🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lịch Sử Việt Nam Bằng Tranh (Tập 4) – Thời Nhà Lý Ebooks Nhóm Zalo Hình vẽ do phòng vẽ “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” thực hiện Họa sĩ thể hiện: Tô Hoài Đạt, Lâm Chí Trung, Lương Định Quốc. biểu ghi biên mục trước xuất bản do thư viện KHTH TP.HCM thực hiện General Sciences Library Cataloging-in-Publication Data Thời nhà Lý / Trần Bạch Đằng chủ biên ; Tôn Nữ Quỳnh Trân, Lê Văn Năm biên soạn ; họa sĩ Nguyễn Quang Cảnh ... [và nh.ng. khác]. - Tái bản lần 1. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2015. 316 tr. : minh họa ; 24 cm. - (Lịch sử Việt Nam bằng tranh ; T.4). 1. Việt Nam -- Lịch sử -- Triều nhà Lý, 1010-1225 -- Sách tranh. I. Trần Bạch Đằng. II. Tôn Nữ Quỳnh Trân. III. Lê Văn Năm. IV. Ts: Lịch sử Việt Nam bằng tranh. 1. Vietnam -- History -- Lý dynasty, 1010-1225 -- Pictorical works. 959.7023 -- dc 22 T449 Lời giới THiệu Công trình Lịch sử Việt Nam bằng tranh ra đời nhằm mục đích giới thiệu lịch sử nước nhà một cách ngắn gọn, sinh động, có hệ thống qua những truyện kể súc tích và bằng những tranh vẽ minh họa. Bộ sách tranh nhiều tập này cố gắng phản ánh con người và lịch sử Việt Nam theo đúng tiến trình lịch sử với không gian, văn hóa, y phục, tính cách phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử. Bộ Lịch sử Việt Nam bằng tranh dự kiến sẽ thực hiện xuyên suốt từ người cổ Việt Nam của các thời đại đồ đá, đồ đồng đến thời Hùng Vương dựng nước; trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc đến thời kỳ độc lập tự chủ của Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn và cuối cùng là hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ vừa qua. Bộ sách chia thành nhiều tập, mỗi tập viết về một thời kỳ hay một nhân vật, một vấn đề tiêu biểu của thời kỳ đó. Mỗi tập có cấu trúc độc lập riêng nhưng hài hòa trong một tổng thể chung là Lịch sử Việt Nam. Trong quá trình biên soạn, các tác giả còn chú ý thể hiện các đặc điểm văn hóa, lễ hội, phong tục tập quán tiêu biểu của từng thời kỳ lịch sử. Công trình này là nỗ lực chung của các họa sĩ, các cán bộ nghiên cứu của Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh và Nhà xuất bản Trẻ - Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là bộ Lịch sử Việt Nam bằng tranh đầu tiên của nước ta được thể hiện với mục đích và yêu cầu trên, nên trong quá trình biên soạn chắc không tránh khỏi những sơ xuất. Ban biên soạn và Nhà xuất bản Trẻ mong được sự góp ý của bạn đọc gần xa. Thành phố Hồ Chí Minh Trần Bạch Đằng Ngày mồng 1 tháng 10 năm giáp Ngọ (1054), vua Lý Thái Tông băng hà. Ngôi vua được truyền cho con trai trưởng là Thái tử Nhật Tôn. Nhật Tôn còn có một người em trai là hoàng tử Nhật Trung. Hoàng tử Nhật Trung vốn là người hiền hậu, lại không có ý tranh đoạt ngai vàng nên Thái tử Nhật Tôn lên ngôi một cách thuận lợi, được cả hoàng gia lẫn triều thần ủng hộ. 7 Sách sử không ghi rõ mẹ của Nhật Tôn tên thật là gì, chỉ biết bà mang họ Mai. Tương truyền, trước khi mang thai Thái tử, bà nằm mộng thấy mặt trăng rơi vào bụng. Ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023), Thái tử Nhật Tôn chào đời tại cung Long Đức vì lúc này vua cha vẫn đang là Thái tử. Năm năm sau (1028), Lý Phật Mã lên ngôi (tức vua Lý Thái Tông), bà Mai được lập làm Hoàng hậu, Nhật Tôn được lập làm Thái tử. Đến khi Nhật Tôn lên ngôi vua, bà Mai được tôn làm Linh Cảm Thái hậu. 8 Nhật Tôn vốn là một cậu bé thông minh, từ nhỏ đã hiểu kinh sách, biết âm luật và giỏi binh thư, võ lược. Lớn lên, Nhật Tôn thường được vua Thái Tông sai cầm quân đi đánh dẹp những cuộc nổi loạn. Quân của Thái tử đi tới đâu thì chiến thắng tới đó nên uy danh của Nhật Tôn ngày càng lớn. Thêm nữa, do sống ở cung Long Đức, gần gũi với nhân dân lao động suốt hai mươi bảy năm nên Nhật Tôn rất được lòng dân chúng. 9 Là người luôn đề cao sức mạnh dân tộc, muốn đất nước ngày càng lớn mạnh nên khi vừa mới lên ngôi, Lý Thánh Tông liền đổi tên nước ta từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt, mở ra một kỷ nguyên Đại Việt kéo dài đến 750 năm (cho đến đầu thế kỷ 19, cụ thể là năm 1804, dưới triều vua gia Long, tên nước mới đổi thành Việt Nam). 10 11 Trong mười tám năm trị vì (1054-1072), vua Thánh Tông đã thay đổi niên hiệu năm lần*, phần nhiều là để đánh dấu một sự kiện quan trọng nào đó. Như năm Mậu Thân (1068), khi châu Chân Đăng dâng vua hai con bạch tượng (voi trắng) quý, vua đổi niên hiệu thành Thiên Huống Bảo Tượng. Hoặc vào tháng 7 năm Kỷ Dậu (1069), vua lại đổi niên hiệu thành Thần Võ để nhắc nhở cho mọi người biết sức mạnh của Đại Việt. * Đó là các niên hiệu Long Thụy Thái Bình (1054-1058), Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065), Long Chương Thiên Tự (1066-1067), Thiên Huống Bảo Tượng (1068), Thần Võ (1069-1072). 12 Do đã sống gần gũi với dân gian một thời gian dài, đã từng thấy nhiều cảnh đói rét, oan uổng, bất công từ chốn thị thành đến miền thôn dã nên Lý Thánh Tông rất hiểu nổi khổ của dân chúng và từ đó, người rất thương dân. Ngay khi mới lên ngôi, vua Thánh Tông đã cho các cung nữ trong cung Thúy Hoa được trở về quê quán, được lấy chồng, sinh con, sống cuộc sống bình thường như bao cô gái khác. 13 Sau đó, vua lại cho đốt bỏ những hình cụ dùng để tra tấn tội nhân. Từ đây, tù nhân không còn bị tra khảo tàn nhẫn để lấy lời khai nữa. Không những vậy, vào những năm đại hạn, mất mùa, lo rằng dân chúng sẽ bị đói rét, vua Thánh Tông lại thường cho mở kho lấy lúa, tiền, vải chia cho dân nghèo. 14 Một hôm, giữa trời đông rét mướt, chạnh lòng nghĩ đến các tù nhân, vua Thánh Tông bèn bảo: - Trẫm ở trong cung, sưởi lò than thú*, mặc áo hồ cừu** mà còn rét như thế này huống chi những tù phạm bị giam trong ngục, bị gông cùm trói buộc, ngay gian chưa rõ, cơm không đủ no bụng, áo không phủ kín thân, gặp một cơn gió bấc thổi, nhỡ rét quá mà chết thì thật là thương lắm. Rồi nhà vua truyền lệnh cho quan Hữu ty phát cho tù nhân chăn chiếu đầy đủ và cho ăn một ngày hai bữa. Từ đấy số tù nhân chết vì đói rét giảm hẳn. * Lò sưởi đốt bằng thứ than làm từ xương động vật. ** Áo hồ cừu là loại áo làm bằng lông chồn, nhẹ và ấm. 15 Lại thương những người vì kém hiểu biết mà phạm tội, vua còn sửa đổi, giảm nhẹ một số hình phạt đã ghi trong bộ Hình thư dưới thời vua Lý Thái Tông. Năm 1055, trong một lần xét án ở điện Thiên Khánh, có công chúa Động Thiên đứng hầu bên cạnh, vua Thánh Tông đã chỉ vào công chúa mà nói: - Trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy, hiềm vì trăm họ có kẻ không hiểu biết, tự