🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Linh Hồn Của Tiền Ebooks Nhóm Zalo Table of Contents Đôi lời về cuốn sách Trao trả linh hồn cho Tiền PHẦN I: TÌNH YÊU, NHỮNG LỜI NÓI DỐI VÀ SỰ THỨC TỈNH VĨ ĐẠI Chương 1: TIỀN VÀ TÔI, TIỀN VÀ CHÚNG TA THỨ ĐƯỢC GỌI LÀ TIỀN TIỀN VÀ TÂM HỒN: MỘT NGĂN CÁCH LỚN BÀI MÊ HỒN CA CỦA THÀNH CÔNG KIẾM SỐNG VÌ CUỘC SỐNG Chương 2: TỚI ẤN ĐỘ: TRÁI TIM CỦA NẠN ĐÓI, LINH HỒN CỦA TIỀN BẠC CUỘC ĐI BỘ VỚI RAMKRISHNA BAJAJ MẸ TERESA VÀ NHÀ TÙ CỦA SỰ GIÀU SANG CÁI ĐÓI LÀ NGƯỜI THẦY CỦA TÔI PHẦN II: THIẾU VÀ ĐỦ: CUỘC KIẾM TÌM SỰ GIÀU CÓ Chương 3: SỰ THIẾU THỐN: LỜI NÓI DỐI LỚN NHỮNG NGỘ NHẬN NGUY HIỂM VỀ SỰ THIẾU THỐN NHỮNG "ÁN CHUNG THÂN" HẠN CHẾ KHẢ NĂNG CỦA CHÚNG TA BUCKMINSTER FULLER VÀ THẾ GIỚI BẠN - VÀ - TÔI ĐIỀU BÍ ẨN SAU CÁI ĐÓI VÀ CUỘC CHIẾN VỚI CÁI THIẾU Chương 4: SỰ ĐẦY ĐỦ: SỰ THẬT ĐÁNG NGẠC NHIÊN SỰ ĐẦY ĐỦ: TÌM LẠI SỨC MẠNH CỦA NHỮNG THỨ CÓ SẴN NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ Ở MICROSOFT: ĐÁNH RƠI SỰ ĐẦY ĐỦ TRONG BẬN RỘN SỰ ĐẦY ĐỦ LUÔN SẴN CÓ TRƯỚC MẮT SỰ ĐẦY ĐỦ TRONG KINH DOANH PHẦN III: SỰ ĐẦY ĐỦ: BA SỰ THẬT Chương 5: TIỀN GIỐNG NHƯ NƯỚC THIẾU VÀ ĐỦ: LÀM THẾ NÀO ĐỂ CẢM NHẬN DÒNG CHẢY? PHÂN PHÁT VÀ TÍCH LŨY TIỀN MANG THEO NĂNG LƯỢNG CỦA TÂM HỒN HÀN GẮN MỘT GIA ĐÌNH: LỰA CHỌN CAN ĐẢM CỦA BARBARA NHẬN THỨC VỀ DÒNG CHẢY CỦA TIỀN: SỰ THẬT VỀ NHỮNG NƠI TIỀN ĐI QUA ĐỊNH HƯỚNG CHO DÒNG CHẢY CỦA TIỀN: SỨC MẠNH CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG ĐI MUA SẮM CHO CHÁU GÁI: TIẾNG GỌI THỨC TỈNH GÂY QUỸ: CÁNH CỬA MỞ RA DÒNG CHẢY VÀ TÂM HỒN NHIỆM VỤ DANG DỞ CỦA MỘT TỔNG GIÁM ĐỐC Chương 6: NHỮNG ĐIỀU BẠN TRÂN TRỌNG SẼ TĂNG THÊM GIÁ TRỊ BẢY CON NGƯỜI VĨ ĐẠI ĐẶT VẤN ĐỀ TÍCH CỰC: MỘT NGUYÊN LÝ THAY ĐỔI TÍCH CỰC AUDREY: ĐI TÌM GIÁ TRỊ BẢN THÂN JAMES: LẠC LÕNG – HỒI PHỤC – VÀ QUAY TRỞ LẠI PHẬT HUỆ Chương 7: HỢP TÁC TẠO RA THỊNH VƯỢNG "LUẬT RỪNG" ĐÍCH THỰC: CÂN BẰNG GIỮA HỢP TÁC VÀ CẠNH TRANH ĐIỀU PHIỀN TOÁI CỦA CÔNG TÁC TỪ THIỆN VÀ "BÀN TAY GIÚP ĐỠ" TỪ THIỆN TOÀN TÂM: SỰ ĐỒNG ĐIỆU CỦA TIỀN BẠC VÀ TÂM HỒN FAITH STRONG: LIÊN KẾT TẠO LẬP TINH THẦN BANGLADESH: TIỀN BẠC, LINH HỒN VÀ MỘT ĐẤT NƯỚC ĐANG TRÊN ĐÀ HỒI PHỤC LỜI SẤM TRUYỀN VỀ ĐẠI BÀNG VÀ KỀN KỀN PHẦN IV: HÃY THAY ĐỔI GIẤC MƠ Chương 8: HÃY THAY ĐỔI GIẤC MƠ Chương 9: KIÊN ĐỊNH LẬP TRƯỜNG PHÁ VỠ SỰ IM LẶNG: TỪ DHARMAPURI ĐẾN HOLLYWOOD PHÁ VỠ SỰ IM LẶNG, THỂ HIỆN LẬP TRƯỜNG HÃY ĐỂ NGƯỜI KHÁC PHẢI LẮNG NGHE MÌNH NHỜ TIỀN BẠC LÊN TIẾNG SỬ DỤNG NHỮNG LỰA CHỌN CỦA CHÚNG TA ĐỂ TỔ CHỨC CUỘC SỐNG VÀ TIỀN BẠC HỘI THẢO PHỤ NỮ BẮC KINH: TIỀN BẠC, LINH HỒN VÀ LÒNG DŨNG CẢM THAY ĐỔI GIẤC MƠ BẰNG CÁCH NÂNG CAO TẦM NHÌN, TIỀN BẠC, CUỘC SỐNG Chương 10: SỨC MẠNH CỦA GIAO TIẾP TRÒ CHUYỆN TẠO NÊN BỐI CẢNH CỦA CUỘC SỐNG NẮM GIỮ CUỘC ĐỜI CHÚNG TA CÙNG VỚI TIỀN BẠC: LẮNG NGHE SỰ VĨ ĐẠI, NÓI LÊN SỰ THẬT Chương 11: ĐỂ LẠI DI SẢN LÀ SỰ ĐẦY ĐỦ DI SẢN CỦA SỰ TỈNH TÁO TRƯỚC TIỀN BẠC ĐỂ LẠI DI SẢN: KIẾN TẠO MỘT CUỘC ĐỜI ĐẦY ĐỦ Chương 12: XU THẾ MỚI THẾ GIỚI BẠN-VÀ-TÔI VẪN ĐANG HIỆN HỮU CUỘC HÀNH TRÌNH CỦA TÔI ĐẾN VỚI TIỀN BẠC VÀ LINH HỒN ẤU TRÙNG VÀ BƯƠM BƯỚM LINH HỒN CỦA TIỀN Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Đôi lời về cuốn sách "Linh hồn của Tiền là một cuốn sách đầy cảm hứng và lôi cuốn. Nó sẽ khiến bạn thay đổi suy nghĩ về tiền… Một cuốn sách dành tặng cho tất cả những ai mong muốn góp phần xây dựng thế giới này tốt đẹp hơn". – Jane Goodall, Đại sứ thiện chí hòa bình của Liên hợp quốc "Nếu bạn từng bị tiền đe dọa, cản trở hay làm tổn thương thì cuốn sách này sẽ giúp bạn hàn gắn những vết thương ấy. Đây là cuốn sách viết về tiền khác thường nhất mà tôi từng đọc…" – Bác sĩ Rachel Naomi Remen "Với cách hành văn đầy thuyết phục và cuốn hút, Linh hồn của Tiền miêu tả cách sử dụng tiền như một phương tiện giúp chúng ta hoàn thành những lý tưởng cao nhất về cuộc sống, tình yêu và khám phá ý nghĩa mới trong chính cuộc sống chúng ta". – Tiến sĩ Y học Dean Ornish "Bằng sự nhạy cảm tinh tế, Linh hồn của Tiền chỉ ra rằng cách chúng ta đối xử với bản thân và cách chúng ta sử dụng tiền bạc là hai mặt của một đồng tiền. Lynne Twist đã trả lại ma thuật cho tiền khi nhận thức tiền là một dạng năng lượng mà với chúng, ta có thể tạo nên những điều kỳ diệu." – James Garrison, Chủ tịch Diễn đàn thế giới "Linh hồn của Tiền là tiếng chuông đánh thức dài chậm rãi cho sự chuyển biến của chúng ta và thế giới hướng tới hòa bình, hòa hợp và sự giàu có cho tất cả mọi người". – Robert Muller, Cựu Tổng thư ký Liên hợp quốc "Trong một quốc gia và một thế giới bị phân chia sâu sắc hơn bao giờ hết giữa có và không có, nơi mà mong muốn của các triệu phú được ưu tiên trước những nhu cầu của trẻ em và người nghèo, Linh hồn của Tiền nhắc nhở chúng ta rằng khi mải miết chạy theo tiền, bạn sẽ tìm ra điều bạn thực sự quan tâm và rằng những lựa chọn sẽ dẫn đến một con đường mới..." – Marian Wright Edelman, Chủ tịch Quỹ bảo vệ trẻ em "Linh hồn của Tiền là nỗ lực tiên phong, đầy thấm thía của một nhà gây quỹ để biến xã hội mang nỗi ám ảnh coi tiền là thước đo giá trị đầu tiên thành những hành động lâu dài và đem lại sự mãn nguyện. Một câu chuyện đầy sức mạnh về cuộc đấu tranh và chiến thắng dành cho cả những người giàu cũng như những người nghèo khổ". – Tiến sĩ Edgar Mitchell Trao trả linh hồn cho Tiền Trong tác phẩm Atlas Shrugged xuất bản năm 1957 với đề tài "Vai trò của trí tuệ trong sự tồn tại của con người", Ayn Rand đã đưa ra những khái niệm mới mẻ về giá trị của tiền bạc: "Sự ham mê tiền bạc tức là nhận thức được rằng tiền được làm ra nhờ năng lực của con người và là phương tiện để đổi lấy những gì xứng đáng nhất... Tiền bạc là thước đo giá trị trí tuệ, đạo đức, năng lực và nhận thức của mỗi con người và của cả xã hội, là nguồn gốc của mọi điều tốt đẹp khi người ta nhận thức đúng đắn giá trị của nó. Tiền bạc có phải là nguồn gốc của mọi tội lỗi không? Nếu không thì bản chất của đồng tiền là gì? Đó là một công cụ trao đổi, là biểu hiện vật chất của nguyên tắc giao dịch thương mại của con người. Trong đó, người ta trả giá cho giá trị họ nhận được. Đó không phải là công cụ của những người ăn mày đi xin ăn bằng những giọt nước mắt, cũng không phải là vũ khí của kẻ cướp dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản, mà chỉ có những người biết lao động mới có khả năng làm ra đồng tiền… Nhưng tiền chỉ là công cụ. Nó có thể đưa bạn đi bất cứ nơi nào bạn muốn nhưng không lái xe thay bạn. Nó giúp bạn thỏa mãn những nhu cầu, nhưng không đem lại cho bạn những nhu cầu đó. Tiền bạc không thể mua được hạnh phúc cho con người khi họ không hề biết hạnh phúc là gì, không thể đem lại những quy tắc về giá trị có giá trị, và cũng không đem lại mục đích khi con người không biết mình muốn gì. Đồng tiền không thể mua trí thông minh cho kẻ ngốc, mang lại sự thán phục cho kẻ hèn yếu, sự kính trọng cho kẻ bất tài…" Có lẽ Linh hồn của Tiền cũng có chung một góc tiếp cận vấn đề tiền bạc như thế. Đây là cuốn sách dạy chúng ra về thái độ cư xử với tiền bạc, cách kiếm tiền, tiêu tiền và trao tặng tiền. Tiền mang lại sự đầy đủ về vật chất nhưng không phải là tất cả. Tiền không mua được sự đầy đủ về mặt tâm hồn. Là một nhà hoạt động xã hội toàn cầu, người đã vận động quyên góp được 150 triệu đô-la cho các mục đích nhân đạo, có lẽ hơn ai hết Lynne Twist hiểu rõ hai mặt rất trái ngược nhau của đồng tiền. Và cuốn sách này chính là một sự chia sẻ trải nghiệm từ chính cuộc đời bà, từ những cuộc gặp với những người giàu nhất cũng như nghèo khó nhất, từ những người rất nổi tiếng như mẹ Teresa và Dalai Lama đến những anh hùng vô danh hàng ngày. Thông qua những câu chuyện cá nhân đó, bà mong muốn giúp chúng ta thay đổi suy nghĩ thiếu thốn, thèm muốn, và gánh nặng bằng suy nghĩ đầy đủ, tự do và có mục đích. Trong một xã hội chạy theo đồng tiền, Linh hồn của Tiền khiến chúng ta lùi lại, trầm xuống và suy nghĩ về tiền bạc với những giá trị hạt nhân, cốt lõi của con người… Mang tên Linh hồn của Tiền nhưng đó thực sự là về Linh hồn của chúng ta… PHẦN I: TÌNH YÊU, NHỮNG LỜI NÓI DỐI VÀ SỰ THỨC TỈNH VĨ ĐẠI Chương 1: TIỀN VÀ TÔI, TIỀN VÀ CHÚNG TA Tiền giống như những chiếc khuyên sắt được xỏ vào mũi chúng ta. Chúng đang kéo ta đến bất cứ nơi nào chúng muốn. Chúng ta đã quên mất rằng chính chúng ta đã tạo ra chúng. — Mark Kinney Tại một ngôi làng trù phú ẩn sâu trong rừng rậm Amazon, cách biệt với bất cứ dấu hiệu nào ta quen gọi là văn minh tới mười ngày đường, anh Chumpi Washikiat cùng bộ lạc mình đang thực hiện một công việc táo bạo và chưa từng có tiền lệ: học cách sử dụng tiền. Mặc dù đã 26 tuổi, song Chumpi mới bắt đầu tiếp xúc với tiền cách đây vài năm. Bộ lạc của anh, những người Achuar, đã sống hàng nghìn năm mà không hề biết đến tiền. Trong suốt khoảng thời gian đó, những thế hệ người Achuar đã sinh trưởng, lao động nuôi sống gia đình, xây dựng nhà cửa, và duy trì cả cộng đồng – họ làm tất cả những việc đó mà không cần dùng đến tiền. Họ đã và vẫn đang chung sống rất hài hòa với những yếu tố ảnh hưởng có tác động mạnh mẽ nhất lên cuộc sống của họ – những thế lực tự nhiên, mối quan hệ giữa các thành viên bộ lạc và với rừng – nhưng họ chẳng hề có mối liên hệ nào với tiền bạc. Nguyên tắc có đi có lại chính là loại tiền tệ chung. Mọi người đều hiểu rằng tất cả các thành viên trong làng sẽ chia sẻ và chăm sóc cho nhau. Nếu con gái của Tantu cưới con trai của Natem thì bạn bè và hàng xóm sẽ đến và giúp họ dựng một ngôi nhà. Khi một anh thợ săn giết được một con lợn lòi, cả làng sẽ cùng liên hoan. Những thăm trầm của cuộc sống chủ yếu đều do thiên nhiên gây ra. Mọi trận chiến nổ ra đều là vì danh dự. Chúng chẳng liên can gì đến tiền bạc cả. Chumpi lớn lên trong một môi trường như thế, nhưng số phận đã an bài, anh thuộc về thế hệ sẽ thay đổi tất cả những điều đó. Vào đầu những năm 1970, người Achuar lần đầu tiên tiếp xúc với thế giới hiện đại thông qua những nhà truyền giáo. Chỉ trong hai thập kỷ, mảnh đất của cha ông họ trở thành mục tiêu nhòm ngó của các công ty dầu mỏ và các lợi ích thương mại khác. Khu rừng rậm có nguy cơ bị họ phá sạch để lấy gỗ và khai thác dầu dưới lòng đất. Năm 1995, Bill – chồng tôi và tôi được những thủ lĩnh người Achuar mời đến làm đối tác hỗ trợ họ bảo vệ đất đai và lối sống truyền thống của những người thổ dân. Chính dịp đó tôi đã gặp Chumpi, một chàng trai – một chiến binh Achuar trẻ tuổi và thiện nghệ. Một vài năm sau cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, Chumpi được các già làng và thủ lĩnh người Achuar chọn gửi đi học ở Mỹ. Anh là người Achuar đầu tiên học tiếng Anh, một công cụ thiết yếu giúp người Achuar có thể thỏa thuận về việc bảo tồn rừng và trao đổi buôn bán với thế giới bên ngoài hiệu quả. Đồng thời Chumpi cũng bắt đầu học một thứ ngôn ngữ nữa của cuộc sống phương Tây đương đại: ngôn ngữ của tiền. Đó chính là vốn từ thiết yếu để tồn tại trong một thế giới hoàn toàn khác so với thế giới của anh, nơi mà tiền luôn luôn là yếu tố chi phối, đôi khi là yếu tố chi phối duy nhất, đối với tất cả mọi người và mọi việc. Chumpi sống cùng gia đình tôi tại nhà chúng tôi. Anh đi học tại một trường gần đó và học tiếng Anh rất chăm chỉ. Những bài học về tiền thì đến với anh mọi lúc mọi nơi như khí thở. Bất cứ nơi nào anh tới, ngôn ngữ và ý nghĩa của tiền đều tràn ngập bầu không khí, từ bảng thông báo, biển và chương trình quảng cáo cho đến thẻ ghi giá tiền trên những chiếc bánh. Khi trò chuyện với những học sinh khác, anh tìm hiểu được về những hy vọng, ước mơ và viễn cảnh tương lai sau khi tốt nghiệp của họ, hay như cách họ nói là "cuộc đời trong thế giới thực" – thế giới của tiền. Anh bắt đầu nhận ra cuộc sống ở Mỹ nghĩa là thế nào: nghĩa là hầu hết mọi thứ trong cuộc sống và mọi lựa chọn của chúng ta – từ đồ ăn ta ăn, quần áo ta mặc, ngôi nhà ta ở, ngôi trường ta học, công việc ta làm, tương lai ta mơ ước, chúng ta lập gia đình hay ở vậy, sẽ có con hay không, cho đến thậm chí cả vấn đề tình yêu – tất cả đều chịu ảnh hưởng của cái thứ được gọi là tiền. Không lâu sau đó, Chumpi nhận ra rằng anh và những người đồng bào của mình đã bước vào mối quan hệ với tiền. Tiền bạc đã trở nên có ý nghĩa. Nếu người Achuar muốn bảo vệ khu rừng quê hương, họ sẽ phải đối mặt với thực tế là nó có giá trị với người khác, bởi nó có khả năng tạo ra tiền. Một số bộ lạc khác trong vùng biết đến tiền qua một cách cay đắng hơn. Họ đã bán quyền sở hữu đất để lấy tiền, số tiền sau đó tan biến cũng nhanh như khi nó đến, và cuối cùng, họ mất đất đai, nhà cửa, lối sống, và cả những di sản trước kia từng là của họ. Người Achuar rất chú ý đến bài học này. Họ nhận ra rằng thử thách đối với họ chính là phải sử dụng sức mạnh của tiền rõ ràng và kiên định nhằm phục vụ mục đích cao nhất của mình: bảo vệ rừng và sử dụng những tài nguyên của nó để đảm bảo tương lai bền vững cho chính họ và cho muôn loài. Họ hiểu rằng mối quan hệ mới mẻ chưa từng có với tiền bạc này phải được đặt vững chắc trên nền tảng của những giá trị cốt lõi và những quyết tâm gắn bó vững chắc nhất với cuộc sống và mảnh đất của họ, nếu không, cũng như những người láng giềng kia, họ sẽ bị tiền hủy hoại. Nhiệm vụ khó khăn này đến nay vẫn còn tiếp tục, nó vẫn đang thử thách độ bền vững của các mối quan hệ cũng như nguyên tắc cộng đồng đã tồn tại lâu đời trong nền văn hóa của họ. Khi người Achuar sống trong ngôi nhà rừng rậm của mình, họ sống trong sung túc và có mọi thứ họ cần. Cuộc sống đã tiếp diễn như vậy trong hàng thế kỷ, thậm chí hàng thiên niên kỷ. Nhưng chỉ cần bước một bước ra khỏi rừng, đi vào thế giới của chúng ta, họ không thể nào tìm được cái ăn, nơi trú ngụ, hoặc sống được dù chỉ là thời gian ngắn mà không dùng đến tiền. Dù muốn hay không tiền là thứ bắt buộc phải có. Việc may mắn được chứng kiến và tham gia dịp lần đầu tiên người Achuar tiếp xúc với thế giới của tiền bạc đã thôi thúc tôi và anh Bill suy ngẫm và đánh giá lại mối quan hệ giữa tiền bạc và chính chúng tôi, và giữa nền văn hóa của chúng ta với tiền bạc. Giống như Chumpi và những người Achuar, tất cả chúng ta đều có một mối quan hệ rõ ràng với tiền, mặc dù điều đó diễn ra gần như vô thức và không được để tâm tới. Nó định hình những trải nghiệm của chúng ta với cuộc sống, những cảm xúc sâu sắc nhất của chúng ta về bản thân và về người khác. Dù bạn tiêu đồng đô-la, yên, rupi hay đracma[1], thì tiền luôn là một trong những vấn đề trung tâm, mấu chốt trong cuộc sống của bất cứ ai. Điều này đúng trong trường hợp của tôi, và cũng đúng đối với tất cả những người tôi từng gặp, dù họ có nhiều hay ít tiền. Mọi người đều thích tiền, và hầu hết chúng ta đều cảm thấy một mối quan tâm, thậm chí là nỗi sợ hãi dai dẳng rằng chúng ta sẽ không bao giờ thật sự có đủ, hoặc có thể giữ đủ tiền. Nhiều người trong chúng ta vờ coi tiền không quan trọng, hoặc nghĩ rằng không nên quan trọng hóa nó. Nhiều người khác sống công khai với quan điểm đặt việc kiếm được thật nhiều tiền làm mục đích hàng đầu. Dù số tiền chúng ta có, hay không có, là nhiều hay ít, nỗi lo chúng ta không có hoặc sẽ không có đủ luôn khiến ta bứt rứt không yên. Chúng ta càng cố để có tiền, thậm chí cố lờ đi hay vượt lên trên nó, tiền càng thít chặt vòng kiềm tỏa lên cuộc sống của ta. Tiền đã trở thành sân chơi mà tại đó, chúng ta đánh giá khả năng và giá trị của mình bằng cách so sánh với người khác. Chúng ta lo rằng nếu không ra sức kiếm thêm tiền thì có lẽ chúng ta sẽ mất vị trí trong đội hoặc lợi thế trong cuộc chơi. Nếu không giành được thế trận, chúng ta cảm thấy mình đang thất bại. Nếu không dẫn đầu hay chí ít là ngang bằng với người khác trong cuộc đua tài chính, chúng ta cảm thấy mình đang tụt lại phía sau và cần nỗ lực để bắt kịp đối thủ. Cuộc chơi có lúc thật thú vị, có lúc thật đáng sợ, nhưng rủi ro bao giờ cũng lớn bởi trên sân chơi tiền bạc, nếu không phải là người chiến thắng, chúng ta chỉ có thể là kẻ chiến bại. Thậm chí ngay cả khi cuộc chơi đang thuận lợi, chúng ta vẫn thường cảm thấy một sự hụt hẫng, một khoảng cách vời vợi giữa hình ảnh cuộc sống lý tưởng ta hằng hình dung với cuộc đời thực ta đang sống hàng ngày, bị đè nặng dưới sức ép của những trăn trở thường nhật làm thế nào kiếm được nhiều tiền hơn, mua sắm nhiều hơn, tiết kiệm nhiều hơn, giành được nhiều hơn, sở hữu nhiều hơn, và trở thành người quan trọng hơn. Có thể bạn cho rằng một tài sản khổng lồ sẽ mang đến sự bình yên và tự do, nhưng những người giàu có sẽ cho bạn biết sự thật không phải vậy. Đối với họ, cái giá phải trả cho trò chơi thì lớn hơn nhưng bản chất trò chơi thì vẫn vậy. Dù bạn là một vị tổng giám đốc kiếm được 7 triệu đô-la vào năm ngoái, nhưng nếu người cùng chơi golf với bạn vừa đàm phán thành công một hợp đồng trị giá 10 triệu đô-la, còn bạn thì không, điều đó cũng đã đẩy bạn tụt lại phía sau trong cuộc chơi tiền bạc. Khi số tiền đặt cược vào trò chơi càng lớn, ta càng có nhiều thứ để mất, và việc dẫn đầu trong trò chơi càng đòi hỏi nhiều thứ hơn. Không ai thoát khỏi những tác động của tiền. Tất cả mọi người đều phải đương đầu với những thăng trầm về tiền bạc trong cuộc đời mình. Dù xem xét tiền bạc trên góc độ cuộc sống cá nhân hay gia đình, tại công sở, hay trên thực trạng kinh tế và phát triển của cả đất nước, chúng ta vẫn chỉ thấy duy nhất một bức tranh: Tiền chính là yếu tố cấu thành có sức thôi thúc mạnh mẽ, trớ trêu, kỳ diệu, bị phỉ báng và hiểu lầm nhiều nhất của cuộc sống hiện đại. THỨ ĐƯỢC GỌI LÀ TIỀN Nếu chúng ta muốn tước bỏ lớp vỏ hàng nghìn năm văn hóa tác động và quy định cách nhìn tiền bạc, để xem xét đến nó một cách mới mẻ hơn, chúng ta có thể bắt đầu từ một số điểm rất đơn giản. Tiền không phải là một sản phẩm của tự nhiên. Tiền không mọc trên cây, cũng không rơi từ trên trời xuống. Đó là một phát minh của riêng con người. Đó hoàn toàn là sản phẩm của trí tuệ chúng ta. Chúng ta tạo ra nó, và rồi sản xuất nó hàng loạt. Nó là thứ vô tri vô giác trong lịch sử khoảng 2.500-3.500 năm qua đã xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau; có lúc là những miếng vỏ sò hay hòn đá, có lúc là những thỏi kim loại quý, lúc là một mảnh giấy và có khi là một chớp nháy trên màn hình máy tính. Ngay từ đầu, tiền được phát minh để hỗ trợ việc chia sẻ và trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các các nhân cũng như các nhóm người. Đến nay, tiền vẫn giữ vai trò ấy, nhưng dường như trong quá trình đó, chúng ta đã trao cho tiền sức mạnh vượt quá vai trò thiết thực ban đầu của nó. Giờ đây, thay vì coi tiền là thứ công cụ do chúng ta sáng tạo và điều khiển, chúng ta coi nó là một điều tất yếu của tự nhiên, một thế lực ta phải đương đầu. Thứ gọi là tiền, tiền quy ước hay tiền giấy được sản xuất hàng loạt với giá trị bản thân không lớn hơn một mẩu giấy viết hay tờ khăn giấy Kleenex, đã trở thành thế lực có sức kiểm soát lớn nhất trong cuộc sống của chúng ta. Tiền chỉ mang sức mạnh mà chúng ta gán cho nó và chúng ta đã gán cho nó một sức mạnh gớm ghê. Chúng ta gần như đã trao cho nó quyền lực tối cao. Nếu chỉ nhìn vào hành vi, chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta đã khiến tiền trở nên quan trọng hơn bản thân chúng ta và ý nghĩa hơn cuộc sống con người. Con người đã làm và sẽ còn làm những điều khủng khiếp chỉ vì tiền. Người ta giết người vì tiền, nô dịch người khác vì tiền và biến chính mình thành nô lệ của cuộc sống tẻ nhạt cũng chỉ vì theo đuổi đồng tiền. Vì tiền, loài người sẵn lòng hủy hoại Mẹ Trái đất. Chúng ta đã tàn phá rừng, ngăn lấp sông, khai thác gỗ đến cạn kiệt, đánh bắt cá quá mức và làm nhiễm độc đất bằng chất thải từ công nghiệp và nông nghiệp. Chúng ta đã đẩy nhiều bộ phận trong xã hội xuống vị trí thứ yếu, dồn người nghèo vào các dự án nhà ở, để mặc các khu nhà ổ chuột trong các thành phố hình thành, bóc lột nhiều quốc gia để có lao động rẻ mạt hơn, và chứng kiến sự sa ngã của hàng nghìn – thực tế là hàng triệu người – trong đó có không ít là những người trẻ tuổi, bị cuốn vào nạn buôn bán ma túy để kiếm tiền, làm tổn thương người khác và từ bỏ chính hy vọng của mình trong cuộc sống tội lỗi, nô dịch hoặc tù đày. Chúng ta đã tiếp tục gán cho đàn ông và phụ nữ những quyền lợi khác nhau và không bình đẳng đối với tiền và sức mạnh của nó, nô dịch phụ nữ, bóp méo những trông đợi và nghĩa vụ của đàn ông bằng chính các đặc quyền của họ. Trong cuộc sống, tiền hầu như không bao giờ có thể mang đến tự do, niềm vui hay sự minh bạch thật sự. Tuy thế, chúng ta vẫn cho phép tiền kiểm soát các mặt của cuộc sống và thường coi nó là thứ quan trọng hàng đầu khi chúng ta đưa ra những quyết định liên quan tới công việc, tình yêu, gia đình và tình bạn. Chúng ta ít khi chấp nhận tuyệt đối điều gì ngoài sức mạnh và quyền lực của đồng tiền, và những giả định về vị trí của mình trước tiền. Chúng ta dám thách thức các giả định về mọi mặt khác của đời sống: sắc tộc, tôn giáo, chính trị, giáo dục, giới tính, gia đình và xã hội. Nhưng khi đứng trước tiền, chúng ta lại chấp nhận nó không chỉ là thước đo giá trị kinh tế mà còn là cách đánh giá tầm quan trọng và giá trị của tất cả mọi người và mọi thứ khác trên đời. Khi chúng ta nói về thành công trong cuộc sống, tiền luôn luôn là thước đo đầu tiên và đôi khi là thước đo duy nhất chúng ta viện đến. Trong cuộc sống riêng tư, chúng ta đều có lúc tự hạ thấp mình, lợi dụng người khác, hoặc dính líu đến những việc ta không lấy làm tự hào lắm chỉ để có hoặc giữ chặt lấy tiền hay sức mạnh mà ta tin tưởng tiền có thể mua. Chúng ta đã im lặng để tránh các xung đột hay tác động bất lợi về tài chính. Chúng ta đã tự mình hủy hoại các mối quan hệ khi dùng tiền làm công cụ để kiểm soát hoặc để trừng phạt, để trốn tránh hoặc mua chuộc tình cảm, hay để thay thế cho tình yêu. Trong các gia đình giàu có, nhiều người bị đầu độc bởi lòng tham, nghi ngờ và tham vọng điều khiển người khác. Cuộc sống nhiều đặc quyền đã tước đi của họ những cơ hội quý giá để trải nghiệm những giao tiếp bình thường của con người và những mối quan hệ chân thật. Còn với những người sống trong thiếu thốn triền miên, cuộc chiến ấy có thể dễ dàng trở thành một ám ảnh xuyên suốt, hạ thấp giá trị cá nhân, và xói mòn tiềm năng cơ bản của một con người, một gia đình, hay thậm chí cả cộng đồng và nền văn hóa. Đối với một số người, thiếu thốn vật chất trở thành cái cớ biện minh cho việc họ không tháo vát, hữu ích hoặc trách nhiệm như lẽ ra họ có thể. Chúng ta được sinh ra trong nền văn hóa do tiền nhào nặn nên và mối quan hệ ban đầu của chúng ta với tiền chính là sản phẩm của nền văn hóa đó, bất kể ta ở đâu – nơi nghèo đói triền miên như Mozambique và Bangladesh, hay nơi thịnh vượng và sung túc như Mỹ hay Nhật Bản. Từ những trải nghiệm ban đầu ấy, chúng ta nhận thức được vị trí và sức mạnh của tiền trong gia đình, cộng đồng và trong chính cuộc sống của mình. Chúng ta nhìn thấy những người kiếm được tiền và những người không thể. Chúng ta thấy những điều cha mẹ chúng ta sẵn sàng làm và những điều khiến họ do dự khi kiếm tiền hoặc kiếm những thứ mua được bằng tiền. Chúng ta thấy cách thức tiền định hình quan điểm cá nhân và dư luận. Trong nền văn hóa tiêu dùng mạnh mẽ của Mỹ, ngay cả những đứa trẻ cũng bị cuốn vào vòng xoáy dữ dội của tiền. Chúng ta trước đây từng trải qua, nhưng điều đó ngày nay thậm chí còn dữ dội hơn. Trẻ con lớn lên trên thế giới mà các phương tiện truyền thông và nền văn hóa đại chúng không ngừng nghỉ cổ vũ cho thói tiêu tiền và kiếm tiền không cần đoái hoài đến hậu quả gây ra cho con người hay môi trường. Những lệch lạc trong mối quan hệ của chúng ta với tiền nảy sinh từ những chuỗi ngày đều đặn tiếp xúc với những điều tưởng chừng vô thưởng vô phạt ấy trong một nền văn hóa (coi trọng) tiền bạc. Những vấn đề tài chính cá nhân cũng như những vấn đề trung tâm của nền kinh tế và môi trường như phát triển bền vững và bình đẳng xã hội, rõ ràng đều bắt rễ từ mảnh đất của mối quan hệ giữa chúng ta với tiền và nền văn hóa tiền bạc, nơi chúng ta sinh ra và dần dần chấp nhận như một lẽ tự nhiên. TIỀN VÀ TÂM HỒN: MỘT NGĂN CÁCH LỚN Đối với phần lớn chúng ta, mối liên hệ với tiền bạc chứa đầy mâu thuẫn, và hành vi của chúng ta trong những vấn đề về tài chính thường trái ngược với những giá trị, quyết tâm và lý tưởng trong sâu thẳm mỗi người – nơi tôi gọi là tâm hồn. Khi nói về tâm hồn, tôi không định liên hệ đến một khái niệm tôn giáo. Khi tôi nói về giá trị gốc hay những quyết tâm cao thượng "của chúng ta", tôi không có ý rằng tất cả chúng ta đều có chung quan điểm hay cảm giác về chính trị, tôn giáo, kinh tế hay những nhu cầu và ham muốn chủ đạo trong cuộc sống. Tôi tin tưởng rằng, sau tất cả những điều đó, khi chúng ta thẳng thắn khám phá những điều người khác yêu cầu, xui khiến hoặc dụ dỗ chúng ta tin tưởng, hay thậm chí những điều chính chúng ta lựa chọn để tin tưởng, điều quan trọng nhất đối với loài người, những quyết tâm sâu sắc và những giá trị gốc phổ biến nhất của chúng ta, chính là hạnh phúc của những người ta yêu thương, bản thân chúng ta và thế giới chúng ta đang sống. Chúng ta thật sự mong muốn có một thế giới tươi đẹp cho tất cả mọi người. Chúng ta không muốn trẻ em phải chịu đói khát. Chúng ta không muốn bạo lực và chiến tranh hoành hành ở bất cứ nơi nào trên hành tinh này, kể cả những chốn xa xôi nhất. Chúng ta không muốn đau đớn, hận thù và sự trừng phạt trở thành công cụ trong tay các chính phủ hay nhà lãnh đạo. Tất cả mọi người đều mong muốn một cuộc sống an toàn, ổn định, đầy đủ và đầy yêu thương cho mình, những người họ yêu và người khác. Tất cả chúng ta đều muốn có một hành tinh khỏe mạnh và cơ hội để mọi người được sống cuộc đời lành mạnh và hữu ích. Tôi cũng tin tưởng rằng trên tất cả những sợ hãi và đau buồn, mọi người đều muốn yêu thương, được yêu thương, và thay đổi cuộc sống của mình. Nói về khía cạnh tinh thần, không phải về mặt tôn giáo, tôi tin rằng con người cũng muốn cảm nhận sự thần thánh nương náu trong mình, mối liên hệ của chính họ với mọi sự sống và điều bí ẩn của một cái gì đó còn lớn hơn khả năng thấu hiểu của con người. Nền văn hóa tiền bạc đã chi phối chúng ta theo rất nhiều cách, mà nếu ý thức hơn, chúng ta sẽ không chọn. Nó khiến chúng ta vô tình bào mòn và hủy hoại những giá trị nhân bản nhất, những quyết tâm đẹp đẽ nhất, và có lúc, quay lưng lại với cả những người chúng ta yêu thương. BÀI MÊ HỒN CA CỦA THÀNH CÔNG Vào đầu những năm 1970, khi Bill, chồng tôi, bắt đầu sự nghiệp kinh doanh, tiền bắt đầu khẽ thì thầm bài mê hồn ca vào tai anh. Khi đó anh cùng các cử nhân trẻ ngành quản trị kinh doanh của các trường kinh tế hàng đầu được một công ty nổi tiếng và đầy triển vọng tuyển dụng. Công ty này xử lý các hợp đồng cho thuê phương tiện vận tải và thiết bị máy tính trên quy mô lớn. Công ty thu lợi nhuận theo phần trăm giá trị hợp đồng, và khi đó, nó đang bước vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ. Công việc làm ăn ngày càng thành công và lớn mạnh. Đến một lúc, các thành viên ban quản trị quyết định đặt mục tiêu trở thành công ty trị giá trên một tỷ đô-la nhanh nhất trong lịch sử. Khi ấy, đó là một mục tiêu đầy tham vọng, lôi cuốn và hoàn toàn khả thi. Tất cả mọi người, kể cả vợ chồng của nhân viên trong công ty, đều vô cùng phấn khởi, và dần dần bị chính mục tiêu này lạm dụng. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ mình đã sung sướng thế nào khi chứng kiến mọi chuyện tiến triển thật tốt đẹp cho Bill và đồng nghiệp của anh, tôi đã nghĩ kế hoạch này thật phi thường, tôi đã khích lệ anh ấy, không ý kiến gì khi anh ấy dần dần ở lại văn phòng muộn hơn, đi làm sớm hơn, và phải đi công tác ngay cả lúc cuối tuần. Chúng tôi có ba đứa con – Zachary một tuổi, Summer ba tuổi và Billy năm tuổi. Chúng là trung tâm trong cuộc sống của chúng tôi, hay đấy là chúng tôi nghĩ thế. Cuộc hôn nhân của chúng tôi và mối quan hệ với con cái là điều quan trọng nhất trên thế giới đối với chúng tôi, hay đấy là chúng tôi nói thế. Tuy nhiên, nếu ai đó ghi lại hình ảnh cuộc sống của chúng tôi suốt thời gian đó và xem xét khách quan, người ta chắc chắn sẽ thốt lên – Không, họ chẳng quan tâm gì đến bọn trẻ cả. Chúng ở với cô trông trẻ, người mẹ lúc nào cũng mải mê với những việc mất thời gian với chồng, đi mua sắm hay đi giải trí; họ thậm chí không theo dõi được những giai đoạn quan trọng nhất trong sự phát triển của con cái, không ở bên chúng để kể những câu chuyện trước khi đi ngủ, hôn tạm biệt hoặc đơn giản dành thời gian để xây dựng mối quan hệ tự nhiên. Họ có thể trả tiền cho người chăm sóc trẻ, mua đồ chơi và một căn nhà lớn, nhưng ngay cả khi họ ngồi bên con, đầu óc họ vẫn còn quay cuồng với những suy tính về việc cần làm gì tiếp theo để đạt được những mục tiêu tài chính, hay để thể hiện cho bạn bè biết rằng họ biết cách hưởng thụ cuộc sống giàu có và mới mẻ. Chúng tôi cảm thấy mình chân thành hy sinh cho con cái, nhưng nếu bạn quan sát trung thực cách chúng tôi thật sự đã dành thời gian và sức lực của mình, bạn sẽ thấy rằng hành động của chúng tôi không hề thống nhất với suy nghĩ. Chúng tôi bắt gặp mình trong mớ hỗn độn ấy vào giữa những năm 1970. Tiền vẫn đổ vào như nước, và tất cả những thứ chúng tôi có được hoặc mua được bằng tiền chỉ làm tăng ham muốn có thêm đồ đạc, mua thêm, hoặc thêm lý do để mua nhiều hơn nữa. Để tránh lạc hậu so với xã hội, chúng tôi cảm thấy mình cần biết về những loại rượu ngon, và khi làm như vậy, chúng tôi cần một hầm rượu. Chúng tôi mua một chiếc xe thể thao hợp thời trang và chạy rất tốt, sau đó lại muốn có thêm một chiếc nữa, một chiếc xe gia đình để chở cả nhà. Chúng tôi có một căn nhà tuyệt vời, nhưng có lẽ như vậy vẫn chưa đủ nếu thiếu chút nghệ thuật ấn tượng. Ngay khi chúng tôi bất đầu tìm hiểu về nghệ thuật, chúng tôi muốn mua các tác phẩm ở đẳng cấp cao hơn. Bạn bè của chúng tôi bắt đầu có những căn nhà nghỉ mùa hè, cho nên đấy có lẽ sẽ là mục tiêu tiếp theo chúng tôi phải đạt. Khi chúng tôi bắt đầu mua những thứ quần áo đắt tiền hơn, chúng tôi cần những đôi giày mới hơn, đẹp hơn đi cùng. Tiếp đó, áo khoác cũng phải tương xứng với những bộ cánh bên trong. Và đồng hồ cũng phải phù hợp. Danh sách những thứ cần nâng cấp cứ thế kéo dài vô tận. Trong các bạn bè của chúng tôi, đi nghỉ trở thành biểu tượng hùng hồn của cuộc sống xa hoa; nếu muốn hòa nhập với số đông, bạn cần có những kỳ nghỉ đặc biệt. Đột nhiên, việc lái xe đến Yosemite hay đi cắm trại không còn là đủ nữa. Để được gọi là nghỉ, người ta phải đi trượt tuyết ở Sun Valley, hay bơi thuyền ở Hawaii. Điều này kéo theo điều khác, và tất cả đều có vẻ quan trọng như nhau. Có một thứ gì đó đã thôi thúc chúng tôi đi theo, và chúng tôi thậm chí không kịp dừng lại để thắc mắc. Các con chúng tôi ở cùng với cô trông trẻ phần lớn thời gian. Chúng lớn lên trong sự sung túc và chăm sóc tận tình nhưng thiếu sự có mặt của cha mẹ. Chúng tôi là những bậc cha mẹ đầy yêu thương, nhưng vắng mặt nhiều đến nỗi tự chúng tôi cũng thấy khó chịu, nhưng chúng tôi vẫn đi vì lúc nào chúng tôi cũng thấy việc phải đi là quan trọng, và biết rằng chúng tôi sẽ sớm trở về. Dự án Xóa đói − một sáng kiến quốc tế nhằm thanh toán nạn đói trên toàn thế giới − đã thức tỉnh tôi. Khi lần đầu nghe về quyết tâm thanh toán nạn đói, tôi thấy sứ mệnh đó đã nói hộ cảm giác sâu sắc của tôi trước những đau khổ của con người. Tôi vẫn còn nhớ khi còn là một đứa trẻ hạnh phúc và thỏa mãn, có lúc tôi nhận ra ở đâu đó vẫn còn những người phải chịu đói, và đối với tôi, điều này thật vô lý. Tôi rất buồn khi nghĩ rằng có một đứa trẻ nào đó như tôi không có đủ thức ăn. Tôi đã nghĩ rằng không thể để điều đó xảy ra. Khi còn nhỏ, có thể bạn cũng suy nghĩ như vậy, sau đó tiếp tục đi chơi. Nhưng ý nghĩ đó ở lại trong tôi, và hàng chục năm sau, khi tôi nghe được thông điệp của Dự án Xóa đói, rằng ta có thể dùng những nguồn lực sẵn có để quét sạch nạn đói dai dẳng trên toàn bộ hành tinh, tiếng vọng của nó dội vào trái tim tôi và đưa tôi trở về khoảnh khắc tuổi thơ, khi tôi hiểu rằng không phải ai cũng được chăm sóc, và tôi muốn làm một điều gì đó. Tôi cảm thấy một thôi thúc mạnh mẽ và sâu sắc từ trong tâm hồn mà tôi không thể nào phủ nhận. Khoảnh khắc đó, tôi bắt đầu tách mình khỏi cuộc rượt đuổi với tiền. Giờ đây, sau 25 năm, tôi có thể nói rằng một trong những món quà bất ngờ khi tôi tham gia Dự án Xóa đói là khi đứng lên chống lại nạn đói, tôi dần nhận ra và phải đối mặt với cơn đói bên trong chính con người mình cũng như với cuộc sống thiếu chân thật và không phù hợp mà chúng tôi vẫn sống. Khi đó, chúng tôi bắt đầu nỗ lực có ý thức để hướng những nguồn lực của mình – thời gian, công sức, tiền bạc, tài sản vật chất tích cóp được – đến phục vụ cho khao khát thay đổi cuộc sống của mình. Mặc dù Bill vẫn tiếp tục làm việc cho công ty, chúng tôi bắt đầu nhìn nhận nó theo một cách hoàn toàn khác. Thay vì không ngừng kiếm tiền hay dùng tiền để mua sắm, chúng tôi bắt đầu coi những nguồn lực mà anh ấy và đồng sự đang tạo ra là những nguồn lực có thể dùng để giúp đỡ người khác.Chúng tôi ủng hộ tiền bạc cho những người, những chương trình và dự án có thể gây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người. Trước kia khi còn là một giáo viên, tôi đã quyết định mở một trường học cho các bậc cha mẹ đã ly thân và vẫn đang đi làm. Chúng tôi lôi kéo bạn bè và nhiều gia đình khác tham gia các hoạt động xây dựng cộng đồng và gây quỹ. Chúng tôi lao vào công cuộc biến đổi đời sống cá nhân và xã hội, tham gia các khóa học, hội thảo đồng thời khuyến khích người khác làm theo. Từ một nhóm nhỏ những người cùng đang chạy đua vì thành công về tài chính và địa vị, chúng tôi bắt đầu mở rộng mối quan hệ sang một tập hợp phong phú bạn bè và đồng nghiệp thuộc mọi hoàn cảnh, văn hóa và lối sống. Nhóm chúng tôi ngày càng mở rộng, thuộc nhiều nền văn hóa, nhiều bộ phận khác nhau của xã hội và hoàn cảnh kinh tế. Bill và các đồng sự của anh đã thành lập quỹ công ty. Tất cả chúng tôi cùng được trải nghiệm niềm vui và sức mạnh khi đóng góp và đầu tư tiền của cho những thứ chúng tôi quan tâm hơn hết thảy, những chương trình nói lên được quyết tâm cao cả nhất của chúng tôi. Chúng tôi nhận ra mình có thể tạo ra những thay đổi đáng kể khi đầu tư tiền bạc vào việc thanh toán nạn đói và chúng tôi đã làm như vậy. Chúng tôi đóng góp cho Dự án Xóa đói và được trải nghiệm cảm giác đầy đủ viên mãn, giúp sưởi ấm và nuôi dưỡng mối quan hệ của chúng tôi với nhau và với tất cả mọi người. Chúng tôi nhận ra rằng cuộc chiến trước kia nhằm tích lũy và nâng cấp mọi thứ của chính mình và cuộc đời mình cũng là một thứ nạn đói. Chúng tôi thẳng thắn giải quyết bằng cách nhận thức được rằng cái chúng tôi thật sự khao khát là một cuộc sống có ý nghĩa. Chúng tôi khao khát thay đổi thế giới, và bắt đầu dành toàn bộ tâm sức để làm việc đó. Một số người dồn sức lực để thanh toán nạn đói, một vài người đầu tư cho giáo dục hay xóa nghèo, một số người khác không lạm dụng nữa mà quay sang giúp đỡ, che chở và nâng đỡ nạn nhân từng bị lạm dụng. Thay đổi trong suy nghĩ dẫn đến những chuyển biến trong mối quan hệ của chúng tôi với tiền. Khi chúng tôi bắt đầu điều chỉnh các quyết định tài chính của mình cho phù hợp với những giá trị gốc sâu sắc hơn và với những quyết tâm cao đẹp nhất của mình, chúng tôi cảm nhận được sự khác biệt rõ rệt, không chỉ trong cách chúng tôi xử sự với tiền, mà trong cả cảm giác của chúng tôi về tiền, về cuộc sống và về bản thân. Cuối cùng, chúng tôi biết cách đánh giá bản thân không phải căn cứ vào những thứ chúng tôi có, mà theo những thứ chúng tôi cho đi; không phải dựa trên những gì chúng tôi tích lũy được, mà là những gì chúng tôi đã phân phát đi. Chúng tôi cũng nhận ra những thay đổi tương tự diễn ra với rất nhiều bạn bè của chúng tôi. Dù hoàn cảnh kinh tế ra sao, khi họ kết nối với sự hào phóng và quyết tâm, họ đều thể hiện mình theo cách như nhau. Chúng tôi nhận ra rằng tuy không thể thay đổi nền văn hóa tiền bạc, nhưng có thể nhìn nhận nó rõ ràng hơn, có thể đưa ra những quyết định lý trí hơn về việc chúng ta liên hệ với các tình huống ra sao và xử lý chúng thế nào. Chúng tôi không còn cảm thấy bị kìm hãm hay tù túng bởi nỗi sợ hãi cũng như niềm trông đợi về tiền bạc, và cuộc chạy đua vì tiền bắt đầu chậm lại. Với từng người trong chúng tôi, tiền ngày càng trở thành con đường giúp thể hiện lòng khao khát và sự viên mãn của tâm hồn. KIẾM SỐNG VÌ CUỘC SỐNG Mỗi người trong chúng ta đều trải qua trò chơi kéo co dai dẳng giữa ham muốn tiền bạc và tiếng gọi của tâm hồn. Khi chúng ta ở trong địa hạt của tâm hồn, chúng ta hành động chính trực. Chúng ta sâu sắc và hào phóng, dũng cảm và quyết tâm. Chúng ta nhận ra giá trị của tình yêu và tình bạn. Chúng ta thích thú với những công việc nhỏ bé