nhưng tôi không biết nó sẽ thay đổi nhanh đến mức nào. Tôi và Ann gặp nhau ở Paris trên đường về nhà và cố gắng hòa giải. Nhưng ngay cả trong kỳ nghỉ ở Pháp này chúng tôi vẫn tiếp tục tranh luận. Mặc dù có rất nhiều những khoảng khắc đặc biệt và tuyệt vời, song tôi nghĩ chúng tôi đều nhận ra rằng nỗi giận và sự bực tức trong cả một thời gian dài đã biến thành trở ngại quá lớn. Vả lại, có rất nhiều điều tôi đã không thể nói với cô ấy. Người duy nhất tôi có thể chia sẽ là Claudine, và tôi liên tục nghĩ về cô ấy. Ann và tôi đáp xuống sân bay Logan ở Boston, mỗi người đi tới căn hộ của riêng mình ở vịnh Back. Chương 9 Cơ hội ngàn năm có một Thử thách thực sự về Inđônêxia đang chờ tôi tại MAIN. Buổi sáng, việc trước tiên mà tôi làmlà đến trụ sở của MAIN tại Trung tâm Prudential. Khi đi thang máy cùng hàng chục đồng nghiệp khác, tôi được biết Mac Hall, vị Chủ tịch và Tổng giám đốc đầy bí ẩn ngoại bát tuần của MAIN đã tiến cử Einar làm Chủ tịch văn phòng Oreegon tại Portland. Thế là từ giờ tôi sẽ chính thức dưới quyền Bruno Zambotti. Được mệnh danh là “con cáo bạc” vì mái tóc và khả năng kỳ lạ luôn vượt trội mọi đối thủ muốn thách thức ông ta, Bruno có dáng vẻ bảnh bao của Cary Grant. Ông ta có khả năng hùng biện, và có cả bằng kỹ thuật lẫn bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh. Ông ta thành thạo kinh tế lượng và là Phó giám đốc phụ trách bộ phận điện năng và hầu hết các dự án quốc tế ở MAIN. Ông ta chắc chắn sẽ kế vị người thầy của ông ta, Jake Dauber lên làm Chủ tịch Tập đoàn khi ông này đến tuổi về hưu. Cũng như hầu hết các đồng nghiệp tại MAIN, tôi rất kính nể và sợ Bruno Zambotti. Ngay trước bữa ăn, Bruno cho gọi tôi đến văn phòng của ông ta. Sau khi hỏi han rất thân về Inđônêxia, ông ta nói một số câu khiến tôi đứng ngồi không yên. “Tôi sẽ sa thải Howard Paker, chúng ta không cần đi vào chi tiết, trừ một điều là ông ta đã quá xa rời thực tế.” Nụ cười thân thiện của ông ta khiến tôi bối rối. Ông ta lấy ngón tay khẽ gõ lên tập giấy ở trên bàn: “Tám phần trăm một năm. Đó là dự báo lượng điện của ông ta. Anh có tin được không? Ở đâu đất nước đầy tiềm năng như Inđônêxia!” Nụ cười của ông ta tắt ngấm và ông ta nhin thẳng vào mắt tôi. “Charlie Illingworth nói với tôi rằng dự báo kinh tế của anh bám sát mục tiêu đề ra và sẽ cần lượng điện tăng vào khoảng 17 đến 20 phần trăm. Đúng thế không?” Tôi bảo đảm với ông ta là đúng. Ông ta đứng dậy bắt tay tôi. “Xin chúc mừng. Anh vừa được thăng chức.” Lẽ ra, tôi nên cũng các đồng nghiệp tại MAIN đi ăn mừng ở một khách sạn sang trọng- hay thậm chí chỉ riêng mình tôi. Tuy nhiên, tâm trí tôi chỉ hướng về Claudine. Tôi rất nóng lòng muốn báo cho cô ta biết về sự thăng tiến của mình và những gì tôi đã trải qua ở Inđônêxia. Cô ta đã bảo tôi không được gọi cho cô ta từ nước ngoài, và tôi đã không gọi. Bây giờ tôi thất vọng khi điện thoại của cô ta không thể liên lạc được và cũng không có số chuyển tiếp. Tôi quyết định đi tìm cô ta. Một cặp vợ chồng trẻ đã chuyển đến sống trong căn hộ của cô ta. Lúc ấy là giờ ăn trưa nhưng chắc chắn là tôi vừa đánh thức họ; rất khó chịu, họ tuyên bố là không hề biết gì về Claudine. Tôi đến cả văn phòng cho thuê nhà, vờ là anh họ của Claudine. Trong hồ sơ của họ chưa từng có ai thuê nhà với cái tên như vậy; người thuê nhà trước đây là một người đàn ông yêu cầu được giấu tên. Quay lại Trung tâm Prudential, phòng nhân sự của MAIN cũng khẳng định không có hồ sơ nào của cô ta. Họ xác nhận chỉ có hồ sơ của một “cố vấn đặc biệt” nhưng tôi không được phép xem. Đến cuối buổi chiều, tôi thấy mệt mỏi rã rời, cả thể xác lẫn tinh thần. Thêm vào đó, sự mệt mỏi sau một chuyến bay dài cũng bắt đầu hành hạ tôi. Trở lại căn hộ trống trải, tôi cảm thấy cô đơn khủng khiếp và bị bỏ rơi. Sự thăng tiến trở nên vô nghĩa, thậm chí còn tệ hơn, nó trở thành dấu hiệu là tôi đã bán rẻ bản thân. Tôi quăng mình xuống giường, quay cuồng với nỗi tuyệt vọng. Claudine đã lợi dụng tôi và sau đó vứt đi. Quyết không để nỗi đau chi phối, tôi gạt bỏ mọi cảmxúc của mình. Tôi lên giường, nhìn chằm chằm vào những bức tường trống hàng tiếng đồng hồ. Cuối cùng, tôi cố gắng lấy lại bình tĩnh. Tôi ngồi dậy, uống hết một chai bia và đập mạnh chai xuống bàn. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Nhìn xuống con phố phía đằng xa, tôi tưởng như nhìn thấy cô ta đang đi về phía tôi. Tôi chạy vội ra phía cửa nhưng rồi lại quay trở về phía cửa sổ để nhìn kỹ lại. Người phụ nữ đang tiến lại gần hơn. Cô ta rất hấp dẫn, và dáng đi của cô ta rất giống Claudine, nhưng cô ta không phải là Claudine. Tim tôi như thắt lại, và cảm xúc của tôi chuyển từ giận dữ và căm ghét sang sợ hãi. Trong đầu tôi bỗng lóe lên hình ảnh Claudine quằn quại và ngã xuống dưới làn đạn vì bị ám sát. Tôi cố rũ bỏ hình ảnh ấy bằng một vài viên Valium và uống cho đến khi say mềm và ngủ thiếp đi. Sáng hôm sau, cú điện thoại từ phòng nhân sự đã đánh thức tôi khỏi cơn say. Trưởng phòng nhân sự, Paul Mormino, cam đoan là ông ta hiểu tôi cần được nghỉ ngơi, nhưng ông nài nỉ tôi ghé đến văn phòng vào buổi chiều. “Có tin tốt”, ông ta nói. “Tin này sẽ làm anh hết mệt đấy.” Tôi tuân lệnh triệu tập và được biết rằng Bruno đã giữ lời, và còn hơn thế nữa. Không những tôi có được vị trí của Howard mà còn được thêm chức danh Kinh tế trưởng và được tăng lương. Điều đó khiến tôi phấn chấn hơn một chút. Chiều hôm đó tôi xin nghỉ và lang thang dọc bờ sông Charles với một chai bia. Khi tôi ngồi nhìn những chiếc thuyền buồm và lấy lại sức sau chuyến bay dài mệt mỏi va sau cơn say, tôi tự thuyết phục bản thân rằng Claudine đã làm xong công việc của mình và đã chuyển sang một nhiệmvụ mới. Cô ta luôn nhấn mạnh phải giữ bí mật. Cô ấy sẽ gọi. Mormino đã đúng. Sự mệt mỏi và nỗi lo âu tiêu tan. Trong suốt nhiều tuần sau đó, tôi đã cố gạt mọi suy nghĩ về Claudine sang một bên. Tôi tập trung viết báo kinh tế của Inđônêxia và sửa lại phần dự báo lượng tải điện của Howard. Tôi đã đưa ra nghiên cứu theo đúng ý muốn của các sếp: nhu cầu điện tăng trung bình khoảng 19% một năm trong vòng mười hai năm đầu sau khi hệ thống được hoàn thiện, sau đó giảm xuống 17% trong tám năm tiếp theo và duy trì ở mức 15% trong những năm còn lại của hai mươi lăm nămtới. Tôi đã trình bày kết luận của mình tại những buổi họp chính thức với các tổ chức tài trợ quốc tế. Nhóm chuyên gia của các tổ chức này liên tục hỏi tôi nhiều câu rất tàn nhẫn. Nhưng khi đó, cảm xúc của tôi đã chuyển thành sự quyết tâm không gì lay chuyển được, chẳng khác gì sự quyết tâm đã thôi thúc tôi phấn đấu để vượt trội thay vì nổi loạn trong thời gian ở trường nội trú namsinh. Tuy nhiên, ký ức về Claudine vẫn luôn ám ảnh tôi. Khi một nhà kinh tế trẻ ăn mặc bảnh bao muốn ra vẻ ta đây của Ngân hàng Phát triển châu Á hỏi tôi dồn đập suốt cả buổi chiều, tôi chợt nhớ lại lời khuyên của Claudine lúc chúng tôi gặp nhau tại căn hộ của cô ta trên phố Beacon nhiều tháng trước. “Ai có thể thấy trước được tương lai của hai mươi lăm năm tới cơ chứ?” cô ta hỏi tôi. “những dự báo của anh cũng tốt chẳng kém gì của họ. Chỉ cần anh tự tin.” Tôi tự nhủ mình là một chuyên gia, có nhiều kinh nghiêm sống ở các nước đang phát triển hơn những người- kể cả nhiều người trong đó còn gấp đôi tuối tôi- đang ngồi phán xét công việc của tôi. Tôi đã từng sống ở Amazon và đã đến rất nhiều nơi của đảo Java, những nơi mà không ai muốn đặt chân đến. Tôi đã tham gia một số khóa đào tạo chuyên môn, được thiết kế để dạy cho các nhà quản lý những điều tinh túy nhất của kinh tế lượng. Tôi tự nhủ rằng mình là một trong số những con người của thế hệ mới, những người trẻ tuổi, ưu tú, sùng bái kinh tế lượng và những số liệu thống kê rất hợp gu với Robert McNamara- Chủ tịch đương nhiệm của Ngân hàng Thế giới, Giám đốc tiền nhiệm Ford Motor và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng của Tổng thống Kenedy. Ông ta là người đã tạo dựng danh tiếng cho mình dựa trên những con số thống kê, lý thuyết xác suất, các mô hình toán học và- tôi cho là- dựa trên sự táo bạo hão huyền xuất phát từ lòng vị kỷ khủng khiếp. Tôi cố gắng bắt chước cả McNamara và Bruno. Tôi học cách diễn thuyết của McNamara và dáng đi đầy tự tin của Bruno, cái cặp da luôn kè kè bên mình. Nhìn lại, tôi cũng phải kinh ngạc bởi sự trơ trẽn của chính mình. Thực ra, chuyên môn của tôi rất hạn chế, song những kiến thức tôi thiếu hay không qua đào tạo đã được bổ sung bằng sự táo bạo của tôi. Và tôi đã thành công. Cuối cùng thì nhóm các chuyên gia cũng chấp nhận những bản báo cáo của tôi. Trong những tháng tiếp theo, tôi tham dự nhiều cuộc họp ở Teheran, Caracas, Guatemala, London, Vienna và Washington DC. Tôi gặp gỡ nhiều nhân vật nổi tiếng, trong đó có cả Quốc vương Iran, những người đã từng là tổng thống của nhiều nước, và cả Robert McMamara. Cũng giống như trường nội trú dành cho nam sinh, đó là một thế giới đàn ông. Tôi kinh ngạc nhận thấy chức danh của mình và những thành công vừa đạt được trong các buổi họp với các tổ chức tài trợ quốc tế đã làm thay đổi thái độ của mọi người với tôi. Ban đầu, tất cả những điều này khiến tôi choáng ngợp. Tôi bắt đầu nghĩ mình như một vị phù thủy với cây đũa thần, chỉ cần dùng cây đũa chỉ vào một đất nước, phút chốc đất nước này sẽ bừng sáng, và các ngành công nghiệp thăng hoa. Nhưng rồi tôi vỡ mộng. Tôi nghi ngờ động cơ của bản thân và của các đồng nghiệp. Dường như một chức vị danh giá hay một tấm bằng tiến sĩ không làm cho người ta hiểu cảnh thống khổ của một người bị bệnh phong phải sống bên lề xã hội ở Jakarta, và tôi ngờ rằng việc hiểu rõ các số liệu thống kê chẳng thể mang lại cho người ta khả năng nhìn trước được tương lai. Càng biết rõ về những người nắm quyền quyết định vận mệnh thế giới, tôi càng nghi ngờ khả năng và mục đích của họ. Nhìn vào những người đang ngồi quanh bàn họp, tôi thấy khó mà kiềm chế được cơn giận dữ của mình. Tuy nhiên, cuối cùng cách nhìn này của tôi cũng thay đổi. Tôi chợt hiểu ra rằng hầu hết những người này đều tin tưởng rằng họ đang làm những việc đúng đắn. Cũng giống như Claudine, họ tin chắc rằng chủ nghĩa khủng bố là xấu xa- chứ không phải là cách người ta phản ứng lại những quyết định mà bản thân họ và những người tiền nhiệm đã đưa ra- và rằng trách nhiệm của họ đối với đất nước, với con cái và với Chúa là phải đưa thế giới trở lại với chủ nghĩa tư bản. Họ cũng trung thành với quy luật chỉ những kẻ mạnh nhất mới có thể tồn tại; nếu họ tình cờ có được số phận may mắn là sinh ra trong một tầng lớp có đặc quyền chứ không phải trong những căn lều làmbằng bìa các tông thì nghiễm nhiên việc đảm bảo cho con cháu họ được hưởng những đặc quyền tương tự là một nghĩa vụ mà họ phải hoàn thành. Tôi không biết phải nhìn nhận những người này như những kẻ thật sự có mưu đồ hay chỉ đơn giản là một nhóm những người có chung đặc quyền đặc lợi đang có khuynh hướng chiếm lĩnh thế giới. Song, càng ngày tôi càng thấy họ giống với những tay chủ đồn điền vào thời kỳ trước cuộc Nội chiến miền Nam. Họ là những người trong cùng một hội với những niềm tin vào lợi ích chung, chứ không phải là một hội kín bí mật với mục đích nham hiểm. Những tay chủ đồn điền lớn lên có người hầu và nô lệ, được nuôi dạy để tin rằng họ có quyền và thậm chí có nghĩa vụ bảo vệ “những kẻ ngoại đạo dốt nát” và dạy cho họ sống theo tôn giáo và cách sống của các ông chủ. Kể cả khi về đạo lý họ phản đối chế độ nô lệ, họ vẫn có thể, giống như Thomas Jefferson, bào chữa rằng chế độ nô lệ là cần thiết để duy trì trật tự xã hội. Những kẻ nắm quyền của những chính thể đầu sỏ ngày nay, mà tôi thường coi là thể chế tập đoàn trị, dường như cũng cùng một giuộc. Tôi bắt đầu tự hỏi không biết ai là người được lợi từ chiến tranh từ việc sản xuất vũ kí hàng loạt, từ việc xây đập thủy điện trên những con sông và phá hủy môi trường và văn hóa dân tộc. Tôi cũng bắt đầu để ý ai là người được hưởng lợi khi hàng trăm nghìn người khác chết vì đói, vì nước ô nhiễm và vì những căn bệnh có thể chữa được. Dần dần, tôi nhận ra rằng rốt cuộc chẳng ai được lợi, nhưng trong tương lai gần thì những kẻ ăn trên ngồi trốc- như những ông chủ của tôi và tôi- dường như là có lợi, ít nhất là về mặt vật chất. Điều này cũng đặt ra nhiều câu hỏi: tại sao tình trạng này tồn tại? Tại sao nó kéo dài lâu như vậy? Liệu câu trả lời có đơn giản như trong câu châm ngôn cổ “Lẽ phải thuộc về kẻ mạnh”, rằng những kẻ nắm quyền lực trong tay sẽ duy trì hệ thống hay không? Có lẽ là chưa đủ khi nó rằng chỉ có quyền lực gây nên tình trạng kéo dài này. Tuy lời nhận xét “Lẽ phải thuộc về kẻ mạnh” đã giải thích được phần lớn, nhưng tôi vẫn cảm thấy chắc hẳn phải có một động cơ nào đó mạnh hơn rất nhiều. Tôi nhớ lại những ngày còn học ở đại học, một vị giáo sư kinh tế của tôi, một người Bắc Ấn, đã giảng về những nguồn lực có hạn, về nhu cầu không ngừng phát triển của con người, và về nguồn gốc của nô lệ. Theo vị giáo sư này, mọi hệ thống tư bản chủ nghĩa thành công bao giờ cũng có hệ thống cấp bậc với những chuỗi mệnh lệnh khắt khe, và chỉ có một số ít người ở vị trí cao nhất có quyền kiểm soát cấp dưới và một đội quân khổng lồ những người lao động ở dưới đáy xã hội mà theo thuật ngữ kinh tế có thể được xếp vào hàng nô lệ. Cuối cùng thì tôi tin chắc rằng chúng tôi khuyến khích hệ thống này vì chế độ tập đoàn trị đã thuyết phục chúng tôi rằng Chúa đã trao cho chúng tôi quyền đặt một số người lên trên đỉnh của cái kim tự tháp tư bản này và chúng tôi có sứ mệnh truyền bá hệ thống đó trên khắp thế giới. Tất nhiên, chúng tôi không phải là những người đầu tiên làm như vậy. Danh sách những người đã làm điều đó có từ thời những đế quốc cổ đại ở Bắc Phi, Trung Đông, và châu Á, rồi tiến dần lên phía vịnh Ba tư, Hy Lạp, Roma, cuộc Thập tự chinh của Thiên chúa giáo, và tất cả những người dựng nên đế chế Châu Âu vào thời đại sau Columbus. Tiến trình phát triển của chủ nghĩa đế quốc đã và sẽ là nguyên nhân của hầu hết các cuộc chiến tranh, sự ô nhiễm, nạn đói, sự tuyệt chủng của các loài, và nạn diệt chủng. Và nó luôn luôn đưa đến sự hủy hoại nghiêm trọng cả tinh thần và hạnh phúc của những công dân thuộc các đế quốc đó, gây bất ổn xã hội. Cuối cùng, những nền văn hóa thịnh vượng nhất trong lịch sử nhân loại cũng đều bị hủy hoại vì sự lan tràn của tình trạng tự sát, tệ lạm dụng ma túy và bạo lực. Tôi nghĩ rất nhiều về những câu hỏi này, nhưng tôi tránh nghĩ về vai trò của mình trong tất cả những vụ việc này. Tôi cố nghĩ rằng bản thân mình không phải là một EHM mà là một Kinh tế trưởng. Điều đó nghe có vẻ hợp pháp, và nếu tôi cần bất cứ sự xác nhận nào, tôi có thể nhìn vào cuốn biên lai tiền lương của tôi: tất cả đều từ MAIN, một công ty tư nhân. Tôi không kiếm được dù chỉ một xu từ phía NSA hay bất kỳ một cơ quan chính phủ nào. Tôi gần như chắc chắn. Gần như vậy. Vào một buổi chiều, Bruno gọi tôi vào phòng làm việc của ông ta. Ông ta vòng ra sau ghế ngồi và đặt tay lên vai tôi: “Anh đã hoàn thành công việc xuất sắc. Để chứng tỏ chúng tôi đánh giá điều đó cao thế nào, chúng tôi sẽ cho anh một cơ hội ngàn năm có một, một lời đề nghị mà rất ít người, kể cả khi đã gấp đôi tuổi anh có được”. Chương 10 Vị tổng thống, người anh hùng của Panama Tôi đáp xuống sân bay quốc tế Tocumen của Panama vào một đêm tháng tư năm 1972 trong một cơn mưa nhiệt đới lớn. Như thường lệ, tôi đi chung taxi với một số quan chức khác và vì biết tiếng Tây Ban Nha, tôi được xếp ngồi ở ghế trước bên cạnh lái xe. Tôi thẫn thờ nhìn cảnh vật bên ngoài qua kính ô tô. Dưới mưa, ánh đèn pha ô tô chiếu vào một tấm áp phích có hình một người đàn ông điển trai với cặp lông mày rậm và đôi mắt sáng long lanh. Một bên chiếc mũ rộng vành của ông được uốn cong lên một cách ngang tàng. Tôi nhận ra người anh hùng Panama, Omar Torrijos. Như thường lệ, để chuẩn bị cho chuyến đi, tôi đến Thư viện Công cộng Boston để đọc những cuốn sách viết về đất nước này. Tôi biết rằng một trong những lý do khiến Torrijos được lòng dân là vì ông rất cứng rắn, cả trong việc bảo vệ quyền tự trị của Panama cũng như tuyên bố chủ quyền đối với kênh đào Panama. Dưới dự lãnh đạo của mình, ông quyết tâm đưa đất nước tránh khỏi những cạm bẫy nguy hiểm đã làm nên một lịch sử đáng khinh của đất nước này. Panama đã từng là một phần của Colombia khi kỹ sư người Pháp Ferdinand de Lesseps, người chỉ đạo xây dựng kênh đào Suez, quyết định xây một con kênh qua dải đất vùng Trung Mỹ để nối Đại Tây Dương với Thái Bình Dương. Từ năm 1881, Pháp đã huy động một nguồn lực khổng lồ để tiến hành công việc trên nhưng đã gặp phải hết thất bại này đến thất bại khác. Cuối cùng, vào năm 1889 dự án đã thất bại do thiếu nguồn tài chính nhưng nó đã khởi nguồn cho một giấc mơ của Tổng thống Mỹ- Theodore Roosevelt. Trong suốt những năm đầu của thế kỷ XX, Mỹ yêu cầu Colombia ký một hiệp ước chuyển dải đất này cho một tập đoàn Bắc Mỹ nhưng Colombia đã từ chối. Năm 1903, Tổng thống Roosevelt hạ lệnh cho tàu chiến Nashville của Mỹ tới đây. Lính Mỹ đã đổ bộ xuống, chiếm giữ và giết một thủ lĩnh quân du kích địa phương nổi tiếng, rồi tuyên bố Panama là một quốc gia tự độc lập. Một chính phủ bù nhìn được dựng lên và Hiệp ước Kênh đào đầu tiên được ký kết; nó đã thiết lập nên một vùng đất Mỹ ở cả 2 bên con đường thủy tương lai này, hợp pháp hóa sự can thiệp quân sự của Mỹ và trao quyền kiểm sóat quốc gia “độc lập” mới được thành lập này cho Mỹ. Điều thú vị là Hiệp ước này lại được Ngoại trưởng Mỹ Hay và một kỹ sư người Pháp là Philippe Bunau-Varilla, người trước đây là một thành viên của dự án bắt đầu, chứ chẳng do một người Panama nào ký. Thực chất, một thỏa thuận giữa một người Mỹ và một người Pháp đã buộc Panama phải rời bỏ Colombia để phục vụ quyền lợi của Mỹ. Nhìn lại, đây quả là một sự khởi đầu mang tính báo trước.(1) Trong hơn nửa thế kỷ, Panama chịu sự cai trị của một chế độ đầu sỏ chính trị gồm những gia đình giàu có, có quan hệ chặt chẽ với Washington. Đó là những kẻ độc tài cánh hữu, luôn sẵn sàng thực hiện bất cứ biện pháp nào mà chúng cho là cần thiết để đảm bảo quyền lợi của Mỹ. Giống như hầu hết những tên độc tài Mỹ Latinh là đồng minh của Mỹ, đối với những kẻ cầmquyền Panama, lợi ích của Mỹ cũng đồng nghĩa với việc đàn áp bất cứ phong trào dân túy nào thoáng có hơi hướng xã hội chủ nghĩa. Những kẻ này cũng ủng hộ CIA và NSA trong các hoạt động chống phá chủ nghĩa cộng sản ở nửa bán cầu này và giúp các công ty lớn của Mỹ như Công ty Standard Oil của Rockerfeller và Công ty United Fruit (được George H.W.Bush mua). Các chính quyền này hoàn toàn không nhận thấy rằng lợi ích của Mỹ được thúc đẩy nhờ việc củng cố cuộc sống đói nghèo của những người dân buộc phải làm việc như nô lệ trong các đồn điền và cho các tập đoàn lớn. Những kẻ cầm quyền tất nhiên được bù đắp hậu hĩnh cho sự phụng sự của họ; lực lượng quân đội Mỹ đã đại diện cho những kẻ cầm quyền Panama để can thiệp hàng chục lần trong cả giai đoạn từ khi Panama tuyên bố độc lập đến năm 1968. Tuy nhiên, trong năm đó- khi tôi vẫn còn là tình nguyện viên của Quân đoàn Hòa bình ở Êcuađo, lịch sử Panama đã rẽ sang một hướng khác. Một cuộc nổi dậy lật đổ Arnulfo Arias, tên độc tài cuối cùng trong đội ngũ độc tài ở Panama và Omar Torrijos trở thành người lãnh đạo đất nước, mặc dù ông không tích cực tham gia vào cuộc lật đổ.(2) Torrijos được tầng lớp trung lưu và hạ lưu ở Panama đề cao. Bản thân ông lớn lên ở thành phố nghèo Santiago, nơi bố mẹ ông làm nghề dạy học. Ông thăng tiến nhanh qua các cấp bậc của Lực lượng Cận vệ Quốc gia, đơn vị quân đội đầu tiên của Panama trong những năm 60 ủng hộ mạnh mẽ. Ông nổi tiếng là biết lắng nghe người nghèo. Ông đến những khu nhà ổ chuột, nơi mà những chính trị gia không dám lui tới, để tổ chức các cuộc mít tinh, giúp đỡ những người thất nghiệp tìm việc làm, thường xuyên làm từ thiện cho những gia đình ốm đau và rơi vào hoàn cảnh bi đát bằng nguồn tài chính ít ỏi của mình.(3) Tình yêu cuộc sống và lòng nhân ái của ông thậm chí đã vượt ra khỏi biên giới Panama. Torrijos quyết tâm biến đất nước trở thành một bến bờ cho những người phiêu dạt trốn khủng bố, thành nơi trú ngụ cho những người tị nạn của cả hai phe phái chính trị, từ những phe đối lập cảnh tả với chế độ độc tài Pinnochet của Chi Lê cho tới những người du kích cánh hữu chống lại P.Castro. Nhiều người coi ông như một sứ giả hòa bình, và điều này khiến ông được ngưỡng mộ trên khắp bán cầu. Ông cũng được biết đến với tư cách là nhà lãnh đạo có quyết tâm hòa giải mối bất đồng giữa các phe phái đã gây chia rẽ rất nhiều quốc gia Mỹ Latinh: Honduras, Guatemala, El Salvador, Nicaragua, Cuba, Colombia, Peru, Argentina, Chile và Paraguay. Quốc gia bé nhỏ với 2 triệu dân của ông là một mẫu hình về cải cách xã hội và là nguồn cảm hứng cho các nhà lãnh đạo thế giới, từ những nghiệp đoàn lao động âm mưu chia cắt Liên bang Xô Viết đến những lãnh đạo du kích Hồi giáo như Muammar Gadahfi của Libya.(4) Đêm đầu tiên ở Panama, dừng lại ở cột đèn tín hiệu giao thông, nhìn cái cần gạt nước đang hối hả gạt nước trên kính chắn gió, tôi thấy xúc động bởi người đàn ông từ trên tấm áp phích đang mỉm cười với mình- đẹp trai, hấp dẫn và can đảm. Từ những gì học được ở BPL tôi biết rằng ông đã đứng lên bảo vệ cho đức tin của mình. Lần đầu tiên trong lịch sử của mình, Panama không phải là bù nhìn của Washington hay của bất kỳ một quốc gia nào khác. Torrijos luôn chống lại sự cám dỗ của Matxcơva hay Bắc Kinh; ông tin vào cải cách xã hội và tin sẽ giúp đỡ được những người nghèo nhưng ông lại không theo chủ nghĩa cộng sản. Không giống như Castro, Torrijos quyết tâm giành lại tự do từ tay nước Mỹ mà không trở thành đồng minh của những kẻ thù của Mỹ. Tôi đã tình cờ đọc qua một bài ở một tờ báo không mấy tiếng tăm nào đó mà tôi tìm thấy trên giá sách của BPl, bài báo đã ca ngợi Torrijos như một người có thể thay đổi lịch sử của Châu Mỹ, đảo ngược xu hướng thống trị lâu đời của Mỹ. Trong lời mở đâu, tác giả đã trích dẫn Thuyết Bành trướng do định mệnh, một học thuyết mà những người dân Mỹ trong những năm 1840 biết, đó là sự xâm chiếm Bắc Mỹ là lệnh của bề trên; rằng Chúa chứ không phải con người đã ra lệnh giết người da đỏ, phá rừng và giết trâu bò, tháo nước của các đầm lầy và các kênh rạch; Chúa cũng quyết định rằng sự phát triển của con người và nguồn tài nguyên thiên nhiên. Bài báo này đã làm tôi suy ngẫm về thái độ của đất nước mình đối với thế giới. Học thuyết Monroe, do Tổng thống James Monroe khởi xướng năm 1823, đã được dùng để phát triển thuyết Bành Trướng do định mệnh thêm một bước. Vào những năm 50, 60, người ta dùng nó để khẳng định rằng Mỹ có những quyền năng đặc biệt đối với toàn bộ bán cầu này, bao gồm cả quyền xâm lược bất kỳ quốc gia nào ở Trung và Nam Mỹ, nếu các nước này không ủng hộ các chính sách của Mỹ. Teddy Roosevelt đã dùng Học thuyết Monroe để tiến hành hoạt động can thiệp của Mỹ vào Cộng hòa Dominica, vào Venezuela và trong suốt quá trình “tự do hóa” Panama từ Colombia. Một loạt các đời tổng thống Mỹ sau đó- đáng chú ý là Taft, Wilson và Franklin Roosevelt- đều dựa vào học thuyết trên để mở rộng các hoạt động liên Mỹ của Washington trong suốt những năm cuối Đại chiến Thế giới lần thứ Hai. Cuối cùng, trong nửa cuối của thế kỷ XX, Mỹ đã dùng con bài mối đe dọa của chủ nghĩa cộng sản để bành trướng Học thuyết này ra các quốc gia trên toàn cầu, trong đó có cả Việt Nam và Inđônêxia.(5) Giờ đây, dường như có một người đang chặn trước bước tiến của Washington. Tôi biết rằng ông không phải là người đầu tiên- các nhà lãnh đạo như Castro và Allende đã đi trước ông những một mình Torrijos đã làm điều đó mà không theo lý tưởng cộng sản, không tuyên bố rằng phong trào của ông là một cuộc cách mạng. Ông chỉ nói đơn giản rằng Panama có những quyền riêng của mình- chủ quyền đối với con người, đất liền và con đường thủy chia đôi Panama- và rằng những quyền này cũng có giá trị, cũng thiêng liêng như những quyền mà nước Mỹ đang có. Torrijos cũng phản đối các trường học của Mỹ và Trung tâm Huấn luyện Sỹ quan ở Nam Mỹ, cả hai đều nằm ở khu vực kênh đào. Đã từ lâu, các lực lượng vũ trang của Mỹ vẫn mời nhà độc tài và tổng thống các nước Mỹ Latinh gửi con cháu và các tướng lĩnh quân đội vào học tại các trường và trung tâm nay- những cơ sở lớn nhất và được trang bị tốt nhất trong số các trung tâmngoài Bắc Mỹ. Tại đây, họ được đào tạo các kỹ năng thẩm tra và hoạt động bí mật cũng như các chiến thuật quân sự mà họ sẽ dùng để chống lại chủ nghĩa cộng sản và bảo vệ tài sản của chính họ cũng như những quyền lợi của các công ty dầu lửa và các tập đoàn lớn khác. Họ cũng có cơ hội liên kêt với những sĩ quan cao cấp của Mỹ. Người dân Mỹ Latinh rất ghét những cơ sở đào tạo này- ngoại trừ những gia đình giàu có được hưởng lợi từ các trường và trung tâm trên. Những nơi này đã đào tạo ra những kẻ giết người cánh hữu và những tên tra tấn đã đẩy rất nhiều quốc gia vào chế độ chuyên quyền. Torrijos chỉ rõ ràng ông không muốn những trung tâm đào tạo này tồn tại ở Panama- và rằng ông coi khu vực kênh đào là một phần lãnh thổ Panama.(6) Nhìn khuôn mặt điển trai của vị tướng trên tấm áp phích và đọc dòng chữ ở phía dưới- “Lý tưởng của Omar là tự do; chưa có một loại tên lửa nào được chế tạo ra có thể giết chết một lý tưởng!”- một cảm giác ớn lạnh chạy dọc xương sống tôi. Tôi có linh cảm câu chuyện của Panama ở thể kỷ XX chưa đến hồi kết và rằng Torrijos sẽ phải đối mặt với một thời khác khó khăn và thậm chí là bi thảm. Cơn bão nhiệt đới vẫn đập liên hồi vào kính xe, đèn giao thông chuyển sang màu xanh và người lái xe bấm còi để giục chiếc xe phía trước. Tôi nghĩ về vị trí của mình. Tôi được cử tới Panama để kết thúc một thỏa thuận rất có thể sẽ trở thành bản quy hoạch phát triển toàn diện thực sự đầu tiên của MAIN. Kế hoạch này sẽ là lý do để Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ, và USAID đầu tư hàng tỷ đô la vào các lĩnh vực năng lượng, vận tải, và nông nghiệp của quốc gia nhỏ bé song cực kỳ quan trọng này. Tất nhiên đây là một thủ đoạn, một phương tiện để biến Panama mãi mãi trở thành con nợ và do đó sẽ quay trở lại chế độ bù nhìn. Chiếc taxi xuyên vào đêm tối, một cảm giác tội lỗi lóe lên trong đầu nhưng tôi đã chặn nó lại. Tôi thực sự quan tâm đến điều gì? Ở Java, tôi đã dấn sâu vào con đường này, đã bán rẻ linh hồn mình và giờ đây tôi đang có trong tay một cơ hội ngàn năm có một. Trong phút chốc, tôi có thể trở nên giàu có, nổi tiếng và đầy quyền lực. Chương 11 Những tên cướp biển ở vùng kênh đào Ngày hôm sau, Chính phủ Panama cử một người đến để đưa tôi đi đây đi đó. Tên anh ta là Fidel, và ngay lập tức tôi có cảm tình với anh ta. Anh ta cao, gày, và rõ ràng là rất hãnh diện về đất nước mình. Cụ cố của anh ta đã từng chiến đấu bên cạnh Bolívar trong cuộc chiến giành độc lập từ Tây Ban Nha. Tôi nói với anh ta là tôi có họ hàng với Tom Pain và rất cảm kích khi biết rằng Fidel đã từng đọc cuốn Lẽ phải bằng tiếng Tây Ban Nha. Anh ta nói tiếng anh nhưng khi biết tôi thạo tiếng Tây Ban Nha thì anh hết sức cảm động. “Rất nhiều người dân nước ông tới sống ở đây nhiều năm rồi nhưng chẳng bao giờ có ý định học tiếng Tây Ban Nha cả”, anh nói. Fidel lái xe đưa tôi đi qua một nơi sang trọng đến bất ngờ mà anh ta gọi là New Panama. Khi chúng tôi đi qua những ngôi nhà chọc trời, anh giải thích rằng Panama là nước có nhiều ngân hàng quốc tế hơn bất cứ quốc gia nào khác từ Rio Grande trở xuống phía nam. Anh nói: “Chúng tôi thường được gọi là Thụy Sĩ của Châu Mỹ. Chúng tôi hầu như không hỏi gì các khách hàng của mình”. Xế chiều, khi mặt trời đang lặn dần xuống Thái Bình Dương, chúng tôi đi dọc con đường vòng quanh vịnh. Một dãy dài thuyền bè đang đậu ở đây. Tôi hỏi Fidel xem liệu có vấn đề gì với con kênh đào không. “Nó vẫn luôn như vậy đấy.” Anh bật cười. “Hàng dãy tàu dài đang chờ đến lượt qua kênh đào. Một nửa trong số đó là giao thương với Nhật Bản. Thậm chí còn lớn hơn cả với Hoa Kỳ.” Tôi thừa nhận là trước kia tôi không hề biết đến điều này. Anh ta nói rằng: “tôi không ngạc nhiên về điều đó. Dân Bắc Mỹ không biết nhiều về phần còn lại của thế giới.” Chúng tôi dừng chân ở một công viên tuyệt đẹp với những cây hoa giấy mọc lên trên những tàn tích cổ xưa. Một bảng chỉ dẫn cho biết đây là một pháo đài được xây dựng để bảo vệ thành phố trước sự cướp bóc của những tên cướp biển người Anh. Một gia đình đang chuẩn bị cho một cuộc picnic tối: cha, mẹ, một cô bé và một cậu bé, một cụ già mà tôi đoán là ông của bọn trẻ. Tôi chợt khao khát có được sự yên bình dường như đang bao bọc năm con người này. Khi đi ngang qua chỗ họ, cặp vợ chồng cười với chúng tôi, vẫy tay và chào bằng tiếng anh. Tôi hỏi họ có phải là khách du lịch không, họ bật cười. Người đàn ông đi lại phía chúng tôi. “Tôi là thế hệ thứ 3 ở khu vực kênh đào này”, anh ta giải thích một cách tự hào. Ông tôi đã đến đây 3 năm sau khi nó được hình thành. Ông lái một trong những chiếc máy kéo, những cỗ máy dùng để kéo thuyền mắc kẹt. “Anh ta chỉ tay về phía ông già, người đang giúp bọn trẻ kê bàn ghế. “Cha tôi là một kỹ sư và tôi theo nghề của ông.” Người phụ nữ quay lại giúp bố chồng và bọn trẻ. Phía sau lưng họ, mặt trời đang lặn dần xuống biển xanh. Thật là một cảnh thôn dã tuyệt đẹp khiến người ta liên tưởng đến những bức tranh của Monet. Tôi hỏi người đàn ông rằng họ có phải là công dân Mỹ không. Anh ta nhìn tôi với vẻ ngờ vực: ”Tất nhiên rồi, khu vực kênh đào là địa phận của nước Mỹ mà.” Đứa trẻ chạy lại báo với cha nó rằng bữa tối đã chuẩn bị xong. “Con trai của anh sẽ là thế hệ thứ tư chứ?” Người đàn ông áp hai lòng bàn tay lại như người cầu nguyện và giơ cao lên trời. “Ngày nào tôi cũng cầu mong Đức Chúa tối cao cho nó có cơ hội đó. Cuộc sống ở khu vực kênh đào thật là một cuộc sống hạnh phúc.” Sau đó anh ta hạ tay xuống và nhìn thẳng vào Fidel. “Tôi chỉ hy vọng chúng tôi duy trì được nó trong vòng 50 năm nữa. Cái tên độc tài Torrijos đang gây ra nhiều sóng gió. Một tay nguy hiểm.” Một cái gì đó thôi thúc tôi, tôi nói với anh ta bằng tiếng Tây Ban Nha, “Adios (xin chào). Tôi hy vọng anh và gia đình anh hạnh phúc ở đây và học hỏi được nhiều về văn hóa của Panama.” Anh ta nhìn tôi với vẻ tức giận và nói: “Tôi không dùng ngôn ngữ của họ”. Sau đó anh ta quay ngoắt và đi về phía gia đình mình. Fidel bước lại gần tôi, quàng tay qua vai tôi, siết mạnh và nói: “Cảm ơn.” Trở lại thành phố, Fidel lái xe và đưa chúng tôi qua một khu nhà mà anh ta miêu tả đó là một khu nhà ổ chuột. Anh ta cho biết: “Đó chưa phải là khu tệ nhất đâu, nhưng anh sẽ cảm nhận được hương vị của nó.” Những cái lều dựng bằng gỗ một cách sơ sài và những con mương đầy nước tù đọng chạy dọc theo các con phố, những ngôi nhà tạm bợ trông như những chiếc thuyền mục nát bị chìm trong một vũng xình. Mùi thối rữa và mùi cống rãnh ùa vào trong xe khi bọn trẻ bụng ỏng chạy theo xe chúng tôi. Khi chúng tôi đi chậm lại, chúng tụ tập quanh tôi, gọi tôi bằng bác và xin tiền. Điều này làm tôi nhớ tới Jakarta. Những hình vẽ nguệch ngoạc đầy trên các bức tường. Có một vài hình trái tim với tên người ở bên trong, nhưng hầu hết các hình vẽ là những khẩu hiệu thể hiện sự căm thù đối với Mỹ. “Hãy cút về nước, bọn nước ngoài”, “Hãy nói với Nixon rằng Panama không phải là Việt Nam”. Tuy nhiên, câu khẩu ngữ làm tim tôi ớn lạnh nhất là “Chết cho tự do là cách đến với Chúa”. Rải rác xung quanh những hình vẽ trên là những bức ảnh của Omar Torrijos. “Bây giờ là mặt kia của bức tranh”, Fidel nói với tôi: “Tôi đã xin được giấy tờ chính thức và anh là công đân Mỹ nên chúng ta có thể đi.” Trong ráng chiều đỏ rực, anh ta lái xe tiến vào khu vực kênh đào. Tôi chưa được chuẩn bị kỹ cho những gì tôi sắp được thấy. Khó có thể tin được một sự sang trọng như vậy- những tòa nhà trắng khổng lồ, những bãi cỏ được cắt tỉa gọn gàng, những ngôi nhà lộng lẫy, những sân gôn, những cửa hàng và những rạp chiếu phim. Anh ta nói rằng: “Tất cả mọi thứ ở đây thực chất đều là tài sản của Mỹ. Những siêu thị, tiệmcắt tóc, thẩm mỹ viện, nhà hàng, tất cả- đều không chịu sự quản lý của luật pháp và sắc lệnh thuế của Panama. Có 7 sân gôn 18 lỗ, bưu điện của Mỹ nằm rải rác khắp nơi rất thuận tiện, tòa án và trường học của Mỹ. Nó thực sự là một quốc gia bên trong một quốc gia.” “Thật đáng xấu hổ!” Fidel chăm chú nhìn tôi như để đánh giá rất nhanh. “Vâng”, anh đồng tình: “Đó là một từ khá chính xác.” Anh chỉ tay về phía thành phố: “Ở đằng kia, thu thập bình quân đầu người chưa đến 1.000 USD/năm và tỷ lệ thất nghiệp là 30%. Tất nhiên, ở những khu nhà ổ chuột bé nhỏ mà chúng ta vừa tới thăm, chẳng có ai kiếm nổi được gần 1.000 USD và hầu như chẳng ai có việc làm.” “Thế người ta đang làm gì rồi?” Anh quay lại phía tôi với một cái nhìn dường như chuyển từ giận dữ sang buồn bã. “Chúng tôi có thể làm gì?” Anh ta lắc đầu. “Tôi không biết nhưng tôi sẽ nói với anh điều này: Torrijos đang cố gắng. Tôi nghĩ rằng có thể ông sẽ phải trả giá bằng cả mạng sống của mình nhưng chắc chắn ông sẽ cống hiến tất cả những gì mình có. Ông sẽ chiến đấu để bảo vệ cho người dân của mình.” Khi chúng tôi ra khỏi khu vực kênh đào, Fidel cười: “Anh có muốn khiêu vũ không?” Không đợi tôi trả lời, anh nói: “Chúng ta kiếm cái gì ăn tối rồi sau đó tôi sẽ chỉ cho anh thấy một mặt khác nữa của Panama.” Chương 12 Những người lính và gái điếm Sau khi dùng bữa với bít tết và một chai bia lạnh, chúng tôi rời nhà hàng, đi dọc theo con phố tối. Fidel bảo tôi đừng bao giờ đi dạo ở khu vực này. “Nếu có việc cần đến đây, hãy đi taxi đến tận cửa.” Anh ta chỉ tay: “Ở kia, ngay phía ngoài hàng rào, là khu vực kênh đào.” Anh ta lái xe đến một bãi đất có rất nhiều xe đỗ, tìm một chỗ trống và đậu xe. Một ông già đi tập tễnh về phía chúng tôi. Fidel ra khỏi xe, vỗ nhẹ vào lưng ông cụ. Rồi anh ta lướt nhẹ tay lên thanh chắn ô tô. “Hãy trông giữ nó cẩn thận né, chúng tôi bỗng thấy mình lọt vào một con phố có rất nhiều đèn nê ông sáng loáng. Hai đứa trẻ chạy vụt qua, dùng gậy chỉ trỏ lẫn nhau và giả vờ như đang bắn súng. Một đứa đâm sầm vào chân của Fidel, nó chỉ cao tới bắp đùi Fidel. Đứa bé dừng lại và đứng lùi ra. “Xin lỗi ngài”, nó hổn hển bằng tiếng Tây Ban Nha. Fidel dặt cả hay tay lên vai đứa bé: “Không sao đâu, anh bạn ạ” Anh ta nói, “nhưng hãy nói chú nghe, cháu và bạn cháu định nhằm bắn cái gì?” Đứa thứ hai chạy về phía chúng tôi. Nó vòng tay ôm lấy đứa thứ nhất như để che chở. Nó giải thích: “Em trai cháu..., chúng cháu xin lỗi.” “Không sao”, Fidel mỉm cười. “Em cháu không làm chú đau đâu. Chú chỉ muốn hỏi han hai bọn cháu đang bắn cái gì thế. Chú nghĩ chú đã từng chơi trò này.” Hai anh em liếc nhìn nhau. Đứa lớn hơn mỉm cười: “Đó là một tên tướng Mỹ ở khu vực kênh đào này. Ông ta định hãm hiếp mẹ cháu và cháu tống cổ ông ta về xứ sở của ông ta.” Fidel liếc trộm tôi: “Xứ sở của ông ta là ở đâu.” “Là ở Mỹ.” “Mẹ cháu làm việc ở đây à?” “Đằng kia kìa”. Cả hai đứa bé chỉ tay đầy tự hào về phía ánh đèn nê ông ở cuối phố: “mẹ cháu làm ở quán bar”. “Đi nào.” Fidel đưa cho mỗi đứa một đồng tiền xu. “Nhưng cẩn thận đấy. Hãy ở những chỗ có đèn sáng thôi.” “Vâng thưa ngài. Cám ơn ngài.” Chúng chạy đi. Khi chúng tôi đi tiếp, Fidel giải thích rằng phụ nữ Panama không được phép hoạt động mại dâm. “Họ có thể phục vụ ở quầy bar và khiêu vũ nhưng không được bán thân. Việc đó dành cho những phụ nữ nước ngoài.” Chúng tôi đi vào trong một quầy bar và ù cả tai vì một bài hát Mỹ nổi tiếng. Tai và mắt tôi phải mất một lúc để thích nghi. Vài người lính Mỹ lực lưỡng đang đứng gần cửa. Nhìn vào quân phục, tôi biết họ là lính quân cảnh. Fidel dẫn tôi đi dọc quầy bar và tới sân khấu. Ba cô gái trẻ đang nhảy, họ không mặc gì ngoài mấy cái mũ đội đầu. Một cô đội chiếc mũ lính thủy, một cô khác đội chiếc mũ nồi xanh, cô còn lại đội chiếc mũ cao bồi. Họ có thân hình tuyệt đẹp và đều đang cười. Dường như họ đang đùa giỡn với nhau, cứ như đang trong một cuộc thi khiêu vũ vậy. Điệu nhạc, điệu nhảy và sân khấu chẳng khác nào một sàn nhảy ở Boston, ngoại trừ một điều là họ chẳng mặc gì. Chúng tôi chen qua một nhóm thanh niên trẻ nói tiếng Anh. Mặc dù họ mặc áo phông và quần Jeans nhưng kiểu tóc của họ cho thấy họ là những người lính đóng tại khu vực kênh đào này. Fidel vỗ nhẹ vào vai một cô hầu bàn. Cô ta quay lại, kêu lên vui sướng và giang tay ra ôm Fidel. Nhómthanh niên theo dõi hành động trên một cách chăm chú, liếc nhìn với vẻ không hài lòng. Tôi phân vân không hiểu họ có nghĩ là những gì viết trong cuốn Thuyết bành trướng theo định mệnh có bao gồm cả người phụ nữ Panama này không. Cô hầu bàn dẫn chúng tôi đến một góc phòng. Cô ta lấy từ đâu đó ra một cái bàn nhỏ và hai cái ghế. Khi chúng tôi ngồi xuống, Fidel chào hỏi hai người đàn ông bàn bên cạnh bằng tiếng Tây Ban Nha. Khác với những người lính, họ mặc áo sơ mi cộc tay và quần âu là chiết li. Cô hầu bàn quay lại với vài lon bia Balboa, Fidel vỗ nhẹ vào mông khi cô ta quay đi. Cô ta cười và ném cho Fidel một nụ hôn. Tôi liếc nhìn xung quanh, cảm thấy dễ chịu khi biết rằng đám thanh niên không còn theo dõi chúng tôi nữa; họ đang mải ngắm những vũ công. Phần lớn khác hàng quen của quán bar là những người lính nói tiếng anh, nhưng cũng có cả những người khác- như hai ông khách ngồi cạnh chúng tôi, chắc chắn họ là người Panama. Họ nổi bật vì tóc của họ hẳn là không bị quân đội kiểm tra và vì họ không mặc áo phông và quần Jeans. Một số ngồi ở bàn, số khác đứng dựa lưng vào tường. Dường như họ rất cảnh giác, như những con chó côli làm nhiệm vụ trông đàn cừu. Các cô gái đi quanh bàn của khách. Họ di chuyển liên tục, ngồi lên đùi, la hét những cô phục vụ bàn, nhảy nhót, quay tít, hát, thay nhau trình diễn trên sàn. Họ mặc những chiếc váy ngắn bó, áo phông, quần Jeans hoặc những bộ váy bó sát người, đi giầy cao gót. Người thì mặc áo dài theo kiểu Victoria và đeo mạng che mặt, người thì chỉ mặc mỗi bikini. Điều hiển nhiên là chỉ có những cô gái đẹp nhất mới có thể trụ được ở đây. Tôi lấy làm lạ về những người đã tới Panama này và tự hỏi sự tuyệt vọng nào đã đẩy họ tới đây. “Tất cả đều đến từ các nước khác a?” Tôi gào vào tai Fidel át đi cả tiếng nhạc. Anh ta gật đầu “Trừ...” anh ta chỉ tay vào những cô phục vụ bàn. “Họ là người Panama.” “Những nước nào?” “Honduras, El Salvador, Nicargua và Guatemala.” “Các nước láng giềng?” “Không hẳn vậy. Costa Rica và Colombia là hai nước láng giềng gần chúng tôi nhất.” Cô hầu bàn nãy đã dẫn chúng tôi đến chiếc bàn này đi đến và ngồi lên đầu gối Fidel. Anh ta xoa nhẹ lên lưng cô. Anh ta nói: “Clarissa, hãy nói cho anh bạn Bắc Mỹ của tôi biết tại sao họ lại rời bỏ đất nước họ.” Anh ta hất đầu về phía sàn nhảy. Ba cô gái mới đang nhận những chiếc mũ từ 3 cô gái vừa nhảy xuống khỏi sàn và mặc quần áo. Nhạc chuyển sang điệu Salsa và khi những cô gái mới bắt đầu nhảy, họ cởi bỏ dần quần áo theo điệu nhạc. Clarissa chìa tay phải ra. Cô ta nói: “Em rất vui được làm quen với ông.” Cô đứng dậy và với lấy những chiếc cốc đã hết bia của chúng tôi. Câu trả lời cho câu hỏi của Fidel là những cô gái này đến để trốn tránh sự tàn bạo. “Em sẽ đi lấy thêm 2 cốc Balboas.” Cô ta đi rồi, tôi quay sang Fidel và nói: “Thôi nào. Họ đến đây là vì tiền cả thôi.” “Đúng vậy. Nhưng sao lại có quá nhiều người đến từ những nước bị độc tài phát xít cai trị đến vậy?” Tôi ngoái lại sàn diễn. Ba cô gái đang cười đùa và ném chiếc mũ lính thủy ra xung quanh như quả bóng. Tôi nhìn vào mắt Fidel. “Anh không đùa đấy chứ?” “Không”, anh ta nói với giọng rất nghiêm túc, “giá mà đó chỉ là câu nói đùa. Hầu như tất cả các cô gái này đều bị mất gia đình- cha, mẹ, chồng, bạn trai. Họ lớn lên cùng với sự tra tấn và chết chóc. Khiêu vũ và mại dâm dường như không phải là tất cả những gì tồi tệ nhất đối với họ. Ở đây họ kiếm được nhiều tiền, rồi sau đó sẽ bắt đầu lại cuộc đời ở một nơi nào đó, mua một cửa hàng nho nhỏ hoặc mở một quán cà phê...” Anh ta bị cắt ngang bởi tiếng huyên náo gần quầy bar. Tôi thấy một tiếp viên đang vung quả đấm vào một trong những tên lính, tên này nắm lấy tay cô ta và vặn cổ tay. Cô ta kêu lên và ngã khuỵu xuống. Hắn cười và la ó về phía đám bạn. Bọn chúng khùng khục cười theo. Cô ta gắng đấm hắn bằng tay kia nhưng hắn càng siết chặt cổ tay. Khuôn mặt cô ta méo mó vì đau. Toán quân cảnh vẫn còn ở cửa, bình tĩnh theo dõi. Fidel đứng lên và tiến về phía quầy bar. Một trong số những người đàn ông ngồi cạnh tôi đưa tay ngăn anh ta lại. “Tranquilo, hermano (bình tĩnh nào, anh bạn)”. Anh ta nói: “Hãy cẩn thận, người anh em. Enrique kiểm soát được mọi việc.” Một người đàn ông Panama cao, gầy đi ra khỏi khoảng tối gần sàn diễn. Anh ta di chuyển như một con mèo và chỉ trong giây lát đã khống chế được người lính kia. Một tay anh ta vòng qua cổ trong khi tay kia đổ cốc nước lên mặt tên lính. Cô hầu bàn thoát được ra. Rất nhiều người Panama đang uể oải dựa vào tường bỗng đứng thành một nửa vòng tròn tự vệ, vòng quanh người bảo vệ cao lớn. Anh ta nhấc bổng người lính ấn vào quầy bar và nói gì đó mà tôi không nghe được. Sau đó anh ta cất cao giọng và nói chậm rãi bằng tiếng Anh, vừa đủ lớn để những ngừoi có mặt trong căn phòng lặng ngắt đó có thể nghe được qua tiếng nhạc. “Đừng có động đến những người phục vụ bàn nhớ chưa, cũng đừng động đến những người khác trước khi mày trả tiền cho họ”. Cuối cùng, hai người lính quân cảnh cũng hành động. Họ tiến đến chỗ đám người Panama. Họ nói: “Enrique, giờ để chúng tôi giải quyết.” Người bảo vệ thả tên lính xuống sàn nhà và siết chặt cổ hắn, giật ngửa mặt hắn lên khiến tên này kêu lên đau đớn. “Mày có hiểu tao không?” Có một tiếng than yếu ớt. “Tốt” Anh ta đẩy tên lính về phía hai người lính quân cảnh. “Hãy đưa hắn ra khỏi đây.” Chương 13 Nói chuyện với tướng toàn quyền Lời mời đến thật bất ngờ. Một buổi sáng trong chuyến đi năm 1972, tôi đang ngồi trong văn phòng của mình tại Instituto de Recursos Hidraulicos y Electrificacion, một công ty điện lực thuộc sở hữu nhà nước. Khi tôi đang nghiền ngẫm bản thống kê thì có người gõ nhẹ vào cánh cửa mở. Tôi mời anh ta vào, mừng rỡ vì có cớ thoát khỏi những con số thống kê. Anh ta tự giới thiệu là lái xe của Tướng toàn quyền và giờ sẽ đưa tôi đến một trong những ngôi nhà của ông. Một giờ sau tôi đã ngồi đối diện với Tướng Omar Torrijos. Ông ăn mặc giản dị theo kiểu truyền thống của người Panama: quần kaki, áo cộc tay cài khuy trước, màu xanh da trời nhạt với những hoa văn xanh lá cây nhã nhặn. Ông cao, cân đối và điển trai. So với một người đang gánh vác rất nhiều thứ, nom ông rất thoải mái. Một lọn tóc sẫm màu rủ xuống vầng trán cao. Ông hỏi tôi về những chuyến đi gần đây tới Inđônêxia, Guatemala và Iran. Ba quốc gia này khiến ông quan tâm, nhưng dường như ông đặc biệt tò mò về Quốc vương Iran, Quốc vương Monanuad Keza Pahalavi. Quốc vương lên ngôi năm 1941, sau khi cha ông bị Anh quốc và Liên Xô lật đổ vì buộc tội là có thông đồng với Hitler. Torrijos hỏi: “Anh tưởng tượng được không, một người con lại tham gia vào âm mưu lật đổ chính cha mình?” Người đứng đầu nhà nước Panama biết rõ về lịch sử của vùng đất xa xôi này. Chúng tôi nói về chuyện địa vị của Quốc vương vào năm 1951 đã bị đảo lộn như thế nào, và về việc chính Thủ tướng của ông ta- Mohammad Mossadegh đã buộc ông ta phải sống lưu vong ra sao. Torrijos biết, và hầu như cả thế giới đều biết rằng, chính CIA đã gán cho Thủ tướng cái mác cộng sản và cũng chính CIA đã can thiệp để khôi phục lại quyền lực cho Quốc vương. Song, ông không biết hoặc ít nhất là không đả động gì đến những việc mà Claudine đã từng tiết lộ với tôi, về các thủ đoạn khôn ngoan của Kermit Roosevelt và rằng đó chính là sự khởi đầu cho một kỷ nguyên mới của chủ nghĩa đế quốc, mầm mống dẫn đến thảm họa về một đế chế toàn cầu. Torrijos nói tiếp: “Sau khi Quốc vương được phục hồi, ông ta tiến hành một loạt các chương trình đổi mới nhằm phát triển các ngành công nghiệp và đưa Iran tiếng sang kỷ nguyên hiện đại.” Tôi hỏi ông làm sao ông lại biết nhiều về Iran như vây. “Để tôi giải thích cho anh rõ”. Ông ta trả lời: “Tôi không đánh giá cao con đường chính trị của Quốc vương- ông ta sẵn sàng lật đổ chính cha mình để trở thành một con rối trong tay CIA nhưng dường như ông ta đang làm những điều tốt đẹp cho đất nước. Có lẽ tôi có thể học được điều gì đó từ ông ta. Nếu như ông ta tồn tại được.” “Ông nghĩ ông ta sẽ không đứng vững được sao?” “Ông ta có những kẻ thù rất mạnh.” “Và một số vệ sĩ tốt nhất thế giới.” Torrijos nhìn tôi đầy mỉa mai. “Đội cảnh sát mật SAVAK của ông ta nổi tiếng là giết người không ghê tay. Điều đó không thu phục được mọi người. Ông ta sẽ không tồn tại được lâu đâu.” Torrijos dừng lại, nhìn xung quanh. “Vệ sĩ ư? Tôi cũng có vài người.” Torrijos vẫy tay về phía cửa. “Ông nghĩ họ có thể cứu tôi trong trường hợp nước ông quyết định xóa sổ tôi hay không?” Tôi hỏi Torrijos xem liệu ông có thực sự tin vào điều đó có thể xảy ra hay không. Cái nhướn mày của ông khiến tôi cảm thấy mình thật ngớ ngẩn khi hỏi câu đó. “Chúng tôi có kênh đào. Nó còn có ý nghĩa hơn cả Arbenz và United Fruit.” Tôi đã nghiên cứu về Guatemala và tôi hiểu Torrijos muốn nói gì. Công ty United Fruit của Iran có ý nghĩa chính trị tương tự kênh đào Panama. Được thành lập từ cuối những năm 1800, United Fruit nhanh chóng vươn lên trở thành một trong những thế lực hùng mạnh nhất ở Trung Mỹ. Đầu thập niên 50, ứng cử viên theo đường lối cải cách Jacobo Arbenz được bầu làm Tổng thống Guatemala trong một cuộc bầu cử mà khắp bán cầu ngợi ca là một hình mẫu cho tiến trình dân chủ. Khi đó, chưa đầy 3% dân số Guatemal chiếm tới 70% đất đai của nước này. Arbenz cam kết giúp người ngheo thoát khỏi đói nghèo. Ngay sau cuộc bầu cử, ông ta đã khởi xướng chương trình cải cách đất đai toàn diện. “Người nghèo và tầng lớp trung lưu khắp Mỹ Latinh ca ngợi Arbenz”. Torrijos nói tiếp: “Cá nhân tôi coi ông ấy như một người hùng. Nhưng chúng tôi cũng dè chừng. Chúng tôi biết rằng United Fruit không ưa gì Arbenz vì công ty này là của những kẻ nắm giữ đất đai nhiều nhất và cũng tàn bạo nhất Guatemala. Họ cũng là chủ những đồn điền lớn ở Columbia, Costa Rica, Cuba, Jamaica, Nicaragua, Santo Domingo và cả ở Panama này nữa. Họ sẽ không chịu ngồi yên để cho những ý tưởng của Arbenz được thực hiện ở những nước còn lại đâu.” Tôi biết những nước này: United Fruit đã mở một chiến dịch tuyên truyền cộng đồng rất lớn ở Mỹ nhằm thuyết phục công chúng và Quốc hội Mỹ rằng Arbenz là một phần trong âm mưu của Nga và rằng Guatemala là vệ tinh của Xô Viết. Năm 1954, CIA đã dàn xếp một cuộc đảo chính. Phi công Mỹ đánh bom thành phố Guatemala và vị Tổng thống được bầu một cách dân chủ Arbenz bị lật đổ. Đại tá Carlos Castillo Armas, một tên độc tài cánh hữu đã thế chỗ ông. Chính phủ mới có được mọi thứ là nhờ United Fruit. Để trả ơn, họ đã đảo ngược công cuộc cải cách ruộng đất, bãi bỏ thuế đánh vào lợi nhuận và cổ tức trả cho nhà đầu tư nước ngoài, hủy bỏ chế độ bỏ phiếu kín và bỏ tù hàng nghìn người phản đối Chính phủ. Bất kỳ ai dám lên tiếng chống lại Castillo đều bị ngược đãi. Về sau, các nhà viết sử phát hiện ra rằng, bạo lực và chủ nghĩa khủng bố hoành hành ở Guatemala trong suốt những năm sau đó của thế kỷ XX là kết quả của quan hệ liên minh khá lộ liễu giữa United Fruit, CIA và quân đội Guatemala dưới sự thống trị của tên đại tá độc tài này. “Arbenz đã bị ám sát.” Torrijos nói tiếp: “Một vụ ám sát điển hình mang màu sắc chính trị”. Ông dừng lại đầy bất bình: “Làm sao đồng bào ông ta có thể tiêu hóa nổi những thứ rác rưởi của CIA như vậy? Tôi sẽ không bao giờ để mọi thứ dễ dàng như vậy đâu. Quân đội ở đây là người của tôi. Một vụ ám sát chính trị sẽ chẳng có ý nghĩa gì.” Ông cười. “Chính CIA sẽ phải giết tôi!” Trong một khoảng khắc, chúng tôi ngồi yên lặng, đắm chìm vào những suy nghĩ riêng. Torrijos lại lên tiếng trước. “Thế ông có biết ai sở hữu United Fruit không?” Ông ta hỏi. “Công ty dầu lửa Zapata, công ty của George Bush- đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc.” “Một người đàn ông đầy tham vọng.” Ông nghiêng người về phía trước và hạ giọng: “Và hiện tôi đang chống lại những bạn hữu chí cốt của ông ta ở Bechtel.” Điều này khiến tôi giật mình. Bechtel là hãng xây dựng và thiết kế mạnh nhất thế giới và thường xuyên cộng tác với MAIN trong các dự án. Trong kế hoạch tổng thể cho Panama, tôi đã coi họ là một trong những đối thủ chính của chúng tôi. “Ý ông muốn nói gì?” “Chúng tôi đang tính chuyện xây dựng một kênh đào mới, một kênh đào ở biển, không có cửa ngăn tàu. Nó cho phép các tàu cỡ lớn hơn đi qua. Có thể người Nhật sẽ muốn tài trợ cho nó.” “Họ hiện là những khách hàng lớn nhất của kênh đào.” “Đúng vậy. Tất nhiên, nếu họ tài trợ cho dự án, họ sẽ là người xây dựng nó.” Điều này làm tôi chú ý. “Bechtel sẽ bị gạt ra ngoài cuộc chơi.” “Một công trình xây dựng lớn nhất cho tới nay.” Ông ta dừng lại: “Chủ tịch Bechtel là George Shultz, Bộ trưởng Tài chính của Nixon. Ông thử hình dung xem, nó sẽ như một cái tát đối với ông ta- chắc ông ta phải nổi điên lên mất. Cả Bechtel đầy rẫy toàn bạn bè của Nixon, Ford và Bush. Tôi nghe nói chính Tập đoàn Bechtel giật dây đảng Cộng hòa.” Cuộc đối thoại này khiến tôi thực sự khó chịu. Tôi là một trong những người đang duy trì cái hệ thống mà ông khinh miệt và tôi chắc chắn ông biết điều đó. Việc tôi phải thuyết phục ông chấp nhận các khoản vay quốc tế để đổi lấy việc thuê các công ty xây dựng và lắp ghép của Mỹ dường như đã vấp phải một bức tường khổng lồ. Tôi quyết định phản đối ông. “Thưa ngài”, tôi hỏi, “lý do gì khiến ngài mời tôi tới đây?” Ông liếc nhìn đồng hồ và cười: “Phải rồi, đã đến lúc đi vào công việc của chúng ta. Panama cần sự giúp đỡ của ngài. Tôi cần sự giúp đỡ của ngài.” Tôi sửng sốt: “Sự giúp đỡ của tôi? Liệu tôi có thể làm gì cho ngài?” “Chúng tôi sẽ lấy lại kênh đào. Nhưng như thế vẫn chưa đủ.” Ông ngả người trên ghế: “Chúng tôi còn phải trở thành hình mẫu cho mọi người noi theo. Chúng tôi phải chứng minh được rằng chúng tôi quan tâm đến người nghèo và vượt qua được mọi nghi ngờ cho rằng, quyết tâm giành độc lập của chúng tôi là không do sự sai khiến của Nga, Trung Quốc hay Cuba. Chúng tôi phải chứng minh cho thế giới thấy Panama là một quốc gia theo lẽ phải, chúng tôi không chống lại Mỹ mà chúng tôi chiến đấu vì quyền lợi của người nghèo.” Ông bắt chéo chân. “Để làm được điều đó chúng tôi cần xây dựng một nền tảng kinh tế không giống với bất kỳ nước nào trên bán cầu này. Điện ư, vâng- nhưng điện phải đến được với những người nghèo nhất trong số dân nghèo của chúng tôi và phải được trợ cấp. Giao thông và viễn thông cũng vậy. Và đặc biệt là nông nghiệp. Làm cái đó cần phải có tiền- tiền của các ngài, của Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ.” Một lần nữa, ông nhoài người về phía trước. Mắt ông nhìn thẳng vào mắt tôi: “Tôi biết là công ty của ngài muốn có được nhiều công trình hơn và thường có được điều đó bằng cách thổi phồng quy mô của các dự án- các đường quốc lộ to hơn, nhà máy thủy điện lớn hơn, các cảng biển sâu hơn. Song lần này thì sẽ khác. Hãy cho tôi những gì tốt nhất cho đồng bào tôi, và tôi sẽ tặng các ngài tất cả những công trình mà các ngài muốn.” Những gì ông đề nghị thật hết sức bất ngờ, nó làm tôi vừa sửng sốt vừa thú vị. Nó thách thức tất cả những gì tôi đã được học ở MAIN. Rõ ràng, ông biết viện trợ nước ngoài chỉ là một trò giả tạo- ông buộc phải biết. Nó sinh ra để làm giàu cho ông và trói buộc đất nước của ông bằng các khỏan nợ. Nó khiến Panama phải phục tùng Mỹ và chế độ tập đoàn trị. Nó buộc Châu Mỹ Latinh đi theo con đường “định mệnh”, mãi mãi vâng theo Washington và phố Wall. Tôi chắc ông ta biết rằng hệ thống này được dựng nên trên một giả định là, tất cả những người có quyền lực đều có thể bị mua chuộc. Việc ông quyết không lợi dụng nó để mưu lợi cá nhân sẽ la một mối đe dọa, một dạng hiệu ứng domino mới, có khả năng kích hoạt một chuỗi phản ứng dây chuyền và cuối cùng toàn bộ hệ thống sẽ bị lật đổ. Qua chiếc bàn cà phê, tôi ngắm người đàn ông ngồi đối diện. Ông biết rõ rằng kênh đào mang lại cho ông một quyền lực đặc biệt, độc nhất vô nhị, và cũng đặt ông vào một tình thế vô cùng khó khăn. Vì vậy, ông phải hết sức thận trong. Ông tự coi mình là một trong số các nhà lãnh đạo của các nước kém phát triển (LDC). Nếu ông, giống người anh hùng Arbenz của mình, quyết đi theo một con đường riêng thì cả thế giới sẽ phải dè chừng. Cái hệ thống này sẽ phản ứng như thế nào? Mà cụ thể là Chính phủ Mỹ sẽ phản ứng như thế nào? Lịch sử Mỹ Latinh đã có không ít những gương anh hùng đã hy sinh. Tôi cũng hiểu rằng mình đang được ngắm một người dám thách thức tất cả mọi sự biện minh mà tôi đã cố tạo ra cho những hành động của chính mình. Chắc chắn con người này cũng có những khiếm khuyết, song ông ta không phải loại cướp biển, không phải Henry Morgan hoặc Francis Drake- những tên giang hồ sử dụng công hàm của nhà vua Anh làm bình phong để hợp pháp hóa hoạt động cướp biển. Bức ảnh trên tấm áp phích kia không chỉ để mỵ dân. “Lý tưởng của Omar là tự do; chưa có một loại tên lửa nào được chế tạo ra có thể giết chết một lý tưởng!” Chẳng phải Tom Paine cũng từng viết ra những điều tương tự như vậy sao? Dù vậy, nó vẫn làm tôi phân vân. Có thể lý tưởng sẽ không chết nhưng những người đi theo lý tưởng đó thì sao? Che, Arbenz, hay Allende. Và điều này dẫn đến một câu hỏi khác nữa: Tôi sẽ phản ứng thế nào nếu Torrijos lãnh vai trò một người tử vì đạo? Khi chúng tôi chia tay cả hai đều hiểu rằng MAIN sẽ có được hợp đồng xây dựng kế hoạch tổng thể của Panama và tôi sẽ phải lo liệu để chúng tôi làm đúng theo yêu cầu của Torrijos. Chương 14 Một chặng đường mới đầy nguy hiểm của lịch sử kinh tế Là một Kinh tế trưởng, tôi không chỉ phụ trách một phòng của MAIN và chịu trách nhiệm về các nghiên cứu mà chúng tôi tiến hành trên toàn cầu, tôi còn phải nắm chắc các học thuyết cũng như xu hướng kinh tế hiện tại. Và những năm đầu thập niên 70 là thời điểm của những bước chuyển lớn trong kinh tế quốc tế. Những năm 60, nhóm các quốc gia sản xuất dầu lửa đã lập ra tổ chức OPEC, chủ yếu là để đối chọi với thế lực của các công ty lọc dầu lớn trên thế giới. Iran cũng là một thành viên quan trọng. Mặc dù để chống lại Mossadegh, để có địa vị và có lẽ để giữ được tính mạng, Shah đã phải nhờ vào sự can thiệp bí mật của Mỹ- hoặc có lẽ chính vì sự thật đó- Shah nhận thức sâu sắc rằng tình thế có thể đảo ngược bất kỳ lúc nào. Lãnh đạo các quốc gia có nhiều dầu mỏ khác cũng chia sẻ suy nghĩ và cả sự hồ nghi này nữa. Họ thừa biết là, các công ty dầu khí quốc tế lớn, được biết đến dưới cái tên “Bảy chị em gái”, đã câu kết để hạ giá dầu- và vì vậy giảm cả những gì mà họ phải trả cho các nước sản xuất dầu- như một cách để thu được những khoản lợi nhuận trời cho. OPEC được lập nên để trả đũa điều đó. Đầu thập niên 70, những điều đã dẫn đến cuộc khủng hoảng khi OPEC hạ gục những ngành công nghiệp khổng lồ. Một loạt các hoạt động được phối hợp một cách nhịp nhàng, kết thúc bằng lệnh cấm vận đầu năm 1973 mà biểu tượng là hàng dãy dài các ô tô xếp hàng tại các trạm xăng của Mỹ, đe dọa gây ra một thảm họa kinh tế sánh ngang với cuộc đại suy thoái những năm 30. Đây là một cú sốc mang tính hệ thống đối với nền kinh tế các nước phát triển, với quy mô lớn đến mức khó ai có thể tưởng tượng được. Đối với Mỹ, không còn thời điểm nào có thể tồi tệ hơn thời điểm xảy ra cuộc khủng hoảng dầu lửa. Mỹ khi đó còn đang hoảng loạn, sợ hãi và ngờ vực, choáng váng vì cuộc chiến nhục nhã ở Việt Nam, cùng với một vị Tổng thống sắp từ chức. Những rắc rối của Nixon không chỉ nằm gọn trong khu vực Đông Nam Á hay vụ Watergate. Ông ta bước lên chính trường trong một kỷ nguyên mà khi hồi tưởng lại, người ta gọi đó là ngưỡng cửa mới của kinh tế và chính trị thế giới. Vào những ngày đó, “những gã nhỏ bé”, trong đó có cả các nước OPEC, dường như đang chiếmưu thế. Các sự kiện trên khắp thế giới cuốn lấy tôi. Chế độ tập đoàn trị nuôi sống tôi, song phần bí mật trong con người tôi vẫn thích thú theo dõi những bậc thầy của mình đang dần được đặt vào đúng vị trí. Tôi cho rằng điều đó sẽ xoa dịu phần nào những tội lỗi của mình. Tôi thấy bóng dáng của Thomas Paine, đứng ngoài các sự kiện, đang khích lệ sự phát triển của OPEC. Không ai trong chúng tôi ý thức được đầy đủ tác động của lệnh cấm vận vào thời điểm nó xảy ra. Tất nhiên là chúng tôi có các học thuyết của mình nhưng chúng tôi không thể hiểu nổi những gì mà phải mãi về sau mới dần trở nên rõ ràng. Sau này chúng tôi mới biết rằng, sau cuộc khủng hoảng dầu lửa, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã giảm chỉ còn bằng một nửa tốc độ tăng trưởng của thập niên 50, 60 và phải chịu một áp lực về lạm phát lớn hơn rất nhiều. Cơ cấu tăng trưởng đã hoàn toàn khác và việc làm không được tạo ra nhiều như trước, kết quả là thất nghiệp tăng vọt. Thêm vào đó, hệ thống tiền tệ quốc tế cũng đã thay đổi. Chế độ tỷ giá hối đoái cố định vốn chiếmưu thế từ cuối Thế chiến thứ II về cơ bản đã bị sụp đổ. Trong thời gian đó, tôi và bạn bè thường hay tụ tập vào bữa trưa hoặc đi uống bia sau giờ làm để bàn về những vấn đề này. Một vài người trong số này làm việc cho tôi- họ là những người rất thông minh, hầu hết còn trẻ, có tư duy độc lập, ít nhất là khi căn cứ vào các chuẩn mực truyền thống. Những người khác là các chuyên gia cố vấn cấp cao ở Boston hoặc giáo sư các trường đại học gần đó, một người là trợ lý của một nghị sĩ. Những buổi gặp gỡ thân mật này đôi khi chỉ có hai người nhưng cũng có lúc cả hơn chục người tham dự. Các cuộc tranh luận luôn luôn sôi nổi và ồn ào. Nhìn lại những cuộc tranh luận này, tôi thấy ngượng vì mình đã luôn có cảm giác hơn hẳn những người khác. Có những điều tôi không thể nó với ai. Đôi khi, bạn bè tôi cũng phô trương khả năng của họ- các quan hệ với Beacon Hill hay Washington, những chức vị giáo sư và tiến sỹ. Tôi có thể đá lại với tư cách là một Kinh tế trưởng của một công ty tư vấn lớn, luôn đi khắp thế giới bằng vé máy bay hạng nhất. Song tôi không thể kể cho họ về những cuộc gặp riêng với những người như Torrijos, hay về cái cách chúng tôi thao túng các quốc gia ở khắp các lục địa. Điều này làm tôi vừa thất vọng vừa thầm kiêu ngạo. Khi nói chuyện về quyền lực của “những nước nhỏ”, tôi phải tự kiềm chế mình rất nhiều. Tôi biết những điều mà không ai trong số họ có thể biết được. Rằng chính tập đoàn trị, các nhómEHM của nó và cả những kẻ giết người thuê luôn đứng đằng sau mọi việc sẽ không bao giờ để cho các nước này nắm được quyền kiếm soát. Chỉ cần nhìn vào những vụ như Arbenz và Mossadegh- và gần đây hơn là vụ CIA lật đổ vị Tổng thống được bầu một cách dân chủ ở Chilê là Salvador Allende. Trên thực tế, tôi hiểu rằng cái thòng lọng của đế chế toàn cầu đang càng ngày càng thắt chặt hơn, mặc dù có sự xuất hiện của OPEC- hoặc, như khi đó tôi từng hồ nghi nhưng phải đến tận sau này mới khẳng định được, chính là nhờ có sự giúp đỡ của OPEC. Chúng tôi thường tranh luận về những điểm tương đồng giữa hai thời kỳ đầu thập niên 70 và thập niên 30. những năm 30 đánh dấu một bước ngoặt lớn trong nền kinh tế quốc tế và cả trong những nghiên cứu, phân tích và nhìn nhận về kinh tế quốc tế. Thập niên đó mở cho kinh tế học trường phái Keynes, và ý tưởng cho rằng Chính phủ phải đóng vai trò chủ đạo trong quản lý thị trường và cung cấp các dịch vụ như y tế, trợ cấp thất nghiệp và các dạng phúc lợi xã hội khác. Nước Mỹ lúc đó đang dần tách khỏi những giả thiết truyền thống cho rằng thị trường có thể tự điều tiết và rằng Chính phủ chỉ nên can thiệp ở mức tối thiểu. Cuộc suy thoái đưa đến một “Chính sách kinh tế- xã hội mới”, với các chính sách thúc đẩy quản lý kinh tế, thao túng tài chính của Chính phủ và sử dụng rộng rãi chính sách tài khóa. Thêm vào đó, cả cuộc suy thoái và Thế chiến thứ II đều dẫn đến sự hình thành các tổ chức như Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ Quốc tế và Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch- GATT. Những năn 1960 đóng vai trò then chốt trong giai đoạn này và trong việc chuyển từ học thuyết tân cổ điển sang kinh tế học theo trường phái Keynes. Đó là thời kỳ của các Tổng thống Kennedy và Johnson, và có lẽ người duy nhất có ảnh hưởng quan trọng là Robert McNamara. McNamara thường xuất hiện trong các cuộc thảo luận của chúng tôi- tất nhiên là vắng mặt. Tất cả chúng tôi đều biết đến danh tiếng nổi như cồn của ông ta, bắt đầu từ vị Giám đốc kế hoạch và phân tích tài chính của Công ty ô tô Ford năm 1949 đến chức Chủ tịch Ford năm 1960, là người đầu tiên không thuộc gia đình Ford được chọn làm lãnh đạo công ty. Chỉ sau đó ít lâu, Kennedy chỉ định ông ta làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. McNamara ủng hộ mạnh mẽ đường lối chính phủ của Keynes, bằng cách sử dụng các mô hình toán học và các tiếp cận thống kê để xác định lực lượng quân đội, cách phân bổ các nguồn vốn và các chiến lược khác ở Việt Nam. Chủ trương của ông ta về “sự lãnh đạo năng nổ” đã trở thành khẩu hiệu không chỉ cho các quan chức chính phủ mà cho cả giới kinh doanh. Nó hình thành nên cơ sở cho cách tiếp cận mang tính triết học mới trong giảng dạy quản lý tại các trường kinh doanh hàng đầu của Mỹ, và cuối cùng đưa đến một thế hệ các CEO mới, những người đi đầu trong cuộc chạy đua thiết lập nên Đế chế toàn cầu(1). Khi bàn luận về những sự kiện thế giới, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến vai trò của McNamara khi làm Giám đốc Ngân hàng Thế giới, vị trí mà ông ta nhận ngay sau khi rời khỏi ghế Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Hầu hết bạn bè tôi đều tập trung vào chi tiết McNamara tượng trưng cho cái gọi là liên hợp công nghiệp-quân sự. Ông ta đã từng giữ những vị trí hàng đầu trong một tập đoàn lớn, trong nội các chính phủ và giờ đây là tại một ngân hàng có thế lực nhất trên thế giới. Sự vi phạm trắng trợn nguyên tắc phân chia quyền lực khiến nhiều người trong số họ ghê sợ. Có lẽ chỉ có duy nhất mình tôi là chẳng ngạc nhiên chút nào. Giờ thì tôi biết rằng đóng góp lớn nhất và tai hại nhất vào lịch sử thế giới của Robert McNamara là lừa gạt để Ngân hàng Thế giới trở thành một bộ phận của đế chế toàn cầu ở quy mô chưa từng có. Ông ta cũng tạo ra một ngoại lệ. Khả năng gắn kết các thành phần của chế độ tập đoàn trị của McNamara còn được những người kế nhiệm ông ta tiếp tục hoàn thiện. Ví dụ, George Shultz là Bộ trưởng Bộ Tài chính, đồng thời là Chủ tịch Hội đồng chính sách kinh tế dưới thời Nixon, sau đó là Chủ tịch Tập đoàn Bechtel và cuối cùng trở thành Ngoại trưởng Mỹ dưới thời Reagan. Caspar Weinberger là Phó Chủ tịch Bechtel và Chủ tịch Hội đồng, sau đó là Bộ trưởng bộ quốc phòng thời Reagan. Richard Helms là Giảm đốc CIA thời Johnson và sau đó làm Đại sứ Mỹ tại Iran dưới thời Nixon. Richard Cheney làm Ngoại trưởng dưới thời George H.W.Bush, Chủ tịch Halliburton, và Phó tổng thống Mỹ thời George Bush. Ngay Tổng thống Mỹ, George H.W.Bush cũng bắt đầu từ vai trò người sáng lập tập đoàn dầu khí Zapata, rồi Đại sứ Mỹ tại Liên Hợp Quốc dưới thời Nixon và Ford, và là Giám đốc CIA thời của Ford. Nhìn lại quá khứ, tôi kinh ngạc vì sự ngay thơ hồi đó. Xét trên nhiều khía cạnh, chúng tôi vẫn không thoát khỏi cách xây dựng đế chế theo kiểu cũ. Kermit Roosevelt đã chỉ ra cho chúng tôi một cách tốt hơn khi ông ta lật đổ nền dân chủ ở Iran và thay vào đó là một ông vua chuyên quyền. Chúng tôi, các EHM đang thực thi rất nhiều mục tiêu ở những nơi như Inđônêxia, Êcuađo; song Việt Nam lại vẫn là một ví dụ tuyệt vời cho việc chúng tôi vẫn dễ dàng quay trở lại các mô típ cũ thế nào. Chính OPEC, ẢRẬP XÊÚT sẽ nắm vai trò đi đầu trong việc thay đổi điều này. Chương 15 Vụ rửa tiền của Ảrập Xêút Năm 1974, một nhà ngoại giao Ảrập Xêút cho chúng tôi xem các bức ảnh của Riyadh, thủ đô của đất nước ông ta. Trong số đó có hình một đàn dê đang lục lọi đống rác thải bên ngoài một tòa nhà chính phủ. Khi tôi hỏi nhà ngoại giao về chúng, câu trả lời của ông ta khiến tôi sửng sốt. Ông ta bảo chúng chính là hệ thống xử lý rác thải chủ yếu của thành phố này. “Không một người dân Ảrập Xêút có lòng tự trọng nào lại chịu đi thu lượm rác”, ông ta nói. “Chúng tôi để việc đó cho súc vật.” Cho ngân hàng con dê! Tại thủ đô của vương quốc dầu lửa lớn nhất thế giới này. Thật khó mà tin nổi. Vào thời điểm đó, tôi đang làm việc trong nhóm chuyên gia tư vấn. Chúng tôi cũng chỉ vừa mới hợp lại để cố gắng chắp vá mọi sự kiện hòng tìm ra một giải pháp cho cuộc khủng hoảng dầu lửa. Những con dê đó hóa ra lại gợi ý cho tôi một giải pháp, nhất là khi tôi đã biết đường lối phát triển của quốc gia này trong suốt 3 thế kỷ trước. Lịch sử của Ảrập Xêút đầy rẫy bạo lực và sự cuồng tín tôn giáo. Vào thế kỷ thứ XVIII, Mohammad ibn Saud, Tổng chỉ huy quân đội địa phương đã liên kết với nhóm những người theo trào lưu chính thống từ phái bảo thủ cực đoan Wahhabi. Liên minh này rất mạnh. Trong suốt 200 năm tiếp theo, gia đình Saud và đồng mình Wahhabi đã chinh phục hầu khắp bán đảo Ảrập, trong đó có cả những thánh địa linh thiêng nhất của đạo Hồi là Mecca và Medina. Xã hội Ảrập Xêút phản ánh chủ nghĩa lý tưởng khắt khe của những người sáng lập ra nó và sự tuân thủ chặt chẽ tín ngưỡng kinh Koran. Cảnh sát đạo giáo đảm bảo việc thực hiện chặt chẽ nghi lễ cầu nguyện 5 lần mỗi ngày. Phụ nữ bắt buộc phải che mạng từ đầu đến chân. Hình phạt đối với tội phạm rất hà khắc; hành hình và ném đá công khai rất phổ biến. Lần đầu đến Riyadh, tôi cực kỳ ngạc nhiên khi lái xe nói tôi có thể để máy ảnh, cặp số và thậm chí là cả ví ở trong xe đậu ngay gần chợ trời mà không cần khóa. Anh ta bảo: “Ở đây chẳng ai dám nghĩ đến chuyện ăn cắp. Những kẻ ăn trộm sẽ bị chặt tay.” Cũng trong ngày hôm đó, anh ta hỏi tôi có muốn đi thăm nơi gọi là Quảng trường Chop Chop và xem xử tử chặt đầu không. Lòng trung thành triệt để của chế độ Wahhabi với cái mà chúng tôi coi là chủ nghĩa đạo đức cực đoan đã quét sạch trộm cắp ở thành phố này, đồng thời đặt ra những hình phạt thể xác tàn nhẫn nhất đối với những người vi phạm pháp luật. Tôi từ chối lời mời đó. Các cách người Ả rập coi tôn giáo là một nhân tố quan trọng của chính trị và kinh tế đã góp phần đưa đến lệnh cấm vận dầu mỏ làm rung chuyển cả thế giới phương Tây. Ngày 6 tháng 10 năm 1973 (ngày Yom Kippur, ngày lễ thiêng liêng nhất của người Do Thái), Ai Cập và Xiri đã đồng loạt tấn công vào Ixaren. Đó là màn khởi đầu cho cuộc chiến tranh tháng mười- cuộc chiến thứ 4, và cũng là cuộc chiến tàn khốc nhất trong số các cuộc chiến giữa Ả rập- Ixaren, có ảnh hưởng sâu rộng nhất đến toàn thế giới. Tổng thống Ai Cập Sadat ép vua Faisal của Ảrập Xêút sử dụng cái mà Sadat gọi là “vũ khí dầu lửa” để trả đũa Mỹ vì tội đồng lõa với Ixaren. Ngày 16 tháng 10, Iran và 5 quốc gia vùng vịnh Ả rập, trong đó có cả Ảrập Xêút, đồng loạt công bố tăng 70% giá dầu niêm yết. Trong cuộc gặp mặt tại thành phố Cô oét, các bộ trưởng dầu mỏ của Ả rập tiếp tục bàn luận về ác phương án tiếp theo. Bộ trưởng Irắc ủng hộ mạnh mẽ việc tấn công vào Hoa Kỳ. Ông ta kêu gọi các nước còn lại tiến hành quốc hữu hóa các công ty Mỹ đang hoạt động trong thế giới Ả rập, ra lệnh cấm vận dầu mỏ hoàn toàn với Mỹ và với tất cả những quốc gia khác có quan hệ thân thiết với Ixaren, đồng thời rút tất cả tiền vốn của Ả rập ra khỏi các ngân hàng Mỹ. Ông ta chỉ ra rằng, các tài khoản ngân hàng của người Ả rập là rất lớn và vì thế hành động này có thê dẫn đến một thảm họa kinh hoàng, hoàn toàn khác với những gì xảy ra năm 1929. Bộ trưởng các nước Ả rập khác không hẳn hài lòng với một kế hoạch quyết liệt đến vậy. Song vào ngày 17 tháng 10, họ quyết định tiến thêm một bước bằng cách thực hiện một lệnh cấm vận dầu hà khắc hơn, bắt đầu bằng việc cắt giảm 5% sản lượng, và sau đó hàng tháng giảm thêm 5% nữa cho đến chừng nào đạt được các mục tiêu chính trị của mình. Họ nhất trí là cần phải trừng phạt Mỹ vì đã ủng hộ Ixaren và nên áp dụng lệnh trừng phạt Mỹ vì đã ủng hộ Ixaren và nên áp dụng lệnh trừng phạt nghiêm khắc nhất đối với Mỹ. Rất nhiều nước tham dự cuộc họp còn tuyên bố, họ sẽ thực hiện lệnh cắt giảm 10% thay vì 5% sản lượng dầu nước mình. Ngày 19 tháng 10, Tổng thống Nixon đề nghị Quốc hội viện trợ 2,2 tỷ USD cho Ixaren. Ngay ngày hôm sau, Ảrập Xêút và các nước sản xuất dầu mỏ Ả rập khác áp đặt lệnh cấm vận dầu hoàn toàn với Mỹ. Lệnh cấm vận chấm dứt ngày 18 tháng 3 năm 1974. mặc dù thời gian diễn ra lệnh cấm vận rất ngắn, nhưng ảnh hưởng của nó lại vô cùng to lớn. Giá bán dầu của Ảrập Xêút nhảy vọt, từ mức 1,39 USD/thùng ngày 1 tháng 1 năm 1970 lên đến 9,32 USD/thùng vào ngày 1 tháng 1 năm 1974. các chính trị gia và chính quyền nhiều nước sau này không bao giờ có thể quên những bài học rút ra trong suốt thời gian từ đầu đến giữa những năm 70. Về lâu dài, những chấn động mà giai đoạn ngắn ngủi này để lại đã củng cố chế độ tập đoàn trị. Ba trụ cột của nó là các tập đoàn lớn, các ngân hàng quốc tế và các chính phủ- trở nên gắn kết hơn bao giờ hết. Và sự gắn kết đó sẽ còn tồn tại lâu dài. Lệnh cấm vận đã đưa đến những đổi thay quan trọng trong thái độ và chính sách của Mỹ. Nó khiến Wall Street và Washington hiểu rằng, khó mà có thể chịu đựng thêm một lệnh cấm vận như vậy nữa. Trước đó, nhiệm vụ bảo về nguồn cung cấp dầu đã luôn là một ưu tiên đối với nước Mỹ. Nhưng từ sau năm 1973, nó thực sự trở thành một nỗi ám ảnh. Lệnh cấm vận đã nâng cao vị thế của Ảrập Xêút trên trường quốc tế, buộc Washington công nhận tầm quan trọng mang tính chiến lược của vương quốc này đối với Mỹ. Còn nữa, nó hối thúc lãnh đạo các tập đoàn Mỹ tìm mọi cách để đưa những đồng đô la dầu mỏ trở lại Mỹ, đồng thời suy nghĩ đến một thực tế là, Chính phủ Ảrập Xêút còn chưa có được những khung khổ thể chế và hành chính đủ để quản lý nguồn tài nguyên đang không ngừng sinh sôi nảy nở của nước này. Đối với Ảrập Xêút, nguồn thu có thêm được từ cú tăng giá dầu mang lại cả điều tốt và điều xấu. Hàng tỷ đô la đổ vào ngân khố quốc gia. Nhưng nó cũng làm xói mòn đi những đức tin khắt khe của Wahhabi. Những người Ảrập Xêút giàu có đi du lịch khắp thế giới. Họ đi học ở Châu Âu và Mỹ. Họ mua những chiếc ôtô đắt tiền và trang hoàng nhà cửa bằng những đồ đạc kiểu dáng Châu Âu. Các đức tin tôn giáo bảo thủ được thay bằng một hình thức mới của chủ nghĩa vật chất. Chính chủ nghĩa vật chất này mang đến một giải pháp cho nỗi lo về các cuộc khủng hoảng dầu mỏ trong tương lai. Sau khi lệnh cấm vận được bãi bỏ, gần như ngay lập tức, Mỹ bắt tay vào việc đàm phán với Ảrập Xêút, đề nghị họ để Mỹ cung cấp hỗ trợ kỹ thuật, vũ khí hạng nặng và đào tạo, và chuẩn bị để đưa đất nước này bước vào thế kỷ XX. Đổi lại, Mỹ thu hồi được những đồng đô la dầu mỏ và quan trọng nhất là đảm bảo rằng sẽ không bao giờ xảy ra cấm vận nữa. Kết quả của các cuộc đàmphán là sự ra đời một tổ chức đặc biệt là Ủy ban Kinh tế chung Mỹ- Ảrập Xêút. Được biết đến với cái tên JECOR, tổ chức này hàm chứa một khái niệm mới, hoàn toàn đối lập với các chương trình viện trợ nước ngoài truyền thống: nó lấy tiền của Ảrập Xêút để thuê các công ty Mỹ xây dựng Ảrập Xêút. Mặc dù rách nhiệm chung về tài chính và quản lý được giao cho Bộ tài chính Mỹ, song Ủy ban hoàn toàn độc lập. Về cơ bản, Ủy ban có thể chi tiêu hàng tỷ đô la trong khoảng thời gian hơn 25 năm mà hoàn toàn không bị Quốc hội giám sát. Mặc dù Bộ tài chính có chân trong Ủy ban này nhưng do Mỹ không bỏ vốn vào đây nên Quốc hội không có quyền quyết định. Sau khi nghiên cứu kỹ về JECOR, David Holden và Richard Johns đã kết luận “Đó là thỏa thuận có ảnh hưởng sâu sắc nhất trong số những thỏa thuận thuộc loại này mà Mỹ từng ký với một nước đang phát triển. Nó giúp Mỹ bám rễ ở vương quốc này, và củng cố khái niệm về sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia.” Bộ Tài chính đã để MAIN tham gia ngay từ đầu với vai trò cố vấn. Người ta gọi tôi lên và thông báo rằng nhiệm vụ của tôi là tối quan trọng và rằng mọi thứ tôi làm và học được phải giữ kín tuyệt đối. Nhìn từ vị trí của tôi thì đó có vẻ như là một hoạt động bí mật. Người ta khiến tôi tin rằng MAIN là công ty tư vấn tiên phong trong quá trình đó. Nhưng về sau tôi nhận ra rằng, chúng tôi chỉ là một trong rất nhiều công ty tư vấn có năng lực mà người ta tìm đến. Do mọi thứ được tiến hành hết sức bí mật nên tôi không tham gia vào các cuộc thảo luận của Bộ Tài chính với các nhà tư vấn khác. Vì thế, tôi không chắc về tầm quan trọng của mình trong phi vụ chưa từng có này. Tôi không biết rằng thỏa thuận này đã thiết lập nên những chuẩn mực mới cho các EHM, và đưa vào áp dụng rất nhiều phương án sáng tạo so với những phương pháp truyền thống nhằm thúc đẩy các lợi ích của đế chế. Tôi cũng biết rằng, hầu hết các kịch bản có được từ các nghiên cứu của tôi về cơ bản đều đã được thực hiện, rằng MAIN đã có trong tay một trong những hợp đồng quan trọng đầu tiên- và có lẽ là béo bở nhất ở Ảrập Xêút. Năm đó tôi được thưởng một khoản lớn. Công việc của tôi là đưa ra các dự báo về những gì có thể xảy ra ở Ảrập Xêút nếu đầu tư những khoản tiền khổng lồ cho cơ sở hạ tầng, và dựng nên các kịch bản về việc sử dụng số tiền đó. Tóm lại, người ta yêu cầu tôi phát huy tối đa sức sáng tạo để biện minh cho việc đổ hàng trăm triệu đô la vào Ảrập Xêút, với điều kiện để cho các công ty xây dựng và công trình Mỹ được tham gia. Người ta yêu cầu tôi phải tự làm công việc này, không nhờ đến các nhân viên của tôi. Tôi phải làm việc trong một phòng họp nhỏ cách ban tôi vài tầng. Người ta căn dặn tôi rằng, công việc của tôi không chỉ là vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia mà còn rất có lợi cho MAIN. Tất nhiên tôi hiểu rằng mục đích chính ở đây không phải như thường lệ- là trút gánh nặng nợ nần lên quốc gia này khiến cho nó không bao giờ trả được hết nợ mà là tôi phải tìm cách kéo phần lớn những đồng đô la dầu mỏ quay trở lại Mỹ. Dần dần, Ảrập Xêút sẽ bị lôi kéo theo. Nền kinh tế nước này sẽ càng ngày càng Tây hóa và vì thế mà sẽ dễ đồng cảm hơn và hội nhập sâu hơn vào hệ thống của chúng tôi. Đến khi bắt tay vào việc tôi mới nhận ra rằng, những đàn dê lang thang trên đường phố thủ đô Riyadh là điểm then chốt mang tính biểu tượng. Chúng động đến lòng tự trọng của những người Ảrập xêút giàu có đang đi du lịch khắp thế giới bằng chuyên cơ. Những đàn dê phải được thay thế bằng cái gì đó tương xứng hơn với một vương quốc trên sa mạc đang khao khát gia nhập thế giới hiện đại. Tôi cũng biết rằng các nhà kinh tế của OPEC đang nhấn mạnh đến việc các nước giàu dầu lửa phải sản xuất được nhiều hơn những sản phẩm có nguồn gốc từ dầu mỏ để bán cho các nước khác trên thế giới với giá cao hơn nhiều giá bán dầu thô. Sự nhận thức đồng thời này mở đường cho một chiến lược mà tôi đoán sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người. Tất nhiên, những con dê chỉ là điểm khởi đầu. Có thể dùng nguồn thu từ dầu mỏ để thuê các công ty Mỹ thay thế những con dê kia bằng hệ thống thu gom và xử lý rác thải hiện đại nhất thế giới. Người Ả rập sẽ hãnh diện vì thứ công nghệ tối tân này. Tôi chuyển sang nghĩ về những con dê như một vế của một phương trình có thể áp dụng vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế của vương quốc này, một công thức để có được thành công trong mắt của Hoàng gia, Bộ Tài chính Mỹ và sếp của tôi ở MAIN. Theo công thức này, người ta sẽ dùng tiền để xây dựng một ngành công nghiệp chuyên biến dầu thô thành các thành phẩm phục vụ xuất khẩu. Các tổ hợp hóa dầu lớn sẽ mọc lên trên sa mạc này và quanh đó là những khu công nghiệp lớn. Tất nhiên là một dự án như vậy cũng đòi hỏi phải xây dựng các nhà máy điện với công suất hàng ngàn megawat, các đường dây truyền tải và phân phối điện, đường cao tốc, đường ống dẫn dầu, các mạng lưới viễn thông, các hệ thống giao thông, trong đó có cả các sân bay mới, các cảng biển đã được cải tạo, hàng loạt các ngành dịch vụ và cơ sở hạ tầng cần thiết để tất cả các mắt xích trong guồng máy này quay đều. Tất cả chúng tôi đều hy vọng, kế hoạch này sẽ trở thành một hình mẫu cho tất cả các nước khác trên thế giới. Người Ả rập rong ruổi khắp thế giới sẽ ngợi ca chúng tôi. Họ sẽ mời lãnh đạo nhiều nước đến thăm Ảrập xêút và chứng kiến sự kỳ diệu mà chúng tôi đã tạo ra. Những nhà lãnh đạo này sau đó sẽ mời chúng tôi giúp họ thiết kế những dự án tương tự cho đất nước họ- và hầu hết là các nước nằm ngoài khối OPEC. Họ sẽ tìm đến Ngân hàng Thế giới hay các biện pháp vay nặng lãi khác để tài trợ cho những dự án kiểu đó. Tất cả đều phụng sự cho sự phát triển của đế chế toàn cầu. Khi cân nhắc những ý tưởng này, tôi nghĩ về những con dê, và lời nói của người tài xế vẫn văng vẳng bên tai: “Chẳng một người Ảrập xêút có lòng tự trọng nào lại làm nghề thu gom rác.” Tôi thấy điệp khúc này lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong những hoàn cảnh khác nhau. Rõ ràng là người Ảrập xêút không hề có ý định để người dân nước mình đi làm công, cho dù là lao động trong các khu công nghiệp hay ở các công trường xây dựng của bất kỳ dự án nào. Trước tiên là vì họ có quá ít dân. Hơn nữa, Hoàng gia Ảrập xêút đã cam kết mang lại cho thần dân của họ trình độ giáo dục và lối sống hoàn toàn không phù hợp với những công việc lao động chân tay kiểu đó. Người Ảrập xêút có thể quản lý người khác, song họ chẳng mong muốn hay có động lực trở thành công nhân xây dựng hay làm việc trong các nhà máy. Vì thế, cần phải nhập khẩu lao động từ các quốc gia khác- nơi có giá nhân công rẻ và người dân cần việc làm. Nếu có thể thì tốt nhất là các nước Trung Đông hay Hồi giáo khác như Ai Cập, Palestin, Pakistan và Yêmen. Triển vọng này còn làm nảy sinh một mưu đồ mới về các cơ hội phát triển lớn hơn rất nhiều. Các lao động này cần phải có những khu nhà khổng lồ, các trung tâm mua sắm, các bệnh viện, các sở cảnh sát, cứu hỏa, các nhà máy nước và xử lý nước thải, mạng lưới điện, viễn thông và giao thông. Kết cục là những thành phố hiện đại sẽ mọc lên ở nơi đã từng là sa mạc. Rồi cũng sẽ có cơ hội để khám phá các công nghệ mới nổi lên như các nhà máy khử mặn, các hệ thống sử dụng sóng viba, các khu chăm sóc sức khỏe và công nghệ thông tin. Ảrập xêút là nơi biến giấc mơ của các nhà kế hoạch thành sự thực, và hiện thực hóa bất kỳ ý tưởng kinh doanh nào trong lĩnh vực xây dựng và công trình. Nó mang lại cơ hội làm giàu chưa từng có trong lịch sử: Một nước kém phát triển, với nguồn tài chính vô hạn và một khao khát tiến sang kỷ nguyên hiện đại một cách hết sức nhanh chóng và với quy mô lớn. Tôi phải thừa nhận rằng tôi rất thích công việc này. Chẳng hề có số liệu đáng tin cậy nào ở Ảrập xêút, ở Thư viện Công cộng Boston hay ở bất cứ đâu để có thể nghĩ đến việc dùng các mô hình kinh tế lượng ở đây cả. Song, thực tế là, bản chất của công việc này- tức là việc ngay lập tức chuyển đổi toàn bộ một quốc gia trên một quy mô chưa từng có- cũng cho thấy, ngay cả nếu có được các số liệu lịch sử, thì các số liệu đó cũng chẳng giúp ích được gì. Hẳn là chưa ai từng nghĩ đến một phân tích định lượng kiểu này, ít nhất là vào thời điểm đó. Đơn giản là tôi vận dụng trí tưởng tượng của mình để viết ra các báo cáo, trong đó dựng nên triển vọng về một tương lai xán lạn cho vương quốc này. Tôi có các số liệu theo kinh nghiệm mà tôi có thể dùng để ước tính một số thứ như chi phí sơ bộ để sản xuất ra một mêgawatt điện, làm một dặm đường, hoặc khối lượng nước sạch, nước thải, nhà ở, lương thực và các dịch vụ công cộng khác cần cho một người lao động. Tôi không phải hoàn thiện những con số dự toán này hay đưa ra kết luận cuối cùng nào. Công việc của tôi chỉ đơn giản là miêu tả một lọat các kế hoạch (hay chính xác hơn có lẽ là những viễn cảnh) về những gì khả thi, và đi đến những ước tính sơ bộ về chi phí cần thiết. Tôi luôn ghi nhớ những mục tiêu cuối cùng: tối đa hóa lượng tiền trả cho các công ty Mỹ và làm cho Ảrập xêút ngày càng phụ thuộc nhiều vào Mỹ. Chẳng mất nhiều thời gian mới thấy được mối quan hệ khăng khít giữa hai nước. Gần như tất cả các dự án mới triển khai đều đòi hỏi phải được bảo dưỡng và nâng cấp thường xuyên. Vì những dự án này lại đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao nên không có cách nào khác là chính các công ty đã xây dựng chúng sẽ phải bảo dưỡng và hiện đại hóa chúng. Thực tế, khi triển khai công việc, tôi bắt đầu ghép 2 danh sách cho mỗi dự án mà tôi hình dung ra: một dùng cho các loại hợp đồng thiết kế và xây dựng mà chúng tôi hy vọng sẽ có được; và một là các thỏa thuận về quản lý và bảo dưỡng dài hạn. MAIN, Bechtel, Brown & Root, Halliburton, Stone&Webster, cùng nhiều kỹ sư và nhà thầu khác của Mỹ rồi sẽ kiếm được những khoản tiền kếch xù trong nhiều thập niên tới. Ngoài lý do kinh tế đơn thuần, còn có một lý do nữa khiến Ảrập xêút phải phụ thuộc vào chúng tôi dù ở một góc độ hoàn toàn khác khi mà quá trình hiện đại hóa vương quốc dầu lửa này tạo ra những phản ứng tiêu cực. Chẳng hạn, những người Hồi giáo bảo thủ có thể sẽ tức giận. Ixaren và các quốc gia láng giếng cũng sẽ cảm thấy bị đe dọa. Sự phát triển kinh tế của nước này sẽ kéo theo sự phát triển một ngành khác: đó là bảo vệ bán đảo Ả rập. Các công ty tư nhân chuyên về các hoạt động này cũng như quân đội Mỹ và công nghiệp quốc phòng có thể được những hợp đồng béo bở- và một lần nữa, các hợp đồng về quản lý và dịch vụ lâu dài. Sự xuất hiện các công ty này đòi hỏi các dự án công trình xây dựng, bao gồm sân bay, bãi phóng tên lửa, nhân sự và tất cả cơ sở hạ tầng gắn liền với các cơ sở trên phải bước sang một giai đoạn mới. Tôi gửi báo cáo trong phong bì niêm phong kín qua hòm thư nội bộ, tới “Giám đốc Dự án Bộ Tài chính.” Thỉnh thoảng tôi gặp vài thành viên khác trong nhóm- các phó chủ tịch của MAIN và sếp của tôi. Do dự án này chưa có tên chính thức vì còn đang ở trong giai đoạn nghiên cứu và phát triển, chưa trở thành một bộ phận của JECOR nên chúng tôi chỉ nhắc tới- mà cũng rất kín đáo- dưới cái tên là SAMA. Có vẻ như tên này cũng là một cách chơi chữ: Ngân hàng Trung ương của Ảrập xêút được gọi là Cơ quan tiền tệ Ảrập Xêút, hay SAMA. Thỉnh thoảng một quan chức Bộ Tài chính cũng tham dự các cuộc thảo luận cùng chúng tôi. Trong những cuộc họp như vậy, tôi thường rất ít khi đặt câu hỏi. Chủ yếu là tôi báo cáo công việc của mình, trả lời các nhận xét của họ và hứa sẽ cố gắng thực hiện những gì được yêu cầu. Các vị phó chủ tịch MAIN và vị quan chức Bộ Tài chính rất ấn tượng với ý tưởng về các hợp đồng quản lý và dịch vụ dài hạn của tôi. Chính ý tưởng đó đã gợi ý cho một vị phó chủ tịch sáng tạo ra một cụm từ mà về sau chúng tôi vẫn thường sử dụng khi ông ví von vương quốc này như “con bò cái mà chúng ta có thể vắt sữa cho đến khi về hưu.” Với riêng tôi, cụm từ đó luôn gợi nhớ tới hình ảnh những con dê hơn là con bò. Chính những cuộc họp đó khiến tôi nhận ra rằng, rất nhiều đối thủ của chúng tôi cũng đang tiến hành các công việc tương tự, và rằng cuối cùng tất cả chúng tôi đều mong muốn giành được những hợp đồng béo bở để đền đáp cho những nỗ lực của mình. Tôi cho rằng MAIN và cả các hãng khác đều dám thách thức những rủi ro ngắn hạn để đầu tư cho bước đi bắt đầu này. Điều này cũng đúng với thực tế là tôi chấm công cho mình dưới tên một công việc chung chung là quản lý hành chính và tổng hợp. Đây vẫn là cách làm phổ biến trong giai đoạn chuẩn bị nghiên cứu triển khai của hầu hết các dự án. Trong trường hợp này, khoản đầu tư bắt đầu vượt xa so với tiêu chuẩn, song các vị phó chủ tịch có vẻ như rất tin tưởng vào số tiền sẽ thu lại được sau này. Mặc dù biết rằng các đối thủ cạnh tranh của chúng tôi cũng tham gia, song tất cả chúng tôi đều tin sẽ có đủ công việc cho tất cả. Kinh nghiệm lâu năm trong nghề giúp tôi tin rằng, phần thưởng giành được sẽ phản ánh mức độ hài lòng của Bộ Tài chính đối với những công việc mà chúng tôi đã làm. Chuyên gia tư vấn nào có công tìm ra các giải pháp được chọn thực hiện sẽ có được những hợp đồng béo bở. Tôi coi việc xây dựng các kịch bản làm sao để chúng được đưa vào thiết kế và xây dựng thực sự là một thách thức đối với bản thân. Không cần cái đó thì vị trí của tôi ở MAIN cũng đang được đánh giá rất cao rồi. Đóng vai trò quan trọng trong dự án SAMA sẽ đảm bảo cho sự thăng tiến đó, nếu chúng tôi thành công. Trong các cuộc họp, chúng tôi cũng thảo luận rất cởi mở về khả năng SAMA và toàn bộ hoạt động của JECOR sẽ mở ra một tiền lệ mới. Đó là cách làm sáng tạo nhằm có được những công trình có lợi ở những nước không phải vay nợ qua các ngân hàng quốc tế. Iran và Iraq là 2 ví dụ rõ ràng nữa về những nước như vậy. Hơn nữa, căn cứ vào bản chất của con người, chúng tôi thấy hẳn là lãnh đạo các nước này rồi sẽ có động lực để cạnh tranh với Ảrập Xêút. Không nghi ngờ gì nữa, lệnh cấm vận dầu mỏ năm 1973- mà bắt đầu tưởng như sẽ có tác động rất tiêu cực- cuối cùng lại mang đến những món quà bất ngờ cho các công ty công trình và xây dựng, và để cho đế chế toàn cầu rộng đường phát triển. Tôi còn tiếp tục nghiên cứu giai đoạn chiến lược đó trong khoảng 8 tháng nữa- mặc dù mỗi lần tập trung không quá vài ngày. Tôi tự giam mình trong phòng họp riêng hay trong căn hộ nhìn ra Boston Common. Các nhân viên của tôi đều có việc khác để làm và tự làm cả, mặc dù định kỳ tôi vẫn kiểm tra công việc của họ. Dần dần thì bí mật xung quanh công việc của chúng tôi cũng bớt đi. Ngày càng có nhiều người biết là đang có một điều gì đó lớn lao liên quan đến Ảrập Xêút dang diễn ra. Không khí náo nhiệt hẳn lên, khắp nơi đều nghe thấy những lời đồn đại. Các phó chủ tịch và vị quan chức Bộ Tài chính cũng trở nên cởi mở hơn- tôi tin một phần là vì chính họ cũng chia sẽ nhiều thông tin hơn khi xuất hiện thêm các chi tiết về kế hoạch tài chính này. Theo kế hoạch đang được triển khai, Washington muốn người Ảrập Xêút đảm bảo rằng, nguồn cung và giá dầu có thể dao động ở những mức khác nhau song phải ở mức chấp nhận được đối với Mỹ và đồng minh của Mỹ. Nếu các nước khác như Iran, Iraq, Inđônêxia hoặc Vênêzuêla đe dạo cấm vận thì Ảrập Xêút với nguồn dầu mỏ khổng lồ sẽ phải bù vào phần thiếu hụt đó. Đơn giản là, nếu biết họ làm điều đó, thì các nước khác về lâu dài sẽ chẳng còn muốn dù chỉ là nghĩ đến việc cấm vận dầu đối với Mỹ. Để có được sự đảm bảo này, Washington đề nghị với Hoàng gia Ảrập Xêút một thỏa thuận cực kỳ hấp dẫn: cam kết hỗ trợ hoàn toàn về chính trị và nếu cần cả quân sự để đảm bảo duy trì sự lãnh đạo của họ đối với nước này. Với vị trí địa lý đặc biệt của mình, trong điều kiện không đủ tiềm lực quân sự, và dễ bị các nước xung quanh như Iran, Iraq, Syria và Israel gây khó dễ, Hoàng gia Ảrập Xêút khó có thể từ chối lời đề nghị này. Vì thế mà, hiển nhiên Mỹ đã dùng lợi thế của mình để đặt ra một điều kiện tối quan trọng khác nữa, nhằm xác định lại vai trò của EHM trên thế giới và coi đó như một hình mẫu để sau đó Mỹ sẽ cố áp dụng tiếp ở những nước khác, mà đáng chú ý nhất là ở Iraq. Khi nhìn lại quá khứ, đôi khi tôi thấy khó có thể hiểu nổi tại sao Ảrập Xêút lại có thể chấp nhận điều kiện này. Dĩ nhiên là hầu hết các nước thuộc thế giới Ả rập, OPEC và các quốc gia Hồi giáo khác đều kinh hãi khi phát hiện ra các điều khoản của thỏa thuận trên và cái cách mà Hoàng gia Ảrập Xêút phục tùng các đòi hỏi của Washington. Điều kiện đó là Ảrập Xêút sẽ dùng đồng đôla dầu mỏ này mua trái phiếu Chính phủ Mỹ. Đổi lại, lợi tức có được từ các trái phiếu sẽ được Bộ Tài chính Mỹ sử dụng để đưa Ảrập Xêút chuyển từ một xã hội thời Trung cổ sang thế giới công nghiệp hóa hiện đại. Nói cách khác, lợi nhuận tích lũy được từ hàng tỷ đô la tiền bán dầu của các nước này sẽ được trả cho các công ty Mỹ để họ biến cái viễn cảnh mà tôi (và có lẽ cả một vài đối thủ cạnh tranh của tôi nữa) đã vạch ra để biến Ảrập Xêút trở thành một cường quốc công nghiệp hiện đại. Bộ Tài chính Mỹ sẽ thuê chúng tôi xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng và thậm chí là cả các thành phố hoàn chỉnh trên khắp bán đảo Ả rập, Ảrập Xêút sẽ lo kinh phí. Mặc dù người Ảrập Xêút vẫn còn giữ quyền cung cấp đầu vào liên quan đến những mảng công việc chung của những dự án này, song thực tế là một nhóm các chuyên gia cao cấp nước ngoài (hầu hết là những người không theo đạo, trong con mắt của người Hồi giáo) sẽ quyết định diện mạo và cơ cấu kinh tế của bán đảo này trong tương lai. Điều này sẽ xảy ra ở một vương quốc, nơi có nền tảng là những nguyên tắc bảo thủ của Wahhabi và đã đi theo những nguyên tắc này trong nhiều thế kỷ. Với họ, đó dường như là cả một bước nhảy vọt về lòng tin. Song trong hoàn cảnh đó, cộng thêm những áp lực về chính trị và quân sự mà Washington đang áp đặt, tôi ngờ rằng Hoàng gia Ả rập cũng biết họ chẳng còn sự lựa chọn nào khác. Theo quan điểm của chúng tôi, khả năng thu được lợi nhuận khổng lồ là vô hạn. Đó là một thỏa thuận ngọt ngào, có khả năng sẽ trở thành một tiền lệ đáng kinh ngạc. Thỏa thuận này còn hấp dẫn hơn nữa bởi không ai phải cần đến sự thông qua của Quốc hội- điều mà các công ty, đặc biệt là các công ty tư nhân như Bechtel và MAIN bất đắc dĩ mới làm vị họ chẳng muốn công khai sổ sách hay chia sẽ bí mật của mình cho bất cứ ai. Thomas W.Lippman, một học giả phụ tá ở Viện Nghiên cứu Trung Đông, trước đây từng là nhà báo, đã đanh thép tổng kết những điểm nổi bật của thỏa thuận này: “Dân Ả rập đang ngập trong tiền sẽ tung hàng triệu đô la cho Bộ Tài chính. Bộ Tài chính sẽ nắm chặt những đồng vốn này cho đến chừng nào phải trả nó cho các máy bán hàng tự động và người làm công. Và như vậy tiền của Ảrập Xêút luôn được đảm bảo là sẽ quay trở lại nền kinh tế Mỹ... Đồng thời, những người điều hành ủy ban có thể tiến hành bất kỳ dự án nào mà họ và chính quyền Ảrập Xêút thấy là có ích mà không phải giải trình trước Quốc hội”. Xây dựng nên các thông số cho sứ mệnh lịch sử này gần như chẳng tốn thời gian gì mấy. Nhưng sau đó chung tôi phải tìm cách để thực hiện nó. Để quá trình này đi vào hoạt động, ai đó ở cấp cao nhất trong Chính phủ đã được phái tới Ảrập Xêút- đây là một nhiệm vụ tối mật. Tôi không thể biết chắc nhưng tôi đoán đặc phái viên đó là Henry Kissinger. Dù cho đặc phái viên đó là ai thì công việc đầu tiên của ông ta cũng sẽ là nhắc nhở Hoàng gia về những gì đã xảy ra ở nước láng giềng Iran khi Mossadegh cố hất cẳng Anh khỏi những lợi ích từ dầu mỏ. Tiếp theo, ông ta sẽ phải vạch ra một kế hoạch hấp dẫn khiến họ khó lòng mà từ chối, mà thực tế là làm cho người Ả rập hiểu rằng họ chẳng còn lựa chọn nào khác. Không nghi ngờ gì nữa, họ chắc chắn đều ý thức sâu sắc rằng, hoặc là họ chấp nhận đề nghị của chúng tôi và nhờ thế có được sự đảm bảo rằng chúng tôi sẽ ủng hộ và bảo vệ với tư cách là người thống trị, hoặc họ có thể từ chối- và theo bước Mossadegh. Khi đặc phái viên trở về Washington, ông ta mang theo thông điệp là Ảrập Xêút chấp thuận đề nghị đó. Chỉ còn một trở ngại nhỏ. Chúng tôi phải thuyết phục được người lãnh đạo then chốt trong chính quyền Ảrập Xêút. Song điều này theo chúng tôi được thông báo sẽ là vấn đề nội bộ gia đình. Ảrập Xêút không phải là một quốc gia dân chủ, song, trong nội bộ Hoàng gia Ả rập vẫn cần phải có sự đồng thuận. Năm 1975, tôi được cử tới gặp một trong những nhân vật chủ chốt trên. Tôi vẫn biết ông ta là hoàng tử W. Mặc dù tôi không biết rằng thực chất ông ta là một thái tử. Công việc của tôi là thuyết phục ông ta rằng, phi vụ rửa tiền ở Ảrập Xêút sẽ có lợi cho cả đất nước ông ta cũng như cho cá nhân ông ta. Chuyện này hóa ra không dễ như suy nghĩ ban đầu. Thái tử W. tự nhận mình là một người trung thành với đường lối của Wahhabi và khăng khăng rằng ông ta không muốn đất nước mình đi theo chân chủ nghĩa thương mại hóa phương Tây. Ông ta cũng tuyên bố, ông ta hiểu rõ bản chất xảo quyệt đằng sau những gì chúng tôi đang đề xuất. Ông ta nói, mục đích của chúng tôi giống với mục đích của những kẻ thập tự chinh một thiên niên kỷ trước. Đó là truyền bá đạo Thiên chúa vào thế giới Ả rập. Thực ra thì ông ta cũng có phần đúng. Theo tôi, sự khác biệt giữa quân Thập tự chinh và chúng tôi chỉ là vấn đề mức độ. Những tín đồ Thiên chúa giáo thời Trung cổ của Châu Âu tuyên bố mục đích của họ là cứu người Hồi giáo khỏi nỗi thống khổ. Còn chúng tôi thì tuyên bố chúng tôi muốn giúp hiện đại hóa Ảrập Xêút. Sự thực thì, tôi tin rằng, những kẻ Thập tự chinh, cũng giống như chế độ tập đoàn trị, cả hai đều hướng tới mục tiêu mở rộng đế chế của mình. Gạt những đức tin tôn giáo sang một bên, thái tử W. cũng có một điểm yếu- đó là ông ta rất mê phụ nữ tóc vàng. Có lẽ cũng khá lố bịch khi nói đến một thứ mà nay đã trở thành một khuynh hướng chẳng hay ho gì, song tôi cũng phải nói thêm rằng thái tử W. là người duy nhất trong số những người Ảrập Xêút mà tôi biết có khuynh hướng này, hoặc ít nhất cũng là người duy nhất cho tôi biết điều đó. Mặc dù vậy, điều đó đóng một vai trò quan trọng trong việc dựng nên phi vụ lịch sử này và nó cũng chứng tỏ tôi sẽ làm những gì để có thể hoàn thành sứ mạng của mình. Chương 16 Dẫn khách và đổ tiền cho Osama bin Laden Ngay từ đâu, hoàng tử W. đã nói với tôi rằng mỗi lần ông ta đến Boston thăm tôi, ông ta đều muốn có một cô gái theo đúng sở thích để giải khuây. Cô ta sẽ làm những việc mà một người hộ tống bình thường không làm được. Nhưng dứt khoát là ông ta không muốn một gái gọi chuyên nghiệp, người mà ông ta và gia đình ông ta có thể tình cờ gặp trên đường phố hay tại một buổi tiệc chiêu đãi. Những lần gặp của tôi với hoàng tử W. là rất bí mật nên tôi cũng dễ dàng đáp ứng những mong muốn của ông ta. Sally là một phụ nữa đẹp tóc vàng với đôi mắt xanh đang sống ở Boston. Chồng cô ta, một phi công của hãng United Airlines thường xuyên xa nhà, cả vì lý do công việc lẫn những lý do khác, và cũng chẳng thèm che giấu thói trăng hoa của mìn. Sally cũng chẳng khó chịu gì về những hành vi của chồng mình. Cô ta coi trọng mức lương, căn nhà sang trọng ở Boston và những lợi ích khác mà một người chồng làm phi công đem lại. Một thập niên trước, cô đã từng là dân hippi quen với lối sống quan hệ trai gái lăng nhăng và cô ta thấy cái ý tưởng có một nguồn thu bí mật thật hấp dẫn. Cô ta đồng ý cho hoàng tử W. cơ hội với một điều kiện: Mối quan hệ giữa hai người đi đến đâu hoàn toàn phụ thuộc vào hành vi và thái độ của hoàng tử W. đối với cô. Rất may cho tôi là các yêu cầu của họ gặp nhau. Vụ dan díu giữa hoàng tử W. và Sally, một chương phụ trong phi vụ rửa tiền ở Ảrập Xêút, đã nhiều lần khiến tôi khó xử. MAIN nghiêm cấm các đối tác của mình làm bất cứ việc gì trái luật. Và theo quan điểm luật pháp, tôi đang dẫn khách- làm ma cô- một họat động bất hợp pháp ở Massachusetts, và vì thế vấn đề là ở chỗ làm sao để hợp lý hóa phương thức thanh toán cho Sally. May thay, phòng kế toán lại để tôi khá tự do trong việc chi tiêu tài khoản cá nhân. Và vì tôi luôn để lại nhiều tiền boa, tôi đã thuyết phục được những cô hầu bàn ở những nhà hàng lịch sự tại Boston cho tôi hóa đơn khống; đó là thời kỳ mà con người, chứ không phải máy tính, điền hóa đơn. Càng ngày hoàng tử W. càng liều lĩnh hơn. Cuối cùng, ông ta muốn tôi thu xếp để Sally đến sống ở một biệt thự riêng của ông ta ở Ảrập Xêút. Đó không phải là một yêu cầu chưa từng nghe thấy vào thời điểm này; người ta vẫn buôn bán phụ nữ trẻ từ một số quốc gia Châu Âu tới Trung Đông. Những phụ nữ này được ký hợp đồng trong một khoảng thời gian nhất định và khi hợp đồng kết thúc, họ trở về quê hương với một tài khoản ngân hàng kếch xù. Robert Baer, đã 20 năm làm đặc vụ CIA và là một chuyên gia về Trung Đông rút ra kết luận: “Đầu những năm 70 khi những đồng đô la dầu mỏ bắt đầu đổ vào, những người Li Băng năng động đã bắt đầu buôn phụ nữ để phục vụ các hoàng tử... Vì chẳng ai trong gia đình Hoàng gia biết cách cân đối sổ sách nên những người Li Băng trở nên giàu có một cách ngoạn mục.”(1) Tôi biết rõ điều này và thậm chí còn quen với những người có thể dàn xếp những hợp đồng như vậy. Tuy nhiên, đối với tôi có hai trở lực chính: Sally và việc thanh toán. Tôi chắc rằng Sally không muốn rời Boston để đi đến khu biệt thự ở giữa sa mạc Trung Đông. Một điều rõ ràng nữa là chẳng có hóa đơn khống của nhà hàng nào có thể che đậy cho những chi phí này. Hoàng tử W. đã giải quyết khó khăn thứ hai bằng cách đảm bảo với tôi rằng ông ta sẽ tự trả chi phí cho tình nhân mới của ông ta; tôi chỉ phải dàn xếp các thỏa thuận. Tôi cũng nhẹ người khi ông ta khẳng định rằng cô Sally sẽ đến Ảrập Xêút không nhất thiết phải là người tình cũ ở Mỹ của ông. Tôi đã gọi cho nhiều người bạn có mối liên hệ với Li Bằng ở Luân Đôn và Amsterdam. Trong vòng một vài tuần, đã có một Sally khác ký hợp đồng. Hoàng tử W. là một người phức tạp. Sally đã thỏa mãn đòi hỏi cụ thể của ông ta và sự giúp đỡ của tôi trong vụ này đã khiến tôi lấy được lòng ông ta. Tuy nhiên, những điều này không thuyết phục được ông ta rằng SAMA là một chiết lược có lợi cho đất nước của ông ta. Tôi phải vất vả mới bảo vệ được các lý lẽ của mình. Tôi dành nhiều giờ để giảng cho ông ta về các số liệu thống kê và giúp ông ta phân tích các nghiên cứu chúng tôi đã làm cho các nước khác, gồm cả các mô hình kinh tế lượng tôi đã triển khai ở Cô oét khi còn đang được Claudine đào tạo, trong những tháng đầu trước khi tôi đến Inđônêxia. Cuối cùng ông ta cũng dịu đi. Tôi không biết cụ thể những gì đang xảy ra giữa những đồng nghiệp EHM của tôi và các thành viên Ảrập Xêút chủ chốt khác. Tất cả những gì tôi biết là một hợp đồng trọn gói cuối cùng đã được gia đình Hoàng gia thông qua. Về phần mình, MAIN nhận được một trong những hợp đồng béo bở do Bộ tài chính Mỹ quản lý. Chúng tôi được ủy quyền làm một cuộc khảo sát toàn diện về hệ thống điện rối mù và lỗi thời của Ảrập Xêút, đồng thời thiết kế một hệ thống mới có thể đáp ứng các tiêu chuẩn tương đương với tiêu chuẩn của Mỹ. Như thường lệ, nhiệm vụ của tôi là cử nhóm chuyên gia đầu tiên đến để tiến hành các dự báo kinh tế và mức tiêu thụ điện cho từng khu vực của quốc gia này. Ba trong số những người làm việc cho tôi- tất cả đều có kinh nghiệm làm các dự án quốc tế- đang chuẩn bị đến Riyadh thì chúng tôi nhận được thông báo từ phòng luật của chúng tôi rằng, theo các điều khoản trong hợp đồng đã ký, chúng tôi có trách nhiệm trang bị một văn phòng đầy đủ tiện nghi và đưa vào hoạt động ở Riyadh trong vòng vài tuần tới. Điều khoản này rõ ràng đã không được chú ý tới trong vòng hơn một tháng qua. Thỏa thuận của chúng tôi với Bộ Tài chính quy định thêm rằng tất cả các thiết bị đều phải được chế tạo hoặc tại Mỹ hoặc tại Ảrập Xêút. Nhưng do Ảrập Xêút không có các nhà máy để sản xuất các thiết bị này nên mọi thứ đều phải chuyển từ Mỹ sang. Chúng tôi thất vọng khi phát hiện ra rằng hàng dãy tàu chở dầu đang xếp hàng chờ cập cảng ở bán đảo Ả rập này. Có thể sẽ phải mất nhiều tháng để vận chuyển các thiết bị cần thiết đến vương quốc này. MAIN không có ý định bỏ qua một hợp đồng có giá trị như vậy chỉ vì chút khó khăn về trang thiết bị văn phòng. Tại một cuộc họp với tất cả các bên liên quan, chúng tôi đã suy nghĩ trong nhiều giờ. Giải pháp chúng tôi lựa chọn là thuê một máy bay Boeing 747, mua thiết bị cần thiết tại những cửa hàng ở Boston, chất lên máy bay và chở đến Ảrập Xêút. Tôi nhớ tôi đã từng nghĩ rằng sẽ thật hợp cảnh nếu máy bay đó do United Airlines sở hữu và được lái bởi một phi công mà chính vợ anh ta lại là người có khả năng điều khiển Hoàng gia Ảrập Xêút. Thỏa thuận giữa Mỹ và Ảrập Xêút đã thay đổi vương quốc này thực sự chỉ trong một đêm. Những con dê được thay thế bởi hai trăm chiếc xe chở rác màu vàng nhạt của Mỹ theo một thỏa thuận trị giá 200 triệu USD với Công ty Waste Management, Inc.(2) Cũng tương tự như vậy, tất cả các lĩnh vực khác của nền kinh tế Ảrập Xêút cũng được hiện đại hóa, từ nông nghiệp và năng lượng cho đến giáo dục và viễn thông. Như Thomas Lippman đã nhận xét năm 2003: Người Mỹ đã biến một miền đất rộng lớn và ảm đạm với những căm lều của dân du mục và những ngôi nhà dựng tạm bằng bùn đất của nông dân thành những góc phố với những quán cafe Starbuck và những tòa nhà công cộng mới nhất với hệ thống thang máy hiện đại. Ảrập Xêút ngày nay là một quốc gia của đường cao tốc, máy tính cá nhân và những khu mua sắm có điều hòa mát lạnh với những cửa hiệu bóng loáng chẳng khác nào những khu ngoại ô khá giả ở nước Mỹ, những khách sạn sang trọng, những quán ăn nhanh, ti vi vệ tinh, các bệnh viện hiện đại, các cao ốc văn phòng và các công viên với nhiều trò giải trí.(3) Những kế hoạch mà chúng tôi thỏa thuận năm 1974 đã tạo ra một tiêu chuẩn cho các cuộc đàmphán sau này với các quốc gia dầu mỏ. Nói cách khác, kế hoạc SAMA/ JECOR lại là một phi vụ béo bở sau kế hoạch mà Kermit Roosevelt đã thực hiện ở Iran. Nó được đưa kho vũ khí kinh tế chính trị mà thế hệ lính mới của đế chế toàn cầu lên một mức độ tinh vi mới. Vụ rửa tiền ở Ảrập Xêút và Ủy ban chung này cũng tạo ra một tiền lệ mới trong luật quốc tế. Điều này rất rõ ràng đối với trường hợp của Idi Amin. Năm 1979, khi nhà độc tài khét tiếng Uganda phải sống lưu vong, ông ta xin được tị nạn tại Ảrập Xêút. Mặc dù ông ta là một kẻ chuyên quyền, một tên giết người, phải chịu trách nhiệm về cái chết của khoảng 100.000 đến 300.000 người nhưng cuối đời ông ta được Quốc hội Ảrập Xêút trợ cấp với một cuộc sống sang trọng, có đủ xe hơi và người giúp việc. Mỹ âm thầm phản đối nhưng không muốn gây áp lực về vấn đề này vì sợ ảnh hưởng xấu đến thỏa thuận với Ảrập Xêút. Trong những năm cuối đời, Amin giết thời gian bằng cách câu cá và tản bộ trên bãi biển. Năm 2003, ông ta chết ở Jiddah vào tuổi 80 do không chống nổi bệnh gan.(4) Tinh vi hơn và nguy hại hơn là vai trò mà Ảrập Xêút có được trong việc tài trợ cho khủng bố quốc tế. Mỹ đã không giấu giếm mong muốn Quốc hội Ảrập Xêút cung cấp tài chính cho cuộc chiến Afghanistan của Osam bin Laden chống lại Liên bang Xô Viết trong những năm 1980, Riyadh và Washington đã cùng nhau cung cấp tổng số khoảng 3,5 tỷ USD cho các Mujahideen.(5). Tuy nhiên, sự can dự của Mỹ và Ảrập Xêút còn đi xa hơn thế nhiều. Cuối năm 2003, tờ tạp chí U.S.New & World Report đã đưa ra một bài viết dựa trên một nghiên cứu rất sâu sắc với tiêu đề “Sự liên quan của Ảrập Xêút”. Tạp chí này đã xem xét hàng ngàn trang báo cáo của tòa án, các báo cáo của các cơ quan tình báo Mỹ và nước ngoài, rất nhiều tài liệu khác, các cuộc phỏng vấn hàng chục cơ quan chính phủ, các chuyên gia về khủng bố và chuyên gia về Trung Đông. Kết luận của họ như sau: Bằng chứng là không thể chối cãi: Ảrập Xêút, liên minh lâu đời của Mỹ và nhà sản xuất dầu lớn nhất thế giới, đã phần nào trở thành- như một quan chức cao cấp của Bộ Tài chính nói- “Tâm điểm” của việc tài trợ cho khủng bố... Bắt đầu từ cuối những năm 1980- sau cú sốc đúp của cách mạng Iran và chiến tranh Xô Viết ở Afghanistan- các tổ chức từ thiện không chính thức ở Ảrập Xêút đã trở thành nguồn tài trợ chính cho phong trào Jihad đang phát triển nhanh chóng. Ở hơn 20 quốc gia, tiền được dùng để đào tạo lính dù ở các trại quân sự, mua vũ khí và tuyển nhân viên mới... Sự hào phóng của Ảrập Xêút đã khích lệ các quan chức Mỹ nhìn nhận theo một cách khác, một vài cựu chiến binh tình báo tiết lộ. Hàng tỷ đô la trong các hợp đồng, các khoản tài trợ và lương đã rơi vào túi nhiều cựu quan chức Mỹ- những người có quan hệ với Ảrập Xêút: các đại sứ, các đại diện cơ quan CIA, thậm chí là cả các thư ký nội các... Các thiết bị nghe chộm các thiết bị đàm thoại cho thấy các thành viên gia đình Hoàng gia không chỉ ủng hộ Al Qaeda mà cả các nhóm khủng bố khác nữa.(6) Sau các vụ tấn công năm 2001 vào Trung tâm Thương mại và Lầu năm góc, ngày càng có nhiều bằng chứng về các quan hệ bí mật giữa Washington và Riyadh. Tháng 10 năm 2003 tạp chí Vanity Fair đã tiết lộ thông tin chưa từng được công bố trước đây trong một báo cáo nhan đề “Cứu vớt Ảrập Xêút”. Câu chuyện về mối liên hệ giữa gia đình Bush và Hoàng gia Ảrập Xêút và gia đình Bin Laden không làm tôi ngạc nhiên. Tôi biết rằng mối liên hệ đó ít nhất có từ thời diễn ra phi vụ rửa tiền ở Ảrập Xêút năm 1974 và từ thời George H.W.Bush làm đại sứ Mỹ tại Liên Hợp Quốc (năm 1971-1973) và sau đó là Giám đốc CIA (1976-1977). Điều làm tôi ngạc nhiên là cuối cùng sự thật đã được đưa lên báo chí. Tạp chí Vanity Fair kết luận: Gia đình Bush và Hoàng gia Ảrập Xêút, hai triều đại hùng mạnh nhất thế giới, đã có mối quan hệ cá nhân, chính trị và kinh tế mật thiết với nhau trong suốt hơn 20 năm... Trong lĩnh vực tư nhân, Ảrập Xêút đã ủng hộ Công ty Harken Energy, một công ty dầu mỏ đang phải vật lộn với khó khăn mà George W.Bush cũng có cổ đông trong đó. Gần đây nhất, cựu Tổng thống George H.W.Bush và liên minh lâu đời của ông ta, cựu Bộ trưởng Ngoại giao James A.Baker III, đã xuất hiện ở Ảrập Xêút tại một buổi gây quỹ cho Công ty Carlyle Group, được coi là công ty tư nhân lớn nhất thế giới. Hiện nay, cựu Tổng thống Bush vẫn là cố vấn cao cấp cho công ty này- cổ đông của công ty này có cả những người Ảrập Xêút bị buộc tội là có quan hệ tài trợ cho khủng bố... Chỉ sau vụ 11/9 vài ngày, những người Ảrập Xêút giàu có, trong đó có cả các thành viên của gia định Bin Laden đã chuồn khỏi nước Mỹ bằng máy bay riêng. Chẳng ai làm sáng tỏ về các chuyến bay và không hành khách nào bị chất vấn. Liệu có phải mối quan hệ lâu dài của gia đình Bush với Ảrập Xêút đã giúp cho sự việc này?(7) PHẦN III: 1975-1981 Chương 17 Các cuộc đàm phán về kênh đào Panama và Graham Greene Ảrập Xêút đã làm nên sự nghiệp của rất nhiều người, trong đó có cả tôi. Nhưng những thành công của tôi tại vương quốc sa mạc này còn mở ra một cánh cửa mới. Cho đến năm 1977, tôi đã xây dựng được cho mình một đế chế nho nhỏ với một đội ngũ chuyên gia gồm khoảng 20 người làm việc tại trụ sở Công ty ở Boston, một nhóm các nhà tư vấn đến từ các phòng ban khác và các văn phòng rải rác trên khắp thế giới của MAIN. Tôi trở thành hội viên trẻ nhất trong lịch sử một trăm năm của Công ty. Ngoài chức vụ Kinh tế trưởng, tôi còn là Trưởng Ban Kinh tế và Hoạch định chính sách. Tôi đã đến giảng bài ở Harvard và một số nơi khác, báo chí cũng thường đăng ý kiến của tôi về những sự kiện đang diễn ra.(1) Chiếc thuyền buồm của tôi đậu ở cảng Boston ngay bên cạnh con tàu chiến nổi tiếng Constitution, “Old Ironsides”, con tàu đã đánh bại bọn cướp biển Barbary không lâu sau Chiến tranh Cách mạng. Cùng với một mức lương lý tưởng, số cổ phiếu mà tôi sở hữu cũng hứa hẹn sẽ đưa tôi trở thành một trong số ít những nhà triệu phú trước khi tôi tròn 40 tuổi. Đúng là cuộc hôn nhân của tôi đã thất bại, nhưng bù lại tôi đã kết thân với nhiều phụ nữ xinh đẹp và quyến rũ trên khắp các châu lục. Bruno đã đưa ra ý tưởng về một phương pháp dự báo vô cùng sáng tạo: một mô hình kinh tế lượng dựa trên những ghi chép của một nhà toán học người Nga hồi đầu thế kỷ. Mô hình gán các xác suất chủ quan với các dự báo cho rằng một số khu vực cụ thể của một nền kinh tế sẽ tăng trưởng. Đây dường như là một công cụ lý tưởng để biện hộ cho mức tăng trưởng giả tạo mà chúng tôi thường đưa ra để có được những khoảng vay lớn, và Bruno đề nghị tôi xem xét liệu tôi có thể làm gì với cách tiếp cận này. Tôi đưa một nhà toán học trẻ từ Học viện Kỹ thuật Massachusset (MIT), giáo sư NadipuramPrasad về và giao cho anh ta một ngân sách riêng. Trong vòng sáu tháng, anh ta đã xây dựng phương pháp Markov cho mô hình kinh tế lượng. Chúng tôi đã cùng viết một loạt các bài nghiên cứu, trong đó nêu rõ Markov là một phương pháp mang tính đột phá dùng để dự báo tác động của đầu tư cơ sở hạ tầng đối với tăng trưởng kinh tế. Đó chính là những gì chúng tôi đang cần: Một công cụ có thể “chứng minh” một cách khoa học là chúng tôi đang làm lợi cho các nước bằng cách giúp họ có được những khoản vay mà họ không bao giờ có khả năng thanh toán. Bên cạnh đó, chỉ một nhà kinh tế lượng nhiều kinh nghiệm, được đầu tư nhiều thời gian và tiền bạc nghiên cứu mới có thể nắm bắt được sự phức tạp của phương pháp Markov hay đặt ra những nghi vấn về các kết luận của nó. Các nghiên cứu của chúng tôi đã được một số tổ chức có uy tín công bố, chúng tôi cũng đã chính thức trình bày các nghiên cứu này trong các cuộc hội thảo và tại các trường đại học ở một số nước. Những nghiên cứu này- và cả chúng tôi nữa- đã trở nên nổi tiếng trong ngành dự báo.(2) Omar Torrijos và tôi tôn trọng thỏa thuận bí mật giữa hai chúng tôi. Tôi bảo đảm rằng nghiên cứu của chúng tôi là trung thực và những kiến nghị mà chúng tôi đưa ra có lợi cho người nghèo. Mặc dù có những lời phàn nàn rằng các dự báo mà tôi làm cho Panama không đạt tiêu chuẩn thổi phồng như thông thường, thậm chí có vẻ như các dự báo đó còn mang hơi hướng của chủ nghĩa xã hội, nhưng thực tế là MAIN vẫn tiếp tục giành được các hợp đồng từ Chính phủ của Torrijos. Hợp đồng đầu tiên là xây dựng quy hoạch tổng thể với sáng kiến gắn nông nghiệp với các ngành truyền thống. Tôi cũng theo dõi việc Torrijos và Jimmy Carter chuẩn bị đàm phán lại Hiệp ước Kênh đào. Các cuộc đàm phán về kênh đào Panama đã lôi cuốn sự chú ý của toàn thế giới. Khắp nơi trên thế giới người ta chờ xem liệu Mỹ sẽ làm điều mà hầu hết các nước khác đều ủng hộ là để người Panama có quyền kiếm soát kênh đào này, hay sẽ cố gắng thiết lập lại một phiên bản mới của Thuyết Bành trướng do định mệnh trên toàn cầu, vốn đã từng bị lung lay sau thất bại của Mỹ tại Việt Nam. Đối với nhiều người, một người biết nghe lẽ phải và nhân ái như Carter dường như đã được bầu lên làm Tổng thống vào thời điểm thích hợp. Tuy nhiên, thành trì của phe bảo thủ ở Washington và các bài thuyết giáo về quyền tôn giáo lại khiến thế giới phẫn nộ. Làm sao nước Mỹ có thể từ bỏ bức tường thành quốc phòng, từ bỏ biểu tượng về sự khôn ngoan của nước Mỹ, từ bỏ dải biển đã gắn liền sự giàu có của Nam Mỹ với lợi ích thương mại của Mỹ? Trong những lần tới Panama, tôi thường ở tại Khách sạn Continental. Tuy nhiên, lần thứ năm tới đây, tôi chuyển sang sống ở khách sạn Panama đối diện vì khác sạn Continental đang được tu bổ, và vì thế nó quá ồn. Thoạt đầu, tôi cảm thấy khó chịu vì sự bất tiện này- Continental đã trở thành nhà của tôi mỗi lần tới đây. Nhưng giờ đây khu hành lang rộng nơi tôi đang ngồi, những chiếc ghế mây và những chiếc quạt trần bằng gỗ có những cánh quạt hình mái chèo đã dần trở nên thân thuộc với tôi. Nơi này trông chẳng khác nào một cảnh quay trong phim Casablanca, và tôi tưởng tượng Humphrey Bogart có thể đến ở đây bất cứ lúc nào. Sau khi đọc xong một bài viết của Graham Greene về Panama, tôi đặt tờ New York Review of Books xuống. Nhìn chăm chăm vào những cánh quạt, tôi chợt nhớ lại một buổi tối hai năm về trước. “Ford không mạnh và ông ta sẽ không thể tái đắc cử đâu”, năm 1975, Torrijos đã dự báo như vậy. Ông nói điều này với một nhóm những người Panama có thế lực. Tôi là một trong số ít những người nước ngoài được mời đến tham dự câu lạc bộ của những người thuộc tầng lớp thượng lưu này. Tôi vẫn còn nhớ tiếng quạt trần quay vù vù khi đó. “Đó là lý do vì sao tôi quyết định đẩy nhanh vấn đề kênh đào. Đây là thời điểm thích hợp để dốc hết sức tiến hành một cuộc chiến chính trị giành lại kênh đào”. Bài phát biểu đó của Torrijos đã cho tôi nguồn cảm hứng. Trở về khách sạn, tôi bắt đầu gạch xóa, chỉnh sửa bài viết mà sau đó tôi gửi cho tờ Boston Globe. Khi ở Boston, Tổng biên tập tờ báo này đã trả lời bằng cách gọi điện đến văn phòng cho tôi yêu cầu tôi viết một đoạn Lời soạn báo. Và bài viết Năm 1975, chủ nghĩa thực dân không còn chỗ ở Panama đã chiếm gần nửa trang báo cùng với mục xã luận trong tờ báo số ra ngày 17/9/1975. Bài viết đưa ra lý do cụ thể để giao lại kênh đào này cho người Panama. Thứ nhất, “Tình hình hiện tại là không công bằng- và đó là một lý do tốt cho bất cứ quyết định nào”. Thứ hai, “Nếu trả lại kênh đào cho người Panama, an ninh sẽ được đảm bảo tốt hơn so với hiện tại”. Tôi có nhắc tới một nghiên cứu do Ủy ban Kênh đạo liên đại dương thực hiện, trong đó kết luận rằng “chỉ cần một người bình thường cũng có thể làm cho giao thông của kênh đào bị ngưng trệ tới hai năm trời bằng cách gài một quả bom ở phía đập Gatun”, điểm này Tướng Torrijos đã công khai nhấn mạnh. Và thứ ba là “Tình hình hiện tại đang gây ra những vấn đề nghiêm trọng trong mối quan hệ vốn đã rất phức tạp giữa Mỹ và Châu Mỹ Latinh”. Tôi kết luận bài viết đó như sau: Để kênh đào hoạt động liên tục và hiệu quả, cách tốt nhất là giúp người Panama giành lại quyền kiếm soát và trách nhiệm đối với kênh đào. Làm được điều đó, chúng ta có thể tự hào vì hành động này sẽ tái khẳng định những cam kết của chính chúng ta từ 200 năm trước về quyền tự quyết... Chủ nghĩa thực dân đã từng rất được hoan nghênh vào đầu thế kỷ này cũng như vào năm 1775. Trong bối cảnh lịch sử đó, một hiệp ước như vậy có thể được chấp nhận. Nhưng ngày nay, không gì có thể biện minh cho hiệp ước đó. Năm 1975, chủ nghĩa thực dân đã không còn chỗ đứng. Để kỷ niệm mốc hai trăm năm chúng ta phải thừa nhận điều này và hành động cho hợp lẽ.(3) Dám viết một bài như vậy là rất táo bạo, nhất là khi tôi vừa trở thành hội viên của MAIN. MAIN không muốn các hội viên của mình tiếp xúc với báo chí và tất nhiên là hạn chế họ công bố những bài công kích chính trị trên trang xã luận của tờ báo có uy tín nhất New England này. Tôi nhận được cả đống thư từ với những lời lẽ bẩn thỉu từ những người cùng công ty, đa số các đoạn thư nặc danh đều đính kèm bản sao bài viết của tôi. Tôi biết chắc một trong số các bức thư viết tay đó là của Charlie Illingworth vì tôi nhận ra nét chữ của ông ta. Charlie Illingworth là Giámđốc dự án đầu tiên mà tôi tham gia, ông ta đã làm việc ở MAIN hơn mười năm (còn tôi mới chưa đầy 5 năm) mà vẫn chưa được là hội viên. Bức thư đó rất ngắn gọn, chỉ có một hình đầu lâu xương chéo rất to, bên dưới là một dòng chữ ngắn ngủi: “Liệu tên cộng sản này có thực là một hội viên của công ty chúng ta hay không?” Bruno cho gọi tôi vào phòng và bảo: “Anh sẽ gặp rất nhiều phiền phức vì bài báo đó. MAIN là một công ty cực kỳ bảo thủ. Nhưng tôi nghĩ là anh rất khôn ngoan. Torrijos sẽ thích bài báo đó; tôi cũng hy vọng anh sẽ gửi một bản sao bài đó cho ông ấy. Những kẻ thích đùa trong công ty, những người nghĩ là Torrijos theo chủ nghĩa xã hội, sẽ chẳng quan tâm lắm đâu chừng nào công việc vẫn đổ về chỗ chúng ta”. Như thường lệ, Bruno đã đúng. Năm 1977, Carter bước vào Nhà trắng. Những cuộc đàmphán nghiêm túc về kênh đào Panama được tiến hành. Rất nhiều đối thủ của MAIN đã chọn sai hướng và bị đánh bật ra khỏi Panama, trong khi đó công việc của chúng tôi tăng lên gấp bội. Giờ tôi đang ngồi tại tiền sảnh Khác sạn Panama, vừa đọc xong một bài báo của Graham Greene trên tờ New York Review of Books. Bài báo “Đât nước trên năm mặt trận” là một bài viết sắc sảo, dám bàn luận đến nạn thamnhũng trong hàng ngũ các sỹ quan cao cấp thuộc lực lượng Cận vệ Quốc gia Panama. Theo lời tác giả, chính bản thân vị tướng đã phải thừa nhận rằng ông đã dành cho cấp dưới rất nhiều đặc ân, ví dụ cấp nhà ở sang trọng cho họ vì “nếu tôi không cho họ, CIA sẽ làm việc đó”. Bài viết rõ ràng ngụ ý là tình báo Mỹ quyết phá vỡ mong muốn của Tổng thống Carter, và nếu cần, họ sẽ hối lộ các sỹ quan quân đội Panama để phá hoại tiến trình đàm phán(4). Tôi không thể không tự hỏi liệu những tên sát nhân đã bắt đầu tính đến chuyện hãm hại Torrijos hay chưa. Tôi đã từng nhìn thấy bức ảnh chụp Torrijos và Greene cùng ngồi với nhau, đăng trên mục “Nhân vật” của tờ Time hay Newsweek. Dưới bức ảnh chú thích, tác giả là một vị khách đặc biệt, là một người bạn tốt của tướng Torrijos. Tôi không hiểu vị tướng nghĩ gì về việc một nhà văn mà ông hết sức tin cậy lại viết một bài phê bình như vậy. Bài viết của Graham Greene còn đặt ra câu hỏi khác, liên quan đến cái ngày tôi ngồi uống cà phê với Tướng Torrijos năm 1972. Khi đó, tôi cho rằng Tướng Torrijos biết cái trò viện trợ nước ngoài là để làm ông giàu lên trong khi đưa đất nước ông lâm vào cảnh khốn cùng do nợ nần. Tôi chắc ông biết tất cả những thứ đó diễn ra vì người ta tin rằng tất cả các quan chức đều dễ bị mua chuộc. Ông cũng biết rằng, việc ông quyết không theo đuổi lợi ích cá nhân- mà thay vào đó là sử dụng viện trợ nước ngoài để thực sự giúp người dân của mình- sẽ được coi là một mối đe dọa, và rốt cục có thể làm lung lay toàn bộ hệ thống. Cả thế giới đang dõi theo người đàn ông này; hành động của ông không chỉ có ảnh hưởng ở Panama mà còn lên toàn thế giới vì thế không thể xem nhẹ. Tôi đã từng hỏi, liệu chế độ tập đoàn trị sẽ phản ứng thế nào khi những khoản vay dành cho Panama có thể giúp cho người nghèo mà không gây ra những khoản nợ khổng lồ. Giờ đây tôi lại băn khoăn không biết liệu Torrijos có ân hận với những gì mà tôi và ông đã thỏa thuận với nhau ngày hôm đó- bản thận tôi cũng không mấy chắc chắn về suy nghĩ của mình đối với những thỏa thuận đó. Tôi đã rút khỏi vai trò sát thủ kinh tế của mình. Tôi chấp nhận chơi theo luật của ông chứ không phải của tôi, đã chấp nhận những đòi hỏi về sự chân thực của ông để lấy nhiều hợp đồng hơn. nếu chỉ xét đơn thuần về mặt kinh tế, đó là một quyết định làm ăn khôn ngoan cho MAIN. Tuy nhiên, điều đó lại không đúng với những gì mà Claudine đã tiêm nhiễm cho tôi: nó không củng cố cho đế chế toàn cầu. Có phải giờ đây nó đã tạo điều kiện để cho những tên chó săn được thả sức tung hoành không? Lịch sử Châu Mỹ Latinh có không ít những anh hùng đã ra đi, tôi đã nghĩ như vậy khi rời khỏi căn nhà gỗ của Torrijos ngày hôm đó. Một hệ thống được dựng lên bởi những quan chức tham nhũng không thể tử tế với những người không thể bị mua chuộc. Đột nhiên tôi cảm giác mình như bị hoa mắt. Một bóng dáng quen thuộc đang đi chầm chậmdọc theo hành lang. Lúc đầu, tôi bối rối đến mức tin rằng đó là Humphrey Bogart, nhưng Bogart đã qua đời từ rất lâu rồi. Sau đó tôi nhận ra người đàn ông đang nhẹ nhàng đi ngang qua tôi là một trong những nhân vật vĩ đại trong làng văn học hiện đại Anh, tác giả của Kiêu hãnh và Vinh quang, Những diễn viên hài, Những người đàn ông của chúng tôi ở Havana, và của bài báo mà tôi vừa đặt xuống chiếc bàn cạnh mình. Graham Greene ngập ngừng trong giây lát, nhìn xung quanh rồi đi thẳng đến quầy ăn. Tôi muốn gọi hoặc đuổi theo ông, song tôi đã dừng lại. Một giọng nói trong tôi vang lên bảo rằng ông cần sự riêng tư; một giọng nói khác lại bảo ông ta sẽ tránh xa tôi. Tôi cầm tờ New York Review of Books lên, và chỉ một lúc sau đã ngạc nhiên thấy mình đang đứng trên lối vào quầy ăn. Tôi đã ăn điểm tâm rồi nên khi tôi bước vào, người phục vụ nhìn tôi với ánh mắt ngạc nhiên. Tôi liếc nhìn xung quanh. Graham Greene đang ngồi một mình ở chiếc bàn sát tường. Tôi chỉ chiếc bàn bên cạnh ông và hỏi người phục vụ: “Liệu tôi có thể ngồi ở kia và ăn thêm một bữa điểm tâm nữa không?” Tôi vốn là người hay boa tiền rộng rãi, nên người phục vụ mỉm cười một cách ranh mãnh và đưa tôi đến chiếc bàn đó. Greene như đang bị hút vào tờ báo ông đang đọc. Tôi gọi cafe và bánh sừng bò mật ong. Tôi muốn biết Greene nghĩ gì về Panama, về Tướng Torrijos và về vụ kênh đào Panama, nhưng tôi còn chưa biết bắt chuyện với ông như thế nào. Rồi chợt ông ngẩng lên, uống một ngụm nước. “Xin lỗi ông”, tôi nói. Ông nhìn tôi giận dữ- hay ít ra thì tôi cảm thấy thế. “Vâng?” “Tôi rất ghét làm phiền người khác một cách đột ngột như thế này, nhưng xin hỏi ông có phải Graham Greene?” “Vâng, nhưng tại sao ông nhận ra tôi?”. Ông mỉm cười ấm áp, “ở Panama hầu hết mọi người không nhận ra tôi.” Tôi liền thú nhận rằng ông là tác giả mà tôi yêu thích nhất, và sau đó tôi giới thiệu tóm tắt với ông về cuộc đời mình, về công việc của tôi ở MAIN và những lần gặp gỡ Torrijos. Ông hỏi liệu tôi có phải là nhà tư vấn đã viết bài báo về việc Mỹ nên rút khỏi Panama không: “Trên tờ Boston Globe thì phải, nếu tôi nhớ không nhầm?” Tôi nhạc nhiên đến sững sờ. “Ở vào địa vị của ông, đó là một hành động dũng cảm”, ông nói: “Ông không ngại chuyển sang ngồi cùng bàn với tôi chứ?” Tôi chuyển sang bàn của Greene và ngồi đó với ông cả tiếng rưỡi đồng hồ. Qua nói chuyện, tôi nhận thấy, quan hệ giữa Greene và Tướng Torrijos đã trở nên thân thiết thế nào. Đôi khi Greene nói về vị tướng như một người cha nói về con trai mình vậy. Ông nói: “Tướng Torrijos muốn tôi viết một cuốn sách về đất nước của ông ta. Tôi vừa mới bắt tay vào việc đó. Nó sẽ là một câu chuyện có thực- hơi khác với thói quen thông thường của tôi”. Tôi hỏi ông tại sao ông thường viết tiểu thuyết mà không viết truyện hiện thực. “Viết những điều hư cấu an toàn hơn”, ông nói. “Phần lớn những đề tài mà tôi viết là những vấn đề gây tranh cãi. Về Việt Nam, về Haiti, về cách mạng Mêxicô. Rất nhiều nhà xuất bản sợ phải xuất bản những cuốn truyện theo chủ nghĩa hiện thực về các đề tài này.” Ông chỉ vào tờ New York Review of Books mà tôi đang đặt bên chiếc bàn bên cạnh. “Những từ ngữ kiểu như thế này có thể đem lại những tổn thất lớn”. Rồi ông cười nói tiếp: “Bên cạnh đó, tôi thích viết truyện hư cấu. Khi viết hư cấu tôi thấy mình tự do hơn”. rồi ông chăm chú nhìn tôi, nói: “Điều quan trọng là viết về những điều có ý nghĩa. Giống như bài báo của anh trên tờ Globe về kênh đào Panama ấy”. Rõ ràng ông rất khâm phục Tướng Torrijos. Có vẻ như người đứng đầu nhà nước Panama đã gây được ấn tượng mạnh với nhà văn nay, giống như đối với những người nghèo và vô sản. Tôi cũng cảm nhận được rằng Greene rất lo cho tính mạng của bạn mình. “Đấu lại với tên Khổng lồ của phương Bắc là một khó khăn ghê gớm”, ông lắc đầu buồn bã, “tôi lo cho sự an toàn của ông ấy”. Đã đến lúc Greene phải đi. “Tôi phải kịp chuyến bay sang Pháp”, ông nói, chậm rãi đứng dậy và bắt tay tôi. Ông nhìn thẳng vào mắt tôi: “Sao anh không viết sách”, ông gật đầu đầy khích lệ, “anh rất có năng khiếu. Nhưng anh nên nhớ, phải luôn viết về những điều có ý nghĩa”. Ông quay bước đi, rồi chợt dừng lại, quay đầu nói với tôi: “Đừng lo. Tướng Torrijos sẽ không sao đâu, ông ấy sẽ lấy lại được kênh đào”. Torrijos đúng là đã lấy lại được kênh đào. Trong cùng năm đó, năm 1977, ông đã đàm phán thành công các hiệp ước mới về quyền kiểm soát kênh đào Panama với Tổng thống Carter. Sau đó Nhà trắng phải thuyết phục Nghị viện Mỹ thông qua hiệp ước. Một cuộc đấu tranh dai dẳng và đầy cam go diễn ra. Theo kết quả kiểm phiếu cuối cùng, Hiệp ước Kênh đào đã được phê chuẩn nhờ hơn đúng một phiếu. Phe bảo thủ sẽ trả đũa vụ này. Vài năm sau đó, khi cuốn sách Tìm hiểu về vị tướng của Graham Greene được xuất bản, ông đề tặng: “Tặng những người bạn của bạn tôi, Omar Torrijos, ở Nicaragua, El Salvado và Panama”. Chương 18 Vua của những vị vua Trong khoảng thời gian từ năm 1975 đến năm 1978, tôi thường đến Iran. Đôi khi tôi di chuyễn giữa Mỹ Latinh hoặc Inđônêxia và Têhêran.Sa (vua của những vị vua, danh hiệu chức thức của ông) là một trường hợp hoàn toàn khác với những nước mà chúng tôi từng làm việc. Iran rất nhiều dầu, và giống như Ảrập Xêút, nó không cần phải vay nợ để tài trợ cho những dự án đầy tham vọng của mình. Tuy nhiên, Iran hoàn toàn khác Ảrập Xêút vì phần lớn dân số nước này không phải là người Ả rập mà chủ yếu là người Trung Đông và người theo đạo Hồi. Bên cạnh đó, nước này còn có một lịch sử đầy rẫy những xáo trộn về chính trị- kể cả trong nước và với các nước láng giềng. Vì thế, chúng tôi đã dùng một cách khác: Washington và giới kinh doanh cùng hợp lực biến Sa thành một biểu tượng của sự tiến bộ. Chúng tôi đã tập trung mọi nỗ lực để chứng minh cho cả thế giới thấy rằng, một đất nước hùng mạnh, dân chủ, làm bạn với những lợi ích chính trị và quyền lợi tập thể của Mỹ sẽ làm được gì. Chẳng hề bận lòng đến cái tiếng không dân chủ rõ rành rành, cũng như một sự thật tuy ít lộ liễu hơn là CIA đã sắp đặt âm mưu nhằm lật đổ vị thủ tướng đã được phái dân chủ chọn; Washington và các đối tác đồng minh của mình quyết chứng minh cho được rằng, chính phủ của nhà vua có thể là hình mẫu thay thế cho chính phủ ở các nước như Iraq, Libi, Trung Quốc, Triều Tiên và nhiều quốc gia khác, nơi đang dấy lên một làn sóng ngầm mạnh mẽ chống lại Mỹ. Nếu chỉ nhìn bề ngoài, Sa tỏ ra là một người bạn cấp tiến của những người dân yếu thế. Năm1962, Sa ra lệnh phân chia tất cả những vùng đất riêng rộng lớn và trao trả lại cho nông dân. Nămtiếp theo, ông ta phát động cuộc Cách mạng trắng, trong đó có chương trình cải cách kinh tế – xã hội toàn diện. Những năm 70, quyền lực của OPEC không ngừng lớn mạnh, và nhà vua ngày càng có ảnh hưởng trên trường quốc tế. Cùng thời gian đó, Iran cũng xây dựng một trong những lực lượng quân đội hùng mạnh nhất ở khu vực Trung Đông theo Đạo hồi.1 MAIN tham gia vào các dự án trên hầu khắp Iran, từ những khu du lịch dọc biển Caspi ở phía bắc đến các căn cứ quân sự bí mật nhìn ra eo biển Hormuz ở miền nam. Cũng như mọi lần, công việc chính của chúng tôi là dự báo các tiềm năng phát triển của khu vực và thiết kế các mạng lưới phân phối, truyền tải và phát điện đủ để cung cấp năng lượng cần thiết cho phát triển công nghiệp và thương mại, để hiện thực hóa những con số dự báo này. Dần dần tôi đi hầu hết các vùng của Iran. Tôi đi theo những con đường lạc đà qua những ngọn núi trên sa mạc, từ Kirman đến Bandar ‘Abbas, lang thang quanh các tàn tích Persepolis, nơi từng là cung điện huyền thoại của những vị vua cổ và cũng là một trong những kỳ quan của thế giới Cổ đại. Tôi đã đi đến những địa danh nổi tiếng tráng lệ của đất nước này: Shiraz, Isfahan, và thành phố của những chiếc lều vải gần Persepolis, nơi Sa lên ngôi. Dần dần, tôi trở nên yêu mảnh đất này và những con người đầy phức tạp của nó. Bề ngoài, Iran có vẻ là một hình mẫu cho sự kết hợp giữa đạo Hồi và đạo thiên chúa. Song, tôi nhanh chóng nhận ra rằng, cái bề ngoài yên bình đó có thể che giấu cả một sự oán giận sâu sắc bên trong. Một buổi chiều muộn năm 1977, tôi trở lại phòng mình ở khách sạn và tìm thấy một tờ giấy nhét dưới cửa. Tôi kinh ngạc thấy trong đó có chữ ký của một chỉ thị tên là Yamin. Tôi chưa bao giờ gặp ông ta, nhưng trong một chỉ thị của Chính phủ, ông ta được mô tả như một nhân vật nổi tiếng với quan điểm cấp tiến và tư tưởng lật đổ mạnh mẽ nhất. Với nét chữ tiếng Anh tuyệt đẹp, ông mời tôi đến gặp ông tại một nhà hàng do ông chọn. Song, có một lời cảnh báo trước: tôi chỉ được đến nếu thực sự quan tâm đến một bộ mặt khác của đất nước Iran mà hầu hết những người “ở vị trí của tôi” không bao giờ thấy. Tôi tự hỏi không biết Yamin có biết gì về vai trò thực sự của tôi hay không. Tôi nhận ra rằng, tôi đang phải chấp nhận một rủi ro lớn, song, tôi không thể chống lại cái ý muốn gặp mặt nhân vật đầy bí hiểm này. Taxi thả tôi xuống trước một cái cổng bé xíu bên trong một bức tường cao- cao đến mức tôi không thể nhì thấy tòa nhà phía bên trong. Một phụ nữ Iran xinh đẹp, vận áo choàng đen dài dẫn tôi đi dọc theo một hành lang nhỏ, có mái che thấp, được chiếu sáng bởi các đèn dầu trang trí tuyệt đẹp. Đến cuối hành lang, chúng tôi bước vào một căn phòng sáng chói, khiến tôi lóa cả mắt, như thể đang ở bên trong một viên kim cương vậy. Khi mắt đã bắt đầu quen với ánh sáng, tôi mới thấy tường của căn phòng đều được khảm đá quý và xà cừ. Nhà hàng được chiếu sáng bằng những ngọn nến trắng cao, vươn lên từ những chân đèn bằng đồng, được chạm khắc hết sức tinh xảo. Một người đàn ông cao lớn, với mái tóc đen dài, vận một bộ complet ngàu xanh nước biển được cắt may riêng tiến đến bắt tay tôi. Ông ta tự giới thiệu mình là Yamin. Giọng nói của ông cho thấy ông ta là một người Iran, từng được giáo dục trong hệ thống trường học của Anh. Ngay lập tức, tôi vô cùng sửng sốt bởi ông chẳng hề giống với một phần tử cấp tiến có tư tưởng lật đổ chút nào. Ông mời tôi đi qua mấy dãy bàn, nơi các cặp tình nhân đang lặng lẽ dùng bữa; đến một góc rất kín đáo. Ông cam đoan chúng tôi có thể nói chuyện một cách tuyệt đối bí mật. Tôi thấy rõ ràng nhà hàng này chỉ dành cho những buổi tối hẹn hò bí mật. Và rất có thể, đêm đó, chỉ duy có cuộc gặp mặt của chúng tôi không phải là một cuộc hẹn hò yêu đương. Yamin rất thân mật. Qua nói chuyện tôi hiểu ra rằng, ông ta nghĩ tôi chỉ dơn thuần là một nhà tư vấn kinh tế, chứ không phải một người với những động cơ không thể tiết lộ. Ông nói ông chọn tôi vì ông biết rằng tôi đã từng là tình nguyện viên của Quân đoàn Hòa bình và vì người ta nói với ông rằng, tôi luôn tìm mọi cơ hội để tìm hiểu về đất nước của ông và hòa nhập với đồng bào ông. “Anh còn rất trẻ so với hầu hết những người khác ở vị trí của anh”, ông ta nói. “Anh rất quan tâm đến đất nước tôi và đến những vấn đề hiện thời của chúng tôi. Anh là niềm hy vọng của chúng tôi.” Câu nói này, khung cảnh của nhà hàng, bề ngoài của Yamin, và sự hiện diện của rất nhiều người nữa trong nhà hàng, mang lại cho tôi cảm giác khá thoải mái. Tôi đã quen với việc mọi người đối xử tốt với mình, giống như Rasy ở Java và Fidel ở Panama, và tôi coi đó như một lời khen và một cơ hội. Tôi biết, tôi khác với những người Mỹ khác bởi tôi luôn say mê những nơi mà tôi đến. Tôi biết, mọi người sẽ nhanh chóng đối xử nồng hậu với bạn nếu bạn sẵn sàng cởi mở tấm lòng và hòa nhập vào nền văn hóa của họ. Yamin hỏi tôi có biết gì về dự án Sa mạc nở hoa không.(2) “Nhà vua tin rằng, sa mạc của chúng tôi từng là những vùng đồng bằng phì nhiêu và những khu rừng xum xuê tươi tốt. Ít nhất thì đó cũng là những gì ông ta quả quyết. Theo truyền thuyết này, dưới triều đại của Alexander Đại đế, những đội quân hùng mạnh đã càn quét qua vùng đất này, mang theo hàng triệu con dê và cừu. Những con vật này đã ăn tất cả cỏ và các loại cây khác. Sự biến mất của những loài thực vật này đã gây nên hạn hán và cuối cùng cả vùng đó biến thành sa mạc. Giờ đây, tất cả những gì chúng tôi phải làm, như nhà vua nói, đó là trồng ở đây hàng triệu, hàng triệu cây. Sau đó, rất nhanh mưa sẽ đến và sa mạc sẽ xanh tươi trở lại. Tất nhiên, để làm được điều này, chúng tôi phải cần đến hàng trăm triệu đô la.” Ông ta cười khiêm nhường. “Các công ty như công ty của anh sẽ kiếm được những món lợi khổng lồ.” “Tôi cược là anh chẳng tin vào truyền thuyết này.” “Sa mạc chỉ là một biểu tượng. Để mang lại màu xanh cho nó, người ta không chỉ cần có nông nghiệp mà còn hơn thế rất nhiều.” Vài người hầu bàn bất ngờ đi đến chỗ chúng tôi với những khay đầy thức ăn Iran được bầy biện rất đẹp. Yamin xin phép tôi để chọn một thực đơn từ nhiều khay thức ăn. Sau đó, ông ta quay trở lại. “Tôi có một câu hỏi cho anh, anh Perkin, xin lỗi nếu tôi có quá đường đột. Điều gì đã tàn phá nền văn hóa của những người dân bản xứ ở nước anh, những người Anh điêng ấy?” Tôi đáp, tôi nghĩ có rất nhiều yếu tố trong đó có lòng tham và sự xuất hiện của những vũ khí tối tân. “Đúng. Hoàn toàn đúng. Tất cả những cái đó đều là nguyên nhân. Nhưng hơn hết, chẳng phải là chính nó đã biến thành sự hủy hoại môi trường ư?” Rồi ông giải thích về việc những cánh rừng và những loài vật như trâu bò đã bị tàn phá thế nào, và khi con người chuyển đến sinh sống ở những vùng đất riêng, thì những gốc rễ căn bản nhất của văn hóa đã bị sụp đổ ra sao. “Anh thấy đấy, tình hình ở đây cũng y như vậy”, ông ta nói. “Sa mạc là môi trường của chúng tôi. Dự án Sa mạc nở hoa đe dọa phá hủy toàn bộ nền văn hóa của chúng tôi. Làm sao chúng tôi có thể để điều đó xảy ra được chứ?” Tôi nói với ông rằng, theo tôi hiểu thì ý tưởng về dự án này do chính đồng bào của ông nghĩ ra. Ông đáp trả bằng một tiếng cười đầy hoài nghi, và nói, chính Chính phủ của đất nước tôi đã gieo rắc ý tưởng đó vào đầu óc của nhà vua, và rằng, nhà vua chỉ là một con rối trong tay Chính phủ Mỹ. “Một người dân Pecxich chính cống sẽ không đời nào để điều đó xảy ra”, Yamin nói. Rồi ông bắt đầu một bài nói dài về mối quan hệ giữa nhân dân ông- những người Bedouins- và sa mạc. Ông nhấn mạnh rằng, nhiều người Iran mặc dù trở thành người thành thị song vẫn đi nghỉ ở sa mạc. Họ dựng những ngôi lều đủ lớn cho cả gia đình và ở đó đến cả tuần. “Chúng tôi- nhân dân tôi- là một phần của sa mạc. Những người dân mà nhà vua đang đòi thống trị bằng bàn tay thép của ông ta không thuộc về sa mạc. Chúng tôi chính là sa mạc.” Sau đó, ông ta kể cho tôi nghe về những kinh nghiệm của chính bản thân ông về sa mạc. Khi buổi tối trôi qua, ông đưa tôi trở lại cánh cửa nhỏ bên trong bức tường cao. Xe taxi vẫn đợi tôi ở bên ngoài. Yamin bắt tay và cảm ơn tôi vì đã dành thời gian gặp ông. Một lần nữa, ông nhắc lại đến tuổi trẻ và sự cới mở của tôi, và rằng, việc tôi có được một vị trí như vậy mang lại cho ông niềm hy vọng về tương lai. “Tôi hết sức vui mừng vì gặp được một người như anh vào lúc này.” Ông tiếp tục nắm chặt tay tôi. “Tôi chỉ xin anh thêm một ân huệ nữa: Tôi không đề nghị anh điều này một cách hời hợt đâu. Tôi làm vậy vì sau khi nói chuyện với anh tối nay tôi biết nó sẽ rất có ý nghĩa với anh. Anh sẽ học được nhiều điều từ việc này.” “Vậy tôi có thể làm được gì cho ông?” “Tôi muốn giới thiệu anh với một người bạn rất thân của tôi, một người có thể nói cho anh biết rất nhiều điều về vị vua của chúng tôi. Ông ta có thể khiến anh sửng sốt, song tôi đảm bảo với anh rằng, anh rất nên giành thời gian gặp ông ta.” Chương 19 Lời xưng tội của một người chịu nhục hình Vài ngày sau, Yamin lái xe đưa tôi ra khỏi thành phố Têhêran, qua một khu nhà ổ chuột bẩn thỉu và nghèo đói, dọc theo con đường mòn lạc đà, đến gần vùng sa mạc. Khi mặt trời đã khuất sau thành phố, Yamin dừng xe bên những túp lều đắp bằng bùn nằm giữa những rặng cọ. Ông giải thích: “Ốc đảo này đã có từ lâu rồi, hàng thế kỷ trước khi Marco Polo đặt chân đến đây”. Rồi ông dẫn tôi đến một trong những chiếc lều. Ông nói: “Người đàn ông sống trong chiếc lều này có bằng tiến sỹ tại một trong những trường đại học danh tiếng nhất nước Mỹ. Vì những lý do mà sau này anh sẽ biết, tôi không thể tiết lộ tên của ông ta. Anh có thể gọi ông ấy là tiến sỹ Doc”. Yamin gõ cửa, từ sau cánh cửa gỗ vang lên tiếng trả lời nghèn nghẹn. Yamin đẩy cửa và chúng tôi bước vào. Căn lều nhỏ xíu, không có cửa sổ, ánh sáng yếu ớt hắt ra từ chiếc đèn dầu đặt trên một chiếc bàn thấp ở góc phòng. Khi mắt tôi đã quen với bóng tối, tôi nhận thấy sàn nhà bẩn thỉu được phủ bằng những tấm thảm Ba Tư. Hình dạng lờ mờ của người chủ căn lều hiện ra. Ông ta ngồi quay mặt vào ngọn đèn để không ai có thể nhìn thấy khuôn mặt. Tôi chỉ thấy toàn thân ông ta quấn trong những tấm mền, trên đầu đội một vật gì đó. Ông ta ngồi trên một chiếc xe lăn và ngoài chiếc bàn ra, đây là đồ đạc duy nhất trong căn lều. Yamin ra hiệu cho tôi ngồi xuống thảm. Yamin tiến về phía trước, nhẹ nhàng ôm hôn người đàn ông,thì thầm điều gì đó vào tai ông ta, rồi quay lại ngồi xuống bên cạnh tôi. “Thưa ngài, tôi đã kể cho ngài nghe về ông Perkins đây”, Yamin nói, “hôm nay chúng tôi rất vinh hạnh được đến thăm ngài.” “Ông Perkins, chào mừng ông đến với chúng tôi”. Một giọng nói trầm khàn vang lên. Tiếng Anh của ông ta cực kỳ chuẩn xác. Song tôi phải cúi sát về phía trước mới nghe được những gì ông nói. “Trước mặt ông là người đàn ông ốm yếu. Trước đây, tôi cũng đã từng khỏe mạnh như ông. Tôi đã từng là cố vấn thân cận và tin cậy nhất của Quốc vương”. Ông ta ngừng lại một lúc lâu “Quốc vương của tất cả các Quốc vương, Vua của tất cả các vị Vua”. Giọng nói của ông ta buồn bã nhiều hơn là giận dữ. “Cá nhân tôi biết rất nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới, từ Aixenhao, Nixon đến Tướng Đờ Gôn. Họ tin tưởng tôi sẽ giúp đưa đất nước này đi theo chủ nghĩa tư bản. Quốc vương tin tưởng tôi, và”, người đàn ông chợt bật ra một âm thanh nghe như tiếng ho, nhưng tôi nghĩ là ông ta đang cười”, “tôi tin tưởng Quốc vương. Tôi tin vào những lời nói hoa mỹ của ông ta. Ông ta đã làm cho tôi tin là Iran sẽ đưa thế giới Hồi giáo tiến vào một kỷ nguyên mới, rằng Ba Tư sẽ thực hiện được lời hứa của mình. Đó dường như là sứ mệnh của đất chúng tôi, của Quốc vương, của tôi và của tất cả những ai tin rằng chúng tôi sinh ra là để thực hiện sứ mệnh đã được giao phó đó”. Cả đống chăn như chuyển động, chiếc xe lăn khẽ kẽo kẹt và hơi xoay lại. Lúc này tôi có thể nhìn thấy những đường nét trên khuôn mặt và bộ râu rậm của ông ta. Rồi tim tôi bỗng thắt lại. Trước mặt tôi là một khuôn mặt phẳng lỳ. Không có mũi, người đàn ông trước mặt tôi không có mũi. “Hẳn không phải là một cảnh tượng đẹp, phải không ông Perkins? Thật tệ là ông không được nhìn thấy nó ngoài ánh sáng. Đúng là một bức tranh khủng khiếp”. Rồi tiếng cười nghèn nghẹn lại cất lên từ ông ta. Ông ta nói tiếp: “Tôi tin ông hiểu là tôi buộc phải giữ kín danh tính của mình. Tất nhiên nếu muốn, ông có thể tìm hiểu xem tôi là ai, dù có thể ông sẽ phát hiện ra rằng tôi đã chết. Đúng vậy, trên danh nghĩa tôi đã không còn tồn tại trên thế giới này. Nhưng tôi tin ông sẽ không cố tìm hiểu. Sẽ tốt hơn cho bản thân ông và gia đình ông nếu ông không làm vậy. Đâu đâu cũng có vây cánh của Quốc vương và SAVAK (Cơ quan tình báo an ninh Iran)”. Chiếc ghế lại khẽ rung lên và trở lại vị trí bắt đầu. Tôi có cảm giác như vừa được giải thoát vì không phải nhìn thấy tất cả nỗi đau đớn vì bị hành hạ mà người đàn ông đó phải chịu. Khi đó, tôi chưa biết về phong tục này của đạo Hồi. Những người bị coi là đem lại sự ô nhục cho xã hội hay cho lãnh tụ của mình sẽ bị trừng phạt bằng cách cắt mũi. Bằng cách đó, họ bị đánh dấu suốt đời- khuôn mặt của người đàn ông này rõ ràng đã chứng minh điều đó. Không chờ tôi đáp lại, ông ta lại tiếp tục: “Ông Perkins, tôi tin chắc ông đang thắc mắc vì sao chúng tôi mời ông đến đây. Ông thấy đây, kẻ luôn tự xưng mình là Vua của các vị Vua thực chất là một con quỷ Satăng. CIA của các ông đã phế truất cha ông ta, và dù rất ghét khi phải nói ra, nhưng việc này được thực hiện với sự giúp đỡ của tôi. Vì cha ông ta bị coi là đồng minh của phát xít. Và sau đó là thảm họa Mossadegh. Ngày nay, Quốc vương của chúng tôi còn vượt xa cả Hitle trong cái thế giới của quỷ dữ. Chính phủ các ông biết rõ ông ta làm những điều này và hoàn toàn ủng hộ”. “Tại sao lại như vậy?” tôi hỏi “Đơn giản thôi, ông ta thực sự là đồng minh duy nhất của các ông ở Trung Đông này. Mà thế giới công nghiệp lại đang quay quanh trục dầu lửa là Trung Đông. Tất nhiên các ông còn có đồng minh là Ixaren, nhưng thực chất đó là một món nợ chứ không phải là tài sản của các ông. Và ở Ixaren lại chẳng có dầu. Các chính trị gia nước ông sẽ phải xoa dịu các cử tri Do Thái, phải dùng tiền của họ để tài trợ cho các chiến dịch của mình. Vì thế, tôi e là với Ixaren, các ông đang bị mắc kẹt. Tuy nhiên, Iran chính là chìa khóa giúp các ông giải quyết vấn đề này. Những công ty dầu lửa của các ông- những công ty đang nắm giữ thậm chí nhiều quyền lực hơn cả người Do Thái- cần chúng tôi. Các ông cần, hoặc ít nhất là các ông nghĩ rằng mình cần Quốc vương. Giống như khi các ông nghĩ mình cần những nhà lãnh đạo tham nhũng”. “Phải chăng ngài muốn ngụ ý một điều gì khác? Liệu trường hợp Iran có giống như một vài nước không?” “Thậm chí còn có thể tồi tệ hơn thế nhiều. Ông thấy đấy, vị Quốc vương này sẽ không nắm quyền lâu nữa đâu. Cả thế giới Hồi giáo căm ghét ông ta. Không chỉ người Hồi giáo ở các nước Ả rập mà là ở khắp nơi- ở Inđônêxia, ở Mỹ, nhưng đa số vẫn là ngay ở đất nước này, từ chính những thần dân Ba Tư của ông ta”. Một tiếng động lớn chợt phát ra từ phía ông ta, và tôi nhận thấy ông vừa đập mạnh tay xuống thành ghế. “Ông ta là quỷ dữ. Người Ba Tư chúng tôi căm ghét ông ta”. Sau đó là sự im lặng, chỉ còn nghe thấy hơi thở nặng nhọc của tiến sỹ, hẳn là ông ta đã kiệt sức vì cố gắng quá mức. “Tiến sỹ rất gần gũi với các giáo sỹ Hồi giáo”. Yamin khẽ nói với tôi một cách bình tĩnh: “Ở đất nước này, có một thế giới ngầm khổng lồ đứng đằng sau các phe phái tôn giáo và nó có mặt ở hầu khắp đất nước, ngoại trừ một số ít người thuộc tầng lớp doanh nhân được hưởng lợi từ chế độ tư bản chủ nghĩa của Quốc vương”. “Tôi không nghi ngờ ông”, tôi nói, “nhưng tôi phải nói rằng qua bốn lần đến thăm đất nước này, tôi không hề nhận thấy những điều đó. Tất cả những người tôi từng trò chuyện đều bày tỏ lòng yêu kính đối với Quốc vương, và đánh giá cao sự tăng trưởng kinh tế của đất nước này”. “Đó là vì anh không nói tiếng Farsi”, Yamin nhận xét. “Anh chỉ nghe những điều đó từ những người vốn được lợi nhiều nhất từ chính sách của Quốc vương. Đó là những người được giáo dục ở Mỹ hoặc Anh rồi trở về làm việc cho Quốc vương. Đây, chính tiến sỹ là một ngoại lệ.” Yamin chợt ngừng lại, dường như để cân nhắc xem nên nói tiếp điều gì. Rồi ông tiếp tục : “Giới báo chí của các anh cũng vậy. Họ chỉ nói chuyện với một số ít những người họ hàng và thân cận thuộc phe của Quốc vương. Và tất nhiên, báo chí của anh đa phần cũng bị chi phối bởi dầu lửa. Vì thế họ chỉ nghe những gì họ muốn nghe và viết những gì mà những người đăng quảng cáo trên báo muốn đọc”. “Ông có biết vì sao chúng tôi nói những điều này với ông không, ông Perkins”, tiến sỹ lại lên tiếng, giọng nói thậm chí còn khàn hơn lúc trước. Hình như những nỗ lực để nói chuyện và bày tỏ cảm xúc đã làm cạn kiệt phần năng lượng nhỏ nhoi còn lại mà người đàn ông này cố dành cho buổi nói chuyện hôm đó. Tiến sỹ nói tiếp: “Bởi vì chúng tôi muốn thuyết phục ông rời khỏi đây cũng như thuyết phục công ty ông tránh xa đất nước chúng tôi. Chúng tôi muốn cảnh báo cho biết rằng mặc dù ông có thể nghĩ mình sẽ kiếm được một vụ làm ăn hời ở đất nước này, nhưng đó chỉ là ảo tưởng mà thôi. Chính phủ này không tồn tại lâu nữa đâu”. Và một lần nữa tôi lại nghe thấy tiếng tay đập mạnh xuống thành ghế. “Và một khi chính phủ này không còn, chính phủ khác sẽ không thông cảm với ông và những người giống như ông nữa đâu”. “Có phải ý ngài muốn nói chúng tôi sẽ chẳng có lợi gì ở đây phải không?” Tiến sỹ gục xuống vì một cơn ho. Yamin tiến về phía tiến sỹ và vỗ vỗ vào lưng ông ta để giúp ông ngừng cơn ho. Khi cơn ho đã qua, Yamin nói vài câu bằng tiếng Farsi rồi quay về ngồi xuống bên cạnh tôi. “Chúng ta phải kết thúc buổi nói chuyện tại đây”, Yamin nói với tôi, “và để trả lời cho câu hỏi của ông thì thưa vâng, các ông sẽ không có được gì ở đây đâu. Các ông đã làm việc rất vất vả, nhưng đến ngày hái quả, chính phủ của Quốc vương sẽ sụp đổ”. Trên đường trở về, tôi hỏi Yamin vì sao ông và tiến sỹ muốn giúp MAIN thoát khỏi thảm họa tài chính mà ông ta đã tiên đoán. “Chúng tôi rẩt muốn nhìn thấy công ty của anh bị phá sản. Tuy nhiên, chúng tôi thấy các anh rời khỏi Iran hơn. chỉ cần một công ty như công ty của anh ra đi sẽ có thể các công ty khác cũng ra đi theo. Đó là những gì chung tôi đang hy vọng. Anh thấy đây, chúng tôi không muốn nơi này biến thành một biển máu, nhưng Quốc vương phải ra đi và chúng tôi sẽ làm bất cứ việc gì để điều đó có thể xảy ra dễ dàng hơn. vì thế chúng tôi cầu thánh Allah rằng anh sẽ thuyết phục được ngài Zambotti đưa công ty ra khỏi đất nước này ngay khi còn có thể”. “Nhưng tại sao lại là tôi?” “Ngay từ khi chúng ta cùng ăn tối với nhau và nói chuyện về Dự án Sa mạc nở hoa, tôi đã biết anh là người sẵn lòng tiếp nhận sự thật. Tôi biết những thông tin mà chúng tôi có được về anh là chính xác- anh là nhân vật ở giữa hai thế giới, là người đứng giữa”. Câu nói của Yamin khiến tôi tự hỏi không hiểu anh ta thực sự biết những gì về tôi. Chương 20 Sự sụp đổ của một vị vua Một buổi tối năm 1978, khi đang ngồi một mình tại quầy bar sang trọng bên ngoài tiền sảnh Khách sạn InterContinent ở Têhêran, chợt ai đó vỗ vào vai tôi. Tôi quay lại. Trước mặt tôi là một người Iran to béo, mặc complet. “John Perkins! Không nhận ra tôi sao”. Chàng cựu cầu thủ bóng đá đã lên cân khá nhiều song giọng nói thì không lẫn vào đâu được. Đúng là Farhad, người bạn cũ của tôi ở Middlebury mà tôi đã không gặp hơn mười năm nay. Chúng tôi ôm lấy nhau, rồi cùng ngồi xuống trò chuyện. Tôi nhanh chóng nhận ra rằng Farhad biết tất cả mọi thứ về bản thân tôi và về công việc của tôi. Nhưng rõ ràng là anh không hề có ý muốn nói cho tôi biết về công việc của mình. Khi chúng tôi bắt đầu gọi đến lượt bia thứ hai, Farhad nói: “Thôi, đi thẳng vào vấn đề nhé. Ngày mai tôi sẽ bay sang Roma. Cha mẹ tôi đang sống ở đó. Tôi cũng đã mua vé cho anh đi cùng chuyến bay của tôi. Anh phải rời khỏi đây. Mọi thứ ở đây đang đảo lộn hết cả rồi.” Anh đưa tôi vé máy bay. Ngay lập tức, tôi tin anh. Đến Roma, chúng tôi ăn tối với cha mẹ của Farhad. Cha anh, một vị tướng Iran nay đã nghỉ hưu, đã từng đứng ra đỡ đạn cho Quốc vương khi ông ta bị ám sát. Nhưng giờ đây những ảo tưởng của ông về Quốc vương đã tan vỡ. Ông nói, những năm gần đây, Quốc vương đã bộc lộ rõ bản chất của mình, lộ rõ sự ngạo mạn và tham lam của ông ta. Vị tướng già lên án, chích sách của Mỹ- mà cụ thể là chính sách ủng hộ Ixaren, hậu thuẫn cho các nhà lãnh đạo tham nhũng và chính phủ chuyên quyền bạo ngược- đã làm dấy lên sự căm thù, oán hận ở khắp Trung Đông. Ông tiên đóan, Quốc vương sẽ sụp đổ chỉ trong vòng vài tháng tới. Ông nói: “Anh biết đấy, chính các anh đã gieo những mầm mống nổi nổi loạn từ đầu những năm 50 khi lật đổ Mossadegh. Hồi đó các anh nghĩ đó là một cách khôn ngoan, và tôi cũng vậy. Nhưng giờ đây, các anh và cả chúng tôi nữa đang phải gặt lấy những gì mà các anh đã từng gieo.” (1) Tôi sững sờ trước lời tuyên bố của vị tướng già. Tôi đã từng nghe Yamin và tiến sỹ nói đến những điều này, nhưng khi những lời đó do chính vị tướng già này nói ra thì nó mang một ý nghĩa khác hẳn. Tính đến khi đó, tất cả mọi người đều biết đến sự tồn tại một thế giới ngầm của những người Hồi giáo cực đoan, nhưng chúng tôi tự thuyết phục mình rằng Quốc vương được đa số người dân yêu mến và vì thế ông ta có ảnh hưởng hơn bất cứ ai về mặt chính trị. Tuy nhiên, vị tướng già, cha của Farhad rất kiên quyết: “Hãy ghi nhớ những gì tôi nói”, ông trịnh trọng tuyên bố, “sự sụp đổ của Quốc vương chỉ là sự khởi đầu. Nó báo trước cho chúng ta biết thế giới Hồi giáo sẽ đi tới đâu trong tương lai. Sự phẫn nộ của chúng tôi đã được nung nấu quá lâu dưới lớp cát kia. Sớm muộn gì, cơn giận dữ đó cũng sẽ bùng lên”. Trong suốt bữa tối, tôi được nghe rất nhiều về Ayatollah Ruhollah Khomeini. Cả Farhad và cha anh đều không tán thành chủ nghĩa Shiite cuồng tín của Khomeini nhưng rõ ràng là họ đánh giá rất cao những gì Khomeini đã làm để chống lại Quốc vương- hai cha con Farhad cho tôi biết Khomeini là một giáo sỹ, sinh năm 1902 trong một gia đình trung thành với trường phái Shiite ở một ngôi làng gần Têhêran, và Khomeini có nghĩa là “Được Chúa Trời tạo ra” Khomeini đã quyết định không tham gia vào những cuộc chiến giữa Quốc vương và Mossadegh vào đầu những năm 50, song đến thập kỷ 60, ông ta lại tích cực phản đối Quốc vương và chỉ trích nhà cầm quyền gay gắt đến mức ông ta bị trục xuất sang Thổ Nhĩ Kỳ, sau đó là đến thánh địa của người Shiite ở An Najaf, Iraq. Ở đây, ông ta trở thành người lãnh đạo nổi tiếng của phe đối lập. Ông liên tục viết những lá thư, bài báo, truyền thông điệp qua băng ghi âm nhằm kích động người Iran đứng lên lật đổ Quốc vương và thành lập một nhà nước của các giáo sỹ. Hai ngày sau bữa tối của tôi với cha con Farhad, tôi được tin về những vụ đánh bom và nổi dậy ở Iran. Ayatollah Khomeini và các giáo sỹ bắt đầu tấn công và nhanh chóng giành quyền kiếm soát. Sau đó, mọi thứ diễn ra rất nhanh. Cơn thịnh nộ mà cha Farhad nhắc tới đã bùng nổ thành một cuộc nổi dậy đầy bạo lực của người Hồi giáo. Quốc vương phải bỏ chạy sang Ai Cập vào tháng 1 năm 1979, và sau đó, được chuẩn đoán là bị mắc bệnh ung thư, và ông ta đã đến New York chữa trị. Những người theo Ayatollah Khomeini đòi Quốc vương quay trở lại Iran. Tháng 11 năm1979, một nhóm sỹ quan Hồi giáo đã chiếm giữ Đại sứ quán Mỹ tại Têhêran, bắt 22 người Mỹ làm con tim trong 444 ngày.2 Tổng thống Carter đã rất nỗ lực đàm phán để giải cứu cho các con tin này. Khi các nỗ lực đàm phán không mang lại kết quả, tháng 4 năm 1980, Tổng thống đã hạ lệnh cho quân đội tấn công giải cứu con tin. Sự kiến này đã trở thành một thảm họa, và được ví như chiếc đinh cuối cùng đóng lên chiếc quan tài chôn vui chức tổng thổng của Carter. Trước sức ép rất lớn từ các nhóm chính trị và thương mại Mỹ, Quốc vương vốn đang mang trong mình căn bệnh ung thư đã buộc phải rời khỏi nước Mỹ. Khi về đến Têhêran, ông ta chẳng tìm được chỗ nào để ẩn náu; tất cả bạn bè cũ đều xa lánh ông ta. Song, Tướng Torrijos, với lòng nhân ái vốn có đã cho phép Quốc vương tị nạn chính trị ở Panama dù bản thân ông không ưa gì quan điểm chính trị của Quốc vương. Nơi trú ẩn cuối cùng của Quốc vương lại chính là nơi mà gần đây diễn ra các cuộc đàm phán về Hiệp ước Kênh đào Panama mới. Các giáo sỹ yêu cầu trao đổi Quốc vương với các con tin trong Đại sứ quán Mỹ tại Têhêran. Những người trước đây phản đối việc ký kết Hiệp ước nói trên đã buộc tội Tướng Torrijos là tham nhũng và câu kết với Quốc vương, đe dọa tính mạng các công dân Mỹ. Họ đòi phải giao nộp Quốc vương cho Ayatollah Khomeini. Điều nực cười là, chỉ vài tuần trước đó, nhiều người trong số họ còn là những kẻ ủng hộ Quốc vương trung thành nhất. Vua của các vị Vua lừng lẫy một thời,