dấn thân vào đường phạm pháp mà phải tội, trẫm lấy làm thương xót lắm. 16 Và vua ra lệnh: - Từ rày về sau, tội trạng bất kể nặng nhẹ cũng khoan thứ* bớt đi! Đến năm 1071, vua Thánh Tông còn định ra lệ cho phép người mắc tội trượng hình** có thể dùng tiền để chuộc tội. Tuy nhiên, những người phạm trọng tội mà bị xử tử hình thì không được hưởng bất kỳ ân xá nào, kể cả khi vua có ban lệnh đại xá toàn thiên hạ. * Hành động có tính khoan dung và tha thứ. ** Hình phạt bị đánh bằng trượng. 17 Bên cạnh đó, để các quan phụ trách xử án luôn giữ được sự công bằng, trong sáng, vua Thánh Tông quyết định cấp lương bổng thật hậu cho họ. Các quan cao cấp trong tư pháp như Sĩ sư Ngụy Trọng Hòa và Đặng Thể Tư được cấp mỗi tháng 50 quan tiền, 200 bó lúa và cá muối. Còn mười viên ngục lại thì mỗi tháng lãnh 20 quan tiền, 100 bó lúa. 18 Vua Lý Thánh Tông là người thích đi thăm thú dân tình ở khắp nơi. Vua đã đi thăm hầu hết các châu huyện trên cả nước, kể cả những vùng rừng núi xa xôi như châu Lạng. Khi thì vua đi xem nông dân gặt lúa, khi thì đi xem ngư dân đánh cá. Khi đó, vì chưa có con trai để lập làm Thái tử nên vua còn hay đi cầu tự tại những nơi dân gian cho là rất linh thiêng. 19 Năm 1062, vì đã bốn mươi tuổi mà vẫn chưa có người thừa kế ngai vàng nên vua Thánh Tông buồn bực, thường đi du ngoạn cho khuây khỏa. Một hôm, vua đi qua làng Thổ Lỗi (gia Lâm, Hà Nội ngày nay), thấy có ngôi chùa đẹp liền ghé vào thăm. Thấy xa giá nhà vua đi tới, dân làng đổ xô ra xem, chỉ trừ một người con gái mải mê hái dâu cạnh một gốc cây lan là không mảy may để ý đến đấng thiên tử. 20 Vua ngạc nhiên, cho mời cô gái đó đến. Thấy nàng ăn nói lưu loát, thông minh, lại xinh đẹp, nết na nên vua đưa nàng về cung, cưới làm vợ, đặt tên mới là Ỷ Lan*. Bốn năm sau, Ỷ Lan sinh được một hoàng nam. Vua Thánh Tông vô cùng mừng rỡ, đặt tên con là Càn Đức, phong làm Thái tử, còn Ỷ Lan cũng được phong làm Nguyên phi**. * Ỷ Lan có nghĩa là dựa vào gốc cây lan. ** Nguyên phi đứng đầu hàng phi, chỉ đứng dưới hoàng hậu. 21 Các quan lại trong triều khi đó có nhiều người tài giỏi, nổi bật trong đó có Thái sư Lý Đạo Thành. Ngay từ khi mới lên ngôi, năm 1054, vua Thánh Tông đã phong cho Lý Đạo Thành chức Thái sư và Lý Đạo Thành giữ chức này trong suốt mười tám năm Thánh Tông trị vì đất nước. Lý Đạo Thành tuy theo đạo Phật nhưng lại đề cao những tư tưởng của Nho giáo như lòng trung thành tuyệt đối với đấng thiên tử, tôn trọng sự “chính danh” tức là mỗi người đều phải làm đúng chức phận của mình để “vua ra vua”, “tôi* ra tôi”, “cha ra cha”, “con ra con” thì xã hội mới có kỷ cương, gia đình mới có nề nếp. * Tôi ở đây có nghĩa là bề tôi dưới quyền của vua. 22 Mùa thu năm Kỷ Hợi (1059), để chỉnh đốn tác phong làm việc của quan lại cho trang trọng hơn, vua Thánh Tông đã cấp cho các quan trong triều mũ phốc đội đầu* và giày da. Từ đấy các quan khi vào chầu vua phải đội mũ và đi giày. Đến năm 1063, vua Thánh Tông lại đặt thêm lệ tung hô, chúc tụng nhà vua. Khi vào yết kiến, các quan phải xướng lên câu “Thánh cung vạn phúc”** rồi quân sĩ đồng thanh hô theo. * Mũ phốc đầu là mũ cánh chuồn. ** “Thánh cung vạn phúc” có nghĩa là nhà vua được muôn phước. 