🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lối Mòn Của Tư Duy Cảm Tính Ebooks Nhóm Zalo Mục lục Các Cung Bậc Tâm Lý DẪN ĐẾN TƯ DUY CẢM TÍNH Chương 1 NGUYÊN NHÂN CỦA MỘT TAI NẠN Chương 2 SA LẦY TRONG Ý THỨC TRÁCH NHIỆM Chương 3 NGƯỜI LÙN HOBBIT VÀ MẮT XÍCH CÒN KHUYẾT Chương 4 MICHAEL JORDAN VÀ LỐI PHỎNG VẤN “LẦN ĐẦU” Chương 5 CHỨNG RỐI LOẠN LƯỠNG CỰC và HIỆU ỨNG TẮC KÈ HOA Chương 6 Ở PHÁP, MẶT TRỜI QUAY QUANH TRÁI ĐẤT Chương 7 KHOẢN ĐỀN BÙ và CHẤT KÍCH THÍCH Chương 8 LẼ PHẢI KHÁC BIỆT LỜI KẾT Thông tin LỐI MÒN CỦA TƯ DUY CẢM TÍNH Tác giả: Ori Brafman and Rom Brafman EbooK: Cuibap Nguồn: alezaa Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Các Cung Bậc Tâm Lý DẪN ĐẾN TƯ DUY CẢM TÍNH Trong giai đoạn anh em tôi đang dần trưởng thành, mẹ thường nói về hai hình mẫu mà bà mong muốn chúng tôi sẽ cố gắng noi gương. Hình mẫu thứ nhất là Laura Ingalls, tác giả của tác phẩm Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên. Trong suy nghĩ của mẹ, Laura là kiểu mẫu của một người hoàn hảo. Những khi chúng tôi cãi lời mẹ, bà lại nghiêm nghị bảo: “Laura Ingalls có bao giờ ăn nói như các con không?”. Những lúc chúng tôi quên làm bài tập về nhà, để chén bát dơ bừa bãi trong bồn rửa hoặc nói chung là gây chuyện rắc rối, thì lập tức Laura Ingalls từ vùng thảo nguyên của nước Mỹ vào thế kỷ mười chín sẽ xuất hiện tại Tel Aviv đang trong thập niên 1980 để nhắc nhở chúng tôi. Hình mẫu thứ hai của mẹ là Reli – một người bà con của gia đình chúng tôi. Reli là một Luật sư nổi tiếng, là cựu sinh viên Trường luật Harvard từng đại diện cho sinh viên đọc diễn văn trong lễ tốt nghiệp. Trong mắt bọn trẻ chúng tôi khi ấy thì Reli là người thực sự có khả năng làm nên những điều phi thường. Mặc dù Ori từng có ý định theo học trường luật hồi năm lớp mười một, nhưng cuối cùng không ai trong chúng tôi theo đuổi ngành luật như hình mẫu mẹ đã gợi ý cả. Tuy vậy, bây giờ nếu tính luôn vai trò của Reli thì chúng tôi đã tạo thành một bộ ba lý tưởng trong mắt người mẹ Do Thái của mình: Reli – luật sư, Rom – nhà tâm lý học (chúng tôi sẽ gọi anh ấy là tiến sĩ), và Ori – doanh nhân. Lối mòn của tư duy cảm tính ra đời từ những hướng đi riêng mà chúng tôi đã chọn lựa cho mình trong cuộc sống. Trong lúc Rom thực hiện luận án tiến sĩ tâm lý học thì Ori đang mải mê theo đuổi chương trình MBA của mình. Một ngày kia khi Ori đang học ở trường thương mại, với tham vọng chính mình có thể chinh phục được đại dương tri thức, đào sâu nghiên cứu ở lĩnh vực tài chính, kinh tế học và kế toán, Ori đã nhận ra rằng không có mặt biển nào là không dậy sóng. Đó cũng là buổi học đầu tiên của anh với Giáo sư Roberto Fernandez. Giáo sư Fernandez có giọng nói rất lớn và vang, tưởng như ở tận mặt trăng vẫn còn nghe rõ. Phong thái ông đĩnh đạc và oai nghiêm đến nỗi bạn chỉ biết ngồi lặng yên nghe giảng. Ngay trong buổi học đầu tiên, giáo sư Fernandez nói với các học viên MBA của mình: “Tôi có một thông tin dành cho các anh chị. Rằng con người ta không phải lúc nào cũng duy lý!”. Cùng với lời tuyên bố đó, Fernandez giới thiệu một đoạn phim cũ ra đời từ thập niên 1950 ghi lại diễn biến của một ca phẫu thuật tim hở. “Mọi người có trông thấy chất dịch trắng mà các bác sĩ truyền vào tim bệnh nhân không?” Fernandez giải thích: “Đó chính là amiăng, một hóa chất độc hại có tác động xấu đến sức khỏe con người”. Cả lớp đã há hốc mồm ngạc nhiên và không biết phải phản ứng như thế nào. Giáo sư đanh giọng: “Tôi nói nghiêm túc đấy. Đương nhiên là những bệnh nhân hấp thụ amiăng vào cơ thể sẽ dần đi đến tử vong”. Vậy mà các bác sĩ vẫn cứ tiếp tục quy trình điều trị này. Giáo sư Fernandez hỏi cả lớp: “Tôi hỏi các anh chị, trong cuộc sống, chúng ta đã bỏ qua những thông tin mang tính khách quan như thế này bao nhiêu lần rồi?”. Rồi giáo sư lại giới thiệu cho cả lớp xem một bảng dữ liệu kỹ thuật của vòng đệm cao su nhân tạo O-ring. Ông nói: “Hãy nhìn biểu đồ này. Nó cho ta thấy một vật bị biến dạng thế nào khi nhiệt độ thay đổi”. Dữ liệu này cho biết rằng ở vào khoảng 32 độ F, vòng đệm O-ring sẽ mất đi tính đàn hồi và bị trục trặc. Không ai trong số các sinh viên lúc ấy biết được điều gì sẽ xảy ra trong trường hợp đó. Vòng đệm O-ring mà giáo sư đang nói đến đã xuất hiện trong thiết kế của phi thuyền con thoi Challenger. Đêm trước ngày phóng phi thuyền, các kỹ sư ở công ty chế tạo các vòng đệm O ring đã cảnh báo rằng nên hoãn sự kiện này lại vì họ chưa chứng minh được liệu các vòng đệm có khả năng duy trì tốt tính năng của chúng trong thời tiết lạnh sẽ xảy ra vào ngày hôm sau theo dự báo hay không. Tuy nhiên, bất chấp những mối lo ngại này, ban điều hành vẫn quyết định tiếp tục thực hiện việc phóng phi thuyền. Cuối cùng, thảm họa đã xảy ra khi phi thuyền nổ tung sau 73 giây phóng khỏi mặt đất. Trong lúc cả lớp của Ori mải mê lắng nghe bài giảng hấp dẫn, giáo sư Fernandez tiếp tục đưa ra những ví dụ liên quan đến hành vi cảm tính của con người: chẳng hạn như việc các nhà làm phim ra sức tìm kiếm những diễn viên cho vai diễn mà họ biết rõ là không hợp, hay một nhà sản xuất vẫn tiếp tục tung ra các sản phẩm mà họ biết chắc là nó có khả năng gây cháy nổ v.v. Quan điểm Giáo sư Fernandez đưa ra chính là mặc dù đa phần chúng ta đều cho rằng mình duy lý, nhưng thực ra chúng ta lại có xu hướng sa vào lối tư duy cảm tính rất nhiều. Đây chính là quan điểm đã khiến Ori còn băn khoăn mãi sau khi đã hoàn thành chương trình học, và nó cũng giúp chúng tôi nhận ra rằng nghề nghiệp tương lai của chúng tôi có nhiều điểm tương đồng hơn chúng tôi từng nghĩ. Chúng tôi nhắc đến Giáo sư Fernandez nhiều hơn, tên ông trở thành một tính từ trong ngôn ngữ của chúng tôi. Mỗi khi muốn ám chỉ rằng ai đó đang suy nghĩ cảm tính, chúng tôi lại nói: “Đây rõ ràng là một tình huống rất Fernandez!”. Và chúng tôi đã nhận ra những tình huống tương tự ở khắp mọi nơi, trong cuộc sống của chính chúng tôi, trong những câu chuyện chúng tôi đọc được về những bước đi sai lầm của các tập đoàn kinh tế hàng đầu nước Mỹ (Fortune 500), và ngay cả trong hành động của các chính trị gia. Mặc dù chúng tôi không chủ ý sống theo chuẩn mực của Laura Ingalls, nhưng rõ ràng cuộc đời đã đưa đẩy và thật kỳ lạ là cuối cùng cả hai chúng tôi đều đã trở thành những người cầm bút. Và cuốn sách mà bạn đang cầm trên tay đã ra đời từ cuộc trò chuyện sau bữa ăn tối của Ori với một bác sĩ sản khoa có thâm niên ba mươi năm trong nghề. Bác sĩ Jenkins là người sở hữu những tố chất cần thiết ở một bác sĩ sản khoa – kiên nhẫn, biết lắng nghe, nhanh nhạy, và đặc biệt ông có nhiều kinh nghiệm. Bạn hoàn toàn có thể tin rằng ông sẽ luôn có những quyết định đúng đắn. Cuộc trò chuyện lúc ấy chuyển hướng sang đề tài tâm lý đám đông và vai trò của cảm xúc trong việc đưa ra quyết định. Không chút suy nghĩ, Ori nói: - Tôi chắc rằng đối với những nhà khoa học chuyên môn như ngài thì mọi thứ sẽ khác hẳn! Gương mặt của bác sĩ lộ vẻ nghiêm nghị khi ông giải thích rằng các bác sĩ cũng có khi không tránh được lối mòn của tư duy cảm tính. Nhưng bởi vì cuộc sống vẫn tiếp diễn, nên những tác động tiêu cực ấy có thể bị bẻ gãy. Chúng tôi đề cập đến trường hợp của bác sĩ cấp cứu Brian Hastings. Đó là sự cố đã xảy ra vì tác động tiêu cực của tư duy cảm tính, điều vẫn có thể xảy ra với cả những bác sĩ dày dạn kinh nghiệm nhất. Vài tuần trước, một phụ nữ đến phòng cấp cứu của bệnh viện trong tâm trạng rất hốt hoảng và lo lắng. Đứa con gái hai tuổi Amy của cô đang phải chịu đựng những cơn đau dạ dày dữ dội. Thông thường các cơn đau vùng bụng là dấu hiệu cho thấy những bất ổn của hệ tiêu hóa, nhưng người phụ nữ này còn lo lắng rằng đấy có thể là triệu chứng báo trước của một bệnh lý nào đó nghiêm trọng hơn. Trong trường hợp như vậy, các bác sĩ sẽ phải tiến hành thực hiện một số kiểm tra và hội chẩn về triệu chứng của Amy. Bác sĩ Hastings đã nhanh chóng liệt kê một loạt những việc mà các bác sĩ cấp cứu cần phải thực hiện. Tuy nhiên, thay vì tập trung khám bệnh cho Amy, các bác sĩ lại chú ý đến người mẹ nhiều hơn bởi cô ấy đang ở trong tâm trạng hoảng hốt, hoang mang và bộc lộ quá nhiều lo lắng. Ai cũng hiểu cô ấy thuộc kiểu phụ huynh phản ứng quá mạnh khi phải đối mặt với vấn đề của con cái, thế nên vô tình các bác sĩ cho rằng tình trạng của Amy không có gì nguy cấp và cho cô bé về nhà. Ngày hôm sau, Amy cùng mẹ quay lại phòng cấp cứu. Các bác sĩ luôn biết rằng khi chữa trị cho trẻ em thì điều cần thiết và quan trọng là phải lắng nghe bố mẹ chúng - những người vốn luôn ở bên cạnh và đặc biệt nhạy cảm với những bất thường xảy ra với con cái họ. Nhưng cũng trong thời khắc quan trọng ấy, các bác sĩ lại có đầy đủ bằng chứng và kinh nghiệm để nhận định rằng mẹ của Amy đang phản ứng thái quá: cô ấy quay lại bệnh viện lần thứ hai và có các dấu hiệu của một người mắc chứng nghi bệnh, luôn lo lắng không cần thiết. Thế là một lần nữa, các bác sĩ lại cho Amy về nhà mà không hề tiến hành bất cứ xét nghiệm, chẩn đoán nào. Ngày thứ ba, điều tương tự lại diễn ra. Amy lại được mẹ đưa đến bệnh viện, và chính phản ứng của mẹ Amy càng khiến các bác sĩ tin chắc rằng người mẹ đang phản ứng thái quá về bệnh tình của con. Cho đến khi bé Amy bị ngất đi thì các bác sĩ mới nhận ra sai lầm nghiêm trọng của họ. Nhưng tất cả đã quá muộn. Bác sĩ Hastings lắc đầu hối tiếc: “Chúng ta đã để mất cô bé!”. Rõ ràng là nếu nhận định về tình huống của Amy cẩn trọng hơn, nhóm bác sĩ cấp cứu có thể đã nhận thấy rằng Amy rất cần được theo dõi và chăm sóc. Thế mà họ đã bỏ qua những triệu chứng bệnh lý và liên tục từ chối cho Amy nhập viện. Chính ngay lúc các bác sĩ gán cho mẹ Amy chứng nghi bệnh, họ đã hoàn toàn sa vào lối mòn của tư duy cảm tính mà chúng tôi gọi là hiện tượng sai lệch chẩn đoán. Nói cách khác, đó là tình huống khi chúng ta phán xét một con người, một sự việc nào đó mà không thèm quan tâm hay chú ý gì đến những yếu tố khác biệt với nhận định vốn có của mình. Khi ấy, trong chúng tôi xuất hiện mối băn khoăn rằng vì sao các bác sĩ tài năng và nhiều kinh nghiệm này lại đưa ra một quyết định nhất thời hoàn toàn phủ nhận quá trình rèn luyện trước đó của họ, đến mức phải trả giá bằng sinh mạng của một đứa trẻ? Và phải chăng chúng ta cần phải hiểu được điều gì đã diễn ra trong tình huống này và rất nhiều tình huống khác tương tự, khi mà con người bị chính lối suy nghĩ cảm tính của mình chi phối? Những tác động tâm lý nào dẫn đến hành vi cảm tính của chúng ta? Những tác động này đã chi phối chúng ta bằng cách nào? Khi nào chúng ta dễ bị tác động nhất? Và chúng tác động vào công việc của mỗi người ra sao? Chúng ảnh hưởng đến việc định hình chiến lược kinh doanh và các mối quan hệ cá nhân của chúng ta như thế nào? Khi nào thì tác động tiêu cực của chúng dẫn đến những rủi ro trong các vấn đề tài chính, và thậm chí là cuộc sống của chúng ta? Và vì sao chúng ta không thể tự mình nhận ra khi sa vào lối mòn của tư duy cảm tính? Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ cùng nhau khám phá rất nhiều cung bậc tâm lý dẫn đến suy nghĩ và hành vi cảm tính. Ở bất kỳ nơi đâu – không phân biệt chủng tộc, quốc gia và nền văn hóa - chúng ta đều nhận thấy có những người khác nhau bị chi phối bởi lối nghĩ cảm tính theo những cách tương tự nhau. Thực tế, tất cả chúng ta đều có xu hướng bị tư duy cảm tính chi phối. Nhưng bằng cách thông hiểu những tác động tâm lý dẫn đến tư duy cảm tính, chúng ta sẽ tránh được nguy cơ tự biến mình thành nạn nhân của chính mình trong tương lai. Chương 1 NGUYÊN NHÂN CỦA MỘT TAI NẠN Hành khách trên chuyến bay KLM 4805 không biết rằng họ đang bay cùng với một trong những phi công dày dạn kinh nghiệm và được huấn luyện bài bản nhất thế giới. Cơ trưởng Jacob Van Zanten không chỉ lái máy bay điêu luyện mà còn là người cẩn trọng, có khả năng bao quát mọi việc, nghiêm túc trong công việc, và nhờ bảng thành tích đáng nể của mình mà ông đã trở thành ứng viên thích hợp nhất cho vai trò người phụ trách chương trình huấn luyện an toàn bay của KLM (Hãng hàng không Hoàng gia Hà Lan). Chính vì vậy KLM luôn trân trọng và hào hứng khi nhắc đến Van Zanten. Bức ảnh quảng cáo khắc họa nụ cười của Van Zanten trên một tạp chí đã nói lên thông điệp của hãng: “KLM – không bao giờ chậm trễ”. Ngay cả những phi công dày dạn, những người thuộc dạng vững vàng tâm lý nhất, cũng kính trọng Van Zanten và xem ông như hình mẫu của một phi công tài giỏi. Ngồi trong khoang lái chiếc máy bay 747 khởi hành từ Amsterdam đến sân bay Las Palmas thuộc đảo Canary, hẳn là Van Zanten đang cảm thấy rất tự hào. Chuyến bay hôm nay vận hành theo đúng lịch trình đã được vạch sẵn, mọi việc đang diễn ra hoàn hảo như phong cách vốn có của cơ trưởng Van Zanten. Theo lịch trình, chuyến bay sẽ quá cảnh ở Las Palmas để tiếp nhiên liệu và đón một đoàn khách mới quay về Hà Lan. Nhưng bất ngờ, Van Zanten nhận được thông báo khẩn từ đài kiểm soát không lưu. Một quả bom khủng bố đã phát nổ tại tiệm hoa ở sân bay Las Palmas và gây ra tình trạng hỗn loạn nghiêm trọng. Chính vì vậy, sân bay này đang tạm thời bị phong tỏa cho đến khi có thông báo mới. Cơ trưởng biết rằng đối với những tình huống như thế này thì điều quan trọng là phải giữ được bình tĩnh và cẩn trọng trong từng hành động. Ông đã trải qua nhiều đợt tập huấn để chuẩn bị cho những tình huống tương tự thế này. Thực tế, chính Van Zanten vừa điều hành một khóa huấn luyện an toàn bay kéo dài sáu tháng nhằm giải quyết những tình huống khẩn cấp như trường hợp đang xảy ra. Cơ trưởng chấp hành đúng quy định và cho máy bay hạ cánh xuống đảo Tenerife, nằm cách điểm đến dự kiến năm mươi hải lý. Khi ấy là một giờ mười phút chiều. Lúc này còn có một số máy bay khác cũng phải thay đổi lịch trình giống như máy bay của Van Zanten. Chẳng cần phải là một phi công dày dạn kinh nghiệm thì bạn cũng có thể nhận ra Tenerife không như sân bay quốc tế John F. Kennedy (JFK). Tenerife chỉ là một sân bay nhỏ với một đường băng đơn và được xây dựng không nhằm phục vụ các máy bay phản lực lớn. Sau khi đã hạ cánh an toàn xuống đường băng, cơ trưởng kiểm tra đồng hồ và bất chợt lo lắng vì nghĩ đến những quy định bắt buộc đối với thời gian nghỉ đáp bởi chính phủ Hà Lan vừa ban hành một đạo luật vừa phức tạp vừa nghiêm ngặt đối với mọi phi công liên quan đến vấn đề này. Sau khi liên lạc về trung tâm và bằng một vài phép tính toán nhanh chóng, Van Zanten xác định muộn nhất thì ông cũng phải cho máy bay cất cánh trở lại lúc sáu giờ rưỡi tối, bởi điều khiển máy bay ngay sau khi thời gian nghỉ đáp bắt buộc bắt đầu không chỉ trái luật mà còn có thể bị truy tố và phải chịu án tù. Tuy nhiên, nếu chấp nhận thời gian nghỉ đáp bắt buộc thì cũng có thể làm nảy sinh nhiều điều rắc rối khác. Sân bay Tenerife không hề có phi hành đoàn để phục vụ thay thế. Rồi hàng trăm hành khách có thể sẽ phải mắc kẹt qua đêm ở đây. Nếu vậy thì có nghĩa là hãng hàng không phải tìm nơi cho các hành khách nghỉ ngơi, mà e rằng một đảo nhỏ như Tenerife sẽ không có đủ phòng cho tất cả hành khách. Mặt khác, việc hoãn chuyến bay ở đây có thể dẫn đến việc ngưng trệ hàng loạt chuyến bay khác của KLM. Một chút xáo trộn tưởng chừng rất nhỏ lại có thể dễ dàng trở thành điềm báo cho một cơn ác mộng. Sự lo lắng và căng thẳng của Van Zanten cũng như lý do vì sao ông muốn tiết kiệm thời gian là điều vô cùng dễ hiểu. Tình huống này cũng tương tự như khi bạn phải chịu chôn chân ở một ngã tư đèn đỏ trong lúc đang trễ giờ một cuộc họp quan trọng. Bạn cố gắng giữ bình tĩnh, bạn biết rằng danh tiếng của mình đang có nguy cơ bị sứt mẻ. Vậy nên có thể bạn sẽ trở nên mất phương hướng, nhưng xét cho cùng thì bạn không thể làm gì được trong những tình huống như vậy. Nhưng có một điều Van Zanten có thể làm được: ông quyết định giữ hành khách lại trên máy bay để khi lệnh phong tỏa Las Palmas được bãi bỏ thì ông sẽ lập tức cho máy bay cất cánh. Tuy nhiên, nhân viên đài kiểm soát không lưu tại Tenerife lại không bận tâm đến những điều đó. Đây chỉ là một sân bay nhỏ trên một hòn đảo nhiệt đới và đang bị quá tải vì có rất nhiều máy bay dân dụng từ nhiều nơi trên thế giới tạm hạ cánh do vụ hỗn loạn xảy ra ở Las Palmas. Đài kiểm soát không chỉ đang trong tình trạng thiếu nhân lực mà các nhân viên cũng lề mề trong việc điều phối và sắp xếp các máy bay bởi thực tế họ đang bận theo dõi một trận đá banh qua hệ thống radio. Hai mươi phút sau khi hạ cánh, Van Zanten nhận được thông báo từ đài kiểm soát rằng ông nên cho các hành khách tạm nghỉ ngơi: điều này cũng có nghĩa là họ có thể phải ở lại đây trong một khoảng thời gian. Từ thời điểm đó trở đi, mọi việc ở Tenerife cứ diễn ra một cách chậm chạp. Hai mươi phút, rồi một giờ trôi qua. Cơ trưởng cố gắng tranh thủ từng phút để suy nghĩ phương cách rút ngắn thời gian chuyến bay bị trì hoãn. Van Zanten cùng phi hành đoàn của mình lên kế hoạch. Ông liên lạc với trung tâm của KLM để tính toán chính xác khoảng thời gian ông có được trước khi bị tính giờ nghỉ đáp bắt buộc tại Tenerife. Một giờ, rồi hai giờ trôi qua và cơ trưởng nảy ra một ý tưởng khác. Ông quyết định cho tiếp nhiên liệu ngay tại Tenerife để có thể tiết kiệm nửa giờ khi hạ cánh ở Las Palmas. Nhưng ý tưởng nhằm tiết kiệm thời gian này lại không mang lại kết quả như mong đợi. Ngay khi Van Zanten bắt đầu quy trình tiếp nhiên liệu cho máy bay thì ông nhận được thông tin từ Las Palmas rằng mọi hoạt động tại sân bay đã được khôi phục. Nhưng lúc ấy đã quá trễ; không thể cho dừng quy trình tiếp nhiên liệu kéo dài đến ba mươi lăm phút. Ngay khi máy bay đã sẵn sàng cất cánh trở lại thì một màn sương mù dày đặc đột ngột xuất hiện và che phủ dần đường băng. Quyết định cho tiếp nhiên liệu sai lầm vừa rồi lại càng thôi thúc cơ trưởng phải nhanh chóng đưa máy bay rời khỏi đường băng. Sương mù mỗi lúc một dày lên nhanh chóng, tầm nhìn chỉ còn trong giới hạn 300 mét, hạn chế đến mức mà từ buồng lái nhìn ra, cơ trưởng không thể nào quan sát được điểm cuối của đường băng. Van Zanten biết rằng cứ mỗi phút giây lớp sương dày thêm thì trạm kiểm soát Tenerife sẽ càng có khả năng phong tỏa đường băng. Ông nhận thấy cơ hội rời khỏi Tenerife để không phải hoãn chuyến bay ở đây qua đêm đang tắt dần. Bây giờ hoặc không bao giờ – đã đến lúc phải quyết định. Nhưng những điều cơ trưởng thực hiện ngay sau đấy lại hoàn toàn không phải là điều mà một phi công dày dạn kinh nghiệm nên làm. Van Zanten khởi động động cơ và chiếc máy bay xuất phát, lảo đảo trên đường băng. - Đợi đã! – Phi công phụ lái của Van Zanten nói với vẻ bối rối. – Chúng ta chưa nhận được lệnh từ đài kiểm soát không lưu. - Tôi biết! Anh gọi cho họ đi! – Cơ trưởng trả lời. Viên phi công trợ lái liên lạc qua radio và nhận được lệnh tiếp nhận đường băng, kế hoạch cất cánh của họ đã được chấp thuận. Thế nhưng, đài kiểm soát không lưu chưa phát lệnh cất cánh. Tuy vậy, Van Zanten vẫn quyết tâm cho máy bay cất cánh. Ông đẩy tốc độ lên hết mức và máy bay rít lên trên đường băng mù sương. Chiếc máy bay phản lực đang đạt đến đà để cất cánh thì thình lình, Van Zanten nhận ra một cảnh tượng hãi hùng ngay trước mắt mình: một chiếc 747 của hãng hàng không Pan Am của Mỹ đang nằm chắn ngang đường băng, còn Van Zanten thì đang lao hết tốc lực về phía trước. Vì chiếc máy bay của KLM đã tăng hết tốc lực chuẩn bị rời khỏi đường băng nên nó không còn khả năng dừng lại. Mọi chuyện đã quá muộn. Nó lao thẳng vào khu vực ngay sau buồng lái của chiếc Pan Am. Một tiếng nổ đinh tai phát ra và kèm sau đó là xuất hiện một quả cầu lửa. Van Zanten cùng phi hành đoàn và toàn thể hành khách trên chuyến bay xấu số ấy đều tử nạn. Theo thống kê, 584 người đã thiệt mạng trong vụ tai nạn thảm khốc ngày hôm đó trên cả hai máy bay. Vụ tai nạn quá nghiêm trọng xảy ra ngay trước khi các máy bay cất cánh đã khiến những người làm trong ngành hàng không bị sốc. Đây được xem là vụ va chạm máy bay kinh hoàng nhất trong lịch sử của ngành. Một nhóm chuyên gia quốc tế đã được cử đến sân bay Tenerife để điều tra vụ việc. Họ kiểm tra tất cả những dấu vết còn sót lại, phỏng vấn các nhân chứng và nghiên cứu kỹ lưỡng hộp đen của các máy bay nhằm xác định nguyên nhân của vụ tai nạn. Nhóm chuyên gia nhanh chóng loại bỏ nguyên nhân do trục trặc kỹ thuật hay khủng bố. Nối kết các sự kiện xảy ra ngày hôm đó, người ta phát hiện ra chiếc máy bay Pan Am 1736 đã không hạ cánh đúng vị trí và vô tình nằm chắn ngang trên đường băng. Thêm nữa, chính sương mù xuất hiện dày đặc đã góp phần dẫn đến thảm họa này. Van Zanten không thể nhìn thấy chiếc Pan Am 1736, phi công của chiếc Pan Am cũng không nhìn thấy ông, còn nhóm nhân viên tháp điều khiển thì không thể quan sát được cả hai. Nhưng trên hết, nguyên nhân là do tháp điều khiển vốn thiếu nhân lực, còn các nhân viên có mặt thì lại xao nhãng vì các sự kiện diễn ra trong ngày. Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta bỏ qua tất cả các yếu tố trên thì thảm họa đáng lẽ đã có thể không xảy ra nếu như Van Zanten không liều lĩnh cất cánh khi chưa nhận được đầy đủ các hiệu lệnh hướng dẫn bay từ tháp điều khiển. Tại sao một phi công dày dạn kinh nghiệm - người được xem là chuyên gia an toàn của hãng hàng không - lại có thể đưa ra những quyết định hấp tấp và thiếu trách nhiệm đến vậy? Lời giải thích hợp lý nhất mà các chuyên gia có thể đưa ra chính là do Van Zanten đã cảm thấy quá thất vọng và ức chế. Nhưng đấy dĩ nhiên cũng không phải là lý do duy nhất dẫn đến hậu quả khủng khiếp này. Cảm giác ức chế là một chuyện, còn việc không tuân thủ quy trình và coi nhẹ các quy định an toàn thì rõ ràng là một sai phạm nghiêm trọng. Một điều không thể phủ nhận là Van Zanten có rất nhiều kinh nghiệm trong nghề, và hiển nhiên trước đó ông đã luôn làm tốt công việc của mình. Nhưng tại sao lần này ông lại dễ dàng bỏ qua các quy định an toàn và cả kinh nghiệm tích lũy lâu năm của chính mình trước một tình huống phức tạp đến như vậy? Các chuyên gia ngành hàng không cố gắng tìm mọi cách để lý giải thấu đáo vụ việc. Nhưng vẫn còn một bí ẩn không thể giải mã được tồn tại ở Tenerife. Cùng với nguyên nhân xuất hiện màn sương mù dày đặc và khu vực đường băng bị cản trở là sự hiện hữu của một tác động tâm lý đã điều khiển Van Zanten, khiến ông hành động không theo các quy chuẩn thông thường và phạm sai lầm. Một cuộc nghiên cứu đã khám phá ra rằng hành vi và việc ra quyết định của chúng ta bị một tác động tâm lý ngầm chi phối. Tác động này có sức mạnh và khả năng lan truyền mạnh mẽ hơn mức chúng ta có thể nhận ra. Một thông tin thú vị về tác động này chính là: cũng giống như các dòng suối, chúng hội tụ vào nhau để phát huy sức mạnh cao hơn. Khi lần theo các dòng chảy này, chúng ta sẽ phát hiện ra những nhánh nối kết bất ngờ giữa các chuỗi sự kiện: những hành động của một nhà đầu tư giúp chúng ta hiểu rõ hơn vai trò và sức mạnh của các quyết định then chốt; cách các sinh viên xếp hàng mua vé vào rạp hát có thể giải thích những tranh cãi quyết liệt của các nhà khảo cổ về sự phát triển của loài người; cách thức lựa chọn cầu thủ cho giải đấu hàng năm của Liên đoàn bóng rổ quốc gia Mỹ lại cho thấy sai lầm tai hại trong quy trình phỏng vấn tuyển dụng thông thường; việc phụ nữ tán gẫu qua điện thoại giải thích vì sao một cây cầu lắc lư có thể là một loại thuốc kích thích hiệu quả. Qua những nghiên cứu về các tác động tâm lý cùng hệ quả của chúng, ta có thể nhận ra các tác động này có thể mạnh đến mức nào và bằng cách nào chúng giúp ta nhận ra được một số bí ẩn phức tạp của loài người. Những tác động tiềm ẩn này bao gồm tâm lý lo sợ bị thiệt hại (xu hướng thoái lui để tránh tổn thất và mất mát có thể xảy ra), tâm lý quy kết giá trị (tâm lý phán xét một người, một sự việc dựa vào một vài đặc điểm rút ra ban đầu) và hiện tượng sai lệch chẩn đoán (thái độ bỏ qua những bằng chứng trái ngược với những phán xét ban đầu về một người, một tình huống). Khi hiểu được cách thức hoạt động và vận hành của các tác động tâm lý này cũng như một loạt các tác động tâm lý khác, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra một điều chắc chắn rằng: dù là một thị trưởng, một huấn luyện viên bóng đá ở trường đại học, một sinh viên mới biết yêu hoặc một nhà tư bản mạo hiểm thì tất cả chúng ta đều dễ dàng để cho hành vi chủ quan chi phối mạnh mẽ. Và khi chúng ta nhận thức đầy đủ các tác động cảm tính làm ảnh hưởng đến công việc và cuộc sống cá nhân của mình thì sẽ có những điều thú vị xảy ra, nối kết những sự kiện tưởng chừng chẳng có mối quan hệ nào lại với nhau. Hãy cùng xem xét lại ngọn nguồn của vấn đề này và khám phá những điều bí ẩn đã xảy ra với cơ trưởng Van Zanten. Manh mối đầu tiên có thể được tìm thấy tại một nơi bạn không ngờ đến nhất, đó là những kệ hàng bày trứng và nước cam trong siêu thị hay các cửa hàng ở khu phố nhà bạn. Giáo sư Daniel Putler, nguyên là nghiên cứu viên của Bộ Nông nghiệp Mỹ, đã dành thời gian nghiên cứu về trứng trong một năm - nhiều hơn quãng thời gian chúng ta dành để nghĩ về chúng trong suốt cuộc đời mình. Ông cẩn thận theo dõi và ghi nhận từng biến động trong doanh số bán trứng tại vùng nam California. Với những số liệu thu thập được, ông phát hiện ra nhiều thông tin khá thú vị. Chẳng hạn: doanh số bán trứng tăng cao trong suốt tuần đầu tiên của mỗi tháng. Và hiển nhiên, doanh số này cũng tăng đột biến trong vài tuần trước lễ Phục sinh, và rồi giảm nhanh chóng ngay tuần sau đó. Những số liệu ấy quả thật rất hữu ích, nhưng phát hiện tiếp theo của Putler lại không chỉ liên quan và có lợi cho Bộ Nông nghiệp Mỹ cũng như các chương trình truyền hình bán hàng. Từ những dữ liệu về doanh thu phản ánh những biến động trong giá trứng, Putler đã khẳng định một lý thuyết có liên quan đến kinh tế học là hiện tượng bất cân xứng. Theo lý thuyết kinh tế học truyền thống, con người có xu hướng phản ứng với các biến động về giá trong sự tương quan về mức độ, dù là với trường hợp giá tăng hoặc giá giảm. Nếu giá giảm nhẹ, chúng ta mua nhiều hơn một lượng nhỏ. Nếu giá tăng nhẹ, chúng ta mua ít hơn. Nói cách khác, các nhà kinh tế không cho rằng người tiêu dùng có thể phản ứng khác biệt khi giá cả tăng hoặc giảm. Nhưng điều mà Putler khám phá ra chính là người tiêu dùng sẽ phản ứng mạnh hơn khi giá cả tăng lên. Khi giá tăng, người mua trứng tỏ ra nhạy cảm hơn rất nhiều lần. Nếu bạn giảm giá trứng, người tiêu dùng sẽ mua nhiều hơn chút ít. Nhưng khi giá tăng, họ lập tức cắt giảm mức tiêu thụ đến 2,5 lần. Bất kỳ ai là người quản lý chi tiêu và lo việc mua sắm với một khả năng tài chính nhất định cũng có thể giúp bạn biết hiện tượng này diễn ra như thế nào. Nếu giá giảm, chúng ta tỏ ra hài lòng. Nhưng nếu nhận thấy một biến động tăng lên nào đó về giá cả vừa xảy ra tuần rồi, chúng ta lập tức có cảm giác thất vọng và bối rối. Thế là thực đơn cho bữa sáng của gia đình tuần này sẽ là món ngũ cốc thay vì món trứng bác như thường lệ. Sự phản ứng mạnh hơn khi giá cả tăng được xem là không tương đương, hay có thể nói là bất cân xứng với cảm giác hài lòng mà chúng ta có khi mua được một món hời. Chúng tôi nghiên cứu về sự thất vọng và cảm giác bị thiệt hại nhiều hơn nghiên cứu về sự hài lòng khi người ta được lợi. Đối mặt với cảm giác bị thiệt hại do giá cả tăng, người tiêu dùng quyết định để lại những vỉ trứng trên kệ hàng. Hiển nhiên là không chỉ có người mua trứng mới thất vọng và bi quan khi bị thiệt hại. Một nhóm nghiên cứu khác đã tiến hành lại nghiên cứu của Putler với đối tượng là những người mua nước ép cam tươi tại Ấn Độ và cũng công bố một kết quả tương tự. Những người yêu thích thức uống này ở vùng Trung Đông cũng có phản ứng giống như những người làm món trứng tráng tại Los Angeles. Mặc dù có sự cách biệt về địa lý cũng như sở thích ẩm thực, chúng ta vẫn có thể dễ dàng nhận ra rằng ám ảnh của cảm giác bị thiệt hại và thất vọng luôn lấn át cảm giác hài lòng từ những lợi ích nhận được. Nghiên cứu của Putler cũng giải thích một bí ẩn mà các nhà kinh tế đã nghiên cứu, khảo sát trong nhiều năm. Một sự thật rõ ràng là chúng ta có phản ứng quá nhạy cảm trong trường hợp bị mất mát hoặc thiệt hại. Phát hiện trên chính là chìa khóa giúp chúng ta giải mã được những hành động của Van Zanten. Nhưng trước khi trở lại đảo Tenerife và cuộc điều tra xung quanh vụ tai nạn máy bay kinh hoàng đó, chúng ta hãy tập trung tìm hiểu tác động của hiện tượng tâm lý lo sợ bị thiệt hại trong việc ra quyết định. Hãy nghĩ về một quyết định dường như khá đơn giản khi chúng ta đăng ký sử dụng một dịch vụ điện thoại mới. Sau khi xem xét chất lượng dịch vụ của công ty điện thoại, chúng ta đứng trước những lựa chọn: hoặc chọn phương thức trả tiền theo thời gian sử dụng hoặc đăng ký thuê bao trọn gói theo tháng và thỏa sức trò chuyện. Có thể kế hoạch trả tiền theo thời gian sử dụng là tốt hơn bởi vì đa phần chúng ta đều không trò chuyện nhiều đến mức cần dùng đến dịch vụ thuê bao trọn gói. Nhưng chính trong lúc này tâm lý lo sợ bị thiệt hại lại xuất hiện; chúng ta bắt đầu tưởng tượng mình cũng giống như những bạn trẻ mới lớn luôn ôm chặt điện thoại tán gẫu hằng đêm, và thế là vì lo ngại sẽ phải nhận bản hóa đơn cước phí dài ngoằng nên cuối cùng chúng ta đã chọn phương thức thuê bao tháng chỉ để phòng ngừa những trường hợp ngoài dự kiến có thể phát sinh. Các chuyên gia kinh tế có thể chỉ trích chúng ta đã chọn lựa sai lầm, nhưng khi quyết định chọn lựa dịch vụ và đăng ký sử dụng, chúng ta đã sẵn sàng chấp nhận một thiệt hại nhỏ để tránh một thiệt hại tiềm năng mà theo chúng ta dự đoán là có thể sẽ lớn hơn. Công ty thiết bị và dịch vụ Internet toàn cầu America Online (AOL Inc.) cũng không tránh khỏi tình huống này khi giới thiệu hình thức thanh toán thuê bao trọn gói cho dịch vụ Internet sau một năm duy trì phương thức thanh toán theo thời gian truy cập. Giám đốc điều hành AOL giải thích rằng phương thức thanh toán thuê bao trọn gói “rất được người dùng ưa chuộng”. Những khách hàng đăng ký mới đã liên tục chọn lựa gói dịch vụ này, và thế nên chỉ trong vòng có ba tháng, hệ thống máy chủ của AOL đã hoàn toàn bị tắc nghẽn. Tương tự trường hợp sử dụng dịch vụ điện thoại, những người sử dụng dịch vụ Internet cũng muốn tránh những thiệt hại có thể phát sinh nếu lựa chọn phương thức thanh toán theo dung lượng và thời gian. Thực tế, bản thân từ thiệt hại đã nói lên phản ứng nhạy cảm đáng ngạc nhiên của con người trước những sự việc xảy ra. Các công ty chuyên cho thuê xe ở châu Âu như Avis và Hertz khi cần chào bán một dịch vụ vừa đắt tiền vừa không mang lại nhiều lợi ích cũng đã lợi dụng sức tác động mạnh mẽ này. Khi chúng ta thuê xe ô tô, thẻ tín dụng của chúng ta có thể giúp trang trải mọi chi phí nếu chiếc xe bị hư hỏng, dĩ nhiên không kể đến trường hợp chiếc xe đã được bảo hiểm đầy đủ. Nhưng các công ty cho thuê lại đề nghị thêm một khoản phí khác, phần này không chỉ thêm chút ít mà chính là một khoản chi phí lên đến 5.000 đô-la định kỳ mỗi năm. Thông thường, chúng ta vẫn chế giễu việc phung phí tiền bạc không cần thiết, nhưng khi anh nhân viên kinh doanh tại công ty cho thuê xe chuẩn bị trao cho bạn chìa khóa của chiếc Ford Taurus mới nhất, anh ta sẽ hỏi bạn rằng liệu bạn có muốn mua kèm dịch vụ bảo hiểm tổn thất cho chiếc xe mà mình sử dụng hay không. Khi nghe lời gợi ý này, chúng ta bắt đầu dao động: Điều gì sẽ xảy ra nếu mình xui xẻo và tiêu đời trong một vụ va chạm? Điều gì sẽ xảy đến khi vì một lý do nào đó thẻ tín dụng của mình không thể trang trải được mọi chi phí khi cần? Thông thường, chúng ta sẽ không bao giờ nghĩ đến việc mua thêm một hợp đồng phụ với mức giá cao ngất chỉ để đảm bảo an toàn, nhưng chính nguy cơ tổn thất có thể xảy ra sẽ khiến chúng ta phải suy nghĩ lại. Xét một cách toàn diện, hành vi của người mua trứng, các khách hàng sử dụng dịch vụ điện thoại, khách hàng đăng ký dịch vụ Internet và những người thuê xe đều có gì đó tương tự với hành động của cơ trưởng Van Zanten. Những tổn thất, thiệt hại mà Van Zanten cố gắng tránh chính là toàn bộ mặt trái của những quy định đối với thời gian nghỉ đáp bắt buộc: đó là chi phí lo chỗ nghỉ cho hành khách, là hàng loạt chuyến bay khác của hãng bị đình trệ theo và còn có cả tâm lý bảo vệ danh tiếng luôn đúng giờ của chính Van Zanten. Quyết tâm tránh không để cho chuyến bay bị chậm trễ của Van Zanten nảy sinh dần dần. Ban đầu, chỉ đơn giản là ông muốn giữ hành khách lại máy bay nhằm tiết kiệm thời gian. Nhưng khi thời gian hoãn chuyến bay kéo dài hơn, thiệt hại tiềm năng càng hiện rõ hơn. Khi nhận ra rằng việc phải nghỉ đáp cả đêm tại Tenerife là một khả năng không thể nào tránh khỏi, Van Zanten vẫn quyết tâm cứu vãn tình thế đến nỗi ông bỏ qua tất cả những băn khoăn khác cũng như những kinh nghiệm và những gì ông từng tập huấn trong suốt nhiều năm. Dĩ nhiên, việc đăng ký sử dụng dịch vụ điện thoại và thảm họa tại Tenerife là hai việc hoàn toàn khác nhau. Tránh bỏ ra những đồng tiền vô ích là một chuyện, và quyết định cất cánh mà không cần đến hướng dẫn của tháp điều khiển không lưu rõ ràng lại là một chuyện khác. Bạn sẽ nghĩ rằng trong những tình huống như vậy, nắm trong tay hàng mấy trăm sinh mạng trên chuyến bay, cơ trưởng lẽ ra cần phải cẩn trọng và hành động tuân thủ đúng nguyên tắc hơn bất kỳ trường hợp thông thường nào khác. Để giải thích điều này chúng ta cần đến manh mối thứ hai. Theo giải thích của giáo sư Eric Johnson thuộc Trường Thương mại Columbia thì nguy cơ thiệt hại tiềm ẩn càng lớn, chúng ta càng có xu hướng để cho tâm lý lo sợ tổn thất chi phối mình. Nói cách khác, đứng trước những tình huống khó khăn và khẩn cấp, con người dễ dàng sa vào lối mòn của tư duy cảm tính. Nếu có ai từng chứng kiến nhiều tình huống khẩn cấp nhất thì đó chính là Jordan Walters - giám đốc chi nhánh của công ty đầu tư Smith Barney tại thung lũng Silicon. Jordan là một hình mẫu tiêu biểu của một chuyên viên hoạch định tài chính: anh ấy điềm tĩnh, sâu sắc và luôn biết cách lắng nghe. Khi ngồi cùng anh trong văn phòng và thưởng thức ly nước táo ép do anh mời, chúng ta có thể dễ dàng quên mất rằng ngay bên ngoài văn phòng của Jordan, các nhân viên đang thực hiện các giao dịch trị giá hàng triệu đô-la trên sàn chứng khoán. Điều đặc biệt ở Jordan chính là anh không phải tuýp người chỉ biết quan tâm đến các con số. Anh luôn chân thành quan tâm đến các khách hàng của mình. Anh chia sẻ rằng có một khách hàng nọ đã khiến anh bận tâm suy nghĩ rất nhiều. Jordan kể lại: “Một anh chàng bước vào gặp tôi. Anh này vừa bắt đầu một thương vụ, rao bán công ty chuyên về công nghệ sinh học của mình thông qua một công ty bán cổ phần. Anh dự định sau đó sẽ nghỉ ngơi và mơ giấc mơ về đảo Martha’s Vineyard!”. Anh chàng này rõ ràng đang rất hưng phấn. Anh hào hứng thông báo với tất cả mọi người, từ người làm vườn cho đến giáo viên của các con mình và cả bạn bè về vận may đang đến với mình. Nhưng Jordan đã cảnh báo với khách hàng của mình rằng giữ một số vốn lớn trong tài sản của mình dưới hình thức chứng khoán của công ty công nghệ sinh học thì cũng liều lĩnh và thiếu khôn ngoan như để toàn bộ trứng của mình trong một chiếc giỏ. Jordan nói: “Ôi không nên tí nào, như vậy là tập trung số vốn quá lớn một cách vô ích – chúng ta cần phải tìm cách để thoát khỏi tình trạng bất ổn này”. Có rất nhiều phương án, và Jordan đề xuất một kế hoạch chắc chắn như thế này: Bán dần số cổ phiếu định trước theo từng quý. Jordan đã khuyên khách hàng của mình: “Cũng đừng để tình cảm xen vào các quyết định của anh!”. Nhưng vị khách lại muốn lướt ngọn sóng cao hơn. Anh quyết định rao bán công ty của mình. Và anh muốn giá trị của nó tăng thêm nữa. Tại sao phải dừng lại chứ? Jordan kể tiếp: “Và rồi anh biết sau đó đã xảy ra chuyện gì không? Khi anh ấy đến gặp tôi, giá cổ phiếu là 47 đô-la, lúc ấy đáng lẽ đã có thể bán ra khoảng 10 phần trăm số cổ phiếu mà anh ta đang nắm giữ”. Không lâu sau đó, cổ phiếu bắt đầu rớt giá. “Giá cổ phiếu xuống chỉ còn 42 đô-la và vị khách của tôi nói là nếu cổ phiếu tăng trở lại giá 47 đô-la thì anh ấy sẽ bán”. Nhận thấy nguy cơ có thể bị mất tiền vì quyết định của chính mình, vị khách bắt đầu bị tâm lý lo sợ thiệt hại áp đảo tương tự như trường hợp của Van Zanten. Nếu Van Zanten cố gắng duy trì cho chuyến bay có thể đúng giờ thì nhà đầu tư liều lĩnh lúc này cũng tập trung để đầu cơ giá cổ phiếu. Jordan nhận ra vị khách của mình đang quá liều lĩnh và có thể bị thiệt hại nặng nề chứ không như viễn cảnh tốt đẹp mà anh này từng nghĩ tới, Jordan đã hỏi vị khách hàng: “Anh có nghĩ đến những rủi ro không?”