nhưng được làm tốt. Chúng ta trải nghiệm những khoảnh khắc trân trọng khi ở giữa thiên nhiên và cái đẹp tự thân của nó. Chúng ta cởi mở, yếu đuối và chân thành. Chúng ta dễ rung động, và lòng hào phóng là rất tự nhiên. Chúng ta đáng tin cậy, đầy lòng tin với người khác và biết thể hiện mình. Chúng ta cảm thấy bình yên trong tâm hồn và tự tin rằng chúng ta là một phần thiết yếu trong một trải nghiệm rộng lớn, khoáng đạt hơn, một điều gì đó lớn hơn chính bản thân chúng ta. Khi chúng ta đi vào lãnh địa của tiền bạc, dường như chúng ta lạc mất con người sâu sắc vốn là bản chất của mình. Dường như chúng ta đột nhiên được đưa đến một sân chơi khác, nơi mọi luật lệ đều đã thay đổi. Trong vòng kiềm tỏa của tiền, những phẩm chất đẹp đẽ của tâm hồn trở nên khan hiếm. Chúng ta trở nên nhỏ bé hơn. Chúng ta vật lộn hoặc chạy đua để "giành lấy những thứ của mình". Chúng ta thường trở nên ích kỷ, tham lam, nhỏ mọn, đáng sợ, hay độc đoán; có khi bối rối, mâu thuẫn hoặc tội lỗi. Chúng ta gán cho bản thân danh hiệu người chiến thắng hoặc kẻ chiến bại, mạnh mẽ hay bất lực, và để mặc những thứ nhãn mác ấy nhào nặn mình một cách không chính xác, như thể sự giàu có về vật chất và khả năng kiểm soát sự giàu có ấy thể hiện sự ưu việt bẩm sinh, và thiếu những thứ đó nghĩa là con người không còn giá trị hay tiềm năng nữa. Mất khả năng nhận ra triển vọng, chúng ta trở nên cảnh giác và luôn hoài nghi, giữ lấy những thứ vặt vãnh, hay trở nên bất lực và tuyệt vọng. Chúng ta đôi khi còn cảm thấy mình buộc phải cư xử mâu thuẫn với giá trị gốc của mình, và không thể làm khác được. Điều đó dẫn đến sự chia rẽ sâu sắc trong cách sống, trong hành vi và trong cảm giác của chúng ta về tính cách và sự chính trực của chính mình. Mâu thuẫn này là vết nứt có thật không chỉ khiến chúng ta bối rối trong những vấn đề về tiền bạc; nó còn khiến chúng ta không thể hòa nhập thế giới bên trong với thế giới bên ngoài và trải nghiệm trọn vẹn sự viên mãn trong cuộc đời, khoảnh khắc thăng hoa khi chúng ta thấy bình yên trong phút giây của hiện tại, một phần của cuộc sống và cũng chính là cuộc sống. Trải nghiệm lặng lẽ này hầu như đã biến mất trong nền văn hóa của chúng ta, bị át đi bởi những tiếng ồn và cuộc chiến tiền bạc. Sự chia rẽ ấy tồn tại trong tất cả chúng ta – bao gồm cả chính tôi – và là nguyên nhân gây ra những trận chiến ác liệt nhất trong cuộc đời đối với cả bạn và tôi. Vicki Robin, trong cuốn Your Monney or Your Life (Tiền hay Cuộc sống) viết về những người thay vì làm việc để kiếm sống, chính xác hơn, họ đang "kiếm chết", hay, trong một số trường hợp là "kiếm giết". Công việc họ làm không trọn vẹn, thậm chí còn tai hại cho hạnh phúc của họ và người khác. Hoặc có thể họ thấy xấu hổ về công việc của mình. Họ căm ghét nó. Họ ước không phải làm công việc đó. Họ giả vờ rằng chuyện đó chẳng ảnh hưởng gì, nhưng thật ra, tâm hồn họ – hoặc tâm hồn ai đó – đang bị giết dần giết mòn. Bị mắc kẹt trong cuộc rượt đuổi, họ nói rằng họ đang kiếm sống khi thật ra họ đang "kiếm chết" hay "kiếm giết". Nhưng họ không nhận ra, hoặc không thể thừa nhận điều đó. Bản thân tiền bạc không gây rắc rối. Bản thân tiền bạc không tốt cũng không xấu. Bản thân tiền bạc không mang sức mạnh cũng không loại trừ sức mạnh. Chính cách hiểu và phản ứng của chúng ta với tiền mới là nguồn gốc thật sự của những điều tai hại. Cũng chính ở đó chúng ta sẽ bắt gặp cơ hội thật sự để khám phá bản thân và lột xác. Những câu chuyện tôi sắp chia sẻ sau đây đến từ cuộc hành trình vượt qua các thái cực từ giàu có huy hoàng đến nghèo khó thảm thương, và từ những người, những chốn, những lục địa cách xa đất nước này. Nhưng tôi cũng gặp chính những bài học ấy hiển hiện ngay tại nhà mình, trong những vật lộn và lựa chọn hàng ngày của chúng ta với tiền bạc, trong những hy vọng, ước mơ, sợ hãi và thất vọng liên quan tới nó. Có thể bạn sẽ phải quan sát kỹ mới nhận ra được ám ảnh về tiền bạc trong câu chuyện của chính mình, nhưng chắc chắn nó có hiện diện và có mang ý nghĩa. Bạn có thể bắt đầu khám phá sự bí ẩn của tiền, và biến sân chơi mà tiền đại diện thành một chốn hoàn toàn khác. Mối quan hệ của bạn với tiền có thể là nơi bạn thể hiện ưu điểm, tài năng, khát vọng cao nhất, những phẩm chất sâu sắc và thâm thúy nhất của mình. Dù chúng ta là triệu phú hay dân thường, chúng ta đều có thể thấy hài lòng với tiền của mình và hài lòng với mối quan hệ của chúng ta với tiền. Trong một thế giới chuyển động xoay quanh tiền, chúng ta nhất thiết phải thắt chặt mối quan hệ của chúng ta với tâm hồn mình và đưa nó vào mối quan hệ với tiền. Khi đó, chúng ta có thể tạo ra một hoạt động tinh thần mới. Chúng ta có thể tạo dựng và nuôi dưỡng nền văn hóa tiền bạc của mình bằng tâm hồn. Mối quan hệ của chúng ta với tiền có thể trở thành nơi ngày ngày chúng ta trải nghiệm các hoạt động tinh thần sâu sắc. Những chương tiếp theo của cuốn sách này chính là lời mời đương đầu với những thử thách về tiền bạc, nỗi sợ hãi, ám ảnh và ràng buộc với tiền, cả sự ăn năn, hối hận và đau đớn vì tiền; từ đó ta sẽ ôm trọn tất cả để lớn lên và bắt đầu biến đổi bản thân. Trong cuộc chơi ấy, chúng ta sẽ trao cho tiền tâm hồn của nó. Chương 2: TỚI ẤN ĐỘ: TRÁI TIM CỦA NẠN ĐÓI, LINH HỒN CỦA TIỀN BẠC Hãy lắng nghe cuộc sống của bạn. Hãy quan sát để nhận ra bí ẩn khôn cùng mà nó ẩn chứa. Trong những chán nản và đau thương của cuộc sống còn có cả hứng khởi và niềm vui; hãy chạm vào, hãy nếm và ngửi con đường dẫn đến trái tim linh thiêng còn giấu kín của nó, bởi xét cho cùng thì mọi khoảnh khắc đều quan trọng, và bản thân cuộc sống cũng đã là một ân huệ. — Frederick Buechner Trong chuyến đi đầu tiên của tôi đến Ấn Độ, một đêm nọ, tôi đứng bên bờ con sông Hằng ở Varnasi, và ngạc nhiên nhận ra những bè gỗ nhỏ trang trí bằng hoa và đuốc, trôi êm đềm trên dòng nước tối sẫm mượt như nhung. Chúng bập bềnh, trông như những cỗ xe rực rỡ trong lễ hội carnival được thả trôi giạt trên sông. Tôi lặng người trước cảnh đẹp ấy, và tự hỏi không biết người ta đang tổ chức lễ hội gì vậy – tôi cũng muốn tham gia. Tôi hỏi một người bạn, và anh nói với tôi những bè hoa đẹp đẽ đó chính là giàn thiêu xác theo nghi lễ, đưa thân thể người xấu số đang cháy xuôi theo dòng đến khi chỉ còn là tro bụi an nghỉ bên bờ sông. Tôi bàng hoàng, nhưng đó quả là một màn mở đầu tương xứng đưa tôi bước vào khám phá miền đất và văn hóa nơi này. Ấn Độ là mảnh đất của những điều ngạc nhiên, một đất nước mà vẻ đẹp phi thường song hành với những khổ đau ngoài sức hình dung. Nếu trên thế giới có một tâm điểm của nạn đói, ắt hẳn nó phải là Ấn Độ. Tại đây có nhiều người thiếu ăn, đói và chết đói hơn bất cứ nơi nào trên trái đất, vài ba trăm triệu người sống dật dờ trên các hè phố và ống cống ở Calcutta, trên sa mạc cằn cỗi nóng bỏng ở Rajasthan, nơi mọi sự sống đều là nhầm lẫn của tạo hóa. Tôi đến Ấn Độ lần đầu vào năm 1980, khoảng năm năm sau khi tôi bắt đầu sự nghiệp của một nhà hoạt động xã hội toàn cầu và chuyên gia gây quỹ xóa đói trên thế giới. Công việc đó từng đưa tôi đến Mỹ, Canada, và Châu Âu, nhưng đó là lần đầu tôi đến Ấn Độ. Tôi muốn tìm hiểu sự thật về nạn đói và cái nghèo ở những góc độ khốc liệt nhất. Và quả thật, chính ở Ấn Độ tôi đã khám phá ra những sự thật đáng ngạc nhiên về tiền bạc và sự giàu sang, về bản chất và tiềm năng con người. CUỘC ĐI BỘ VỚI RAMKRISHNA BAJAJ Mọi người gọi Ramkrishna Bajaj là "người con trai thứ năm của Gandhi", nhưng ông không có quan hệ máu mủ nào với vị Mahatma vĩ đại, người lãnh đạo phong trào đấu tranh phi bạo động giành độc lập cho Ấn Độ từ ách đô hộ của thực dân Anh vào cuối những năm 1930. Chính lòng trân trọng, sự biết ơn và truyền thống của Ấn Độ đã mang đến cho Gandhi thêm một người con. Ramkrishna là con út của Jamlalal Bajaj, nhà tư bản công nghiệp lớn của Ấn Độ, người đã âm thầm hỗ trợ tài chính cho phong trào giành độc lập. Chẳng mấy ai trong chúng ta nghĩ đến việc phong trào giành độc lập do Gandhi lãnh đạo cũng cần có người tài trợ, nhưng quả thật có người đã chi trả mọi thứ: việc đi lại, chi phí sinh hoạt, những hỗ trợ để Gandhi và những người khác đến được nơi cần thiết và có những thứ họ cần để thúc đẩy sự nghiệp giành độc lập. Jamlalal Bajaj chính là người đó, là cái túi ba gang phía sau Gandhi và phong trào độc lập. Số tiền ông bỏ ra rất lớn và cực kỳ cần thiết. Chính vì biết ơn sự hào phóng đó, và để tiếp nối truyền thống của Ấn Độ, Gandhi đã đề nghị nhận nuôi người con út của Jamlalal và coi cậu bé như con đẻ. Gandhi đã có bốn người con, do đó, khi ông nhận nuôi Ramkrishna, người Ấn Độ gọi cậu bé là "người con trai thứ năm của Gandhi". Hành động cảm ơn đó về sau lại đưa đến những may mắn mới cho đất nước Ấn Độ, vì chính Ramkrishna lớn lên thành một người tuyệt vời. Khi mười ba tuổi, cậu đã là người lãnh đạo phong trào thanh niên phi bạo động có tổ chức của Gandhi, một tổ chức thu hút hàng nghìn thanh niên. Sau nhiều năm sát cánh bên Gandhi, có lúc bị chính quyền bỏ tù hàng tháng liền do chủ trương đấu tranh kêu gọi bất phục tùng và bất hợp tác trong dân chúng, Ramkrishna trở thành một nhà lãnh đạo được kính trọng, và về sau là người đứng đầu đế chế công nghiệp – tài chính mà cha ông đã gây dựng. Tập đoàn Bajaj, hay Gia đình Bajaj như cách gọi của người Ấn Độ, là một trong những công ty lớn nhất nước. Với tư cách là người lãnh đạo mới, Ramkrishna đã chứng tỏ khả năng làm việc cực kỳ hiệu quả và sự hào phóng phi thường. Ông đã lập nhiều quỹ hỗ trợ hàng nghìn dự án vì lợi ích cộng đồng. Tôi cảm thấy rất vinh dự khi được Ramkrishna Bajaj làm hướng dẫn viên và cố vấn trong suốt những chuyến đi đầu tiên đến Ấn Độ. Hiền hậu như một người cha, ông dạy tôi hiểu đất nước của những thái cực đối ngược; giữa vẻ đẹp tuyệt vời và giá trị tinh thần tinh tế, với sự nghèo khó khốn khổ và đè nén kinh hoàng. Tôi vẫn còn nhớ khi tôi bước xuống máy bay ở Bombay, ập vào người tôi là một luồng không khí nóng và ẩm. Mùi của hàng nghìn con người chen chúc trong một diện tích hẹp dưới cái nóng ấy quả là quá sức chịu đựng, ít nhất là đối với phần lớn những người phương Tây lần đầu tiên tiếp xúc với đất nước này. Hồi đó, hàng nghìn người, gồm cả những người ăn xin và những đối tượng khác, sống ở sân bay và bên lề những con đường dẫn đến sân bay, trên các con phố ở Bombay, trên vỉa hè, trước các ngưỡng cửa và gầm cầu thang – hầu như tất cả mọi nơi. Họ tận dụng bất cứ chỗ trống nào để đặt những chiếc nồi nhỏ dùng để nấu món bánh chapatis, ngồi xổm vây quanh chiếc vỏ hộp dùng để nấu nướng. Có người ngủ ngay ngoài đường mà không có gì che chắn. Những người khác dựng chỗ trú ẩn bằng giấy, hộp bỏ đi, rác và dây dợ trên đường phố. Nhiều khi một gia đình sáu người hay đông hơn thế cùng chen chúc trong một chiếc lều tạm bợ như vậy. Chúng tôi đi bộ qua sân bay. Ngay khi ra khỏi khu vực để hành lý, chúng tôi bị những người ăn mày bao vây. Họ kéo chúng tôi, xô đẩy nhau lại gần mong một hành động đáp lại. Tôi rất sửng sốt. Đến ngày thứ ba ở Ấn Độ, tôi gần như choáng váng. Việc công khai tuyên bố trên thế giới sẽ thanh toán nạn đói toàn cầu, và việc trực tiếp đối mặt với cái đói ở Ấn Độ là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Trước kia tôi đã không nhận ra tầm vóc của vấn đề. Giờ thì tôi đang đối diện với nó. Vào ngày thứ ba đó, tôi đi bộ dọc những con phố ở Bombay với Ramkrishma, người đàn ông được tôn sùng là hiện thân của Gandhi, người đàn ông nổi tiếng là một nhà tư bản công nghiệp lớn, một mạnh thường quân, một nhà lãnh đạo tinh thần vĩ đại, một người cha lớn, một tâm hồn lớn. Khi chúng tôi đi bộ qua các con phố ở Bombay, tôi chứng kiến những người nhận ra ông qùy sụp xuống và hôn chân ông. Tôi cũng chứng kiến ông lờ những kẻ ăn mày đó đi; như thể ông không hề nhìn thấy họ, như thể họ không hề ở đó. Ông bước qua họ, dường như không chút để tâm tới cảnh ngộ của họ. Khi bạn đi bộ ở Bombay, nhất là ở một số khu vực của thành phố như nơi chúng tôi đang đi, bạn đúng là phải bước qua những người đang sống trên hè phố. Họ tiến đến, chìa đôi tay tật nguyền xin bố thí, hoặc có thể giơ những đứa con mù lòa ra trước mặt bạn, họ kéo áo bạn hoặc rên rỉ bên cạnh bạn. Đối với một người phương Tây như tôi, cảnh tượng đó thật choáng váng và đau đớn, nên tôi hoàn toàn ý thức được họ. Tôi không thể nhận biết hay nghĩ đến điều gì khác. Nhưng Ramkrishna không hề phản ứng gì. Họ cũng không xáp đến chỗ ông như cách họ tiến đến tôi. Dường như đã có một thỏa thuận bất thành văn hay một tấm lá chắn bao quanh ông. Ông bước qua đám người đó mà không chạm vào họ, cũng không bình luận gì. Và tôi bàng hoàng khi thấy người đàn ông vĩ đại ấy, con người đầy lòng trắc ẩn như vậy, có thể vờ như không thấy họ. Đó là lần đầu tiên tôi nhận ra mặt sáng và mặt tối của Ấn Độ, đồng thời cả mặt sáng và mặt tối trong chính con người vĩ đại đó, rằng để có thể tiến lên, ông cần phải bỏ qua những người đó, không liên quan đến họ, thậm chí không thừa nhận sự có mặt của họ. Cái đói và cái nghèo cùng cực còn nắm giữ những sự thật khác nữa, những điều bắt đầu đặt hành động của Ramkrishna với những người ăn mày dưới một góc nhìn khác. Một sự thật đáng buồn là ăn mày là một ngành kinh doanh ở Ấn Độ − những nước khác cũng có, nhưng Ấn Độ là một ví dụ tiêu biểu. Chúng ta khó có thể chấp nhận chuyện này, nhưng quả thật đó là một ngành kinh doanh được tổ chức chặt chẽ. Ở nhiều nơi, có những ông chủ theo kiểu mafia khuyến khích mọi người biến con cái họ thành tật nguyền để chúng có thể ăn xin hiệu quả hơn. Hành động này đảm bảo chắc chắn rằng ăn xin không chỉ trở thành công việc suốt đời, mà đó còn là công việc truyền từ đời này sang đời khác. Ở Ấn Độ ngày nay, hệ thống giai cấp trong xã hội đã lơi lỏng đi nhiều, nhưng vào năm 1983, nó vẫn còn ảnh hưởng mạnh. Nó khiến cuộc sống như một hệ thống khép kín, trong đó một khi bạn là ăn mày, bạn không thể nào thoát khỏi kiếp ăn mày. Nhìn cuộc sống dưới góc độ đó, bạn có thể cầu xin được đầu thai thành một người Bà-la-môn được xã hội trọng vọng, hoặc bất kỳ ai khác ở kiếp sau, nhưng trong kiếp này, bạn, con cái bạn, và con của con cái bạn sẽ tiếp tục làm ăn mày. Biết thế rồi, bạn sẽ muốn làm công việc ăn xin của mình sao cho hiệu quả nhất. Thành công trong nghề ăn xin phụ thuộc vào việc làm người khác thấy mủi lòng, thương hại hoặc tội lỗi để họ cho tiền, do đó, những kẻ cầm đầu và các ông chủ sẽ dạy những người ăn xin cách làm con cái họ trông đáng thương hơn. Dưới sức ép này, đôi khi bố mẹ của những đứa trẻ cào rách mặt con mình, thậm chí chặt tay hay chân chúng. Họ làm con em mình thành tàn tật để tăng khả năng gây xúc động và đồng thời tăng tiềm năng kiếm tiền trong nghề ăn mày. Ở đất nước mình, tôi đã nhiều lần chứng kiến người ta làm tổn thương nhau vì tiền: trong các vụ ly hôn, kiện cáo, khi bóc lột lẫn nhau hay bóc lột thiên nhiên. Thật dễ dàng để phê phán những lựa chọn sai lầm vì tiền ấy. Giờ tôi còn nhận ra trước đó tôi đã luôn mặc nhiên cho rằng những người nghèo, những người không có tiền để tranh giành với nhau, có lẽ không nằm trong vòng xoáy ấy. Tuy nhiên, ở Ấn Độ, tôi đã chứng kiến những lựa chọn độc ác và tự hủy hoại bản thân mà những người nghèo cũng làm vì tiền. Trong ngành ăn mày có tính tổ chức cao này, những người khởi xướng, những người tham gia và những người duy trì trò bất lương bệnh hoạn ấy, dù không nói ra, đều là đồng lõa. Những người cho tiền vì sửng sốt hoặc thấy tội lỗi đang xoa dịu tội lỗi của mình, và khi ấy, họ cũng thành kẻ tiếp tay, vô tình cổ vũ ngành kinh doanh tàn bạo ấy. Nạn nhân bi kịch thật sự là những đứa trẻ. Nhu cầu của những người ăn xin là nhức nhối và có thật, nhưng số tiền kiếm được không thể nào phá vỡ được vòng nghèo khó luẩn quẩn. Thực tế, tiền chỉ tiếp sức cho ngành kinh doanh quái ác gây ra đau đớn và hy sinh cho thêm nhiều đứa trẻ nữa. Những ngày tiếp đó mang đến cho tôi hết bài học này đến bài học khác, hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, khiến rất nhiều quan điểm về tiền vẫn in hằn trong đầu tôi, những điều tôi vẫn mặc nhiên thừa nhận hay nghĩ rằng mình hiểu rõ đều bị đảo lộn hoàn toàn. Những tương phản hoàn toàn mới xuất hiện trước mắt tôi, về những người chúng ta gọi là nghèo và những người chúng ta gọi là giàu. Tôi có thể thấy rằng quan điểm, niềm tin của mình về người giàu và người nghèo, thiếu thốn và xa hoa chỉ làm mờ nhạt chứ không hề soi sáng vấn đề. Đây là vở kịch và nhà hát của những người ăn mày, một thủ đoạn mà những người ăn mày đói khát dùng để diễn những trò gây xúc động, xấu hổ và tội lỗi. Tôi cũng đã bị cuốn vào đó. Tôi không có ý rằng họ không cần tiền để mua đồ ăn hay chữa lành những vết thương, nhưng trong việc xin tiền và cho tiền, rõ ràng ẩn chứa một mặt tối tăm và giả dối. Ramkrishna, người đàn ông vĩ đại luôn nỗ lực dùng công việc và của cải của mình để phá vỡ vòng nghèo khó đang bủa vây đất nước ông, đã thản nhiên bước qua không nói một lời về những người lê la trên mặt đất ngay trước mắt ông. Công ty của Ramkrishna tạo việc làm cho hàng chục nghìn người. Ông ở trên nấc cao nhất của chiếc thang địa vị xã hội Ấn Độ, nắm giữ cả công việc kinh doanh và vai trò xã hội của mình với trách nhiệm và lòng bác ái phi thường. Chính ông là một mạnh thường quân vĩ đại mà những giúp đỡ và sự hào phóng của ông đã trở thành huyền thoại. Tôi cũng nhận ra rằng để duy trì được tầm nhìn, mục đích và vị trí trong xã hội đó, ông buộc phải tạo ra cho mình một sự thờ ơ nhất định khi ngày ngày đối diện với cái nghèo khắc khoải trên đường. Và ông đã làm vậy. Chúng ta cũng vậy. Trước tiền bạc, tất cả chúng ta đều phần nào cố gắng mắt nhắm mắt mở. Có lẽ chính bởi sợ hãi và lo lắng rằng nếu biết trước hậu quả của việc chúng ta làm để kiếm tiền, hay của những lựa chọn khi ta chi tiêu, chúng ta sẽ phải đảo lộn toàn bộ cuộc sống của mình. Chẳng hạn, nếu chúng ta thật sự để ý đến vấn đề lao động trẻ em, hoạt động giúp chúng ta hàng ngày được sử dụng những sản phẩm giá rẻ từ nước ngoài, chúng ta sẽ choáng váng và không thể tiếp tục. Nếu chúng ta công nhận cái giá thực về môi trường mà ta trả cho nguồn năng lượng dường như vô tận phục vụ cuộc sống dễ chịu của mình, chúng ta sẽ phải thay đổi thế nào? Nếu chúng ta thật sự xét đến hậu quả của bất cứ ngành nào thuê ta làm hoặc thỏa mãn những điều ta muốn và cần, sự thật là có thể ta sẽ buộc phải dừng lại trong cuộc sống. Và nếu thật sự nhìn lại niềm tin và giả định của mình về người khác trong vấn đề tiền bạc, có thể chúng ta sẽ phải mở rộng bản thân, trái tim và tâm hồn cho những người mà trước đó ta đã khép mình. MẸ TERESA VÀ NHÀ TÙ CỦA SỰ GIÀU SANG Tôi được nuôi dạy như một người theo Thiên chúa giáo và suốt cuộc đời, Mẹ Teresa luôn là nguồn cảm hứng bất tận đối với tôi. Khi học năm thứ hai trung học, tôi đã nghiêm túc nghĩ đến việc trở thành một tu sĩ. Mặc dù cuối cùng tôi đã mở rộng đời sống tinh thần và dự định sự nghiệp theo những hướng khác, Mẹ Teresa vẫn là hình mẫu có ảnh hưởng nhất trong cuộc đời tôi. Vào những năm 1970 khi tôi lấy chồng và trở thành một bà mẹ trẻ, tôi bắt đầu cống hiến hoàn toàn cho sự nghiệp thanh toán nạn đói trên thế giới. Tôi đã nghĩ rất nhiều về bà và những việc bà đã làm cho những người nghèo nhất trong những người nghèo tại những khu nhà ổ chuột ở Calcutta và những nơi đói khổ khác trên khắp thế giới. Trong lần đầu tiên đến Ấn Độ và cảm thấy choáng váng trước cảnh nghèo khổ kinh hoàng trước mắt mình, tôi lại nghĩ về bà và cách bà đã dành cả cuộc đời bên những đau khổ của con người, hòa nhập với cộng đồng những người nghèo nhất trong những người nghèo, mặc dù bà nổi tiếng là nhà lãnh đạo giàu có và có tầm ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới. Sau nhiều chuyến công tác đến Ấn Độ và khi đã có cảm giác thân thuộc với nơi này, tôi quyết định tìm đến Mẹ Teresa. Tôi muốn gặp bà. Ngay sau đó, tôi biết rằng trong những người quen của tôi ở Delhi, có một người tương đối gần gũi với Mẹ Teresa và sẵn lòng giúp tôi liên hệ. Lúc đó là tháng 5 năm 1991, tôi đang ở Delhi gặp gỡ các quan chức của Ngân hàng Thế giới để bàn bạc về sáng kiến thanh toán nạn đói của chúng tôi. Một buổi sáng, bạn tôi liên lạc với tôi và nói rằng Mẹ Teresa có thể gặp tôi tối hôm đó, lúc bảy giờ. Tôi vô cùng ngạc nhiên. Tôi không thể tin mơ ước cả đời của mình chỉ vài tiếng nữa sẽ thành sự thật. Tôi hủy một cuộc họp vào buổi sáng và đi lễ ở một nhà thờ tại New Delhi. Tôi đến một hiệu sách và chọn mua ba quyển sách về bà, nghĩ rằng mình cần phải chuẩn bị kỹ càng trước khi gặp bà. Tôi bối rối không biết nên nói gì và nên mặc gì. Tôi gần như bị cuốn vào một cơn lốc lo lắng, sợ hãi và háo hức trước vinh dự đến với mình. Tôi phải dự các cuộc họp không thể hủy, nhưng tôi không thể tập trung. Trí óc và trái tim tôi hoàn toàn đắm chìm trong niềm chờ đợi cái cơ hội mà tôi đã hy vọng suốt cuộc đời. Bạn tôi đã sắp xếp một chiếc xe riêng và một người lái xe biết đường đến nơi Mẹ Teresa đang ở. Anh sẽ đến đón tôi tại khách sạn lúc sáu giờ, đưa tôi đến khu Old Delhi. Tại đó, trong một góc tối tăm và nghèo khổ của thành phố, Hội truyền giáo Từ thiện đang cưu mang những trẻ em bị bỏ rơi và mồ côi dưới hai tuổi sống trong Trại trẻ mồ côi của Mẹ Teresa. Người lái xe đến đón tôi, và chúng tôi lái xe xuyên qua các con phố của New Delhi để vào khu Old Delhi. Sau khoảng 45 phút tìm kiếm, chúng tôi đi vào một con phố nhỏ, đến một chỗ có một tấm biển giản dị treo trước lối vào trên bức tường đá cho chúng tôi biết chúng tôi đã đến Hội truyền giáo Từ thiện – Trại trẻ mồ côi Old Delhi. Người lái xe đỗ xe trước khoảng sân nhỏ để chờ tôi. Khi tôi bước lên ba bậc thang đến trước cánh cửa cũ kỹ, tôi nhìn thấy một đám giấy báo nhàu nát trên bậc cửa. Tôi dừng lại, nhặt lên. Giữa đống giấy nhàu nhĩ, tôi thấy một đứa bé nhỏ xíu, vẫn còn thở, vẫn còn sống. Đó là một bé gái mới sinh rất yếu ớt. Tôi bàng hoàng, nhẹ nhàng nâng đứa bé ra khỏi đám tã bằng báo đó rồi cẩn thận quấn chiếc khăn quàng của mình quanh bé. Tôi mở cánh cửa gỗ cũ kỹ và bước vào một căn phòng được chiếu sáng bởi hai bóng đèn lủng lẳng dòng xuống từ trần nhà. Sàn bê tông sạch sẽ được sơn màu xanh. Có 39 chiếc cũi (phải, tôi đã đếm cẩn thận), mỗi chiếc có một hay hai đứa bé bên trong. Trên sàn còn có nhiều tấm đệm, trên đó, những đứa bé nằm ngửa kêu líu ríu hay ngồi chơi đùa. Ở đây đang có 50 em bé chưa đến hai tuổi – giờ là 51 nếu tính thêm cái gói tôi mới tìm thấy bên bậu cửa – và âm thanh duy nhất là tiếng bọn trẻ líu ríu hoặc chơi đùa, tiếng các tu sĩ và những người phụ tá thầm thì trò chuyện và khẽ hát với bọn trẻ và với nhau. Tôi trao cô bé mới sinh cho tu sĩ vừa đến chào tôi. Cô đang mặc bộ sari quen thuộc màu xanh trắng như Mẹ Teresa, và cô có vẻ vui sướng khi đón nhận thêm một sinh linh để chăm sóc. Khi tôi tự giới thiệu và xin gặp Mẹ Teresa, tu sĩ quản lý phòng trẻ bảo rằng Mẹ Teresa hiện không có ở đây. Bà đã vào thành phố để bảo lãnh cho hai cô gái trẻ vướng vào mại dâm ra khỏi tù; Mẹ Teresa sẽ đưa họ về đây và họ sẽ cùng chăm nom những đứa trẻ trong trại mồ côi này. Trong lúc chờ đợi, tôi rửa tay, đeo một tấm tạp dề và tham gia cùng những người trong phòng chăm sóc cho những đứa bé này. Tôi lập tức bắt đầu công việc. Đầu tiên, tôi tắm cho một bé gái nhỏ bị mù. Cô bé chắc khoảng mười bốn tháng tuổi. Sau đó, người ta trao cho tôi một em bé ba tháng tuổi tàn tật, một chân của bé chỉ là một mẩu thịt. Tôi khe khẽ hát trong lúc tắm táp cho thân hình nhỏ nhoi, tàn tật của bé. Tôi lúc nào cũng mủi lòng trước những người sa cơ, đặc biệt khi đó là những đứa bé tàn tật hay phải chịu thiệt thòi theo cách nào đó. Nơi đó giống như một thiên đường đối với tôi, và tôi cảm thấy tràn ngập lòng biết ơn. Trong những câu chuyện về Mẹ Teresa, một câu thường xuyên được nhắc đến của Người là "Nếu muốn hiểu tôi hãy hiểu công việc tôi làm; tôi chính là công việc của tôi," và giờ tôi có thể cảm nhận sự có mặt của bà khi tắm cho những đứa bé này, cho chúng ăn, và yêu thương chúng. Tôi hầu như quên đi bản thân, và không biết đã bao lâu trôi qua. Tôi giật mình khi một tu sĩ chạm vào vai tôi và báo "Mẹ Teresa có thể gặp cô bây giờ." Tôi được dẫn đi dọc một hành lang, ngang qua một phòng nơi khoảng 20 nữ tu sĩ đang cầu nguyện buổi chiều. Tôi ngồi chờ bên cửa. Trước mắt tôi là một căn phòng bình dị không có gì trang trí. Có một chiếc bàn gỗ đơn sơ và hai chiếc ghế dựa vào tường. Khi tôi ngồi xuống và quan sát căn phòng dài và tối, một bóng người nhỏ bé xuất hiện. Tôi biết ngay rằng đó là Mẹ Teresa. Bà đi đến phía tôi từ trong bóng tối, hình bóng quen thuộc của bà còng gập. Bà mỉm cười và như tỏa sáng. Bên bà, một con chó Labrador màu đen trung thành im lặng đi theo. Vậy là bà đứng đó ngay trước mặt tôi. Không nói nên lời, tôi qùy xuống và hôn chiếc nhẫn trên bàn tay nhỏ bé xương xẩu. Như bản năng, tôi đặt môi hôn lên đôi chân đi xăng-đan. Bà đặt bàn tay lên đầu tôi một lúc, rồi nắm lấy hai bàn tay tôi, bảo tôi đứng lên và đến bên chiếc bàn cùng bà, ngồi xuống và nói chuyện. Chúng tôi ngồi bên nhau, và khi bắt đầu câu chuyện, tôi xúc động đến chảy nước mắt. Tôi kể cho bà rằng hình ảnh và quyết tâm của bà vẫn là ngọn lửa truyền cảm hứng cho tôi từ trước đến giờ. Tôi kể tôi cũng đã quyết tâm cống hiến hoàn toàn cho việc thanh toán nạn đói trên thế giới, và ở một cấp độ nào đó, quyết tâm này bắt nguồn từ tấm gương của bà và sự nghiệp can đảm bà đã chọn theo đuổi cả đời. Tôi xin bà cầu nguyện cho đứa con trai 20 tuổi của tôi đang ốm, và mẹ tôi, người đang chiến đấu với căn bệnh ung thư. Rồi chúng tôi bắt đầu nói về công việc của tôi. Bà biết về Dự án Xóa đói, biết tôi là người lãnh đạo dự án, và cũng biết rằng một trong những trách nhiệm của tôi là gây quỹ. Bà nói rằng gây quỹ là một công việc vĩ đại, và bà ngưỡng mộ sự can đảm của tôi khi chịu trách nhiệm cung cấp tài chính để thế giới thanh toán nạn đói. Bà khiêm nhường nhận mình là "chiếc bút chì của Chúa", và bảo có thể nhận ra trong mắt tôi và từ công việc của tôi rằng tôi cũng là một "chiếc bút chì của Chúa." Sự công nhận này khiến tôi xúc động sâu sắc. Đối diện với bà, tôi cảm thấy tình yêu vô điều kiện và mối ràng buộc với toàn thế giới mạnh mẽ đến mức tôi không thể kìm được nước mắt. Tôi nói chuyện với bà qua nước mắt. Khi đang say sưa trao đổi, chúng tôi bị cắt ngang bởi tiếng xô đẩy và những giọng nói oang oang vọng đến từ sảnh lớn. Đầu tiên tôi ngửi thấy mùi, rồi nghe thấy tiếng: một cặp vợ chồng trung niên người Ấn Độ, cả hai đều cao, to, sặc sụa mùi nước hoa và rõ ràng rất giàu có. Người phụ nữ đi trước, dữ tợn tiến đến chiếc bàn nhỏ chúng tôi đang ngồi. Bà ta đeo trên tai một đôi hoa tai kim cương và gắn một chiếc trên mũi. Tay bà ta đầy vòng gắn đá quý. Bà ta trang điểm rất đậm, mặc một bộ sari màu xanh trắng phủ đầy kim tuyến, hình thêu màu vàng và bạc đầy phô trương. Bà ta béo ục ịch, những lằn thịt phì ra ở phần eo trên bộ sari[2] căng chật. Chồng ba còn to lớn và lòe loẹt hơn thế. Ông ta đội một chiếc khăn xếp gắn một viên ngọc topaz lớn ở chính giữa, ngay trước trán, và một chiếc áo kurta trắng thêu kim tuyến. Ngón tay nào trên hai bàn tay ông ta cũng có nhẫn. Trong căn phòng yên lặng, đối với tôi họ giống như những con qủy khi họ xộc vào cảnh thanh bình và thân mật của chúng tôi. Không hề chào hỏi tôi hay Mẹ Teresa, người phụ nữ to lớn ồn ào ấn chiếc máy ảnh vào tay tôi rồi bà ta và chồng kéo Mẹ Teresa ra khỏi ghế và đẩy bà vào sát bức tường. Sau đó, họ đứng vào như những chiếc giá sách to lớn kệch cỡm bên cạnh Mẹ Teresa và yêu cầu chụp một bức ảnh. "Chúng tôi vẫn chưa chụp ảnh. Chúng tôi cần một bức ảnh." Người phụ nữ lớn tiếng càu nhàu, và ra hiệu cho tôi chụp ảnh bằng chiếc máy ảnh của bà ta. Tôi giận tím người. Vẻ đẹp của khoảnh khắc ở bên Mẹ Teresa tan vỡ trong nỗi giận dữ của tôi trước những kẻ xâm nhập bất lịch sự và lố bịch. Khi tôi chụp xong, người phụ nữ cao lớn đòi Mẹ Teresa nhìn hướng về phía bà ta để chụp bức thứ hai. Mẹ Teresa bị còng ở cổ do tuổi già và bệnh loãng xương, nhưng không hề ngần ngại, người phụ nữ đưa tay xuống dưới cằm Mẹ Teresa và đẩy lên. Tôi bàng hoàng trước cảnh người ta có thể đối xử với Mẹ Teresa như thế, nhưng muốn bọn họ đi càng sớm càng tốt, tôi chụp bức thứ hai. Khi ấy, người phụ nữ giật lại chiếc máy ảnh rồi cùng với chồng vội vã biến mất mà không một lời cảm ơn cho tôi hay Mẹ Teresa. Mẹ Teresa trở lại chiếc ghế và tiếp tục câu chuyện như chưa có chuyện gì xảy ra, trình bày nốt ý nghĩ của mình trong cuộc đối thoại trước đó của chúng tôi. Nhưng tôi hầu như không còn nghe thấy bà nói gì nữa, lòng tôi tràn ngập giận dữ và oán hận đối với cặp vợ chồng nọ. Tôi có thể cảm thấy máu chảy rần rật trong mạch máu, lòng bàn tay tôi đẫm mồ hôi. Đã đến lúc kết thúc cuộc gặp gỡ. Tôi nói tạm biệt trong nước mắt. Chúng tôi ôm nhau và chia tay. Tôi đi bộ ra ngoài, qua phòng trẻ đến chỗ chiếc xe đang đợi và đi thêm một chặng đường 45 phút để trở về nhà. Tôi toát mồ hôi và thở nặng nhọc, dượt đi dượt lại trong đầu cái cảnh sỉ nhục ngạo nghễ đáng sợ vừa diễn ra. Tôi nhớ lại lúc người phụ nữ to lớn đẩy cằm Mẹ Teresa lên, và tôi lại thấy giận bừng bừng. Tôi có những ý nghĩ kinh khủng về bọn lỗ mãng đó, và cảm thấy giận giữ sôi sục trước vẻ giàu có kiêu căng, khó chịu và kiêu ngạo của họ. Cả người tôi căng thẳng, và lòng căm giận theo máu chạy dọc người tôi. Suốt dọc đường, sau khoảng 15-20 phút, tôi bình tĩnh lại. Tôi xấu hổ nhận ra rằng tôi đã để mình đắm chìm trong hận thù và định kiến trước mặt một trong những lãnh tụ tinh thần có sức truyền cảm lớn nhất hành tinh. Tôi nghĩ lại và nhận ra rằng Mẹ Teresa không tỏ vẻ gì trước cặp vợ chồng giàu có. Đối với bà, họ cũng là những đứa con của Chúa, không nhiều hơn và cũng không ít hơn những đứa bé mồ côi được bà cưu mang. Bà đã dùng tình yêu và sự tôn trọng để đối xử với họ trước khi bình thản trở lại câu chuyện với tôi. Tôi đã luôn nghĩ rằng mình là người cởi mở và giàu lòng trắc ẩn với tất cả mọi người ở mọi nơi, nhưng giờ đây tôi nhận ra sự cố chấp và ranh giới lòng trắc ẩn của mình. Tôi nhận ra định kiến xấu xí của mình, định kiến trước những người giàu và kẻ mạnh. Họ không phải là những người cùng phía với tôi. Họ là những người tôi không thể ôm ấp và bao bọc trong vòng thương yêu của mình. Họ bất lịch sự, xấu xí và đáng xấu hổ. Tôi cũng nhận ra lần đụng độ với cặp vợ chồng này đã cho phép tôi, lần đầu tiên đối diện và nhận ra định kiến của mình. Trước đó tôi không thể hình dung nổi sức mạnh mà bài học này sẽ mang đến trong cuộc đời tôi. Khi tôi về đến khách sạn thì trời đã khuya, kiệt sức vì những cung bậc cảm xúc từ lúc tôi biết về cuộc gặp sáng sớm hôm đó đến những giây phút gặp gỡ thật sự, và sự can thiệp trắng trợn, cơn giận dữ của tôi, sau đó là nhận thức và sự xấu hổ. Tôi thắp một ngọn nến và ngồi xuống viết cho Mẹ Teresa một bức thư. Tôi kể cho bà nghe mọi chuyện, kể cả cơn giận dữ và lòng thù hận không thể kiềm chế đối với hai vị khách không mời. Tôi chia sẻ cảm giác choáng váng của mình khi nhận ra định kiến và giới hạn yêu thương của chính mình, ngay cả khi đứng trước mặt bà. Tôi xin bà tha thứ và cho tôi lời khuyên. Vài tuần sau đó tôi nhận được thư viết tay của bà. Trong thư bà nhắc nhở tôi: Khi cả đời tôi đã dành yêu thương cho những người nghèo khó, bệnh tật, những người ốm yếu, thì từ đó tôi có thể dễ dàng thể hiện mình và giúp đỡ, phục vụ người khác. Bà nói cái vòng luẩn quẩn của nghèo đói đã được bàn và biết đến nhiều. Cái ít rõ ràng hơn và hầu như không được công nhận là cái vòng luẩn quẩn của sự giàu có. Người ta không mấy khi nhận ra cạm bẫy phía sau vẻ hào nhoáng của giàu sang, những nỗi đau khổ của người giàu: sự cô đơn, sự tách biệt, sự cằn cỗi của trái tim, cái đói và nghèo khó của tâm hồn dưới gánh nặng của cải. Bà nói rằng tôi hầu như không dành yêu thương cho những người mạnh và những người giàu, mà họ cũng cần yêu thương như bất cứ ai khác trên trái đất này. Bà viết: "Con hãy mở rộng trái tim cho họ, trở thành người học trò và người thầy của họ. Hãy rộng mở tình yêu thương và bao bọc họ. Đó sẽ là một phần quan trọng trong công việc cả đời của con. Đừng bỏ qua họ. Họ cũng thuộc trách nhiệm của con." Đối với tôi, đó là một bài học đáng ngạc nhiên. Tất nhiên, những người giàu cũng là người và họ có những muộn phiền riêng, nhưng tôi chưa bao giờ coi họ là người cần giúp đỡ. Giờ thì tôi đã dần hiểu ra. Tiền giúp họ mua được những tiện nghi vật chất và phần nào tránh được những bất tiện, khó chịu của cuộc sống thường nhật. Nhưng cũng chính tiền và lối sống xa hoa đã tách họ khỏi cuộc sống thường nhật sinh động, khỏi những mối quan hệ cho-nhận lành mạnh bình thường và những công việc có ích, những trải nghiệm đẹp đẽ nhất của con người. Sự giàu có thường bóp méo mối quan hệ của họ với tiền, khoét rộng hơn khoảng cách giữa cuộc sống nội tâm và hành vi của họ với tiền. Lạm dụng tình dục, ngược đãi tâm lý, nghiện ngập, rượu chè, sống buông thả và sự tàn bạo là một phần của thế giới lệch lạc phía sau những khu nhà, những biệt thự kín cổng cao tường và cửa sổ xe hơi tối màu. Những sự chối bỏ đau lòng, những vụ kiện tụng, tranh chấp để giành giật được nhiều tiền hơn đã làm chai sạn ngay cả những người trong gia đình và khiến họ quay lưng lại với nhau. Nắm trong tay tiền tài và địa vị chỉ khiến tình hình càng trở nên trầm trọng, khiến họ trở nên thậm chí nguy hiểm và tàn ác hơn. Lời khiển trách của Mẹ Teresa và những dịp tiếp xúc với những người rất giàu trong khi gây quỹ sau này dạy cho tôi rằng, thật đáng ngạc nhiên, tiền bạc không đảm bảo cho người ta tránh được đau đớn. Tôi có thể nhận ra, không phải tất cả, nhưng rất nhiều người quá giàu có phải vật lộn trong cuộc sống vì bị cách ly với những phẩm chất của tâm hồn. Họ bị giam cầm trong nhà tù của sự giàu có, nơi có thừa mứa tiện nghi vật chất nhưng sự nghèo khó về tinh thần và tình cảm cũng là rất thật và đau lòng. Trong nhà tù đó họ không thể tiếp xúc với những giá trị của trái tim. Họ có thể trở thành hiện thân cho mặt trái của tiền. Đối với một số người, tiền chỉ là thứ vũ khí tiếp tay cho họ làm hại người khác. Từ ngày nhận được bức thư của Mẹ Teresa, tôi đã nguyện sẽ mở rộng trái tim và tình yêu thương cho cả những người giàu có và quyền lực. Là một chuyên gia gây quỹ quốc tế, tôi có nhiều cơ hội để làm điều đó và đến giờ tôi đã nhận ra rõ ràng vòng luẩn quẩn của sự giàu sang và những tai hại giáng xuống nạn nhân của nó. Bản thân tiền không đảm bảo cho cuộc sống đầy đủ và quá nhiều tiền là trở ngại để tiến đến cuộc sống ấy. CÁI ĐÓI LÀ NGƯỜI THẦY CỦA TÔI Thời kỳ đầu làm việc cho Dự án Xóa đói, tôi là một tấm gương điển hình về sức mạnh quyết tâm bởi trong sâu thẳm tâm hồn tôi biết nạn đói dai dẳng trên hành tinh này có thể được thanh toán hoàn toàn. Đó là vị trí tôi đã đứng, và khi bạn đứng vào vào vị trí ấy để làm việc, bạn sẽ hành động khác so với khi bạn tin rằng nạn đói là tất yếu, và các nỗ lực của bạn chỉ nhằm làm cho nó "không quá tồi tệ". Khi bạn biết chắc chắn rằng mọi việc không chỉ khác đi mà còn có thể được giải quyết triệt để, bạn sẽ say mê lao vào công việc. Bạn sẽ không băn khoăn về những điều "nếu như". Bạn sẽ xác định là sẽ "làm thế nào". Bạn sẽ đi tìm những nguyên nhân gốc rễ, bạn sẽ lựa chọn khác đi. Sau năm năm thành công trong việc thuyết phục, quyên góp các nguồn lực tại Mỹ và châu Âu nhằm chống lại nạn đói, cuối cùng tôi cũng đến Ấn Độ và lần đầu tiên đối mặt với quy mô cũng như sự phức tạp của nạn đói triền miên ở đó. Tôi đã tuyệt vọng. Tôi đổ bệnh. Nhưng không có đường lui. Tôi không nào nói "Ồ, hiểu rồi. Tôi không muốn làm công việc này nữa bởi vì có vẻ khó quá". Tôi không bao giờ đề cập chuyện này. Thay vì lùi bước trước một nhiệm vụ gian nan, rút lui khi gặp tình huống có vẻ bất khả thi, hay thỏa hiệp quyết tâm ban đầu và bảo rằng hồi trước bạn không định làm vậy, Dự án Xóa đói tập hợp sức mạnh cho các hoạt động xã hội nhờ dựa trên nguyên tắc biến đổi cá nhân và tạo điều kiện cho cá nhân khám phá bản thân. Tôi cần phải là ai để hoàn thành được quyết tâm tôi đã đặt ra? Tôi cần rèn luyện bản thân thành người như thế nào để thực hiện được điều đó? Tôi cần sẵn sàng huy động đến những nguồn lực nào từ bản thân tôi, đồng sự và thế giới? Cách tiếp cận độc đáo của Dự án Xóa đói phù hợp với tôi, phản ánh cách tiếp cận của tôi trước cuộc sống; tôi học được từ kinh nghiệm cá nhân rằng bạn không thể thất bại nếu bạn sống với tầm nhìn đó. Bạn sẽ trở thành một thứ công cụ mạnh mẽ hơn của những điều cần và muốn để đảm bảo cuộc sống con người. Bạn sẽ tự rèn luyện cả sự nhún nhường và lòng quả cảm. Khi loại bỏ sự nhỏ nhen của chính mình, đặt bản thân trong sự chính trực, và với tay vào tâm hồn mình để tìm kiếm sự vĩ đại, bạn sẽ thấy nó luôn luôn ở đó. Đối với tôi, hành động đó được thể hiện trong việc gây quỹ. Tôi biết rằng tôi có khả năng và tôi sẽ đi quyên góp bất cứ khoản tiền nào để thực hiện cho bằng được công việc. Đối với tôi, việc gây quỹ để xóa bỏ nạn đói không chỉ là một công việc, một sự thích thú nhất thời hay một tuyên bố mang tính chính trị. Nó còn thể hiện lòng quyết tâm sâu sắc trong tôi. Do đó, tôi chỉ có thể thực hiện việc đó bằng cách kêu gọi mọi người kết nối với tiếng gọi hay khao khát cao cả hơn trong chính bản thân để trở thành con người họ muốn, tạo ra những biến đổi họ muốn, và nhận biết được phải làm cách nào để thể hiện điều đó bằng tiền của mình. Do đó, thay vì coi gây quỹ là việc khoanh tay chờ mọi người đóng góp hay lợi dụng tình cảm để moi tiền của các nhà hảo tâm, đối với tôi nó trở thành vũ đài mà tại đó tôi có thể tạo ra cơ hội để mọi người gắn bó với sự vĩ đại trong chính bản thân họ. Chính trong khía cạnh hướng tới tâm hồn của việc gây quỹ và những cuộc đối thoại thân tình, tôi đã khám phá ra những vết thương và mâu thuẫn sâu sắc trong cách con người liên hệ với tiền bạc của mình. Rất nhiều người cảm thấy họ đã phản bội chính mình và trở thành con người họ không thích. Một số người ép bản thân làm những công việc không ý nghĩa. Nhiều người cảm thấy mình trở thành nô lệ khi có cảm giác bị nhà nước đánh thuế quá mức, bị ông chủ bóc lột, bởi gánh nặng điều hành công việc kinh doanh của gia đình hay việc thuê mướn người làm. Quan hệ của họ với tiền đã chết – hay chính xác hơn, đầy lo sợ. Nó ẩn chứa đau đớn và cả oán hận. Những thỏa hiệp đau lòng cũng như những vết trầy xước. Người ta bị thâm tím, bị biến dạng trong cuộc tranh giành. Không phải tất cả, nhưng rất nhiều người thấy bất an và khó chịu, vì họ không phải là con người tốt nhất họ có thể trở thành trong mối quan hệ với tiền. Họ không hề thấy tự do, dù họ có nhiều tiền đến đâu. Tình trạng mệt mỏi này không phải do thiếu lời khuyên của chuyên gia hay kinh nghiệm thực tiễn. Trong khi có đầy rẫy những chiến lược quản lý tiền bạc, khái niệm biến đổi bản thân vẫn còn là một người khách lạ trong thế giới này. Rõ ràng, khi con người có thể hướng tiền bạc của mình vào những quan tâm và quyết tâm sâu sắc, tinh tế nhất, mối quan hệ của họ với tiền trở thành khởi nguồn cho những biến đổi triệt để và lâu dài. Tiền của họ, dù nhiều hay ít, trở thành chất xúc tác cho sự thay đổi ấy. Khi hàng ngày trò chuyện về tiền, cách kiếm tiền, tiêu tiền hay đầu tư tiền bạc, những cuộc đối thoại của chúng ta trở thành thứ ánh sáng mới để mọi người nhìn nhận lại về tiền và cuộc sống của mình theo cách hoàn toàn khác lạ và đầy hứng khởi. Trong không gian đó, họ có thể cảm thấy nguồn năng lượng được giải phóng khi họ coi tiền là phương tiện thể hiện những quyết tâm sâu sắc và tinh tế nhất của mình. Đó không phải hiện tượng hiếm gặp. Nó xảy ra một cách ổn định, dù hoàn cảnh sống của con người ra sao. Số tiền người ta dùng để thể hiện quyết tâm không quan trọng. Điều quan trọng là họ nhìn lại mình trong mối quan hệ với tiền, thể hiện sự chính trực của tâm hồn qua phương tiện là tiền, nhờ vậy mà đạt được phần thưởng cho mình. Vậy là chính vẻ đẹp và sự khắc nghiệt đầy ấn tượng của cuộc sống ở Ấn Độ cũng như những cuộc trò chuyện trong khi gây quỹ xóa đói mà dần dần, những quan niệm thiếu sót của chúng ta về tiền, về tâm hồn và khoảng cách giữa chúng trở nên rõ ràng trước mắt tôi. Từ đó, một sự thật khác về tiền và tâm hồn con người hiển hiện lên. Tôi bắt đầu nhận ra con đường để con người giải phóng bản thân khỏi vòng xiết chặt của tiền, và điều chỉnh để tiền trở thành dòng chảy nuôi dưỡng bản thân họ cũng như thế giới của họ. Nhưng việc này đòi hỏi ta phải đối mặt với một số điều thật − giả và trước tiên là: lời nói dối về sự thiếu thốn. PHẦN II: THIẾU VÀ ĐỦ: CUỘC KIẾM TÌM SỰ GIÀU CÓ Chương 3: SỰ THIẾU THỐN: LỜI NÓI DỐI LỚN Luật dư giả của tự nhiên tràn ngập toàn vũ trụ, nhưng không thể đi qua cánh cửa của những người thiếu niềm tin và thừa giới hạn. — Paul Zaiter Trong nhiều năm qua, tôi đã chứng kiến cuộc đời và cảnh ngộ của nhiều người. Trong số đó có những người sống trong nghèo khó cùng cực; sự thiếu thốn thức ăn, nước uống, nơi ở, tự do, cơ hội ám ảnh mọi hoạt động, mọi câu chuyện của họ. Những người khác có quá nhiều so với nhu cầu của họ, tính trên mọi phương diện. Họ có nhiều tiền, thức ăn, xe cộ, quần áo, học hành, dịch vụ, tự do và cơ hội hơn, họ có tất cả mọi thứ nhiều hơn. Nhưng thật ngạc nhiên, trong thế giới xa hoa ấy, các câu chuyện cũng chỉ xoay quanh những thứ họ không có và những thứ họ muốn có. Dù chúng ta là ai và cuộc sống của chúng ta ra sao, chúng ta vẫn say sưa nói về những thứ ta còn thiếu. Tôi cũng nhận ra điều đó ở bản thân. Đối với tôi và rất nhiều người trong số chúng ta, ý nghĩ đầu tiên khi ta thức dậy và bắt đầu một ngày mới là "Mình chưa ngủ đủ". Suy nghĩ tiếp theo là "Mình không có đủ thời gian". Dù đúng hay không, ý nghĩ "không có đủ" tự động đến trước khi chúng ta kịp suy nghĩ, nghi ngờ hay xem xét nó. Chúng ta dành phần lớn thời gian trong cuộc đời để lắng nghe, giải thích, phàn nàn hoặc lo lắng về những thứ chúng ta không có đủ. Ta không có đủ thời gian. Ta chưa được nghỉ ngơi đầy đủ. Ta chưa tập thể dục đúng mức. Ta không có đủ việc làm. Ta không kiếm đủ lợi nhuận. Ta không có đủ sức mạnh. Ta thiếu môi trường thiên nhiên trong lành. Ta không có đủ các kỳ nghỉ cuối tuần. Tất nhiên, ta không có đủ tiền – không bao giờ là đủ. Ta không đủ thon thả, không đủ thông minh, xinh đẹp, khỏe mạnh, giỏi giang hoặc thành công hay giàu có – không bao giờ là đủ. Thậm chí trước khi chúng ta ngồi dậy trên giường, trước khi đặt chân xuống đất, chúng ta đã không có đủ, đã bị tụt lại phía sau, đã mất, đã thiếu cái gì đó. Và khi chúng ta lên giường đi ngủ vào buổi tối, trí óc chúng ta vẫn mải miết xoay quanh những thứ chúng ta đã không có hoặc không làm trong ngày. Giấc ngủ bị đè nặng bởi những ý nghĩ ấy và sau đó, chúng ta lại thức dậy bắt đầu một vòng quay mới đắm chìm trong cảm giác thiếu thốn. Câu kinh "không có đủ" lặp đi lặp lại cả ngày, trở thành một thứ được cài đặt mặc định trong suy nghĩ của chúng ta về mọi thứ, từ tiền trong túi đến những người ta yêu hay giá trị của chính cuộc đời ta. Ban đầu nó chỉ đơn giản là dấu hiệu của cuộc sống gấp gáp và nhiều thử thách; về sau nó trở thành cái cớ tối cao để ta lý giải vì sao cuộc đời ta không hoàn thiện. Nó trở thành lý do chúng ta viện đến để thanh minh vì sao ta không đạt được những mục tiêu đặt ra cho bản thân, vì sao ước mơ của ta không trở thành hiện thực, hay vì sao người khác làm ta thất vọng, vì sao ta thỏa hiệp sự chính trực của mình, từ bỏ chính mình hay bỏ rơi người khác. Đâu đâu cũng vậy, từ trung tâm thành phố đến vùng ngoại ô, dù ở New York hay Topeka, Beverly Hills hay Calcutta. Dù ta sống trong nghèo nàn khốn khó hay khi giàu có xa hoa, thậm chí khi ta có rất nhiều tiền, tài sản và tất cả những gì ta có thể muốn hoặc cần, chúng ta trung thành sống với cảm giác thiếu thốn như một mặc định tất nhiên. Đó dường như là điều kiện quy định chất lượng cuộc sống mà ta không mảy may nghi ngờ, thậm chí đôi khi không cần nói ra. Ngay cả khi bản thân chúng ta không trải qua thiếu thốn, cảm giác thiếu thốn vẫn kiểm soát cách ta suy nghĩ, hành động và sống trên đời. Nó định hình ý thức sâu sắc nhất về bản thân, và trở thành lăng kính để ta nhìn cuộc sống. Qua lăng kính ấy, những hy vọng, hành vi của chúng ta cùng những hậu quả kéo theo sẽ trở thành điềm báo trước sự thiếu thốn và bất mãn mà tự nó có thể sẽ trở thành hiện thực. Trạng thái tâm lý hay ám ảnh về sự thiếu thốn nằm trong chính lòng ghen tỵ, sự tham lam, định kiến và bất đồng của chúng ta trước cuộc sống, nó gắn chặt với mối quan hệ với tiền. Trong nỗi ám ảnh về sự thiếu thốn, mối quan hệ của chúng ta với tiền đầy sợ hãi, nó đẩy chúng ta vào cuộc chạy đua vô tận tìm kiếm nhiều hơn, hoặc khiến ta thỏa hiệp hòng thoát khỏi cuộc đua và những khó chịu liên quan đến tiền. Khi mải miết chạy đua hay thỏa hiệp, chúng ta rời xa sự hoàn thiện và chính trực tự nhiên của mình. Chúng ta chối bỏ tâm hồn mình và ngày càng bị đẩy ra xa khỏi những giá trị gốc và quyết tâm cao quý. Ta nhận ra mình bị mắc kẹt trong vòng quay của sự cô đơn và bất mãn. Ta bắt đầu tin những quảng cáo và thông điệp văn hóa chạy theo lợi nhuận rằng tiền có thể mua được hạnh phúc. Ta bắt đầu tìm kiếm bên ngoài bản thân ta những yếu tố có thể giúp ta trở nên hoàn thiện. Theo trực giác, chúng ta biết điều này không đúng, nhưng nền văn hóa tiền bạc đã át đi tiếng nói thông thái của tâm hồn ta, và ta thấy buộc phải săn lùng cả những an ủi và tiện nghi nhất thời nhất mua được bằng tiền. Có lẽ vài người sẽ nói rằng thực tế thiếu thốn là nền tảng có thật, tự nhiên và tất yếu cho mối quan hệ của chúng ta với tiền và các nguồn lực. Tuy nhiên, cuối cùng, mọi thứ đều có quá nhiều. Hơn hai trăm năm trước, vào khoảng thời gian xảy ra cuộc Cách mạng Mỹ, nhà kinh tế học và triết học người Scotland Adam Smith cho rằng "nỗ lực tự nhiên của mỗi cá nhân nhằm cải thiện điều kiện sống của mình" là động lực mạnh mẽ hơn hết thảy trở ngại, và tiếp đó, ông còn trình bày các nguyên tắc nền tảng của nền kinh tế "thị trường tự do" hiện đại (so với thời đó), trong đó "bàn tay vô hình" của lợi ích cá nhân được chấp nhận là lực lượng định hướng và điều tiết mạnh mẽ và tự nhiên nhất. Nhưng lập luận đó tự nhiên và chính xác đến đâu? Thế giới thời đó, thế giới mà nhà lý luận da trắng người châu Âu được đào tạo theo cách truyền thống – Adam Smith – đã sinh sống, là thế giới mà phần lớn người da trắng chối bỏ những người thổ dân và da màu, coi họ là "mông muội" và "dã man", chứ không đánh giá họ là tháo vát và thông thái, điều mà những xã hội "văn minh" sau nhiều thế hệ mới biết cách trân trọng. Tầng lớp người da trắng chiếm ưu thế thời đó chấp nhận và thực hiện việc phân biệt chủng tộc, tôn giáo và giới tính, coi đó là một ngầm định trong đạo đức và kinh tế. Thời đó, lợi ích cá nhân và chủ nghĩa dân tộc chưa ý thức được sự liên kết biện chứng giữa các yếu tố mang tính toàn cầu, điều mà ngày nay chúng ta nhận thấy có tác động sâu sắc lên bản thân chúng ta, tài sản và sự an toàn của chúng ta. Điều này tất yếu dẫn đến nhu cầu mở rộng phạm vi của lợi ích cá nhân để bao chứa hạnh phúc của tất cả mọi người ở tất cả mọi nơi. Những nguyên tắc và cấu trúc kinh tế cơ bản của cái thời đã qua đó dựa trên những giả định thiếu sót và suy nghĩ sai lầm về tự nhiên, tiềm năng con người và về bản thân tiền bạc. Bernard Lietaer, tác giả đương đại người châu Âu, cựu quan chức cao cấp của Ngân hàng Trung ương Bỉ cũng là một trong những kiến trúc sư trưởng của đồng tiền chung châu Âu, trong cuốn sách Of Human Wealth (Sự Giàu có của Con người) đã nói rằng lòng tham và nỗi sợ hãi sự thiếu thốn chẳng qua là do chính con người tạo nên; chúng không tồn tại trong tự nhiên, thậm chí không có trong bản chất con người. Chúng đi liền với hệ thống tiền tệ mà chúng ta gắn bó, và chúng ta đã gắn bó với nó lâu đến nỗi mặt tối của nó hầu như trở thành vô hình trước mắt chúng ta. Chúng ta đã học cách coi chúng là những hành vi bình thường và chính đáng. Ông kết luận rằng đúng ra có thể mô tả hệ thống kinh tế của Adam Smith là việc phân bố các tài nguyên có hạn thông qua lòng tham của cá nhân. Toàn bộ quá trình của kinh tế học "hiện đại" của Smith thực tế có nguồn gốc từ nỗi sợ nguyên thủy đối với sự thiếu thốn và lòng tham. Công cụ thực hiện, hay quá trình biến điều này thành hiện thực chính là tiền. Khi bước ra khỏi cái bóng của hệ thống méo mó và lạc hậu này, đồng thời rũ bỏ những ám ảnh đi liền với nó, chúng ta sẽ khám phá ra là: Thiếu thốn chỉ là lời nói dối. Nó độc lập với bất cứ lượng tài nguyên thực tế nào; nó là một hệ thống giả định, quan điểm và niềm tin sai lầm và không được xem xét cẩn trọng mà từ đó, chúng ta coi thế giới là nơi ta liên tục bị đe dọa bởi mối lo không thể thỏa mãn được nhu cầu. Sẽ hợp lý nếu giả định rằng những người cực kỳ giàu có không phải lo sợ thiếu thốn, nhưng tôi đã chứng kiến thiếu thốn vẫn đè nặng lên cuộc sống của họ chẳng kém gì đối với những người sống cuộc đời bấp bênh, hầu như không thể kiếm đủ tiền để thỏa mãn những nhu cầu đơn giản nhất. Cũng thật vô lý khi những người cực kỳ giàu có nghĩ rằng họ không có đủ, vô lý đến mức tôi bắt đầu nghi ngờ nguồn gốc mối lo của họ. Không có gì trong hoàn cảnh hiện tại của họ có thể lý giải cho điều đó. Tôi bắt đầu tự hỏi có lẽ những lo lắng này dựa trên giả định chứ không phải hoàn cảnh. Càng xem xét những ý tưởng đó, càng tiếp xúc với những người thuộc nhiều hoàn cảnh, văn hóa và nguyên tắc sống khác nhau, tôi càng khẳng định được rằng giả định nền tảng của sự thiếu thốn lan tràn khắp nơi. Những chuyện hoang đường và ngôn ngữ của sự thiếu thốn là giọng nói chủ đạo trong hầu hết mọi nền văn hóa, vượt qua bằng chứng và lý lẽ, và nỗi ám ảnh của sự thiếu thốn tạo ra những thái độ và hành vi méo mó, thậm chí vô lý, đặc biệt trong các vấn đề về tiền. Quan niệm về sự thiếu thốn này không phải là điều chúng ta chủ định tạo ra hay cố ý đưa vào cuộc sống của mình. Nó đã ở đó từ trước chúng ta, và có lẽ sẽ còn tiếp tục bám theo và vượt lên chính chúng ta, duy trì những ngộ nhận và ngôn ngữ trong nền văn hóa tiền bạc của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể lựa chọn có tham gia vào nó hay không, và có thể cho phép nó điều khiển cuộc sống chúng ta không. NHỮNG NGỘ NHẬN NGUY HIỂM VỀ SỰ THIẾU THỐN Những ngộ nhận và mê tín chỉ có thể tác động đến người nào tin tưởng nó, nhưng một khi đã đặt niềm tin, chúng ta sẽ bị yểm bùa tuyệt đối, và phải sống hoàn toàn trong thế giới tưởng tượng ấy. Thiếu thốn là một điều nói dối, nhưng từ đời này sang đời khác, nó đã được truyền lại như một sự thật hiển nhiên, với sức mạnh khó lòng cưỡng lại, đòi hỏi sự tuân thủ tuyệt đối và loại trừ mọi nghi ngờ hay thắc mắc. Khi làm việc với những người có hoàn cảnh kinh tế hay nguồn lực rất khác nhau, tôi nhận ra rằng có thể làm rõ hệ thống niềm tin và giả định này cùng quan điểm sống gắn với nó. Từ đó ta có thể lùi xa thêm một chút, giải phóng bản thân khỏi vòng kiềm tỏa của nó và mỗi cá nhân trong cuộc đời riêng sẽ tự tìm hiểu đó có phải là cách sống đúng đắn hay không. Khi soi chiếu vào những ám ảnh về sự thiếu thốn, chúng ta sẽ nhận ra ba ngộ nhận cơ bản đã điều khiển mối quan hệ của chúng ta với tiền, ngăn cản ta tiếp xúc với cuộc sống thành thật và trọn vẹn hơn. Ngộ nhận nguy hiểm thứ nhất: Không có đủ Ngộ nhận phổ biến nhất về sự thiếu thốn là không có đủ. Không có đủ cho tất cả mọi người. Không phải ai cũng thành công. Sẽ có người bị bỏ lại. Có quá nhiều người. Không có đủ thức ăn. Không có đủ nước. Không có đủ không khí. Không có đủ thời gian. Không có đủ tiền. Không có đủ trở thành lý do khiến chúng ta hạ mình làm những việc mà bản thân ta không thấy tự hào. Không có đủ dẫn đến nỗi sợ hãi thôi thúc chúng ta cố gắng để đảm bảo rằng mình, và những người thân yêu sẽ không rơi vào khốn khó, bị gạt ra ngoài lề, hay bỏ lại phía sau. Một khi chúng ta coi thế giới của mình là thiếu hụt, toàn bộ năng lượng sống của chúng ta, mọi thứ ta nghĩ, mọi điều ta nói và mọi việc ta làm – nhất là khi liên quan đến tiền – đều là những nỗ lực vượt qua cảm giác thiếu thốn này và nỗi sợ hãi thua người khác hay bị gạt ra ngoài. Nhiệm vụ đảm bảo cuộc sống cho mình và những người thân, tùy chúng ta coi đó là ai, trở thành một trách nhiệm vinh quang. Nếu không có đủ cho tất cả mọi người thì việc chăm sóc được bản thân và người thân, thậm chí khi điều đó ảnh hưởng đến người khác, dường như là điều đáng tiếc nhưng tất yếu, và phần nào hợp lý. Nó giống như trò chơi giành ghế của trẻ con. Khi số ghế ít hơn số người chơi, bạn phải chú ý để không thua cuộc và đảm bảo rằng sau cuộc giành giật, bạn có được một chiếc ghế. Chúng ta không muốn trở thành kẻ vô dụng đáng thương, do vậy ta tranh đấu để có được nhiều hơn những người khác, ta quyết tâm vượt lên trước phán quyết đang treo lơ lửng trên đầu, mặc dù phán quyết gì ta cũng chưa biết rõ. Sự thiếu hụt và nỗi sợ hãi phản ánh trong cách ta sống, những hệ thống và thể chế ta lập nên để kiểm soát quyền tiếp cận với những tài nguyên ta cho là có giá trị hoặc hạn chế. Mỗi người đều là thành viên trong cộng đồng toàn cầu, nhưng đôi khi do lo sợ, chúng ta đặt những ham muốn vật chất cá nhân lên trên sức khỏe, sự an toàn và hạnh phúc của người khác và dân tộc khác, chẳng hạn khi cần dầu lửa của nước ngoài. Trong những cộng đồng nhỏ của mình, chúng ta đáp lại nỗi sợ không có đủ bằng cách tạo ra những hệ thống ưu ái bản thân ta hay loại trừ người khác tiếp cận với những tài nguyên cơ bản như nước sạch, trường học tốt, dịch vụ chăm sóc sức khỏe phù hợp, hay nhà ở an toàn. Và trong chính gia đình của mình, không có đủ thúc giục chúng ta mua nhiều hơn lượng ta cần, hay thậm chí cả lượng ta muốn, khiến ta coi trọng, ưu ái hay cầu cạnh người khác để được ưu ái trên cơ sở giá trị của họ đối với ta về mặt tiền bạc. Các phẩm chất của con người họ không có ý nghĩa gì. Ngộ nhận nguy hiểm thứ hai: Càng nhiều càng tốt Ngộ nhận tiếp theo là càng nhiều càng tốt. Chúng ta luôn cố gắng có được nhiều hơn lượng hiện có. Đó là một phản ứng hợp lý khi bạn sợ rằng không có đủ, nhưng chính suy nghĩ này đã thúc đẩy một thứ văn hóa cạnh tranh khốc liệt để tích lũy, thu thập, và thỏa mãn lòng tham. Những điều này lại khiến ta càng thêm lo sợ và tăng tốc cho cuộc chạy đua. Không gì trong số đó khiến cuộc sống trở nên đáng quý. Thực tế là, cuộc đua giành lấy phần nhiều hơn đẩy chúng ta xa rời cơ hội trải nghiệm giá trị sâu sắc hơn của những thứ ta kiếm được hoặc đã có từ trước. Khi ăn quá nhanh hoặc quá nhiều, chúng ta không thể thưởng thức mùi vị của món ăn. Khi liên tục tập trung vào thứ tiếp theo – bộ váy tiếp theo, chiếc xe tiếp theo, công việc tiếp theo, kỳ nghỉ tiếp theo, lần sửa nhà tiếp theo – chúng ta khó có thể trân trọng món quà của những thứ chúng ta có trong thì hiện tại. Trong mối quan hệ với tiền bạc, quan điểm càng nhiều càng tốt làm ta không thể sống lý trí và giàu có hơn chỉ bằng những thứ ta hiện có. Càng nhiều càng tốt là một cuộc đua không có điểm kết thúc và không có người chiến thắng. Nó giống như vòng quay bánh xe mà chúng ta nhảy lên, chạy mải miết và quên mất cách dừng lại. Cuối cùng, cuộc đua trở thành thứ gây nghiện, và như với mọi chất gây nghiện khác, bạn gần như không thể nào dừng lại chừng nào còn nằm trong vòng kiểm soát của nó. Nhưng dù bạn đi xa đến đâu, hay nhanh đến đâu, hay vượt qua bao nhiêu người, bạn không thể nào thắng cuộc. Trong ám ảnh về sự thiếu thốn, ngay cả khi có quá nhiều vẫn là chưa đủ. Một người kiếm được 40 nghìn đô-la một năm sẽ thấy rất khó hiểu khi một người kiếm được năm triệu đô-la một năm tranh cãi về mức trợ cấp thôi việc, và đòi ít nhất mười lăm triệu đô-la nữa. Một số người có đủ của cải để sống ba lần cuộc đời mình vẫn ngày đêm lo lắng về chuyện mất tiền trên thị trường chứng khoán, bị cướp, hay lừa đảo, hay không có đủ khi về già. Trong cuộc sống sung túc về vật chất của họ, bất cứ cảm giác viên mãn thật sự nào cũng dễ dàng bị những sợ hãi và căng thẳng tiền bạc lấn át. Tại sao những người kiếm được hàng triệu đô-la nghĩ rằng họ vẫn còn cần nhiều hơn thế? Họ nghĩ rằng họ cần thêm bởi đó chính là một ngộ nhận phổ biến. Chúng ta đều nghĩ vậy, cho nên họ cũng nghĩ thế. Ngay cả những người có rất nhiều cũng không thể rời đường đua. Dù hoàn cảnh kinh tế của ta ra sao, cuộc rượt đuổi để giành lấy nhiều hơn đòi hỏi sự chú ý, vắt kiệt năng lượng và hủy hoại dần cơ hội hoàn thiện của ta. Khi chúng ta tin rằng có nhiều hơn sẽ tốt hơn, chúng ta không bao giờ đến đích. Dù đang ở đâu ta vẫn không bao giờ có đủ bởi lúc nào có nhiều hơn cũng tốt hơn. Những người theo đuổi quan điểm này, dù ý thức hay vô thức, và ai trong chúng ta cũng có một phần trong đó, buộc phải sống cuộc đời dang dở. Họ đánh mất khả năng dừng lại. Do đó, trong nền văn hóa thiếu thốn này, ngay cả những người có rất nhiều cũng không thể dừng cuộc chơi. Quan điểm càng nhiều càng tốt còn khiến chúng ta lạc lối sâu hơn nữa. Nó khiến ta định nghĩa bản thân qua thành công về tiền bạc và những thành tích bên ngoài. Chúng ta đánh giá người khác căn cứ vào việc họ có những gì và có nhiều chừng nào. Ta bỏ qua những món quà tâm hồn không đo đếm được mà họ mang đến cho cuộc sống. Tất cả những bài học tinh thần đều dạy chúng ta nhìn sâu vào bản thân để tìm thấy sự viên mãn ta hằng khao khát, nhưng cuộc đua không cho ta có thời gian và không gian tinh thần nhìn lại nội tâm mình. Khi lao vào cuộc đua tìm kiếm nhiều thêm, chúng ta bỏ qua sự hoàn thiện và đầy đủ có sẵn, đang chờ được khám phá trong bản thân. Khi cố gắng tăng giá trị tài sản của mình, ta dần xa cách cơ hội khám phá và đào sâu giá trị tự thân. Niềm tin rằng chúng ta phải sở hữu, và phải sở hữu nhiều hơn người khác, công ty khác hoặc đất nước khác là nguyên nhân phía sau tình trạng bạo lực, chiến tranh, tham nhũng và bóc lột trên trái đất. Trong tình trạng thiếu thốn, chúng ta tin rằng mình phải có thêm, thêm dầu, thêm đất, thêm sức mạnh quân sự, thêm thị phần, thêm lợi nhuận, thêm cổ phiếu, thêm tài sản, thêm sức mạnh, thêm tiền. Khi nỗ lực giành lấy nhiều hơn, chúng ta thường theo đuổi mục đích của mình bằng mọi giá, ngay cả khi phải hủy diệt cả một hay nhiều nền văn hóa và dân tộc. Liệu những đất nước khác có cần đồ ăn nhanh, công viên giải trí, thuốc lá Mỹ không, hay chính những công ty Mỹ đã khôn ngoan mở rộng thị trường ra phạm vi quốc tế nhằm tăng lợi nhuận bất chấp ảnh hưởng họ có thể gây ra cho nền văn hóa, nông nghiệp, kinh tế, sức khỏe của các cộng đồng sở tại, thậm chí ngay cả khi có những cuộc phản đối rộng rãi chống lại sự có mặt của họ? Liệu chúng ta có cần, hay thật sự muốn những thứ phục sức cầu kỳ, máy móc cao cấp mà chúng ta mang về nhà sau các chuyến đi mua sắm không, hay đó chỉ là phút bốc đồng nhất thời đáp lại tiếng gọi của nền văn hóa tiêu dùng và sự cám dỗ đều đặn đầy tính toán của các quảng cáo thời trang, thực phẩm và sản phẩm tiêu dùng? Liệu đứa bé năm tuổi cần những gì để cảm thấy được yêu thương, ngoài vài món quà chọn lựa kỹ càng? Thật ra chúng ta đang phục vụ lợi ích của ai khi trao cho trẻ con nhiều hơn lượng chúng cần hay có thể trân trọng? Khi ta mặc sức kiếm thêm không một chút lưỡng lự, nó đã tiếp sức duy trì một nền kinh tế, văn hóa và lối sống thiếu bền vững; đó chính là những thứ sẽ khiến ta phải thất vọng, khi chúng chặn đường chúng ta đến với những khía cạnh sâu sắc hơn, ý nghĩa hơn của cuộc sống và của bản thân ta. Ngộ nhận nguy hiểm thứ ba: Đó là lẽ tất nhiên Ngộ nhận nguy hiểm thứ ba chính là suy nghĩ đó là lẽ tất nhiên, và không thể nào khác được. Không có đủ cho mọi người, có càng nhiều chắc chắn là càng tốt, và những người có nhiều hơn chẳng bao giờ là chúng ta. Cuộc chơi thật không công bằng, nhưng chúng ta vẫn cần tham gia, bởi đó là lẽ tất nhiên. Thế giới này thật tuyệt vọng, vô ích, bất công, và chúng ta không bao giờ có thể thoát khỏi vòng vây của cái bẫy đã sập xuống. Đó là lẽ tất nhiên chỉ là một ngộ nhận, nhưng có lẽ ảnh hưởng của nó lại mạnh mẽ hơn cả, bởi vì bao giờ người ta cũng có thể viện dẫn các ví dụ chứng minh cho nó. Khi một điều gì đó đã tồn tại trong thời gian dài, và những truyền thống, giả định hoặc thói quen đã tạo ra lớp vỏ bọc khiến nó dị ứng với thay đổi, một điều có vẻ tất nhiên và logic đó là nó sẽ mãi giữ nguyên như nó lúc này. Chính tại vị trí đó và thời điểm đó, sự mù quáng, bị động, u mê, và bên dưới tất cả là sự cam chịu, ăn sâu vào cuộc sống chúng ta. Cam chịu khiến ta thấy tuyệt vọng, vô dụng và hoài nghi. Nó cũng khiến ta trở nên bàng quan, thậm chí cho đến phút cuối, khi thiếu thốn vật chất được viện làm lý do giải thích vì sao ta không thực hiện quyết tâm và cống hiến những thứ ta vốn có – thời gian, sức lực và sức sáng tạo – để thay đổi cuộc sống. Nó khiến ta ngừng chất vấn mình đã thỏa hiệp với bản thân hay bóc lột người khác đến mức nào để kiếm được tiền trong công việc, sự nghiệp, mối quan hệ cá nhân hay cơ hội kinh doanh. Đó là lẽ tất nhiên biện hộ cho lòng tham, định kiến, sự trì trệ trong mối quan hệ của chúng ta với tiền và với phần còn lại của nhân loại. Trong nhiều thế hệ, nó bảo vệ nạn buôn bán nô lệ tại Mỹ thời kỳ đầu, giúp số đông được hưởng ưu đãi có thể xây dựng những trang trại, thành phố, dựng lên những tập đoàn kinh doanh và gây dựng tài sản gia đình. Rất nhiều trong số đó đến nay vẫn còn tồn tại. Trong nhiều thế hệ hơn thế, nó bảo vệ và củng cố nạn phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính, phân biệt đối xử trong kinh tế và xã hội có hệ thống và trắng trợn, chống lại những dân tộc hoặc nhóm tôn giáo thiểu số khác. Trong lịch sử và cả ngày nay, nó dung dưỡng việc kinh doanh gian dối và cho các nhà lãnh đạo chính trị quyền bóc lột người khác để thu lợi tiền bạc cho bản thân. Trên phạm vi toàn cầu, điều ngộ nhận này giúp những người có nhiều tiền nhất nắm trong tay quyền lực tối cao, đồng thời thấy mình được khuyến khích, được quyền làm như vậy. Chẳng hạn, nước Mỹ chỉ chiếm 4% dân số thế giới nhưng thải ra 25% lượng ô nhiễm dẫn đến hiện tượng trái đất ấm lên. Theo Geo 2000, báo cáo môi trường của Liên hợp quốc năm 1999, việc một nhóm thiểu số giàu mạnh tiêu dùng quá mức trong khi số đông cư dân số thế giới tiếp tục chìm trong đói nghèo là hai nguyên nhân chính của hiện tượng thoái hóa môi trường. Trong khi đó, các nước đang phát triển học tập mô hình kinh tế của châu Âu đang đi theo vết xe đổ của các nước này khi đặt quyền lực quá mức trong tay thiểu số giàu có, tạo ra những thể chế và hệ thống xã hội ưu đãi họ, không thể giải quyết tận gốc những bất công cố hữu và những hậu quả đối với sức khỏe, giáo dục và sự an toàn của tất cả mọi người, ngay cả trong các xã hội dân chủ. Chúng ta nói rằng ta rất buồn khi chứng kiến những bất công như thế trên thế giới, nhưng dường như vấn đề bắt rễ sâu xa đến nỗi không thể phá bỏ. Chúng ta lại nạp mình cho lý do điều đó là tất yếu, thừa nhận rằng chúng ta bất lực và không thể thay đổi điều gì. Cùng lúc đó, chúng ta đã chối bỏ chính tiềm năng con người của mình, và khả năng cống hiến cho một thế giới thịnh vượng, công bằng và lành mạnh. Điều đó là tất yếu là một trong những thử thách khó khăn nhất khi ta muốn chuyển biến mối quan hệ với tiền bạc, bởi vì nếu không thể từ bỏ cuộc rượt đuổi, rũ bỏ cảm giác bất lực và hoài nghi do cuộc đua đó tạo ra, chúng ta lại đi vào ngõ cụt. Nếu bạn không sẵn sàng đối mặt, rất khó để loại bỏ cái cách suy nghĩ đã khiến ta bế tắc. Chúng ta phải sẵn sàng từ bỏ quan điểm việc đó là điều tất yếu, dù chỉ trong một khoảnh khắc, để xem xét có cơ may nào nó không phải là điều tất yếu, hay tất yếu là nó không như vậy. Chúng ta hoàn toàn có thể lựa chọn hành động thế nào và biến đổi hoàn cảnh ra sao. NHỮNG "ÁN CHUNG THÂN" HẠN CHẾ KHẢ NĂNG CỦA CHÚNG TA Trong bất cứ nền văn hóa nào, truyện thần thoại luôn mang theo những bài học đạo đức, và câu chuyện thần thoại về sự thiếu thốn đã để lại những niềm tin truyền từ đời này sang đời khác, những "án chung thân" mà chúng ta coi là trí tuệ dân gian hay sự thật cá nhân. Khi tôi còn nhỏ, bà tôi thường khuyên các cháu: "Hãy cưới người có nhiều tiền rồi tình yêu sẽ đến sau". Chúng tôi thường bật cười khi bà nói vậy, còn bà sẽ cười và nháy mắt, nhưng thật sự bà tin như vậy. Đó cũng là điều bà đã làm. Khi bà kết hôn vào khoảng năm 1900, bà đã cưới người đàn ông giàu có nhất đến với bà, và sau đó học cách yêu ông. Bà muốn truyền lại lời khuyên này cho chúng tôi. Mặc dù chúng tôi cười khi nghe bà nói, những lời ấy vẫn ghim lại trong tâm trí chúng tôi. Tất cả các cháu gái của bà về sau đều phải cố gắng để thoát khỏi những niềm tin ấy trong cuộc đời nếu muốn tự do lựa chọn người yêu qua những phẩm chất đẹp đẽ hơn số tiền mặt của các chàng. Trong ám ảnh và ngộ nhận về sự thiếu thốn, mỗi người đều phải vật lộn với án chung thân của mình với tiền. Đôi khi nó hiện lên trước chúng ta qua những lời khuyên giản dị: Đừng tiêu lạm vào tiền vốn. Nếu phải bận tâm đến giá cả, ắt hẳn bạn sẽ không thể chi trả được. Tiền không phải là đồ vật. Nói chuyện về tiền là không lịch sự. Đôi khi người ta cần phải tiêu tiền vốn thật ý nghĩa; coi giá cả là vấn đề nguyên tắc ngay cả khi bạn có thừa để trả; thẳng thắn và cởi mở về những vấn đề tiền bạc thay vì mơ hồ hay quá thận trọng. Những bản án chung thân khác thuộc về cá nhân, do chính cá nhân tạo ra, và được thể hiện qua cả những hành vi ý thức và vô thức liên quan đến tiền. Trong thời kỳ đầu của sự nghiệp làm chuyên gia gây quỹ, tôi hầu như làm việc trên cơ sở tự nguyện, và chỉ thấy thoải mái khi đi xin tiền cho người khác. Trong cuộc sống riêng, tôi bằng lòng với việc để chồng cáng đáng gánh nặng tài chính, giải phóng cho tôi khỏi trách nhiệm khó khăn đó. Tuy nhiên, theo thời gian, tôi nhận ra những bài học bất ngờ cùng những bản án chung thân tôi đang tạo ra và hạn chế cuộc sống của chính mình. Đó là tôi không thể mong kiếm sống được bằng công việc của mình, và tôi không phải là một thành viên đúng nghĩa, trách nhiệm và hữu ích trong đời sống vật chất của gia đình mình. Tôi sẽ vẫn cống hiến thời gian và sức lực của mình không toan tính, tôi cũng vẫn đặt niềm tin vào chồng tôi trong vấn đề tài chính, nhưng tôi cũng đã cởi mở hơn, và học cách trải nghiệm sự hài lòng khi kiếm tiền và quản lý tiền bạc có trách nhiệm hơn. Đó thật sự là một mốc trưởng thành đối với tôi, một bước tiến gần hơn đến mối quan hệ trung thực hơn với tiền. Có thể bạn cũng thấy những bản án chung thân đó có phần nào quen thuộc. Có thể bạn đã phải làm việc vì tiền trong gần hết cuộc đời, nhưng vẫn do dự khi đề nghị tăng lương dù bạn biết mình hoàn toàn xứng đáng. Có thể bạn đã bằng lòng với công việc không triển vọng thay vì dành thời gian và sức lực tìm kiếm một công việc mới hoặc học tập để làm công việc khác. Có thể bạn được một khoản thừa kế, và bạn cảm thấy có quyền đối với tài sản gia đình, hoặc có thể bạn thấy tội lỗi. Có thể bạn tránh tính toán sổ séc hoặc trả các hóa đơn bởi vì sự thật rành rành của những con số đó nói lên những điều bạn không muốn nghe. Có thể bạn ngại khẳng định mình về tiền bạc trong một mối quan hệ, bởi vì bạn sợ những hậu quả có thể xảy ra; có thể những nỗi sợ về tài chính hoàn toàn ngăn cản bạn khẳng định mình. Hầu hết các bản án chung thân gắn với tiền là sản phẩm của thứ ngôn ngữ hạn hẹp của sự thiếu thốn trong nền văn hóa của chúng ta. Trong lối nói đó, từ "thành công" ám chỉ một người kiếm được rất nhiều tiền. Một doanh nhân thành đạt đơn giản là một người biết kiếm tiền. Đánh giá đó không hề tính đến chất lượng sản phẩm, nơi làm việc, thù lao cho công nhân, phong cách quản lý, hay hoạt động hỗ trợ và đóng góp cho cộng đồng của công ty. Trong ngôn ngữ của sự thiếu thốn, những doanh nhân có thể tạo ra lợi nhuận lớn nhờ bóc lột hay phát triển kinh doanh không bền vững vẫn được coi là "thành công" hơn những người như giáo viên hay công chức nhà nước, những người thu nhập ít hơn nhưng đã làm việc để biến cộng đồng của chúng ta thành một nơi văn minh, đầy quan tâm và thương yêu để sống và làm việc. Từ "giàu có" ban đầu có nguồn gốc từ từ "hạnh phúc", ám chỉ cả những khoản tiền lớn và cuộc sống dồi dào, mãn nguyện. Trái lại, có quá nhiều tiền thường tạo điều kiện cho lòng tự cao và sự cô lập ngăn cản người ta tiếp cận với sự giàu có thật sự khi họ kết nối và giao tiếp với nhau. Nghèo và cái nghèo mô tả những hoàn cảnh và môi trường kinh tế, nhưng những từ này lại thường xuyên được sử dụng để hạ thấp nhân phẩm và tiềm năng của những người có ít tiền. Bản án "nghệ sĩ chết đói" khiến chúng ta chấp nhận sự thật rằng óc sáng tạo bị đánh giá thấp trong xã hội. Nó có ý nói rằng những người kiếm sống bằng khả năng sáng tạo được trả lương rất thấp, và những người khác được quyền bóc lột hay lừa đảo tiền bạc của họ và đánh giá thấp họ về mặt con người. Những bản án chung thân gắn với sự thiếu thốn như vậy chỉ là sản phẩm của thứ ngôn ngữ đã gắn chặt vào suy nghĩ của chúng ta. Khi đó, chúng củng cố những ngộ nhận về sự thiếu thốn và trao cho tiền bạc sức mạnh hủy diệt khủng khiếp. Thông điệp của các phương tiện truyền thông, quảng cáo, tiếp thị, của bố mẹ, ông bà, của bạn bè tràn ngập cuộc sống của chúng ta, gắn chặt và bắt rễ sâu vào tâm trí chúng ta, khiến ta tin rằng không có đủ, bạn phải giành lấy cho mình, càng nhiều càng tốt, và bạn buộc phải tham dự trò chơi. BUCKMINSTER FULLER VÀ THẾ GIỚI BẠN - VÀ - TÔI Chính khi nỗ lực và quyết tâm thanh toán nạn đói, tôi bắt đầu nhận ra toàn bộ cấu trúc của sự thiếu thốn, những ngộ nhận, ngôn ngữ và án chung thân phổ biến của nó. Tôi cũng nhận ra cách nó ngấm vào cuộc đời tôi, cũng như cuộc sống của bạn bè và gia đình tôi, những cộng sự của tôi ở các nước nghèo như Bangladesh và giàu như Pháp, Anh hay Mỹ. Trong một dịp đặc biệt, tôi đã chạm đến một bước ngoặt trong đời khi được nghe bài giảng của một nhà dự đoán tương lai theo chủ nghĩa nhân văn vĩ đại, R. Buckminster (còn gọi là "Bucky") Fuller. Trong những năm 1970, Bucky đã đi thuyết giảng ở nhiều nơi về những ngộ nhận trong khoa học cơ bản đã ngăn cản chúng ta có cái nhìn chính xác về thế giới và khả năng nuôi sống cuộc đời sung túc cho tất cả chúng ta. Sau đó, Bucky trở thành người bạn và cố vấn tin cậy của tôi, nhưng lần đầu tiên đến nghe ông thuyết giảng, tôi chỉ biết rằng ông là một tài năng gây nhiều tranh cãi – một nhà thiết kế, kỹ sư kiêm kiến trúc sư – và ông đang đi thuyết trình ở nhiều nơi trên thế giới loạt bài về Integrity Days (Những ngày Chính trực). Tôi tự nguyện đến dự một buổi nói chuyện của ông ở San Francisco. Trong một thính phòng chứa được chừng hai nghìn người, tôi ngồi ở hàng thứ hai từ dưới lên, quan sát người đàn ông nhỏ bé, có tài hùng biện và đầy năng lượng này diễn thuyết hào hùng trên sân khấu những hiểu biết và khám phá của ông về cách thức hoạt động của thế giới. Những ý tưởng của ông không chỉ gây hào hứng và có tính kích thích mà đối với tôi, nó còn có sức mạnh thay đổi hoàn toàn. Tôi bị cuốn hút vào bài nói chuyện và những điều đặc biệt ông tạo ra. Trong đó điều làm thay đổi cuộc đời tôi có lẽ là khi ông nói: trong hàng thế kỷ, thậm chí hàng nghìn năm, chúng ta đã sống với niềm tin rằng không có đủ cho tất cả mọi người, và chúng ta phải chiến đấu và giành giật để thu thập những tài nguyên đó cho mình. Có lẽ điều đó đã đúng vào một thời điểm nào đó, hoặc cũng có thể chưa bao giờ như vậy.Nhưng tại thời điểm đó trong lịch sử – vào những năm 1970 – chúng ta có khả năng làm được nhiều hơn rất nhiều mà chỉ cần sử dụng rất ít tài nguyên. Xét trên phạm vi cộng đồng loài người chúng ta rõ ràng đã đạt đến mức có thể đáp ứng đủ, thậm chí thừa nhu cầu để tất cả mọi người ở mọi nơi đều được sống một cuộc đời lành mạnh và có ích. Khoảnh khắc đó đại diện cho một mốc kỳ diệu trong sự phát triển của nền văn minh và nhân loại. Ông còn tuyên bố dù đó là lúc con người nhận thức được sự thật có sẵn, hay đó là bước đột phá của các nền văn minh, cách hiểu nào cũng khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của giây phút đó trong quá trình tiến hóa, bởi nó đồng nghĩa với việc chúng ta có thể rời bỏ thế giới bạn-hoặc-tôi, nơi chỉ một trong hai ta có thể tồn tại, ta phải chiến đấu, cạnh tranh với nhau để tìm ra kẻ thắng – để đến với thế giới bạn-và-tôi, nơi tất cả chúng ta đều thành người chiến thắng. Trong thế giới đó, tất cả chúng ta có đủ thức ăn, nước uống, đất đai, nhà ở, có đủ tất cả những thứ cơ bản để sống một cuộc đời có ích và mãn nguyện. Cột mốc này đã đột ngột thay đổi trò chơi, và theo ông tiên đoán sẽ cần 50 năm, để chúng ta có thể điều chỉnh cho phù hợp và chuyển từ mô hình bạn-hoặc-tôi sang mô hình bạn-và-tôi, mô hình ám chỉ rằng thế giới đủ chỗ cho tất cả mọi người, và không ai hay cái gì bị gạt ra ngoài cả. Ông tuyên bố hệ thống tiền tệ và tài nguyên tài chính của chúng ta cũng cần được điều chỉnh để phản ánh sự thật đó. Chúng ta sẽ cần hàng chục năm để hoàn thành nhiệm vụ đó, nhưng nếu và khi đến đích, chúng ta sẽ bắt đầu một thời kỳ và một thế giới mà cách chúng ta nhận thức, suy nghĩ về bản thân và thế giới ta đang sống sẽ được biến đổi sâu sắc đến mức hầu như không thể nhận ra. Tuyên bố đó, tầm nhìn khác thường đó và sự phát hiện tiềm năng thay đổi chính cơ sở của mối quan hệ giữa chúng ta với nhau đã hoàn toàn thu hút tôi. Nó đảo lộn hoàn toàn thế giới của tôi. Tôi nhớ đã ngồi yên lặng trong nước mắt, nghĩ về những hàm ý trong lời nói của ông. Tôi đã nghĩ đây không chỉ là một ý tưởng thú vị trong một bài phát biểu uyên bác. Đó là khoảnh khắc nhận thức sâu sắc và tinh tế về một điều gì đó. Tôi đã thầm biết đến nó trong trái tim từ lâu, và chính ông đang cất tiếng nói về nó, một nhà khoa học được tôn sùng, một nhà dự đoán tương lai, người có kiến thức và khả năng, và người đã tiến hành nhiều nghiên cứu để củng cố suy nghĩ đó. Khoảng khắc nhận thức đó mãi ở lại bên tôi. Hồi đó Bucky cũng đang làm việc dựa trên một thế giới quan đang dần thay đổi, bắt đầu hình thành sau chuyến bay có người lái đầu tiên đáp xuống mặt trăng của phi hành đoàn tàu Apollo 11 vào mùa hè năm 1969. Những bức ảnh lịch sử ngoạn mục chụp Trái đất từ mặt trăng cho phép loài người lần đầu tiên nhìn thấy trọn vẹn hành tinh của mình, toàn bộ "phi thuyền Trái đất" như cách nói của Bucky. Khoảnh khắc đó, chúng ta rời khỏi vị trí là một phần của hệ thống, và lùi ra đủ xa để có thể nhìn Trái đất như một tổng thể. Chúng ta có thể thấy sự mỏng manh, vẻ đẹp, sự hoàn chỉnh và trọn vẹn tuyệt đối của nó. Tôi dám nói rằng đó là khởi đầu của một xã hội toàn cầu, nhận thức toàn cầu, nhân loại toàn cầu, và từ đó, nhận thức về nguồn tài nguyên có hạn nhưng đủ dùng của hành tinh đó cho mọi sự sống trên đó – con người, cây cối và động vật – trở thành một sự thật hoàn toàn có thể đối với tôi. Chính từ quan điểm này về cộng đồng toàn cầu, hiểu biết và cảm hứng từ Bucky mà tôi đã tham gia vào công việc xóa bỏ nạn đói. ĐIỀU BÍ ẨN SAU CÁI ĐÓI VÀ CUỘC CHIẾN VỚI CÁI THIẾU Cái đói và cái thiếu dường như có mối liên hệ rõ ràng và không thể lay chuyển được. Sao tôi có thể làm việc hết mình trong những cảnh thiếu thốn cả thức ăn và nước uống, mà vẫn khăng khăng rằng thiếu chỉ là lời nói dối? Tôi chỉ có thể nói chính hiện thực phũ phàng và đầy ngạc nhiên mà tôi trải nghiệm đã thúc đẩy tôi đưa tầm nhìn của mình vượt quá những thứ ngay trước mắt. Tôi đã nỗ lực để hiểu bi kịch của nạn đói. Nó không phải một thứ bệnh dịch bí ẩn. Nó không phải do đột biến gen hay một thế lực tự nhiên. Chúng ta biết cần phải làm gì khi một đứa trẻ bị đói. Chúng ta biết một người đang chết đói cần gì. Họ cần thức ăn. Trong bức tranh tổng thể về tài nguyên thế giới không có chi tiết nào giúp tôi hiểu tại sao 1/5 nhân loại bị đói và thiếu ăn. Thế giới tràn ngập thức ăn. Hiện nay, trên thế giới chúng ta có quá đủ thức ăn cho mỗi người được ăn thêm nhiều lần. Người ta lãng phí ở khắp nơi. Tại một số nước, kể cả Mỹ, người ta trả tiền cho nông dân để họ ngừng trồng trọt. Gia súc nuôi lấy thịt tiêu thụ nhiều tài nguyên hơn lượng những người đói cần để thoát đói. Năm 1977 khi tôi mới bắt đầu làm việc trong Dự án Xóa đói, tôi cho rằng có người đói bởi vì người ta không có đủ thức ăn. Nếu chúng ta mang thức ăn đến cho họ, vấn đề sẽ được giải quyết. Lập luận có vẻ hợp lý. Nhưng nếu nguồn thực phẩm của thế giới nắm giữ giải pháp cho những người đói, điều gì có thể giải thích cho những con số thống kê và thực tế về cái đói hiển hiện bướng bỉnh, bi kịch như không thể giải quyết được. Tại sao thế giới có thừa thức ăn cho mọi người mà mỗi ngày 41.000 người, phần lớn trong số đó là trẻ em dưới năm tuổi, chết vì đói và các nguyên nhân liên quan đến đói? Liệu có phải vì không ai quan tâm? Khi những đứa trẻ đói khát kêu gào đòi thức ăn, chúng không kêu gào với tư cách người Bangladesh, người Italia hay người nghèo cùng thành phố với ta. Chúng lên tiếng với tư cách là con người, và chính bởi lòng nhân đạo, chúng ta cần phải hành động. Có phải vì chúng ta không thể nghe thấy tiếng kêu cứu đó, nên không thể đáp lại như một thành viên biết quan tâm trong gia đình nhân loại? Tại sao có nhiều người giả mù, giả điếc trước tiếng kêu của đứa trẻ, và chỉ khư khư quan tâm đến những người "của mình" – thậm chí khi chúng ta đã có thừa để chu cấp cho những người "của mình" và cả những người khác nữa? Nhưng nếu lòng quan tâm chính là giải pháp, tại sao những đợt quyên góp thực phẩm và tiền trên quy mô lớn của một số người không mang đến một giải pháp lâu dài? Có phải vấn đề nằm ở khó khăn trong phân phối? Vậy thì tại sao đồ uống có ga của Mỹ có thể tiếp cận từng người trên trái đất, chỉ cách một tầm tay? Có phải tại vấn đề hậu cần? Vậy thì tại sao những quốc gia hùng mạnh như Mỹ có thể trang bị hậu cần để chuyển tên lửa và bom chính xác đến mọi mục tiêu quân sự dù nó ở nơi nào trên thế giới? Có phải tại chính trị? Có phải tại chúng ta đa nghi và ích kỷ đến nỗi để mặc đứa trẻ chết đói bởi những người lớn chúng ta bất đồng về lý tưởng chính trị hay kinh tế? Điều gì đã khiến ta nghe thấy tiếng kêu cứu mà vẫn không đáp lại hiệu quả? Càng tiếp xúc nhiều với những người đói và những người làm việc hay ủng hộ tiền để giúp đỡ họ, tôi càng nhận ra nguyên nhân của nạn đói không phải chỉ là thiếu thức ăn. Nguồn gốc của nạn đói sâu xa và cơ bản hơn thế, bởi vì khi bạn mang thức ăn từ điểm A đến điểm B, tuy có thể giúp đỡ nhiều người trong một khoảng thời gian, thực ra bạn không giải quyết được nạn đói. Lịch sử đã dạy chúng ta bài học đó. Làn sóng viện trợ cho Ethiopia năm 1985 đã giúp nhiều người có cái ăn trong một thời gian nhưng không thể giải quyết nạn đói của đất nước đó. Ethiopia tiếp tục là một đất nước đói nghèo. Thực phẩm viện trợ chuyển đến Somalia khi nước này gặp khủng hoảng năm 1993 và 1994 giúp được một số người nhưng thực tế chỉ làm trầm trọng thêm tình trạng bạo lực và tham nhũng đang hoành hành. Tương tự, nguồn viện trợ cho Biafra trong chiến tranh, và cho Campuchia trong cuộc khủng hoảng, bản thân hỗ trợ ấy không có gì xấu, một số người được giúp đỡ, nhưng nó không thể giải quyết tận gốc nạn đói dai dẳng triền miên. Hết lần này đến lần khác tới mức thành thông lệ, trong những đợt ủng hộ quy mô lớn như thế, nguồn thực phẩm viện trợ bị những kẻ môi giới xấu xa nhưng có thế lực đánh cắp và bán lại. Chúng làm giàu nhờ lòng tham và nạn hối lộ lan tràn trên các đất nước kiệt quệ vì chiến tranh. Bên cạnh đó, lượng thực phẩm khổng lồ tràn vào thị trường làm giảm giá cả, khiến những người nông dân bản địa có khả năng trồng trọt không thể bán được nông sản bởi thực phẩm miễn phí ở khắp nơi – ít nhất trong một khoảng thời gian, cho đến khi cuộc tranh cướp để tích trữ và kiểm soát nguồn thực phẩm đó lắng xuống. Không những không thể giải quyết vấn đề, vòng luẩn quẩn của viện trợ, tham nhũng, thị trường khủng hoảng, và những khoản đầu tư tai hại vào nông nghiệp trở thành một phần của vấn đề. Nó tiếp tục duy trì những nguyên nhân gốc rễ của cơn khủng hoảng. Cuối cùng, ảnh hưởng xã hội của hình thức viện trợ quy mô lớn này là những người được nhận, thậm chí những người chỉ được một phần nào đó, càng trở nên khốn khó, nghèo nàn hơn trước kia. Họ cảm thấy yếu đuối và vô vọng bởi thấy mình không thể chu cấp cho bản thân, phải ngửa tay nhận đồ trợ cấp và chịu ơn người ngoài đã cứu họ khỏi cảnh túng quẫn hết lần này đến lần khác. Họ thấy mình giảm giá trị và yếu đuối đi. Viễn cảnh tự cung cấp được cho mình thường bị cắt đứt và thu nhỏ lại bởi những việc họ buộc phải làm nếu muốn chạm được tay vào thực phẩm "cho không". Hết lần này đến lần khác, khi tiền hay đồ viện trợ tràn đến các cộng đồng thông qua những hệ thống vốn dựa trên những giả định về sự thiếu thốn, khả năng giảm nhẹ chỉ nhất thời, và những người ở cả hai phía cho – nhận đều thấy mình vô dụng. Tôi trăn trở với câu hỏi đó trong hàng năm trời khi ra sức kêu gọi mọi người tham gia thanh toán nạn đói và tìm kiếm những giải pháp ổn định cho bi kịch vẫn đang tiếp diễn. Khi tôi tìm hiểu những niềm tin cơ bản của mọi người ở hầu hết mọi nơi – mọi hệ thống, thể chế, mọi quan điểm, bao gồm cả những người đang chịu đói – tôi nhận ra rằng có những giả định cơ bản đã triệt tiêu gần như tất cả nỗ lực giải quyết vấn đề. Tất cả đều có thể được quy về những ngộ nhận và ám ảnh về sự thiếu thốn. Dù hoàn cảnh kinh tế của chúng ta ra sao: Khi chúng ta tin rằng không có đủ, rằng các tài nguyên là khan hiếm, chúng ta chấp nhận việc có người giành được những thứ họ cần và có người không. Từ đó, chúng ta hợp lý hóa việc một số người phải chịu số phận khó khăn hơn. Khi chúng ta tin rằng càng có nhiều càng tốt, và đánh đồng việc có nhiều tiền hơn với việc có nhiều phẩm chất hơn – thông minh hơn, hay có năng lực hơn – những người nhận được ít tài nguyên hơn bị coi là kém thông minh, kém tài năng, thậm chí kém giá trị. Chúng ta cảm thấy chúng ta được phép coi thường họ. Khi chúng ta tin rằng đó là điều tất yếu, chúng ta thừa nhận sự vô vọng. Chúng ta tin rằng không thể giải quyết được vấn đề. Chúng ta chấp nhận rằng trong gia đình nhân loại, cả những người có nhiều lẫn những kẻ có ít đều không có đủ tiền, thức ăn hay trí thông minh và tài nguyên để tạo ra những giải pháp lâu dài. Bằng cách thách thức những giả định về nạn đói và viện trợ thực phẩm một cách hệ thống, Dự án Xóa đói đã vén lên bức màn của những ngộ nhận về sự thiếu thốn, mở ra những khám phá mới và khả năng mới. Cuối cùng Dự án đã đóng góp đáng kể trong công tác thanh toán nạn đói bằng cách tạo điều kiện để con người tự đứng dậy trên đôi chân của mình. Trong mọi hoàn cảnh, đối với các cá nhân cũng như đông đảo mọi người, khám phá lời nói dối và ngộ nhận về sự thiếu thốn là bước đầu tiên và mạnh mẽ nhất để chuyển mình từ tuyệt vọng và cam chịu thành độc lập và tự lực. Chúng ta thường triết lý về những thắc mắc lớn không lời đáp trong cuộc sống. Đã đến lúc chúng ta quan tâm đến những câu trả lời không được ai thắc mắc. Và câu trả lời lớn nhất, được chấp nhận rộng rãi nhất trong nền văn hóa của chúng ta là mối quan hệ của chúng ta với tiền. Chính đó là nơi chúng ta gìn giữ ngọn lửa và ngộ nhận về sự thiếu thốn với một cái giá rất đắt. Chương 4: SỰ ĐẦY ĐỦ: SỰ THẬT ĐÁNG NGẠC NHIÊN Khi bạn ngừng cố gắng kiếm thêm những thứ bạn không thật sự cần, những đại dương năng lượng sẽ được giải phóng. Bạn sẽ có thể tạo ra sự khác biệt bằng những thứ bạn có. Khi bạn tạo ra sự khác biệt bằng những thứ bạn có, nó sẽ mở rộng ra. Đã gần mười năm trôi qua kể từ lần đầu tôi gặp gỡ những thổ dân Achuar ở Ecuador nhưng tôi vẫn nhớ rõ kỷ niệm đó − một trải nghiệm hoàn toàn khác so với lần tôi chạm trán cái đói và cái nghèo ở Ấn Độ. Trong khu rừng nhiệt đới bên những người Achuar, tôi gặp những người sống sung túc tự nhiên. Họ sống sung túc mà không phải chiến thắng trong cuộc chơi kinh tế khốc liệt nào. Họ sống sung túc mà không cần làm ai đó chịu thiệt thòi. Họ không đánh bại ai trong chuyện gì cả. Họ sống sung túc theo cách họ ở bên nhau, sống thống nhất với những luật lệ bất biến của thế giới tự nhiên, những luật lệ tối cao tác động lên tất cả chúng ta. Nền văn hóa của họ không có bóng dáng của tiền. Tiền là vật thể lạ họ chỉ gặp lần đầu khi họ ra khỏi khu rừng. Đối với họ, đó là thứ vật thể kỳ cục, chỉ mang tính bổ sung, không phải là một phần cuộc sống hàng ngày hay suy nghĩ của họ. Mặc dù không có tiền, không có sở hữu, không có tích lũy của cải, và không có bất cứ tiện nghi nào của cuộc sống phương Tây như chúng ta, họ vẫn không hề thấy thiếu thốn, không lo sợ về chuyện không có đủ những thứ họ cần. Họ không chạy đua để có nhiều hơn, không cam chịu hay tin rằng họ đang sống cuộc đời kém hơn người khác. Họ đã sống (và vẫn đang sống), trải nghiệm và thể hiện sự đầy đủ. Thay vì tìm kiếm nhiều hơn, họ trân trọng và quản lý cẩn thận những thứ đang có sẵn. Thực tế, hiện giờ họ tập trung bảo vệ thứ đang ở ngay trước mắt – khu rừng – nguồn tài nguyên cho tất cả mọi người. Đối với người Achuar, giàu có nghĩa là được nếm trải và chia sẻ sự trọn vẹn, phong phú của hiện tại. Chúng ta, những người sống trong nền văn hóa tiền bạc, cũng có thể tìm thấy sự thanh thản và tự do ấy trong chính môi trường của mình và với tiền bạc. Tôi đã học được nhiều bài học ý nghĩa và đáng ngạc nhiên về sự đầy đủ và mối quan hệ của chúng ta với tiền từ những người có rất ít hoặc chẳng hề có tiền như những người Achuar, hay những người đang đương đầu với cuộc chiến dữ dội nhất để tồn tại trong những hoàn cảnh ta khó có thể hình dung. Một trong những bài học ấy đến từ một ngôi làng hẻo lánh ở Senegal. Senegal là một đất nước nhỏ ven biển, nằm ở cực Tây của lục địa châu Phi. Trong suốt thời kỳ đầu của nạn buôn bán nô lệ, đây là vùng thuộc địa giàu có của Pháp. Lâu đài của các chủ nô lệ với những khu hầm tối như nhà tù ngày nay vẫn còn đứng ngạo nghễ, trở thành điểm thu hút khách du lịch và những tượng đài đầy sức gợi về con người và sự tàn bạo thời kỳ đó. Phần lớn diện tích đất nước Senegal được bao phủ bởi sa mạc Sahel rộng lớn, mỗi năm lại đều đặn lấn ra phía biển. Sa mạc Sahel là một môi trường khắc nghiệt, không thân thiện với bất cứ sự sống nào, kể cả các loại cây cối và động vật thích nghi với môi trường sa mạc. Cát ở đây mịn như bụi, và mang màu cam nhạt. Thứ bụi mịn ấy tràn ngập khắp nơi, phủ lên tất cả mọi thứ gần sa mạc một lớp cát màu vàng nhạt: đường phố, nhà cửa, cây cối, những con đường – và cả những con người. Chúng tôi, 18 người cộng tác và lãnh đạo trong Dự án Xóa đói, đến gặp các cư dân của một ngôi làng nằm sâu trong sa mạc, cách vài tiếng đồng hồ đi xe để bàn về nhu cầu muốn tìm nguồn nước mới hoặc một nơi sống mới của họ. Khi những người lái xe đưa xe lăn bánh trên con đường rời thành phố và đi sâu vào sa mạc, người chúng tôi bắt đầu bị phủ đầy những lớp cát mỏng và mịn ấy. Chúng len vào phổi chúng tôi theo từng hơi thở. Càng tiến sâu mãi vào những cơn gió màu vàng cam trên con đường gập ghềnh, chúng tôi càng thấy vắng vẻ bóng người, cây cối cũng như động vật. Không lâu sau đó, mắt chúng tôi chẳng còn nhìn thấy gì ngoài vùng đất cằn cỗi. Trời nóng và khô, nhiệt độ lên tới hơn 35˚C. Tôi đội mũ và quấn một chiếc khăn lớn trên mặt để tránh hít phải cát. Khung cảnh hoang vắng đến nỗi tôi khó có thể hình dung có người sống được ở đây. Chúng tôi đang đi trên một con đường gồ ghề không lát đá. Rồi con đường biến mất hút vào trong cát. Anh lái xe bắt đầu đưa xe đi trên xa mạc chỉ dựa vào la bàn. Những người lái xe người Senegal của chúng tôi thuộc lòng vùng sa mạc này. Đột nhiên, người lái xe đi đầu đoàn dừng lại và tắt máy. Hai người kia cũng làm theo. Khi lắng tai nghe, chúng tôi có thể nghe thấy tiếng trống xa xa vọng lại. Anh lái xe mỉm cười, khởi động chiếc xe và bắt đầu lái nó về phía tiếng trống. Chúng tôi càng tiến gần, tiếng trống càng to và rộn rã. Không lâu sau, phía chân trời, chúng tôi bắt đầu nhìn thấy những chấm nhỏ xíu đang di chuyển. Chúng tôi nghĩ đó là loài vật nào đó. Nhưng khi tiến lại gần, chúng tôi nhận ra đó là những đứa trẻ, hàng chục em bé chạy về phía xe của chúng tôi, hò hét vì phấn kích. Vậy là chúng tôi đã đến nơi, một nơi không hề có dấu hiệu của sự sống, được chào đón bởi những đứa trẻ hiếu khách, vui vẻ, tràn trề sức sống và sự trẻ trung. Nước mắt tôi tuôn ra, và tôi có thể nhận ra những người đồng hành của mình cũng đang xúc động trước màn chào đón hân hoan này. Nhiều bóng nhỏ khác cũng đang hướng về phía chúng tôi, và phía trên chúng, từ xa chúng tôi có thể nhận ra hai cây bao báp lớn đứng hiên ngang giữa mênh mông hoang vắng. Cây bao báp là loài cây có thể sống mà hầu như không cần nước, mang đến bóng râm và chỗ khuất gió hiếm hoi cho những người sống trong sa mạc. Phía trước chúng tôi, dưới bóng hai cây bao báp, khoảng hơn 100 người đang tụ tập. Những người đánh trống đứng giữa đám đông, và bên trong vòng tròn, có những người phụ nữ đang nhảy múa. Khi khoảng cách giữa chúng tôi thu hẹp dần, tiếng trống hòa vào không khí một nguồn năng lượng sôi nổi, và màn chào đón càng mãnh liệt. Chúng tôi đón vài đứa trẻ lên xe. Những đứa khác chạy dọc theo xe. Khung cảnh khó tin này dường như xuất hiện từ hư không. Chính họ đây, đàn ông, phụ nữ và trẻ em, nhảy múa, đánh trống, vui mừng, vỗ tay, và hò hét lên những lời chào mừng phái đoàn đến thăm. Chúng tôi ra khỏi xe. Hàng chục người phụ nữ chạy về phía chúng tôi, họ mặc những bộ quần áo Senegal truyền thống đẹp đẽ, với khăn trùm đầu và bộ boubou dài bằng vải bông – loại váy dài, rộng và sặc sỡ. Trống vẫn dồn dập, trẻ con hò hét, những người phụ nữ hò reo vì hạnh phúc, những người đàn ông ca hát. Đó là một cuộc chào đón xưa nay tôi chưa từng thấy. Dường như họ biết tôi là người đứng đầu, và họ kéo tôi vào giữa vòng tròn, nơi những người phụ nữ nhảy múa xung quanh. Tôi bị cũng cuốn theo, đưa người hòa cùng họ, theo nhịp điệu tự nhiên và tự do. Họ hò reo và vỗ tay. Những bạn đồng hành của tôi cũng tham gia, và chúng tôi cùng nhảy múa, vỗ tay, cười nói. Thời gian và khoảng cách như dừng lại. Trời không còn khô nóng nữa, cũng không còn đầy bụi và gió nữa − tất cả đã biến mất.Chúng tôi được bao bọc trong không khí lễ hội tưng bừng. Chúng tôi hòa làm một. Tiếng trống đột nhiên ngừng bặt. Đã đến lúc bắt đầu cuộc họp. Mọi người ngồi xuống nền cát. Người tộc trưởng tự giới thiệu, rồi giới thiệu tôi. Với sự giúp đỡ của người phiên dịch, ông giải thích rằng làng của họ cách đây vài km. Họ đến để đón chúng tôi và đều rất biết ơn khi chúng tôi đề nghị hợp tác. Ông nói rằng họ đều là những người khỏe mạnh và khéo léo, rằng sa mạc là ngôi nhà tinh thần của họ. Nhưng họ và 16 làng khác ở phía Đông đang gặp cảnh khó khăn, khi nguồn nước khan hiếm đang dần đẩy họ đến chỗ không còn lựa chọn nào. Họ không biết gì khác ngoài cuộc sống trên sa mạc này, họ là những người con kiêu hãnh của vùng đất này, nhưng họ cũng biết rằng không thể tiếp tục sống nếu tình hình nước sinh hoạt không được cải thiện. Các hỗ trợ xã hội không đến được với những người ở đây, ngay cả trong lúc khủng hoảng nhất. Họ mù chữ và không được tính đến khi điều tra dân số. Họ thậm chí không được tham gia bầu cử. Họ hầu như không có dấu ấn nào đối với chính phủ. Họ là những người rất kiên cường, nhưng những chiếc giếng nông của họ đã cạn nước, và họ biết rằng họ sẽ cần đến một điều gì đó vượt lên khỏi suy nghĩ hiện thời của mình để có thể vượt qua mùa khô tiếp theo. Những người này theo đạo Hồi, và khi chúng tôi ngồi bên nhau thành một vòng tròn để thảo luận, những người đàn ông giành toàn quyền phát biểu. Phụ nữ không ngồi ở vòng tròn trong, mà xếp thành một vòng tròn thứ hai bên ngoài, từ đó họ có thể lắng nghe và quan sát, nhưng họ không nói gì. Tôi có thể cảm thấy sức mạnh của những người phụ nữ ngồi phía sau tôi, và cảm giác họ chính là chìa khóa cho vấn đề. Trên miền đất cằn cỗi màu vàng cam này, có vẻ không thể tìm ra một giải pháp, nhưng thái độ, sự kiên cường và phẩm giá của những người này lại nói lên một điều khác. Chắc chắn sẽ có cách giải quyết, và chúng tôi sẽ cùng nhau tìm ra. Sau đó, tôi yêu cầu đuợc gặp riêng nhóm phụ nữ. Đó là một đề nghị lạ lùng đối với nền văn hóa đạo Hồi này, nơi các giáo sĩ và tộc trưởng được quyền nói thay cho tất cả, nhưng thật ngạc nhiên là họ cũng đã chấp thuận. Những người phụ nữ trong nhóm chúng tôi và những người trong bộ lạc tập hợp trên mặt đất nóng bỏng và ngồi sát lại gần nhau. Phiên dịch của chúng tôi là một người đàn ông, và các giáo sĩ cho phép anh tham gia. Trong số những người phụ nữ này, một vài người tự nhận vai trò lãnh đạo và lên tiếng ngay. Họ nói rằng họ biết rõ có một chiếc hồ nước ngầm bên dưới vùng này. Họ có thể cảm thấy nó; họ biết chắc chắn nó ở đó. Họ cần chúng tôi giúp đỡ để xin phép những người đàn ông đào một cái giếng đủ sâu để chạm đến nguồn nước. Những người đàn ông không cho phép điều đó, vì họ không tin rằng có nước và cũng không muốn phụ nữ làm công việc đó. Theo phong tục của họ, chỉ một số công việc nhất định được giao cho phụ nữ. Dệt vải và trồng trọt được cho phép. Lên kế hoạch và đào giếng thì không. Những người phụ nữ nói hùng hồn, mạnh mẽ và thuyết phục. Tôi nhận ra rằng họ biết rõ điều họ biết, và họ đáng tin tưởng. Tất cả những gì họ cần là được những người đàn ông cho phép họ làm theo linh tính. Đó là điều họ cần từ nguồn giúp đỡ bên ngoài. Đó là điều họ cần chúng tôi giúp. Tôi cảm thấy một nguồn năng lượng và quyết tâm bùng lên. Tôi nhìn xung quanh. Không khí nóng như thiêu, vo ve hàng nghìn con ruồi. Miệng và phổi tôi đầy bụi cát. Bạn có thể hình dung nơi này thật khó chịu, nhưng tôi nhớ tôi không hề thấy khát hay khó chịu – tôi chỉ cảm thấy sự hiện diện của hy vọng và khả năng ở những người phụ nữ đẹp và can đảm này. Khi chúng tôi khởi hành đến vùng sa mạc Sahel, tôi đã lo lắng sẽ gặp phải những người tuyệt vọng, đói khát, ốm yếu và nghèo khó. Những người này rõ ràng cần thức ăn và nước uống nhưng họ không hề "nghèo". Họ cũng không cam chịu. Họ hào hứng tìm cách vượt qua thử thách, và họ đốt lên ngọn lửa của khả năng. Họ đều ẩn chứa một nguồn nghị lực, một kho báu chứa đầy sự kiên nhẫn và khéo léo. Họ muốn sự cộng tác của chúng tôi – họ không cần tài liệu, tiền hay thức ăn – sự tôn trọng và cộng tác bình đẳng là sự giúp đỡ chúng tôi mang đến. Sau nhiều lần nói chuyện với cả nhóm phụ nữ và những người đàn ông, chúng tôi thỏa thuận được với các giáo sĩ và tộc trưởng rằng chúng tôi sẽ làm việc với những người phụ nữ, bởi vì chính họ đã tìm ra cách này. Do có chúng tôi cộng tác, những người đàn ông đồng ý để phụ nữ bắt đầu đào giếng. Trong suốt năm tiếp theo, khi mọi người cẩn thận phân chia nguồn nước còn lại, những người phụ nữ đào giếng bằng cả những công cụ bằng tay và những thứ thiết bị đơn giản chúng tôi mang đến. Họ đào càng ngày càng sâu xuống đất, vừa làm vừa ca hát, đánh trống, và chăm sóc con cái cho nhau, không bao giờ nghi ngờ rằng có một nguồn nước nằm ngay bên dưới họ. Những người đàn ông quan sát công việc bằng cặp mắt nghi ngờ, nhưng vẫn cho phép tiếp tục công việc. Tuy nhiên, những người phụ nữ không chút nao núng. Họ đều chắc chắn rằng nếu họ đào xuống đủ sâu, họ sẽ tìm thấy nước. Và quả vậy. Họ đã đào đến chiếc hồ ngầm mà họ đã hình dung ra. Trong những năm tiếp đó, những người ở đây đã xây dựng một hệ thống bơm và một tháp dự trữ nước. Không chỉ một, mà cả 17 làng đều đã có nước. Cả vùng đó thay da đổi thịt. Những nhóm phụ nữ lãnh đạo là trung tâm của mọi hành động trong cả 17 làng. Người ta tổ chức tưới tiêu và chăn nuôi gia cầm. Người ta mở các lớp dạy chữ và phát triển ngành dệt in hoa. Mọi người đều phát đạt và đóng góp cho đất nước. Khi gặp những thử thách mới, họ đương đầu vẫn bằng những phẩm chất và quyết tâm như trước. Những người phụ nữ giờ trở thành một phần được kính trọng của cộng đồng theo cách mới, với nhiều cơ hội lãnh đạo hơn, và cả bộ lạc đều tự hào rằng chính những người trong số họ, chính công sức của họ và mảnh đất họ sinh sống là chìa khóa dẫn đến sự sung túc của mình. SỰ ĐẦY ĐỦ: TÌM LẠI SỨC MẠNH CỦA NHỮNG THỨ CÓ SẴN Dù trong hoàn cảnh nào, mỗi người trong chúng ta cũng đều được quyền lựa chọn lùi lại và rũ bỏ ám ảnh về sự thiếu thốn. Khi làm được điều đó, chúng ta sẽ khám phá ra sự thật đáng ngạc nhiên về sự đầy đủ. Khi dùng từ "đầy đủ", tôi không có ý ám chỉ một lượng cụ thể. "Đầy đủ" không phải là hai bậc trên ngưỡng nghèo khó, hay một bậc dưới ngưỡng giàu có. Nó không phải là phép đo vừa đủ hay nhiều hơn đủ. Nó không phải là một lượng vật chất. Nó là một cảm giác, một bối cảnh chúng ta tạo ra, một sự tuyên bố, sự nhận thức rằng có đủ, và chúng ta là đủ. Sự đầy đủ nằm bên trong chính bản thân ta, và chúng ta có thể khơi nó dậy. Nó là sự ý thức, sự chú ý, sự lựa chọn lý trí khi chúng ta nghĩ về hoàn cảnh. Trong mối quan hệ của chúng ta với tiền, nó là việc sử dụng tiền để thể hiện sự chính trực của bản thân, dùng tiền để thể hiện giá trị thay vì quyết định giá trị. Sự đầy đủ không kêu gọi sống đơn giản, giảm bớt hay hạ thấp hy vọng. Đầy đủ không có nghĩa là chúng ta không nên phấn đấu hay tham vọng. Nó là hành động tạo ra, phân biệt, và nhận thức được sức mạnh, sự tồn tại của những nguồn lực có sẵn bên ngoài và bên trong ta. Nó là trạng thái tỏa ta từ tâm hồn, nhắc nhở rằng nếu chúng ta nhìn quanh và nhìn vào bản thân, chúng ta sẽ tìm thấy thứ mình cần. Bao giờ cũng có đủ. Khi chúng ta sống trong đầy đủ, chúng ta cảm thấy tự do và chính trực một cách tự nhiên. Chúng ta sống trong cảm giác về sự viên mãn của bản thân, thay vì khao khát đến tuyệt vọng được trọn vẹn. Chúng ta tự nhiên cảm nhận được tiếng gọi chia sẻ các nguồn lực trong cuộc sống – thời gian, tiền bạc, tri thức, sức lực, ở bất cứ mức độ nào – để phục vụ những quyết tâm cao nhất. Trong sự đầy đủ đó, và trong dòng chảy của những nguồn lực đến, đi qua và được truyền sang những người khác, tâm hồn và những quan tâm tiền bạc của chúng ta hòa trộn vào nhau, tạo ra một cuộc sống giàu có, mãn nguyện và ý nghĩa. Đầy đủ là một sự thật. Nó có thể trở thành một điểm tựa, một bối cảnh giúp tạo ra một mối quan hệ hoàn toàn mới với cuộc sống, với tiền bạc, và tất cả mọi thứ mà tiền có thể mua. Tôi cho rằng trong tự nhiên, trong bản chất con người và các mối quan hệ đều có đủ để chúng ta cùng sống một cuộc đời thịnh vượng, viên mãn, dù bạn là ai và bạn có bao nhiêu tài nguyên. Tôi cho rằng nếu bạn sẵn sàng từ bỏ cuộc đua tích lũy hay giành giật thêm, và từ bỏ thế giới quan đó, bạn có thể dồn tất cả sức lực và tinh thần cho những thứ bạn hiện có. Khi ấy, bạn sẽ tìm ra những kho báu không thể tưởng tượng được, và sự giàu có sâu sắc và phong phú đáng ngạc nhiên, thậm chí gây choáng váng. Sống trong đầy đủ, suy nghĩ về sự đầy đủ và biến điều đó thành khung quy chiếu cho cuộc sống là điều cực kỳ hữu ích và quan trọng đối với thời đại của chúng ta. Trong mối quan hệ đối với tiền, chúng ta có thể tiếp tục kiếm tiền, tiết kiệm, đầu tư, chu cấp cho bản thân và gia đình. Tuy nhiên, với nhận thức và sự trân trọng mới đối với những thứ đang có sẵn, ta có thể sắp xếp lại mối quan hệ đó. Khi đó, thay vì coi tài nguyên trong cuộc sống là thứ liên tục giảm bớt hay thoát khỏi vòng tay ta, chúng ta sẽ coi đó là một dòng chảy sự sống, là thứ chúng ta vinh dự được nắm giữ trong hiện tại. Mối quan hệ của chúng ta với tiền không còn ẩn chứa sợ hãi mà mang những cơ hội tuyệt vời. Sự đầy đủ có thể biến đổi mối quan hệ của chúng ta với tiền bạc, với tài nguyên và với chính cuộc sống. Tôi không định nói rằng có sẵn nguồn nước dồi dào giữa sa mạc hay thức ăn cho những người ăn mày ở Bombay. Tôi chỉ có ý rằng ngay cả khi những nguồn lực bên ngoài là thật sự thiếu thốn, thì khát vọng và khả năng tự cung cấp vốn đã là bẩm sinh và đủ để giúp chúng ta đương đầu với mọi khó khăn. Khi và chỉ khi chúng ta quan tâm đến những nguồn lực nội tại, chúng ta mới nhận ra rõ rệt sự đầy đủ trong bản thân ta và có sẵn trước mắt ta. Chúng ta có thể đương đầu hiệu quả và bền bỉ với bất cứ hạn chế nào trước mắt. Khi từ bỏ cuộc đua giành giật thêm, xem xét và trải nghiệm một cách lý trí những nguồn lực chúng ta đã có, chúng ta khám phá ra rằng nguồn lực của chúng ta giàu có hơn mức chúng ta từng biết hay từng hình dung. Khi được nuôi dưỡng bằng sự quan tâm, những tài sản ấy lại càng mở rộng và lớn lên. Điều này đặc biệt đúng trong mối quan hệ của chúng ta với tiền, với sức mạnh khi ta quyết tâm mở rộng và củng cố tài sản của mình. Nó càng đúng khi chúng ta quan sát những cuộc vật lộn vì tiền đang đè nặng lên chúng ta, và cảm giác thanh thản vô bờ khi ta thống nhất được tâm hồn và tiền. Cảm giác đầy đủ không liên quan đến số tiền bạn có. Nó chỉ liên quan đến mối quan hệ của bạn với tiền. Bài học vĩ đại mà tôi học được về cuộc đấu tranh tìm kiếm sự đầy đủ là từ những người sở hữu số tiền lớn mà cả cuộc đời chúng ta khó lòng thấy được, nhưng vẫn sống cuộc đời không hề mãn nguyện. Khi người ta bị choáng ngợp trước số tiền quá lớn, hay bị đè bẹp trong cuộc đua tìm kiếm thêm tiền, người ta đều không thể có được trải nghiệm đẹp đẽ về sự đầy đủ và trọn vẹn. NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ Ở MICROSOFT: ĐÁNH RƠI SỰ ĐẦY ĐỦ TRONG BẬN RỘN Năm 1998, tôi được mời đến nói chuyện với một nhóm nhân viên cao cấp ở Microsoft, khi đó là công ty phát triển nhanh nhất và là một trong các công ty thu được nhiều lợi nhuận nhất, nếu không muốn nói là công ty đứng đầu thế giới về lợi nhuận. Tôi hào hứng và thấy vinh dự vì sẽ được nói chuyện với họ về vị thế của phụ nữ tại các nước đang phát triển. Khi ấy, tôi vừa trở về từ Hội thảo Phụ nữ Thế giới lần thứ tư tại Bắc Kinh, tôi nóng lòng được chia sẻ với họ những điều tôi học được từ những bản báo cáo cũng như những câu chuyện xúc động của những người phụ nữ đến dự hội thảo. Một số trong số họ đến từ những đất nước nghèo nàn, nơi những người phụ nữ phải chịu đựng nhiều điều ta không tưởng tượng nổi. Trên chuyến bay từ San Francisco đến Seattle, công ty Microsoft đã đặt cho tôi vé hạng nhất – một ưu ái so với các chuyến công tác thông thường của tôi. Khi tôi nhìn những hàng ghế tiện nghi thoải mái với những hành khách ăn mặc sang trọng, tôi nhận ra mình sắp bước vào một thế giới đặc biệt và sắp nói chuyện với những người phụ nữ ngày ngày sống, làm việc trong thế giới đó. Những người sẽ đến dự buổi nói chuyện là những nhân viên đứng đầu trong thứ bậc của công ty. Trước đó tôi đã được giới thiệu ngắn gọn rằng trung bình, thu nhập của những người phụ nữ này vào khoảng 10 triệu đô-la, độ tuổi khoảng 36, và quá nửa trong số họ đã có gia đình. Tôi biết mình sắp được tiếp xúc với trái tim của một công ty dẫn đầu thế giới về lĩnh vực công nghệ, và tôi sắp trò chuyện với những người hàng đầu trong lĩnh vực đó, những người cũng cực kỳ giàu có và thành công trong cuộc sống riêng khi còn rất trẻ. Khi chiếc xe hơi sang trọng đưa tôi đến trụ sở của Microsoft, tôi tiếp tục nghĩ về họ và càng ý thức được khả năng tạo ra một thay đổi ý nghĩa trong cuộc sống của họ bằng cách kết nối họ với những người phụ nữ ở những nơi nghèo nàn nhất trên thế giới, phần dân số tính bằng đơn vị hàng trăm triệu người. Tôi nghĩ về ý nghĩa của sự kết nối này đối với cả hai phía, và sự may mắn của tôi khi được đặt chân đến cả hai thế giới đó. Tại trụ sở rộng lớn của Microsoft, tôi được hộ tống vào một văn phòng trang nhã, đến một phòng hội thảo để dùng trà chiều với một nhóm phụ nữ sẽ đến dự buổi nói chuyện vào buổi tối. Tôi đã yêu cầu tổ chức cuộc gặp nhỏ này bởi tôi muốn tìm hiểu thêm về họ, nói chuyện với một vài người để biết sau đó tôi cần làm gì để kết nối được dễ dàng hơn với những người phụ nữ có cuộc sống và kinh nghiệm khác thường này. Khi uống trà, 10 người phụ nữ trẻ, năng động và cực kỳ tự tin chia sẻ đôi điều về cuộc sống gia đình và công việc. Bảy người trong số họ đã kết hôn và có con. Khi được yêu cầu mô tả một ngày bình thường trong cuộc sống, họ kể cho tôi nghe những lịch trình căng thẳng gần giống nhau: Họ thức dậy sớm, thường là lúc 5h30 hay 6h sáng. Đối với phần lớn trong số họ, bữa ăn duy nhất cùng gia đình, nếu có, là bữa sáng. Họ có bảo mẫu và quản gia tại nhà. Sáu người trong số họ lấy chồng hiện cũng đang làm việc tại Microsoft. Phần lớn họ đều nói họ cho con ăn, săn sóc và mặc đồ cho con vào buổi sáng, sau đó hoặc để bảo mẫu đưa bọn trẻ đến trường, hoặc tự mình đưa con đi học. Sau đó, họ đi làm, và đến 8h sáng thì đã lên mạng. Họ thường không nghỉ trưa, và làm việc qua giờ ăn tối bình thường, đến tận 9h, đôi khi là 10h tối. Họ trở về nhà, ăn bữa tối muộn với chồng, hôn chúc ngủ ngon những đứa con đang say ngủ, và sau bữa tối lại lên mạng, đôi khi đến tận 1h sáng. Buổi sáng hôm sau – với nhiều người nghĩa là vài tiếng đồng hồ sau – họ lại bắt đầu một vòng quay mới. Hầu như mọi người đều thầm mang một nỗi nuối tiếc: Ngày ngày họ tự hứa với mình sẽ trở về nhà sớm hơn, ngủ nhiều hơn, tập thể dục nhiều hơn, làm những điều còn dang dở trong cuộc sống, và ngày ngày, họ không tiến thêm được bước nào trong việc thực hiện những quyết tâm ấy. Sau đó, tôi hỏi họ về kỳ nghỉ cuối tuần. Hầu như tất cả đều làm việc ở văn phòng vào thứ Bảy. Thỉnh thoảng, họ nghỉ làm để đến dự buổi khiêu vũ hoặc trận đấu bóng đá của con, nhưng thường thì họ ở lại văn phòng đến 5 hay 6h chiều. Tôi hỏi tiếp về ngày Chủ nhật. Phần lớn kể rằng họ ở nhà vào Chủ nhật, nhưng cũng thừa nhận, họ bị hút vào chiếc máy tính nhiều hơn bất kỳ hoạt động nào khác, và thường lên mạng ít nhất là nửa ngày. Mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng, họ hứa với mình, với chồng và con là sẽ thực hiện nốt dự án tiếp theo, hoàn thành nốt cái hạn tiếp theo, và sau đó sẽ ở nhà nhiều hơn, sẵn sàng quan tâm đến mọi người hơn, chú ý chăm sóc con cái hơn, nhưng điều này chẳng mấy khi xảy ra. Họ cảm thấy một nỗi ức chế dai dẳng sau những lần thất hứa. Phong cách sống và làm việc như vậy không phải là cá biệt, mà rất phổ biến trong các đồng nghiệp của họ. Tất cả đều có nhiều tiền, có thể chi trả cho mọi loại dịch vụ chăm sóc con cái, gia đình, và đó là điều họ đã làm, thường xuyên hơn mức họ muốn thừa nhận. Họ đều thấy tiếc nuối, nhưng trò chơi căng thẳng họ đang tham gia tại bộ phận đầu não này của công ty đòi hỏi sự tận tụy toàn tâm toàn ý đến mức công việc luôn luôn là ưu tiên hàng đầu của họ. Gia đình chỉ xếp ở vị trí thứ hai. Họ đều thấy lúng túng và thất vọng với chính mình bởi những thỏa hiệp trong cuộc sống gia đình. Sau đó, tôi hỏi họ thêm về cuộc sống bên ngoài, bạn bè của họ là ai, và ngoài công việc, họ nói những câu chuyện gì. Người nọ tiếp người kia chia sẻ với tôi rằng cuộc sống của họ là màn hình máy tính. Hầu hết các trao đổi của họ diễn ra trên mạng, và thường xoay quanh việc phát triển phần mềm mới hay làm sao để đạt các mục tiêu về hiệu suất và chất lượng. Họ hầu như không biết gì về thế giới bên ngoài, dù là Seattle hay nước Mỹ, và đương nhiên, họ không biết đến những người ở các nước đang phát triển, hay phụ nữ ở những nơi khác trên thế giới. Họ rất hào hứng khi biết rằng tối đó tôi sẽ nói chuyện về những người phụ nữ ở các nước đang phát triển, nhưng quả là đề tài đó không nằm trong các chủ đề họ thường nói đến hay có dính líu gì tới cuộc sống hàng ngày của họ. Họ không có thời gian, và họ cũng không có không gian tâm hồn để tiếp nhận bất cứ ai hay bất cứ thứ gì ngoài những việc khẩn cấp cần làm ngay lập tức. Chúng tôi nói chuyện về của cải của họ. Ngoài những tài sản vật chất mà họ không mấy khi có thời gian hưởng thụ, họ có được rất ít niềm vui từ số tiền họ kiếm được. Rất ít người trong số họ cho người khác tiền, và hầu như không ai có thời gian đi nghỉ. Tiền bạc của họ và việc dùng tiền để mua các dịch vụ chăm sóc con cái và nhà cửa, chỉ khiến họ làm việc vất vả hơn và lâu hơn. Nó không mang lại tự do hay sức sống như họ từng hy vọng và có lúc mong chờ. Lời hứa của họ đối với chính mình là một ngày nào đó, điều đó sẽ thành sự thật. Một ngày nào đó, họ sẽ nghỉ hưu và sống hạnh phúc mãi mãi. Tối hôm đó, khoảng một trăm phụ nữ đến dự bữa tối dành cho nhân viên cao cấp. Trước tiên, Riane Eisler, nhà sử học, tác giả cuốn The Chalice and the Blade: Our History, Our Future (Chiếc cốc và Lưỡi dao: Lịch sử của chúng ta, Tương lai của chúng ta) nói về một nghìn năm qua trong lịch sử của phụ nữ, những tìm hiểu bà đã viết trong cuốn sách. Bà mô tả cái mà bà gọi là mô hình thống trị hành động, theo đó đàn ông và những nguyên tắc đàn ông truyền thống chiếm ưu thế, và sự khác biệt giữa mô hình đó với cái bà gọi là mô hình hợp tác, đặc trưng bởi những nguyên tắc nữ giới trong hợp tác và cộng tác. Tiếp đó đến lượt tôi. Tiếp nối câu chuyện từ góc độ lịch sử và nghiên cứu uyên bác của Eisler, bài nói chuyện của tôi tập trung vào những chi tiết trong cuộc sống hàng ngày và trải nghiệm của những người phụ nữ sống trong những hoàn cảnh khốn khó như ở Senegal hay Bangladesh. Cũng như những người phụ nữ ở Microsoft, họ làm việc vất vả, 16-18 tiếng một ngày; cả đời chỉ xoay quanh chuyện chu cấp được cho con cái, gia đình, và các mối quan hệ của họ với nhau nâng đỡ, giúp họ tồn tại trong cuộc sống khắc nghiệt. Những người phụ nữ ở Microsoft thích thú được biết rằng họ nằm trong 1% phụ nữ trên thế giới có quyền lựa chọn và được sử dụng nguồn tài chính theo ý mình để xây dựng cuộc sống của gia đình. Tôi đề nghị họ nghĩ đến một tỷ phụ nữ vẫn sống bằng số tiền hai đến năm đô-la một ngày. Tôi chia sẻ với họ những điều tôi biết và chứng kiến về quyết tâm của những người phụ nữ ở các nước đang phát triển đối với gia đình họ, những bài hát và điệu nhảy đã truyền sức sống cho họ, khả năng bao bọc cho con cái của họ, không chỉ trong vất vả mà cả trong niềm trân trọng cuộc sống và tình yêu thương. Tôi kể cho họ nghe về những vất vả ghê gớm mà họ đã vượt qua trong cuộc sống, về những vùi dập, cách ly và nô dịch mà họ phải trải qua, và về sự can đảm mà họ đã dựa vào để sống. Tôi cũng kể rằng những người phụ nữ này luôn trân trọng và biết ơn những thứ giản dị họ có, rằng những mối quan hệ phong phú, đẹp đẽ mà họ chia sẻ được sinh ra từ