23 Ải Chi Lăng ngày nay. Ảnh: Vi Hồng Tuyên giống như các vua đời trước, vua Thánh Tông đối xử với các quan đứng đầu các châu vùng biên giới rất mềm dẻo nên rất được lòng họ. Các quan châu mục này vẫn thường dâng lên vua những sản vật quý của địa phương. Ở vùng biên giới, châu Lạng là châu rộng nhất và quan trọng nhất vì nó nằm án ngữ trên con đường bộ từ Trung Quốc sang Đại Việt*. Châu Lạng lại có động giáp là lớn nhất, nằm ở phía nam ải Chi Lăng - một cửa ải hiểm yếu. Từ vua Thái Tổ, Thái Tông đến vua Thánh Tông, tất cả đều rất ưu ái châu này. * Châu Lạng nay là tỉnh Lạng Sơn và một phần tỉnh Bắc Giang. 24 Vua Thái Tông từng gả công chúa Bình Dương cho quan Châu mục châu Lạng là Thân Thiệu Thái. Công chúa sinh hạ được người con trai là Thân Cảnh Nguyên. Sau này, Cảnh Nguyên trở thành một chàng trai thông minh, tài giỏi, được nối nghiệp cha làm Châu mục. Năm 1059, trong một chuyến đi săn ở sông Nam Bình thuộc châu Lạng, vua Lý Thánh Tông đã đến thăm công chúa Bình Dương. 25 Tại đây, nhà vua đã gặp Cảnh Nguyên và rất mến mộ chàng trai tài trí này. Bảy năm sau (1066), khi người con gái yêu của vua là công chúa Thiên Thành đến tuổi cập kê, vua gả nàng cho Thân Cảnh Nguyên. Họ Thân từ đấy càng trung thành với nhà Lý và trở thành phên giậu* chắc chắn trong việc chống quân Tống xâm lược sau này. Nhờ chính sách kết thân ấy mà lòng dân miền núi đều hướng về triều đình. * Phên giậu hay rào giậu - chỉ sự che chắn ở biên cương. 26 Vua Lý Thánh Tông còn xây dựng lực lượng quân đội hùng mạnh, chia làm hai loại. Loại thứ nhất là quân Cấm vệ có nhiệm vụ bảo vệ nhà vua, hoàng gia và kinh thành. Trước đây, dưới thời vua Lý Thái Tông, toàn thể quân Cấm vệ được chia làm mười đơn vị, mỗi đơn vị được gọi là quân. Mỗi quân là 200 người, có cả lính kỵ binh và lính bắn đá. Thời vua Lý Thánh Tông cho tăng thêm sáu quân nữa, tất cả là mười sáu quân. 27 Quân Cấm vệ đều khỏe mạnh, giỏi võ nghệ và rất trung thành với nhà vua. Trên trán mỗi người đều thích ba chữ Thiên tử binh*. Ngày thường, họ đóng trại xung quanh kinh thành, khi vua đi đâu xa thì họ đi theo bảo vệ vua. Khi đất nước có loạn, họ sẽ là những người lính đi trước, dũng cảm xông pha mũi gươm, ngọn giáo để bảo vệ vua và triều đình. * Tức là binh lính của nhà vua. 28 Loại quân thứ hai thì không có quân số nhất định. Đó là những người dân ở trong độ tuổi đi làm lính nhưng mỗi tháng chỉ lên đơn vị một lần, gọi là đi phiên. Thời gian đi phiên không lâu. Hết phiên lại về quê làm ruộng. Loại quân này đóng ở các châu quận, không có lương, chỉ có cấp chỉ huy vì phải thường trực ở doanh trại nên được cấp lúa và vải. Hệ thống quân đội như vậy vừa đảm bảo quân số lại đảm bảo nguồn lực cho sản xuất nông nghiệp. 29 Bấy giờ, thanh thế nước Đại Việt rất lớn, các nước nhỏ như Chân Lạp, Chiêm Thành vẫn thường sang tiến cống. Ngay cả đối với nhà Tống ở phía bắc, vua Lý Thánh Tông vẫn giữ thế bình đẳng, đôi khi còn tỏ ra lấn lướt nữa. Tuy vậy, một năm sau khi vua lên ngôi, nhà Tống sai sứ sang phong cho vua làm Quận vương, nhà vua cũng chấp nhận để duy trì mối giao hảo. 30 Hai năm sau, nhân dịp ở vùng rừng núi có người bắt được hai con thú lạ, vua bèn sai Viên ngoại lang Mai Nguyên Thanh đem sang biếu vua Tống, nói rằng đây là con kỳ lân*. Triều đình nhà Tống ngỡ ngàng vì kỳ lân vốn chỉ là một con vật huyền thoại, không ai biết được thực hư như thế nào. * Kỳ lân trong bộ “tứ linh” tượng trưng cho thánh nhân và được tưởng tượng hình dáng gần giống con sư tử. Có lẽ ở đây Lý Thánh Tông muốn ngầm ý nói với vua Tống rằng Đại Việt đã có thánh nhân? 31 Triều đình nhà Tống cho rằng đó không phải kỳ lân nên rất tức giận, muốn gây hấn Đại Việt nhưng một viên quan là Tư Mã Quang ngăn lại: - Ta chưa chắc chắn rằng đây là kỳ lân thực hay giả. Nhưng nếu quả con lân thực mà xuất hiện không đúng lúc cũng không phải là điềm lành. Còn nếu đúng là con lân giả, ta làm lớn chuyện thì càng khiến cho người phương xa có dịp cười ta thôi! Vì thế, để giữ sĩ diện, nhà Tống đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt*, giả lả, tặng quà cho sứ giả rồi làm lễ tiễn về. * Quả bồ hòn gần giống quả nhãn, có vị rất đắng. trước kia chưa có xà phòng, dân chúng thường dùng quả này để giặt quần áo. Thành ngữ “ngậm bồ hòn làm ngọt” để chỉ trạng thái miễn cưỡng phải chấp nhận một chuyện không vừa lòng. 32 Với quan lại nhà Tống ở các vùng đất giáp biên giới Đại Việt, vua Thánh Tông càng tỏ ra lấn lướt. Mùa xuân năm Canh Tý (1060), có một băng cướp chạy từ châu Lạng của Đại Việt sang huyện Như Ngao của nhà Tống. Quan Châu mục châu Lạng là Thân Thiệu Thái - chồng của công chúa Bình Dương - đã không ngần ngại đem quân vào nước Tống để truy bắt bọn cướp. Kết quả là Thân Thiệu Thái đã bắt được toàn bộ băng cướp và nhiều nguời liên quan, thu giữ nhiều trâu bò, của cải. 33 Trong số những người bị bắt có lẫn một viên quan nhà Tống là Dương Bảo Tài. Triều đình nhà Tống sai sứ đến ung châu đàm phán với nhà Lý. Vua Thánh Tông cũng sai sứ tới ung châu. Sứ thần nhà Tống đem nhiều của cải ra đút lót cho sứ của Đại Việt và nhờ mang thư của nhà Tống về dâng lên vua Thánh Tông. Trong thư, quan nhà Tống xin vua Lý trả lại Dương Bảo Tài nhưng vua Thánh Tông không đồng ý, nhà Tống cũng đành phải chịu, không dám gây hấn. 34 Dù biết Thánh Tông không dễ dàng nghe lệnh mình nhưng nhà Tống vẫn phong thêm chức tước cho vua Đại Việt. Năm giáp Thìn (1064), vua Tống phong cho Lý Thánh Tông là Đồng bình chương sự. Năm Đinh Mùi (1068) lại phong là Nam Bình vương. Tuy không dám ra mặt gây chiến tranh nhưng nhà Tống vẫn âm thầm nuôi ý định xâm chiếm Đại Việt. Cùng lúc ấy, ở phía nam Đại Việt, vua Chiêm Thành cũng đang muốn tấn công nước ta. 35 Vua Chiêm Thành khi đó là Chế Củ (Rudravarman iii) đã ra sức chuẩn bị lương thực, vũ khí, rèn luyện quân lính, có ý muốn dựa vào nhà Tống mà đánh Đại Việt. Chế Củ cho người sang cống nhà Tống phương vật* để xin thần phục và xin mua ngựa. Vua Tống nhân cơ hội này muốn kết liên minh với Chiêm Thành mà xâm lăng Đại Việt nên đã tặng vua Chiêm Thành một con ngựa bạch nhưng lại chỉ cho phép người Chiêm Thành mua lừa ở Quảng Châu. * Sản phẩm của địa phương. 36 Để đánh tan liên minh Tống - Chiêm Thành, vào mùa xuân năm Kỷ Dậu (1069), vua Thánh Tông quyết định tự mình cầm quân đi đánh Chiêm Thành. Để đề phòng những kẻ có ý cướp ngôi trong lúc mình vắng mặt ở kinh thành, ngày 5 tháng 3 năm ấy, vua Thánh Tông đã cho cử hành lễ thề trọng thể tại sân Long Trì*. Vua Thánh Tông còn phong cho Lý Thường Kiệt làm Đại tướng quân, lãnh ấn tiên phong, kiêm chức Nguyên soái. Em của Lý Thường Kiệt là Thường Hiến cũng đi theo đoàn quân chinh phạt. * Lễ thề này thường gọi là lễ thề đền Đồng Cổ, đã được tổ chức thường xuyên dưới triều vua Lý Thái Tông. 37 Sau khi giao quyền điều hành đất nước cho Nguyên phi Ỷ Lan và Thái sư Lý Đạo Thành, đầu tháng 3 năm ấy, vua Thánh Tông xuống thuyền, cùng đại quân rẽ sóng ra biển Đông. Thuyền đi về hướng nam chừng nửa tháng thì đến cửa Nhật Lệ (Quảng Bình). Tại cửa biển này, thủy quân Chiêm Thành đã xông ra đánh chặn nhưng không cản được bước tiến của quân Đại Việt. 38 Ngày 3 tháng 4, đoàn thuyền của vua Thánh Tông đã tiến đến Thị Nại (Quy Nhơn). Đại quân đổ bộ lên bờ sông Tu Mao*. Sau nhiều trận đánh ác liệt, quân Đại Việt đã đánh bại được quân Chiêm Thành, chiếm được quốc đô Phật Thệ. Chế Củ phải dẫn gia đình chạy về phía nam. Lý Thường Kiệt đem quân đuổi đến biên giới Chân Lạp thì bắt được. * Theo Giáo sư Hoàng Xuân Hãn thì đấy có thể là nhánh cực nam của hạ lưu sông Tam Huyện (còn gọi là Tân An) ở Bình Định. Nguồn: Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt: lịch sử ngoại giao và tông giáo đời Lý, Ban Tu thư đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1966, tr.63. 39 40 Chiến thắng trở về, vua Thánh Tông càng vui hơn khi chứng kiến cảnh đất nước bình yên dưới sự điều hành của Nguyên phi Ỷ Lan và Thái sư Lý Đạo Thành. Để chuộc tội, Chế Củ xin dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính (cả ba châu này thuộc đất Quảng Bình và Quảng Trị ngày nay). Vua Lý Thánh Tông đồng ý và sai sứ sang nhà Tống báo tin. Trong lời biểu có viết: “Nước Chiêm Thành đã lâu không tới cống. Tôi tự đem quân đánh...”. Vua Tống tuy tức giận nhưng cũng đành chấp nhận và đành từ bỏ ý đồ liên minh với Chiêm Thành. 41 Sau chiến thắng, vua Lý Thánh Tông ban thưởng cho những người có công. Lý Thường Kiệt được phong làm Phụ quốc Thái phó, lại được vua Thánh Tông nhận làm con nuôi (tức là được đứng vào hàng tước vương). Vua còn ghi công cho Thái sư Lý Đạo Thành và Nguyên phi Ỷ Lan đã giữ yên được đất nước trong lúc vua chinh chiến nơi xa. 42 Đất nước càng ngày càng hưng thịnh nhưng vua Thánh Tông không vì thế mà lơ là chính sự. Hàng năm, vua vẫn giữ lệ cày ruộng Tịch Điền. Tháng 4 năm Bính Thân (1056), nhà vua ban chiếu khuyến nông khiến ruộng nương nơi nơi xanh ngát, hoa trái đầy cành. Khi hạn hán xảy ra, như vào tháng 4 năm Canh Tuất (1070), triều đình phát thóc, lụa trong kho cho dân nghèo. Mỏ vàng mỏ bạc được đưa vào khai thác. Các ngành nghề thủ công đều được mở mang, phát triển. Kinh tế phát triển, quốc khố đầy ăm ắp. 43 Nghề dệt ở Đại Việt lúc này được cải tiến thêm một bước nhờ được kết hợp nghề dệt lĩnh của Chiêm Thành. Nghề dệt lĩnh do một người con gái Chiêm Thành tên là Phan Thị Ngọc Đô truyền dạy. Nhờ có tay nghề điêu luyện, độc đáo, nàng cùng hai mươi tư thị nữ được nhà vua đưa đến ở làng Trích Sài cạnh Hồ Tây để dệt lĩnh. Tại đây nàng truyền nghề này cho dân làng và tạo nên một vùng chuyên dệt lĩnh Chăm. Khi nàng mất, dân làng lập miếu thờ, gọi nàng là bà chúa Lĩnh và tôn làm tổ nghề của làng mình. 44 Chùa Thầy Tháp Báo Thiên CHÚ THÍCH Tỉnh lỵ ngày nay Biên giới ngày nay Chùa Hàm Long Chùa Bà Tấm Chùa Hương Lăng Chùa Lý Triều Quốc Sư Chùa Diên Hựu Chùa Láng Chùa Tam Sơn Chùa Dặn Đền Lý Bát Đế Chùa Tiêu Sơn Chùa tháp Phật Tích Chùa Bách Môn Chùa Giạm Chùa Đậu Chùa tháp Long Đọi Chùa Côn Sơn Chùa Quỳnh Lâm Chùa Phù Vân Yên Tử Chùa Non Nước Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh Chùa tháp Tường Long Chùa trăm gian Hà Nội Vua Lý Thánh Tông cũng là người sùng đạo Phật. Nhà vua đã cho xây thêm nhiều chùa, tháp như: chùa Đông Lâm, chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu - Bắc Ninh (1055), chùa Thiên Phúc và Thiên Thọ (1057), chùa Sùng Nghiêm Báo Đức ở châu Vũ Ninh - nay là huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh (1059), chùa Nhị Thiên Vương ở phía đông nam thành Thăng Long (1070)... Nay một số chùa còn dấu tích như chùa Phật Tích (Bắc Ninh), chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh), chùa tháp Đồ Sơn (Hải Phòng)... đều được dựng vào năm 1057. 45 Trên núi Lam Kha (huyện Tiên Du, Bắc Ninh) có một tượng Phật A Di Đà bằng đá, cao 2,5m do vua Thánh Tông sai Lang tướng Quách Mãn làm vào năm 1057. Đặc biệt, chùa Sùng Khánh Báo Thiên - gọi tắt là Báo Thiên - được khởi công xây dựng vào năm 1056 ở trong thành Thăng Long là một ngôi chùa rất độc đáo. Chùa xây xong, vua lại ban cho 12.000 cân đồng để đúc chuông và thảo một bài văn khắc vào đó. 46 Năm sau, vào mùa xuân, vua Thánh Tông lại cho xây một tòa tháp lớn ngay trong khuôn viên chùa, gọi là tháp Báo Thiên. Tháp có mười hai tầng, cao hai mươi trượng (gần 70m), được người đời sau xưng tụng như một chiếc cột chống trời ở giữa đất kinh kỳ. Tầng trên cùng của tháp được đúc bằng đồng. Tháp Báo Thiên về sau được liệt vào một trong bốn bảo vật của Đại Việt mà người Trung Quốc gọi là An Nam tứ đại khí*. * Ba bảo vật còn lại là tượng Phật Quỳnh Lâm cao 20m (Đông Triều, Quảng Ninh), vạc chùa Phổ Minh (Nam Định), chuông Quy Điền ở chùa Diên Hựu (Thăng Long, nay là Hà Nội). 47 Theo sử cũ, hai vị cao tăng có công trong việc đúc tượng, đúc chuông thời Lý là Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không. Truyền thuyết kể rằng, Dương Không Lộ không những tinh thông Phật pháp mà còn giỏi pháp thuật. Có lần Thái tử nhà Tống bị bệnh nan y, phải nhờ ông sang chữa. Sau khi chữa khỏi, được ban thưởng vàng bạc, ông không nhận chỉ xin một ít đồng đen. Vua Tống hỏi: - Sư nước Nam muốn xin bao nhiêu đồng đen? Không Lộ chỉ vào tay nải: - Bần tăng chỉ cần đầy bao này là đủ! 48 Thấy chiếc tay nải cỏn con, vua Tống đồng ý ngay. Không ngờ cho bao nhiêu đồng vào mà tay nải vẫn không đầy. Cả một kho đồng lớn thoáng chốc đã hết nhẵn, không còn một thỏi. Được bẩm báo, vua Tống tức tốc cho quân đuổi theo đòi lại nhưng Không Lộ đã đi đến bờ sông. Nhà sư lấy chiếc nón đội đầu bỏ xuống nước rồi ung dung bước lên mà lướt đi, chỉ một lát đã mất hút. 49 Về nước, sư Không Lộ dùng số đồng trên đúc một tượng Phật lớn, cao sáu trượng (khoảng 20m), một chiếc đỉnh to đến mười người ôm và một chiếc chuông khổng lồ gọi là hồng chung. Chuông đúc xong, ông cầm dùi đánh thử. Kích thước khổng lồ của hồng chung cộng với sức mạnh của ông đã khiến tiếng chuông vang đến tận Trung Quốc. Tiếng chuông dội vào tai con trâu vàng ở bên Trung Quốc. Tưởng mẹ* gọi, con trâu vàng thức dậy, ve vẩy đuôi rồi bất kể rừng núi, sông suối mà phóng đến bên hồng chung, rúc vào nằm bên cạnh. * Người xưa quan niệm đồng đen là mẹ của vàng. 50 Vua Thánh Tông thấy việc lạ ấy thì lo rằng chiếc hồng chung sẽ hút hết vàng của thiên hạ và sẽ gây ra họa chiến tranh nên sai Không Lộ đem vứt đi để trừ hậu họa. Không Lộ xách hồng chung lên núi, thấy hồ Dâm Đàm (hồ Tây) là nơi sâu nhất, liền vung tay liệng chuông xuống đó. Khi chạm mặt nước, hồng chung vang lên một tiếng rền trời. Con trâu vàng choàng dậy, chạy theo tiếng chuông vang, nhảy xuống hồ. Chỗ con trâu vàng nhảy xuống được gọi là vực Kim Ngưu. Hiện nay, ở Hà Nội vẫn còn địa danh Kim Ngưu và miếu Trâu Vàng*. Người đời sau tôn sư Không Lộ làm một trong hai ông tổ nghề đúc đồng, cùng với sư Nguyễn Minh Không. * Miếu Trâu Vàng ở gần phủ Tây Hồ, quận Tây Hồ, Hà Nội. 51 Việc xây nhiều chùa, đúc nhiều chuông chứng tỏ Phật giáo dưới thời vua Lý Thánh Tông đã phát triển mạnh. Đặc biệt, thời này còn xuất hiện phái thiền Thảo Đường. Theo lịch sử Phật giáo Việt Nam, thiền phái này do thiền sư Thảo Đường sáng lập. Thảo Đường vốn là một nhà sư người Trung Hoa. Ông đi khắp nơi truyền dạy kinh Phật và dừng chân tại Chiêm Thành. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đem quân đi đánh Chế Củ, thắng trận bắt về Thăng Long một số tù binh, vô tình trong đó có Thảo Đường. Tới Thăng Long, ngẫu nhiên, Thảo Đường được giao giúp việc cho một tăng lục. 52 Ngày ngày, Thảo Đường lo quét dọn thư phòng, sắp xếp sách vở cho vị tăng lục. Một hôm, nhân lúc vị tăng lục đi vắng, Thảo Đường thấy cuốn sách đang viết dở trên bàn có nhiều chỗ sai. Không dừng được, Thảo Đường dùng bút sửa đôi chỗ. Vị tăng lục trở về, thấy những chỗ sửa thật chính xác, bèn gọi Thảo Đường lên cùng nhau bàn luận về đạo Phật. Thảo Đường đối đáp trôi chảy, giải thích rõ ràng khiến vị tăng lục vô cùng khâm phục và đem chuyện ấy tâu lên vua Thánh Tông. Thấy Thảo Đường có đạo hạnh uyên thâm, vua Thánh Tông mời ông tham dự vào việc triều chính. 53 Một thời gian sau, vua Thánh Tông phong sư Thảo Đường làm Quốc sư và cho trụ trì tại chùa Khai Quốc - một ngôi chùa được xây dựng từ khi đất nước còn mang tên Vạn Xuân dưới thời Lý Nam Đế. Thiền phái Thảo Đường được thành lập từ đấy và có rất nhiều tín đồ theo học. Vua Lý Thánh Tông cũng theo phái thiền này. Dù nhà vua không xuất gia, nhưng các phật tử phái Thảo Đường vẫn xem vua như là vị tổ thứ hai của phái mình. 54 Tuy là người trọng đạo Phật nhưng vua Lý Thánh Tông không vì thế mà xem thường Nho giáo. Nho giáo đòi hỏi con người phải sống có khuôn phép, trật tự và rất đề cao chữ Trung. Vua là con trời, là đấng Thiên tử. Một lời vua phán là trăm họ phải nghe theo. Tội bất trung với vua là tội lớn nhất. Hiểu rằng Nho giáo sẽ góp phần làm ổn định đất nước đồng thời củng cố quyền uy của vương triều nên vua Thánh Tông cho phổ biến tư tưởng của Nho giáo khắp nơi. Quan lại và những người có học thức bắt đầu chú ý đến Nho giáo nhiều hơn. 55 56 Để giúp Nho giáo phát triển mạnh hơn nữa, năm 1070, vua Thánh Tông cho lập Văn Miếu ở phía nam hoàng thành Thăng Long, dựng tượng Khổng Tử và bốn người học trò xuất sắc (Tứ phối), lại vẽ tranh bảy mươi hai học trò khác của Khổng Tử để thờ cúng. Có thể nói rằng vua Lý Thánh Tông là vị vua đầu tiên chính thức đề cao Nho giáo, làm nền tảng cho các vua đời sau noi theo. 57 Vua Lý Thánh Tông không chỉ có công trong việc phát triển đạo Phật, khuyến khích đạo Nho mà còn có những đóng góp tích cực trong lