🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lịch Sử Y Học
Ebooks
Nhóm Zalo
Lời nói đầu
“Sức khỏe là trạng thái hoàn toàn khỏe mạnh về thể chất, tinh thần cũng như xã hội chứ không chỉ là tình trạng không có bệnh hay thương tật” (theo Tổ chức Y tế Thế giới).
Mục đích chủ yếu của tôi khi viết và chỉnh lý quyển sách này là nhằm đưa ra một bản giới thiệu cập nhật về lịch sử y học. Mặc dù tài liệu lúc đầu vốn là “một trợ giảng” trong khóa học tổng quan kéo dài một học kỳ của tôi, nhưng tôi hy vọng rằng ấn bản mới này cũng sẽ nhận được sự quan tâm từ nhiều đối tượng độc giả, cũng như từ các thầy giáo có ý muốn bổ sung các nội dung lịch sử môn học cho các môn khoa học hoặc bổ sung nội dung khoa học vào các môn lịch sử của mình. Cũng như ấn bản trước, tôi cố gắng hướng sự chú ý của người đọc đến các chủ đề chính trong lịch sử y học, sự tiến hóa của các lý thuyết và các phương pháp nghiên cứu, cũng như các quan điểm và giả định khác nhau nhờ đó các thầy thuốc và bệnh nhân hiểu được sức khỏe, bệnh tật và sự lành bệnh.
Có nhiều đổi thay đã xuất hiện trong lịch sử y học kể từ thập niên 1940 khi Henry E. Sigerist (1891-1957) hô hào cần phải có một hướng đi mới trong lĩnh vực này, chuyển từ việc nghiên cứu về các thầy thuốc lớn và các tài liệu của họ sang một quan niệm mới xem lịch sử y học như là lịch sử xã hội và văn hóa. Từ chỗ hầu như chỉ xoáy vào sự tiến hóa của các lý thuyết y học hiện đại, các học giả bắt đầu nhắm vào các vấn đề mới liên quan đến bối cảnh xã hội, văn hóa, kinh tế và chính trị trong đó thầy thuốc và bệnh nhân đều có vai trò. Do chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi các quan niệm và kỹ thuật mượn từ ngành xã hội học, tâm lý học, nhân chủng học và dân số học, các sử gia mới chuyên về các khía cạnh xã hội và văn hóa trong y học nhấn mạnh đến các yếu tố như chủng tộc, giai cấp, giới tính, cũng như các gắn kết thuộc về định chế và nghề nghiệp. Vẫn còn một số tranh luận về bản chất của lĩnh vực này, nhưng thảy đều nhất trí rằng lịch sử y học không chỉ đơn giản là một câu chuyện kể lại lộ trình đi từ thời tối tăm đến sự khai sáng của khoa học hiện đại.
Căn cứ vào tính sinh động và đa dạng của lĩnh vực này hiện nay, việc tìm ra cách thức thỏa đáng để trình bày một đánh giá ở mức sơ đẳng về lịch sử y học càng ngày càng trở nên khó khăn. Vì thế, cách tiếp cận có chọn lọc, tức là cách dựa trên sự cân nhắc các nhu cầu và sự quan tâm của độc giả là những người lần đầu tiếp cận với lĩnh vực này dường như là phù hợp. Vì thế, tôi đã chọn những ví dụ đặc thù về các lý thuyết, các chứng bệnh, nghề
nghiệp, các thầy thuốc, và các nhà khoa học, và cố gắng sử dụng các ví dụ này để làm sáng tỏ những chủ đề liên quan đến các vấn đề cơ bản về sức khỏe, bệnh tật, và lịch sử. Về đại thể, nội dung quyển sách được sắp xếp theo trình tự thời gian, nhưng chủ yếu dựa trên chủ đề.
Các lý luận và thực tiễn trong y học có thể đưa ra một công cụ nhạy để thăm dò hệ thống chặt chẽ các tương tác xã hội, cũng như các dấu vết của sự du nhập, phát tán và cải biến của những ý tưởng và kỹ thuật mới hoặc lạ lẫm. Các vấn đề y học đều liên quan đến những khía cạnh cơ bản và hiển hiện nhất của mọi xã hội - sức khỏe và bệnh tật, sung túc và nghèo đói, sự ra đời, quá trình lão hóa, tàn tật, khổ ải và chết chóc. Bất kỳ ai trong mọi thời kỳ của lịch sử cũng đều phải đối phó với vấn đề sinh đẻ, bệnh tật, chấn thương, và sự đau đớn. Vì thế, những biện pháp được phát triển để chữa lành tâm thần và thể xác sẽ là tâm điểm đáng giá để khảo sát các nền văn hóa và hoàn cảnh khác nhau. Có thể sự thâm nhập vào lịch sử y học sẽ mang lại cho ta một sự gần gũi với người bệnh và người chữa bệnh trong quá khứ và hiện tại, một ý thức khiêm tốn khi đứng trước bệnh tật và thiên nhiên và một cách tiếp cận có cân nhắc đối với các vấn đề y học hiện nay của chúng ta.
Lịch sử y học có thể rọi sáng các quy luật biến đổi của y tế và bệnh tật, cũng như những vấn đề về hành nghề y, sự chuyên nghiệp hóa, các định chế, việc đào tạo, chi phí y tế, chẩn đoán và điều trị. Kể từ cuối thế kỷ 19, các ngành y sinh học đã phát triển mạnh mẽ khi đi theo cái gọi là “tín điều về từng bệnh nguyên học cụ thể” - tức là, cái quan niệm cho rằng nếu chúng ta hiểu được tác nhân gây bệnh của một chứng bệnh, hoặc là các biến cố phân tử chuyên biệt của một tiến trình bệnh lý, thì chúng ta hoàn toàn có thể hiểu được và khống chế được bệnh đó. Quan điểm này bỏ qua không nhắc đến những khía cạnh xã hội, đạo đức, kinh tế và địa lý-chính trị phức tạp của bệnh tật trong một thế giới càng ngày càng trở nên gần gũi nhiều hơn nhờ các phương tiện giao thông và liên lạc hiện đại, nhưng đồng thời cũng bị chia tách ngày càng rộng hơn vì những khác biệt giữa sự giàu có và nghèo đói.
Các cuộc tranh luận công khai về y học ngày nay dường như hiếm khi đề cập đến những chủ đề cơ bản về nghệ thuật và khoa học của y học; thay vào đó, là những vấn đề được đem ra mổ xẻ dằng dai nhất lại liên quan đến chi phí chăm sóc y tế, có hay không có các dịch vụ, khả năng tiếp cận các dịch vụ đó, tính công bằng và trách nhiệm. Những so sánh giữa các hệ thống y tế của nhiều quốc gia khác nhau cho thấy rằng mặc dù có sự khác
biệt về hình thức, triết lý, cách tổ chức, và các mục tiêu, nhưng tất cả đều bị sức ép do chi phí ngày càng tăng và những kỳ vọng và áp lực trên các nguồn lực ít ỏi hoặc hạn hẹp. Các viên chức chính phủ, các nhà phân tích chính sách và những người làm công tác chuyên môn trong ngành y ngày càng tập trung công sức và mối quan tâm của mình nhiều hơn vào các biện pháp kìm hãm chi phí. Hiếm khi có ai thử đặt lại vấn đề là ngành y nói chung như thế nào xét về các chủ đề được các nhà dân số học, dịch tễ học và sử gia nêu ra cũng như về giá trị tương đối của nền y học hiện đại và những cải cách có cơ sở rộng lớn hơn về mặt môi trường và hành vi có thể ảnh hưởng mạnh mẽ lên các mô thức mắc bệnh và tử vong.
Những người hoài nghi nói rằng, dường như chúng ta đã đánh đổi các bệnh dịch của một thế hệ này để lấy dịch bệnh của một thế hệ khác. Ít nhất, tại những nơi giàu có, công nghiệp hóa nhiều hơn trên thế giới, mô hình bệnh tật phổ biến đã chuyển từ một dạng trong đó nguyên nhân tử vong là các bệnh truyền nhiễm sang một dạng khác với các bệnh thoái hóa và mạn tính chiếm đa số, kết hợp với một sự chuyển đổi nhân khẩu học của một thời đại có tỷ lệ tử vong ở trẻ còn bú cao sang một thời đại mà tuổi thọ tăng và một dân số ngày càng già cỗi. Kể từ cuối thế kỷ 19, chúng ta thấy có một sự chuyển đổi rõ rệt từ một thời kỳ trong đó việc dự phòng khá tốn kém (chẳng hạn như việc lắp đặt hệ thống xử lý nước thải) và việc điều trị về cơ bản là không tốn kém (ví dụ như trích huyết và xổ ruột) sang một thời kỳ trong đó chi phí điều trị rất cao (ví dụ các thủ thuật bắt cầu mạch vành) và dự phòng ít tốn kém (như tập thể dục và chế độ ăn ít cholesterol). Sau nhiều năm tán dương các thành quả thấy được của ngành khoa học y sinh, điển hình là những đóng góp như vaccine, kỹ thuật gây mê/gây tê, thuốc insulin, ghép tạng, và niềm hy vọng rằng các bệnh dịch sẽ theo chân bệnh đậu mùa đi vào quên lãng, thì nay những vấn đề nhức nhối và sâu xa lại được nêu ra về sự cách biệt giữa các chi phí của nền y học hiện đại và vai trò mà y học quyết định các kiểu mắc bệnh và tử vong về mặt lịch sử và toàn cầu. Khi phân tích cẩn thận vai trò của y học, các yếu tố môi trường và xã hội trong việc quyết định sức khỏe của người dân, người ta thấy rằng kỹ thuật y học không phải là bài thuốc bá bệnh cho bệnh cấp tính gây dịch hoặc bệnh mạn tính và bệnh địa phương.
Một mô tả khái quát về lịch sử y học sẽ củng cố nguyên tắc cơ bản là nếu chỉ riêng một mình y học thì sẽ không bao giờ là giải pháp cho những điều bất hạnh của cá nhân hoặc những điều bất hạnh của xã hội, nhưng con
người chưa bao giờ từ bỏ việc trông chờ vào các nghệ thuật chữa bệnh để tập trung vào những cách điều trị, an ủi, cải thiện, giảm nhẹ bệnh tật, và phục hồi. Có lẽ khi hiểu rõ hơn các quan niệm trước đây về sức khỏe, sự lành bệnh và bệnh tật sẽ giúp cho ta nhận ra nguồn gốc các vấn đề hiện tại với những giới hạn và trở ngại cố hữu của các quan niệm hiện hành.
Một lần nữa tôi xin bày tỏ lòng cảm kích sâu sắc đối với John Parascandola và Ann Carmichael qua những lời góp ý, phê bình vô giá và sự khích lệ của họ trong khi chuẩn bị bản in lần thứ nhất của quyển sách này. Dĩ nhiên, tất cả những sai sót còn lại do thiếu sót và vấp váp đều là của tôi. Tôi cũng xin hết sức cám ơn các sinh viên dự khóa học, đọc các sách do tôi viết, và báo cho tôi biết phần nào rõ ràng và phần nào còn tối nghĩa. Tôi cũng xin cám ơn Bộ phận Lịch sử Y học thuộc Thư viện Quốc gia (Hoa Kỳ) về Y học đã cung cấp các tài liệu minh họa sử dụng trong sách này và cám ơn Tổ chức Y tế Thế giới về bức ảnh ca bệnh đậu mùa cuối cùng tại tiểu lục địa Ấn Độ. Tôi cũng xin cám ơn công ty Marcel Dekker, Inc. đã mời tôi chuẩn bị ấn bản lần thứ hai của quyển Lịch sử Y học.
Lois N. Magner
1
Bệnh lý họ c và Y học cổ sinh DẪN NHẬP
Một trong những huyền thoại lôi cuốn và vương vấn chúng ta nhất là huyền thoại thời Hoàng kim, thời đại trước khi phát hiện cái tốt và cái xấu, khi cái chết và bệnh tật chưa ra đời. Thế nhưng, bằng chứng khoa học - tuy ít ỏi, manh mún, và dù nhiều khi còn mang tính thách đố - lại chứng minh rằng bệnh tật xuất hiện trước loài người từ lâu và không phải là hiếm hoi đối với các loài khác. Thật vậy, những nghiên cứu trên các hóa thạch cổ, các bộ xương của các bộ sưu tập trong viện bảo tàng, động vật trong sở thú và ở ngoài hoang dã cho thấy rằng chứng viêm khớp khá phổ biến đối với những loài động vật có vú trung bình và lớn, kể cả con lợn đất (aardvarks) chuyên ăn kiến, và linh dương gazel. Bằng chứng nhiễm trùng được tìm thấy trong xương của các động vật thời tiền sử, và trong mô mềm của các xác ướp. Các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh hiện đại phát hiện được bằng chứng u bướu trong các hài cốt hóa thạch. Lấy ví dụ, các nhà nghiên cứu chụp CT hộp sọ của một con khủng long bạo chúa (gorgosaurus) 72 triệu năm đã phát hiện một u não có khả năng làm cho con vật mất thăng bằng và chuyển dịch khó khăn. Những bất thường khác trên mẫu nghiên cứu cho thấy con vật bị gãy xương đùi, xương ống chân và xương vai.
Như vậy, việc hiểu được kiểu thức bệnh tật tấn công các bậc tổ tiên tiền sử của chúng ta đòi hỏi ta phải có cách nhìn của các nhà bệnh lý học cổ sinh (paleopathologist). Marc Armand Ruffer (1859-1917), một trong những người sáng lập môn bệnh lý học cổ sinh, đã định nghĩa đây là khoa học về những bệnh có thể chứng minh qua hài cốt động vật thời cổ đại. Môn bệnh học cổ sinh cung cấp các thông tin về sức khỏe, bệnh tật, tử vong, môi trường và văn hóa của các quần thể cổ đại.
Để tìm hiểu vấn đề bệnh giữa những con người thời cổ đại, chúng ta cần khảo sát một số mặt về sự tiến hóa con người, về mặt sinh học lẫn văn hóa. Trong quyển sách Sự Xuất hiện của Con người và sự Chọn lọc dựa theo quan hệ giới tính (Descent of Man and Selection in Relation to Sex (1871)), Charles Darwin cho rằng con người cũng giống như các loài khác, đều phát
triển từ những dạng sống trước đó qua hình thức chọn lọc tự nhiên. Theo Darwin, tất cả các bằng chứng hiện có cho thấy rằng “con người có dòng dõi từ động vật 4 chân, có lông, có đuôi, có lẽ có thói quen sống trên cây”. Mặc dù không có nhiều bằng chứng, nhưng Darwin cho rằng tổ tiên xa xưa của con người hiện đại có họ hàng với khỉ đột (gorilla) và tinh tinh (chimpanzee). Ngoài ra, ông còn tiên đoán rằng những con người đầu tiên có lẽ đã tiến hóa ở châu Phi. Các bằng chứng đi từ nghiên cứu các hóa thạch, địa tầng và sinh học phân tử cho thấy rằng sự tách rời giữa con người với khỉ đã xảy ra tại châu Phi từ 5 đến 8 triệu năm trước đây.
Các hài cốt hóa thạch của tổ tiên con người cung cấp cho ta các đầu mối giá trị về quá khứ, nhưng những hóa thạch như thế còn rất ít và thường là không đầy đủ. Nhà nghiên cứu giải phẫu học người Nam Phi Raymond Dart, đã có một phát hiện đầy ý nghĩa đầu tiên về tổ tiên con người tại châu Phi vào những năm 1920, khi ông xác định các hóa thạch nổi tiếng là người vượn Nam Phi (Australopithecus africanus). Những phát hiện hứng thú nhất trong thế kỷ 20 sau đó về tổ tiên con người cổ đại có liên quan đến công trình của vợ chồng Louis và Mary Leakey và của Donald Johanson. Làm việc chủ yếu tại các địa điểm thuộc hẻm núi Olduvai và Laetoli tại Tanzania, Mary và Louis Leakey tìm thấy nhiều hóa thạch hominid (vượn người), trong đó có Australopithecus boisei và Homo habilis. Phát hiện quan trọng nhất của Johanson là một bộ xương còn nguyên vẹn một cách bất thường của giống australopithecine sơ khai (Australopithecus afarensis), thường được gọi là Lucy. Các hài cốt giống hominid mới được phát hiện vào đầu thế kỷ 21 đã thúc đẩy nhiều cuộc tranh luận sâu hơn về các tổ tiên hominid thời cổ đại cũng như tổ tiên của loài tinh tinh (chimpanzee).
Ngành nhân loại học cổ sinh là một lĩnh vực trong đó các phát hiện mới chắc chắn sẽ dẫn tới việc rà soát lại những phát hiện trước đó cùng với nhiều tranh luận kịch liệt về nguồn gốc và phân loại của mấy mẫu răng và xương nhỏ xíu. Những phát hiện mới hơn chắc chắn sẽ bổ sung nhiều kiến thức về lịch sử tiến hóa con người và cũng làm nổ ra nhiều tranh cãi giữa các nhà nhân loại học cổ sinh. Các nhà khoa học cũng thừa nhận rằng các bệnh thuộc bệnh học cổ sinh giả cũng có thể làm cho người ta hiểu nhầm và diễn giải sai bởi vì tuy chúng rất giống với những thương tổn do bệnh, nhưng thực ra đó chỉ là những quá trình sau khi chết. Lấy ví dụ, do các thành phần muối cơ
bản trong xương đều dễ hòa tan trong nước, cho nên các loại đất dễ làm mất đi chất calcium sẽ khiến cho xương bị thay đổi giống như tổn thương do loãng xương. Mặc dù lắm điểm còn mơ hồ trong các hài cốt cổ xưa, nhưng các phương pháp bệnh học cổ sinh có thể phát hiện ra dấu hiệu của bệnh và chấn thương trên những hài cốt này.
Các kiến thức từ nhiều ngành học khác nhau, như khảo cổ, địa lý học lịch sử, hình thái học, giải phẫu học so sánh, phân loại học, di truyền học và sinh học phân tử đều giúp cho chúng ta hiểu nhiều hơn về sự tiến hóa của con người. Những thay đổi trong DNA, kho lưu trữ các tài liệu về phả hệ con người, đã được sử dụng để xây dựng lại cây phả hệ, gia đình và các kiểu di dân thời xa xưa. Một số gene có thể làm rõ sự khác biệt quan trọng giữa con người và các loài linh trưởng khác, chẳng hạn như khả năng diễn đạt ngôn ngữ thành lời.
Về mặt giải phẫu học mà nói thì con người chỉ mới xuất hiện khoảng 130.000 năm trước đây, nhưng con người hiện đại đúng nghĩa, có được các hoạt động phức tạp, chẳng hạn như chế tạo ra các công cụ phức tạp, các tác phẩm nghệ thuật, giao thương đường dài, dường như chỉ mới có trong các tài liệu khảo cổ chừng 50.000 năm nay mà thôi. Tuy vậy, mối liên hệ giữa con người và các dòng hominid đã tuyệt giống vẫn còn là vấn đề tranh cãi.
Thời đồ đá cũ, thời điểm mà những bước quan trọng nhất trong sự tiến hóa văn hóa xuất hiện, lại trùng hợp với kỷ địa chất Pleistocene (Kỷ băng hà lớn), vốn đã chấm dứt khoảng 10.000 năm trước đây với sự thoái lui cuối cùng của các băng hà. Những con người cổ đại là người săn bắt -hái lượm, tức là các động vật ăn tạp có cơ hội học cách làm ra công cụ, xây dựng chỗ trú ẩn, mang vác và chia sẻ thức ăn và xây dựng các cấu trúc xã hội mang tính độc đáo con người. Mặc dù trong thời đồ đá cũ con người mới chỉ sản xuất được các công cụ thô sơ bằng xương và đá ghè, và chưa có các vật dụng bằng gốm và kim loại, nhưng con người vào thời kỳ này cũng đã tạo ra được các bức vẽ ngoạn mục trong hang Lascaux (Pháp) và Altamira (Tây Ban Nha). Cũng có khả năng là họ cũng có các phát minh hữu ích nhưng lại dễ bị phân hủy sinh học, cho nên không còn lưu được dấu vết gì trên các hóa thạch. Thật vậy, trong thập niên 1960, các nhà khoa học có khuynh hướng bảo vệ nữ quyền đã cật vấn những giả định hiện nay về tầm quan trọng của sự săn bắt có phải đúng là cách thức kiếm thức ăn của con người săn bắt-hái lượm. Có lẽ các hạt, quả, rau quả hoang dại và các thú
nhỏ do phụ nữ hái lượm đã góp phần đáng kể trong chế độ ăn của người thời đồ đá cũ. Hơn thế nữa, do phụ nữ thường phải chăm sóc con nhỏ, cho nên có thể họ sáng tạo ra những cây gậy có thể dùng để đào lỗ, các thứ túi để mang và cất giữ thức ăn.
Cuộc cách mạng thời đồ đá mới là sự chuyển đổi sang một hình thức sản xuất lương thực mới qua canh tác và chăn nuôi. Con người thời đồ đá mới chế tạo các đồ dùng như đan giỏ, làm đồ gốm, đánh sợi và dệt vải. Mặc dù không có công trình nghệ thuật nào trong thời kỳ này được coi là đặc sắc như các bức tranh trong hang động thời đồ đá cũ ở Pháp và Tây Ban Nha, con người thời đồ đá mới đã sản xuất ra các tác phẩm điêu khắc, tượng nhỏ và đồ gốm đầy thú vị.
Nếu lúc trước các nhà khảo cổ và nhân chủng học bị ám ảnh với câu hỏi là lối sống nông nghiệp có từ đâu và bao giờ, thì giờ đây họ quan tâm nhiều hơn tới câu hỏi vì sao và như thế nào. Các nhà nhân chủng học thế kỷ thứ 19 thường xếp đặt các nền văn hóa con người vào một loạt các giai đoạn tiến triển đi lên qua các loại công cụ được chế tạo và phương cách sản xuất lương thực. Kể từ thập kỷ 60 của thế kỷ trước, các phương pháp phân tích mới cho phép kiểm tra các giả thiết về sự biến đổi khí hậu và môi trường và ảnh hưởng của chúng đến các nguồn lương thực. Khi một ý tưởng lý giải sự tiến bộ được đưa ra phân tích cặn kẽ thay vì được chấp nhận một cách đương nhiên, thì các nguyên nhân của sự chuyển đổi ở thời đồ đá mới không còn được coi là sáng tỏ như lúc trước nữa. Căn cứ trên thực tế những người săn bắt-hái lượm có thể có một chế độ ăn uống khá hơn và sống an nhàn hơn những người canh tác nông nghiệp, dù là ở thời tiền sử hoặc thời hiện đại, thì những lợi điểm của cuộc sống ổn định chỉ có đối với những ai đã an cư và ăn uống dư dả. Nguồn thực phẩm có được đối với những người săn bắt-hái lượm tuy có phong phú hơn so với thực phẩm của người làm nông nghiệp, nhưng thực ra vẫn là bấp bênh và không chắc chắn.
Những nghiên cứu gần đây về nguồn gốc nông nghiệp cho thấy rằng nông nghiệp hầu như đã ra đời trong khoảng từ 10.000 đến 20.000 năm trước đây, chủ yếu là để đối phó với các áp lực do phát triển dân số sinh ra. Khi so sánh sức khỏe của những người hái lượm và các nông dân an cư, các nhà bệnh học cổ sinh thường thấy rằng sự phụ thuộc vào việc trồng trọt một loại cây lương thực sẽ làm cho dân chúng sẽ có mức dinh dưỡng kém
đi so với những người săn bắt-hái lượm, thông qua chiều cao, mức độ lực lưỡng, sức khỏe của hàm răng, và nhiều thứ nữa. Trong các xã hội nông nghiệp, đáy của tam giác thực phẩm trở nên nhỏ hơn khi con người chỉ canh tác một vài loại hoặc thậm chí một loại cây lương thực. Vì thế, nguồn thực phẩm có thể đầy đủ về số lượng và calorie, nhưng lại thiếu các vitamin và khoáng chất. Tuy nhiên, việc thuần hóa động vật dường như đã cải thiện được tình trạng dinh dưỡng và dân số thời cổ đại. Mặc dù toàn bộ dân số rõ ràng là đã tăng rất chậm trước khi con người chọn việc canh tác, nhưng sau đó lại tăng lên rất nhanh. Trong các xã hội du mục, do thời gian cho con bú kéo dài cùng với những cấm kị giao hợp sau khi sinh đã làm giãn thời gian giữa hai lần sinh. Đời sống làng mạc đã làm cho phụ nữ thôi cho con bú sớm và thời gian giữa hai lần sinh ngắn lại. Những thay đổi có tính cách mạng trong môi trường vật lý và xã hội cùng với sự chuyển dịch từ lối sống của các nhóm nhỏ dân cư săn bắt-hái lượm đi lang thang đến lối sống định cư của những nhóm dân tương đối đông đúc cũng tạo nên những thay đổi lớn về các kiểu bệnh tật. Nơi ở lâu dài, với vườn tược, đồng ruộng làm phát sinh ra những ổ chứa thuận tiện cho các ký sinh trùng, côn trùng và loài gặm nhấm. Thực phẩm để trong kho cũng có thể bị hỏng, kéo theo các sâu hại, và bị nhiễm bẩn với những thứ như chất thải của loài gặm nhấm, côn trùng, vi khuẩn, nấm mốc và các độc tố. Canh tác nông nghiệp làm tăng số lượng calorie sản xuất trên mỗi đơn vị đất đai, nhưng đồng thời làm cho chế độ ăn dựa quá nhiều vào ngũ cốc nhưng có thể không đầy đủ về protein, vitamin và chất khoáng.
Do không hoạt động nhiều và không có nhiều tài nguyên đa dạng như những người săn bắt-hái lượm, cho nên đám dân định cư dễ bị ảnh hưởng khi mùa màng thất bát, đói kém. Những vụ đói kém tại một vùng nào đó có thể khiến cho người dân phải bỏ xứ ra đi đến những nơi khác đồng thời cũng mang theo các ký sinh trùng và tác nhân gây bệnh cho người dân và nơi cư trú mới. Điều khôi hài là việc quá lo nghĩ về chế độ ăn hiện đại có chứa nhiều thành phần không tự nhiên đã trở nên rất thịnh hành, khiến người dân tại các quốc gia giàu có nhất giờ đây lại có ý tưởng ngược đời là quay lại với chế độ ăn của con người cổ đại hoặc thậm chí chế độ ăn của những loài linh trưởng hoang dã. Trên thực tế, nguồn thức ăn của những con người tiền sử vốn không hề dư dả, lại đơn điệu, tồi tàn và bẩn thỉu.
NGÀNH BỆNH HỌC CỔ SINH:
PHƯƠNG PHÁP VÀ VẤN ĐỀ
Do bằng chứng trực tiếp về bệnh tật của con người cổ đại còn rất hạn chế, cho nên ta phải tìm một loạt các phương pháp gián tiếp để có được một cái nhìn sơ lược về thế giới tiền sử. Lấy ví dụ, những nghiên cứu về sinh vật họ hàng gần gũi nhất của chúng ta, loài khỉ nhân hình và khỉ, đã cho thấy là sống theo kiểu tự nhiên không hẳn là sẽ không mắc bệnh. Các loài linh trưởng hoang dã bị rất nhiều bệnh, như viêm khớp, sốt rét, thoát vị bẹn, bệnh ký sinh trùng và răng đâm vào nhau. Tổ tiên chúng ta, những “con khỉ nhân hình trụi lông” đầu tiên, được cho là đã nếm mùi các bệnh tật tương tự như những bệnh tật xảy ra ở các loài linh trưởng hiện nay trong quãng đời quả là “bẩn thỉu, thô lậu và ngắn ngủi”. Tuy vậy, con người tiền sử dần dần học được cách thích ứng với các môi trường khắc nghiệt, vốn chẳng hề giống với cảnh Vườn Địa Đàng trong thần thoại. Mãi về sau, qua sự tiến hóa văn hóa, con người mới thay biến đổi môi trường của mình theo những cách chưa hề có tiền lệ, ngay cả khi họ phải phụ thuộc vào môi trường đó. Khi thuần hóa các động vật, vận dụng thành thục các kỹ thuật canh tác, và xây dựng nên những nơi định cư đông đúc, con người cũng tạo ra những dạng bệnh tật mới.
Các nhà bệnh học cổ sinh phải sử dụng đến các bằng chứng sơ cấp và thứ cấp để rút ra các dẫn liệu về các dạng bệnh tật thời tiền sử. Bằng chứng sơ cấp bao gồm cơ thể, xương, răng, tro và các phần còn lại của cơ thể đã khô hoặc cháy thành than tại những nơi chôn xác người vô tình hoặc có chủ ý.
Các nguồn bằng chứng thứ cấp bao gồm nghệ thuật, đồ tạo tác, đồ tùy táng của những con người thời chưa có chữ viết, và các tài liệu cổ mô tả hoặc gợi ý sự hiện diện các tình trạng bệnh học. Các tài liệu có được qua những nghiên cứu như trên còn rất sơ sài, và do đa số chỉ là những phần cứng của cơ thể - như xương và răng - rõ ràng là đã cho ta một hình ảnh méo mó của quá khứ.
Thật vậy, do rất ít có khả năng đạt tới một chẩn đoán chính xác khi nghiên cứu các di vật xa xưa cho nên một số học giả nhấn mạnh rằng không nên gán tên của các bệnh hiện nay cho các phát hiện của thời xa xưa. Những chuyên gia khác lại cứ đưa những bệnh tật thời đồ đá cũ vào cách phân loại hệ thống hóa hiện tại như các dị tật bẩm sinh, tổn thương, nhiễm trùng, các bệnh thoái hóa, ung thư, bệnh do thiếu chất, và thậm chí những bệnh chưa rõ nguyên nhân là nhóm khá rộng.
Tuy nhiên, khi kết hợp các kỹ thuật cổ điển với hiện đại, các nhà khoa học có thể qua những bằng chứng manh mún này mà gặt hái được những kiến thức mới về cuộc đời của con người thời cổ đại. Có thể gọi một ngành học
nghiên cứu các di vật con người qua phương pháp khảo cổ là ngành khảo cổ học sinh học, là một lĩnh vực kết hợp giữa ngành khảo cổ học và nhân chủng học cơ thể (physical anthropology).
Các phong tục tang lễ, cách thức táng, các điều kiện môi trường chẳng hạn như nóng, ẩm, thành phần của đất, đều ảnh hưởng đến tình trạng lưu giữ hài cốt con người. Đặc biệt là việc thiêu xác có thể làm cho hài cốt bị co rút và phân mảnh. Xác có thể được chôn xuống đất ngay sau khi chết, rồi lấy đá đắp lên thành gò, hoặc đặt lên một cái giàn cho nắng mưa phân hủy. Có khi dân du mục lẫn dân định cư đều mang xác chết đặt lên một kiểu giàn nào đó trong một thời gian nếu người chết gặp khi đất đang đóng băng. Sau đó, người ta mới làm lễ an táng thích hợp cho phần xương cốt còn lại. Tại một số nghĩa địa, xác chết sau được dồn vào các ngôi mộ cũ, cuối cùng là một đống xương lẫn lộn. Sự mù mờ còn tăng thêm khi có những cái xác bị cắt chặt theo các nghi lễ cúng tế, những đồ dùng và quà tặng mang theo cho người chết, trong đó có xác động vật hoặc người trong gia đình người chết, và những biến dạng do sự ướp xác tự nhiên hoặc do con người. Những con vật đào bới hoặc những kẻ cướp mộ cũng có thể quấy phá nơi chôn xác và làm cho xương không nằm đúng vị trí. Những thảm họa như lũ lụt, động đất, lở đất, thảm sát, có thể cung cấp thông tin liên quan đến một nhóm nhiều người trong một thời điểm nào đó.
Mặc dù ngày càng có nhiều kỹ thuật phân tích mới mạnh và hiện đại hơn được đưa vào phục vụ ngành bệnh học cổ sinh, nhưng vẫn còn nhiều điều chưa chắc chắn, cho nên tất cả các kết quả vẫn cần phải thận trọng khi diễn giải. Từ những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, các nhà khoa học đã sử dụng các phương pháp mới như khuếch đại và giải trình tự chuỗi DNA, phân tích các isotope C và N ổn định, và kính hiển vi điện tử quét để đưa ra những câu hỏi về sức khỏe, cách sống và văn hóa của các dân tộc thời cổ đại. Kính hiển vi điện tử được sử dụng để khảo sát các dạng răng bị mòn và ngà răng bị khuyết do stress và rối loạn tăng trưởng, cùng với ảnh hưởng hệ xương các chi khi làm việc nặng nhọc. Có điều kiện người ta cũng phân tích hóa học để tìm các yếu tố vi lượng lấy từ xương và tóc con người cổ đại để hiểu thêm về chế độ ăn và chất lượng đời sống của họ. Chì, thạch tín, thủy ngân, cadmium, đồng, và strontium là những chất có thể tìm thấy
trong tóc.
Việc phân tích các chất đồng vị ổn định của C và N cũng cho ta biết thêm về thành phần hóa học của xương và chế độ ăn, bởi vì tỷ số các chất đồng vị C và N tìm thấy trong xương của người và động vật phản ánh tỷ số các chất này trong thành phần thực phẩm được tiêu thụ. Từ đó ta có thể ước
tính được tầm quan trọng tương đối của nguồn thực phẩm động vật và thực vật trong chế độ ăn của người tiền sử. Những sai biệt về tỷ số này trong xương người qua các thời kỳ khác nhau có thể cho ta biết có sự thay đổi trong chế độ ăn. Lấy ví dụ, các nhà khoa học xác định được số lượng tương đối của Carbon 13 và Nitrogen 15 trong xương con người sống trên 20.000 năm trước tại nhiều vùng khác nhau của châu Âu. Các nghiên cứu cho thấy chế độ ăn gồm nhiều cá, sò, và chim biển. Phân tích các chất đồng vị trong xương người Neanderthal lại phát hiện điều ngược lại đó là nguồn protein trong thức ăn của họ chủ yếu có từ thịt của các con mồi động vật lớn hơn.
Ngày nay, và có lẽ trong quá khứ, phần lớn các nhiễm trùng đều nằm ở mô mềm nhiều hơn là ở xương, nhưng xương và răng là nguồn thông tin bậc một về bệnh học cổ sinh. Các nhà khoa học có thể nghiên cứu hài cốt bằng tia X, chụp cắt lớp (CT), phân tích hóa học và nhiều thứ nữa. Xương có thể cung cấp chứng cứ cho biết tình trạng sức khỏe, bệnh tật, tuổi và nguyên nhân chết của một người nào đó thời cổ đại.
Các thương tổn đặc thù thấy được trên các hài cốt cổ đại bao gồm gãy xương, trật khớp, bong gân, đứt dây chằng, bệnh thoái hóa khớp, đoạn chi, vết thương xuyên thấu, xương mọc gai, cục máu đông bị hóa vôi, vẹo vách mũi và nhiều thứ khác. Các loại vũ khí được phóng ra như lao và tên, đã được tìm thấy trên các đốt sống, xương ức, xương bả vai, xương cánh tay và xương sọ hóa thạch. Nhưng lại ít khi thấy được phần mũi của những thứ vũ khí này, phần vì có thể đã được các thầy thuốc lấy ra, hoặc nhiều khả năng nhất là phần chóp gây ra một tổn thương chết người này lại mắc kẹt trong mô mềm. Trong một số trường hợp sau khi bị các vết thương xuyên thấu, người bị nạn vẫn sống sót sau một thời gian dài, người ta tìm thấy những phần chóp này gắn kết như những vật lạ trơ vào phần xương bị thương tổn.
Trong một số ca thuận lợi, người ta có thể đoán được thể loại tổn thương và
khoảng thời gian trải qua từ lúc bị thương tổn đến lúc chết. Xương thường liền lại theo các tốc độ có thể dự đoán được. Qua cách sống sót và khỏi bệnh người ta có thể nghĩ đến các hình thức điều trị, hỗ trợ và chăm sóc trong thời gian dưỡng bệnh. Một số bộ xương cho thấy những chỗ gãy dẫn đến hậu quả làm biến dạng xương, gây khó khăn khi đi lại, gây đau đớn kinh niên, và bệnh thoái hóa khớp. Từ bằng chứng có sự sống sót cho thấy thời trước cũng có những sự trợ giúp hữu hiệu trong thời kỳ dưỡng bệnh và sau khi hồi phục. Trong quá trình liền xương, chỗ xương khuyết sẽ được bù lại bằng xương. Tuy nhiên, đôi khi xương không liền hẳn, mà kèm theo các biến chứng như viêm xương tủy, làm xương chậm kết nối hay không kết nối được, chỗ can bị lệch, mọc cựa xương trong mô mềm kề cận, các cục máu hóa vôi, làm chậm phát triển, xương bị hoại tử vô trùng, can xương giả tức là mô sợi chen vào chỗ xương gãy và bệnh thoái hóa khớp xương (viêm khớp sau chấn thương). Xương là một tổ chức mô sống hoạt động mạnh, luôn luôn thay đổi cho phù hợp với nhu cầu tăng trưởng, và đối với các stress sinh lý cũng như bệnh lý. Nhiều yếu tố, như tuổi, giới, dinh dưỡng, nội tiết, di truyền và bệnh tật, tất cả đều ảnh hưởng đến xương. Lao động nặng hoặc tập luyện quá mức cũng đều dẫn đến hậu quả tăng khối lượng xương. Các tiến trình thoái hóa sẽ làm thay đổi kích thước, hình dạng và hình thái của bộ xương cũng như của từng chiếc xương. Bộ xương có thể bị thay đổi do viêm khớp và do giảm mật độ xương (bệnh loãng xương).
Bộ xương cũng phụ thuộc vào những thay đổi của môi trường chung quanh, nhất là với môi trường cơ học tạo ra do sức nặng cơ thể và lực của các cơ. Hình dạng của một chiếc xương, vì vậy, sẽ ghi lại những lực cơ học tác động lên nó trong suốt cuộc đời một người. Thường thì các nhà bệnh học cổ sinh chú ý đến những chiếc xương có dấu hiệu bệnh lý rõ, nhưng xương bình thường cũng cung cấp bằng chứng về cỡ xương, hành vi, giới tính, các hoạt động, khối lượng công việc và tư thế của người đó.
Thông thường thì các nhà cổ sinh bệnh học chú ý đến những chiếc xương nào có dấu hiệu bệnh lý, nhưng những chiếc xương bình thường cũng có thể cho biết về kích thước thân thể, hành vi, mức độ phát triển về giới tính, các hoạt động, khối lượng công việc, và tư thế. Vì vậy, qua xương ta có thể biết được rằng cá nhân liên quan có thường xuyên phải nâng vật nặng, đẩy, kéo, đứng, ngồi xổm, đi, chạy hoặc cúi xuống. Lấy ví dụ, một điểm bất thường ở khớp mắt cá, gọi là mặt xương ngồi xổm (squatting facet) gặp ở
những người suốt ngày ngồi xổm. Vì vậy, khi không thấy những mặt xương ngồi xổm này sẽ giúp ta phân biệt những kẻ thường ngồi trên ghế với những kẻ không được như vậy.
Phần lớn các bệnh tật đều không để lại dấu vết gì trên bộ xương, nhưng bệnh lao, ghẻ cóc (yaw), giang mai và một số bệnh do nấm có thể để lại những đặc điểm để chẩn đoán. Các nghiên cứu ở thế kỷ 20 cho biết là trong bệnh lao có từ 1-2% ảnh hưởng đến bộ xương. Những thương tổn của bệnh giang mai thường không giống với những thương tổn do bệnh lao gây ra. Giang mai bẩm sinh có thể gây ra những khiếm khuyết kiểu Hutchinson ở răng cửa. Bệnh phong thường làm mất xương ở mặt, ngón tay, ngón chân. Do các nội tiết tố chi phối sự tăng trưởng và phát triển của tất cả các bộ phận trong cơ thể, cho nên khi tuyến nội tiết bị rối loạn, thì trên xương sẽ ghi lại những dấu hiệu bất thường này. Một số điểm bất thường trên các hài cốt thời cổ đại được gán cho rối loạn chức năng của tuyến giáp và tuyến yên (pituitary). Tuy nhiên, do những thay đổi gần đây về các dạng bệnh tật, cho nên các thầy thuốc, không giống như các nhà cổ sinh bệnh học, ít khi thấy được hậu quả của những bệnh truyền nhiễm khá hiểm nghèo, có ý nghĩa lịch sử, mà trước đây không chữa được. Trên hài cốt, cũng có thể thấy vết tích của nhiều loại ung thư. Mặc dù ung thư xương nguyên phát có thể hiếm, nhưng ung thư từ nơi khác di căn vào xương thì nhiều. Một số tình trạng bệnh lý tương đối ít gặp như viêm xương tủy và các u xương và sụn lành tính, đã được các nhà cổ sinh bệnh học chú ý nhiều bởi vì dễ ghi nhận.
Suy dinh dưỡng dưới nhiều hình thức như còi xương, thiếu vitamin C và thiếu máu, có thể gây nên những bất thường trong cấu trúc của xương (chứng dày xương do xốp xương = porotic hyperos tosis). Chứng còi xương hiếm gặp vào thời đồ đá mới, nhưng càng ngày càng phổ biến khi nhiều đô thị ra đời. Chứng nhuyễn xương (osteomalacia), một thể bệnh còi xương ở người lớn, có thể làm xẹp xương vùng chậu, khiến cho mẹ và con có thể tử vong khi sinh nở. Sự hiện diện của các cục máu hóa vôi trên nhiều bộ xương cũng phản ánh được sự thịnh hành của bệnh thiếu vitamin C trong một quần thể nào đó. Nếu phơi nhiễm mạn tính hoặc nặng nề, thì một số yếu tố trong đất như arsenic, bismuth, chì, thủy ngân và selenium có thể tạo ra các tác dụng độc hại được lưu giữ trong xương. Chứng dày xương do loãng xương được tìm thấy trên xương sọ của người cổ đại là một tình trạng bệnh lý làm cho xương bị xốp đi, có những lỗ hổng như
chiếc sàng. Những thương tổn này có thể do suy dinh dưỡng hoặc bệnh truyền nhiễm - thiếu máu do thiếu sắt hoặc các tiến trình viêm, chảy máu trong bệnh thiếu vitamin C, hoặc một số bệnh khác (còi xương, bướu). Nhìn chung, khó mà tìm ra được nguyên nhân chính xác của những thương tổn đó. Ngoài ra, các hư hoại sau khi chết cũng có thể tạo ra các tình trạng tương tự.
Mặc dù chứng sâu răng thường được coi là do hậu quả của chế độ ăn hiện đại, những công trình về người nguyên thủy sống cùng thời kỳ và nghiên cứu trên các bộ xương người cổ đại đã loại bỏ giả định này. Những vấn đề và bệnh của răng được tìm thấy trên hài cốt con người bao gồm sự mòn răng khi ăn, lệch khớp hàm - thái dương, mảng bám, sâu răng, áp-xe răng, gãy chóp răng, mất răng và nhiều thứ khác. Từ những năm 1980, bằng kính hiển vi điện tử quét và cách đo đạc những xây xát vi thể, người ta đã bắt đầu phân tích những kiểu thức mòn răng cực nhỏ. Những hốc, vết trầy xước vi thể trên bề mặt của răng và sự mài mòn bề mặt của răng cho ta biết những kiểu thức mài mòn khi ăn các thức ăn có các thành phần ăn mòn. Mòn răng làm cho răng dễ bị nhiễm trùng và sau đó là rụng răng. Phụ nữ bị nhiều bệnh về răng hơn so với nam giới, phần vì do có thai và cho con bú, phần vì sử dụng răng và xương hàm như một loại công cụ.
Nói chung, qua tình trạng của răng và xương ta biết được lịch sử sức khỏe và bệnh tật, chế độ ăn và những thiếu thốn dinh dưỡng, hồ sơ về các sang chấn nặng và khối lượng công việc phải làm khi còn sống, và cuối cùng là tuổi ước chừng trước khi chết. Vết gãy ở xương cho ta biết lịch sử của một
chấn thương xảy ra sau một nhiễm trùng hoặc khi đang lành. Trước khi các sụn đầu xương đóng lại, thì xương đang tăng trưởng dễ bị gãy khi gặp chấn thương, nhiễm trùng và các rối loạn do tăng trưởng. Các sang chấn trầm trọng có thể làm cho xương của trẻ em không dài ra được, tạo thành những đường ngang, thường gọi là đường Harris hoặc đường ngưng tăng trưởng, thấy được trên phim X quang những xương dài. Nếu đường Harris cho ta biết những rối loạn tăng trưởng trầm trọng trong một thời gian ngắn, thì một quần thể bị suy dinh dưỡng mạn tính lại cho ít các đường ngang hơn một cộng đồng khác chỉ bị đói kém theo mùa hoặc theo chu kỳ. Đói kém, suy dinh dưỡng nặng và nhiễm trùng nặng cũng có thể để lại những dấu hiệu đặc trưng trên răng, đó là những khuyết tật vi thể trên ngà răng như vệt bệnh lý Retzius, thiểu sản ngà răng hoặc giải Wilson. Lấy ví dụ, những đợt tiêu chảy cấp ở trẻ còn bú có thể làm cho răng và xương ngưng phát
triển. Hình ảnh X quang điện tử quét cho ta thấy có nhiều chỗ đứt đoạn trên những vệt đó, nhưng thực ra cũng còn có nhiều điểm chưa rõ về vệt bệnh lý Retzius.
Khoa hóa học cổ học, ngành khoa học chuyên phân tích các chất vô cơ và hữu cơ, đã được sử dụng để phát hiện, định tuổi, diễn giải và chứng thực cho các di chỉ cổ đại. Phương pháp này cho ta nhiều cách để tái dựng các nền văn hóa cổ xưa thông qua những mảnh nhỏ các dụng cụ bằng đá, sành, vải, hình vẽ và nhiều thứ khác. Bằng cách kết hợp khoa hiển vi học với phân tích hóa học, các nhà khoa học có thể tìm lại được các thông tin về cách chế tác và sử dụng các đồ tạo tác xa xưa bởi vì những thứ này đều có mang “dấu ấn” về cách thức mà chúng được tạo ra trong quá khứ. Có lẽ khía cạnh thường gặp nhất trong ngành hóa học khảo cổ là
phương pháp dùng C-14 để định tuổi các di chỉ cổ đại. Cách định tuổi bằng C-14 rất có giá trị để nghiên cứu lại các vật chất có độ tuổi khoảng 10 ngàn năm trở lại, vì đây là thời kỳ có những thay đổi sâu xa nhất khi xuất hiện sự tiến hóa văn hóa.
Các nhà khoa học thuộc nhiều ngành khác nhau đã kết hợp các kiến thức khảo cổ học, hóa học, địa vật lý học, kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh và phương pháp thăm dò từ xa (remote sensing) để thực hiện các khảo sát không đào bới những vị trí khảo cổ nhạy cảm. Khi các kỹ thuật của sinh học phân tử được áp dụng cho những vấn đề được các nhà cổ sinh bệnh học nêu ra, thì người ta có thể rút ra nhiều loại thông tin từ lượng rất nhỏ protein và acid nucleic còn sót lại trong một số di chỉ thời xa xưa. Các cải tiến về công cụ nghiên cứu đã cho phép các nhà khảo cổ học phân tích được thậm chí các vật chất sinh học với số lượng nhỏ hơn nhiều. Chẳng hạn, khi dùng phương pháp khối phổ và các chất đánh dấu sinh học lipid, các nhà hóa học có thể phân biệt được phần di hài giữa con người và các động vật khác.
XÁC ƯỚP VÀ CÁC DẤU HIỆU BỆNH TẬT
Trong một số tình huống, phần mềm của các hài cốt tiền sử được bảo tồn nhờ các điều kiện khí hậu và chôn cất thuận lợi hoặc do sự khéo léo của con người. Dù bằng những cách thô sơ hay tinh xảo, các kỹ thuật ướp xác đều có nhiều điểm tương đồng với cách bảo quản thức ăn và da sống của động vật. Đặc biệt là các thi thể được phát hiện từ các vỉa than bùn ở vùng tây bắc châu Âu. Than bùn đã được dùng để làm nhiên liệu trong hàng ngàn năm, nên đã tạo điều kiện cho những người thu nhặt than vụng về cơ hội tự nguyện hy sinh phục vụ cho sự hiểu biết của các nhà cổ sinh bệnh học sau này. Một số “các thi thể trong đầm lầy” rõ ràng là nạn nhân của các hình thức trừng phạt lạ lùng hoặc các nghi thức tôn giáo. Sau một bữa ăn theo nghi thức, các nạn nhân làm vật tế bị đâm vào tim, đập nát đầu, buộc dây quanh cổ để thắt cổ, rồi bị xô xuống dưới bãi lầy.
Các xác ướp cũng được tìm thấy ở vùng tây nam nước Mỹ, tại Mexico, Alaska và các đảo vùng Aleutian. Ở Tây bán cầu, sự ướp xác tự nhiên thường gặp hơn là các phương pháp nhân tạo, nhưng với một nhóm người có tên gọi Người làm giỏ thời tiền sử, họ chủ ý để cho xác chết khô đi trong hang động, sau đó tháo khớp hông, rồi bọc thi thể trong lông thú, và nhét những thi thể này vào những giỏ lớn. Các kỹ thuật ướp xác của người Peru cổ cho phép các “thây sống” của tù trưởng, trưởng tộc, và lãnh đạo người Inca được thờ phụng như các vị thần. Qua những xác ướp này ta có được bằng chứng sự hiện diện của bệnh lao, giun móc và nhiều bệnh khác của châu Mỹ trước thời Christopher Columbus.
Nơi nào có điều kiện thuận lợi cho sự lưu giữ các vật chất hữu cơ, ta có thể gặp được phân người hóa thạch tại những nơi mà người tiền sử sinh sống hoặc cắm trại hoặc gần đó. Thật vậy, đối với một nhà cổ sinh bệnh học đam mê, thì những gì tìm được trong hố phân, đống rác đều quý giá hơn những vàng bạc trong các lâu đài. Nhờ một số bộ phận của cây cỏ hoặc động vật không bị tiêu hóa, các thông tin về chế độ ăn, bệnh tật, các hoạt động theo mùa, và các kỹ thuật nấu nướng có thể suy ra khi phân tích các hạt phân, hòn than, hạt quả, tóc, những mảnh xương hoặc vỏ sò, lông chim, những phần thân thể của côn trùng, trứng hoặc nang của các ký sinh trùng nằm trong phân người hóa thạch. Hơn thế nữa, quan sát sự phân bố của phân hóa thạch bên trong và ngoài nơi cư ngụ của người tiền sử cũng phản ánh được tình trạng vệ sinh trong thời kỳ ấy. Kiểu thức thương tổn cũng có thể là mấu chốt để biết về môi trường và nghề nghiệp. Lấy ví dụ, gãy xương chân thường xảy ra trên các bộ xương gốc Anglo-Saxon hơn là các dạng gãy xương cẳng tay. Những tổn thương này tiêu biểu cho kiểu bị trượt trên nền đất gồ ghề, nhất là khi mang ủng cồng kềnh. Với Ai Cập cổ đại, gãy tay thường gặp hơn là gãy xương chân.
Xương là bộ phận chứng minh cho các hành động thô bạo, cắt xẻo, hoặc thói ăn thịt đồng loại. Bằng chứng liên quan đến thói ăn thịt người vẫn còn nhiều tranh cãi, nhưng hình thức hành lễ ăn tro, não, hoặc những phần tử thi của người thân mãi đến gần đây vẫn còn một số bộ lạc lưu giữ như là một dấu hiệu tôn kính người chết. Kuru là một bệnh thoái hóa não bộ xảy ra ở tộc người Fore tại Papua New Guinea. Bệnh này có liên quan đến thói ăn thịt người để hành lễ. Năm 1976, Daniel Carleton Gajdusek (1923-), là
một nhà virus học người Mỹ đoạt giải Nobel về sinh lý - y học nhờ công trình nghiên cứu bệnh kuru. Trong khi tiến hành một nghiên cứu thực địa dịch tễ học tại New Guinea, Gajdusek được giới thiệu một bệnh thần kinh lạ gặp ở phụ nữ và trẻ em bộ tộc Fore. Gajdusek kết luận rằng bệnh này là do thói ăn thịt người để hành lễ khi phụ nữ và trẻ em ăn bộ não của những người đã chết vì bệnh kuru. Sau khi nghi thức này bị bãi bỏ, thì bệnh kuru cũng mất dần. Sau khi chứng minh được rằng bệnh này có thể lan truyền sang khỉ chimpanzee, Gajdusek cho rằng kuru là do một loại “virus chậm” gây ra. Các nhà khoa học sau này chứng minh rằng kuru là do prion, những hạt nhỏ giống như protein gây bệnh liên quan đến bệnh Creutzfeldt-Jakob, hay còn gọi là bệnh bò điên và những bệnh não dạng xốp.
Bằng chứng các bệnh nhiễm trùng và ký sinh trùng cũng tìm gặp trên các mô của xác ướp. Trứng của nhiều loại ký sinh trùng được tìm thấy trên xác ướp, trong phân hóa thạch và trong các hố phân. Các ký sinh trùng này gây ra nhiều bệnh như bệnh sán máng và phù ở chân và cơ quan sinh dục gọi là bệnh phù chân voi hoặc cứng bì (pachyderma). Các mô tả về sự tàn tật liên quan đến bệnh phù chân voi đã tìm thấy trong các đồ tạo tác thời tiền sử. Bệnh sán máng được chú ý đến nhiều vì nước đọng, nhất là tại các cánh đồng có được tưới tiêu là nơi trú ngụ của loài ốc đóng vai trò ký chủ trung gian cho bệnh này. Sự xuất hiện bệnh sán máng trong một quần thể vì vậy, có thể phản ánh cách canh tác và trình độ vệ sinh thời cổ đại.
Các đồ tạo tác thời xa xưa là nguồn cung cấp các chẩn đoán giả (pseudodiagnose) duy nhất của con người, bởi vì có rất nhiều xu hướng khác nhau trong thế giới nghệ thuật. Khi không biết được những tập quán đặc thù cho từng hình thức nghệ thuật, ta không thể nói được là liệu một hình ảnh xa lạ và bất thường là một bệnh lý hoặc chỉ là sự bóp méo cố ý. Các mặt nạ và đồ gốm có thể mô tả những cái bất thường, đó là sự cường điệu nghệ thuật, hoặc là những yêu cầu phải có về cấu trúc của đồ tạo tác, như trong các bình đựng có đáy bằng hoặc có ba chân. Những trường hợp bất thường quá mức có thể chỉ là do lề thói hoặc biếm họa. Lấy ví dụ, những bức tượng cổ thời đồ đá cũ có tên là “vệ nữ thời đồ đá” hoặc “tượng nhỏ có hình người đàn bà béo” có thể chỉ là những biểu tượng khả năng sinh sản, hoặc chỉ là những ví dụ biểu thị riêng cho cái đẹp, thay vì là hình ảnh mô tả thực sự của sự béo phì.
NGƯỜI BĂNG GIÁ
Có lẽ đây là điều đáng chú ý nhất trong tất cả các thi thể được ướp tự nhiên được phát hiện vào năm 1991, cái xác này lộ ra khi một vỉa băng hà tại vùng núi Alpes khu vực Tyrol nằm giữa biên giới Ý và Áo tan chảy. Được cho là xác ướp cổ nhất trên thế giới, cái xác người thợ săn thời đồ đá mới này được gọi là Người Băng Giá. Định tuổi bằng carbon đồng vị cho biết cái xác này có niên đại khoảng 5100-5300 năm trước. Người Băng Giá cao 159cm, khoảng 45-50 tuổi, da có hình xăm, bị đau khớp và trong bụng có ký sinh trùng. Phân tích các phấn hoa dính trên xác cho thấy người này chết vào mùa xuân hoặc đầu mùa hạ. Công cụ và khí giới được tìm thấy cùng với Người Băng Giá gồm có một cái rìu, một dao găm, một ống tên làm bằng da thú, mũi tên và các đồ đánh lửa. Do chiếc rìu và dao găm được làm bằng đồng thay vì bằng đồng thau và tóc của anh ta có chứa nhiều chất đồng và arsenic, cho nên có thể anh ta vốn là thợ đúc đồng. Quần áo trên người là da của 8 loài thú khác nhau, trong đó có da dê và da hươu, chiếc mũ trùm dệt bằng cỏ, giày bằng da bê và chiếc mũ da lông gấu. Phân tích thành phần chứa trong ruột cho thấy bữa ăn cuối cùng có thịt (có lẽ là thịt dê và nai rừng), cùng với nhiều thứ hạt và thực vật khác.
Khảo sát ban đầu nghĩ rằng Người Băng Giá chết vì bị ngã hoặc do lạnh, nhưng quan sát kỹ cái xác mới phát hiện là có một đầu mũi tên bằng đá lửa cắm sâu vào bả vai. Sau khi làm vỡ xương vai, mũi tên chắc hẳn đã làm đứt thần kinh và các mạch máu lớn và làm tê liệt tay trái. Do trên tay của Người Băng Giá có nhiều vết thương tự vệ và trên các vũ khí có vết máu của nhiều người khác, các nhà nghiên cứu cho rằng anh ta chết vì phải chống trả khốc liệt với nhiều người.
Y HỌC VÀ PHẪU THUẬT THỜI CỔ ĐẠI
Chưa có đầy đủ chứng cứ để làm các nghiên cứu dịch tễ học về bệnh tật và tổn thương với con người và các động vật thời cổ đại, nhưng lại quá đủ để có được một ý niệm chung về mức độ phổ biến của chúng. Vì thế, ta muốn
xác định được từ khi nào mà các đáp ứng độc nhất chỉ con người mới có đối với những khổ ải do bệnh tật và tổn thương bắt đầu. Lấy ví dụ, hình chụp CT từ một cái sọ người Neanderthal từ 36.000 năm trước, trước đó bị một cú đập mạnh vào đầu với một hòn đá nhọn cho thấy có dấu hiệu lành bệnh quanh vết thương. Để sống sót được ít nhất nhiều tháng sau khi bị thương cần phải có sự chăm sóc và có lẽ được người chung quanh chữa trị vết thương. Những trường hợp như thế dẫn tới câu hỏi: vào giai đoạn nào
mà sự chăm sóc do con người thực hiện được coi như là một hình thức của y học hoặc phẫu thuật?
Các mấu chốt dẫn tới sự hiện diện của nền y học thời cổ đại phải được đánh giá thậm chí còn thận trọng hơn là bằng chứng của bệnh tật. Lấy ví dụ, các “vết hằn chìm” (negative imprints) có vẻ là dấu khắc những bàn tay bị cắt xẻo tìm thấy trên các bức vẽ trong hang động thời đồ đá cổ, có thể ghi lại sự cắt chi cố ý, mất ngón tay vì bị lạnh cóng, các ký hiệu ma thuật chưa rõ ý nghĩa, hoặc thậm chí một loại trò chơi nào đó. Con người thời cổ đại có thể đã học cách bó nẹp chân hoặc tay gãy để làm giảm đau khi phải cử động chi bị thương, nhưng không có mấy bằng chứng cho thấy họ đã học cách kéo nắn xương gãy. Hơn thế nữa, ta cũng có thể tìm thấy các vết xương gãy lành khá tốt trên loài khỉ nhân hình sống hoang dã. Như vậy, sự phát hiện ra xương đã lành, nẹp, và nạng chống cũng không nhất thiết chứng minh được sự hiện diện của những thầy nắn xương thời tiền sử.
Những mảnh xương và sọ thời cổ đại có thể tiết lộ cho chúng ta nhiều điều, nhưng các điều kiện lưu giữ không thuận lợi thường làm mờ đi bằng chứng và tạo ra những manh mối giả từ đó dẫn tới các chẩn đoán sai lệch. Ngoại trừ những cái chết dữ dội còn mang theo vũ khí bên mình, những mảnh xương thời xa xưa ít khi làm rõ được nguyên nhân tử vong. Lấy ví dụ, một cái lỗ trên sọ có thể là do một loại vũ khí, do một con thú lớn ăn thịt táp phải, hoặc bị một con bọ đục sau khi chết, hoặc một nghi thức lễ tang, hoặc thậm chí là do một thủ thuật khoan sọ. Từ cuộc thảo luận tại phiên họp năm 1867 của Hiệp hội Nhân chủng Paris về một cái sọ bị khoan tìm thấy ở Peru đã kích thích việc tìm kiếm thêm về các bằng chứng về ngành phẫu thuật thời tiền sử. Dần dà, người ta tìm thấy các sọ bị khoan tại các di chỉ thời Đồ đá mới ở Peru, châu Âu, Nga và Ấn Độ. Nguồn gốc và sự phát tán của phẫu thuật tiền sử này vẫn còn được tranh cãi, nhưng chắc chắn rằng nó đã xuất hiện tại cả châu Mỹ lẫn Cựu Thế Giới trước chuyến du hành của Columbus. Liệu phẫu thuật này hình thành tại một nền văn hóa và sau đó truyền sang các nơi khác hoặc phát triển độc lập tại các vùng khác nhau vẫn là đề tài còn tranh cãi sôi nổi. Ta không thể nói rõ là những phẫu thuật này có được thực hiện thường xuyên hay không, nhưng một số học giả tin rằng phẫu thuật này đã được tiến hành thường xuyên hơn trong thời đồ đá mới hơn là các thời kỳ tiền sử sau này.
Mặc dù kỹ thuật khoan sọ đôi khi bị gọi nhầm là “phẫu thuật não thời tiền sử”, kỹ thuật này gọi là thành công khi chỉ cần lấy một mảng xương từ hộp sọ mà không gây tổn thương cho chính não bộ. Khi các nhà khoa học lần đầu tiên gặp những loại sọ này, họ cho rằng phẫu thuật chắc phải được thực hiện sau khi chết để phục vụ cho các mục đích ma thuật. Tuy nhiên, các nhà nhân chủng học phát hiện rằng các thầy thuốc hiện thời của bộ lạc cũng thực hiện kỹ thuật khoan sọ cho cả hai lý do ma thuật và thực hành. Các nhà phẫu thuật thời tiền sử cũng có thể thực hiện phẫu thuật khó khăn và nguy hiểm này vì nhiều lý do khác nhau. Khoan sọ là để thử chữa nhức đầu, động kinh, hoặc các bệnh khác. Trong một số trường hợp, khoan sọ là một cách xử lý hợp lý đối với các tổn thương do chấn thương ở sọ. Có lẽ khoan sọ cũng được thực hiện như một biện pháp cực chẳng đã đối với các chứng bệnh bất trị, khá giống như phẫu thuật cắt thùy não, hoặc là một dạng điều trị bằng sốc điện hoặc để trừng phạt. Mặc dù thiếu kỹ thuật gây mê/gây tê hoặc vô trùng hiệu quả, nhưng với bằng chứng là có các trường hợp sọ khoan lành tốt, chứng tỏ là có nhiều bệnh nhân sống sót, và một số còn được khoan sọ bổ sung nữa.
Có ba hình thức khoan sọ được các phẫu thuật viên thời tiền sử sử dụng. Một kỹ thuật tạo ra một cái rãnh cong chung quanh một vùng chọn lọc bằng cách dùng một hòn đá nhọn hoặc một khí cụ kim loại để cạo đi lớp xương. Khi cái rãnh đủ sâu, lúc ấy có thể bóc đi một miếng xương có dạng hình đĩa. Khoan một loạt những lỗ nhỏ theo dạng hình tròn rồi sau đó dùng một miếng đá lửa nhọn hoặc miếng đá chai làm dao để cắt lấy ra một miếng xương hình nút áo là phương pháp thường được sử dụng nhất tại Peru. Người bệnh có thể mang chiếc đĩa này như chiếc bùa để xua đuổi những điều rủi ro sau này. Tại một số vùng, thầy thuốc thực hiện kiểu khoan sọ một phần hoặc có lẽ chỉ là hình thức. Tức là, người ta tạo ra một vùng lõm dạng hình đĩa nhưng vẫn để xương tại chỗ. Một số xương sọ còn mang các vết cắt mỏng hình tam giác tạo thành một hình chữ nhật, nhưng các vết cắt hình vuông hoặc chữ nhật này có lẽ được dành cho các nghi lễ sau khi chết.
Một phẫu thuật thời tiền sử khác để lại dấu trên xương sọ gọi là “sự cắt xẻo phần sọ trước”. Trong phẫu thuật này, dấu vết là phần sẹo để lại do sự đốt cháy. Các sọ thời đồ đá cũ cùng với loại thương tổn đặc thù này đã được tìm thấy ở châu Âu, Peru và Ấn Độ. Để chuẩn bị cho việc sử dụng tác nhân để đốt, người thầy thuốc rạch vết cắt hình chữ T hoặc chữ L trên da đầu.
Sau đó họ áp dầu sôi, hoặc dây bện bằng sợi thực vật nhúng vào dầu sôi và đặt lên trên vùng xương bị để lộ ra. Cả hai trường hợp đều gây nên một tổn thương vĩnh viễn trên lớp màng sợi dày bọc lấy xương sọ.
Phần lớn các nạn nhân thời tiền sử của thủ thuật này đều là phụ nữ, có nghĩa là quy trình này đóng vai trò nghi thức hoặc trừng phạt hơn là nhằm vào mục đích trị liệu. Trong suốt thời Trung cổ, thủ thuật này được đem ra để trừ tà hoặc làm giảm chứng sầu muộn. Thủ thuật này chắc chắn trừ được chứng thờ ơ của ngay cả những bệnh nhân bị sầu muộn nhất, hoặc sẽ cho người mắc chứng bệnh giả có một cơn đau thật để than phiền.
Khi xem xét các kiểu trang trí trong đó con người đóng vai trò vật liệu, thì khó mà giữ được tính khách quan. Những gì mà xã hội hiện đại coi như phẫu thuật thẩm mỹ - căng da mặt, nâng mũi, và hút mỡ - lại được coi như là sự cắt xẻo trong những xã hội mà cằm đôi, mũi sư tử, đùi xệ và ngực to lại được ưa chuộng. Trong lúc phần lớn phẫu thuật thẩm mỹ của thời tiền sử đã biến mất cùng với các phần mềm của cơ thể, thì một số phương cách trang trí lại tác động đến xương và răng. Một số phong tục như làm méo hoặc ép khuôn sọ của trẻ nhỏ, và cách tô điểm hoặc nhổ bớt răng. Những chiếc đầu có dạng bất thường cũng phản ánh các phương pháp truyền thống về sự chăm sóc hoặc vận chuyển trẻ em. Lấy ví dụ, sức ép của miếng ván lót khung nôi khi trẻ còn nhỏ có thể làm thay đổi chu vi của xương sọ. Có khá nhiều chứng cứ cho thấy rằng sự xăm mình và cắt da quy đầu không phải là hiếm gặp vào thời cổ đại. Chứng cứ trực tiếp chỉ có thể tìm thấy trên các xác ướp được cất giữ kỹ, nhưng các nghiên cứu về những tập tục tương tự trên các xã hội truyền thống hiện nay có thể giúp ta hiểu thêm về vô số tình huống của nền phẫu thuật thẩm mỹ thời tiền sử.
Từ thập niên 1990, các nhà cải cách sức khỏe phụ nữ đã cố gắng chấm dứt sự cắt xẻo cơ quan sinh dục của phụ nữ theo tục lệ vốn đang được thực hiện tại trên 25 quốc gia châu Phi và vùng Trung Đông. Nhìn chung, thì nghi thức gây đau đớn này được thực hiện với các dụng cụ thô sơ, không hề được gây mê/gây tê hoặc vô trùng. Mặc dù nghi thức này bị nhiều quốc gia châu Phi cấm đoán, nhưng chúng vẫn thường được thực hiện bí mật. Tổ chức Y tế thế giới ước tính có khoảng 130 triệu bé gái và phụ nữ bị cắt xẻo âm hạch (clítoris) dưới nhiều hình thức. Trong những trường hợp cắt xẻo sinh dục phụ nữ quá đáng vốn còn đang được thực hiện rộng rãi tại Somalia và Ethiopia, thì người ta cắt luôn môi lớn và may kín phần còn lại. Cắt xẻo cơ
quan sinh dục phụ nữ được coi như là cách thức để bảo đảm trinh tiết và thường được thực hiện trong nghi thức đánh dấu tuổi cập kê và bắt buộc phải có thì thiếu nữ mới lấy chồng được.
CÁC NGHI THỨC CHỮA BỆ NH, TRUYỀN THỐNG VÀ MA THUẬT
Các nhà cổ sinh bệnh học phải rút ra các suy luận về tính cổ xưa của các bệnh truyền nhiễm từ những manh mún số liệu mơ hồ; tuy nhiên, các kết luận của họ phải phù hợp với các kiến thức y sinh học hiện đại. Các bệnh
truyền nhiễm đã tác động đến sự tiến hóa và lịch sử con người bằng nhiều cách tinh vi và phức tạp. Các bệnh lưu hành và bệnh dịch có thể quyết định đến mật độ dân số, sự phân tán các nhóm người, sự phát tán các nhóm gene cũng như những thành công hay thất bại của các trận chiến, xâm lăng và chiếm đất làm thuộc địa. Vì thế, có một cách để thử các giả thuyết về bệnh tật thời cổ đại là nghiên cứu mô thức bệnh giữa các dân tộc hiện nay có nền văn hóa mang những đặc điểm tương tự như các đặc trưng của các xã hội thời tiền sử.
Ngay cả khi radio chạy bằng transitor, liên lạc qua vệ tinh, và truyền hình đã biến thế giới này thành một ngôi làng thế giới, thì ta vẫn còn có thể tìm thấy các nhóm người sống tương đối cô lập, duy trì một lối sống hầu như
không thay đổi mấy từ thời đồ đá cũ. Mãi đến gần đây, các nhà nhân chủng học và sử học thường gọi những người này là “người bán khai hiện đại”. Dĩ nhiên, về mặt tiến hóa sinh học, những người bán khai hiện đại cũng đã tiến triển xa rất nhiều so với con người thời đồ đá cũ như bất cứ giáo sư nhân chủng học nào, nhưng cách sống của họ có thể tương tự như những người hái lượm - săn bắt xa xưa - những người du cư lẽo đẽo theo những con thú được thuần hóa một phần, hoặc những người nông dân thời kỳ đầu. Do các dạng văn hóa là sản phẩm của lịch sử, chứ không phải của sinh học, cho nên thuật ngữ “xã hội truyền thống” ngày nay thường thay thế thuật ngữ “sơ khai” vốn mang ý nghĩa hơi miệt thị. Tuy nhiên, thuật ngữ mới hơn này lại có phần gây nhầm lẫn bởi có khá nhiều nghĩa liên quan đến từ “truyền thống”. Để phù hợp, chúng tôi sẽ dùng từ “xã hội truyền thống”, nếu cần phải rõ ràng, thì từ “xã hội bộ lạc” hoặc “tạm gọi là sơ khai” sẽ được dùng.
Một số tác nhân gây bệnh có tính chuyên biệt theo loài, nhưng những bệnh như dịch hạch, sốt rét, sốt vàng, và bệnh lao là những ngoại lệ đáng sợ đối với quy luật này. Các động vật thuần hóa hay hoang dã có thể đóng vai trò ổ chứa cho nhiều loại bệnh được lây truyền trực tiếp sang người hoặc qua các tác nhân côn trùng đóng vai trò trung gian. Sự tồn tại của các tác nhân
gây bệnh chuyên biệt cho từng loài vốn phụ thuộc vào độc lực của tác nhân này, kích thước và mật độ dân số của nhóm ký chủ, đáp ứng miễn dịch đạt được của ký chủ, và khả năng tìm ký chủ mới của tác nhân gây bệnh. Một số tác nhân gây bệnh chỉ có thể lây truyền trong giai đoạn cấp tính của bệnh, bởi vì các tác nhân này biến mất khi bệnh nhân hồi phục hoặc tử vong. Khi một sinh vật như thế du nhập vào một quần thể nhỏ, thì hầu như mọi cá thể đều nhiễm bệnh, rồi sau đó bình phục hoặc tử vong. Những bệnh dạng này không lưu lại lâu dài trong các nhóm nhỏ người thời đồ đá. Các dạng bệnh mới đã trở thành một phần cho cái giá phải trả khi số đông con người sống chen chúc, lâu dài trong các đô thị, như Thomas Jefferson đã từng cảnh báo “nơi chứa các thứ độc hại giống như bệnh dịch đối với đạo đức, sức khỏe và các thứ tự do của con người”. Các tác nhân gây bệnh tồn lưu lại trong vật chủ trong suốt thời kỳ bình phục, bám chặt trong các thương tổn mạn tính hoặc cũ, thường trú trong cơ thể người bình thường mang mầm bệnh lại có nhiều khả năng tìm được các nạn nhân mới ngay cả trong những nhóm người số lượng ít. Một số bệnh là do các sinh vật hội sinh gây ra - hội sinh là các sinh vật sống vô hại bên trong hoặc bên ngoài cơ thể của ký chủ cho tới khi có một số rối loạn kích hoạt khiến bệnh khởi phát. Tình trạng hội sinh cho thấy có một thời gian dài hai bên đều phải thích ứng với nhau, tức là, những bệnh này là những bệnh cổ xưa nhất. Nhiều dạng protein khác nhau, chẳng hạn như hemoglobin trong bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm, có thể phản ánh sự thích ứng tiến hóa của quần thể vật chủ đối với các tai họa cổ xưa như bệnh sốt rét.
Người ta thường cho rằng con người hiện đại và con người dạng sơ khai không giống nhau về mặt mẫn cảm và đề kháng đối với bệnh. Tuy nhiên, sự so sánh các tỷ số tử vong thô đối với “nhóm hiện đại” và “nhóm sơ khai” dễ dẫn đến nhầm lẫn. Tỷ số tử vong trong một trận dịch có thể phản ánh tình trạng chăm sóc dành cho người ốm hơn là một tính chất kỳ bí nào đó gọi là “sự đề kháng”. Trong một vụ dịch lớn xảy ra trên một cộng đồng nhỏ, cô lập, sẽ không có người trưởng thành nào còn đủ khỏe để chăm sóc cho người ốm và cho trẻ bú. Vì thế, những người đáng lẽ ra có thể sống sót qua vụ dịch lại chết vì thiếu thức ăn, nước uống và sự chăm sóc điều dưỡng
đơn giản.
Nói chung, đặc điểm chung của tất cả các hình thức y học cổ đại là hướng về siêu nhiên, là tin tưởng vào ma thuật. Trong phạm vi này, thì ma thuật không phải là một khái niệm thông thường; sự tin tưởng vào ma thuật đã gây ảnh hưởng và định dạng hành vi con người sâu rộng hơn là cách suy nghĩ khoa học hay duy lý, theo như cách mà chúng ta ưa chuộng để giải thích thế giới. Trong các xã hội mà các tín niệm về ma thuật và khoa học cùng hiện diện, thì khó mà đoán được cái nào sẽ mạnh hơn hoặc có nhiều ảnh hưởng hơn. Ngay cả đến hiện nay, một số người vẫn còn dao động giữa các hệ thống y học tùy nghi, tùy theo từng tình huống cụ thể, ví dụ có lẽ sẽ nhờ đến y học hiện đại khi bị gãy tay nhưng lại nhờ y học ma thuật khi bị “ma ám”.
Ma thuật đóng một vai trò quan trọng trong nhiều nền văn hóa, nó trả lời cho những câu hỏi mà kiến thức luận lý hoặc duy lý hiện thời không giải thích được. Ma thuật có thể liên quan rất mật thiết với tôn giáo đến nỗi khó mà xác định ranh giới giữa hai vấn đề này. Sự khác biệt hàng đầu giữa một lời cầu nguyện với một bài chú là giả định rằng các nghi thức ma thuật nếu cử hành đúng, phải mang lại kết quả mong đợi. Ngược lại, cầu nguyện, là một sự cầu xin được giúp đỡ từ một đấng siêu nhiên, và ngài có quyền ban cho hoặc từ chối lời khẩn cầu.
Trong nền y học sơ khai, siêu nhiên có mặt trong tất cả các khía cạnh bệnh tật và chữa bệnh. Do bệnh tật và tai họa đều được gán cho các tác nhân siêu nhiên, cho nên cần phải có ma thuật để phòng ngừa, chẩn đoán và điều trị bệnh tật. Mọi sự việc đều phải có nguyên nhân, hữu hình hoặc vô hình. Vì vậy, những bệnh nào không tìm được nguyên nhân trực tiếp thì phải coi như là do ma quỷ, thánh thần, phù thủy, yêu thuật, hoặc do nạn nhân mất một trong các hồn của mình. Khi có bệnh thì phải cầu tới những người có quyền lực khống chế các tác nhân siêu nhiên gây bệnh: shaman (người lên đồng), người làm thuốc, phụ nữ có kinh nghiệm, thầy bói, người bắt hồn, hoặc thầy pháp. Khi xem xét kỹ hơn vai trò và quyền lực được gán cho những nhân vật trên, ta thấy tuy có nhiều điểm khác biệt, nhưng để cho tiện, ở đây gọi chung là “người chữa bệnh”. Tuy nhiên, đa số các xã hội có sự phân biệt giữa người chữa bệnh và người sử dụng cây cỏ làm thuốc và shaman hoặc thầy cúng là người có thể tiếp cận với các thần liên quan đến
thời tiết, mùa màng, săn bắt, chiến trận, sự thụ thai, sinh đẻ, bệnh tật và tai họa.
Mặc dù thầy cúng hoặc người làm thuốc thực hiện các hành vi ma thuật, kể cả các mánh khóe cố ý, nhưng họ không phải là kẻ lừa đảo hoặc bị bệnh thần kinh. Thầy shaman cũng có khả năng trung thực như bất cứ thầy thuốc hoặc nhà tâm thần học hiện đại nào khác khi cử hành các nghi thức chữa bệnh. Khi bị bệnh, người làm thuốc (medicine man) sẽ nhờ một người làm thuốc khác điều trị mặc dù cũng đã hiểu rõ mọi mánh khóe của ngón nghề.
Đối với thầy shaman, nguyên nhân của bệnh có ý nghĩa nhiều hơn là triệu chứng bởi vì nguyên nhân sẽ xác định cách thức chữa trị, hoặc là bằng cây cỏ hoặc bằng phép trừ tà. Các phương tiện chẩn đoán có thể là cách lên đồng, nhìn vào quả cầu thủy tinh hoặc bói toán. Sau khi thực hiện các nghiệm pháp chẩn đoán ban đầu, thầy thuốc có thể làm một loạt các nghi thức như bùa, đọc thần chú, móc ra những đồ vật hữu hình hay vô hình, hoặc ra tay bắt rồi trả hồn đi lạc cho người bệnh. Để trục hoặc đánh lừa ma quỷ, thầy shaman có thể cải trang cho bệnh nhân hoặc cho người này tên mới, dâng tặng các vật thế thân hấp dẫn hoặc cho dùng những thứ thuốc kinh tởm để biến bệnh nhân thành một đối tượng không còn được ma quỷ ưa thích nữa.
Thầy shaman cũng có thể cho dùng những thứ thuốc mạnh và sau đó quan sát kỹ người bệnh, và dựa theo kiến thức về hành vi của động vật để đưa ra chẩn đoán, và cho bệnh nhân sử dụng thuốc có hiệu lực mạnh, nhưng đó chỉ là nghi thức nhằm buộc các lực lượng siêu nhiên phải cộng tác, đó là điều quan trọng hàng đầu đối với thầy thuốc, người bệnh và cộng đồng. Lấy ví dụ, một số thầy thuốc cổ truyền cho bệnh nhân đái ra ngoài đất gần một ổ kiến. Hành vi của kiến sẽ là một test chẩn đoán rẻ tiền cho biết bệnh đái tháo đường. Người ngoài cuộc có thể xem các nghi thức chữa bệnh trên khía cạnh các yếu tố ma thuật và thực hành, nhưng đối với thầy lang và bệnh nhân thì không có sự phân biệt giữa các yếu tố ma thuật và thực nghiệm. Trong một xã hội không có chữ viết cũng như các phương tiện để đo lường nồng độ thuốc, thì sự tuân thủ chặt chẽ nghi thức cũng là một cách tiêu chuẩn hóa trị liệu cũng như làm cho mọi người cảm thấy an tâm. Thầy shaman không thể phân lập và trần tục hóa các thuốc có hoạt tính về mặt dược lý học, vì lẽ nghi thức điều trị có tính chất tổng thể. Nhưng vấn
đề đánh giá các phương thuốc và thủ thuật lại khó khăn nhiều hơn là người ta vẫn nghĩ. Vì vậy, một thầy thuốc hiện đại cũng không có nhiều khả năng thực hiện một nghiên cứu thử thuốc mù đôi (double-blind) của những điều trị được chấp nhận hơn là người thầy thuốc cổ truyền.
Các thầy thuốc của y học hiện đại thấy rằng khó mà tin được vì sao tính vượt trội hiển nhiên của y học khoa học lại không làm biến mất đi được tất cả các hệ thống chữa trị khác. Tuy thế các hệ thống y học cổ truyền và thay thế vẫn tiếp tục phồn thịnh ở châu Mỹ, châu Âu, Trung Quốc, Ấn Độ và vùng Trung Đông. Ngược lại, y học cổ truyền lại chịu ảnh hưởng của lý thuyết và thực hành hiện đại. Thầy shaman của ngày nay có thể vừa cho thuốc penicillin và đọc thần chú nhằm đối phó với cả vi trùng lẫn ma quỷ.
Cuối cùng, sự thành công của bất cứ hành động chữa trị nào cũng đều nhờ sự kết hợp của các yếu tố tâm lý, thuốc và hóa sinh. Khi tỷ số tử vong của trẻ dưới một tuổi cao và tuổi thọ thấp, thì thầy lang khó gặp nhiều trường hợp bị bệnh về chuyển hóa ở thanh niên hoặc những bệnh thoái biến ở người già. Bản thân nhiều thầy thuốc nắm vững nghệ thuật chữa bệnh thừa nhận rằng nhiều bệnh không cần chữa cũng tự lành. Vì vậy, nếu một nghi thức chữa bệnh kéo dài đủ thời gian cần thiết, thì người ta cho rằng thầy lang đã chữa được những bệnh tự khỏi. Do giá trị của nhiều cách chữa trị còn mập mờ, cho nên sự khỏi bệnh theo những cách chữa này thường được công nhận là do sự chiến thắng của bệnh nhân đối với bệnh và thầy thuốc.
Vì có nhiều điểm chưa rõ trong việc đánh giá việc điều trị bệnh, cho nên các sử gia y học thường quay sang cách phân tích các phẫu thuật xem đó như là một cách đo lường khách quan hơn cho các can thiệp trị liệu. Nhưng ngay ở đây cũng có những khó khăn khác khi so sánh các thủ thuật được thực hiện trong các tình huống khác nhau rất nhiều, do nhiều hạng người hạng nghề, với các mục đích và mục tiêu khác nhau. Một khía cạnh ngạc nhiên của cái gọi là phẫu thuật sơ khai là trên thực tế có rất ít hoặc không hề có những cuộc phẫu thuật chỉ vì lý do y học thuần túy tại một bộ lạc nào đó, mặc dù thầy shaman có thể cầm dao mổ rất khéo và đầy nhiệt tình cho các mục đích nghi lễ, trang trí hoặc pháp lý. Lấy ví dụ, sự rạch da nghi thức có thể biểu thị cho giai cấp, cho tuổi trưởng thành, hoặc là “dấu làm thuốc”, dấu này được coi là đem lại tính miễn nhiễm với bệnh, độc dược, rắn cắn và các nguy hiểm khác. Sự bảo vệ này có hữu hiệu hay không là
điều còn bàn cãi, nhưng đã có nhiều báo cáo là các thầy lang châu Phi đã tẩm vào các “vết cắt làm thuốc” một dung dịch gồm đầu rắn với trứng kiến. Khi các nhà khoa học thế kỷ 20 phát hiện cách giải độc các độc tố bằng formalin là chất hiện diện trong trứng kiến, thì nghi thức của châu Phi đột nhiên dường như ít kỳ quặc hơn.
Mặc dù việc cắt chi vì các mục đích nghi thức hoặc trừng phạt không phải là ít gặp trong các xã hội cổ xưa và còn ở trạng thái bộ lạc, việc đoạn chi vì chỉ định y học hiếm khi được quan tâm. Tuy vậy, một số nhà phẫu thuật bản xứ châu Mỹ cắt đi các ngón tay bị cóng, và tại châu Phi, người Masai được ghi nhận là cắt thành công những chi bị gãy. Một số dân tộc thời tiền sử thực hiện việc đoạn chi như một hình thức trừng phạt hoặc đó chỉ là một phần của nghi thức chịu tang. Cắt xẻo cơ quan sinh dục thường là một phần của nghi thức đánh dấu dậy thì. Cắt bao da quy đầu và âm vật là các thủ thuật thường gặp nhất, nhưng một số bộ lạc còn thực hiện những thủ thuật cắt xẻo kỳ dị hơn nhiều.
Các thầy thuốc cổ truyền đã phát triển nhiều phương pháp khéo léo để đóng vết thương. Dĩ nhiên, việc khâu lại, một kỹ năng có từ xa xưa, nhưng với cái thời chưa có các kỹ thuật sát trùng, việc đưa cây kim hoặc sợi chỉ vào vết thương chắc hẳn sẽ dẫn tới nhiễm trùng nặng nề. Thành công đạt nhiều hơn khi dùng phương pháp dùng xiên và chỉ, vốn trước đây thường được sử dụng để khâu con gà tây nhồi hương liệu, để khâu vết thương. Một kỹ thuật đáng chú ý do các phẫu thuật gia tại châu Phi, Ấn Độ và Mỹ nghĩ ra phụ thuộc vào việc sử dụng một loài kiến nào đó. Người ta đem áp con kiến thích hợp vào vết thương và chọc cho chúng cắn. Khi gỡ phần thân con kiến ra, thì phần hàm của chúng còn dính lại sẽ đóng vai trò những chiếc kẹp.
Để ngăn chảy máu, các phẫu thuật viên truyền thống sử dụng dây thắt hoặc đốt hoặc chỉ chèn vết thương bằng các chất hút nước và sau đó quấn lại bằng băng gạc. Tuy nhiên các thầy thuốc người Masai dùng sợi chỉ lấy từ gân để may các mạch máu bị đứt. Vật liệu băng bó vết thương thường có chứa nhiều chất độc hại, chẳng hạn như phân bò và bột xác côn trùng cũng như các thành phần đóng vai trò chất hút nước và khử trùng. Gạc băng bó vết thương cổ truyền có thể chứa những chất có giá trị về mặt dược lý chẳng hạn như ergot, vốn có trong nấm của cựa loã mạch, nhưng nhiều khi
chủ yếu chỉ là những chất có giá trị tượng trưng. Xác suất của việc tìm thấy penicillin hoặc những kháng sinh mạnh trong đất lấy từ một ngôi mộ mới chôn trên thực tế càng ngày càng ít dần.
Các thầy thuốc ngoại khoa cổ truyền thường rất khéo léo trong việc điều trị gãy xương và trật khớp, mặc dù cách điều trị này có thể được coi là chưa đầy đủ nếu không có câu thần chú thích hợp được đọc trên chiếc nẹp hoặc bó một cái đầu thằn lằn vào vết thương. Thầy shaman cũng có thể khuyến khích bệnh nhân bằng những hành động tượng trưng chẳng hạn như bẻ chân gà và sau đó bó thuốc cho con gia cầm kém may mắn này.
Một trong những nhiệm vụ chính của thầy thuốc ngoại khoa phương Tây, còn gọi là phẫu thuật thợ cạo, mãi đến gần đây vẫn là cách trích huyết để điều trị và dự phòng. Chọn ra được một tĩnh mạch đúng để trích máu là một khía cạnh quan trọng trong điều trị. Thay vì mở một tĩnh mạch, các thầy lang cổ truyền thường trích máu bằng cách rạch da hoặc giác hơi. Khác với các đồng nghiệp phương Tây, các thầy lang cổ truyền thường cho rằng rất nguy hiểm khi lấy một lượng lớn máu ra khỏi cơ thể.
Mặc dù có một số ngoại lệ đặc biệt, phạm vi và chất lượng của phẫu thuật cổ truyền thường bị bó hẹp. Một phần của vấn đề chắc hẳn là do thiếu kiến thức có tính hệ thống về giải phẫu học, vô trùng, gây tê và do quy mô của bộ lạc nhỏ nên không cung cấp đủ “chất liệu lâm sàng” để cho thầy lang phát triển được kỹ năng mổ xẻ qua việc tập dượt nhiều lần. Tuy nhiên, thường là chính ý tưởng chứ không phải vật liệu mới làm hạn chế các kỹ năng này. Ảnh hưởng của cách nhìn sự vật theo quan điểm siêu nhiên đã khiến cho người ta sợ việc cắt xẻo cơ thể hơn là các liệu pháp được coi như thích hợp. Ngoài ra, vì cắt xẻo cơ thể được áp dụng để trừng phạt cho những tội lỗi xấu xa lại càng làm cho phẫu thuật mang tính xấu.
Mặc dù cúng bái và bùa chú có thể là những khía cạnh nổi trội nhất trong nền y học cổ xưa, người làm thuốc cũng có thể dùng những thứ thuốc hiệu nghiệm và có tác dụng về mặt dược lý học. Các nhà hóa học nghiên cứu sản phẩm tự nhiên chỉ mới bắt đầu khai thác kho tàng thảo dược của các dân tộc tạm gọi là sơ khai. Cây cỏ và động vật cung cấp cho thầy lang cổ truyền những nguồn thuốc hạ nhiệt, gây mê/gây tê, thuốc gây ói, thuốc xổ, lợi tiểu, gây ngủ, thuốc gây ảo giác, thuốc tẩy ruột, hạ nhiệt và có lẽ cả
thuốc uống ngừa thai nữa. Từ dược điển cổ xưa này, nền y học hiện đại đã chọn được salicylic acid, quinine, ipecac, cocaine, ephedrine, colchicine, digitalis, ergot, và nhiều thứ thuốc khác nữa.
Có thể trên một nửa các đơn thuốc của thầy thuốc hiện đại đều liên quan đến những thứ trích xuất từ cây cỏ hoặc các chất tương đương được tổng hợp. Thiên nhiên đã cung ứng một kho tàng đồ sộ các sản phẩm tự nhiên cho nên quả là khó để bắt đầu từ đâu khi tìm tòi các chất làm thuốc. Mặc dù nhiều bài thuốc dân gian có tác dụng không hơn placebo (giả dược) là mấy, chỉ cần 10-25% những thứ thuốc trong dược điển thời sơ khai mà có
hoạt tính dược lý học, thì tiềm năng tìm ra các thuốc mới quả là cực kỳ lớn. Yếu tố làm giới hạn việc đánh giá những bài thuốc như thế có thể là sự biến mất các xã hội truyền thống cùng với nhiều truyền thống truyền miệng tuy dồi dào nhưng lại dễ mất cũng như kiến thức thực tiễn của họ về môi trường đang bị lâm nguy của họ. Tại châu Phi, người ta nói rằng cứ mỗi khi một người già chết là mất đi một thư viện. Điều này cũng đúng trong trường hợp một hiệu thuốc tiềm năng biến mất mỗi khi một mảnh nhỏ môi trường tự nhiên bị hủy hoại.
Y học thời sơ khai thường bị gạt bỏ như một dạng mê tín, nhưng cũng có nhiều điểm chung giữa cách thực hành y học của các nền văn minh cổ đại và niềm tin dân dã vốn ngày nay vẫn còn tồn tại và thậm chí phát triển song song với y học hiện đại. Các tài liệu về nền y học của các xã hội sơ khai hoặc truyền thống thường quá nhấn mạnh đến các khía cạnh ma thuật và kỳ cục, tạo nên ấn tượng là có một sự ngăn cách không thể nào kết nối giữa những hệ thống y học đó với các hệ thống của các xã hội hiện đại. Tuy nhiên, những phong tục dường như kỳ dị của các nền văn hóa khác đôi khi lại có điểm giống với những cách chữa trị dân gian kỳ quặc và đầy hấp dẫn của chúng ta.
Khi phân tích y học dân gian và truyền thống, nói chung thì sự hỗn độn bề ngoài của các tình tiết cụ thể có thể giản lược lại thành một vài chủ đề khá phổ quát. Thật vậy, khi khảo sát lịch sử y học, ta thấy rằng các chủ đề giống nhau thường xuất hiện trở lại dưới những hình thức chỉ khác nhau chút ít. Y học dân dã, giống như y học sơ khai, thường coi bệnh tật như là kẻ xâm nhập hiểm ác, còn cơ thể là bãi chiến trường. Vốn từ vựng của chúng ta đối với bệnh tật vẫn còn phản ánh cái ý này: chúng ta bị bệnh tật
“tấn công”, và chúng ta “đánh trả” sự nhiễm trùng cho đến khi bệnh bị “đánh đuổi” ra khỏi cơ thể. Vì vậy, không phải là không có lý với ý muốn chữa lành người bệnh bằng cách dụ kẻ xâm nhập rời bỏ cơ thể và chuyển nó sang một nơi thu nhận thích hợp. Ví dụ như cha mẹ đứa trẻ bị ho gà, trong tuyệt vọng có thể bắt con chó ăn bánh sandwich có chứa tóc của đứa bé này. Nếu con chó ho, thì đứa trẻ có khả năng khỏi bệnh. Một phương cách tương tự, bằng cách buộc bệnh nhân uống những thứ thuốc pha chế kinh tởm, mùi vị khó uống, gây ói để trục tác nhân xâm nhập ra khỏi cơ thể. Có thể đoán rằng khi tẩm đầy người bệnh với các loại thuốc có chứa phân, các côn trùng độc hại, mỡ thiu, cây cỏ có mùi thối, và nhiều thứ tương tự nhằm biến cơ thể của họ thành nơi không còn hấp dẫn cho tác nhân gây bệnh khó chiều.
Học thuyết tín hiệu (doctrine of signatures) là một nguyên tắc chỉ đạo khác trong y học dân dã. Theo quan niệm này, thì Thượng đế đã tạo ra thế giới này cả có bệnh và lẫn thuốc chữa bệnh và Người đã dạy rằng không có thứ gì hiện hữu mà không có mục đích. Vì thế, ta có thể thấy rằng Thượng đế đã đánh dấu các thứ có khả năng chữa bệnh với một dấu hiệu nào đó ám chỉ tính chất làm thuốc của chúng. Lấy ví dụ, cây thuốc chữa bệnh vàng da có thể có hoa màu vàng và thuốc chữa bệnh tim có thể tìm trên những cây có lá hình trái tim.
Nhiều bài thuốc dân gian cần các bộ phận và sản phẩm của động vật. Việc chọn ra một phương thuốc thích hợp có thể theo nguyên tắc các chất đối kháng hoặc nguyên tắc các chất đồng dạng. Lấy ví dụ, nếu bộ não của thỏ bị nướng không chữa được bệnh nhút nhát quá mức, thì sự can đảm có thể được tìm thấy trong máu của một con thú hung dữ. Các động vật hèn mọn như chuột nhắt và chuột chũi được đưa vào các bài thuốc chữa mụn cóc, ho, sốt, co giật, và đái dầm, nhưng không có sinh vật nào đã phục vụ nghệ thuật chữa bệnh cần mẫn như con đỉa. Theo sự tin tưởng dân gian, thì công cụ y tế thiên nhiên này có thể hút bỏ một cách chọn lọc “máu xấu” từ các khớp bị viêm và làm cho mắt bầm bớt sưng. Côn trùng và các sản phẩm của chúng vẫn là thành phần quan trọng trong các bài thuốc dân gian. Người chế nhạo việc dùng mạng nhện để đắp vào chỗ chảy máu cũng có thể ca ngợi các tính chất của mật ong dùng để điều trị vết ong đốt, cảm lạnh, thấp khớp và bệnh lao.
Ngoài cây cỏ, các bộ phận và sản phẩm của động vật, khoáng chất, các bài thuốc dân gian còn có những thứ như ngải, thần chú, cầu nguyện, di hài, bùa, và ảnh của các thần thánh. Các thứ nhẫn có chứa thủy ngân bên trong có lẽ cũng hữu hiệu chữa chứng nhức đầu cũng như vòng đeo tay bằng đồng chữa chứng viêm khớp. Một bài thuốc dân gian của người Mỹ là lấy dây thừng của những con tàu cũ đem nhúng vào nước lạnh, rồi lấy nước vắt ra từ dây thừng đó làm trà. Món thuốc này được Giám mục George Berkeley (1685-1753) phổ biến ở châu Âu. Ông này ca ngợi rằng đây là một món thuốc bách bệnh rẻ tiền cho người nghèo khổ nhất và an toàn cho nhũ nhi. Ngài giám mục tốt bụng cho biết là các thầy thuốc và dược sĩ chống đối dữ dội những phương thuốc dân gian rẻ tiền này chứng tỏ các bác sĩ chỉ sợ người ta khỏe mạnh mà thôi.
Mặt khác, chúng ta nên nhớ là thành phần của nhiều bài thuốc dân gian rất kỳ cục, làm lợm giọng, hoặc độc hại cho nên các đơn thuốc trên có nhiều khả năng dọa cho bệnh nhân hết bệnh thay vì chữa trị cho họ. Khi phải đối mặt phải chọn lựa giữa việc uống thứ nước có chứa mấy “con sâu đen nấu với hành”, hoặc thú nhận là vẫn khỏe mạnh, thì nhiều người chưa ốm hẳn và người giả vờ bệnh sẽ chọn cách thứ hai. Trong các xã hội hiện đại, bùa chú và nghi thức vốn có thời đóng vai trò thuốc chữa bệnh nay hầu như không còn nữa. Nhưng vết tích của những hành động này vẫn còn lưu lại trong các câu chuyện phù thủy được kể bởi những người hoàn toàn văn minh khi tin rằng những chuyện trên cũng giống như lo xui xẻo khi làm vỡ chiếc gương vào thứ Sáu ngày 13.
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
2
Y học thời các nền văn minh cổ đại: vùng Lưỡng Hà và Ai Cập
DẪN NHẬP
Người Hy Lạp cho rằng dễ dàng định nghĩa từ “văn minh”: từ này để chỉ các tính chất của các công dân - những người tự do sống trong các đô thị. Ngày nay, quan niệm này lại phức tạp, tinh tế và gây nhiều tranh cãi. Thuật ngữ “văn minh” được dùng để bao hàm mọi sinh hoạt cuộc sống và các hành vi thực hiện thường ngày của con người. Vì thế, nền văn minh là một hình thái đặc thù của văn hóa, với đặc điểm là tính phức tạp ngày càng gia tăng trong tổ chức xã hội, kinh tế và chính trị, một cuộc sống định cư, một nguồn cung cấp thực phẩm vượt quá mức tự cung tự cấp, sự phân chia ra các ngành nghề, chữ viết và tính toán, những cải tiến trong nghệ thuật cũng như trong khoa học - tất cả đều có sự tham gia của một số lượng lớn các thành viên trong cộng đồng qua một thời gian khá dài. Những nền văn minh đầu tiên trên thế giới đã phát triển trong khoảng thời gian từ năm 3500 đến 1500 trước Công nguyên tại một số ít vùng nhất định trên thế giới. Các sử gia còn tiếp tục đặt ra những câu hỏi về bản chất các yếu tố tạo nên sự hình thành và các yếu tố nuôi dưỡng trưởng thành các nền văn minh. Dường như khó có câu trả lời đơn giản, xác định, nhưng người ta cũng đã nêu ra một loạt các nguyên nhân liên quan đến sự cân bằng tinh tế giữa ưu thế và thách thức của các yếu tố địa lý, khí hậu và kinh tế. Trong một chừng mực, đáng chú ý là 4 nền văn minh sớm nhất đã xuất hiện dọc theo vùng châu thổ các dòng sông: sông Nile của Ai Cập, các sông Tigris-Euphrates tại Trung Đông, sông Indus tại Ấn Độ, và Hoàng Hà tại Trung Quốc. Do bằng chứng về các thời kỳ sơ khai này còn mù mờ và manh mún, cho nên câu hỏi nền văn minh nào xuất hiện đầu tiên vẫn là một chủ đề tranh cãi bất tận. Vì vậy, chúng ta sẽ bỏ qua những tranh luận này và sẽ lướt qua một số trung tâm văn minh chính để xem những nơi này cho ta biết điều gì về y tế, bệnh tật và y học thời cổ đại.
VÙNG LƯỠNG HÀ
Lưỡng Hà, vùng đất nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates, là đấu
trường của sự phát triển và suy tàn của nhiều nền văn minh được biết đến như Sumer, Chalden, Assyria và Babylon. Mặc dù nền văn minh Ai Cập được biết đến nhiều hơn, nhưng chúng ta sẽ bắt đầu khảo sát những nền văn minh cổ đại với nền văn minh Sumer để nhấn mạnh rằng những vùng đất khác ít quen thuộc hơn cũng đã trở thành đô thị và có chữ viết từ thời rất xa xưa.
Nền văn minh Sumer đã phồn thịnh từ 4.000 đến 5.000 năm trước, nhưng đến khoảng thế kỷ thứ nhất thì ngôn ngữ của nó không còn nữa và chữ viết dưới dạng hình nêm viết trên các phiến đất sét không còn ai đọc được. Các học giả cho rằng những ký hiệu hình nêm đã phát triển từ những hình ảnh được sử dụng trong hệ thống tính toán thời cổ đại thành các dấu hiệu trừu tượng tượng trưng cho âm thanh của lời nói. Phần lớn các phiến đất sét Sumer liên quan đến các giao dịch hành chính và kinh tế thế tục, nhưng hàng ngàn bản khác ghi lại các huyền thoại, truyện ngụ ngôn, và các ý tưởng về khoa học, toán học và y học. Các học giả thậm chí đã phát hiện các thẻ khắc chữ hình nêm trên còn chứa các công thức ghi các chỉ dẫn phức tạp về cách ăn uống, và vai trò của việc thờ cúng và hội hè của thế giới cổ đại. Những vết tích khác về mức độ và tính phức tạp của nền văn minh Lưỡng Hà mới được phát hiện gần đây qua các vệ tinh quan sát. Những bức ảnh này cho thấy dấu vết của các khu định cư và hệ thống đường sá trước đây chưa hề được biết tới đã bị chôn vùi dưới lớp cát vùng Trung Đông. Một số trong những con đường này có lẽ đã được xây dựng từ 4.000 đến 5.000 năm trước để nối các thành thị vùng Lưỡng Hà tới các khu định cư lân cận và các trang trại xa xôi.
Tại vùng Sumer, sự thành thạo các kỹ thuật nông nghiệp đã dẫn tới những thay đổi rõ rệt về mật độ dân số và sự hình thành bộ máy hành chính cần có cho công tác làm kế hoạch, dự trữ và tái phân phối sản phẩm thu hoạch. Đại đa số quần chúng sống như nông dân, nhưng sản phẩm của họ cung ứng cho một thiểu số ưu tú sống tại thành thị đó là thầy tu, chiến binh và quý tộc. Do luật pháp và y học được gán cho nguồn gốc thiêng liêng, cho nên các giáo sĩ cũng đảm nhận vai trò phán quan, thầy kiện và thầy thuốc.
Các văn bản chữ hình nêm nói về y học có thể được chia ra thành ba loại: điều trị hoặc “văn bản y học”, các văn bản tập hợp về điềm báo hoặc “văn bản về triệu chứng” và nhiều văn bản linh tinh khác ngẫu nhiên cũng cung
cấp các thông tin về bệnh tật và thực hành y học. Sau khi nghiên cứu nhiều văn bản, các học giả phân chia các truyền thống y học Sumer ra làm hai loại, đó là các trường phái “khoa học” và “thực hành”. Theo cách phân chia này, thì các “thầy thuốc khoa học” là tác giả và người sử dụng các văn bản triệu chứng. Ngược lại, các thành viên của trường phái thực hành chú tâm vào các kỹ năng thực hành y khoa theo kinh nghiệm và thuộc nhóm các tác giả và người sử dụng các văn bản y học.
Các văn bản y học của trường phái thực hành tuân theo cách bố trí chính thức điển hình cho văn cách thư lại của vùng Lưỡng Hà. Mỗi đoạn văn có chứa một loạt các đơn vị hoặc ca bệnh được ghi theo một khuôn mẫu chung giống nhau: “Nếu một người bị ốm (và có những triệu chứng sau)...” hoặc “nếu một người bị đau (như thế này) ở chỗ này...”. Bản mô tả trình bày danh mục các triệu chứng kèm theo là chỉ dẫn sử dụng các loại thuốc cần thiết, cách bào chế, thời điểm và đường nạp thuốc. Thầy thuốc “khám phá” các triệu chứng quan trọng bằng cách lắng nghe lời kể của bệnh nhân về bệnh tật của mình chứ không phải khám lâm sàng trực tiếp trên cơ thể người bệnh. Mặc dù phần lớn các bài thuốc đều đưa đến hứa hẹn là bệnh nhân sẽ khỏi bệnh, nhưng một số triệu chứng cũng báo trước một kết cục nguy hiểm tính mạng.
Ngược lại, “pháp sư”, “thầy bói” hoặc “tu sĩ - thầy thuốc” nhìn vào các triệu chứng và tình trạng của người bệnh như là những điềm báo sự rối loạn và dự báo kết cục của chứng bệnh. Khác với đồng nghiệp thuộc phái “thực hành”, thầy bói thực hiện khám lâm sàng trực tiếp để phát hiện ra các triệu chứng và điềm báo. Rõ ràng là có sự ra tay của quỷ thần nếu thấy con rắn chui vào giường người bệnh, bởi vì điềm báo này cho biết tiên lượng của bệnh là tốt. Nhưng nếu nước tiểu có màu đỏ như màu rượu chát, đó là điềm bệnh đang tiến triển, bệnh sẽ trở nặng và gây đau đớn. Nếu tu sĩ không moi đủ thông tin khi quan sát trực tiếp người bệnh, ông ta có thể tìm các dấu hiện trên bộ đồ lòng của các con vật hiến tế. Những điềm báo trên lá gan của con vật sẽ áp dụng cho người bệnh khi thầy thuốc không thể thấy được lá gan của bệnh nhân.
Mặc dù có nhiều điểm không chắc chắn khi giải thích các văn bản cổ, nhưng đôi khi ta cũng có thể thử chẩn đoán được một số các rối loạn được thảo luận và ghi lại trên các thẻ chữ hình nêm. Các thầy thuốc vùng Lưỡng
Hà có lẽ đã quen thuộc với nhiều loại bệnh, trong đó có bệnh sán máng, kiết lỵ, viêm phổi và động kinh. Suy dinh dưỡng rõ ràng là có liên quan với các đợt đói kém theo chu kỳ vốn đã được đề cập trong nhiều văn bản khác, nhưng ngay cả khi nguồn thực phẩm được cung cấp đầy đủ, thì chế độ ăn hàng ngày cũng có phần đơn điệu và không cân bằng. Các mô tả về bệnh của mắt, liệt chi, bụng trướng, và những bệnh gây “bốc mùi” đều phù hợp với các loại bệnh do thiếu vitamin. Sự kết hợp giữa thực phẩm kém chất lượng và tình trạng bị nhiễm ký sinh trùng mạn tính đã làm cho tình trạng suy dinh dưỡng nghiêm trọng hơn và làm cho trẻ chậm lớn.
Do bệnh tật được coi như là một sự trừng phạt của thần thánh khi người bệnh phạm lỗi, cho nên việc chữa lành đòi hỏi phải có sự tẩy rửa tinh thần và thể xác khi kết hợp giữa sự sám hối và trừ tà bằng các thứ thuốc xổ. Các đơn thuốc của nền văn minh Sumer sử dụng 250 loại thuốc thực vật và 120 khoáng chất, cũng như các đồ uống có cồn, chất béo và dầu, các bộ phận và sản phẩm của động vật, mật, chất sáp, và nhiều loại sữa được coi là có tính chữa bệnh. Các văn bản y học, cũng giống như đa số các thẻ viết của nền văn minh Lưỡng Hà đều không có tác giả. Nhưng một số thẻ y học lại cung cấp những lời khen ngợi hay xác nhận cá nhân nồng nhiệt cho một phương thuốc nào đó. Các đơn thuốc điều trị đều cho biết là đã được trải nghiệm hoặc phát hiện do những người không thể nghi ngờ như các bậc trí giả và chuyên gia. Một số bài thuốc được ca ngợi vì đã được truyền qua nhiều đời hoặc độc đáo. Một điểm đáng chú ý là có một thẻ chữ hình nêm nhỏ chứa khoảng 10 bài thuốc do một thầy thuốc Sumer ghi lại khoảng 4.000 năm trước đây. Dường như đây là thẻ sưu tập các đơn thuốc cổ xưa nhất bằng chữ viết.
Chỉ mới đến gần đây mới có sự chia tách các khía cạnh ma thuật và thực nghiệm của y học. Vì vậy, không có gì là ngạc nhiên khi các bệnh nhân vùng Lưỡng Hà cho rằng phải thận trọng khi tấn công bệnh tật bằng ma thuật lẫn y học. Người chữa bệnh vừa là giáo sĩ vừa là thầy thuốc sẽ làm
tăng hiệu lực của thuốc khi đọc những câu thần chú phù hợp. Mặc dù người chữa bệnh cần phải biết một số kiến thức về giải phẫu học cũng như tri thức về thuốc, nhưng kiến thức chính xác về các nghi thức ma thuật lại càng quan trọng hơn bởi vì những sai sót trong lĩnh vực này có thể làm các thần thánh trở nên lạnh nhạt.
Một loạt các thần thánh và ma quỷ được cho là nguyên nhân gây bệnh tật và rủi ro; mỗi con ma gây nên một rối loạn cụ thể. Cũng giống như trong y học dân gian và y học thời sơ khai, các thầy thuốc vùng Lưỡng Hà cũng thử đánh đuổi các con ma gây bệnh bằng cách cho bệnh nhân thử nhiều phương thuốc độc hại. Bằng cách đốt lông chim để xông, và tống vào cơ thể bệnh nhân phân chó và mật heo để cho cơ thể bệnh nhân không còn là nơi trú ngụ cho yêu ma nữa. Thầy phù thủy cũng còn tìm cách chuyển ma quỷ sang một vật tế khác ví dụ như một con vật hoặc một hình nhân. Thỉnh thoảng thầy thuốc còn mời các ma quỷ gây bệnh tham gia một cuộc đối thoại trực tiếp, như trong câu chuyện đối đáp giữa một giáo sĩ và “con sâu răng” được ghi lại khoảng năm 2250 trước CN. Dù rằng bài thần chú mang tên “Con sâu và chứng nhức răng” không hề giống như một thiên anh hùng ca, nhưng cuộc đối thoại này chứa rất nhiều thông tin về các khái niệm vũ trụ quan và các thần thoại sáng thế.
Các văn bản về dược liệu vùng Lưỡng Hà cho thấy ở đây người ta đã thành thạo các kỹ thuật hóa học tỉ mỉ để tinh chế các cây, con và các khoáng chất để làm thuốc. Cây cỏ rất quan trọng trong y học cổ đại đến nỗi các thuật ngữ như “thuốc” và “cây thảo dược” gần như tương đương. Thuốc làm từ hạt, vỏ cây và các phần khác của cây cỏ được hòa vào trong sữa hoặc bia, hoặc trộn với rượu, mật ong rồi cho bệnh nhân uống, hoặc trộn với mỡ để dùng ngoài. Ngẫm ra thì cũng có lý khi cho rằng rượu cũng tác dụng khử trùng khi thấm rượu vang vào băng gạc để đắp lên vết thương. Dù có màu đỏ hay trắng thì rượu vang vẫn có tác dụng sát trùng tốt hơn cồn 10 độ, nhưng rượu vang đỏ dường như là thức uống được chọn để chống lại nhiễm trùng.
Theo một thần thoại vùng Lưỡng Hà là Anh hùng ca Gilgamesh, thì con người đã đánh mất một thứ thảo dược cứu mạng rất mạnh vào thời khai thiên lập địa bởi vì sự bất cẩn của Gilgamesh, là một ông vua anh hùng rất thế lực với hai phần ba là thần và một phần ba là người (không rõ tỷ số này được tạo ra theo cơ chế di truyền nào). Người hùng của thiên anh hùng ca cổ đại rõ ràng là được xây dựng trên những chiến công của một vị vua thực sự đã từng cai trị Gilgamesh khoảng năm 2700 trước CN. Chừng 600 năm sau khi vị vua này mất, các huyền thoại về Gilgamesh được thu thập lại dưới hình thức một trường ca sử thi. Vì thế, anh hùng ca Gilgamesh cho ta biết về cuộc sống và những tín niệm của người dân đã từng sống trên vùng giữa hai con sông Tigris và Euphrates vào khoảng thiên niên kỷ thứ hai và
thứ ba trước CN.
Mặc dù có các tính chất của thần thánh, nhưng Gilgamesh biết rằng mình cũng giống như mọi con người, đều không qua khỏi ải bệnh, tử. Khi bạn mình là Enkidu bị trọng bệnh, Gilgamesh thề rằng sẽ không bao giờ từ bỏ hy vọng cứu bạn cho đến khi “có con sâu bò ra khỏi mũi” (một điềm quan trọng cho biết cái chết sắp đến). Sau nhiều lần thử thách và khổ ải, và trải qua một chuyến đi đầy khiếp hãi vào địa ngục, Gilgamesh học được bí quyết của cây thuốc cứu mạng (herb of life) và phải lặn xuống tận đáy sâu nơi cây thuốc thần kỳ mọc. Trước khi lấy được cây thuốc chữa bệnh về Uruk, người anh hùng dừng lại để nghỉ lấy sức. Trong khi Gilgamesh ngủ, thì có một con rắn kỳ bí trườn ra khỏi chỗ trú và ăn mất cây thuốc cứu mạng. Nhờ vậy, con rắn lột da và hoàn đồng ngay lập tức trong khi Gilgamesh mãi than khóc cho chính mình và cho nỗi khổ của nhân loại. Theo thiên anh hùng ca, khi quay trở về sau chuyến hành trình, Gilgamesh khắc lại nội dung toàn bộ câu chuyện phiêu lưu và những kỳ quan của thành phố Uruk lên trên các thẻ đất sét để dạy dỗ cho hậu thế. Vì vậy, kể từ thời Gilgamesh, cứ mỗi lần rắn lột bỏ lớp da cũ, thì sự hồi sinh của rắn mãi nhắc nhở cho con người là họ phải già đi và chết. Tuy nhiên, thiên hùng ca cũng cho ta biết là dù các bậc đại anh hùng có chết đi, họ vẫn bất tử trong các công trạng của họ được ghi chép lại.
BỘ LUẬT HAMMURABI
Khi sử gia Herodotus người Hy Lạp viếng Babylon vào thế kỷ thứ 5 trước CN, ông ta đưa ra một kết luận đáng chú ý là ở thành phố này không có bác sĩ. Ông ta cho biết là người bệnh được mang ra giữa chợ để tìm lấy lời khuyên bảo của những người đã từng bị những bệnh tương tự. Câu chuyện này cho thấy ta không nên quá tin vào những chuyện kể của du khách. Như chúng ta thấy, vùng Lưỡng Hà có một truyền thống y học phức tạp. Cả hai phương thức chữa bệnh theo kinh nghiệm và ma thuật đều có cơ sở lâu đời, nhưng dần dà ưu thế rõ rệt là nghiêng về phía các thầy phù thủy. Bằng chứng về nhiều loại thầy lang hành nghề y tại vùng này có thể tìm thấy trong bộ luật đầy đủ nhất của vùng Babylon, đó là Bộ luật Hammurabi. Ngày nay, Hammurabi (cực thịnh vào 1792-1750 trước CN), là vị vua nổi tiếng nhất của vùng Babylon, được chú ý nhiều nhờ bộ luật mang tên ông hơn là các chiến thắng quân sự và chính trị.
Hammurabi thiết lập đế quốc Babylon thống nhất và cai trị hai vùng Sumer và Akkad ở phía nam vùng Lưỡng Hà khoảng hai thế kỷ. Đế quốc Babylon cuối cùng bị tiêu diệt và, vào năm 538 trước CN, vị vua cuối cùng đầu hàng Cyrus Đại đế của Ba Tư và Babylon trở thành một phần của vương quốc Ba Tư. Vào cuối thời gian trị vì, Hammurabi cho người dựng nên một bia đá lớn trên đó mô tả hình ảnh nhà vua nhận tước hiệu Hoàng đế và công lý từ các vị thần. Phía dưới của hình ảnh này có khắc 282 án lệ mà ngày nay được gọi là Bộ luật Hammurabi. Theo lời khắc trên bia, thì thần thánh, những bậc đã xây dựng nên tại Babylon một vương quốc lớn mạnh và trường cửu, đã yêu cầu Hammurabi “đem lại công chính” trên vùng đất được cai trị, diệt bỏ những kẻ ác và làm càn, để cho kẻ mạnh không làm hại cho người yếu. Trong phần bạt của Bộ Luật, Hammurabi tự cho mình là “minh quân”, người đứng ra dạy dỗ cho dân các điều chính trực và hiếu đễ, và thiết lập trật tự trong vương quốc của mình. Bộ luật xử lý các vấn đề hình sự và dân sự như cách thực thi công lý, quyền sở hữu tài sản, thương mại và giao dịch, các mối quan hệ gia đình, lao động, các thương tổn cá nhân và cách ứng xử nghề nghiệp. Bộ luật Hammurabi cho thấy những mối quan hệ chi phối các giáo sĩ, địa chủ, nhà buôn, nông dân, thợ thủ công và nô lệ tất cả đều liên quan đến quá nhiều hình phạt nghiêm khắc. Hình phạt cho nhiều loại vi phạm, chẳng hạn như ăn cắp hoặc chứa chấp một nô lệ bỏ trốn là tử hình, nhưng nhiều tội khác chỉ ở mức chặt chân tay. Có nhiều điều khoản nói đến bệnh tật, nhận con nuôi, mại dâm, vú nuôi, thai sản, sẩy thai và hành nghề sơ suất của thầy thuốc và thú y sĩ. Một số luật quả thực có làm rõ lời hứa hẹn của vua Hammurabi rằng luật pháp sẽ bảo vệ người yếu. Lấy ví dụ, một người đàn ông có thể lấy vợ thứ hai nếu người vợ thứ nhất bị bệnh, nhưng anh ta phải chăm sóc người vợ bệnh và cho phép người này vẫn được ở trong nhà của anh ta.
Các hình phạt theo luật hình dựa trên nguyên tắc lex talionis, “luật của dã thú”, tức là ăn miếng trả miếng. Sự báo thù hoặc trừng phạt được sắp xếp xứng với tội ác: chặt cánh tay nào đã đánh cha mình, chọc mù mắt nào đã nhìn trộm bí mật. Những hình phạt kiểu này thường được gọi là sự “cắt xẻo
theo pháp luật”. Căn cứ trên số điều khoản nêu rõ sự chặt chi để trừng phạt cho nhiều loại vi phạm khác nhau, ta có thể tưởng tượng ra là những chuyên gia hành nghề trong lĩnh vực này bận rộn đến mức nào. Những hình phạt được nêu trong luật có nhiều mức độ nặng nhẹ khác nhau tùy theo ba giai cấp của xã hội Babylon: quý tộc, bình dân và nô lệ; những người này được đánh dấu trên cơ thể để cho biết vị trí thấp hèn trong xã hội. Nô lệ
đương nhiên có 30 ngày bảo hành đối với một số bệnh. Chẳng hạn, nếu một nô lệ lên cơn động kinh sau khi được mua trong vòng một tháng, thì người bán phải nhận lại nô lệ này và trả lại tiền mua.
Những luật có ý nghĩa đặc biệt với lịch sử y học - đó là những luật liên quan đến phẫu thuật viên, thú y sĩ, nữ hộ sinh và vú em - theo sau luật xử lý các vụ hành hung. Có chín đoạn văn dành cho việc quy định phí khám bệnh và những chi tiết làm rõ mối quan hệ giữa tình trạng của người bệnh và tiền công cũng như hình phạt thích hợp. Hình phạt nghiêm khắc nêu ra những thất bại mà người thầy thuốc phải hết sức thận trọng khi thu nhận các khách hàng và nên tránh những trường hợp hầu như vô vọng hoặc gây tranh tụng. Luật cũng phản ánh sự phân biệt rõ ràng giữa nội khoa với phẫu thuật. Những thầy thuốc xử lý các vấn đề mà ngày nay gọi là “bệnh nội khoa” là những người thuộc tầng lớp tăng lữ và hoạt động chuyên môn của họ không thuộc phạm vi áp dụng những luật hình sự liên quan đến sự hành hung và sơ suất khi hành nghề.
Vì lẽ các rối loạn bên trong là do các tác nhân siêu nhiên, những ai vật vã với những bệnh tật như thế được cho là có tội với thần thánh. Các vết thương bên ngoài được quy là do lỗi lầm trực tiếp của người hoặc do sự gây hấn. Vì vậy, những ai cầm “con dao bằng đồng” thì chịu trách nhiệm trước các thẩm quyền trần thế. Phí chữa bệnh và hình phạt cho các phẫu thuật khá cao. Nếu một bác sĩ thực hiện một phẫu thuật lớn và cứu mạng hoặc đem lại thị lực cho một lãnh chúa, thì tiền công là 10 đồng shekel bạc. Tiền công này còn một nửa nếu mổ cho một người dân thường, và chỉ 2 đồng shekel nếu bệnh nhân là nô lệ. Tuy nhiên, nếu thầy thuốc thực hiện một phẫu thuật mà lại gây chết cho vị lãnh chúa, hoặc làm hư mắt của ông này, thì bác sĩ phải bị chặt tay. Nếu thầy thuốc làm chết một nô lệ, thì ông ta chỉ phải bù lại bằng một nô lệ khác. Nếu làm hỏng mắt của người nô lệ, thì ông ta chỉ phải đền cho người chủ một nửa giá trị của người nô lệ bằng bạc.
Còn cái gì là phẫu thuật liên quan đến “mở hốc mắt” hoặc “chữa” mắt là vấn đề còn tranh cãi. Phẫu thuật có thể là đánh mộng một cườm mắt (tức là lấy đi thủy tinh thể đã bị đục) hoặc chỉ chích một cái nhọt ở lệ đạo. Các túi mủ này chỉ làm đau nhói nhưng không ảnh hưởng đến thị lực, trong lúc đó đục thủy tinh thể có thể làm mù mắt. Thông lệ đạo hoặc trích mủ có thể có
tác dụng với túi mủ, nhưng nếu làm không khéo thì có thể gây mù mắt. Có khả năng là phẫu thuật ở mắt khó gấp hai lần so với việc nắn xương hoặc chữa bong gân, bởi vì tiền trả cho những dịch vụ như thế là 5 đồng shekel bạc đối với một lãnh chúa, 3 đồng cho một thường dân, và 2 đồng cho một nô lệ. Thú y sĩ, cũng còn được gọi là “thầy thuốc của bò hoặc của lừa”, thực hiện nhiều phẫu thuật khác nhau, kể cả việc thiến các gia súc.
Phụ nữ làm công việc hộ sinh, phẫu thuật viên, và thậm chí thầy thuốc cung đình tại vùng Lưỡng Hà, nhưng bộ luật Hammurabi không hề nhắc đến nữ bác sĩ. Tuy nhiên, luật có nêu những phụ nữ làm vú em (phụ nữ đem sữa của mình nuôi trẻ sơ sinh con người khác). Nếu một lãnh chúa đưa con trai của mình cho người vú em nuôi và đứa trẻ chết, thì người này sẽ bị cắt vú nếu cô ta có nuôi đứa trẻ khác mà không báo cho cha mẹ đứa trẻ biết. Dĩ nhiên là người phụ nữ này sẽ không bao giờ có cơ hội tái phạm nữa.
Khi khai quật các phế tích của các đô thị cổ vùng Lưỡng Hà, các nhà khảo cổ học tiếp tục moi lên hàng ngàn thẻ chữ hình nêm. Đa số các thẻ này đề cập tới các thương vụ thông thường và các vấn đề chính trị, nhưng khi những thẻ mới được cật lực giải mã thì bức tranh của các nền văn minh vùng Lưỡng Hà mới thực sự có những thay đổi sâu sắc.
AI CẬP
Nền văn minh Ai Cập đã từng gây thích thú cho các nhà du hành và học giả kể từ khi Herodotus khởi xướng truyền thống cho các câu chuyện du hành dọc theo sông Nile. Đối với người Hy Lạp và người La Mã, Ai Cập là một vùng đất cổ và xa lạ, có các phong tục khác thường, nhất các phong tục liên quan đến vai trò của giới tính. Các cửa hàng và chợ búa ở Ai Cập đều do phụ nữ trông coi còn đàn ông thì chuyên nghề dệt. Sưu tầm các đồ cổ ngoạn Ai Cập đã thịnh hành từ thời La Mã, nhưng ngành Ai Cập học hiện đại bắt đầu khi phát hiện phiến đá Rosetta, một phiến đá ba-san đen trên có khắc một thông điệp dưới ba dạng chữ viết: chữ tượng hình Ai Cập, chữ thông dụng Ai Cập, và theo mẫu tự Hy Lạp. Chữ tượng hình chính thức “lời của các bậc thần thánh” không những chỉ là một cách viết mà còn là một dạng trình bày nghệ thuật. Các thư lại người Ai Cập phát triển một dạng chữ viết giản thể gọi là dạng chữ viết thông thường, nhưng đến thế kỷ
thứ 5, thì các kiểu chữ viết khác được chấp nhận, còn dạng tượng hình không còn ai đọc được.
Sự phát triển của hệ thống chữ viết đầu tiên thực sự nói chung được coi như là thành quả của người Sumer cổ đại, nhưng với các bức tranh và ký hiệu khắc trên một bờ vách đá vôi tại Ai Cập mà các nhà khảo cổ học phát hiện ra khoảng năm 1990 có thể làm thay đổi trật tự này. Các hình khắc, trong đó có một bức tranh kích thước 46x50cm, dường như để mô tả các chiến công của một vị vua huyền thoại là người đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nền văn minh Ai Cập. Mặc dù những hình khắc này rõ ràng đã được tạo ra khoảng 5.250 năm trước, nhưng chúng có vẻ thuộc dạng chữ tượng hình sau này. Một số học giả tin rằng những chữ khắc trên đại diện cho giai đoạn đầu của chữ viết, hoặc chữ tượng hình sơ khai (protohieroglyphs). Những ký hiệu tương tự - được khắc trên ngà voi, xương, và trên đồ gốm - được các nhà khảo cổ học phát hiện khi đào bới hầm mộ Hoàng gia tại Abydos, tất cả đều thiên về kết luận rằng đây là dạng chữ viết Ai Cập lúc khởi đầu. Những phát kiến này cho thấy rằng các âm tố đã hiện diện trong các chữ khắc Ai Cập trước các ký hiệu Lưỡng Hà và đạt đến hình thức hoàn thiện.
Các ý kiến dân gian về Ai Cập cổ đại đã thành hình từ những hình ảnh thơ mộng của các ngôi mộ kỳ công của các Pharaoh, chẳng hạn như phát hiện 1922 của trung tâm Howard ngôi mộ Tut-ankh-Amen, người đã trị vì một thời gian ngắn vào thời kỳ Vương triều thứ 18. Các nhà Ai Cập học trước
đây đã thám sát nhiều ngôi mộ nằm trong Thung lũng các vì Vua gần Luxor, nhưng phần lớn các ngôi mộ này đều bị bọn cướp mộ cướp phá hoàn toàn qua nhiều thế kỷ. Sự chú ý đến các đồ cổ vật Ai Cập, cũng như truyền thuyết về “lời nguyền của Pharaoh” lại dấy lên khi phát hiện nhiều điều quan trọng trong ngôi mộ và cái chết của 12 nhà khảo cổ học 7 năm sau khi có mặt vào lúc khai quật ngôi mộ.
Ngôi mộ có chứa hàng trăm món đồ quý giá, bao gồm xác ướp Pharaoh nằm trong một quan tài bằng vàng được bọc bằng hai quan tài bên ngoài. Tut-ankh-Amen, mới chỉ có 9 tuổi khi lên ngôi báu vào năm 1333 trước CN. Các nghiên cứu trên xác ướp xác nhận lời đồn rằng khi chết nhà vua mới chừng 18 tuổi và cũng chứng minh rằng thực ra nhà vua không hẳn đẹp trai như tấm mặt nạ đậy trên khuôn mặt khi chết. Nghiên cứu trên xác
ướp nhà vua và quần áo trên người cho thấy nhà vua có xương háng quá rộng, xương sống bị cong bất thường, và đốt sống cổ trên cùng bị dính lại. Các nhà nghiên cứu cho rằng những phát hiện này phù hợp với hội chứng Klippel-Feil, vốn là một bệnh hiếm gặp ở cột sống gây ra những bất thường ở hệ thống cơ - xương, thận, tim và hệ thần kinh. Nếu vua Tut-ankh-Amen bị hội chứng Klippel-Feil, thì hẳn ông ta đi đứng khó khăn. Việc phát hiện ra trên 100 gậy chống trong số các đồ tùy táng dường như phù hợp với giả thiết này.
Các tác giả Hy Lạp thời cổ đại từ Homer đến Herodotus đều ca ngợi thầy thuốc Ai Cập vì sự thông thái và kỹ năng của họ, nhưng người Hy Lạp cũng biết Ai Cập là “nơi sản sinh ra các loại bệnh tật”. Điều chắc chắn là các bộ xương, tranh ảnh, tài liệu và trên tất cả, là các xác ướp thời Ai Cập cổ đại đều cung cấp nhiều bằng chứng về gánh nặng bệnh tật quá mức trong thế giới thời cổ đại. Mặc dù các xác ướp đã được phát hiện tại nhiều nơi trên thế giới, nhưng khi nói đến xác ướp thì số đông nghĩ ngay đến xác ướp Ai Cập, mà họ thấy trong các viện bảo tàng và phim kinh dị chiếu vào lúc nửa đêm. Thuật ngữ xác ướp đi từ tiếng Ba Tư có nghĩa là chất lịch thanh (bitumen) tức là chất vốn làm nhựa rải đường. Điều này phản ánh sự nhầm lẫn cho rằng các xác chết thời cổ đại ở Ai Cập được bảo tồn và được nhúng trong hắc ín nên có màu đen nhẻm.
Đối với người Ai Cập thời cổ đại, cuộc đời sau cái chết có tầm quan trọng rất lớn, nhưng sự thành công ở kiếp sau phụ thuộc vào việc bảo tồn thi thể để cho linh hồn có được chỗ trú ngụ thích hợp. Bên trong ngôi mộ, người
Ai Cập giàu có chất đầy các đồ tùy táng để bảo đảm họ được thoải mái ở thế giới bên kia. Ngoài những báu vật gợi lòng tham của bọn cướp mộ (và các nhà khảo cổ học) ngay cả đối với các ngôi mộ được bảo vệ kỹ càng nhất, trên tường các ngôi mộ và quan tài chứa các xác ướp đều có khắc kèm các văn bản gọi là Tử thư (sách viết về cái chết). Những sách này chứa một loạt các bùa chú và bản đồ để hướng dẫn cho hồn người vừa lìa đời con đường mà người chết phải theo. Các ngôi mộ của một số Pharaoh đầu tiên của Ai Cập cho thấy bằng chứng của việc hiến sinh bằng con người. Các học giả kết luận rằng các vị vua của Vương triều thứ nhất vốn rất hùng mạnh và rất ám ảnh với kiếp sau cho nên các quan trong triều, nô bộc và thợ thủ công được đem đi giết để cho thủ lãnh của họ có người phục vụ trong kiếp sau. Một số vật tùy táng còn ghi tên và tước vị của người được phái đi phục vụ Pharaoh.
Tại Ai Cập thời kỳ tiền vương triều (trước năm 3100 trước CN), các thi thể được bọc trong da thú hoặc vải lanh và chôn vào các huyệt nông trong sa mạc. Nếu các thi thể này không bị lũ chó hoang phát hiện hoặc bị quấy nhiễu, thì cát khô nóng của sa mạc sẽ rút đi chất ẩm trong mô mềm, làm cho các xác khô quắt lại như da thuộc, nhưng hàng ngàn năm sau vẫn còn có thể nhận ra được. Việc chôn xác trong các ngôi mộ đơn giản vẫn tiếp tục bình thường đối với nông dân, nhưng trong thời kỳ Vương triều, các buồng chứa xác của Pharaoh và các bậc quyền quý ngày càng trở nên tinh vi. Điều không may là khi để các thi thể vào sâu trong các ngôi mộ dưới đất là nơi tương đối mát và ẩm lại càng làm cho các điều kiện thối rữa dễ tác động. Nếu các vị Pharaoh vừa muốn hưởng một nơi an nghỉ lịch sự lại bảo vệ tốt thi thể, thì cần thiết phải có các phương pháp mới để chuẩn bị thi thể cho một cuộc sống vĩnh hằng.
Một xác ướp Ai Cập.
Có nhiều điều thêu dệt quanh các “bí mật” của kỹ thuật ướp xác Ai Cập, nhưng các bước cơ bản cũng đơn giản: lấy hết các tạng ra, làm khô xác hoàn toàn, rồi bọc cái xác khô quắt đó lại. Qua khoảng 3.000 năm, phương pháp và chất lượng công việc thợ ướp xác có thay đổi, nhưng phương pháp cơ bản hầu như không thay đổi.
Việc làm khô cái xác có thể thực hiện bằng các kỹ thuật được dùng để bảo
quản thức ăn và da thú sống chẳng hạn như cách muối cá hoặc muối dầm rau quả. Có lẽ cũng có một số trở ngại về thẩm mỹ khi bảo quản thi thể các Pharaoh giống như cách dầm muối. Một phương thức bí mật và kỳ bí chắc chắn sẽ bảo đảm cho một lộ trình tốt đến cõi vĩnh hằng. Thay vì dùng cát khô, nóng hoặc nước muối có dấm, thợ ướp xác sử dụng bột muối nở (natron), là một hỗn hợp tự nhiên nhiều loại muối, làm chất làm khô và họ lấy đi các tạng dễ bị thối rữa nhanh. Quả tim, vốn được coi như là “trung tâm của trí tuệ” được để nguyên bên trong cơ thể.
Herodotus để lại nhiều tài liệu được biết tới về cách ướp xác, nhưng ý kiến của ông này chứa nhiều điểm đáng ngờ và chỉ đề cập đến giai đoạn sau, có thể đã suy đồi, của kỹ thuật này. Theo Herodotus có ba phương pháp ướp xác thay đổi tùy theo giá cả và có bao gồm toàn bộ xác hay không. Theo quy trình “hạng nhất”, thì thợ ướp xác sẽ moi lấy não bộ bằng một cái móc sắt qua lỗ mũi. Ruột thì lấy qua một đường cắt bên hông, ổ bụng được rửa bằng rượu cọ và hương thơm, sau đó nhét vào bụng những loại hương liệu, và cái xác bị móc ruột đó được ngâm trong natron trong vòng 70 ngày. Khi quá trình ướp hoàn tất, người ta đem rửa cái xác, lấy vải len mềm quấn lại, bôi nhựa lên rồi cho vào một hòm gỗ mang dạng hình người. Nếu được yêu cầu cách ướp xác tiết kiệm hơn, thì thợ ướp xác sẽ bỏ qua công đoạn móc lấy não bộ và móc ruột. Thay vào đó, họ bơm vào bụng một lượng “dầu bách hương” qua đường hậu môn và sau đó ướp xác bằng natron. 70 ngày sau, họ rút nút chặn ở hậu môn và tháo dầu có lẫn các phủ tạng phân rã ra ngoài. Cái xác giờ đây chỉ còn có da và xương, được trả lại cho thân nhân. Người nghèo hơn có thể mong chờ một cách tháo thụt đơn giản để làm sạch ổ bụng và sau đó ướp xác trong 70 ngày.
Rõ ràng là Herodotus đã nhầm lẫn một vài chi tiết trong quy trình ướp xác. Những nguồn tài liệu khác cho thấy rằng thợ ướp xác sử dụng dầu cây bách xù (juniper) thay vì dầu bách hương và toàn bộ quy trình ướp xác mất 70 ngày, nhưng trong đó có 40 ngày dành cho việc làm kiệt nước của cái xác bằng cách nhét bên trong và chèn bên ngoài các bao chứa bột muối nở dạng viên nhỏ. Đôi khi, thợ ướp xác dùng tới các phương thức đơn giản hơn, không thèm moi các tạng và nhét vào đó hành và tỏi thay vì các chất bảo quản có mùi thơm đúng cách. Trên nhiều xác ướp cũng thấy được tay nghề kém và sự gian lận trắng trợn với các phủ tạng bị cắt xẻo bầy hầy, xương bị mất hoặc bị gãy, và hài cốt của động vật hoặc những mảnh gỗ được nhét vào cho đầy. Các nhà hóa học đã cố tái tạo và phân tích thành phần của
những chất bảo quản thời xa xưa. Một số nhà khoa học tin rằng người ta dùng một chiết xuất của gỗ bách hương bởi vì gỗ bách hương có chứa chất guaiacol mà dầu cây bách xù không có. Các nhà hóa học có thể so sánh các xác ướp có dầu bách hương với những mẫu xác khác không sử dụng vật liệu ướp xác. Dầu bách hương ngăn được sự phát triển của vi khuẩn và rất hiệu quả để bảo quản các mô động vật.
Một trong những cách sử dụng kỳ dị nhất vào thời Trung cổ với xác ướp Ai Cập là cách đem nghiền xác ướp thành bột để đắp chữa các vết thương và máu bầm. Đến cuối thế kỷ 16 “bột xác ướp” được bán ở tất cả các tiệm thuốc ở châu Âu. Cái khôi hài khi chế tạo thuốc bằng cách phá hủy hài cốt mong có một cuộc sống vĩnh cữu đã được một thầy thuốc người Anh, Thomas Browne (1605-1682) tác giả bộ Religio Medici (1642), ghi nhận. Ông này nhận xét là các xác ướp được thời gian và những nhà chinh phục thời trước “cất giữ thì nay lại được tiêu thụ. Xác ướp đã trở thành hàng hóa... và Pharaoh bị bán làm thuốc cao”.
Nhiều năm sau, khi cao trào “bột xác ướp” qua đi, phát minh ra tia X của William Konrad Roentgen (1845-1923) đã làm cho phương Tây chú ý trở lại những đồ cổ vật Ai Cập. Trong suốt thời gian hồ hởi ban đầu, có khoảng 8.000 xác ướp được nghiên cứu vội vã và sơ sài. Tại trường Y khoa Cairo, bộ ba gồm Grafton Elliot Smith (1871-1937), giải phẫu học, Marc Armand Ruffer (1859-1917), vi trùng học, và Alfred Lucas (18671945), hóa học, đã tiên phong đưa ra phương pháp phân tích các mô xác ướp và làm thực nghiệm với các phương pháp ướp xác.
Gần đây nhất, các nhà cổ sinh bệnh học đã khảo sát các xác ướp bằng X quang, CT, kính hiển vi điện tử, phân tích hóa học, miễn dịch và các kỹ thuật phân tích khác cho phép lấy được các số liệu có ý nghĩa nhưng chỉ
làm hư tổn tối thiểu. Các kỹ thuật hóa sinh được sử dụng để phát hiện sốt rét, các thể thiếu máu, và trứng của các ký sinh trùng. Những xác ướp được bảo quản tốt cung cấp các thông tin về các bệnh ký sinh trùng, chấn thương, nhiễm trùng, bệnh chuyển hóa và các khuyết tật di truyền. Lấy ví dụ, các nghiên cứu hóa sinh trên xác ướp của một người đàn ông chết khoảng 1.500 năm trước CN cho thấy bằng chứng có lẽ là đầu tiên về bệnh alkaptonuria (alkapton niệu), đó là một bệnh chuyển hóa do thiếu một enzym cần để phân rã các amino acid là phenylalanine và tyrosine.
Những thương tổn đầu tiên học được từ các cuộc phẫu nghiệm hiện đại và hình ảnh X quang các xác ướp liên hệ đến các rủi ro cho sức khỏe liên quan đến sông Nile, dòng sông ban tặng cuộc sống. Mảnh đất màu mỡ và các con kênh ăn nước sông Nile đã chứa chấp vô vàn các ký sinh trùng. Trứng KST hóa thạch tìm thấy trong các xác chết phản ánh mức độ lưu hành của bệnh sán máng ở Ai Cập thời cổ đại. Có ít nhất 5 loài sán máng được biết gây nhiễm cho người: Schistosoma mansoni, S. japonicum, S. mekongi, S. intercalatum, và S. haematobium. Sán máng hoàn thành giai đoạn cơ bản trong chu trình phát triển trên loài ốc vốn phát triển rất mạnh trong các kênh đào dẫn nước. Con người nhiễm bệnh khi bị các thể ấu trùng của sán bơi tự do trong nước chui vào da. Khi vào cơ thể người, ấu trùng thay đổi hình thể để chui vào các vi quản và mạch bạch huyết và bắt đầu di chuyển đến nhiều phủ tạng. Những trường hợp bị nhiễm trùng nặng có thể gây tổn thương cho phổi, gan, ruột và đường tiết niệu. Mặc dù bệnh sán máng không làm cho người nhiễm chết ngay, nhưng trứng và chính ký sinh trùng lại gây nên sự kích thích mạn tính làm cho người bệnh càng ngày càng bị suy sụp về mặt tinh thần và thể xác cả đời. Ký sinh trùng trưởng thành sẽ đẻ trứng liên tục trong suốt cuộc đời của chúng từ 3 đến 5 năm. Khi trứng được thải ra nước ngọt, sẽ chuyển thành một dạng ấu trùng ký sinh trên một số loài ốc nước ngọt. Trên loài ốc, một giai đoạn sinh sản mới hình thành và tung ra thể ký sinh trùng mới, thể này sẽ tấn công các ký chủ loài có vú và như thế tiếp tục chu trình phát triển.
Các nhà dịch tễ học ước tính bệnh sán máng gây nhiễm vào khoảng 200 triệu người tại vùng hạ Sahara châu Phi, Brazil, Venezuela, vùng Caribbean, Trung Quốc, Indonesia, Philippines, Cambodia và Lào. Mặc dù có nhiều tiến bộ trong việc phòng chống nhưng bệnh sán máng vẫn tiếp tục lan sang nhiều vùng địa lý mới. Những thay đổi về môi trường do sự hình thành các nguồn nước cộng với sự gia tăng dân số và di dân lại càng tạo điều kiện cho bệnh sán máng lan rộng. Lấy ví dụ, việc xây đập Aswan ở vùng Thượng Ai Cập hầu như đã loại bỏ S. haematobium khỏi vùng châu thổ sông Nile, nhưng ngược lại lại giúp cho S. mansoni đặt chân lên vùng xây đập.
Gió cũng như nước là nguồn gốc gây ảnh hưởng xấu cho sức khỏe. Khi thổi, gió từ vùng sa mạc mang theo hạt cát nhỏ mịn, những hạt này sẽ đóng ở phổi và gây bệnh bụi phổi do cát, giống như bệnh phổi đen ở thợ mỏ. Bệnh bụi phổi do cát có thể được phát hiện qua kính hiển vi điện tử soi các mô
phổi của xác ướp, nhưng do thực tế chỉ có tầng lớp ưu tú mới được ướp xác, cho nên ta không thể nói được là bệnh này phổ biến như thế nào đối với đa số nông dân. Một rối loạn khác ở phổi, bệnh nhiễm bụi than là do hít phải các hạt than nhỏ khi đốt củi.
Các hạt cát nhỏ được tìm thấy trong bánh mì và các thực phẩm khác mà người giàu lẫn kẻ nghèo hèn đều tiêu thụ, đây là nguyên nhân gây chứng mòn răng rất nặng. Những trận bão cát thường xuyên làm thức ăn dính cát, cho nên cái gì cũng có cát sạn, trong khi đó những thứ đá mềm được dùng khi xay bột cũng tạo ra cát trong bột xay. Rất ít có cái xác nào còn bộ răng tốt. Một số răng bị mòn đến tận lợi, thậm chí gốc răng có khi bị trơ ra. Mặt khác, bệnh sâu răng tương đối hiếm gặp và các tiêu chuẩn sạch sẽ rất cao. Bị ám ảnh về sự sạch sẽ và vệ sinh cá nhân, người Ai Cập cổ đại dùng natron làm chất làm sạch miệng. Họ cũng nhai cây sậy để làm sạch răng và xoa bóp nướu răng.
Các bệnh khác phát hiện trên xác ướp gồm có bệnh lao, xơ cứng động mạch và viêm khớp. Bị suy kiệt do các rủi ro luôn rình rập, bất lực trước bệnh tật và tai nạn gây chấn thương, ngay cả tầng lớp đặc quyền nhất cũng khó mà sống quá 40 tuổi. Có lẽ ít ai trong số những người Ai Cập cổ đại này thực sự giống như tranh chân dung lý tưởng hóa kích thước thật trang hoàng quan tài và lăng mộ. Bằng chứng của bệnh xơ vữa động mạch, gây các biến chứng ở tim và các mạch máu, trong đó có tai biến mạch não, nhồi máu cơ tim, và bệnh mạch ngoại vi, đã được phát hiện trên các xác ướp Ai Cập. Trong quá trình ướp xác, động mạch chủ thường được để lại. Ruffer có báo cáo là các mảng xơ vữa mà tác giả gặp trên động mạch của người cùng thời với mình cũng có thể tìm thấy trên hầu hết các động mạch mà ông này có khả năng bòn mót từ các xác ướp Ai Cập. Tuy nhiên, cũng gặp một số trường hợp có tuổi thọ khá cao. Chẳng hạn như các nghiên cứu về xác ướp của vua Rameses II cho thấy ông này bị viêm khớp, xơ vữa động mạch, vôi hóa các động mạch thái dương, răng bị hỏng cùng với các biến chứng nhiễm trùng. Mặc dù về cuối đời nhà vua yếu hẳn, nhưng nhà vua cũng thọ đến 90 tuổi.
Trước khi đưa các kỹ thuật hiện đại vào để xác định tuổi của các đồ vật thời cổ đại, các nhà Ai Cập học dựa vào các phương pháp gián tiếp, chẳng hạn như đánh giá sự mất màu trên quan tài và tên cũng như các đồ tùy táng của người quá cố. Nhưng những nhận dạng này nói chung mới chỉ ở bước đầu và đôi khi lại không chính xác bởi vì nhiều ngôi mộ và xác ướp đã bị
bọn cướp mộ hủy hoại. Các tăng lữ Ai Cập đã cứu vãn và bọc lại nhiều xác ướp Hoàng tộc, nhưng cuối cùng giữa thi thể, quan tài và danh tính không khớp nhau. Ngày nay các nhà nghiên cứu có thể chuyển đổi số liệu từ CT sang ảnh ba chiều mà không cần phải tháo lớp bọc bên ngoài. Với phương pháp này, các nhà khoa học có thể thăm dò những khía cạnh trước đây chưa được biết tới của các nghi thức chôn cất của người Ai Cập và tìm thấy những đồ tạo tác được đặt bên trong xác ướp chẳng hạn như một chiếc bát sứ xuất hiện trên hình ảnh của chiếc đầu xác ướp 3.000 tuổi.
Phương pháp xác định tuổi bằng Carbon-14 có thể dùng để ước tính tuổi của các xác ướp, nếu mẫu lấy là thịt hoặc collagen xương không bị vấy bẩn. Nhưng quả là khó mà lấy được mẫu mô đã loại ra được các tạp chất trong các vật liệu xác ướp và để nghiên cứu mô collagen xương lại phải cắt bỏ nhiều phần của cơ thể. Phân tích X quang có thể cung cấp nhiều dữ liệu có giá trị về các bệnh nội khoa và bệnh về răng, ước tính tuổi vào lúc chết và những thay đổi về hình thể. Kỹ thuật này cũng giúp cho các học giả hiện thời tránh khỏi những sai sót khó xử đã có lúc xảy ra đối với các nhà khảo cổ học thế kỷ 19 khi cố làm cho bài giảng sinh động, đã mở lớp vải bọc xác ướp của một hoàng thân nào đó lại thấy đó là xác của một công chúa, hoặc tệ hơn nữa chỉ là một con khỉ đầu chó. Ngoài việc chẩn đoán bệnh tật của các Pharaoh thời cổ đại, các kỹ thuật y khoa hiện đại đã được sử dụng để “chữa” các xác ướp khỏi những “bệnh của viện bảo tàng” xảy ra khi bảo quản, trưng bày không đúng cách và những tổn hại do côn trùng, nấm mốc và vi khuẩn.
Sự đầy rẫy các bệnh tật hoành hành tại Ai Cập thời cổ đại đã củng cố cơ sở cho nhận xét của Herodotus là cả nước đầy rẫy các thầy thuốc có trình độ chuyên nghiệp cao chuyên chữa những bệnh về mắt, đầu, răng, dạ dày và nhiều bệnh ít biết đến khác. Không phải tất cả các thầy thuốc thời cổ đại đều là thầy thuốc chuyên khoa, nhưng có bằng chứng là những chuyên gia, thầy thuốc tổng quát, tu sĩ, và thầy pháp đều làm việc nhịp nhàng và giới thiệu bệnh nhân cho nhau khi cần thiết. Một thầy thuốc chuyên khoa tên là Iri, Mục quan của Hậu môn (hoặc người phụ trách phần mông đít), giữ một vị trí danh dự trong đám các ngự y. Thường được gọi là những nhà hậu môn học đầu tiên, người phụ trách trực tràng của hoàng gia chủ yếu làm công việc người thụt tháo cho Pharaoh. Theo thần thoại Ai Cập, thụt tháo chính nó có một nguồn gốc cao quý vì do thần Thot phát minh ra.
Người thầy thuốc nên có tác phong chuyên môn tiêu chuẩn cao, chẳng hạn như: “đừng chế nhạo người mù, châm chọc người lùn, gây tổn thương cho người què, cười nhạo người đang ở trong bàn tay của Thần thánh (do đầu óc không ổn định)”. Sự chuyên khoa hóa trong y học ở Ai Cập thời cổ đại
chủ yếu xuất phát từ học thuyết tôn giáo cho rằng không có phần nào của cơ thể mà không có thần thánh chủ trì. Cũng giống như các vị thần mà họ thờ phụng, các thầy thuốc-tu sĩ có khuynh hướng chuyên khoa hóa vào một cơ quan hoặc một bệnh nào đó. Các dược sĩ nhận nữ thần Isis là tổ (của) nghề, bà này đã đem truyền thụ bí mật các phương thuốc cho con trai của mình là Horus. Tất cả những ai tham gia vào công việc của Sinh hoạt viện (House of Life) được xây dựng kề bên các đền thờ, cũng như các cơ sở ướp xác, đều nhận thần Anepu làm người bảo hộ. Tuy nhiên, trách nhiệm của “các ngón nghề” nói chung đều quy cho Imhotep, thầy thuốc đầu tiên mà chúng ta biết rõ tên họ.
Là một thần đồng và ưu tú trong mọi lĩnh vực học vấn, Imhotep đã thiết kế và xây dựng kim tự tháp bậc thang Sakkara nổi tiếng, đã phục vụ Pharaoh Zoser (hoặc Djoser, khoảng 2630-2611 trước CN) với vai trò vizier, tể tướng, kiến trúc sư, hiền triết, thư lại, thầy thuốc-phù thủy và nhà thiên văn. Imhotep, cũng giống như Asclepius, vị thần trông về thuốc của người Hy Lạp, là một biểu tượng đầy quyền uy và là một vị thần khai sinh thực sự của nghề làm thuốc. Sự nghiệp thầy thuốc của Imhotep có thể chia ra thành ba giai đoạn: đầu tiên là ngự y của vua Zoster; tiếp đến như là một á thánh y (khoảng 2600-525 trước CN); và sau cùng, là một vị thần chính của nghề y (khoảng 525 trước CN-550).
Khi Imhotep mất, người bệnh lũ lượt kéo đến ngôi đền được xây trên phần mộ. Việc tôn sùng Imhotep sau đó từ Memphis đã lan tràn sang khắp Ai Cập và Nubia. Những cuộc khai quật các ngôi đền thờ Imhotep cho thấy rằng hoạt động “ngủ trong đền thờ”, tức điều trị hồi phục, vốn được gán nguồn gốc cho người Hy Lạp thật ra bắt nguồn từ Ai Cập. Các tu sĩ chăm sóc chu đáo người bệnh và phủ dụ họ rằng bậc thần thánh sẽ xuất hiện và ban cho phương thuốc thần kỳ. Các tu sĩ dùng “nước thánh”, tắm, cách ly, sự im lặng, dẫn dụ và giấc mơ trị liệu trong các nghi thức chữa bệnh của họ. Là vị thần chữa lành bệnh cho người ốm, ban sự mắn đẻ cho phụ nữ hiếm muộn, ra tay bảo vệ khỏi các tai họa, và cứu mạng cho mọi người, cho nên thật dễ hiểu khi Imhotep trở thành một trong các vị thần được nhiều người biết đến nhất. Mặc dù việc sùng bái Imhotep đã giảm mạnh
vào cuối thế kỷ thứ 2, nhưng ông vẫn là một vị thần chính tại Memphis cho đến thế kỷ thứ 4.
Một số học giả cho rằng ma thuật là động lực đằng sau mọi thành quả của người Ai Cập, nhưng những người khác đứng ra bảo vệ cho người cổ đại chống lại sự cáo buộc rằng nền y học của họ không chỉ có sự mê tín và ma thuật. Khi hoạt động trong khuôn khổ của xã hội cổ đại, thầy thuốc và bệnh nhân đều mong mỏi rằng thần chú và bùa ngải làm tăng hiệu lực của trị liệu; chắc chắn rằng những thứ này đều không làm hại người bệnh. Thần chú và các truyện kể về hoạt động chữa bệnh của các vị thần là nguồn an ủi và hy vọng làm tăng hiệu quả của các phương thuốc và thủ thuật mổ xẻ. Lấy ví dụ, trước khi thay băng vết thương, thầy thuốc có thể dâng lời cầu nguyện như sau: “người được thần thánh yêu quý, thần thánh sẽ cho sống”. Lời cầu nguyện này sẽ trở thành phù chú khi thêm phần này: “Chính tôi là người được thần thánh yêu quý cho nên ngài sẽ để tôi sống”.
Nhiều khía cạnh trong sự tiến hóa của nghề y ở Ai Cập thời cổ đại vẫn còn mù mờ, ngay cả nguồn gốc của từ dành cho thầy thuốc cũng chưa rõ ràng. Một số học giả diễn giải chữ tượng hình dành cho thầy thuốc - một mũi tên, một chiếc bình và một người đang ngồi - là “người của thuốc và dao chích” hoặc “người mở cơ thể (opener)” trong lúc những người khác lại cho là “người chữa những đau đớn” hoặc “người lo các bệnh tật”. Tệ hơn nữa, từ này cũng dùng cho “người đánh giá thuế”.
Imhotep, vị thần chữa bệnh của người Ai Cập.
Các tu sĩ - thầy thuốc có bổn phận ra tay thăm khám người bệnh kỹ càng nhằm quan sát các triệu chứng và phát hiện các dấu hiệu. Thầy thuốc ghi nhận sắc diện, biểu hiện, phù thũng, cứng khớp, vận động, mùi cơ thể, hô hấp, mồ hôi, chất tiết và nghe bệnh nhân kể lại bệnh sử. Thầy thuốc được
phép sờ người bệnh để bắt mạch, sờ bụng, khối u và vết thương. Các nghiệm pháp chức năng chẳng hạn như cho bệnh nhân thực hiện một số cử động nào đó để tìm kiếm thông tin, theo dõi diễn biến của bệnh và đánh giá hiệu quả điều trị.
Không phải tất cả các thầy thuốc Ai Cập đều là tu sĩ; các thầy thuốc bình thường và thầy pháp cũng đem tài năng để phục vụ người bệnh. Thầy thuốc - tu sĩ được hưởng vị trí cao nhất, nhưng một số cá nhân lại có trình độ chuyên môn trong hai hoặc ba lĩnh vực. Thầy thuốc và thầy mổ xẻ được các chuyên gia về băng bó vết thương hỗ trợ, kỹ năng này bắt nguồn từ kỹ thuật tẩm liệm xác ướp. Nhà nước trả công cho thầy thuốc để cai quản các công trình công cộng, quân đội, nghĩa trang, những nơi linh thiêng và hoàng cung. Mặc dù chưa rõ về vai trò chính xác của các định chế như Trung tâm giáo dục Per ankh (Houses of Life) trong đời sống tôn giáo, y học và tri thức của Ai Cập thời cổ đại, dường như những định chế này hoạt động theo kiểu một “trường đại học mở” hoặc “nhóm chuyên gia cố vấn” hơn là một trường học hoặc một đền thờ đúng nghĩa. Tiếc rằng, những bộ sưu tập trên giấy cói được lưu trữ tại Sinh hoạt viện không còn tìm thấy.
Một thầy thuốc nữ tên là Peseshet giữ chức vị “Nữ Giám đốc các thầy thuốc phụ nữ”, chứng tỏ rằng Peseshet quản lý một nhóm các phụ nữ hành nghề y. Có một nhóm đáng chú ý gồm các thầy thuốc mổ xẻ phụ nữ sử dụng cái đục bằng đá lửa làm dùi khoan chọc vào bệnh nhân cho đến khi lấy được máu. Cách trị liệu này đặc biệt được sử dụng để trị chứng nhức đầu. Nhiều vị nữ hoàng Ai Cập đều giỏi về y học và dược học trong đó có Mentuhetep (khoảng 2300 trước CN), Hatsheput (khoảng 1500 trước CN), và Cleopatra (60-30 trước CN). Tại đền thờ Sais, gần Rosetta cửa sông Nile, có một trường y khoa nơi các nữ giáo sư giảng dạy sản phụ khoa cho các học viên nữ. Phụ nữ có thể học tại trường y khoa ở Heliopolis.
Theo lý thuyết y học của người Ai Cập, thì con người khi sinh ra vốn khỏe mạnh, nhưng ngay từ lúc mới sinh ra đã dễ mắc phải những rối loạn do sự lên men thối trong đường ruột, có thể thấy được hoặc không biểu hiện ra bên ngoài, và những xúc cảm mạnh mẽ, chẳng hạn như buồn bã, tình yêu không được đền đáp và nỗi tiếc nuối. Cơ thể luôn bị đe dọa bởi các thứ gió độc do thay đổi thời tiết, hoặc bởi ma quỷ và thần thánh. Các loài giun sán và côn trùng đại diện cho các nguyên nhân gây bệnh bên ngoài, nhưng thuật ngữ giun bao gồm cả các tác nhân thực sự hoặc tưởng tượng, hoặc do nhìn nhầm những mẫu mô, chất nhầy hoặc cục máu có trong phân và các vết thương. Dù bệnh là do các nguyên nhân thấy được hoặc không, nhưng việc chữa trị đòi hỏi phải tống xuất các tác nhân gây bệnh ra khỏi cơ thể bằng cách cho xổ hoặc trừ tà. Thầy chữa bệnh và bệnh nhân mong đợi thấy được các dấu hiệu của tác nhân xâm nhập thoát ra ngoài cơ thể qua các chất
tiết hoặc chất thải của người bệnh.
Nhiều mối đe dọa đối với sức khỏe có thể tránh được, xảy ra từng lúc hoặc ngẫu nhiên, nhưng chất thối rữa trong ruột bao giờ cũng có và không tránh khỏi được. Điều hiển nhiên là để duy trì cuộc sống cần phải có thực phẩm, nhưng khi xuống đến ruột thì thực phẩm phải trải qua một tiến trình lên
men thối mà ta có thể thấy được ở các thực phẩm thối rữa, các vết thương và xác chết không được ướp. Nếu các sản phẩm của sự thối rữa chỉ nằm trong ruột, thì việc ăn uống cũng chẳng có gì nguy hiểm, nhưng các chất thối ở ruột thường làm vấy nhiễm hệ thống các ống dẫn chuyên chở máu, chất nhầy, nước tiểu, tinh dịch, nước, nước mắt và khí đi khắp cơ thể, từ đó sinh ra các vết thương khu trú và những bệnh toàn thân. Bằng cách thường xuyên sử dụng các thuốc gây ói và thuốc xổ để trục ra khỏi cơ thể chất gây thối rữa ở ruột thì mới duy trì được sức khỏe. Tin rằng trực tràng là một trung tâm gây thối rữa đặc biệt quan trọng, người Ai Cập dùng đến các phương thuốc làm dịu và làm mát cái lỗ này, giữ cho nó không bị xoắn hoặc tuột ra ngoài. Vì thế, chức quan người bảo vệ trực tràng của Hoàng gia xứng đáng được nhận các vinh dự của một chuyên gia với trách nhiệm chính là gìn giữ sức khỏe cho Pharaoh.
Herodotus ghi nhận rằng người Ai Cập quan tâm tới những nguồn thối rữa bên trong và cho biết mỗi tháng họ dành ra 3 ngày để thanh tẩy cơ thể bằng những thứ thuốc gây ói và thuốc rửa ruột. Việc xổ ruột dự phòng này không phải là biện pháp dự phòng duy nhất mà người Ai Cập thực hiện để bảo vệ sức khỏe. Người Ai Cập đánh giá việc giữ cho cơ thể sạch sẽ cao hơn là người Hy Lạp. Các quy định khử trùng chỗ ở và nơi chôn cất người chết phát xuất từ sự kết hợp giữa các lý do tôn giáo và vệ sinh. Mối lo sợ rằng quá trình lên men thối ở ruột xảy ra nhiều hơn khi ăn phải các thức đồ ăn thức uống không tinh khiết đã khiến họ phải đưa
Các xác ướp, kim tự tháp Ai Cập và quy trình ướ
p xác được mô tả trong một tranh khắc của Pháp
thế kỷ 17.
ra cách giám sát thực phẩm và các hạn chế về chế độ ăn. Dù rằng rất quan tâm về chế độ ăn và sức khỏe, nhưng các trường hợp ăn uống vô độ, rượu chè, các rối loạn do ăn phải thực phẩm không lành mạnh, sự đói kém và chết đói không phải là ít gặp.
Các tài liệu phổ thông thường trình bày nền y học Ai Cập dưới dạng “hoàn toàn mê tín” hoặc một ngành khoa học tiên tiến huyền bí, nhưng cả hai thái cực đều không đúng. Người Ai Cập cổ đại có thể phân biệt rành mạch giữa ma thuật và y học, nhưng họ lại mong đợi những hiệu quả cộng lực khi có sự kết hợp giữa hai lĩnh vực. Ma thuật có tác dụng là nhờ thần chú, nghi lễ và cá tính của pháp sư. Ngôn từ trong bùa chú khi viết hoặc được đọc lên đều gây được quyền lực đến mức những đồ vật gì khi được nhắc tới đều có tác dụng làm bùa bảo vệ. Hỗn dược được đọc thần chú làm phép trước khi cho bệnh nhân uống. Nhiều bài thuốc được bào chế bằng các chất độc hại khiến cho cơ thể bệnh nhân không còn là chỗ trú ngụ thuận lợi
cho các thứ quỷ thần gây bệnh. Những bệnh nhân nào mắc phải các trạng thái được gọi là “ám thị”, thì có thể bị thử thách hoặc thậm chí chữa bằng những thứ thuốc độc hại như con bọ hung đốt thành than hòa với mỡ. Các nghi lễ có thể là các hành động đơn giản mang tính biểu tượng từ thắt chỉ thành nút để cột tác nhân gây bệnh, đến những lễ nghi phức tạp có nhạc, nhảy múa, dùng thuốc và lên đồng. Những phương pháp ma thuật khác dựa trên nguyên tắc “sang bệnh” (transfer). Chẳng hạn như để chữa chứng bệnh nhức nửa đầu, người ta lấy một con cá áp vào bên phần đầu bị đau.
TÀI LIỆU Y HỌC TRÊN GIẤY CÓI
Rủi thay, ngoại trừ một vài tài liệu y học manh mún, những bản văn dùng để dạy nghệ thuật y học tại “các Sinh hoạt viện” đều bị thất lạc. 8 bộ tài liệu y học trên giấy cói còn sót cho đến nay đã được biên soạn trong khoảng năm 1900-1100 trước Công nguyên, nhưng có lẽ đây chỉ là những tài liệu sưu tập và bản chép lại của các bản văn y học cũ hơn. Trong các bản dịch ngày nay, số tài liệu y học viết trên giấy cói chỉ chiếm khoảng 200 trang in.
Các phương thuốc và lịch sử ca bệnh chép trên các tài liệu giấy cói Ebers, Smith, và Kahun cung cấp cho ta những kiến thức có ý nghĩa nhất về các tư tưởng Ai Cập cổ đại về sức khỏe và bệnh tật, giải phẫu học và sinh lý học, ma thuật và y học. Những bản văn y học khác bao gồm các tập tài liệu về các thứ thuốc, thuốc kích dục, thần chú đuổi bệnh, những mô tả về cách thử khả năng sinh sản, và thần chú để bảo vệ an toàn cho phụ nữ có thai và nhũ nhi.
Bộ tài liệu Ebers, có lẽ được viết khoảng 1500 trước CN, là bộ dài nhất, đầy đủ nhất và nổi tiếng nhất trong các bộ tài liệu y học viết trên giấy cói. Được đặt theo tên của Georg Ebers, người tìm được bộ tài liệu này năm 1873 và đã công bố một bản chép lại và bản dịch một phần sau đó hai năm, là một bộ sưu tập mang tính toàn thư các đơn thuốc, các câu thần chú và đoạn trích các ghi chép y học về các bệnh tật và phẫu thuật lấy từ ít nhất 40 nguồn tài liệu xưa hơn. Bộ Ebers rõ ràng là được soạn làm tài liệu hướng dẫn cho ba loại thầy chữa bệnh: những người sử dụng các phương thuốc bên ngoài và bên trong, các phẫu thuật viên điều trị các vết thương và gãy xương, những thầy trừ tà chiến đấu với các thứ ma quỷ gây ra bệnh.
Mặc dù thời cổ đại không thấy bất cứ lý do gì để phân biệt rành mạch giữa các bệnh tự nhiên và siêu nhiên, nhưng có một khuynh hướng dành cho những thứ gọi là đơn thuốc “thực tiễn” gộp lại cùng với nhóm bệnh để khi điều trị sẽ có nhiều cơ hội đạt được thành công. Những bệnh nan y thường được gộp chung thành một nhóm để xử lý thiên về mặt ma thuật. Người chữa bệnh cũng được cảnh báo không nên bắt người bệnh chịu thêm đau đớn khi thực hiện những cách điều trị vô ích. Với những ca hết hy vọng, thì nên chọn thuốc mỡ và thần chú thay vì dao kéo.
Nhiều bài thuốc nhiều khi nhắc đến những thành phần khó hiểu, lạ lẫm hoặc dường như không thể nào có được, ít nhất là trong các bản dịch, chẳng hạn như lông vũ của thần Thot hoặc mắt của Trời, có thể là những tên gọi bí hiểm hoặc căn cứ trên hình tượng của các loại thảo dược thông thường. Chắc chắn là các dược sĩ Ai Cập sẽ chế giễu những đơn thuốc có những tên như: chiếc găng tay của con chồn (fox’s glove tức là cây mao địa hoàng có chứa digitalis); quý bà xinh đẹp (belladonna= cà độc dược), hoặc vịt đực (mandrake= cây khoai ma).
Trong tài liệu y học viết trên giấy cói của Ebers có khoảng 700 thứ thuốc, được kết hợp theo nhiều cách tạo thành trên 800 công thức. Thuốc được sử dụng dưới dạng thuốc mỡ, thuốc đắp, xông khói, hít, nuốt khói, súc họng, thuốc đạn, thuốc thụt tháo và nhiều thứ khác. Chắc chắn là các thầy thuốc phải nhờ đến các cộng sự hoặc người đi thu hái thuốc, nhưng đôi khi họ cũng tự chế lấy thuốc. Khác với tục lệ vùng Lưỡng Hà, các đơn thuốc Ai Cập bao giờ cũng chính xác về liều lượng.
Mặc dù các thành phần thường được cân đo theo thể tích hơn là trọng lượng, các dụng cụ được sử dụng trong bào chế thuốc là cân, cũng như cối giã, cối xay và sàng.
Những bài thuốc được làm phép bằng thần chú được sử dụng để đóng và mở đường tiêu hóa, gây ói, trục giun sán và ma quỷ, chữa các chứng sốt, bệnh thấp, ho, đi tiểu ra máu, kiết lỵ và rất nhiều bệnh khác. Các bệnh chảy máu, vết thương, vết cắn do cá sấu đều có thể băng bó bằng một hỗn dịch gồm có đất, mật ong, và hạt lúa mạch rang, sau đó phủ lại bằng thịt tươi. Những đơn thuốc khác gồm có phân cá sấu, nước tiểu của người, nhựa trầm hương, hạt đậu, hạt chà là, trứng đà điểu. Vàng, bạc và các đá quý
được coi là thịt và chân tay của các vị thần, do đó người ta dùng những thứ này để làm bùa và phù chú đuổi tà. Những khoáng chất ít lạ lẫm khác như lưu huỳnh, bột muối nở và muối kim loại nặng, thường được dùng để trị các bệnh ngoài da, nhưng có một thứ thuốc mỡ kỳ lạ là lấy con ếch đốt rồi cho vào trong dầu. Các chất khoáng được sử dụng dưới dạng tự nhiên hoặc dạng bột tái sử dụng lấy từ mảnh gốm, gạch vỡ hoặc đá cối xay.
Bệnh về mắt hiển nhiên là một vấn đề tại Ai Cập thời cổ đại cũng như tại nhiều nơi khác ngày nay tại Trung Đông, Ấn Độ và châu Phi. Mù mắt không phải là ít, như được đề cập trong các tài liệu và tranh vẽ. Đối với một rối loạn ở mắt có lẽ là bệnh quáng gà (dấu hiệu thường gặp trong bệnh thiếu vitamin A), thì gan bò nướng là món thuốc được khuyến cáo nhiều nhất. Một món thuốc khác dành cho giảm thị lực gồm có mật ong, đất son, và chất dịch trong mắt heo, người thầy thuốc trộn đều và đổ vào tai của người bệnh.
Phong thấp là chẩn đoán dựa trên mô tả của người bệnh bị đau mạn tính ở vùng cổ, tay chân và các khớp. Cách điều trị cho chứng đau này gồm có xoa bóp chỗ đau với đất sét hoặc bùn, và tra thuốc mỡ có chứa thảo dược, mỡ động vật, lá lách bò, mật ong, cặn rượu vang và nhiều thứ không rõ nguồn gốc. Cũng có khuyến cáo đắp một vài thứ thuốc vào ngón chân cái cho thấy bệnh gút là một trong các thứ bệnh gây đau nhức. Không phải tất cả các đơn thuốc ghi trên tài liệu giấy cói đều liên quan đến những tình trạng nguy hiểm tính mạng. Các tài liệu y học cũng còn chứa các đơn thuốc dùng cho thẩm mỹ và phục hồi tóc chẳng hạn như một hỗn dịch dầu trộn với bột lông nhím đốt cháy. Một món thuốc tài tình có thể làm cho kẻ mình ghét bị rụng tóc khi bôi lên đầu người đó. Mỹ phẩm thường chỉ phản ảnh sự phù phiếm và mốt thời trang, nhưng các loại thuốc mỡ làm sạch, nước hoa và bột màu có lẽ đem lại tác dụng làm se da và sát trùng.
Khi nghiên cứu những thứ thuốc để nhai nhưng không nuốt người ta cũng tìm được một ví dụ khác về mặt tốt của nền y khoa cổ đại. Thứ thuốc nhai mà người Ai Cập ưa chuộng là cọng của cây cói. Người Hy Lạp lúc đầu cho rằng thói quen nhai cọng cây cói và sau đó nhả xác ra của người Ai Cập là lố bịch và dơ bẩn, nhưng rồi cuối cùng họ cũng bắt chước phong tục này. Người ta nhai những viên thuốc tròn làm bằng nhựa cây có trộn bột muối nở và tinh dầu trầm để hơi thở được sạch và thơm tho. Những thứ
thuốc nhai khác được coi là có tác dụng phòng ngừa bệnh cho răng và lợi.
Tài liệu Kahun viết trên giấy cói, có lẽ được soạn vào khoảng năm 1900 trước CN, gồm có những phần bàn về bệnh phụ khoa và thú y, trong đó có những phương pháp phát hiện thai kỳ, đoán trước giới tính thai nhi và ngăn ngừa thụ thai. Một trong những thuốc ngừa thai cơ bản là một thứ thuốc đạn trong đó có chứa phân cá sấu đặt vào âm đạo. Những thứ đơn thuốc khác nhắc đến việc đặt vào âm đạo một chất xốp có tẩm mật ong và bột muối nở, chất chiết xuất từ cây keo, và một thứ gì đó giống như nhựa cây. Những đơn thuốc ngừa thai sau này vẫn giữ nguyên tinh thần công thức của người Ai Cập, nhưng lại thay phân cá sấu bằng phân voi. Người Hy Lạp nhận xét rằng dường như người Ai Cập có cách kế hoạch hóa gia đình mà không cần phải giết trẻ sơ sinh. Điều này cho thấy là ngay cả những loại vòng nâng đặt trong âm đạo độc hại và kỳ dị nhất cũng có tác dụng như vật cản cơ học hoặc như thuốc diệt tinh trùng, hoặc làm cho việc giao hợp không còn chút hứng khởi nào. Những biện pháp cần thiết để bảo đảm sức khỏe cho mẹ và con là kéo dài thời gian cho con bú để ức chế sự phóng noãn, và hai lần sinh cách nhau ba năm.
Mặc dù bà mụ có lẽ là người đỡ đẻ chính, nhưng các thầy thuốc cũng quen thuộc với các bệnh phụ khoa như sa tử cung, ung thư, huyết trắng, thống kinh, vô kinh và mãn kinh. Do tử cung được coi là một cơ quan di động gây ra lắm sự phiền phức khi lang thang trong cơ thể, cho nên các bác sĩ kê đơn những chất xông khói đặc biệt nhằm dụ nó quay về đúng vị trí của nó. Có nhiều hỗn hợp phức tạp và độc hại được đưa ra để giải quyết tử cung lang thang, chuyển dạ bất thường và sẩy thai. Những phương thuốc này được coi là làm ấm ngực, làm mát dạ con, điều hòa kinh nguyệt và làm nhiều sữa. Nói chung các thứ thuốc này được sử dụng dưới hình thức xông khói, thụt rửa hoặc đặt vào âm đạo, nhưng trong một số trường hợp, người phụ nữ chỉ cần ngồi lên trên món thuốc. Những phương pháp kiểm tra khả năng mắn đẻ dựa vào giả định là trên người đàn bà tốt giống có những lối thông thông suốt giữa đường sinh dục với các bộ phận khác của cơ thể. Vì vậy, khi người phụ nữ ngồi trên một chất kiểm tra, chẳng hạn như bột hạt chà là trộn với bia, nếu người đó ói chứng tỏ rằng họ có khả năng thụ thai và số lần ói tương ứng với số con sẽ có trong tương lai. Khi đậu thai, thầy thuốc nghiên cứu tác dụng của nước tiểu người bệnh lên sự nảy mầm và mọc nhánh của lúa mì và lúa mạch để dự đoán giới tính của đứa bé. Dĩ nhiên, với những nghiệm pháp kiểu này, cơ hội trúng ít nhất cũng là 50-50.
Các tài liệu cổ xưa cũng cho thấy rằng khi sinh con, các phụ nữ ngồi trên những viên gạch mang tính ma thuật được trang trí bằng các dấu hiệu tôn giáo và hình ảnh các vị thần bảo vệ sức khỏe của mẹ và con. Một trong những viên gạch kiểu này được các nhà khảo cổ học tìm thấy khi khai quật các phế tích tại Abydos, một thành phố cổ miền nam Ai Cập. Người ta tìm thấy một viên gạch được sơn vẽ trong số các đồ tạo tác của một ngôi nhà 3.700 năm tuổi, trên đó có vẽ một bà mẹ với đứa con mới sinh, các phụ nữ giúp việc, và Hathor, nữ thần bò cái phù hộ sự sinh đẻ và nuôi con. Một bức hình của thần Thái dương và các vệ sĩ dường như đang làm phép phù hộ cuộc sống mỏng manh của một đứa bé mới sinh.
Các thầy thuốc Ai Cập chuyên khoa hóa khá sâu, nhưng không thấy nói đến nhi khoa, một ngành dựa trên tuổi của người bệnh thay vì dựa trên từng bộ phận của cơ thể để chia ra thành chuyên khoa. Tuy nhiên, cũng có những phương thuốc và các bùa chú để bảo vệ sức khỏe của nhũ nhi và các đơn thuốc cho các bệnh bí hiểm của con nít như đái dầm, bí tiểu, ho, và mọc răng. Do đứa trẻ thường được nuôi bằng sữa mẹ trong ba năm, cho nên thuốc được ghi cho mẹ hoặc vú em.
Do người Ai Cập ướp xác người và các động vật khác, cho nên họ có cơ hội nghiên cứu giải phẫu học so sánh. Các nhà khảo cổ tìm thấy nhiều hài cốt hoặc xác ướp của sư tử, khỉ đầu chó (baboon), cò quăm, cá, mèo, chó và cá sấu trong các ngôi mộ và những nghĩa địa đặc biệt. Tuy nhiên, dù rằng có đến hàng thế kỷ đầy kinh nghiệm ướp xác, các quan niệm về giải phẫu học vẫn còn rất sơ sài. Thợ ướp xác, chỉ là thợ thủ công chứ không phải là các thầy thuốc thực hành hoặc các nhà khoa học không vụ lợi. Thậm chí họ dường như cũng mù mờ về công việc mở banh xác ra. Trước khi thực hiện nghi thức này, một người gọi là thư lại sẽ vẽ ra một đường dọc theo bên hông cái xác. Còn đối với người rạch da thực sự, người này sẽ bị đám đông làm một số động thái tượng trưng như chửi rủa, ném đá và nguyền rủa đuổi đi.
Khoa coi bói bằng cách xem xét các cơ quan trong cơ thể con vật (Haruspicy), cũng là một nguồn cung cấp các thông tin về giải phẫu học. Do cấu trúc, kích cỡ và hình dạng của các cơ quan trong bói toán là để dự báo những điềm quan trọng, cho nên khoa coi bói này có lẽ đã làm cho người ta quan tâm đến việc nghiên cứu giải phẫu học nhiều hơn là thuật
ướp xác. Cơ sở ủng hộ giả thuyết này tìm thấy trên những ký hiệu tượng hình có hình dáng động vật được dùng để chỉ các cơ quan ở người. Các nhà Ai Cập học đã lên được danh mục của trên một trăm dấu hiệu giải phẫu học; nhiều tên được áp dụng cho mọi bộ phận của ống tiêu hóa, giữ phần rất quan trọng. Ngược lại, những thứ khác như thần kinh, động mạch, tĩnh mạch đều không được hiểu nhiều và hầu như không phân biệt được.
Các hiện tượng sinh lý và bệnh lý được giải thích theo cách chuyển dịch của các chất dịch trong một hệ thống các ống dẫn mang chất bổ dưỡng nuôi cơ thể cũng giống như lũ lụt sông Nile mang lại chất nuôi dưỡng cho đất đai. Có một hệ thống phức tạp các mạch máu mang máu, dịch nhầy, nước, khí, tinh dịch, nước tiểu, nước mắt. Quả tim, “trung tâm của trí tuệ”, dứt khoát là nơi tập trung của các mạch máu, nhưng cũng cũng có một nơi hội tụ khác các ống dẫn nằm kế cận bên hậu môn. Do trực tràng và hậu môn đều có liên quan đến chất thối rữa nguy hiểm, cho nên việc sắp xếp các mạch máu như thế đã làm cho toàn bộ hệ thống dễ bị ô uế bởi các sản phẩm thối rữa bên trong.
Là một biểu tượng có ý nghĩa đặc biệt cho nên quả tim được để lại trong cái xác trong quá trình ướp xác. Các vị thần sẽ “đo tấm lòng” để phán xét người chết. Sợ rằng tim của họ không được cân đo, người Ai Cập đã cẩn
thận gia cố các ngôi mộ của họ bằng các thứ bùa ma thuật được thiết kế để bảo đảm được phán xét thành công. Khi cân đo quả tim người chết, các vị thần có thể đánh giá được đạo đức của họ khi còn sống. Trên người sống, thầy thuốc đo lường sức khỏe bằng cách đặt ngón tay bắt mạch ở đầu, cổ, bao tử, và tứ chi bởi vì quả tim biểu lộ qua các mạch máu của cơ thể. Thật
vậy, phần kiến thức về quả tim và chuyển động của quả tim được gọi là “bí mật của thầy thuốc”. Các thầy thuốc biết rằng ngất xảy ra khi quả tim không lên tiếng. Nếu quả tim và các mạch máu bị vấy bẩn bởi chất thối rữa hoặc sức nóng từ trực tràng, thì người bệnh sẽ bị ốm, suy nhược và cuối cùng mất tri giác.
Năm 1862, Edwin Smith (1822-1906), nhà Ai Cập học tiên phong, đã mua một cuộn giấy cói được tìm thấy trong một ngôi mộ gần Luxor. Smith cố gắng giải mã tài liệu này nhưng không mấy thành công. Khi James Henry Breasted (1865-1935) hoàn tất bản dịch cuộn giấy vào năm 1930, ông ta đã làm thay đổi các tư tưởng về tầm quan trọng tương đối của ma thuật, kinh
nghiệm và phẫu thuật trong y học của người Ai Cập. Breasted cho rằng cuộn giấy của Smith là một thứ tài liệu có giá trị đặc biệt, chính nó là một bộ sưu tập hệ thống các ca bệnh cung cấp cho thầy thuốc những thông tin quan trọng về cơ thể và sinh lý học. Có những phần trong cuộn giấy Smith được chép từ các tài liệu rất cổ cho nên các tục ngữ và quan niệm trong nguyên bản hầu như không thể nào hiểu được. Vì thế, người thư lại biên soạn tài liệu đã phải đưa thêm phần giải thích nhằm giúp cho người cùng thời hiểu được bản văn, nhờ vậy các nhà Ai Cập học hiện đại mới có được các thông tin có giá trị.
48 ca bệnh được lưu giữ trong cuộn giấy Smith được xếp đặt một cách hệ thống từ đầu xuống chân theo thứ tự từ nhẹ đến nặng. Mỗi ca bệnh có một tiêu đề, các chỉ dẫn cho thầy thuốc, tiên lượng khả dĩ và cách điều trị thích
hợp. Bệnh tật được chia ra làm ba loại: những bệnh chắc chắn chữa khỏi được, những bệnh có thể chữa nhưng kết quả không chắc chắn và những bệnh nan y mà không có cách điều trị nào nên thử.
Trong phần gọi là “Sách nói về các vết thương” trình bày cách điều trị các loại gãy xương, trật khớp, vết cắn, ung bướu, vết loét và áp-xe. Xương gãy được bó lại bằng nẹp làm từ xương bò, sau đó quấn bằng băng có nhúng nhựa cây làm cho mau đông cứng lại. Thừa nhận rằng các loại gãy xương hở đều có tiên lượng xấu, người thầy thuốc nào vốn chỉ quen với các loại gãy xương đơn giản hoặc gãy kín, cần phải biết rằng gãy hở là một thứ bệnh ngoài khả năng chữa trị. Thuốc cao hoặc băng dính thường được sử dụng để làm khép vết thương, nhưng một số vết thương cần phải may lại. Các nhà phẫu thuật Ai Cập sử dụng nhiều loại băng, các loại thuốc cao dính, nẹp, dây đeo, ống dẫn lưu, nút chặn, chất tẩy rửa, và đốt mô cũng như các thứ dụng cụ bằng đồng thiếc, trong đó có dao mổ và kim tiêm. Những cuộc khai quật tại ngôi mộ của một thầy thuốc thuộc vương triều thứ 5 đã phát hiện nhiều dụng cụ phẫu thuật bằng đồng, cũng như nhiều tượng nam và nữ thần.
Mặc dù người Ai Cập đã quen với tác dụng gây ngủ của thuốc phiện và cây kỳ nham (henbane), nhưng không có bằng chứng trực tiếp là những chất này được dùng làm thuốc gây mê/gây tê trong phẫu thuật. Một cảnh tả việc cắt bao quy đầu cho người đàn ông có ghi thêm dòng chữ “để làm cho dễ chịu” được giải thích là người ta đã dùng đến kỹ thuật gây mê/gây tê. Tuy
nhiên, cũng có một cảnh tương tự loại phẫu thuật này lại kèm lời ghi: “Giữ cho chặt để anh ta khỏi té”. Do cắt bao quy đầu là một nghi thức tôn giáo, cho nên thủ thuật này thuộc lĩnh vực của giới tu sĩ và không được đề cập trong mọi chuyên luận y học. Các dụng cụ phẫu thuật dùng trong cắt bao quy đầu đã được trưng bày trong một số ngôi đền Ai Cập. Một hình ảnh minh họa hình như trình bày lễ khai đao, nhưng lại không rõ vai trò của thầy tu ở đây: ông ta là người cắt hay là người bị cắt bao quy đầu.
Mặc dù Amenhotep II và III đều được cắt bao quy đầu, nhưng các xác ướp được coi là của những người tiền bối của họ là Amenhotep I và Ahmose I, lại không cắt bao quy đầu. Các nghiên cứu trên các xác ướp đàn ông thời cổ đại cho thấy rằng việc cắt bao quy đầu không phải là ít gặp tại Cựu Vương triều, nhưng thủ thuật này có lẽ phổ biến trong giới tu sĩ và quý tộc vào các thời kỳ sau này. Mặc dù có những bức tranh mô tả thủ thuật này trên đàn ông, nhưng lại không có hình ảnh nào về thủ thuật cắt âm vật ở phụ nữ, thủ thuật mà ngày nay ta gọi là cắt xẻo cơ quan sinh dục nữ. Ngay cả ngày nay cũng cùng một cách thức: cắt bao quy đầu cho một bé trai là được cử hành công khai, nhưng cắt âm vật nữ thì lại giấu kín chẳng kèn trống gì cả.
Ngày nay tại vùng đất Ai Cập vẫn còn tồn tại hủ tục cắt âm vật phụ nữ bao gồm cắt bỏ âm vật và các bộ phận sinh dục nữ bên ngoài. Khâu kín bộ phận sinh dục ngoài (infibulation) là hình thức cực đoan nhất của việc cắt xẻo cơ
quan sinh dục bao gồm cắt bỏ toàn bộ âm vật, môi nhỏ và nhiều phần của môi lớn. Strabo, nhà địa lý học người Hy Lạp, từng viếng Ai Cập vào năm 25 trước CN, đã cho biết người Ai Cập có tục cắt bao quy đầu cho bé trai và cắt xẻo cơ quan sinh dục phụ nữ. Phẫu thuật này thường thực hiện khi đứa bé được 14 tuổi và sẵn sàng đảm nhận vai trò người lớn.
Rủi thay, các cuốn “Kinh thương tổn” lại không đầy đủ. Người chép sách rõ ràng là ngừng viết ở một đoạn thú vị về các bệnh của xương sống và để “trống” phần còn lại của “trang sách”. Khi quay lại công việc, rõ ràng là ông ta chuyển sang chép nguồn tài liệu khác và chép toàn bộ các đơn thuốc “hoán cải một ông lão thành một thanh niên 20 tuổi” và những thần chú chống lại “ngọn gió dịch bệnh trong năm”. Sự chuyển tiếp đột ngột này báo hiệu cho một sự biến đổi dần dần các ưu tiên trong nền văn hóa Ai Cập trải qua hàng ngàn năm, trong đó kỹ thuật, thiên văn học, khoa học và y học bị
đình trệ, còn tệ mê tín và ma thuật thì phát triển mạnh mẽ.
Vào năm 322 trước CN, Alexander Đại đế (356-323 trước CN) chinh phục Ai Cập và đặt nước này dưới ảnh hưởng của nền văn hóa Hy Lạp. Khó mà xác định người Hy Lạp đã học những gì từ người Ai Cập và đã dạy lại cho người Ai Cập cái gì. Vào cuối thời kỳ này, phần lớn các kiến thức bí truyền
của người Ai Cập cổ đại đã bị quên lãng, mặc dù y học, toán học và kỹ thuật một lần nữa phồn thịnh trở lại, ít nhất cũng trong một thời gian ngắn tại thành phố lớn Alexandria của Ai Cập. Dưới sự cai trị của Đế quốc La Mã, Ai Cập đã đóng một vai trò quan trọng trong mạng lưới đường giao thương trên biển và trên bộ nối liền Rome tới Arabia và Ấn Độ. Các mặt hàng trao đổi gồm có ngà voi, mai đồi mồi, thuốc men, nô lệ, hạt tiêu đen, nhựa trầm và một-dược (myrrh). Các thành phố cảng dọc theo bờ biển Ai Cập trên Biển Đỏ đã góp phần giúp cho các con đường giao thương trên biển phát đạt, cạnh tranh với con đường tơ lụa, nhưng về sau lại bị bỏ rơi, bị vùi lấp dưới lớp cát sa mạc và chìm dần vào quên lãng.
3
Các truyền thống y họ c của Ấn Độ và Trung Quốc
Trong các khảo sát về lịch sử y học, sự phát minh ra khoa học và y học duy lý thường được gán cho các triết gia tự nhiên người Hy Lạp sống vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước CN. Quen với việc truy tìm nguồn gốc nền văn hóa Tây phương bắt nguồn từ Hy Lạp, với một chút chiếu cố dành cho các nền văn minh được nhắc trong Kinh thánh, các học giả châu Âu thường bỏ qua sự tiến bộ trong y học, khoa học và triết học tại Ấn Độ và Trung Quốc. Sự tập trung đặc biệt khá hẹp này mang tính chất rất không may mắn trong lịch sử y học, bởi vì khác với các truyền thống y học cổ xưa tại vùng Lưỡng Hà và Ai Cập, các truyền thống của Ấn Độ và Trung Quốc vẫn còn hoạt động rất mạnh mẽ. Tuy nhiên, học thuật gần đây đã làm rõ rằng những con đường rất khác biệt được chọn để mưu cầu sức khỏe, chữa bệnh và truy vấn mang tính hệ thống tại Trung Quốc và Ấn Độ cũng rất đáng để chúng ta khảo sát.
Các sử gia nhận định rằng những truyền thống khoa học và y học phát triển tại Trung Quốc và Ấn Độ đều phức tạp, phong phú và khác hẳn với các truyền thống châu Âu về nhiều mặt cơ bản. Nhiều vấn đề còn tồn tại, nhưng rõ ràng là những vấn đề đáng chú ý nhất liên quan đến sự tiến bộ của khoa học và y học của các nền văn minh khác nhau đều có liên quan đến các nhà tư tưởng, nhà nghiên cứu và thầy thuốc trong các nền văn hóa cổ xưa suy nghĩ về những gì họ làm hơn là câu hỏi thông thường ai làm cái gì trước tiên.
ẤN ĐỘ
Là một tiểu lục địa đông đúc dân cư, với nhiều sắc tộc, ngôn ngữ, văn hóa, và tôn giáo pha trộn, Ấn Độ là một thế giới chứa đầy sự phức tạp đáng kinh ngạc. Vào những năm 20 của thế kỷ trước, việc nghiên cứu lịch sử Ấn Độ được cách mạng hóa nhờ sự phát hiện các kỳ quan của Mohenjo-daro và Harappa, là hai thành phố chính thuộc nền văn minh sông Indus bị quên lãng vốn đã từng phồn thịnh khoảng từ năm 2700 đến 1500 trước CN. Các
khai quật gần đây đã cung cấp bằng chứng có sự giao lưu buôn bán mạnh mẽ giữa Ai Cập và Ấn Độ khoảng 2.000 năm trước đây. Các học giả trước đó đã cho rằng sự giao dịch bằng đường thủy thời cổ đại giữa Ấn Độ và La Mã là sản phẩm kinh doanh của người La Mã, nhưng các nghiên cứu về các thành phố cảng một thời thịnh vượng của Ai Cập cho thấy rằng các con tàu tham gia các chuyến hải hành dài đầy nguy hiểm vốn được đóng tại Ấn Độ và được điều khiển bởi thủy thủ đoàn là cư dân của xứ này. Con đường tơ lụa, một hệ thống các con đường lữ hành bằng lạc đà, đã đóng vai trò gạch nối văn hóa và thương mại chính giữa Trung Quốc và châu Âu trong khoảng thời gian từ năm 100 trước CN đến thế kỷ thứ 15. Tuy nhiên, con đường thương mại trên biển giữa Ai Cập và Ấn Độ có thể đã từng là một gạch nối khác với vùng Viễn Đông.
Hồi ức về sự phát triển, xáo trộn và suy thoái của nền văn minh Ấn Độ xa xưa còn đọng lại cho đến ngày nay qua 4 văn bản được gọi là kinh Vệ Đà, vốn được tín đồ Ấn Độ giáo tôn thờ là sách thiêng chứa đựng sự khôn ngoan do thần thánh truyền đạt. Kinh Vệ Đà được bổ sung với các bản chú giải sau này được gọi là Phạm Thư (Brahmanas) và Áo-nghĩa thư (Upanishads), là hai kinh giải thích các văn bản xưa hơn và chiêm nghiệm về bản chất của vũ trụ và kiếp người. Nghệ thuật chữa bệnh truyền thống của người Ấn Độ được biết dưới tên y học là Ayurvedic.
Nhiều khía cạnh của lịch sử Ấn Độ vẫn còn mù mờ mãi cho đến thế kỷ thứ 4 và thứ 3 trước CN, khi vùng thung lũng sông Indus bị người Ba Tư, sau đó là Alexander Đại đế (356-323 trước CN) chinh phục. Mặc dù Alexander chỉ lưu lại tại Ấn Độ chưa đầy hai năm, nhưng cuộc xâm lăng này đã mang lại sự trao đổi văn hóa giữa thế giới nói tiếng Hy Lạp và các dân tộc của Ấn Độ. Trong những năm đầy xáo trộn sau cái chết của Alexander, Chandragupta Maurya đứng lên đánh đuổi các viên chức gốc Macedonia còn sót lại và lập một đế quốc riêng. Cháu nội của ông này, Asoka, trị vì từ năm 272 đến 232 trước CN đã thống nhất phần lớn xứ Ấn và lập ra vương triều Maurya. Người ta cho rằng văn bản Artha Sastra, bàn về khoa học chính trị và thuật cai trị, đã được viết ra theo lệnh của Chandragupta. Bộ sách này chứa nhiều luật liên quan đến lịch sử y học, mại dâm, vệ sinh và y tế công cộng. Đội ngũ đông đảo các nhà phẫu thuật hẳn có được công ăn việc làm từ những sự cắt xẻo cơ thể theo luật được quy định cho các hành vi bất xứng. Lấy ví dụ, hình phạt cho một người lăng mạ cha mẹ hoặc thầy dạy của mình là cắt lưỡi.
Lúc khởi đầu được coi là một vị vua độc đoán tàn ác, hoàng đế Asoka cảm thấy hối hận trước cảnh máu chảy và lầm than mà mình đã gây ra đến nỗi ngài từ bỏ chiến tranh và trở thành một Phật tử. Phật giáo phát tích từ Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên dựa trên lời dạy của Đức Phật, “Bậc giác ngộ”, và biểu lộ sự phản kháng chống lại sự phân chia giai cấp ngặt nghèo của xã hội Hindu và những nghi thức tôn giáo do giới tăng lữ Bà La Môn kiểm soát.
Lời dạy của Đức Phật nhấn mạnh đến bác ái, sự tận tụy và sự an bình trong tâm hồn có được khi từ bỏ dục vọng. Căn cứ theo các chỉ dụ khắc trên những bia đá lớn được dựng lên khắp đế quốc, vua Asoka đã dốc lòng cho hòa bình và sự công chính thông qua chính nghiệp, từ bi, hỉ xả và thanh tịnh. Từ bỏ thú vui săn bắn và ăn thịt, Asoka ban phát sự bảo vệ cho động vật cũng như con người và xây dựng nhà nghỉ dưỡng, nơi chăm sóc người ốm và các cơ sở từ thiện khác.
Mặc dù các chỉ dụ của vua Asoka có nêu các bệnh viện và bệnh xá miễn phí được xây dựng khắp nước Ấn Độ thời cổ đại, nhưng các bằng chứng lại không được ghi rõ. Vào thế kỷ thứ 5, một nhà du hành người Trung Quốc có mô tả những bệnh viện Ấn Độ chăm sóc cho người ốm và người nghèo, nhưng ghi nhận rằng đó là các cơ sở tư nhân tài trợ chứ không phải của nhà nước. Những người khác có nhận xét là các nhà nghỉ do nhà vua tài trợ là nơi khách lữ hành và người nghèo có thể được khám chữa bệnh, cũng như được cung cấp thực phẩm và thức uống. Một số đền thờ và trường học rõ ràng là có chăm sóc y tế. Các bệnh viện từ thiện dường như biểu hiện rõ hơn tại các lân bang đã du nhập đạo Phật và triết lý y học Ấn Độ. Các du khách đến Ấn Độ sau này ngỡ ngàng khi thấy có bệnh viện dành cho thú vật và xác nhận rằng sự từ thiện và bác ái dường như dành cho chó và bò nhiều hơn là cho người.
Dưới triều vua Asoka, các tăng lữ Phật giáo tổ chức kết tập lớn tại Patna (năm 250 trước CN) nhằm xác định văn bản nào nên được coi là luận thuyết chân thực của đạo Phật và tăng đoàn nên được tổ chức như thế nào. Các nhà truyền đạo Phật đi tới Syria, Ai Cập, Hy Lạp, Tây Tạng và Trung Quốc. Mặc dù đạo Phật phát triển mạnh tại nhiều nơi khác trên thế giới, tại Ấn Độ truyền thống Vệ Đà cổ xưa dần dà cũng chiếm lại vị thế của mình. Sau triều đại vua Asoka, lịch sử Ấn Độ trở nên đầy rẫy những cuộc ám sát,
phản bội, và bị người Hy Lạp, Scythian, Hồi giáo, Mông Cổ, châu Âu xâm lược. Nền độc lập do nước Anh trao trả năm 1947 đã dẫn tới bạo loạn, di cư ồ ạt, tàn sát và cuối cùng là phân tách ra thành những vùng theo đạo Hồi và đạo Hindu. Năm 1950, Ấn Độ trở thành nước cộng hòa dân chủ và Pakistan trở thành một cộng hòa theo Hồi giáo riêng rẽ vào năm 1956.
Thế là, mặc dù đạo Phật đã tạo nên một ảnh hưởng sâu rộng tại nhiều nước đã du nhập đạo Phật và y học Ấn Độ, nhưng y học Ayurvedic vẫn gắn chặt với các truyền thống tôn giáo Hindu. Vũ trụ theo cách mô tả của các tôn giáo Ấn Độ có kích thước vô cùng lớn và rất xa xưa, trải qua không biết bao nhiều chu kỳ phát triển và tan rã. Nhân loại vướng vào chu kỳ vũ trụ này khi đầu thai vào các tầng cao hoặc thấp trong hệ thống giai cấp (caste) phức tạp. Theo cách giảng giải của các thầy tu Bà La Môn, thì hệ thống giai cấp của Ấn Độ phản ánh trật tự của tự nhiên gặp trong tụng ca sáng thế của kinh Độc thư Vệ Đà (RigVeda). Phát xuất từ cái xác hiến tế để tạo ra thế giới, giai cấp Bà La Môn (tu sĩ) được sinh ra từ cái đầu; Sát Đế Lợi (kshatriyas) bao gồm chiến binh và quý tộc sinh ra từ tay; Phệ Xá (vaisyas) bao gồm nông dân, thương gia và thợ thủ công sinh ra từ bắp vế; và Thủ Đà La (sudras) bao gồm người hầu và nô lệ sinh ra từ bàn chân. Từ 4 giai cấp chính trên tiếp tục phân chia ra hơn 3.000 đẳng cấp nhỏ hơn và cuối cùng là những người Hạ Tiện (untouchables).
Xuất phát từ bên trong và sau đó vượt ra ngoài biên giới của khối tri thức thần thoại và các chiến trận mang tính sử thi của các vị thần, người chinh phục và giai cấp, y học Ấn Độ đã hình thành qua ba giai đoạn rõ rệt: thời tiền sử, thời Vệ Đà và thời Ayurvedic. Theo thần thoại đạo Hindu, thì
Brahma, người thầy đầu tiên của vũ trụ, là tác giả của Ayurveda (nghĩa là Khoa học của sự sống), là một trường ca bao gồm một trăm ngàn bài tụng ca và là cội nguồn của mọi kiến thức liên quan đến thuốc và y học. Hiền giả thần thánh Dhanvantari, người được sinh ra từ đại dương vũ trụ đã mang theo một lọ thuốc thần kỳ giúp các vị thần bất tử, đã mang khối tri thức Ayurvedic dạy cho nhiều lớp trí giả trước khi được viết ra thành chữ. Người ta cho rằng những văn bản còn sót đến ngày nay chỉ là cái bóng của kinh Ayurveda đã mất vốn do đấng Brahma soạn ra.
Trong lúc không thể xác định được chính xác được ai là tác giả cũng như thời điểm soạn ra kinh Vệ Đà, thì người ta cho rằng Độc thư Vệ Đà
(RigVeda) đại diện cho các tài liệu của giai đoạn từ năm 4500 đến 2000 trước CN và Atharvaveda có lẽ bao gồm các tài liệu được soạn ra trong giai đoạn từ năm 1500 đến 1000 trước CN. Trong các tụng ca và thần thoại Vệ Đà, thần thánh và thầy thuốc chiến đấu chống lại các thế lực ma quỷ và cử hành các nghi thức có tác dụng như các phương thuốc thần bí chống lại bệnh tật và dịch bệnh. Tất cả các thứ thuốc, kể cả trên một ngàn cây cỏ làm thuốc được coi là có nguồn gốc từ trên trời, dưới đất và trong nước. Mặc dù nguồn gốc của lý thuyết y học Ayurvedic còn chưa chắc chắn, nhưng dược liệu của ngành y khoa này đã phát triển từ khối tri thức về thuốc từ thời Vệ Đà hoặc thậm chí thời tiền sử nữa.
Bộ Vệ Đà chứa rất nhiều dẫn liệu về khối tri thức y học, giải phẫu học, vết thương, bệnh tật, thầy thuốc, ma quỷ, thuốc, bùa mê và phù chú. Cùng với một hệ thống phức tạp các thần thánh, người theo đạo Hindu cổ đại tin tưởng vào một loạt vô số các ma quỷ gây ra bệnh tật. Do bệnh tật là hậu quả của tội lỗi hoặc do hành động của quỷ thần, cho nên muốn chữa khỏi đòi hỏi sự thú nhận, thần chú, cầu đảo và trừ tà. Các thầy thuốc Vệ Đà soạn các món thuốc thảo dược và bùa chú để chống lại các quỷ thần gây nên bệnh sốt, gãy xương, vết thương và vết cắn có nọc độc. Các phương thuốc và các kỹ thuật mổ xẻ chuyên biệt chỉ có hiệu lực điều trị khi được kết hợp với nghi thức cúng bái phù hợp, nhưng vai trò của thầy pháp, thấy thuốc và mổ xẻ trong chừng mực nào đó không hề giống nhau. Thầy mổ xẻ điều trị các vết thương và vết rắn cắn, múc con mắt bị tổn thương, rút mũi tên, cắt bỏ chi và gắn chân giả cho người bệnh. Nếu những xương sọ được phát hiện tại hai địa điểm khai quật vùng Harappa là đại diện của một truyền thống thất truyền, thì các thầy thuốc ngoại khoa người Ấn cũng đã thực hiện kỹ thuật khoan sọ.
Khi sàng lọc các luật lệ, công trình kỷ niệm, bia khắc, dụng cụ phẫu thuật, đồ nghệ thuật và các câu chuyện do các nhà du hành, hành hương và quân xâm lược, ta có thể hiểu thêm về cách hành nghề của nền y học và phẫu thuật Ấn Độ. Một nghiên cứu về truyền thống dân gian đương thời và công việc của các thầy lang cũng giúp ta hiểu được cách hành nghề thời xa xưa như thế nào. Tuy nhiên, chỉ dẫn trực tiếp nhất về nền y học Ấn Độ thời cổ đại được tìm thấy trong các tác phẩm cổ điển của nền y học Ayurvedic. Những văn bản này là tài liệu cơ bản đối với một nền văn minh trong đó truyền miệng vẫn chiếm vai trò chủ đạo, nhưng do lịch sử của nước Ấn quá phức tạp và đa dạng về văn hóa, nên những văn bản trên phải được coi như
là những bức chân dung của người thầy thuốc lý tưởng hơn là một người hành nghề y tiêu biểu.
NỀN Y HỌC AYURVEDIC, KHOA HỌC CỦA SỰ SỐNG
Ayurveda hay “khoa học của sự sống”, là một hệ thống tinh thâm giữ vai trò nền tảng của nền y học truyền thống được thực hành rộng rãi hiện nay tại Ấn Độ. Người thầy thuốc nắm được khoa học của sự sống thì được gọi
là vaidya. Thầy thuốc, thuốc, người phụ tá và bệnh nhân là 4 trụ cột cấu thành nền y học Ayurvedic. Công việc của người thầy thuốc là phải đánh giá đúng về nhiệm vụ của mình, người phụ tá có nhiệm vụ chuẩn bị thuốc men và thực hiện các nhiệm vụ điều dưỡng, vai trò của bệnh nhân là phải kể cho đúng lịch sử của bệnh và tuân theo lời dặn của thầy thuốc. Điều quan trọng đối với thầy thuốc là phải đánh giá cẩn thận bệnh nhân và người phụ việc bởi vì khi điều trị không thành công thì người ta chỉ nhắc đến năng lực của người thầy thuốc mà thôi. Đúng ra thì Ayurveda gồm có 8 mảng: nội khoa, bệnh của đầu, phẫu thuật, độc chất học, những bệnh do quỷ thần gây ra, nhi khoa, sự hồi xuân và thuốc kích dục. Mục tiêu đầu tiên của ngành khoa học về sự sống là bảo tồn sức khỏe hơn là điều trị bệnh. Sức khỏe không những chỉ có nghĩa là không có bệnh tật, mà còn là một trạng thái chỉ đạt được và cho phép hưởng thụ sau khi tích cực theo đuổi một chương trình chi li cho riêng từng người, bao gồm các biện pháp dự phòng do các thầy thuốc Ayurvedic quy định. Caraka, Susruta, và Vagbhata, “tam thần y”, là các tác giả có phần thần thoại của những văn bản giải thích 8 ngành của y học Ayurvedic. Mặc dù
Khai thác vỏ cây quế tại Ấn Độ trên một tranh khắc gỗ thế kỷ 16.
có nhiều truyện kể phong phú có liên quan đến các hiền giả này, nhưng không có mấy thông tin rõ ràng về cuộc đời của họ. Theo truyện kể thì Caraka sống vào khoảng năm 1000 và 800 trước CN, nhưng các học giả Tây phương cho rằng họ xuất hiện muộn hơn, chỉ vào thế kỷ thứ nhất. Dù thế nào đi nữa thì bộ kinh Caraka Samhita chỉ mới có hình thức như hiện nay vào thế kỷ thứ nhất. Được tôn vinh là bộ trước tác lớn đầu tiên của y học Ấn Độ, tài liệu này mô tả hàng trăm thứ thuốc và xếp loại những thuốc này theo từng nhóm bệnh mà thuốc có tác dụng.
Susruta được coi là người hành nghề y và phẫu thuật khoảng năm 600 trước CN. Nếu Susruta Samhita (tập hợp các tài liệu do Susruta viết) được
coi như có tính hệ thống cao hơn bộ do Caraka viết về mặt dược lý học trong điều trị, thì phần nhấn mạnh của Susruta về nghệ thuật mổ xẻ rất đáng chú ý. Do tài liệu của Vagbhata có nhắc đến cả Caraka lẫn Susruta, cho nên rõ ràng Vagbhata là tác giả đi sau, nhưng phần tiểu sử của ông này cũng mù mờ không kém. Những tài liệu cổ điển khác trong Ayurveda đề cập tới sản khoa, phụ khoa và nhi khoa. Một tài liệu vào thế kỷ 14 cho đến nay vẫn còn phổ biến đối với các thầy thuốc vaidya trong đó có mô tả cách đoán bệnh bằng cách bắt mạch; điều này phản ánh sự tiếp thu các kỹ thuật vào lý thuyết và thực hành nền y học Ayurvedic.
Theo Caraka, việc có được và giữ được sức khỏe cũng như hạnh phúc là một mưu cầu bắt buộc và cao quý. Bệnh tật là vật cản không cho con người đạt được các mục đích cao nhất, nhưng Ayurveda, ngành khoa học thiêng liêng nhất trong các khoa học, đã cứu giúp cho con người trong kiếp này và những kiếp sau đó. Bộ Caraka Samhita là sách hướng dẫn dành cho ba thể loại y học: bùa chú và các hành động tôn giáo; chế độ ăn và thuốc men; và điều trị tâm lý hoặc sự khuất phục tâm thần.
Cả Caraka và Susruta đều quan tâm khá nhiều đến những đặc trưng giúp phân biệt đâu là người thầy thuốc chân chính đối với những kẻ mượn tiếng ngành y. Một thầy thuốc thông thái phải là người hiểu giải phẫu học, sinh lý học và sự phát triển của cơ thể con người, cũng như nguồn gốc và sự tiến hóa của vũ trụ, cho nên sẽ không bao giờ nghi ngờ về nguyên nhân của bệnh, nắm bắt được ngay từ lúc đầu những dấu hiệu và triệu chứng tinh tế nhất và biết được bệnh nào dễ chữa nhất, bệnh nào không thể chữa được.
Vì lẽ thầy thuốc là thành viên của một nhóm nghề nghiệp chứ không thuộc về một giai cấp nhất định, cho nên họ có thể thu nhận học trò từ tất cả ba giai cấp trên. Học trò phải đến sống và phục vụ thầy giáo cho đến khi nào sư phụ hài lòng mới được cho là hoàn tất quá trình đào tạo. Học trò chỉ có thể tiếp cận được với các tác phẩm cổ điển khi nghe thầy đọc và giảng giải các tài liệu. Nhiệm vụ của trò là phải thuộc nằm lòng các nội dung thiêng liêng và chứng tỏ được là mình có khả năng về nội khoa và mổ xẻ. Bằng các thực tập trên quả trái cây, thực vật, thịt, hình nhân, học trò học việc mới phát triển được kỹ năng ngoại khoa trước khi thao tác thực sự trên bệnh nhân. Chẳng hạn, anh ta học cách rạch đường mổ bằng cách thực hành trên quả dưa chuột và tập cách lấy máu trên tĩnh mạch con vật chết hoặc trên
cọng hoa sen.
Thầy thuốc giỏi phải đạt được 4 yêu cầu cơ bản về trình độ: kiến thức về lý thuyết, lý luận khúc chiết, có nhiều kinh nghiệm thực hành, và kỹ năng. Thông cảm và tử tế với mọi bệnh nhân, người thầy thuốc dốc lòng cho những bệnh có thể chữa được và luôn giữ một khoảng cách đối với những người sắp chết. Thầy thuốc mổ xẻ phải can đảm, có đôi tay vững vàng, dụng cụ bén nhọn, thái độ trầm tĩnh, lòng tự tin kiên định, và các phụ tá có thần kinh vững chắc. Mặc dù người thầy thuốc không bao giờ từ bỏ hoặc làm hại cho người bệnh, nhưng cũng không bị buộc phải nhận chữa cho những kẻ tội phạm hoặc những người mắc bệnh nan y. Tuy vậy, thầy thuốc lý tưởng là người dốc tâm ra sức cứu chữa người bệnh dù có phương hại đến tính mạng của mình.
Môn sinh lý học của y học Ayurvedic giải thích các chức năng cơ thể theo ba chất dịch cơ bản (dosas) hoặc nguyên lý - vata, pitta, and kapha- thường được dịch là gió, mật và mật đen (phlegm). Mặc dù các nguyên lý cơ bản của bệnh lý học về thể dịch của người Ấn Độ cũng tương tự như các nguyên lý của y học Hy Lạp, nhưng hệ thống Ayurvedic đưa ra một số các bổ sung tinh tế. Ba loại dịch thể của y học Ayurvedic khi kết hợp với máu, sẽ quyết định cho tất cả các chức năng cần thiết cho sự sống. Cơ thể được cấu thành do sự kết hợp của 5 yếu tố - đất, nước, lửa, gió và khoảng trống - và từ 7 loại mô cơ bản. Các chức năng của cơ thể cũng phụ thuộc vào 7 thứ gió riêng biệt, phần hồn chính và phần hồn bên trong. Một số thầy thuốc Ayurvedic cũng quan tâm đến kỹ thuật bắt mạch để chẩn đoán bệnh, hơi thở (prana) và kinh lạc (channel), là những quan niệm gợi nhớ đến lý thuyết y học cổ điển của người Trung Quốc.
Sức khỏe là kết quả của sự cân bằng tinh vi và hòa hợp giữa các chất dịch cơ bản; sự cân bằng này dễ bị mất đi khi gặp tai nạn, thương tích, stress và bị ma quỷ ám chướng. Như vậy, bệnh tật là do sự mất thăng bằng giữa gió, mật và mật đen hoặc, nói một cách triết lý hơn, về mặt sinh lý học đó là do
sự lạm dụng đối với cơ thể, sai lầm trong quyết định và do thời gian trôi qua. Mức độ xáo trộn sẽ xác định là bệnh sẽ nhẹ, nặng hoặc nan y. Trừ một số ít người có sự cân bằng hoàn hảo, mọi nhân sinh từ khi sinh ra đều có sự bất hợp nhiều hay ít giữa ba loại thể dịch từ đó hình thành yếu tố tiền đề cho những thứ bệnh nào đó. Sự bất hợp giữa ba loại thể dịch sẽ dẫn đến sự
xáo trộn máu huyết. Vì vậy, thầy thuốc phải loại bỏ đi “máu xấu” bằng cách trích huyết hoặc cho đỉa hút máu, và phục hồi sự cân bằng thể dịch khi buộc phải theo một chế độ ăn thích hợp.
Chọn lựa một chế độ ăn đúng đắn là một công việc rất khó khăn bởi vì có liên quan đến các khía cạnh tôn giáo cũng như y học và sinh lý học. Mặc dù các sử gia đều thống nhất là người Hindu cổ đại có ăn thịt, các tín đồ Hindu hiện đại theo đường lối cực đoan lại cho rằng ăn chay và cấm ăn thịt bò là những điểm nhấn trong bản sắc đạo Hindu. Tại nhiều tiểu bang ở Ấn Độ, giết bò cái là phạm luật. Tuy nhiên, bằng chứng lấy từ các kinh Vệ Đà, các trường ca sử thi và các địa điểm khai quật khảo cổ đều chứng minh rằng “tính thần thánh” của bò cái thật ra chỉ là một huyền thoại tương đối mới gần đây. Các truyền thống Ấn Độ cổ đại có nhắc đến sự hiến tế bò cái và các động vật khác cho các vị thần trong kinh Vệ Đà và việc ăn thịt những động vật trên là một phần của bữa ăn bình thường. Một số sử gia tin rằng sự cấm đoán ăn thịt là do sự tiến hóa của các học thuyết về luân hồi và bất bạo động của các đạo Hindu, đạo Phật và đạo Kì-na (Jain). Các chủ đề đan xen trong nhiều tác phẩm y học kinh điển của Ấn Độ cho thấy có mối quan hệ cơ bản giữa thức ăn và trật tự vũ trụ. Ăn chay, bất bạo động và lòng thương xót cho mọi sinh linh có vai trò quan trọng đối với sức khỏe, chữa bệnh và trật tự xã hội. Tuy vậy, các đơn thuốc Ayurvedic đôi khi đi ngược lại với quan niệm lý tưởng về bất bạo động và ăn chay của đạo Hindu. Đối với một số bệnh nhân cá biệt, thầy thuốc thậm chí còn cho uống nước canh nấu từ thịt hổ hoặc sư tử.
Chẩn đoán là một sứ mạng đầy thách thức; có hơn 1.000 chứng bệnh được nêu trong các tài liệu cổ xưa. Sốt chiếm vị trí danh dự là “vua của mọi loại bệnh của cơ thể”. Khi sốt có tính gián đoạn, thời khoảng giữa hai đỉnh sốt cho ta biết tiên lượng của bệnh. Ghi nhận về thời khoảng giữa các đợt sốt,
cũng từng được nêu trong y học Hy Lạp, có lẽ phản ánh kinh nghiệm đối với các kiểu sốt của bệnh sốt rét.
Chẩn đoán chính xác là mấu chốt để chọn cách điều trị đúng đối với bệnh chữa được. Sau khi lắng nghe lời bệnh nhân kể về bệnh tật, thầy thuốc sẽ nghiên cứu sắc diện bệnh nhân, tìm ra những bất thường, những tiếng động bên trong, máu, thể dịch và chất thải tiết. Các kỹ thuật thầy thuốc sử dụng là sờ, nghe, phát hiện các dấu hiệu bằng cách dùng thuốc để điều trị thử, và
đánh giá mùi và vị của các chất thải tiết. Nếu người thầy thuốc không muốn chính mình phải nếm các chất thải tiết, ông ta có thể giao việc này cho học trò, hoặc đem cho côn trùng ăn và quan sát phản ứng của chúng. Nghiệm pháp nếm vị cho ý nghĩa chẩn đoán nổi danh nhất cung cấp thông tin về “bệnh nước tiểu mật ong” có lẽ để phát hiện chứng bệnh đái tháo đường ngày nay. Các thầy thuốc Ayurvedic hiện nay khẳng định rằng nguyên nhân do vi trùng và bản chất truyền nhiễm của một số bệnh đã được nêu trong các tài liệu cổ điển. Có lẽ người xưa đã nghi ngờ nguyên nhân ký sinh trùng của bệnh phong và đậu mùa, nhưng “các tác nhân ký sinh” làm lây nhiễm các bệnh dịch có nhiều khả năng là do ma quỷ gieo rắc bệnh tật hơn là do các vi sinh vật. Tuy vậy, các phương pháp đối phó với một tác nhân ma quỷ vô hình lại rất hiệu quả đối với vi trùng. Lấy ví dụ, các nghi thức được tiến hành khi cúng bái nữ thần Sitala có thể bao gồm việc chủng ngừa bệnh đậu mùa.
Nghệ thuật trị liệu lồng ghép 5 cách điều trị được ghi trong kinh sách. Xoa bóp các dạng, xức dầu, và yoga đều được coi là phương thức điều trị. Lấy ví dụ, yoga, một hệ thống phức tạp các tư thế, thiền định, kiểm soát hơi thở, được đưa ra để an định tâm thần và đem lại sự hòa hợp giữa thân và ý. Những người hâm mộ yoga hiện đại cho rằng môn này nâng cao sức khỏe và có tác dụng trị liệu đối với những rối loạn thể chất, tâm thể và tâm lý. Tuy nhiên, xét về nguồn gốc, thì yoga chỉ là một phương tiện thực chứng chơn ngã (self-realization) hơn là một phương thức trị liệu. Một số hình thức yoga chẳng hạn như Kundalini Yoga, vốn là một phần của Tantra Yoga, được coi là có tác dụng nâng cao sức khỏe tâm thần và hoạt động của hệ thần kinh. Tantra Yoga dạy rằng cơ thể có chứa 6 trung tâm thần kinh (chakra). Thể loại yoga này được John Woodroff (Arthur Avalon) tuyên truyền rộng rãi. Ông này là tác giả quyển Quyền lực con rắn (The Serpent Power) (1919). Những ai thực hành theo hình thức yoga này cho rằng sẽ tìm được một giác quan phi thường về tỉnh thức hoặc thậm chí sự phóng thích các năng lực siêu nhiên khi kích thích năng lượng Kundalini và chuyển năng lượng này đi về não.
Với cả một kho tàng các phương thuốc, bao gồm tất cả những gì thuộc về dược lý học Ayurvedic, đã cho phép Caraka khẳng định rằng nếu được điều trị đúng mức thì ngay cả người già, người tàn tật cũng có thể lấy lại được sức mạnh thời trai trẻ. Khoảng một ngàn thứ thuốc có nguồn gốc thảo mộc được đề cập trong các tài liệu Ayurvedic cổ điển chính, nhưng cũng có
nhiều thứ không xác định được hoặc đó là “thuốc của thần thánh” như soma chẳng hạn. Các huyền thoại Vệ Đà cho rằng Brahma tạo ra soma để ngăn ngừa tuổi già và cái chết, nhưng bản tính của “thứ vua cây cỏ” này vẫn còn là một bí ẩn đối với các bậc thức giả sau này. Các thầy lang cũng bào chế thuốc từ khoáng chất, đá quý, kim loại, các sản phẩm của động vật như mật, sữa, da rắn và phân động vật. Đối với những bệnh tật do sự biến chất của các dịch cơ thể, thì cách điều trị phù hợp là thanh tẩy bên trong, thanh tẩy bên ngoài và giải phẫu. Những bệnh do chế độ ăn không phù hợp đòi hỏi phải có những phương thuốc để thanh tẩy bên trong, nhưng để điều trị các thầy thuốc thường khởi đầu bằng cách cho nhịn ăn 7 ngày. Một số bệnh nhân hồi phục trong giai đoạn này và không cần phải điều trị gì thêm; và chắc cũng còn một số khác có thể tử vong và như thế khỏi cần phải điều trị nữa.
Các món thuốc trần thế rõ ràng là làm từ những cây cỏ phổ thông. Một số được xem như cho nhiều công dụng. Lấy ví dụ, hạt muồng (senna), lấy từ cây muồng trâu (cassia) có lẽ đã được các thầy thuốc Ayurvedic sử dụng ít nhất qua 2000 năm. Hạt muồng được đưa vào các đơn thuốc làm thuốc nhuận trường, và chữa bệnh ngoài da (xức lác), bệnh ở mắt, ho và các chứng sốt. Một loại thuốc cổ truyền khác của Ấn Độ lấy từ nhựa một loại cây mọc ở Ấn Độ, Pakistan và Afghanistan đã được sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh trong 2000 năm. Các nhà khoa học khi tìm các tác nhân làm thuốc trong những bài thuốc cổ truyền đã phát hiện là nhựa của cây guggul (Commiphora mukul) có chứa một phức hợp có tính năng điều chỉnh nồng độ cholesterol trong máu.
PHẪU THUẬT, CƠ THỂ HỌC VÀ MỔ XẺ
Có lẽ khía cạnh nhiều ấn tượng nhất của nền y học Ấn Độ cổ đại là phạm vi của các can thiệp ngoại khoa và mức độ thành công được các môn đồ của Susruta và Caraka đưa ra. Các câu chuyện thần thoại Vệ Đà đề cập đến các phẫu thuật xuất sắc thực hiện trên người và thần thánh, chẳng hạn như phương thuốc chữa bệnh bất lực bằng cách ghép tinh hoàn của một con cừu đực cho thần Indra bị bệnh. Các tài liệu Ayurvedic mô tả các phẫu thuật đã quá quen thuộc nhưng vẫn còn đáng sợ ví dụ mổ bắt con (cesarean), mổ lấy sỏi ở bàng quang, đánh mộng đục thủy tinh thể, cắt a-mi-đan, cắt chân tay và giải phẫu tạo hình. Như vậy, truyền thống phẫu thuật Ayurvedic đề ra một sự thách thức thú vị đối với các giả định của phương Tây rằng cần phải
có môn giải phẫu có hệ thống cơ thể con người, mổ xác súc vật còn sống và sự loại bỏ bệnh lý học thể dịch mới đem lại được sự tiến bộ trong phẫu thuật. Tại Ấn Độ thời cổ đại, các thầy thuốc ngoại khoa đã thực hiện thành thạo nhiều đại phẫu mà không cần phải quan tâm đến các điều kiện tưởng chừng bắt buộc như trên.
Nếu con dao được chấp nhận sử dụng trong điều trị tại Ấn Độ, thì đối với các giai cấp lớp trên, việc tiếp xúc với xác chết và sử dụng dao mổ trên người chết đều không được phong tục và tôn giáo cho phép. Tuy nhiên, Susruta dạy rằng các thầy thuốc nội khoa và ngoại khoa phải nghiên cứu cơ thể con người bằng các quan sát trực tiếp để có được phần kiến thức cơ bản về cấu trúc và chức năng của các bộ phận trong cơ thể. Trong khi thừa nhận những cấm kỵ tôn giáo không cho phép tiếp xúc với xác chết, Susruta công nhận rằng việc nghiên cứu khoa giải phẫu học -khoa học của con người - là một hình thức kiến thức gắn kết với các hiện tượng cao hơn bao gồm sự liên hệ giữa con người và thần thánh.
Trong khi tìm cách thoát khỏi sự cấm đoán tôn giáo không cho phép mổ xác chết, Susruta đưa ra một phương cách ít gặp để thăm dò cơ thể. Phù hợp cho việc mổ xác nếu đó là một cái xác toàn vẹn, không quá già hoặc
quá trẻ, chết không do bệnh dài ngày hoặc bị ngộ độc. Sau khi loại bỏ phân ở trong ruột, nhà giải phẫu học sẽ dùng cỏ phủ lên thi thể và đem đặt vào trong một chiếc lồng làm bằng lưới mịn, rồi nhúng sâu vào một cái ao vắng. 7 ngày sau đó, nhà giải phẫu học có thể bóc dần từng lớp da và cơ bằng cách chà xát nhẹ trên cơ thể bằng cọ mềm. Theo Susruta, thì cách này sẽ làm lộ ra và sờ được những phần nhỏ nhất của cơ thể. Tuy nhiên, không có mấy bằng chứng cho thấy các thầy y khoa Ayurvedic đã theo chỉ dẫn của Susruta về cách mổ xác.
Tất cả các sinh viên đều buộc phải thành thạo một khía cạnh của môn giải phẫu học con người là toàn bộ hệ thống các marma, “điểm cốt tử” (vital points) được phân bố trên khắp cơ thể. Đây là những điểm hội tụ của tĩnh mạch, động mạch, dây chằng, khớp và cơ và là nơi mà nếu bị tương tổn có thể sẽ gây tử vong hoặc tàn phế. Hệ thống cổ điển nêu ra 107 điểm như thế, mỗi điểm có tên riêng và đặc trưng riêng. Khi khám một người bị thương, việc đầu tiên của thầy thuốc là xác định xem vết thương có nằm trên một trong những marma hay không. Nếu vết thương nằm trên một marma có
thể dẫn đến tử vong, thầy thuốc mổ xẻ sẽ cắt chi ở một vị trí phù hợp nằm phía trên marma. Khi trích huyết, hoặc bất cứ hình thức can thiệp ngoại khoa nào, đều phải tránh gây thương tổn cho các marma.
Trích máu và đốt cầm máu nằm trong nhóm các thủ thuật được thực hiện thường xuyên nhất. Susruta dạy rằng, đốt cầm máu là phương pháp ưa chuộng để điều trị xuất huyết và những bệnh dùng thuốc không khỏi. Ngoài ra, ông cũng tin rằng cách đốt bằng thỏi sắt nướng cháy đỏ có ưu thế hơn nhiều so với cách đốt bằng hóa chất. Trích huyết được coi là cách điều trị tốt nhất, nhưng phải được thực hiện một cách thận trọng bởi vì máu là nguồn gốc của sức mạnh, sự linh hoạt và trường thọ. Cho con đỉa hút máu được khuyến cáo là hình thức trích huyết phù hợp nhất bởi vì người ta nghĩ rằng chúng ưa hút thứ máu xấu hơn là máu lành mạnh.
Theo Susruta, thì có thể mô tả tất cả các phẫu thuật ngoại khoa dựa theo các kỹ thuật cơ bản nhất khi thực hiện. Có nghĩa là, mọi thủ thuật đều chỉ là những biến thể của sự cắt bỏ, rạch, rạch nông ngoài da, may lại, chọc lỗ, bứng các khối đặc, và tháo dịch. Bất cứ phẫu thuật ngoại khoa nào cũng đòi hỏi phải có các bước chuẩn bị như chú ý đặc biệt đến người bệnh, phòng mổ và “ti tỉ” dụng cụ phẫu thuật. Một lý do giải thích vì sao cần có nhiều dụng cụ phẫu thuật vì sự ưa chuộng các dụng cụ có hình dạng giống như nhiều loài thú vật. Nếu cái forceps miệng sư tử không phù hợp, thì phẫu thuật viên có thể thử những thứ như forceps miệng diều hâu, miệng con diệc, hoặc miệng cá sấu. Phẫu thuật viên cũng cần đến các loại bàn có hình dạng và kích cỡ khác nhau cho từng loại phẫu thuật và “chiếc giường gãy xương” để kéo chỗ xương gãy hoặc khớp bị trật. Điều quan trọng trên hết mà phẫu thuật viên phải xem là căn phòng để tiến hành phẫu thuật có được chuẩn bị kỹ lưỡng đảm bảo sạch sẽ và tiện lợi hay không.
Chăm sóc y khoa của phụ nữ có thai bao gồm các nỗ lực để bảo đảm sao cho có con trai, quản lý chế độ ăn, làm giảm đau khi sinh, đẻ an toàn và chăm sóc hậu sản cho mẹ và con. Bình thường thì bà đỡ lo việc sinh đẻ,
nhưng trong các ca khó, phải cần đến một phẫu thuật viên để thực hiện các thủ thuật xoay, nắm, cắt bỏ hoặc hủy bào thai. Nếu đẻ theo lối bình thường không được, hoặc nếu người mẹ chết trong khi sinh, thì Susruta khuyên nên mổ để bắt con. Một số dấu hiệu báo trước kết cục của thai kỳ. Lấy ví dụ, nếu người mẹ hung bạo và xấu tính, thì đứa trẻ sẽ mắc chứng động