. Lúc này, Jordan tính toán được rằng giá cổ phiếu không thể trở lại mức giá 47 đô-la, chưa kể còn có nguy cơ trượt giá nhiều hơn nữa. Nhưng trong suy nghĩ của vị khách, bán cổ phiếu ra thấp hơn mức giá 47 đô-la có nghĩa là bị thiệt hại, đó là tình huống mà anh đang cố tránh khỏi bằng mọi cách. Jordan nhớ lại: “Giá cổ phiếu tiếp tục rớt xuống mức 38 đô-la. Và vị khách hàng của tôi lại nói nếu giá tăng trở lại 44 đô-la, anh ta sẽ bán”. Những nhà kinh doanh chứng khoán gọi hành vi này là “theo đuổi thiệt hại”. Đó là khi nhà đầu tư bỏ qua các chỉ số tài chính hiện tại mà liều lĩnh tiếp tục với mục đích bù lại thiệt hại càng nhiều càng tốt. Jordan giải thích với khách hàng của mình rằng việc đeo đuổi cổ phiếu trong khi không có bất kỳ hy vọng nào chứng tỏ giá cổ phiếu sẽ tăng trở lại là một hành động quá liều lĩnh. Nhưng vị khách đã không nghe lời khuyên của Jordan và quyết tâm làm theo chủ ý của mình. Jordan nói: “Cổ phiếu rớt giá đến mức thấp nhất, cuối cùng chỉ còn 12 xu. Còn vị khách ấy chỉ giữ lại được 10 phần trăm giá trị công ty (so với lợi nhuận thu được nếu ông ta chịu bán ra ngay từ đầu)”. Một kết cục đáng buồn! Vị khách lẽ ra đã có thể bán cổ phiếu ở mức giá 42 đô-la, có thể sẽ phải từ bỏ giấc mơ tậu một chiếc du thuyền sang trọng nhưng anh ta vẫn có khả năng giữ được phần lớn tài sản và thực hiện giấc mơ nghỉ ngơi ở đảo Martha’s Vineyard. Tương tự như vậy, lẽ ra Van Zanten nên chấp nhận một vết hoen nhỏ trong sự nghiệp của mình và chấp nhận nghỉ đáp một đêm tại Tenerife. Thật không đáng để hai người đàn ông, trong hai trường hợp khác nhau, liều lĩnh đánh đổi tất cả như thế. Vị khách của Jordan đã đánh đổi một khối tài sản khổng lồ, còn Van Zanten thì đánh đổi bằng cả sinh mạng của hành khách trên máy bay của mình chỉ để tránh một thiệt hại mà chưa chắc liệu có xảy ra hay không. Bạn có thể cho rằng khi đứng trước những tình huống hiểm nguy và khẩn cấp, con người có xu hướng tìm đến sự an toàn. Nhưng theo Jordan giải thích thì: “Bạn sẽ không nhận thấy cổ phiếu có xu hướng biến động mạnh theo chiều hướng tiêu cực. Tôi muốn nói rằng bạn có thể sẽ dự đoán sai các xu hướng”. Và đó là khi tâm lý sợ bị thiệt hại, tổn thất trỗi dậy và chế ngự bạn. Vậy là chúng ta đã tìm ra hai manh mối quan trọng đầu tiên. Thứ nhất, Van Zanten đã phản ứng thái quá trước một thiệt hại tiềm ẩn chưa có đủ cơ sở để xác định. Thứ hai, bởi vì khi lâm vào tình huống khẩn cấp và nguy hiểm, ông lại càng có xu hướng liều lĩnh hơn. Nhưng đến đây thì vẫn còn một manh mối chưa lộ diện. Để có thể hiểu hết những bí ẩn ở Tenerife, chúng ta sẽ cùng đến thăm một khu đầm lầy trong chương tiếp theo. Chương 2 SA LẦY TRONG Ý THỨC TRÁCH NHIỆM "Chèo xuồng trên hồ Wauburg của Đại học Florida là một trải nghiệm rất thú vị. Cảnh vật ở hồ Wauburg mang đậm nét đặc trưng của miền Nam nước Mỹ. Quanh hồ nước này, hoặc cũng có thể gọi đó là một đầm lầy, là những đám cỏ hoang rậm rạp mọc đầy, những hàng cây cao che chắn, thân phủ rong rêu, rễ cắm sâu dưới dòng nước ấm. Rất nhiều loài côn trùng vo ve suốt cả ngày lẫn đêm, trong đó phải kể đến những bầy muỗi khát máu cứ liên tục lao tới. Phong cảnh lãng mạn trên hồ sẽ nhanh chóng tan biến khi bạn bất chợt nhận ra cặp mắt sắc lạnh của một loài bò sát đang theo dõi bạn từ dưới mặt nước. Theo lời kể của những người sống quanh đây thì hồ này chính là nơi trú ngụ của một bầy cá sấu Nam Mỹ. Người ta nói chúng không tấn công người, nhưng nói chung cũng không ai dám chắc điều đó. Hồ Wauburg là lãnh địa của rất nhiều cá sấu, nhưng đây không phải là đầm lầy khét tiếng có nhiều cá sấu nhất tại thành phố Gainesville, bang Florida. Nơi nổi danh hơn mà chúng tôi muốn nói đến là sân bóng đá của trường Đại học Florida, địa điểm này vốn bị gán cho biệt danh Đầm lầy. Mỗi mùa thu, nhiều đoàn cắm trại với các xe lưu động, xe thể thao đa tính năng lại di chuyển đến khu vực sân bóng này, và rất nhiều người được cử ra sân vận động để phát quang bụi rậm cũng như giải quyết những con cá sấu Nam Mỹ. Bầu không khí nhộn nhịp đang náo nức đón chờ một sự kiện thể thao sôi nổi sắp diễn ra này chính là nơi để chúng ta tìm ra manh mối cuối cùng còn đang ẩn giấu hòng giải đáp cho tai nạn khó hiểu đã xảy ra với Van Zanten. Không khí chuẩn bị cho giải đấu đang diễn ra thật huyên náo, nhưng Steve Spurrier vẫn cảm thấy thoải mái như đang ở nhà. Anh đã lớn lên ở miền Nam, chơi bóng cho Đại học Florida với vị trí tiền vệ và từng mang chiếc cúp Heisman về cho trường. Hai mươi ba năm sau, anh trở lại đây và đảm nhận vai trò huấn luyện viên cho đội bóng của trường. Khi Spurrier tiếp nhận đội bóng Gator của trường vào năm 1990, thì đội này đang bị ví von là những cỗ máy cần được bảo trì. Đội bóng chưa hề đoạt được một danh hiệu vô địch nào. Thật ra, đội còn đang trong giai đoạn bị kỷ luật vì cựu huấn luyện viên của đội cho rằng các cầu thủ đã vi phạm nội quy nghiêm trọng. Nếu chỉ nói Spurrier đã làm việc tốt thì nghĩa là đã nói giảm bớt đi rồi. Bởi vì quả thật khi đối mặt với những khó khăn ban đầu, huấn luyện viên Spurrier đã chọn lựa dẫn dắt đội bóng của mình theo một đường lối mới và rồi giành được nhiều thành tích bất ngờ, gây ấn tượng ngoạn mục với người hâm mộ mãi tận nhiều năm sau đó. Chính uy tín, sự hòa hợp của Spurrier với đội bóng cùng tài năng của huấn luyện viên này đã giúp đưa danh tiếng của đội bóng Đầm lầy vang xa. Có thể nói thành công quan trọng nhất mà Spurrier đã đạt được là nhận thấy điểm yếu trong chiến lược thi đấu của đội bóng của mình chính từ những đối thủ. Trong suốt nhiều năm, các đội bóng tham dự giải đấu đều cùng theo đuổi lối chơi kiểu bào mòn sức lực: họ chuộng lối chơi thận trọng, dè dặt và cố gắng giữ bóng càng nhiều càng tốt, hy vọng có thể chiến thắng trong cuộc chiến phòng thủ. Các cầu thủ không chịu sức ép phải ghi bàn thật nhiều. Họ được định hướng chơi bóng theo lối phải bào mòn sức lực của đối thủ và tập trung câu giờ càng lâu càng tốt. Nói cách khác, các huấn luyện viên trước đây dẫn dắt đội bóng chơi bóng chỉ để không bị thua. Điều này có thể tạo liên tưởng rằng các huấn luyện viên bóng đá cũng đang hành động rất giống vị khách của Jordan Walters - người đã đánh rơi vận may của mình vì công ty công nghệ sinh học: thay vì tập trung để đạt được mức lợi nhuận cao nhất thì anh ta lại chú tâm làm cách nào tránh né những tổn thất có thể xảy ra. Chính tác động tâm lý này đã mở ra một cơ hội mới cho Spurrier. Đơn giản là Spurrier đã hướng dẫn đội bóng cách chơi để đạt được chiến thắng bằng phương pháp anh gọi tên là “Fun n- Gun” – chơi để ghi bàn. Khi chúng tôi đến gặp Spurrier, anh giải thích rằng giống như tất cả các huấn luyện viên khác, anh cũng có hàng loạt phương án chơi bóng theo lối phòng thủ: “Nhưng anh cũng biết đấy, khi đích ngắm di chuyển, tầm bắn cũng phải di chuyển theo. Làm như vậy, anh mới chắc chắn đạt được thành công cuối cùng”. Nhưng Spurrier cũng đồng thời áp dụng những lối chơi khác để “khi có cơ hội thuận lợi, các cầu thủ của bạn có thể ghi bàn”. Nhờ vậy, đội bóng của Spurrier chơi tốt hơn hẳn, linh hoạt, năng động, thiện chiến và ghi được nhiều bàn thắng hơn. Chiến lược Fun-n-Gun đã phát huy hiệu quả tại giải bóng đá của khu vực Đông Nam. Sân vận động Đại học Florida trước đây vẫn được gọi bằng biệt danh Đầm lầy giờ được giải thích là vì nơi đây là chốn những chú cá sấu Nam Mỹ tài ba của đội Gator vùng vẫy. Và với chúng ta, đây cũng chính là nơi để tìm hiểu về một trong hai tác động tâm lý của con người đang còn bị che giấu. Spurrier có được lợi thế và đã thành công, vì các huấn luyện viên khác đều chỉ chú tâm dẫn dắt đội bóng của mình thi đấu theo lối phòng thủ với mục tiêu tránh né mọi tổn thất có thể xảy ra. Bạn hãy hình dung mình là một huấn luyện viên bóng đá ở trường đại học. Khi bạn xuống phố, đi qua các cổ động viên vốn tự coi mình như những chuyên gia bóng đá, họ sẽ chẳng e dè gì và sẵn sàng tuôn ra hàng loạt suy nghĩ và nhận định của họ về những hành động hay quyết định sai lầm của bạn trong trận đấu ngày hôm qua. Bạn đã không làm tốt và vì thế, bạn bị các cổ động viên và giới bình luận chỉ trích ngay lập tức. Trong khi đó, doanh thu từ tiền vé, quỹ quyên góp của hội sinh viên nhà trường và cả công việc của bạn nữa, tất cả đều phụ thuộc vào thành công của đội bóng. Những áp lực ấy đè nặng lên bạn ngày càng nhiều hơn. Hãy nhớ lại kết quả cuộc khảo sát của Putler về những người mua trứng, ấn tượng về những tổn thất mà chúng ta gặp phải luôn luôn rất lớn. Huấn luyện viên Spurrier cũng giải thích với chúng ta: “Điều các huấn luyện viên nghĩ đến đầu tiên khi cầm quân chính là không được để thua trận dù bất cứ lý do gì”. Có thể bạn nghĩ rằng, sau một vài trận thua, nhưng không hẳn là một giải đấu hoàn toàn thất bại, thì đáng ra các huấn luyện viên của đội bóng Gator của trường Đại học Florida sẽ phải đánh giá lại lối chơi phòng ngự của mình. Nhưng thực tế họ lại không làm vậy! Và rồi Spurrier cùng đội bóng tiếp tục chứng tỏ sức mạnh vượt trội của mình trước những đối thủ đến từ Alabama, Tennessee và Auburn. Hơn sáu năm sau, huấn luyện viên cùng đội bóng của mình đã chiến thắng bốn giải đấu vòng loại và đoạt ngôi vô địch quốc gia. Trong lúc đó, huấn luyện viên của các đối thủ vẫn tiếp tục theo đuổi đấu pháp phòng ngự kiểu cũ. Các huấn luyện viên không chỉ rơi vào hiện tượng tâm lý lo sợ bị thiệt hại, mà còn chịu sức ép từ trách nhiệm của bản thân. Họ đảm nhận một trách nhiệm nặng nề và vẫn tiếp tục áp dụng chiến thuật cũ. Thực tế là vì họ đã chọn giải pháp an toàn đến mức gần như không thể chấp nhận bất kỳ một thay đổi nào cả. Tâm lý tuyệt đối né tránh tổn thất khiến các huấn luyện viên vẫn tôn sùng lối chơi phòng thủ, cùng với trách nhiệm phải duy trì những gì đã làm trong suốt nhiều năm qua khiến họ không thể tiếp nhận phong cách mới đầy ưu thế của Spurrier. Một thực tế không thể phủ nhận là tất cả chúng ta đều đã từng trải qua áp lực trách nhiệm, có thể ở dạng này hay dạng khác; chẳng hạn như khi chúng ta đầu tư tiền bạc và thời gian vào một dự án đặc biệt nào đó hay dồn hết tâm trí vào một mối quan hệ phức tạp, thì đúng là hết sức khó khăn để quyết định ngừng lại ngay cả khi mọi việc đang diễn tiến theo chiều hướng tiêu cực. Tuy nhiên, rất khó để thừa nhận thất bại và buông xuôi mọi việc bởi vì áp lực trách nhiệm sẽ còn khiến chúng ta bị tổn thương trong suốt một thời gian dài. Cảm giác lo sợ thiệt hại và áp lực trách nhiệm, cả hai trạng thái tâm lý này đều có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến mỗi chúng ta theo một cách riêng. Nhưng khi hai tác động tâm lý đó kết hợp với nhau thì chúng ta sẽ càng khó phá vỡ mối liên kết đó cũng như chế ngự được chúng. Điều này hoàn toàn chính xác, bởi nhờ hiệu ứng cộng hưởng từ hai tác động tâm lý này mà các sinh viên trong lớp học của giáo sư Max Bazerman ở Đại học Harvard đã làm rất tốt để có thể giữ chặt ví tiền của mình khi Max giới thiệu cuộc đấu giá 20 đô-la. Người ta vẫn thường nói “dễ như dụ kẹo trẻ con”, còn giáo sư Bazerman đã phát hiện ra rằng lấy tiền từ các thạc sĩ quản trị kinh doanh của Đại học Harvard cũng dễ không kém. Trong buổi học đầu tiên, giáo sư Bazerman giới thiệu một trò chơi có vẻ như vô thưởng vô phạt và không mang lại nhiều điều thú vị. Ông phe phẩy một tờ 20 đô-la và đề nghị cả lớp hãy tham gia đấu giá để mua được tờ giấy bạc đó. Mọi người được tự do tham gia nhưng bắt buộc phải tuân thủ hai điều kiện. Thứ nhất: mỗi giá đấu đưa ra phải chênh nhau một đô-la. Thứ hai: rất thú vị và gay cấn, người thắng dĩ nhiên sẽ được sở hữu tờ 20 đô-la đó. Nhưng người về thứ hai, tức người ra giá thấp hơn người chiến thắng một đô-la, sẽ là người phải trả tiền mà không nhận được gì cả. Nói cách khác, người ra giá cao thứ nhì mới chính là người quyết định mức giá cuối cùng. Vậy là cuộc đấu giá đã diễn ra. Ban đầu nhận thấy cơ hội có thể kiếm được 20 đô-la với một giá hời, mọi người nhanh chóng giơ tay ra giá đấu, và cuộc chơi hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát. Các mức giá liên tục được nêu ra. Bazerman cho biết: “Cách thức ra giá của mọi người luôn giống nhau. Giá đấu ban đầu tăng nhanh và liên tục cho đến khi đạt đến khoảng 12 đến 16 đô-la”. Đến thời điểm này thì ai cũng muốn chiến thắng để sở hữu ngay tờ 20 đô chứ không muốn trở thành một kẻ khờ bị xỏ mũi. Nhưng chiến thắng không dễ dàng như họ nghĩ. Có vẻ như cảm nhận được cơn say giá đang diễn ra, phần lớn sinh viên bắt đầu bồn chồn. Bazerman cho biết: “Tất cả mọi người ngoại trừ hai sinh viên đang có mức giá đưa ra cao nhất đã rút khỏi cuộc đấu giá”. Nhưng vì không nhận thấy tình huống thực tế của mình nên cả hai sinh viên này vẫn cứ tiếp tục ra giá. Giáo sư Bazerman kể tiếp: “Một trong hai người đưa ra mức giá 16 đô-la và người kia đẩy lên 17. Người đưa ra giá 16 hoặc phải nâng giá thành 18 hoặc phải nhận thua và mất 16 đô-la”. Đến lúc này, hai sinh viên đều ra giá đấu thật nhanh, vì cũng không ai muốn mình trở thành người bị mất tiền mà lại không được gì. Đây chính là lúc hai sinh viên rơi vào hiện tượng tâm lý né tránh thiệt hại tương tự trường hợp của những huấn luyện viên bóng đá luôn áp dụng chiến thuật phòng thủ trong thi đấu. Họ trở nên bị cuốn hút vào chiến lược của mình và cố gắng làm mọi cách để không phải thua cuộc. Như một chuyến tàu đang lao đi vội vã, cuộc đấu giá vẫn diễn ra với giá đấu tăng lên đến 18, 19 và 20 đô-la. Khi giá tiếp tục được nâng lên, những sinh viên còn lại bối rối không biết sự việc sẽ đi đến đâu. Bazerman nói: “Tất nhiên, những sinh viên đã dừng cuộc đấu giá bắt đầu hò hét và bật cười khi giá đấu đã vượt mức 20 đô-la”. Nếu suy nghĩ sáng suốt và hợp lý, quyết định hiển nhiên nhất chính là những người chơi phải chấp nhận thua để dừng cuộc đấu giá lại trước khi mọi việc vượt khỏi tầm kiểm soát. Nhưng nói vẫn dễ hơn làm. Các sinh viên bị cuốn vào sức hút của trò chơi đồng thời e ngại bị tổn thất nếu họ dừng lại – mà thiệt hại đó thực chất lại đang lớn dần theo các mức giá được đưa ra. Đồng thời, hai sức hút trên lại có khả năng tác động lẫn nhau: sự thôi thúc tiếp tục theo đuổi cuộc đấu giá khiến họ càng đẩy giá lên cao hơn, và vô hình trung càng làm cho mức độ tổn thất của họ cũng lớn hơn. Và thế là hai sinh viên tiếp tục ra giá đấu: 21, 22, 23… 50 đô-la rồi 100 đô la và giá kỷ lục là 204 đô-la. Giáo sư Bazerman đã thử nghiệm trò chơi này trong nhiều năm, và ông không hề giữ tiền cho riêng mình mà quyên góp tất cả số tiền sau cuộc đấu giá cho quỹ từ thiện. Và một điều hiển nhiên là dù người ra giá đấu có là ai đi nữa, là sinh viên đại học hay một nhân viên kinh doanh thì tất cả họ đều bị lôi cuốn đến mức sa lầy vào trò chơi này. Cái hố họ tự đào cho chính mình càng sâu thì họ càng cảm thấy bị thôi thúc để đào nó sâu hơn nữa. Chúng ta đã hiểu được cơ trưởng Van Zanten bị tâm lý lo sợ thiệt hại tác động như thế nào: ông nhận thức được tầm quan trọng của các quy định về thời gian nghỉ đáp tại Tenerife; ngoài ra, chính áp lực phải giữ gìn uy tín của mình bằng mọi giá đã đẩy ông vào tình huống bi kịch mà ngay cả những chuyên gia nhiều kinh nghiệm và thành thạo nhất cũng không tránh khỏi. Ngay khi Van Zanten tiến đến điểm cuối của đường băng giữa màn sương dày đặc, cảm nhận nguy cơ tổn thất trong ông dường như quá lớn. Ông tự mình đặt nặng trách nhiệm phải nhanh chóng rời khỏi hòn đảo Tenerife, đến nỗi trong tâm trí Van Zanten lúc đó không thể nghĩ ra một phương án nào khác ngoài việc liều lĩnh cho máy bay cất cánh. Tương tự như vậy, ngay cả đối với những quan chức cấp cao trong chính phủ Mỹ cũng không tránh khỏi tác động của sức cộng hưởng giữa tâm lý lo sợ thiệt hại và những trách nhiệm do chính bản thân tạo ra. Nếu hoạt động chính trị của những năm 1950 giống như những tình tiết trong loạt chương trình Survivor (Người sống sót) thì Lyndon Baines Johnson (LBJ – Tổng thống thứ 36 của Mỹ) chắc chắn là người thắng cuộc. LBJ là người luôn có những chiến lược hoàn hảo. Giữa sự quả quyết và thái độ hăm dọa chỉ cách nhau một lằn ranh mỏng manh, và LBJ đã rất khéo léo để vượt qua ranh giới này. Khi được đề cử vào Quốc hội, ông vẫn thường gọi điện cho các thành viên lập pháp suốt đêm chỉ để kiểm tra nhân lúc họ không đề phòng. Sau đó, với cương vị tổng thống, trong các cuộc họp ở Nhà Trắng, ông đã khiến những người tham gia bị sốc khi thông báo tạm nghỉ để đi bơi, rồi trút bỏ quần áo và nhảy xuống hồ bơi. Nhưng ông không dùng những cách thức này chỉ để làm trò đùa. LBJ có một lý do riêng mà ông luôn tâm niệm. Trong khi những chính trị gia khác bị chôn chân trong thế giới của những đặc quyền và sự tôn vinh thì LBJ lại sinh trưởng trong hoàn cảnh nghèo khó. Ngay từ thuở nhỏ, ông đã chứng kiến cuộc sống khó khăn của người dân nghèo ở miền Nam nước Mỹ. LBJ từng nói: “Một số người mong muốn có quyền lực chỉ đơn giản để có thể nghênh ngang đi khắp thế giới và nghe những tiếng tung hô chào đón quan chức. Những người khác lại muốn tạo dựng uy thế để sưu tầm những món đồ cổ hay để mua sắm những món đồ xa hoa. Riêng tôi, tôi mong muốn nắm giữ quyền lực để mang lại những điều tốt đẹp cho tất cả mọi người”. Thật vậy, LBJ đã cống hiến sức mình để giúp những người dân nghèo có cuộc sống dễ chịu hơn và mang lại cho người Mỹ gốc Phi - cũng như những sắc dân thiểu số khác - quyền dân chủ mà họ xứng đáng được nhận. Johnson cố gắng hoàn thành những việc do Cục dự trữ liên bang đề ra trong thời kỳ suy thoái và xem đây là sứ mạng của mình. Ông rất hài lòng với những tiến bộ xã hội đã đạt được sau giai đoạn thực hiện chính sách kinh tế mới (New Deal) nhưng vẫn cảm thấy rằng mục tiêu cuối cùng của Cục dự trữ liên bang nhằm tạo ra những thay đổi xã hội vẫn chưa thật sự hoàn thành. LBJ kiên trì theo đuổi và thực hiện chiến dịch tầm cỡ nhất trong cuộc đời chính trị của ông: cuộc chiến chống lại đói nghèo. Với chiều cao vượt trội, LBJ có thể nhìn thẳng vào mặt người đối diện, chiếm lĩnh không gian của họ và áp đảo khiến người đó phải phục tùng. Cùng với chiến dịch hành động vì quyền dân chủ, các chương trình kêu gọi cộng đồng tham gia xóa nghèo, chương trình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, chương trình bảo hiểm y tế và ra mắt quỹ giáo dục liên bang, những thay đổi nhằm thực hiện chiến lược “Đại xã hội” – một trong những chương trình cải cách xã hội quy mô nhất trong lịch sử nước Mỹ – nhanh chóng được triển khai. Năm 1964, LBJ đang ở đỉnh cao quyền lực chính trị của mình. Đó cũng là thời gian, nước Mỹ bắt đầu lấy lại cân bằng sau bi kịch John Fitzgeral Kennedy, tổng thống thứ 35 bị ám sát. Quốc hội đang nghiêng về đảng Dân chủ, chỉ số lòng tin của người dân dành cho Johnson cao ngất, và phần lớn những nhà lập pháp hoặc tán đồng với sự nghiệp của ông hoặc có nguy cơ cạnh tranh với ông. Về sau, có một lần Johnson tâm sự: “Tôi hiểu Quốc hội cũng như hiểu phu nhân Lady Bird của mình”. Nhưng chỉ ngay khi ước mơ thực hiện cuộc cải cách toàn diện và sâu rộng từ việc xóa bỏ các khu nhà ổ chuột của người da màu đến việc cung cấp các dịch vụ y tế cho cộng đồng bắt đầu hình thành, LBJ không ngờ mình lại trở thành một người chơi trong cuộc đấu giá của Bazerman. Có ba giai đoạn quan trọng trong cuộc đấu giá này. Giai đoạn thứ nhất tương ứng với mức 2 đô-la: đó là khi mọi người hài lòng, tin rằng có thể nắm chắc phần thắng tương đương một bữa trưa miễn phí. Và giai đoạn cuối cùng là khi những người chơi đẩy giá đến ngưỡng 20 đô-la, cơn say giá khiến họ càng đào sâu chiếc hố chôn mình mà không cách nào thoát ra được. Nhưng giai đoạn được xem là thú vị nhất chính là giai đoạn thứ hai - tương ứng với mức giá đấu từ 12 đến 16 đô-la – khi đó, người chơi bắt đầu nhận ra bản chất của cuộc đấu giá. Đây cũng chính là lúc tâm lý lo sợ thiệt hại và tâm lý theo đuổi đến cùng xuất hiện và chế ngự con người. LBJ bước vào cuộc chơi cũng tương tự như các sinh viên của Bazerman. Nhưng thay cho hiện vật đấu giá là tờ bạc mệnh giá 20 đô-la, giải thưởng dành cho LBJ lúc này là cơ hội thể hiện quyền lực ở khu vực Đông Nam Á. Đối với Tổng thống Johnson, miền Bắc Việt Nam có vẻ là một đối thủ yếu thế hơn. Quân đội ở đây không được trang bị nhiều vũ khí tối tân, không có những kỹ thuật hiện đại như quân đội Mỹ. Mức giá đấu đầu tiên – tương ứng với 2 đô-la – mà LBJ đưa ra là việc phát động chiến dịch ném bom vào năm 1965. Mỹ là nước có tiềm lực quân sự mạnh mẽ, có kho vũ khí khổng lồ, viễn cảnh về cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Việt Nam – một đối thủ yếu thế hơn rất nhiều – có vẻ rất dễ hình dung. Tình huống cũng giống như những gì đã diễn ra trong giai đoạn đầu của cuộc đấu giá thú vị mà Bazerman đã đề xướng. Nhưng chỉ vài năm sau, LBJ thật sự sa lầy vào giai đoạn thứ ba của cuộc đấu giá. Với hơn năm trăm nghìn lính bộ binh được đưa đến Việt Nam vào năm 1968 và hơn mười nghìn người tử nạn, LBJ đã vượt xa mức giá đấu 20 đô-la. Ông lo lắng: “Sẽ có ánh sáng ở cuối mỗi đường hầm, nhưng chúng ta không có một đường hầm nào; thậm chí chúng ta cũng không biết ở đâu có đường hầm”. Tương tự như những huấn luyện viên đối thủ của Spurrier, tổng thống đang dần sa vào bế tắc nhưng không thể dừng lại hay chuyển hướng được nữa. Cuối cùng, Johnson không chỉ thất bại trong chiến tranh Việt Nam mà cuộc chiến còn khiến ông không còn đủ sức thực hiện chương trình “Đại xã hội” như mong muốn. Chỉ số tín nhiệm của mọi người dành cho ông giảm sút; ông quyết định không tiếp tục tranh cử nhiệm kỳ tổng thống thứ hai, vậy là Johnson đã chấm dứt cả sự nghiệp chính trị của mình. Nhiều năm sau đó, Johnson kể lại: “Tôi biết ngay từ đầu mình sẽ gánh chịu thiệt hại dù tôi có chọn hướng nào đi chăng nữa. Nếu tôi từ bỏ giấc mơ cả đời mình – chương trình ‘Đại xã hội’ – để lao vào cuộc chiến tranh phi nghĩa ở tận bên kia thế giới, khi đó tôi sẽ mất tất cả những thứ tôi có ở quê hương: nỗ lực để thực hiện các chiến dịch… chương trình thúc đẩy giáo dục, các chương trình y tế…”. Nhưng Johnson cũng nhận ra rằng: “Nhưng nếu tôi từ bỏ cuộc chiến ở Việt Nam thì cũng có nghĩa là tôi thất bại”. Trớ trêu thay, đó đúng là những gì đã xảy ra. Nhưng chính những gì diễn ra ở giai đoạn thứ hai của cuộc đấu giá – giai đoạn đẩy giá vào khoảng 12 đến 16 đô-la – là chìa khóa giúp chúng ta hiểu được Johnson đã sa lầy trong việc ra quyết định như thế nào. Một mặt, LBJ đã nhận thấy trước viễn cảnh tiêu cực của cuộc chiến. Một cuộc trò chuyện qua điện thoại giữa tổng thống và một nhà tư vấn quân sự vào tháng Năm năm 1964 đã cho biết điều đó. LBJ thổ lộ: “Đêm qua tôi không ngủ được và cứ mãi suy nghĩ về chuyện này. Càng nghĩ, tôi càng không biết chuyện gì đang và sắp xảy ra, có vẻ như chúng ta đang lao vào cuộc chiến với một Triều Tiên khác nữa chăng. Tôi thật sự lo lắng. Tôi không biết chúng ta có thể trông mong gì ở nơi đó – nơi chúng ta đã từng một lần thất bại… Tôi nghĩ chúng ta không nên theo đuổi cuộc chiến này và nếu theo đuổi, tôi cũng không tự tin chúng ta sẽ chiến thắng. Đó là tất cả viễn cảnh mà tôi có thể hình dung ra”. Nhưng mặt khác, chỉ một lát sau đó, LBJ lại lo lắng đến chuyện: “Nếu ta trốn chạy, ta có thể sẽ bị rượt đuổi đến cùng”. Sức thôi thúc trong cuộc đấu giá của Bazerman và nỗi sợ phải thỏa hiệp với những thiệt hại đã khiến LBJ không cho phép mình dừng lại. Và mọi việc diễn tiến chính xác như trong giai đoạn thứ hai của cuộc đấu giá khi giá đấu đưa ra ở trong khoảng từ 12 đến 16 đô-la. Nhưng cũng thật kỳ lạ, sự cộng hưởng của hai tác động tâm lý trên lại có thể mang đến một niềm lạc quan chắc chắn. Khi nhìn thẳng vào một tổn thất tiềm ẩn có thể xảy ra, chúng ta lại càng hy vọng mọi việc sẽ có khả năng trở nên tốt đẹp hơn. Thật ra, nếu bạn để ý kỹ những bài diễn văn của LBJ, bạn sẽ nhận thấy cách tiếp cận vấn đề của ông. Thông điệp của LBJ và thậm chí là một số từ ngữ nhất định mà ông dùng để nói về Việt Nam rất giống với những nhận định của Tổng thống George W. Bush dành cho Iraq. LBJ tuyên bố: “Không có câu trả lời dễ dàng, không có giải pháp ngay lập tức”. Trong khi đó, Bush lên tiếng như sau: “Không có một công thức thần kỳ nào cho sự thành công trong cuộc chiến tại Iraq”. Nét tương đồng trong hai suy nghĩ không phải là sản phẩm của những chia sẻ mang tính cá nhân hay sự đồng điệu trong tư tưởng chính trị, mà đó là một hệ tư tưởng chung – cả hai tổng thống đều đã sử dụng ngôn ngữ theo kiểu được dùng trong cuộc đấu giá của Bazerman. Hai vị tổng thống của nước Mỹ đều sa lầy vào cùng một vấn đề và đều kiên quyết không thoái lui. LBJ khẳng định: “Chúng ta sẽ không thất bại. Chúng ta sẽ không gục ngã. Chúng ta sẽ không đầu hàng dù là công khai hay thông qua một bản hiệp ước”. Tổng thống Bush lại quả quyết: “Chúng ta sẽ không khuất phục. Chúng ta sẽ kiên trì giải quyết nhanh gọn đối thủ và lập lại hòa bình trên mảnh đất này”. Và khi đó tâm lý lạc quan bắt đầu xuất hiện. Khi cuộc chiến tại Việt Nam dần trở nên mất kiểm soát, LBJ tuyên bố: “Tôi nghĩ chúng ta đã có nhiều bước tiến triển trong việc cố gắng xây dựng một chính phủ vững vàng trong ba năm qua”. Tương tự, khi cuộc chiến tại Iraq không dẫn đến một chiến thắng dễ dàng như dự tính, Bush đã lớn tiếng tuyên bố: “Iraq đã có đồng tiền mới, có binh đoàn đầu tiên của lực lượng quân đội mới, có chính quyền ở địa phương, và một Quốc hội đương nhiệm đang cố gắng thiết lập chủ quyền quốc gia. Đây là những thành tựu đáng kể”. Nhà kinh tế đạt giải Nobel Daniel Kahneman và Amos Tversky - là những người đầu tiên phát hiện và ghi chép về hiện tượng tâm lý lo sợ thiệt hại - đã nêu ra nhận định xác đáng về hiện tượng tâm lý này của chúng ta trong những tình huống tương tự nhau. Đây là những điều ông viết về trường hợp của những người theo đuổi sự nghiệp chính trị: “Dừng lại lúc này nghĩa là chấp nhận một tổn thất chắc chắn, và chọn lựa này không mấy dễ dàng”. Bên cạnh đó,“tâm lý bị cuốn hút vào sự việc sẽ thôi thúc bạn, ngay cả khi cơ hội thành công là rất thấp và chi phí để có thể thoái lui là rất cao”. Tâm lý lo sợ thiệt hại vốn dĩ có sức tác động rất mạnh mẽ đến con người. Và khi nó cộng hưởng với áp lực trách nhiệm của chính bản thân rằng phải tiếp tục theo đuổi những điều mình đã làm, hai tác động này trở thành một thứ sức mạnh lớn hơn nữa tác động trở lại tư duy và việc ra quyết định của mỗi người. Chúng ta sẽ sớm nhận ra áp lực trách nhiệm còn thường xuyên bị ảnh hưởng bởi một tác động khác nữa. Động lực này sẽ đưa chúng ta đến cuộc truy tìm cuối cùng: giải mã những mắt xích bị thất lạc. Chương 3 NGƯỜI LÙN HOBBIT VÀ MẮT XÍCH CÒN KHUYẾT Tình huống này đã diễn ra cứ như một tình tiết bất ngờ mà chúng ta thường thấy trong các bộ phim, chỉ cần có thêm đoạn nhạc nền đầy kịch tính của loạt phim Indiana Jones nữa là hoàn chỉnh. Một ngày mùa thu năm 2004, tiến sĩ Dean Falk, một chuyên gia nhân chủng học - đồng thời là chuyên gia pháp lý - đang ngồi làm việc bên máy tính thì bất ngờ chuông điện thoại réo vang. Ý nghĩ đầu tiên lóe lên trong cô là: “Hy vọng không phải là nhân viên tiếp thị gọi”. Lúc này, cô không thể ngờ rằng cuộc gọi đó sẽ làm thay đổi cuộc đời mình nhiều đến mức nào. Giọng một người đàn ông vang lên ở đầu dây bên kia: - Xin chào! Tôi là David Hamlin, tôi làm việc ở Hội Địa lý xã hội quốc gia Mỹ. – Như thể đọc được suy nghĩ của tiến sĩ Dean Falk, người đàn ông nhanh chóng tiếp lời. – Ồ! Tôi không gọi để tiếp thị cho tạp chí của hội đâu. Hamlin không giấu được vẻ háo hức trong giọng nói của mình: - Tôi đã rất mong được trò chuyện với cô trong suốt hai tháng qua, nhưng vì khi ấy điều tôi sắp nói với cô không được phép phổ biến rộng rãi nên tôi chưa gọi cô được. May là hiện nay những lệnh cấm đó đã được gỡ bỏ, vì vậy giờ tôi có thể nói tất cả với cô rồi. - Có chắc tôi là người anh muốn tìm không vậy? – Falk hỏi lại. Hamlin cười lớn: - Dĩ nhiên rồi. Tôi vừa từ Indonesia trở về, chúng tôi đến đó để ghi hình cho chương trình truyền hình của Hội Địa lý xã hội quốc gia. Tôi gọi điện tìm gặp cô vì chính Mike Morwood - người khám phá ra chuyện này - đã giới thiệu cô cho tôi. Hamlin bắt đầu kể với Falk về phát hiện bất ngờ của Morwood, một nhà nhân chủng học người Úc không mấy tiếng tăm đang thực hiện các nghiên cứu ở hòn đảo xa xôi Flores trên biển Java. Sau này, Falk cho chúng tôi biết rất nhiều điều thú vị về đảo Flores và những hòn đảo khác: trong suốt quá trình tiến hóa dài lâu, các hòn đảo này vẫn bảo toàn được thế cân bằng tự nhiên rất đặc biệt. Trên đảo, những sinh vật có kích thước nhỏ biến đổi lớn hơn, và những sinh vật lớn lại trở nên nhỏ đi – hai quá trình này kết hợp với nhau tạo nên những sinh vật có kích cỡ trung bình xấp xỉ với loài chó chăn cừu Đức. Không ai biết chính xác vì sao đảo Flores lại xảy ra hiện tượng này, nhưng các nhà khoa học dự đoán rằng đây là kết quả của quá trình thích nghi di truyền trong môi trường sống có ít loài thú ăn thịt và hạn chế về tài nguyên. Vì thực tế, sau nhiều thập niên làm việc và nghiên cứu tại Flores, các nhà nhân chủng học đã phát hiện những bộ xương hóa thạch còn sót lại của những sinh vật ngỡ như bước ra từ Xứ sở thần tiên của Alice, đó là những con thằn lằn dài đến gần hai mét, những con chuột có kích thước khổng lồ và những con voi lùn. Bên cạnh những mẫu xương hóa thạch, các nhà nhân chủng học còn tìm thấy những công cụ đá tinh xảo, trong đó có một số công cụ có niên đại cách đây hàng trăm nghìn năm được xác định là do con người tạo ra. Tuy nhiên, không hề có dấu vết nào chứng tỏ con người từng sinh sống trên hòn đảo này vào khoảng bốn mươi nghìn năm trước. Và chính trên hòn đảo này, Morwood đã có một phát hiện lớn lao, một khám phá mà giới nghiên cứu nhân chủng học đánh giá là không thể nào tin được. Khám phá của Morwood không những có thể giải thích cho những bí ẩn về sự tồn tại của các công cụ được tìm thấy trước đó mà còn đưa ra nhận thức về một nhánh phát triển mới trong quá trình tiến hóa của loài người. Falk không ngờ rằng khi đón nhận thông tin về phát hiện mang nhiều ý nghĩa này thì cô cũng sắp phải đối mặt với một tác động tâm lý ngầm vốn từng ảnh hưởng đến giới nghiên cứu nhân chủng học cách đây một thế kỷ. Không chỉ vậy, lực cản tâm lý này còn thường xuyên làm thay đổi nhận thức của chúng ta về mọi người và mọi việc xung quanh. Nó khiến cho hàng trăm người phớt lờ một nghệ sĩ violon tài hoa khi ông biểu diễn miễn phí trên đường phố, khiến mọi người nghĩ rằng một loại thức uống giàu năng lượng nào đó có khả năng tác động đến chỉ số IQ của người dùng, và sau cùng, chính lực cản đó đã trở thành nhân tố gây ra một sai lầm nghiêm trọng trong lịch sử khoa học. Mặc dù chưa biết gì về những điều đó, nhưng Falk đã trở thành nhân chứng trước sự tái diễn của một sự kiện lịch sử từng xảy ra. Vào những năm 1850, giới nghiên cứu khoa học trên thế giới đối mặt với một cuộc cách mạng. Khi di tích những mẫu xương hóa thạch của một loài sinh vật cổ được tìm thấy ở thung lũng Neander nước Đức, các nhà khoa học đã hết sức nỗ lực để tìm kiếm câu trả lời giải thích cho sự tồn tại của sinh vật này. Đây là một sinh vật có những đặc trưng rất gần gũi với chúng ta, nhưng cũng có một số cấu trúc trên khung xương lại không hoàn toàn giống với con người tiến hóa. Mẫu hóa thạch này cho thấy vết tích của một chiếc mũi khá rõ, một hộp sọ dày và hình dáng của một cơ thể người lom khom, nghĩa là rất gần gũi với những gì chúng ta hình dung về người thượng cổ. Ban đầu, các nhà khoa học suy đoán rằng mẫu vật này là bộ xương của một binh lính người Nga đã tử nạn trong các cuộc chiến thời Napoleon. Nhưng khi xem xét và phân tích những mẫu hóa thạch này dưới lăng kính của Thuyết tiến hóa của Darwin, các nhà khoa học đã phỏng đoán rằng mẫu vật này phải thuộc về tổ tiên không xa lắm của loài người hiện đại – một chủng người hoàn toàn mới mà ngày nay chúng ta gọi là người Neanderthal (có nguồn gốc từ Đức). Ở thời điểm đó, quá trình tiến hóa được hình dung là một quá trình phát triển theo đường thẳng (khác với thuyết tiến hóa hiện đại xem sự tiến hóa của loài người giống như một cây phả hệ phức tạp có nhiều nhánh). Dựa trên quan điểm này, các nhà khoa học cho rằng có một khoảng hổng tồn tại trong quá trình tiến hóa từ loài vượn người đến chủng người Neanderthal. Việc truy tìm mắt xích còn khuyết này chính là một thử thách khó khăn đối với các nhà khoa học châu Âu, và nó cũng gian nan như cuộc truy tìm chén thánh thiêng liêng trong truyền thuyết. Nhưng bạn không thể đi tìm đáp án của một câu đố mà không có chút hình dung nào về điều mình đang tìm kiếm. Các nhà khoa học đã đưa ra một phác thảo tương tự như bản điều tra của cảnh sát để truy tìm sinh vật bí ẩn kia: họ đã xác định rằng sinh vật này đã có một bộ não lớn nhưng về cấu trúc bề mặt của não lại giống như cấu trúc của loài vượn người. Từ những luận cứ ban đầu đó, họ bắt đầu những nghiên cứu khảo cổ. Cũng trong thời gian đó một sinh viên trẻ thông minh tên là Eugene Dubois rất hứng thú với vấn đề tiến hóa. Và quả thực, sau này chính Dubois đã phát hiện ra một trong những khám phá quan trọng nhất của mọi thời đại, chính khám phá này đã trở thành những gợi ý không ngờ đến dành cho Dean Falk và những khám phá ở đảo Flores trong thế kỷ hai mươi mốt. Thời gian ấy, Dubois hai mươi chín tuổi và đã lấy bằng dược sĩ (với kết quả tốt nghiệp đứng đầu lớp), lập gia đình và có một bé gái, đồng thời trở thành giáo sư giảng dạy tại một trường đại học. Thời gian ấy, các nhà khoa học châu Âu vẫn tiếp tục đào bới và tìm kiếm, nhưng không thu thập được gì thêm. Mắt xích còn khuyết đó vẫn chưa được khám phá. Sau nhiều tháng nghiên cứu về các lý thuyết và các tài liệu liên quan, Eugene Dubois kết luận rằng các nhà khoa học đang tìm kiếm không đúng vị trí. Anh quyết định tạm gác sự nghiệp giảng dạy lại và đưa gia đình nhỏ của mình đến phía Đông Ấn Độ, nơi rất nhiều di tích còn lại của loài vượn tiền sử đã được tìm thấy trong nhiều năm qua. Dubois khẳng định chắc chắn đây chính là nơi mà những mắt xích còn khuyết đó đang chờ đợi được khám phá. Vì Dubois không được chính phủ hay bất kỳ tổ chức nào tài trợ nên cuộc sống mới của anh và gia đình hết sức khó khăn. Dubois mắc bệnh sốt rét, còn đứa con mới sinh của hai vợ chồng thì qua đời vì một căn bệnh nhiệt đới. Công việc nghiên cứu rất gian nan, họ thám hiểm những vùng đất hoang, những nơi rậm rạp, đi sâu vào những hang động chưa từng có dấu chân người và thậm chí còn phải đối mặt với nhiều loài thú dữ. Sau ba năm miệt mài nghiên cứu, Dubois đã phát hiện ra chân lý. Tháng Mười năm 1891, nhóm nghiên cứu của Dubois thám hiểm tại vùng đất Ngawi, nơi được mệnh danh là “chốn tận cùng của xứ Java”. Ngawi là một vùng đất hoang có khí hậu nóng, được hình thành từ những đợt phun trào nham thạch thời cổ đại. Một ngày nọ như bao ngày bình thường khác, nhóm nghiên cứu tình cờ tìm thấy một vật có hình dạng giống như một gáo dừa khô. Sau khi quan sát kỹ, mọi người nhận ra một điều bất ngờ. Đó là một hộp sọ. Dubois kể lại: “Gần phía bờ trái dòng sông, chúng tôi khai quật được một mẫu sọ người có xương trán rất đẹp”. Hộp sọ này chắc chắn không phải của loài vượn người: “Đồng thời, dựa theo sự hiểu biết về các loài, chúng ta có thể phân biệt được hộp sọ này với hộp sọ của loài tinh tinh hiện tại: thứ nhất bởi vì nó có kích thước lớn hơn, và thứ hai là vì hộp sọ này có vầng trán cao hơn”. Ở gần nơi tìm thấy hộp sọ, Dubois phát hiện một mẫu xương chân rõ ràng là có liên quan đến chiếc hộp sọ này; ắt hẳn cùng thuộc một người. Xương đùi của mẫu xương này cho thấy nó đã từng bị tổn thương khá nặng, vết thương có vẻ như do một ngọn mác gây ra và sau đó đã lành. Phát hiện này đặc biệt có ý nghĩa bởi vì nó cho thấy chủ nhân của hộp sọ và khúc xương đã được cộng đồng chăm sóc, bởi nếu không được chăm sóc thì vết thương chắc chắn đã khiến cho sinh vật này không đi lại được và không thể tiếp tục tồn tại đến khi vết thương lành hẳn. Dubois biết mình đang đi đúng hướng. Tất cả manh mối đều dẫn đến một kết luận: đây là một chủng loài tiền sử mới, chủng loài có mức tiến hóa cao hơn loài vượn người và vẫn chưa hoàn toàn phát triển như con người. Và đặc biệt, quá trình tiến hóa này rất giống với sự tiến hóa của loài người chúng ta. Đây quả thật là một chủng loài đứng thẳng. Dubois viết về phát hiện của mình: “Xương đùi của sinh vật này có cấu trúc và chức năng tương tự như xương đùi của con người”. Sự khác biệt lớn nhất là ở cấu trúc và kích thước của hộp sọ. Hộp sọ được tìm thấy có kích thước nhỏ hơn kích thước hộp sọ của con người hiện đại. Vậy là mắt xích còn khuyết đã gợi cho chúng ta những hình dung về một loài sinh vật có dáng vẻ cơ thể giống người và có bộ não nhỏ hơn. Dubois cảm thấy rất phấn chấn với phát hiện mới này. Anh ghi chép tất cả manh mối, minh họa mô hình khung xương và cẩn thận xác minh các kết quả. Nhưng phản ứng mà Dubois nhận được từ giới khoa học lại không như anh mong đợi. Một chuyên gia sau khi xem xét kích thước hộp sọ do Dubois tìm thấy đã cho rằng đấy chỉ là một trường hợp bị chứng suy giảm kích thước hộp sọ (một dạng rối loạn tế bào thần kinh khiến hộp sọ bị teo nhỏ đi) “theo một kiểu thuôn dài bất thường”. Một ý kiến khác thì cho rằng mẫu xương hóa thạch này là của một “loài vượn khổng lồ nào đó”. Một số khác lại khẳng định hộp sọ và mẫu xương đùi này không phải của cùng một cá thể. Dubois cố gắng bảo vệ quan điểm của mình, nhưng trong suốt nhiều năm, khám phá của anh vẫn chưa được mọi người công nhận. Nếu chúng ta xem xét câu chuyện này dưới tác động của hiện tượng tâm lý sa đà vào những suy nghĩ đã được tạo dựng chắc chắn trước đó, như đã đề cập ở những chương trước, chúng ta sẽ hiểu được vì sao các nhà khoa học lại phủ nhận phát hiện của Dubois. Vào thời điểm đó, giới nghiên cứu nhân chủng học đều sa vào lối mòn của những quan điểm cứng nhắc về tiến hóa. Câu chuyện về một sinh vật thuộc chủng loài người có bộ não nhỏ, di chuyển bằng hai chân và sống theo cộng đồng rõ ràng là không phù hợp với quan điểm đương thời. Như vậy, việc phủ nhận khám phá của Dubois và cho rằng phát hiện của anh chỉ là mẫu hài cốt của một người dị thường, hoặc một loài vượn lạ sẽ dễ dàng hơn rất nhiều so với việc phải thay đổi một lý thuyết lâu đời về quá trình tiến hóa của loài người. Trước phản ứng của mọi người, Dubois cảm thấy bị xúc phạm. Anh tự hào mình là một nhà khoa học, và anh hy vọng các nhà khoa học khác sẽ tôn trọng cũng như chấp nhận phương pháp luận chặt chẽ và logic của mình. Dù gì đi nữa, anh vẫn cẩn thận ghi chép cụ thể về quá trình nghiên cứu và minh họa các mẫu xương tìm thấy trong lúc khai quật. Và mẫu vật hóa thạch, một trong những khám phá vĩ đại nhất trong lịch sử ngành nhân chủng học này, chính là mẫu vật đại diện cho chủng loài người đứng thẳng (tên khoa học là Homo erectus) như ngày nay chúng ta đã biết, khi đó đã được lưu giữ trong nhà của Dubois suốt vài chục năm. Phản ứng của các nhà khoa học đối với Dubois vào thế kỷ mười chín là một chìa khóa then chốt giúp chúng ta tìm hiểu một tác động tâm lý khác. Những phản ứng đó có thể được giải thích một phần là do niềm tin cố hữu vào thuyết tiến hóa đã có trước đó, một phần là do các tác động tâm lý khác đã tồn tại và tạo nên phản ứng này. Đây chính là lúc tâm lý bảo thủ kết hợp với hiện tượng quy kết giá trị; đó chính là xu hướng chúng ta thường phán xét một người, một sự việc dựa vào những đánh giá quy kết mà không dựa trên các thông tin khách quan. Để hiểu được hiện tượng quy kết giá trị đã diễn ra và tác động như thế nào đến giới nghiên cứu nhân chủng học trong câu chuyện kể trên, chúng ta hãy ghé đến một sân ga tàu điện ngầm ở thủ đô Washington của Mỹ thời hiện đại. Vào một buổi sáng tháng Giêng năm 2007, sân ga tàu điện ngầm bên dưới trung tâm thương mại L’Enfant Plaza chợt vang lên tiếng nhạc du dương, lãng đãng. Chính xác lúc ấy là 7 giờ 51 phút sáng, ngay trong giờ cao điểm. Một người đàn ông mặc bộ đồ jeans với vẻ ngoài bình thường, đầu đội chiếc mũ của vận động viên bóng chày, bất ngờ xuất hiện và lấy cây đàn violon trị giá 3,5 triệu đô la từ trong túi đựng, bắt đầu dạo những khúc nhạc đầu tiên. Người đàn ông đó chính là Joshua Bell, một trong những nghệ sĩ violon tài hoa nhất thời đại, người thường xuyên biểu diễn trước hàng ngàn khán giả trong những phòng hòa nhạc vào loại bậc nhất. Joshua Bell xuất hiện như một người vô danh trước những hành khách đi tàu điện ngầm do ông đang tham gia vào một cuộc nghiên cứu bí mật của tờ Washington Post. Buổi biểu diễn của Bell bắt đầu bằng bản sonate và các tổ khúc độc tấu dành cho violon của Bach - một trong những bản nhạc khó chơi nhất được soạn cho nhạc cụ này. Buổi biểu diễn vẫn tiếp tục suốt hơn bốn mươi phút nữa nhưng quang cảnh buổi sáng tháng Giêng tại sân ga tàu điện ngầm vẫn không chút thay đổi. Không hề có một tràng vỗ tay tán thưởng nào vang lên. Và cũng không có ánh sáng chớp lóe của các camera. Một trong những nghệ sĩ violon nổi tiếng nhất thế giới đang chơi nhạc miễn phí tại sân ga tàu điện ngầm mà không một ai tỏ vẻ quan tâm đến cả. Trong khoảng 1.097 người đi ngang qua Bell, hầu như không một ai dừng lại. Một người đàn ông lắng nghe bản nhạc vài phút, một đôi thanh niên giương mắt nhìn thẳng người nhạc sĩ và một phụ nữ bất ngờ nhận ra Bell đã nhìn ông chằm chằm vì kinh ngạc. Lúc này, hành khách đi tàu điện ngầm có lẽ quá bận rộn nên không hề chú ý đến Bell. Nhưng rõ ràng là nếu có các tay máy đi săn tin hay nếu có người biết đến người nghệ sĩ tài hoa này thì ít nhất cũng sẽ có một vài người dừng lại để lắng nghe. Nhưng hãy xem cách Joshua Bell xuất hiện trước các hành khách đi tàu điện ngầm. Ông không hề chải chuốt ngoại hình của mình, cũng không đứng trên bục cao để biểu diễn. Dù với chủ ý hay mục tiêu nào đi nữa thì Bell cũng trông giống một người bình thường, một nghệ sĩ biểu diễn trên đường phố. Tuy tiếng nhạc của ông thể hiện kỹ thuật điêu luyện vượt trội, nhưng vẻ bề ngoài lại xóa nhòa tất cả. Vì không nhận ra Bell, mọi người đã đánh giá buổi biểu diễn này dựa trên những điều họ tận mắt trông thấy - một chiếc mũ bóng chày, bộ đồ jeans, và không gian là tại sân ga tàu điện ngầm. Họ cứ đi lướt qua Bell, thậm chí hầu như không một ai nhìn về phía ông. Thế là thay vì được thưởng thức một buổi biểu diễn âm nhạc tuyệt vời thì chính họ lại chỉ nghe vang lên trong tai mình thứ âm nhạc đường phố họ vốn không coi trọng. Những hành khách bỏ qua buổi biểu diễn của Bell đã rơi vào hiện tượng tâm lý quy kết giá trị, tương tự trường hợp các nhà nhân chủng học khi họ phủ nhận khám phá của Dubois. Tất cả manh mối liên quan đến mẫu hóa thạch do Dubois tìm thấy đều bị cộng đồng khoa học đánh giá là không có giá trị, đơn giản chỉ vì Dubois - người khám phá điều quan trọng này chỉ là một người bình thường không chút tiếng tăm. Các nhà khoa học châu Âu đã đặt mình ở vị trí quá cao khi xem xét kết quả khảo cổ ở “chốn tận cùng của xứ Java”. Tình huống này cũng giống như Dubois đang cầm một chiếc đàn violon Stradivarius trong tay nhưng không hề được ai chú ý đến bởi vì ông đang đội chiếc mũ của vận động viên bóng chày, khoác trên người một bộ đồ jeans và đứng tại sân ga tàu điện ngầm. Tuy vậy, việc các nhà khoa học và hành khách trên sân ga có phản ứng như vậy cũng là điều dễ hiểu. Nói tóm lại, hiện tượng quy kết giá trị đã diễn ra như một phím tắt tâm lý để đánh giá giá trị của sự chú ý ở mỗi người. Khi chúng ta đối diện với một vật thể, một người hoặc một tình huống, giá trị ban đầu mà chúng ta quy kết sẽ định hình quan niệm sau này của chúng ta dành cho đối tượng đó. Chẳng hạn, hãy tưởng tượng khi bạn lục tung một chiếc tủ bị vứt bỏ bên đường, có bao giờ bạn nghĩ đó là một báu vật hiếm có hay không? Hay bạn phản ứng bằng một cái đá chân và cho rằng chiếc tủ này ắt hẳn bị hư hỏng rồi? Tương tự như vậy, chúng ta cũng thường không chú tâm đến lời khuyên hay ý tưởng của một người bình thường và vô tư nghe theo lời khuyên của một người đức cao vọng trọng. Tuy nhiên, điều đó cũng không có nghĩa là danh hiệu của một người không nói lên bất kỳ điều gì hoặc giá cả sản phẩm không giúp bạn xác định được giá trị thật của nó. Nhưng nếu chỉ tin vào bảng giá được niêm yết (dù là ngang giá hay không ngang giá) thì chính chúng ta đã thỏa hiệp với tư duy lý tính của mình. Hãy nghe câu chuyện về phản ứng của các du khách đến thăm đảo Coney và đến cửa hàng thực phẩm mới khai trương của Nathan Handwerker. Khi bắt đầu sự nghiệp kinh doanh vào năm 1916, người di dân gốc Ba Lan này đã quyết định bán hàng với giá thấp hơn giá thị trường. Các cửa hàng khác đều để giá 10 xu cho một chiếc bánh hot dog, vốn là món ăn quen thuộc ở đảo Coney, trong khi đó Handwerker chỉ treo giá 5 xu cho những sản phẩm được làm theo công thức quen thuộc của vợ ông. Dù rằng những chiếc hot dog của Handwerker cũng thơm ngon (được làm từ thịt bò tươi nguyên chất) như bánh của các cửa hàng đối thủ, nhưng ông hầu như không thể thu hút được khách đến với cửa hàng của mình. Những du khách đến đảo Coney đã nhìn những chiếc bánh hot dog có giá niêm yết chỉ bằng nửa giá thị trường này như một loại thức ăn dưới chuẩn và còn hoài nghi rằng có phải ông đã sử dụng những nguyên liệu rẻ tiền hay chất lượng kém để làm bánh hay không. Và mọi việc càng tồi tệ hơn khi Handwerker quyết định tặng thêm nước xốt hoặc vài lát thịt bò vào bánh; doanh thu bán hàng chẳng những không tăng lên mà tâm lý quy kết giá trị ở người tiêu dùng càng phát huy sức mạnh. Mãi cho đến khi Handwerker nghĩ ra một ý tưởng thông minh khác, ông mới có thể làm cho doanh số bán hàng ở cửa hàng của mình được cải thiện. Ông thuê các bác sĩ ở một bệnh viện gần đó đứng cạnh cửa hàng của ông và thưởng thức những chiếc bánh hot dog trong lúc vẫn đang mặc áo blouse trắng và đeo ống nghe. Thường thì mọi người vẫn đặt trọn niềm tin vào các bác sĩ nên khách hàng nghĩ rằng nếu bác sĩ cũng dùng món ăn đó nghĩa là món này tốt cho sức khỏe. Họ bắt đầu đến mua bánh ở cửa hàng của Handwerker và thương hiệu “Hot dog nổi tiếng của Nathan” ra đời từ đó. Câu chuyện đặt ra cho chúng ta câu hỏi: liệu đã bao nhiêu lần chúng ta bỏ lỡ những thứ thực sự có giá trị chỉ vì tâm lý phán xét theo kiểu quy chụp của mình? Nhưng những định kiến cũng mang hai ý nghĩa rõ rệt. Như chúng ta đã biết, hiện tượng quy kết giá trị xảy ra với Eugene Dubois đã khiến giới nghiên cứu khoa học phủ nhận phát hiện của anh và xem anh như một kẻ bất tài sáo rỗng. Sau khám phá vĩ đại của Dubois, rất nhiều mẫu hóa thạch khác của người tiền sử đã được tìm thấy khắp thế giới. Nhưng nước Anh vẫn không công bố khám phá của Dubois mà đợi cho đến khi Charles Dawson xuất hiện… Khác với Dubois là một nhà khoa học người Hà Lan không mấy tiếng tăm, khi ấy Dawson đã là một nhà nghiên cứu người Anh nổi tiếng, từng được đề cử vào Hội Địa lý xã hội Luân Đôn. Dawson từng kể với đồng nghiệp của mình rằng ông đã bò trườn dọc theo một con đường bẩn thỉu bên ngoài Piltdown Common ở Sussex và tình cờ phát hiện một vật thể rắn. Vật thể này rõ ràng không thể thuộc về thế giới hiện đại, thế nên Dawson đã tìm hỏi những người đào mương gần đó. Họ xác nhận đã đào thấy vật này và ném nó trên đường. Dawson cho biết ông thường xuyên đến gặp những công nhân đào đường, và một lần nọ, họ đã cho ông một hộp sọ người. Nhiều tháng sau đó, rất nhiều mảnh hộp sọ bí ẩn với bộ xương hàm còn nguyên vẹn đã xuất hiện. Từ những mảnh di vật này, Dawson mang tất cả đến bảo tàng Luân Đôn. Sau khi tính toán, ông đặt một chiếc răng của một loài voi cổ vào bộ xương hàm và phỏng đoán mẫu vật này có lẽ đúng là một cư dân tiền sử sống lang thang trên vùng đồng cỏ xa-van nước Anh. Điều quan trọng chúng ta cần lưu ý rằng mẫu vật mà Dawson đưa ra là ngụy tạo (mẫu vật này được đặt tên là người Piltdown). Bởi vì hộp sọ được tìm thấy là của một người sống vào thời Trung cổ nhưng đã được phủ một lớp sơn màu nâu để cho ra kết quả là một số tuổi lớn hơn rất nhiều. Bộ xương hàm là của một loài đười ươi hiện đại mà những chiếc răng đã được mài giũa để trông khác biệt đi. Không cần phải là Sherlock Holmes thì chúng ta vẫn có thể nhận ra mẫu nghiên cứu của Dawson là đồ giả. Để mô tả đúng nhất hình dáng được cho là người Piltdown thì chỉ cần xem các đặc điểm của nhân vật hoạt hình Homer Simpson. Theo ghi chép của người phụ trách Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Anh, Piltdown “có dáng đi khập khiễng, di chuyển bằng cách kéo lê chân, nhưng bộ não và hộp sọ của nó rất giống với của con người và chỉ còn sót lại một vài đặc điểm của loài vượn người mà thôi”. Nhưng khi các nhà khoa học Anh xem xét mẫu vật của Dawson, họ hoàn toàn không nghi ngờ gì mẫu vật ngụy tạo này. Họ phấn khích trước một khám phá mới bởi vì phát hiện này xác nhận cho hai niềm tin đã được ấp ủ bấy lâu nay. Thứ nhất, người Piltdown chứng minh cho quan điểm nền văn minh của loài người bắt nguồn từ nước Anh. Một nhà nhân chủng học đã hãnh diện lên tiếng: “Tôi thật sự vui sướng khi nghĩ rằng nước Anh là cái nôi trong quá trình tiến hóa của loài người”. Các nhà khoa học tỏ ra rất thiện cảm với mẫu hóa thạch được tìm thấy. Họ xem người Piltdown là tổ tiên ở thời cổ đại, một con người từ buổi bình minh của nhân loại. Một cái trụ thẳng đứng đã được dựng lên ngay tại rãnh mương mà Dawson tuyên bố đã tìm thấy các mẫu xương, trên thân cột khắc dòng chữ ngạo nghễ: “Chính nơi đây ngài Charles Dawson đã tìm thấy mẫu hóa thạch hộp sọ người Piltdown”. Ngoài ra, người Piltdown cũng xác nhận quan điểm của các nhà khoa học rằng mắt xích còn khuyết trong quá trình tiến hóa của loài người chúng ta ắt hẳn phải có bộ não phát triển như của con người nhưng vẫn còn những đặc điểm của loài vượn người. Giá mà mẫu hóa thạch người đứng thẳng của Dubois nhận được dù chỉ một nửa những lời tán dương như thế. Đáng buồn là có rất ít nhà nhân chủng học chấp nhận kết quả nghiên cứu của Dubois. Ngược lại, người Piltdown lại được đông đảo giới nghiên cứu khoa học tôn vinh. Tuy nhiên, may mắn là chỉ vài thập niên sau đó, vào năm 1952, giới khoa học cuối cùng cũng phải bác bỏ mẫu vật ngụy tạo của Dawson. Vì sao cả cộng đồng khoa học lại phủ nhận khám phá vĩ đại của Dubois và tôn vinh sai lầm của Dawson? Một lần nữa, hiện tượng quy kết giá trị lại khẳng định sức ảnh hưởng của nó. Nếu Dubois khoác lên người chiếc mũ của vận động viên chơi bóng chày và bộ quần áo jeans thì Dawson lại được phục trang cầu kỳ trong bộ lễ phục trang trọng trong nhà hát. Nói cách khác, Dawson chính là biểu tượng của danh tiếng và sự vượt trội, những khám phá của ông mặc nhiên được công nhận có giá trị cao. Mặt khác, Dawson khẳng định ông đã tìm thấy các mẫu vật khảo cổ ngay trên lãnh thổ nước Anh chứ không phải ở “chốn tận cùng của xứ Java” và hộp sọ được tuyên bố là của người Piltdown thì khá lớn và có nhiều khác biệt so với kích thước tương đối nhỏ (và giống với loài vượn người) của hộp sọ do Dubois tìm thấy. Trong khi phần lớn chúng ta có thể dễ dàng phân biệt một mẫu hóa thạch thật sự với một hộp sọ được nhuộm màu thì hãy đặt mình vào vị trí của các nhà khoa học Anh thì khi ấy, tất cả các cơ quan có thẩm quyền đều coi trọng và tôn vinh khám phá của Dawson. Giới truyền thông tỏ ra phấn khích và ban lãnh đạo của bảo tàng Anh đã lên tiếng bảo trợ cho cuộc nghiên cứu. Khi chúng ta đã xác định giá trị của một người hoặc một sự việc rồi thì những quan điểm xuất hiện sau đó của chúng ta sẽ bị những định kiến sẵn có chi phối đáng kể. Sức ảnh hưởng của hiện tượng quy kết giá trị tác động đến chúng ta rất lớn, ngay cả khi những giá trị đó được mặc định theo hướng tiêu cực và độc đoán. Để hiểu rõ hơn quá trình này, chúng ta hãy ghé thăm một nhóm các nhà kinh tế tiến hành một thí nghiệm có sử dụng SoBe Adrenaline Rush - một thức uống được khẳng định có tác dụng gia tăng cảm xúc tinh thần. Để xác định mức độ tác động của loại thức uống này lên cảm xúc, các nhà nghiên cứu đã đưa ra một thử thách về ngôn ngữ trong ba mươi phút cho đối tượng được khảo sát là ba nhóm sinh viên. Nhóm thứ nhất, nhóm đối chứng, họ tham gia cuộc khảo sát mà không uống SoBe. Nhóm thứ hai được thông báo về tính năng gia tăng chỉ số thông minh của SoBe, được uống thử loại thức uống này và được yêu cầu xem một đoạn băng trong lúc chờ đợi hoạt chất trong SoBe phát huy tác dụng. Các sinh viên này cũng được yêu cầu ký vào một mẫu xác nhận đồng ý cho các nhà nghiên cứu tính phí 2,89 đô-la cho một chai SoBe và trừ vào tài khoản của họ ở trường đại học. Chúng ta sẽ gọi nhóm sinh viên thứ hai là nhóm phấn khích. Và nhóm sinh viên cuối cùng cũng được giới thiệu về tính năng của SoBe nhưng họ được thông báo rằng trường đại học nhận được ưu đãi giảm giá và vì vậy các sinh viên chỉ phải chịu phí 89 xu cho một chai SoBe. Chúng ta sẽ gọi nhóm thứ ba là nhóm được giá hời. Kết quả của cuộc khảo sát đã mang đến nhiều điều bất ngờ. So với những người không uống SoBe, nhóm phấn khích có gia tăng chỉ số cảm xúc nhưng không nhiều lắm. Tuy nhiên, trước khi chạy ngay ra cửa hàng và mua một chai SoBe để thử ngay tính năng kỳ diệu của nó, bạn cần biết rằng nhóm sinh viên thứ ba, những người được trải nghiệm SoBe với giá hời, lại phản ứng rất tệ so với cả nhóm phấn khích và nhóm không được thử SoBe. Cùng một loại thức uống SoBe được mang ra thử nghiệm, nhưng chính giá trị mà các sinh viên quy kết cho loại thức uống này đã tạo ra sự khác biệt trong kết quả khảo sát. Thật đáng ngạc nhiên: nhóm sử dụng SoBe nhưng phải trả phí cao có phản ứng tốt hơn trong khi nhóm sử dụng SoBe nhưng trả mức phí thấp hơn lại có phản ứng lề mề hơn. Dan Ariely, một trong các tác giả của cuộc nghiên cứu, nói với chúng tôi: “Điều đáng nói chính là sự kỳ vọng làm thay đổi thực tế mà chúng ta đang sống và đối mặt”. Giá trị mà chúng ta quy kết cho một sự vật, sự việc tác động đáng kể đến cách nhìn của chúng ta về sự vật, sự việc đó. “Khi nhận được ưu đãi giảm giá cho một món hàng, sự kỳ vọng tích cực trong bạn mất đi”. Và khi đã quy kết một giá trị cho một sự việc, chúng ta rất khó nhìn nhận sự việc đó theo một hướng khác. Khi Joshua Bell khoác lên mình bộ trang phục sang trọng và biểu diễn tại hội trường nhà hát, thì tài năng của ông lại nhận được sự tưởng thưởng của khán giả. Nhưng khi Bell cũng chơi loại nhạc cụ đó, cũng bản nhạc đó nhưng “hạ mình” biểu diễn ở sân ga tàu điện ngầm thì ông chỉ được mọi người nhìn như một nghệ sĩ đường phố. Bất kỳ lúc nào chúng ta bị đặt vào tình huống phải phán xét, hiện tượng quy kết giá trị sẽ đóng một vai trò quan trọng và thường tác động đến phản ứng của chúng ta trước một người hay một sự vật. Chẳng hạn như đối với một bộ phim tuy chưa xem qua nhưng bạn đã nhận được những lời nhận xét về bộ phim đó thì ít nhiều bạn cũng hình thành một số nhận định ban đầu về nó. Thậm chí đối với những thú tiêu khiển hay giải trí của chính mình, chúng ta cũng không thoát khỏi tầm ảnh hưởng của hiện tượng tâm lý này. Điều này có vẻ đã phủ nhận quan điểm của Shakespeare: hoa hồng dù được gọi bằng tên gì thì vẫn thơm ngào ngạt. Đến Columbus – thủ phủ của bang Ohio, nơi tọa lạc trường Đại học bang Ohio, bạn sẽ không tìm thấy một nhà hát nào như kiểu nhà hát Broadway(1). Tuy nhiên, các sinh viên cũng như người dân nơi đây đều rất hài lòng và yêu thích các chương trình của Nhà hát bang Ohio. Chỉ với 15 đô-la, bất kỳ khán giả mộ điệu nào cũng có thể mua được vé trọn gói và được thưởng thức tất cả mười chương trình trong lịch diễn của sáu tháng sau đó. Sáu mươi khán giả đầu tiên đến mua vé xem hát trọn gói vô tình trở thành vai chính trong một cuộc nghiên cứu kinh tế mà không được báo trước. Nhóm điều hành cuộc nghiên cứu giải thích: “Sau khi người mua yêu cầu mua một vé xem hát trọn gói, người bán vé sẽ bán cho họ một trong ba loại vé trước đó đã được sắp xếp ngẫu nhiên”. Một phần ba số vé bán ra là loại vé thông thường cho phép người mua đến xem thường xuyên các suất diễn với giá vé vừa đúng 15 đô-la; một phần ba số vé được giảm giá 2 đô-la mỗi vé; và một phần ba còn lại được ưu đãi giảm giá đến 7 đô-la cho mỗi lượt mua. Những người mua vé với giá rẻ hơn được cho biết lý do của việc giảm giá là bắt nguồn từ chiến dịch giảm giá của nhà hát. Tuy nhiên, cả ba loại vé trên đều được sắp xếp những chỗ ngồi ưu tiên như nhau. Có vẻ mức giá mà chúng ta bỏ ra để mua vé ảnh hưởng rất nhiều đến thái độ yêu thích của chúng ta đối với các buổi biểu diễn. Dù rất khó để đánh giá giá trị mà các khán giả nhận định về một vở kịch vì chúng ta không biết được họ vỗ tay tán thưởng cuồng nhiệt như thế nào hoặc mỗi người đã cố gắng nở nụ cười ra sao, nhưng chúng ta có thể dựa vào tần suất trở lại nhà hát của họ sau mỗi buổi biểu diễn. Như các nhà nghiên cứu đã cho biết: tất cả những người đến nhà hát đều được chuẩn bị chỗ ngồi tiện nghi như nhau trong suốt mười vở kịch của suất diễn.Dưới lăng kính duy lý của các nhà kinh tế học: tất cả khán giả sẽ có cùng mức độ hứng thú và sẵn sàng đến xem các vở kịch tiếp theo. Nhưng những khán giả phải chi đúng 15 đô-la cho một vé trọn gói đã tiếp tục đến xem các buổi biểu diễn sau đó nhiều hơn những người nhận được ưu đãi giảm giá. Có thể giải thích hiện tượng này như sau: những người cầm tấm vé có giá 15 đô-la cho rằng mỗi lần đến xem một buổi biểu diễn sẽ bù dần tổng số tiền bỏ ra mua tấm vé trọn gói ban đầu. Do vậy, họ đến nhà hát để xem nhiều vở kịch hơn bởi vì mức đầu tư của họ cao hơn. Nhưng không có sai khác nhiều giữa mức độ đi xem biểu diễn của hai đối tượng mua vé còn lại. Nếu nghĩ rằng tâm lý muốn bồi hoàn số tiền mua vé ban đầu chỉ là tác động duy nhất, thì bạn hoàn toàn có thể hy vọng nhóm khán giả nhận được mức ưu đãi 7 đô la sẽ chấp nhận bỏ qua nhiều buổi biểu diễn hơn nhóm khán giả nhận được ưu đãi 2 đô- la. Nhưng đây chưa phải là vấn đề. Mức độ được giảm giá không ảnh hưởng đến hành vi của người mua vé mà điều tác động đến hai nhóm khán giả này chính là việc họ đã nhận được ưu đãi hơn một số người còn lại. Tâm lý quy kết giá trị xuất hiện khi họ cầm trong tay tấm vé được giảm giá: Bất kể mức giảm là bao nhiêu thì họ cũng đã đánh giá thấp tấm vé và chất lượng của buổi biểu diễn. Sau khi đã tìm hiểu tâm lý quy kết giá trị ảnh hưởng như thế nào đến khả năng phán xét của các nhà nhân chủng học, hành khách đi tàu điện ngầm, những người mua hot dog, những người thử nước uống SoBe và các khán giả mua vé xem kịch, chúng ta hãy trở lại với câu chuyện của Dean Falk và khám phá vĩ đại tại đảo Flores. Khoa học đã chứng kiến nhiều sự thay đổi kể từ thời của Dubois và Dawson, nhưng chúng ta đã thấy thất bại của mẫu vật người Piltdown và sự tiến bộ của các kỹ thuật mới vẫn không làm cho các nhà nhân chủng học hiện đại thoát khỏi sức ảnh hưởng của tâm lý quy kết giá trị. Thông tin bất ngờ mà David Hamlin của hội Địa lý xã hội quốc gia Mỹ chia sẻ với Falk là việc Mike Morwood đã khám phá ra ai là người đã tạo nên những công cụ đá tinh xảo được tìm thấy trên đảo Flores. Có vẻ như hòn đảo này không chỉ là nơi sinh sống của loài thằn lằn hay loài voi mà còn là nơi sinh sống của một chủng loài người nhỏ bé. Chính chủng loài không được biết đến này đã sử dụng những công cụ bí ẩn được tìm thấy để săn bắt những con voi lùn. Nếu sự tồn tại của chủng loài người bí ẩn (thường được gọi là người lùn Hobbit) có tên khoa học là Homo floresiensis này được xác nhận thì một số nghi vấn sẽ được sáng tỏ, bởi trước đây các nhà khoa học chưa từng phát hiện một chủng loài người hoặc một loài vượn người nào từng xuất hiện trên đảo Flores. Nhưng điều thú vị hơn chính là khám phá này đã cung cấp nhiều thông tin quý giá cho câu chuyện về quá trình tiến hóa của loài người: loài người và người lùn Hobbit cùng tồn tại trong thời gian khoảng mười hai nghìn năm trước – rất lâu sau khi tất cả những chủng loài họ người khác bao gồm cả người Neanderthal bị tuyệt chủng. Mặc dù rất phấn khích với khám phá này nhưng Falk hiểu rằng cô nên tiếp nhận vấn đề một cách khách quan và cẩn trọng. Cô trả lời với Hội Địa lý quốc gia: “Câu chuyện này mang rất nhiều ý nghĩa quan trọng, chính vì vậy nó đòi hỏi sự chính xác tuyệt đối”. Sau đó, Falk đã tham gia cùng một nhóm nghiên cứu ở St. Louis để tiến hành xác minh về sự tồn tại của người lùn Hobbit. Một lần nữa, vấn đề then chốt của cuộc điều tra chính là bộ não. Falk hy vọng làm sáng tỏ mọi việc bằng cách tái tạo hình dạng cấu trúc não bằng phương pháp endocast. Cô giải thích: “Phương pháp endocast cho phép phân tích những tế bào não còn sót lại trên thành vỏ não”. Kết quả phân tích sẽ ghi nhận đầy đủ các tì vết trên não mà theo Falk “có thể mang lại câu trả lời và nhiều ý nghĩa quan trọng”. Mặc dù không phải toàn bộ mẫu hộp sọ đều còn đủ các chi tiết để tiến hành phân tích, nhưng rất may,“người Hobbit đã mang đến cho chúng ta một kết quả phân tích thật kỳ diệu.” – Falk nói với chúng tôi. Bạn có thể tưởng tượng rằng các nhà khoa học đã hồi hộp như thế nào khi bảng phân tích endocast hoàn thành. Phần thú vị nhất của mô hình tái tạo bộ não chính là một mấu nhỏ ngay phía đầu chóp trước khẳng định sự tồn tại của xương trán phía trên mũi – vùng này được định vị là vùng BA10 (Brodmann Area 10). Đây là một phát hiện quan trọng, bởi vì vùng BA10 “là một sự phát triển bậc cao trong cấu trúc não bộ của con người hiện đại”. Falk nói thêm: “Đó là nơi hình thành tư duy, lên kế hoạch, suy nghĩ và mơ mộng”. Việc người lùn Hobbit sớm hoàn thiện và phát triển vùng não BA10 cho thấy họ có khả năng suy nghĩ trừu tượng. Falk rất bất ngờ với kết quả này: “Tôi chưa từng thấy một sự kết hợp như vậy trong bất kỳ bộ não nào trước đây, vì vậy chúng tôi chỉ có thể nói rằng đây thật sự là một bộ não có kích thước nhỏ nhưng lại là một bộ não phi thường”. Nhận định của Falk hứa hẹn mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng khác. Nhưng nhóm nghiên cứu vẫn chưa hoàn toàn công nhận sự tồn tại của một chủng loài người mới. Falk giải thích rằng để có thể khẳng định chính xác, họ cần phải so sánh bảng phân tích endocast của người lùn Hobbit với các mẫu vật sau: “một phụ nữ thấp bé, một con vượn cái, một người phụ nữ bình thường, một phụ nữ thuộc chủng loài người đứng thẳng và thậm chí một người mắc chứng suy giảm kích thước hộp sọ bởi một số người cho rằng người lùn Hobbit không có thật mà chỉ là một người thuộc chủng loài người khôn ngoan (Homo sapiens) nhưng bị suy giảm chức năng do bệnh lý”. Cuộc thử nghiệm bắt đầu diễn ra. Falk nói: “Tôi xem xét tất cả các kết quả phân tích được đặt xung quanh và bảng endocast của người lùn Hobbit đặt ngay vị trí trung tâm. Hình ảnh trên kết quả endocast cho thấy bộ não của người lùn Hobbit rất giống bộ não của chủng loài người đứng thẳng (Homo erectus). Nó cũng có vài đặc điểm tương tự với các chủng loài người tiền sử khác. Tôi nhớ đã chia sẻ kết quả này với David Hamlin và đó là khoảnh khắc tuyệt vời nhất”. Falk và nhóm nghiên cứu tiến hành các phép đo lường, tính toán và ghi chép các kết quả tìm được để công bố trên tạp chí Science. Qua nhiều lần kiểm tra gắt gao và phân tích những khả năng có thể xảy ra, cuối cùng Falk đã đoan chắc: “Dựa trên kết quả nghiên cứu của nhóm và của các nhà khoa học khác, tôi khẳng định sự tồn tại của người lùn Hobbit, và đây hoàn toàn là một chủng loài mới thuộc họ người”. Nói cách khác, người lùn Hobbit có kích thước bộ não nhỏ hơn những chủng loài người nguyên thủy khác bởi vì họ sống tách biệt trên đảo. Falk không giấu được niềm phấn khởi: “Hình dạng cơ thể người lùn Hobbit rất đặc biệt, cấu trúc bộ não của họ cũng rất đặc biệt. Trước đây chưa từng có một phát hiện nào tương tự như thế”. Nhưng thay vì tôn vinh khám phá vĩ đại này, các nhà nhân chủng học hiện đại thuộc những trường đại học và các bảo tàng ở Úc, Indonesia và Mỹ một lần nữa lại sa vào tâm lý quy kết giá trị. Họ dựa vào lịch sử nhân chủng học để kiên quyết bác bỏ sự tồn tại của người lùn Hobbit. Họ khăng khăng đó chỉ là một người bình thường nhưng bị hội chứng suy giảm kích thức hộp sọ. Mọi việc diễn ra tương tự như đã từng xảy đến với trường hợp của Eugne Dubois hơn một thế kỷ trước. Falk kể lại: “Tôi thấy khá ngạc nhiên trước phản ứng của mọi người bởi vì tôi cho rằng tôi là một người của khoa học. Tôi nghĩ: ‘Bây giờ đã là năm 2004. Chúng ta đã biết thêm được rất nhiều kể từ giai đoạn người Neanderthal’. Vì thế tôi cảm thấy bất ngờ trước phản ứng tiêu cực và các cuộc tranh cãi của mọi người – đôi lúc trở nên quá thô tục”. Giờ đây, việc các nhà nhân chủng học đặt nghi vấn về các phát hiện mới là điều có thể hiểu được. Ngay chính bản thân Falk cũng đã dùng tư duy khoa học một cách cẩn trọng trước khi công nhận sự thật rằng người lùn Hobbit là một chủng loài mới trong quá trình tiến hóa của loài người. Nhưng những nhà nhân chủng học lại phủ nhận dù họ tiếp cận với những dữ liệu chuẩn xác và khoa học nhất. Falk nói: “Chúng tôi đã nghiên cứu về hiện tượng suy giảm kích thước hộp sọ. Chúng tôi tính toán cẩn thận mọi khả năng và đây sẽ là điều tôi trả lời với họ. Chúng tôi sẽ chụp ảnh bộ não của họ và so sánh hình ảnh của người lùn Hobbit với họ. Chúng tôi sẽ cho họ thấy rằng đó không phải là trường hợp bị suy giảm kích thước hộp sọ. Và chúng tôi đã làm như thế”. Cuộc nghiên cứu sử dụng các dữ liệu thống kê phức tạp một lần nữa khẳng định kết quả nghiên cứu của Falk trước đó. Bất chấp các bằng chứng thuyết phục, một số nhà khoa học vẫn kiên quyết lắc đầu phủ nhận công trình nghiên cứu về người lùn Hobbit. Falk kể lại: “Họ nói rằng: ‘Mẫu vật của cô không đủ lớn. Chúng tôi muốn một mẫu hộp sọ lớn hơn của một người bị suy giảm kích thước não bộ’. Thật ra, mẫu thí nghiệm của chúng tôi đủ tiêu chuẩn và các dữ liệu thống kê có thể khẳng định tính chất phù hợp của mẫu vật này”. Ở một khía cạnh nào đó, Falk cảm thấy các nhà nhân chủng học này đã phủ nhận khoa học: “Tôi không thể tin được! Họ chỉ biết tranh cãi thôi. Không lý chưa từng có ai trong số họ nghe về khả năng này? Cách lập luận của họ không phải là khoa học chân chính”. Falk chia sẻ tiếp: “Họ nói rằng: ‘Có thể có một trường hợp suy giảm kích thước bộ não nào đó mà chúng ta vẫn chưa phát hiện được’”. Cô lặng người: “Sao các anh/chị lại hoài nghi về điều này?”. Tâm lý quy kết giá trị là một động lực tâm lý có sức mạnh làm chệch hướng khả năng phán xét khách quan và logic của con người. Như vậy, có thể hiểu rằng nhóm các nhà nhân chủng học của thời hiện đại đã không suy nghĩ dựa trên khoa học mà chỉ dựa vào tư duy cảm tính của mình. Falk giải thích rằng nếu họ tư duy đúng như một nhà khoa học, họ sẽ tìm ra những minh chứng đủ sức bác bỏ giả thuyết đang có. Chẳng hạn: nếu giả thuyết rằng tất cả cà chua đều màu đỏ, bạn có thể phủ nhận giả thuyết này bằng cách tìm ra một quả cà chua màu vàng. Falk nói với chúng tôi: “Điều tôi rút ra trong nghiên cứu của mình rằng [người lùn Hobbit] không phải là một trường hợp của hiện tượng suy giảm kích thước hộp sọ sẽ có thể bị bác bỏ nếu một mẫu thí nghiệm khác được chứng minh lấy từ một người bị suy giảm kích thước hộp sọ cho kết quả phân tích endocast tương tự. Và đây mới chính là khoa học”. Cuối cùng thì đây là nhận định của các nhà nhân chủng học: một chuyên gia nhân chủng học không mấy tiếng tăm, những mẫu xương hóa thạch ở Java và một bộ não bị teo nhỏ. Cũng như những vị tiền bối, họ không thể thay đổi một quan điểm cố hữu và cứ cương quyết cho rằng phát hiện này không có giá trị gì nên không phải là khoa học. Khi tâm lý quy kết giá trị phát huy tác dụng, nó hoàn toàn tác động tiêu cực đến khả năng ra quyết định của mỗi người. Tiếp theo, chúng ta sẽ thấy tác động tâm lý này có quan hệ mật thiết với một tác động khác – một tác động có thể tạo ra và hủy hoại sự nghiệp của một cầu thủ bóng rổ, khiến một người trợ giảng ở Học viện công nghệ Massachusetts (MIT) chiếm được cảm tình của sinh viên hay đánh mất nó như thế nào, và thậm chí tác động này còn cho chúng ta biết được hương vị của tình yêu… Chương 4 MICHAEL JORDAN VÀ LỐI PHỎNG VẤN “LẦN ĐẦU” Cũng giống như việc chọn lựa đội nào sẽ thi đấu cho các môn thể thao của trường, nhưng quyết định này còn mang tính sống còn vì hàng triệu đô-la có nguy cơ không cánh mà bay. Và thay vì cầu thủ là những học sinh cấp hai đang hồi hộp, thì họ là các vận động viên có thành tích cao nhất trên thế giới. Chào mừng bạn đến với giải đấu hàng năm của Liên đoàn Bóng rổ quốc gia Mỹ (NBA), nơi mà nếu chọn lựa được những vận động viên tài năng là có thể tạo nên rất nhiều sự khác biệt. Chọn lựa thật sớm và khôn ngoan, thế là bạn có thể có được một vận động viên ngôi sao trong tương lai. Điều đó giải thích vì sao các đội tham gia giải đấu thường niên của NBA lại hăm hở lao vào các cuộc thương lượng để giành lấy vị thế được lựa chọn tốt nhất. Chính tại nơi đầy cạnh tranh này mà đội Portland Trail Blazers đã tạo dựng vị thế cho mình vào năm 1984. Họ đạt được vị trí thứ hai trong một năm quy tụ rất nhiều vận động viên tài năng, và bốn vận động viên trong số đó về sau được xếp vào danh sách năm mươi vận động viên bóng rổ hay nhất mọi thời đại: Charles Barkley đạt giải thưởng All-Star NBA lần thứ mười một, Hakeem Olajuwon huyền thoại – người dẫn dắt đội bóng của mình hai lần đoạt chức vô địch NBA liên tiếp; John Stockton – người giữ thành tích tranh cướp bóng và điều tiết trận bóng hay nhất, và một vận động viên không cần phải giới thiệu dài dòng, chỉ cần nhắc đến tên là đủ – Michael Jordan. Khi đến lượt đội Blazers lựa chọn vận động viên, Olajuwon là người được xướng tên. Nhưng cũng khi đó đội Blazers lại bỏ qua Michael Jordan và tất cả những vận động viên ngôi sao trong tương lai khác. Thay vào đó, họ chọn Sam Bowie, anh là một vận động viên tài năng có chiều cao vượt trội (đến 2,16 mét) từng tỏa sáng tại các giải đấu ở trường đại học, nhưng rồi vì chấn thương nên không bao giờ có cơ hội trở thành một siêu sao của giải NBA. Kể từ đó, đội Portland bị mọi người chỉ trích vì đã không chọn Jordan. Việc này cũng giống như khi họ đi vào cửa hàng bán kẹo nổi tiếng nhất nhưng lại ra về sau khi chọn mua một nhánh cần tây. Nhưng trước khi lên tiếng chỉ trích đội Blazers, chúng ta cần biết rằng về bản chất thì chọn lựa cũng chính là việc dự đoán và tiên liệu. Nếu có một cỗ máy thời gian, chúng ta có thể trở về lại những năm 1980, thu thập các dữ liệu về thành tích tuyệt vời của Jordan và gửi cho đội Blazers. Nhưng lúc ấy, tuy không có quả cầu pha lê tiên tri, đội Blazers cũng đã rất cố gắng với những thông tin có được. Và bởi vì khi đứng trước quyết định phải chọn lựa, đội bóng này không thể tiên liệu chính xác mọi việc. Ai có thể ngờ được Michael Jordan rồi sẽ trở thành huyền thoại bóng rổ Michael Jordan chứ? Vậy nên việc lựa chọn vận động viên cũng chỉ là một quá trình chọn lựa mà thôi. Mặc dù không đội nào nhận thức được bản chất của sự lựa chọn này, nhưng các đội vẫn cứ sa vào lối mòn ấy trong suốt mùa giải diễn ra sau khi việc chọn lựa đã hoàn thành. Điều này được ghi nhận rõ ràng thông qua các dữ liệu của liên đoàn – những dữ liệu có thể khiến một kế toán viên phải trầm trồ. Ngay từ khoảnh khắc một vận động viên mới bước vào sân, mọi thể hiện của anh – từ những vị trí đánh bóng, những lần ghi điểm, phạm lỗi, thời gian cầm bóng và phối hợp với đồng đội – đều được ghi chép rất kỹ càng. Những ghi chép thống kê này là tài liệu có giá trị đối với các phát thanh viên truyền thanh, truyền hình và cả các cổ động viên. Tuy nhiên, đằng sau núi dữ liệu này lại tiềm ẩn một số vấn đề khiến hai nhà kinh tế học Barry Staw và Ha Hoang không thể không quan tâm. Các phân tích của Staw và Hoang tiết lộ một trong những tác động tâm lý tiêu cực mà chúng ta gặp phải, vốn có cùng nguồn gốc với hiện tượng quy kết giá trị, nhưng nó lại biến đổi sang một chiều hướng khác và kéo chúng ta ngày càng rởi xa tư duy duy lý khách quan. Phát hiện về tác động tâm lý này sẽ giúp chúng ta hiểu được tại sao ấn tượng đầu tiên về một người nào đó có thể thay đổi chỉ bởi một lời nhận xét, vì sao các cuộc phỏng vấn lại là phương pháp kém hiệu quả nhất để đánh giá năng lực làm việc trong tương lai của các ứng viên, và vì sao một gương mặt xinh xắn đưa ra một lời đề nghị nào đó thì bạn không thể nào từ chối được. Nhưng trước tiên, hãy cùng đi sâu phân tích tư duy và quan điểm của những người làm công tác quản lý của các đội bóng rổ. Rõ ràng là trong lúc thi đấu, các vận động viên phải chịu rất nhiều áp lực, thế nên những người quản lý, các huấn luyện viên luôn mong muốn tổ chức được những trận đấu thú vị nhất cho các vận động viên tài năng nhất. Staw và Hoang phát triển một phương pháp sáng tạo dựa trên kinh nghiệm để bình chọn vận động viên xuất sắc nhất. Qua phân tích kỹ lưỡng thông tin về 271 vận động viên mới của giải NBA, họ đã chia các vận động viên thành ba nhóm kỹ năng: kỹ năng ghi điểm (số điểm ghi được mỗi phút, tỷ lệ cú ném ghi điểm, và tỷ lệ cú ném thành công từ những khu vực giới hạn), sự dẻo dai (số lần tâng bóng trong một phút và số lần cản bóng đối phương trong một phút), và tính linh hoạt (số lần chuyền bóng cho đồng đội ghi bàn và số lần cướp bóng của đối thủ trong mỗi phút). Nếu một vận động viên nào đó có kết quả phân tích là nhanh nhẹn, dẻo dai và có thành tích ghi điểm cao, ắt hẳn bạn sẽ nghĩ anh ta phải thường xuyên ra sân. Thực tế, khi tổng kết dữ liệu, Staw và Hoang khẳng định việc ghi điểm của một vận động viên có góp phần quyết định đến thời gian thi đấu của anh ta. Nhưng một điều lạ là hai nhân tố còn lại: sự dẻo dai và tính linh hoạt lại “hầu như không có mối liên hệ nào với thời gian mà một vận động viên được thi đấu trên sân”. Thay vào đó, một tác động ngầm khác đã lấn át hoàn toàn ba nhân tố đo lường năng lực các vận động viên như đã nêu trên. Staw và Hoang phát hiện ra rằng biến số quyết định thời gian thi đấu của một vận động viên trong giải NBA “vượt lên khỏi những nhân tố như năng lực, các chấn thương hoặc giá cả chuyển nhượng” chính là thứ tự anh ta được chọn lựa từ ban đầu. Thậm chí ngay sau khi rà soát tất cả các nhân tố khác thì trong một mùa giải nhất định,“nếu số thứ tự chọn lựa tăng lên một nấc [ví dụ được chọn ở lần thứ chín thay vì thứ tám] thì sẽ làm giảm thời gian thi đấu bớt đi khoảng hai mươi ba phút”. Cứ như vậy, thứ tự chọn lựa vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng và quyết định đến thời gian thi đấu của một vận động viên cho đến tận năm thứ năm anh ta tham gia giải NBA, cũng là năm cuối trong cuộc nghiên cứu này. Nhưng thứ tự chọn lựa cũng tiết lộ nhiều bí ẩn khác. Được chọn lựa ở các vòng sau trong một kỳ chọn lựa đồng nghĩa với việc vận động viên này có nhiều khả năng bị chuyển nhượng cho các đội khác và ảnh hưởng xấu đến thời gian sự nghiệp của anh ta. Staw và Hoang đã phát hiện ra: “Những ai được chọn ngay từ vòng đầu tiên sẽ có thời gian lưu lại liên đoàn lâu hơn khoảng 3,3 năm so với các vận động viên được chọn ở vòng thứ hai”. Hãy nhớ rằng Staw và Hoang đã tách riêng biến số thứ tự được chọn lựa với các biến số khác. Điều này có nghĩa là nếu bạn sở hữu hai vận động viên với cùng độ dẻo dai, sức bền, thành tích ghi điểm và sự linh hoạt, vận động viên nào được chọn sớm hơn trong vòng loại sẽ được thi đấu nhiều hơn, ít bị chuyển nhượng sang các đội khác và sự nghiệp của anh ta sẽ kéo dài hơn so với người đồng đội có cùng năng lực như mình nhưng không may bị chọn lựa sau. Theo đó, nếu nghĩ về điều này bằng tư duy lý tính thì chúng ta sẽ cho rằng một khi vận động viên được chọn lựa xong thì thứ tự của anh ta không còn là vấn đề nữa. Khi đó, các huấn luyện viên và người quản lý sẽ chỉ tập trung vào năng lực, những biểu hiện của vận động viên trên sân và khả năng hòa hợp của anh trong đội bóng. Nhưng thực tế là khi vòng chọn lựa đã kết thúc, thứ tự của vận động viên lúc này đã trở thành một hằng số bất biến và việc thể hiện năng lực của anh ta trong tập thể mới này lại không có ý nghĩa bằng. Và đây chính là lúc hiện tượng quy kết giá trị kết hợp với một tác động tâm lý khác mà chúng tôi gọi là sai lệch chẩn đoán. Đây là thiên hướng mà chúng ta dựa trên những ấn tượng ban đầu để phán xét về một người, một sự việc hay một ý tưởng, và làm mất khả năng suy xét sâu hơn về những nhận định mà chúng ta đã đưa ra. Nói cách khác, khi một vận động viên bị gán cho cái mác “thất sủng”, các huấn luyện viên sẽ để cho nhận định đó lấn át những suy nghĩ của chính họ về vận động viên đó. Tình huống này giống như mỗi vận động viên đã được đính trên áo của mình một tấm thẻ có giá trị vĩnh viễn. Thành tích ghi điểm, bắt những cú nảy bóng, khóa đường bóng của đối thủ và những màn tranh cướp bóng vẫn không ảnh hưởng đến thời gian thi đấu nhiều bằng thứ tự được chọn lựa của các vận động viên, ngay cả trong những năm về sau trong sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp. Không ai trong chúng ta có thể tránh khỏi cái bẫy mà các huấn luyện viên NBA đã mắc phải. Chẳng hạn, hãy tưởng tượng bạn cần thuê một luật sư và đứng trước hai lựa chọn: người thứ nhất tốt nghiệp đầu lớp và người thứ hai chỉ đứng ở vị trí thứ sáu. Người đứng đầu lớp có lẽ là sự lựa chọn thuyết phục hơn – ngay cả khi người giữ vị trí thứ sáu cũng có năng lực tương đương và nhiều khả năng sẽ đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của bạn hơn so với người kia. Thậm chí sau khi đã chọn lựa xong, bạn vẫn còn suy nghĩ về thứ hạng xếp loại và để cho nó chi phối, tác động đến những phán xét của bạn về người luật sư mình đã thuê. Mỗi khi có chuyện không hay xảy đến, từ trong tiềm thức, bạn sẽ nghĩ: “Mình biết chắc anh luật sư đứng đầu lớp sẽ xử lý mọi việc tốt hơn”. Chúng ta rất dễ sa vào cái bẫy tâm lý này đến nỗi chỉ cần một từ ngữ dường như vô thưởng vô phạt cũng có sức mạnh làm thay đổi quan điểm của mình. Để hiểu rõ hơn, hãy cùng đến Học viện công nghệ Massachusetts (MIT). Trong lớp, sinh viên lớp Kinh tế 70 vừa nghĩ rằng hôm nay họ sẽ được nghỉ học. Vì khi họ vào lớp thì một nhân viên của trường bước vào và thông báo giáo sư phụ trách lớp có việc bận. Nhưng trước khi kịp thu dọn tập sách, họ nhận được tin một trợ giảng mà họ chưa từng gặp sẽ đứng lớp thay. Nhân viên của trường thông báo: “Từ khóa Kinh tế 70 trở đi, nhà trường rất quan tâm đến việc các lớp sẽ phản ứng thế nào với các trợ giảng khác nhau nên chúng tôi dự định cử một trợ giảng mới đến lớp các bạn trong hôm nay, vị này các bạn chưa từng biết”. Vào cuối buổi học, nhà trường yêu cầu các sinh viên điền vào một bảng khảo sát về người trợ giảng này. Nhưng trước tiên, nhằm giúp họ hiểu được phần nào về người mới gặp lần đầu, các sinh viên được phát một bản giới thiệu sơ lược về người trợ giảng mới. Các sinh viên không biết là có đến hai mẫu giới thiệu được phát ra. Một nửa số sinh viên nhận được mẫu giới thiệu có nội dung như sau: Anh là sinh viên tốt nghiệp Khoa Kinh tế và Khoa học xã hội, Học viện MIT. Anh đã có kinh nghiệm trợ giảng môn tâm lý học trong ba học kỳ tại một trường khác. Đây là học kỳ đầu tiên anh giảng dạy ở lớp Kinh tế 70. Anh hai mươi sáu tuổi, là một người từng trải và đã lập gia đình. Mọi người nhận xét anh là người nhiệt tình, chăm chỉ, thực tế, tư duy sắc bén và rất kiên định. Một nửa các sinh viên còn lại nhận được mẫu giới thiệu tương tự, tuy nhiên có hai từ đã được thay đổi: Anh là sinh viên tốt nghiệp Khoa Kinh tế và Khoa học xã hội, Học viện MIT. Anh đã có kinh nghiệm trợ giảng môn tâm lý học trong ba học kỳ tại một trường khác. Đây là học kỳ đầu tiên anh giảng dạy ở lớp Kinh tế 70. Anh hai mươi sáu tuổi, là một người từng trải và đã lập gia đình. Mọi người nhận xét anh là người lạnh lùng, chăm chỉ, thực tế, tư duy sắc bén và rất kiên định. Điểm khác biệt duy nhất nằm ở chỗ một nửa các sinh viên được cho biết thầy trợ giảng “nhiệt tình” trong khi một nửa còn lại nghĩ rằng anh là một người “lạnh lùng”. Lưu ý là lúc này các sinh viên đang ghi nhận những ấn tượng đầu tiên về người trợ giảng sau khi đọc xong bản giới thiệu sơ lược. Và sau đó là phần việc của thầy trợ giảng mới, người thay thế vị giáo sư tổ chức buổi thảo luận ở lớp về một vấn đề mà các sinh viên vừa được học. Vào cuối buổi học, các sinh viên đều được nhận một bảng câu hỏi giống nhau về người trợ giảng. Nhìn vào kết quả đã được tổng hợp, bạn sẽ nghĩ rằng các sinh viên đang nhận xét về hai người trợ giảng hoàn toàn khác nhau. Hầu hết sinh viên trong nhóm nhận được bản tóm tắt ban đầu cho biết người trợ giảng là người “nhiệt tình” đã tỏ ra rất quý mến người trợ giảng. Họ nhận xét anh là người “tốt bụng, ân cần với mọi người, thân thiện, hòa đồng, vui tính và hiền lành”. Một nửa sinh viên còn lại tuy ngồi cùng một lớp và tham gia cùng một buổi thảo luận, nhưng phần lớn họ không có nhiều thiện cảm với người trợ giảng. Họ nhận xét anh là người “độc đoán, cứng nhắc, không hòa đồng, không thân thiện, cáu kỉnh, không có tính hài hước và nhẫn tâm”. “Nhiệt tình” và “lạnh lùng” - chỉ cần thay đổi một từ duy nhất có hai ý nghĩa trái ngược nhau đã khiến các sinh viên hình thành hai luồng nhận định khác nhau về người trợ giảng. Cũng giống như các đội tham dự giải NBA và thứ tự chọn lựa vận động viên, một khi các sinh viên đọc bản giới thiệu sơ lược về người trợ giảng, trong họ sẽ nảy sinh những nhận định ban đầu về nhân vật họ chưa từng gặp này. Nói cách khác, chỉ cần một từ duy nhất cũng có sức mạnh chi phối và tác động đến quan điểm về một người – và nó còn có thể hủy hoại một mối quan hệ ngay cả khi mối quan hệ đó vừa mới bắt đầu. Khi chúng ta lắng nghe nhận xét của mọi người về một ai đó, dù rất sơ lược nhưng cũng đủ làm chúng ta nảy sinh những ấn tượng riêng biệt về người đó. Thực tế là chúng ta vẫn thường phán xét một người chỉ dựa vào những mô tả ngẫu nhiên. Hãy tưởng tượng bạn được sắp xếp để hẹn hò bí mật với một người bạn của một người bạn. Đến buổi hẹn, bạn gặp người ấy tại một nhà hàng và cùng ngồi trò chuyện trong lúc đợi món khai vị. Bạn nói: “Ồ! Anh đã có kế hoạch cho cuối tuần chưa?”. Và người ấy trả lời với vẻ mặt thành thật: “Tất nhiên là những việc tôi vẫn hay làm vào cuối tuần thôi: ở nhà và đọc Hegel”. Bởi vì người bạn chung của hai người đã giới thiệu với bạn về người này như một người “thông minh, thú vị và hài hước”, bạn cười và nghĩ rằng người bạn của mình đã nói đúng, cách nói đùa không lộ cảm xúc của anh ấy rất hợp với bạn. Và như vậy, cuộc hẹn hò ẩn chứa nhiều triển vọng. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu người bạn của bạn nói rằng người sẽ hẹn hò cùng bạn là một người “thông minh, nghiêm túc và thú vị”? Trong trường hợp này, bạn có thể suy diễn lời nhận định đó theo chiều hướng khác, bạn nghĩ: “Một người có thể đọc và tìm hiểu về Hegel đến đâu?”. Nhận thức của bạn về buổi hẹn hò sẽ bị tác động, bạn sẽ dành thời gian còn lại của bữa tối để phân vân về sự khác nhau giữa Heidegger và Hegel và bạn sẽ rời nhà hàng mà không gọi thêm món tráng miệng. Điều thú vị là ngay cả khi không bị đặt vào hoàn cảnh phải đưa ra nhận xét thì chúng ta cũng vẫn bị lôi cuốn vào việc nhận diện một giá trị nào đó bằng cách gán lên đó những phán đoán của riêng mình. Hầu hết chúng ta không thể giữ được thái độ trung lập trong thời gian dài, điều này giải thích vì sao chúng ta rất dễ rơi vào cái bẫy của hiện tượng sai lệch chẩn đoán. Mỗi ngày chúng ta tiếp nhận một lượng thông tin nhiều đến nỗi nếu không biết cách phân loại, chúng ta sẽ không biết làm sao để sử dụng chúng hiệu quả. Nhà tâm lý Franz Epting là người hiểu rõ cách thức con người hình thành các giá trị kinh nghiệm đã giải thích rằng: “Chúng ta dùng những phán đoán gán ghép để sắp xếp và đơn giản hóa sự việc. Nhưng bất kỳ sự phân loại nào bạn nghĩ ra cũng đều vận hành theo hướng bỏ qua sự tồn tại của những yếu tố khác. Và đây chính là lúc khó khăn bắt đầu. Một khi bạn hình thành phán đoán gán ghép trong tâm trí mình, bạn sẽ không chú ý đến những điều không phù hợp với cách phân loại tạo ra sự khác biệt giữa những điều đó”. Điều Epting muốn nói đến chính là tất cả chúng ta đều mang một cặp kính phán xét khi chúng ta tiếp xúc với người lạ. Chẳng hạn, khi gặp gỡ một ai đó tại một bữa tiệc, chúng ta nhanh chóng phán xét họ là “dễ gần” hoặc “khó gần” trước khi quyết định có bắt đầu trò chuyện với họ hay không. Và chúng ta phải trả một cái giá khá đắt cho những nhận định tức thời này. Epting giải thích: “Việc phán xét người đối diện khiến bạn bị một lớp màn định kiến che khuất. Nó ngăn không cho bạn thấy điều gì đang thật sự xảy ra trước mắt mình; tất cả những gì bạn nhìn thấy chỉ là lớp vỏ bọc do chính bạn tạo ra”. Một vận động viên NBA khi không được lựa chọn ở những vòng lựa chọn đầu tiên sẽ bị xếp vào dạng “thất sủng”. Dưới tác động của hiện tượng sai lệch chẩn đoán, việc vận động viên đó có thật sự chơi hết mình hay không không còn là điều quan trọng: anh sẽ luôn bị người khác nhìn nhận như một vận động viên “cấp thấp”. Khi một vị giáo sư được nhận xét là lạnh lùng, nhân cách và năng lực sư phạm của ông cũng sẽ bị lãng quên: dù thế nào thì các sinh viên cũng không có nhiều thiện cảm với ông. Hiện tượng sai lệch chẩn đoán khiến chúng ta xa rời và thậm chí là bỏ qua những dữ liệu thông tin khách quan. Hơn ai hết, giáo sư Allen Huffcutt rất am hiểu về sức mạnh của tác động tâm lý tiêu cực này. Giáo sư đã dành một phần thời gian trong suốt hai mươi năm để nghiên cứu một trong những khoảnh khắc quan trọng mà chúng ta phải đối mặt trực tiếp với sự đánh giá từ người đối diện: buổi phỏng vấn tuyển dụng. Xét cho cùng, một cuộc phỏng vấn tuyển dụng chuẩn mực có nhiều điểm tương đồng với lần gặp gỡ đầu tiên. Huffcutt giải thích: “Bạn không có một quy trình mẫu để làm theo và bạn chỉ có thể ứng biến tùy theo diễn tiến ngẫu nhiên của cuộc phỏng vấn”. Các quản lý nhân sự ngồi đối diện với ứng viên và cố gắng ghi nhận một ấn tượng nào đó: Liệu ứng viên này có cùng quan điểm với mình không? Giữa mình và ứng viên có điểm chung nào không? Ở đây có mối liên hệ nào không? Huffcutt nói thêm: “Nếu bạn tìm hiểu các ngành nghề, bạn sẽ thấy diễn biến ngẫu nhiên của cuộc phỏng vấn trên đây là một dạng phỏng vấn thường gặp nhất trong quy trình tuyển dụng”. Việc các công ty tập trung vào dạng phỏng vấn theo kiểu lần gặp đầu tiên cũng là điều dễ hiểu. Nhìn chung, một người quản lý sẽ dành nhiều thời gian với người mà họ thuê, họ muốn chắc rằng người này là người phù hợp nhất. Giáo sư Huffcutt giải thích: “Chúng ta tự đặt ra một hình mẫu nhân viên mà chúng ta mong muốn tuyển dụng được”. Lẽ dĩ nhiên, các công ty sẽ có một “chiếc hộp thần kỳ” có khả năng dự đoán năng lực làm việc của một ứng viên tiềm năng. Dữ liệu đầu vào là một vài tiêu chuẩn tuyển dụng, thêm một ít quy chuẩn về năng lực và kỹ năng – và chiếc hộp sẽ đưa ra một kết quả điểm số cho thấy mức độ phù hợp của ứng viên với công việc. Nhưng kết quả này không dễ tiếp nhận như chúng ta có thể nghĩ. Có cả một hệ thống lý thuyết liên quan đến các vấn đề tuyển dụng. Mỗi năm, Huffcutt đều cùng với các đồng nghiệp tổ chức một buổi thảo luận để xem xét tất cả các nghiên cứu mới nhất về vấn đề tuyển dụng. Sau nhiều năm, Huffcutt và đồng nghiệp đã kiểm tra một số tiêu chuẩn chọn lựa ứng viên, đo lường mức độ tương xứng của các tiêu chuẩn này với điều kiện công việc cụ thể - và thông qua quá trình đó, họ đã cơ bản tạo nên “chiếc hộp thần kỳ” có khả năng đánh giá năng lực của các ứng viên. Những gì ẩn chứa bên trong chiếc hộp là kết quả rút ra từ nhiều cuộc nghiên cứu và có thể trở thành một vật giá trị đối với những ai cần đưa ra quyết định tuyển dụng. Huffcutt giải thích: “Cuộc phỏng vấn ngẫu hứng của bạn – tương tự hình mẫu ‘lần gặp đầu tiên’ – không thật sự hiệu quả. Chúng tôi có rất nhiều dữ liệu nghiên cứu chứng minh điều này”. Nhận định này quả thật khiến nhiều người bất ngờ. Khi các nhà nghiên cứu tiến hành phân tích tổng hợp – thu thập và rút ra dữ liệu từ các cuộc nghiên cứu trước đó liên quan đến cùng đề tài, họ phát hiện có một sự tương quan giữa cuộc phỏng vấn theo phong cách “lần gặp đầu tiên” (ngẫu nhiên và không được cấu trúc trước) và biểu hiện làm việc của ứng viên. Ấn tượng của người quản lý về ứng viên không thật sự khớp với năng lực làm việc và biểu hiện của ứng viên trong công việc. Quay trở lại vấn đề cuộc gặp gỡ, Huffcutt nói: “Có bao nhiêu người thành công trong buổi hẹn đầu tiên, có ấn tượng tốt về đối tượng, tiếp tục hẹn hò với người đó, rồi cuối cùng nhận ra bản chất của người hẹn hò với mình? Ấn tượng đầu tiên có được có thể là hoàn toàn sai. Về sau bạn sẽ tự hỏi: ‘Mình đang nghĩ gì thế này? Tại sao mình lại không nhận ra những điều đó chứ?’ Những việc tương tự cũng xảy đến trong các buổi phỏng vấn. Bạn có rất ít thời gian để thể hiện. Các ứng viên tìm cách thể hiện hết khả năng của mình, các nhà tuyển dụng thể hiện hết sự am tường của mình, và kết quả thì không có gì phải ngạc nhiên, bởi vì bạn vốn không thể thấu hiểu một con người chỉ trong vòng hai mươi phút”. Bằng cách này, các giám đốc nhân sự chuyên nghiệp có rất nhiều điểm chung với những sinh viên đại học đang ngồi trong phòng trọ và nghĩ về người bạn trai/bạn gái của mình. Theo một phát hiện gần đây của hai nhà tâm lý học người Canada là Tara MacDonald và Mike Ross, các sinh viên đã bỏ lỡ nhiều dữ liệu khách quan khi thông tin không tương thích với điều họ mong muốn. Trong nghiên cứu của mình, MacDonald và Ross tiến hành trò chuyện cùng các sinh viên đại học trong suốt một khoảng thời gian được xem là thú vị nhất trong cuộc đời họ: thời gian mới bắt đầu một mối quan hệ lãng mạn của các sinh viên vừa bước chân vào ngưỡng cửa đại học. Các nhà nghiên cứu yêu cầu sinh viên đánh giá chất lượng mối quan hệ của họ, tất cả mọi điều từ niềm tin cho đến cảm xúc, sự giao tiếp giữa hai người đến mức độ hài lòng. Sau đó, họ đặt câu hỏi với các sinh viên: Bạn có nghĩ mình sẽ duy trì được mối quan hệ này trong hai tháng không? Thế trong sáu tháng thì sao? Một năm? Năm năm? Bạn có dự định kết hôn với người đó không? Bạn có nghĩ hai bạn sẽ sống với nhau đến trọn đời không? Bây giờ, chúng ta chuyển sang một tình huống mới: hai người đang có một mối quan hệ tình cảm và cảm nhận trọn vẹn những xúc cảm ngọt ngào nhất của tình yêu. Lẽ dĩ nhiên, các sinh viên có xu hướng rất lạc quan về triển vọng của mối quan hệ. Nhưng tiếp tục ở những câu hỏi sau, các nhà nghiên cứu đề nghị được tiếp cận với các bạn cùng phòng và gia đình của các sinh viên để tìm hiểu suy nghĩ của họ về tính chất và thời gian duy trì mối quan hệ này. Đây là những người quan sát và theo dõi mối quan hệ từ bên ngoài, không nhìn chuyện tình cảm dưới lăng kính màu hồng như người trong cuộc. Và kết quả cho thấy các sinh viên tỏ ra lạc quan về triển vọng của mối quan hệ của mình hơn là những người bạn cùng phòng. Đối tượng có thái độ ít lạc quan nhất là phụ huynh của các sinh viên được khảo sát. Một học kỳ ở trường đại học trôi qua. Khi MacDonald và Ross quay trở lại sau sáu tháng để tiếp tục cuộc nghiên cứu, 61% các sinh viên vẫn duy trì mối quan hệ của mình. Sáu tháng tiếp theo – nghĩa là một năm trôi qua kể từ ngày bắt đầu những buổi phỏng vấn đầu tiên – số lượng sinh viên còn tiếp tục giữ mối quan hệ với bạn trai/bạn gái của mình giảm xuống chỉ còn 48%. Khi tiến hành phân tích kết quả thu được, MacDonald và Ross nhận ra những người bạn cùng phòng và các phụ huynh là những người đã đưa ra nhận định gần sát hoặc gần đúng với kết quả hiện tại nhất. Những người bạn cùng phòng và các phụ huynh dự đoán triển vọng của mối quan hệ chính xác hơn các sinh viên đang giữ vai trò người trong cuộc. Nhưng cũng thật ngạc nhiên, điều mà MacDonald và Ross phám khá được chính là ngay cả khi các sinh viên dự đoán mối quan hệ của mình sẽ lâu dài thì sự lo lắng của họ về các vấn đề phát sinh trong mối quan hệ vẫn có cơ sở. Các sinh viên không phủ nhận những vấn đề này, họ chỉ bỏ qua chúng khi được yêu cầu dự đoán về triển vọng tương lai của mối quan hệ. Điều đáng ngạc nhiên hơn chính là dù các sinh viên có nhận ra những dấu hiệu cảnh báo hay không thì họ cũng đánh giá quá cao sự bền vững của mối quan hệ hiện tại. Việc bỏ qua những dữ liệu quan trọng này là sai lầm đầu tiên trong ba sai lầm quan trọng – hay có thể gọi là cái bẫy – khi chúng ta tiến hành phán xét một người hoặc một sự việc. Đây đồng thời cũng là cái bẫy mà bạn thường thấy nếu bạn từng đi tìm mua một ngôi nhà mới. Bạn nhìn thấy bảng quảng cáo một ngôi nhà trong khu vực mà bạn yêu thích, có lẽ là con đường rợp bóng cây xanh mà bạn sẽ đi về mỗi ngày. Thế là bạn hẹn gặp người môi giới ngay lập tức và tin chắc rằng đây chính là ngôi nhà mình hằng mơ ước. Nhưng khi nhìn thấy ngôi nhà, bạn thấy nó không giống như trong suy nghĩ của mình – phòng tắm cần phải sửa sang lại, nhà kho quá rộng so với hai phòng ngủ, còn khoảng sân sau thì rậm rạp trông cứ như một khu rừng. Nhưng vì ngay từ đầu đã trót nhìn nhận đây là ngôi nhà mơ ước nên bạn sẽ có xu hướng tập trung vào những sai sót của ngôi nhà hay thở phào nhẹ nhõm trước khoảng sân rộng sau cánh cổng, sàn nhà làm bằng loại gỗ cứng bóng loáng và những bồn tắm hiệu Jacuzzi? Cũng dễ hiểu vì sao các sinh viên khi bắt đầu một quan hệ tình cảm vẫn luôn tự thuyết phục mình rằng mối quan hệ của họ sẽ bền vững, hoặc những người tìm mua nhà mới đều có xu hướng cảm tính hơn bình thường. Trong khi đó, những nhà tuyển dụng chuyên nghiệp khi chọn lựa ứng viên phù hợp sẽ dựa trên lý trí nhiều hơn. Tuy nhiên, Huffcutt giải thích rằng kết quả cho thấy các nhà tuyển dụng là đối tượng đặc biệt dễ bỏ qua những thông tin có liên quan khi đứng trước quyết định chọn lựa. Trong lúc các sinh viên bị chính sự lạc quan của mình đánh lừa thì các nhà tuyển dụng, theo lời Huffcutt đánh giá thì họ “chỉ đặt ra những câu hỏi quá tầm thường”. Chúng ta đều khá quen thuộc với những câu hỏi phỏng vấn mà ứng viên thường gặp. Nhưng Huffcutt lại không đồng tình với những câu hỏi kiểu như vậy. Trong buổi trò chuyện của chúng tôi cùng Huffcutt, ông đã nói về một danh sách mười câu hỏi phổ biến nhất thường được nêu trong các cuộc phỏng vấn. Với mật độ xuất hiện thường xuyên của những câu mà các nhà tuyển dụng thường đặt ra, có thể có vài câu hữu ích. Nhưng trong danh sách mười câu này, Huffcutt chỉ đánh giá cao một câu hỏi duy nhất. Thử xem bạn có đoán được đó là câu nào không: 1. Vì sao chúng tôi phải tuyển dụng anh/chị? 2. Anh/chị hình dung sau năm năm nữa mình sẽ trở nên như thế nào? 3. Anh/chị nghĩ gì về những ưu điểm và khuyết điểm của mình? 4. Anh/chị đánh giá bản thân mình như thế nào? 5. Ở trường đại học, anh/chị khá nhất và kém nhất trong môn học nào? 6. Anh/chị biết gì về công ty chúng tôi? 7. Vì sao anh/chị quyết định dự tuyển vào công ty chúng tôi? 8. Vì sao anh/chị không tiếp tục công việc cũ của mình? 9. Anh/chị mong muốn đạt được những gì trong năm năm tới? 10. Điều anh/chị thật sự mong muốn được thực hiện nhất trong cuộc sống của mình là gì? Khi xem xét kỹ những câu hỏi này, chúng ta sẽ thấy rằng các câu hỏi tập trung vào một số khía cạnh đặc biệt. Nhóm thứ nhất gồm câu hỏi 1, 3 và 4 được lấy từ quy trình phỏng vấn của nhà báo huyền thoại Barbara Walters. Ba câu hỏi này nhằm yêu cầu ứng viên tự đánh giá bản thân để nhà tuyển dụng có thể nhận biết đâu là ứng viên thật sự cho vị trí cần tuyển. Cách này có thể có hiệu quả để biết về một người, nhưng đây lại không phải là những thông tin hữu ích để đánh giá liệu ứng viên sẽ như thế nào khi tiếp cận công việc thực tế. Trở lại câu hỏi số 3 về những ưu điểm và khuyết điểm của ứng viên. Huffcutt chỉ ra: “Bạn có thể thực sự nhận được thông tin gì từ câu hỏi như thế này? Có ai lại chủ động nói cho bạn nghe về khuyết điểm của mình? Không lý họ lại nói với nhà tuyển dụng: ‘Vâng, anh/chị biết đấy, thỉnh thoảng tôi uống rượu tới tận khuya và thường đi làm trễ giờ’. Chắc chắn sẽ không có ứng viên nào trả lời như thế cả”. Ông chia sẻ tiếp: “Thông thường, có nhiều khả năng là các ứng viên đã chuẩn bị trước cho các dạng câu hỏi này và soạn sẵn một câu trả lời mẫu. Họ chủ ý hướng câu trả lời theo nghĩa tích cực và không thật sự phác họa một khuyết điểm nào của bản thân mình: ‘Đôi lúc tôi quá cầu toàn trong công việc’ hoặc ‘Đôi khi tôi đòi hỏi một sự tập trung tuyệt đối trong công việc’”. Câu hỏi 1 (“Vì sao chúng tôi phải tuyển dụng anh/chị?”) cũng tương tự như vậy. Đây là câu hỏi giống với câu Walters đặt ra với các ứng viên tiềm năng: “Vì sao chúng tôi phải chọn lựa bạn?”. Nếu câu hỏi nghe có vẻ như một sự diễn tập đã được chuẩn bị từ trước thì câu trả lời cũng mang ý nghĩa như vậy. Huffcutt nói với một cái nhún vai: “Rõ ràng là bất kỳ ứng viên nào khéo léo một chút cũng sẽ nghĩ ra một câu trả lời hợp lý cho câu hỏi này”. Câu hỏi số 4 (Anh/chị đánh giá bản thân mình như thế nào?) cũng là “một dạng câu hỏi không mang lại nhiều thông tin hữu ích”. Việc khẳng định rằng bạn đầy nhiệt huyết, bạn chăm chỉ làm việc, không nói lên được năng lực và giá trị của bạn trong công việc. Về bản chất, vấn đề đối với Barbara Walters chính là các câu hỏi mang tính rào đón của nhà tuyển dụng không thật sự giúp chúng ta nhìn nhận hết các kỹ năng thật sự của ứng viên. Nhóm thứ hai gồm các câu hỏi 2, 9 và 10, yêu cầu các ứng viên hình dung về tương lai. Nhưng vấn đề là những câu trả lời của họ rất khó khiến nhà tuyển dụng tin tưởng. Một vấn đề khác chính là các ứng viên có thể không hoàn toàn sẵn sàng, hoặc không chắc chắn về những kế hoạch thật sự của mình – giống như một cặp chơi tham gia chương trình hò hẹn bí mật cam đoan với bạn rằng công việc hiện tại không có khả năng thăng tiến của họ “chỉ là một bước đệm”. Hãy nhìn vào câu hỏi 2 về việc bạn nghĩ mình sẽ như thế nào trong năm năm nữa. Huffcutt chỉ ra rằng: “Mọi người thường sẽ trả lời một cách tốt đẹp như thế này: ‘Tôi mong muốn đạt được chỗ đứng trong công ty, tôi hy vọng mình sẽ cố gắng làm việc để có nhiều cơ hội thăng tiến’. Tất cả mọi người đều cố tình nói những điều gì đó nghe có vẻ sâu sắc”. Nhóm cuối cùng gồm câu hỏi 5, 7 và 8 đi theo một hướng khác và làm cho nhà tuyển dụng trở thành một nhà sử học. Tuy nhiên, vấn đề lúc này chính là khi con người nhìn lại quá khứ, họ thường diễn đạt khác đi. Những câu hỏi tương tự câu số 7 (“Vì sao anh/chị quyết định dự tuyển vào công ty chúng tôi?”) đòi hỏi những câu trả lời khôn ngoan và khéo léo. Huffcutt đặt nghi vấn: “Cũng như những câu hỏi khác, ai lại trả lời thật lòng cho câu hỏi này chứ? ‘Sự thực là, tôi túng quẫn, các hóa đơn đến dồn dập, tôi đang cần một công việc và đúng lúc công ty của ông/bà đang có nhu cầu tuyển người’”. Thay vào đó, các ứng viên “chỉ đưa ra những câu trả lời làm vừa lòng nhà tuyển dụng”. Và câu hỏi được đánh giá cao chính là câu hỏi số 6 (“Anh/chị biết gì về công ty chúng tôi?”). Huffcutt giải thích: “Đây có thể là câu hỏi khá nhất. Câu trả lời sẽ cho thấy ứng viên có dành thời gian để tìm hiểu về công ty mình ứng tuyển vào hay không và điều này sẽ là một dấu hiệu tốt – ít nhất vẫn tốt hơn những câu hỏi khác”. Câu hỏi 6 vẫn chưa là câu hỏi hay nhất, nhưng nó mang lại một vài thông tin hữu ích cho nhà tuyển dụng. Tất cả những câu hỏi khác đòi hỏi sự phô diễn của ứng viên: “Tôi làm việc chăm chỉ… Tôi là người thích thú đón nhận những thử thách… Giấc mơ cuộc đời tôi là làm việc ở công ty của ông/bà… tại chính vị trí này”. Mặc dù tất cả mọi người từ những công nhân cấp bậc thấp nhất đến những CEO đều biết rằng sự phô diễn đánh đố này vẫn đang diễn ra, các nhà tuyển dụng vẫn cứ cảm thấy hứng thú với cách phỏng vấn theo kiểu thăm dò như trong “cuộc gặp đầu tiên”. Họ nghĩ rằng một cuộc đối thoại đủ lâu sẽ cho phép trực giác của họ nhận ra ứng cử viên sáng giá nhất. Huffcutt giải thích: “Có một cảm xúc rất mạnh mẽ chi phối mà bạn không biết, đó là bạn luôn lo sợ nếu không qua phỏng vấn thì mình sẽ không thể chọn lựa chính xác ứng viên”. Lý do các nhà tuyển dụng rất hay sơ suất chính là bên cạnh việc bỏ qua những dữ liệu khách quan, họ còn quá tập trung và chú trọng đến những yếu tố không thích hợp – đây là cái bẫy thứ hai mà tất cả chúng ta đều rơi vào mỗi khi đưa ra quyết định. Cái bẫy này khá quen thuộc với những người đã từng mua rượu chỉ bởi vì sự thu hút của nhãn mác được in trên chai hoặc những người chọn lựa kế toán viên mà chỉ dựa vào diện mạo. Việc một số nhà cung cấp dịch vụ thường giới thiệu sản phẩm của họ qua thư điện tử có thể giải thích rõ về hiện tượng tâm lý này. Hãy cùng xem xét một tình huống xảy ra ở Nam Phi khi một ngân hàng chuyên cho vay tiêu dùng mong muốn phát triển khoản vay cá nhân lên năm mươi nghìn khách hàng. Ngân hàng này đã phối hợp với một nhóm chuyên gia kinh tế để đưa ra nhiều mức lãi suất khác nhau trên cùng một loại sản phẩm vay cơ bản và gửi thư ngỏ giới thiệu đến mọi người. Các bức thư này được gửi ngẫu nhiên đến người nhận và trên thư không đề cập đến việc những hình thức cho vay này là một chương trình khảo sát của ngân hàng. Nội dung thư đề cập đến các mức lãi suất khác nhau (dao động từ 3,25% đến 7,75%/tháng), trong đó một số thư so sánh các mức lãi suất này với lãi suất của ngân hàng đối thủ, một số khác thông báo về chương trình ưu đãi (Nhanh tay trúng một trong mười chiếc điện thoại di động mỗi tháng) và các thư còn lại có hình ảnh minh họa là gương mặt một người đàn ông hoặc một phụ nữ đang nở nụ cười rạng rỡ. Có thể bạn nghĩ rằng khách hàng sẽ đánh giá lời mời này đơn giản dựa trên mức lãi suất và một số điều kiện nhất định của khoản vay, còn những thông tin có ý nghĩa quảng cáo như so sánh với lãi suất của đối thủ, những ưu đãi kèm theo và hình ảnh minh họa mang tính biểu cảm lại không có ý nghĩa gì. Và quả thật, đối với các khách hàng tiềm năng, việc so sánh với một sản phẩm vay của đối thủ hay cơ hội trúng thưởng một chiếc điện thoại di động không phát huy được tác dụng, nhưng điều bất ngờ chính là ý tưởng tưởng chừng như chẳng liên quan gì đến các gói dịch vụ của ngân hàng: hình ảnh của một gương mặt rạng rỡ ngay góc dưới của bức thư. Chính điều này mới là yếu tố tạo nên hiệu ứng cao nhất nơi người nhận. Các nam khách hàng tiềm năng khi nhận được thư có hình gương mặt một phụ nữ khả ái với nụ cười tươi tắn sẽ có xu hướng sẵn sàng đăng ký sản phẩm vay này hơn các nam khách hàng nhận được bức thư có ảnh của người cùng phái. Theo kết quả nghiên cứu, hiệu ứng từ ý tưởng này “cũng cao như việc giảm lãi suất xuống mức hấp dẫn 4,5%”. Rõ ràng gương mặt rạng rỡ của một người phụ nữ không tạo nên một lời kêu gọi đầu tư hấp dẫn, nhưng các nhà nghiên cứu dự đoán hình ảnh này sẽ thu hút nam giới và vì vậy họ chấp nhận đăng ký tham gia sử dụng sản phẩm. Hãy nghĩ thêm về chi tiết này một chút, bởi không phải bất kỳ người đàn ông nào cũng chấp nhận tham gia vay tiền với mức lãi suất cao hơn chỉ vì trên bức thư ngỏ có hình ảnh một người phụ nữ. Tương tự việc các sinh viên đã dự đoán sai về mức độ bền vững trong mối quan hệ của mình do đã bỏ qua những thông tin giá trị về chất lượng của mối quan hệ đó, ở đây các khách hàng nhận được bức thư ngỏ đã mắc phải sai lầm trong việc đánh giá mức độ hấp dẫn của khoản vay bởi họ không tập trung vào những thông tin quan trọng cần thiết. Vậy thì nghĩ xem chúng ta từng đưa ra bao nhiêu quyết định mua sắm vì những lý do không hợp lý tương tự? Chính vì bị hình ảnh của người phụ nữ trên bức thư ngỏ tác động mà các khách hàng của ngân hàng ở Nam Phi có xu hướng nhìn nhận hình thức cho vay này như một sản phẩm tài chính hấp dẫn, tương tự trong trường hợp các sinh viên tại Học viện MIT đã có thiện cảm với người trợ giảng chỉ dựa trên một đoạn giới thiệu ngắn rằng anh ấy là một người “nhiệt tình” và trường hợp các đội bóng NBA quá chú trọng vào kết quả của thứ tự chọn lựa vận động viên. Nghiên cứu của giáo sư Huffcutt về các cuộc phỏng vấn xin việc đã làm rõ một trong những khía cạnh quan trọng của hiện tượng sai lệch chẩn đoán mà chúng ta có thể gọi là hiệu ứng “tấm gương phản chiếu”. Huffcutt nói rằng khi chúng ta là những nhà tuyển dụng và phỏng vấn ứng viên,“chúng ta thường tự hình dung ra một ứng viên lý tưởng ngay trong suy nghĩ của chính mình. Và rồi nếu có ai đó bước vào phòng mà chúng ta có cảm giác họ có những điểm tương đồng với mình thì chúng ta sẽ quyết định tuyển dụng họ”. Tuy nhiên, không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy một ứng viên có vài điểm giống với nhà tuyển dụng thì sẽ phù hợp và hữu ích cho công ty. Thật ra, nhà tuyển dụng nên quyết định chọn lựa những người không giống mình - để chính những người này sẽ phát huy được vai trò trong những trường hợp mà nhà quản lý chưa thật sự am tường. Tuy nhiên, các nhà tuyển dụng cũng gặp nhiều khó khăn nếu phải thay đổi hình thức phỏng vấn theo kiểu “cuộc gặp đầu tiên” này. Huffcutt giải thích: “Phần lớn các nhà tuyển dụng đều nghĩ rằng họ có khả năng nhìn nhận và hiểu rõ mỗi ứng viên cũng như đưa ra những quyết định đúng đắn nhất. Hầu hết đều nghĩ mình có khả năng đó, và đây chính là vấn đề. Rất khó để chỉ cho ai đó thấy rằng họ đang làm công việc của mình không tốt như họ vẫn nghĩ”. Hiện tượng này không phải chỉ xảy ra với những nhà tuyển dụng nhân sự. Tất cả chúng ta đều hình thành những nhận xét chủ quan khi tiếp xúc với một người hoặc một sự việc nào đó ở lần đầu tiên. Nhưng rất nhiều cuộc nghiên cứu đã cho thấy không phải ai cũng có khả năng cảm nhận chính xác trong việc này. Nói một cách cụ thể hơn, dù chúng ta đang phỏng vấn một ứng viên tiềm năng hay chuẩn bị bắt đầu một mối quan hệ tình cảm thì dần dần, chúng ta đều có xu hướng đánh giá cao khả năng của mình trong việc hình thành một ý niệm khách quan về vấn đề mình đang nhìn nhận. Nếu không thể hoàn toàn thoát khỏi cái bẫy sai lệch chẩn đoán, hãy áp dụng chiến thuật của người anh hùng Odysseus trong thần thoại Hy Lạp. Vì biết chắc mình sẽ không thể cưỡng lại giọng hát mê hồn của các mỹ nhân ngư và sẽ lao mình xuống biển sâu, Odysseus đã nhờ các thủy thủ trói mình vào cột buồm. Trong các cuộc phỏng vấn, nhà tuyển dụng cần ngăn mình không quá tập trung hoặc xoáy sâu vào những câu hỏi theo kiểu thăm dò trong cuộc gặp lần đầu tiên. Thay vào đó, họ cần tập trung tìm hiểu về kinh nghiệm làm việc của ứng viên và “đưa ra những tình huống có liên quan đến công việc”. – Huffcutt nói. Đây là phương pháp “chỉ nhìn vào hiện thực”. Ý tưởng của phương pháp này chính là dựa vào những dữ liệu tương xứng và bỏ qua các dạng câu hỏi yêu cầu ứng viên dự đoán tương lai, thay đổi quá khứ hoặc phải cân nhắc những câu hỏi lớn của cuộc đời. Phương pháp này hướng đến những thông tin cần thiết và quan trọng. Chẳng hạn như: Bạn thông thạo những phần mềm kế toán nào? Bạn học được kinh nghiệm gì khi điều hành các chiến dịch PR? Bạn có thể tìm cách giảm bớt hao phí vô ích trong dây chuyền lắp ráp như thế nào? Cơ bản là các nhà tuyển dụng đều là những người có chuyên môn sâu nên những dạng phỏng vấn đặt ra yêu cầu rõ ràng với các ứng viên sẽ mang lại hiệu quả cao hơn những dạng phỏng vấn theo kiểu ngẫu nhiên. Một nghiên cứu chuyên sâu đã kết luận rằng các cuộc phỏng vấn kiểu chỉ nhìn vào hiện thực có hiệu quả gấp sáu lần trong việc xác định và đánh giá biểu hiện của ứng viên so với hình thức phỏng vấn theo kiểu cuộc gặp đầu tiên. Tuy vậy, dù dưới hình thức nào đi nữa thì những buổi phỏng vấn cũng không phải là cách đánh giá ứng viên hữu hiệu, bởi đơn giản là một số người rất biết cách thể hiện và quảng bá hình ảnh của chính mình. Chính vì lẽ đó, thật ra các nhà tuyển dụng không nhất thiết phải phỏng vấn ứng viên. Các nghiên cứu chỉ ra rằng một bài kiểm tra năng lực sẽ giúp ứng viên bộc lộ nhiều về khả năng và kỹ năng của họ một cách tốt nhất. Huffcutt chia sẻ: “Thế nhưng mọi người vẫn cứ trông đợi ở các cuộc phỏng vấn”. Cách giải quyết của giáo sư chính là thay đổi quy trình phỏng vấn. Ông đề xuất: “Chính vì các ứng viên cũng rất hy vọng vào những cuộc phỏng vấn, nên cách giải quyết lý tưởng là áp dụng các phương pháp định lượng để đưa ra quyết định, đơn cử như việc tiến hành kiểm tra năng lực tinh thần hoặc đặt ra các tình huống công việc giả định cho các ứng viên”. Huffcutt nói thêm: “Khi đã xác định được nhóm các ứng viên tiềm năng, bạn hãy dùng đến hình thức phỏng vấn ngẫu nhiên để họ tự thể hiện bản thân mình cũng như tạo cho họ sự hứng thú với công ty và công việc. Bạn có thể dùng phương pháp này cho nhiều trường hợp khác nhau chứ không phải chỉ riêng trong việc tuyển dụng nhân sự”. Vấn đề chính là khi bị đặt vào một tình huống phải đánh giá ai đó, tất cả chúng ta đều quá tự tin vào khả năng phán đoán của mình nên dễ dẫn đến những cái nhìn sai lệch. Giống như các sinh viên tuy đang gặp vấn đề trong quan hệ tình cảm nhưng họ vẫn tin tình cảm sẽ giải quyết được tất cả. Đơn giản vì bản thân chúng ta cũng rất thường bỏ qua các dấu hiệu và bằng chứng đi ngược lại với điều mà chúng ta đang muốn tin. Nếu như cách làm của Odysseus giúp chúng ta tránh được những câu hỏi có thể dẫn đến những nhận định không chính xác về một người hoặc một sự việc nào đó, thì Huffcutt đã chỉ ra rằng vượt qua tác động tâm lý này còn khó hơn rất nhiều so với những gì chúng ta nghĩ. Khi chúng tôi hỏi Huffcutt liệu khoa của ông có thay đổi gì trong quy trình tuyển dụng nhân sự dựa trên những kết quả nghiên cứu của ông hay không, vị giáo sư cười và nói: “Đây là một câu hỏi tuyệt vời và câu trả lời là không. Tôi đã có một vài đề xuất nhằm giúp việc tuyển dụng tại trường hiệu quả hơn, nhưng cho đến nay các đề xuất ấy vẫn chưa được chấp thuận”. Chương 5 CHỨNG RỐI LOẠN LƯỠNG CỰC và HIỆU ỨNG TẮC KÈ HOA Có một hội chứng tâm lý đã lan nhanh như một bệnh dịch. Từ năm 1994 đến năm 2003, số lượng trẻ em mắc phải chứng rối loạn lưỡng cực tăng nhanh vùn vụt. Đó là một trạng thái tinh thần với những chu kỳ liên tục của những khoảnh khắc hưng phấn cực độ đi liền với cảm giác thất vọng và bi quan kinh khủng. Năm 1994, cứ mỗi một trăm nghìn trẻ em ở Mỹ thì chỉ có hai mươi lăm em dưới mười chín tuổi được chẩn đoán mắc chứng rối loạn lưỡng cực. Nhưng đến năm 2003, số trường hợp mắc phải hội chứng này đã tăng gấp bốn mươi lần, nhanh đến mức đáng ngạc nhiên. Đối với những hội chứng hiếm gặp và nghiêm trọng như thế này, khi số ca mắc bệnh tăng gấp đôi đã là đáng báo động, thế nên kết quả tăng gấp bốn mươi lần rõ ràng là có gì đó bất thường đang xảy ra. Vậy thì vấn đề nằm ở đâu? Rõ ràng số lượng trẻ em mắc phải hội chứng này đang tăng đột biến. Nhưng con số 800.000 trẻ em mắc bệnh chỉ trong năm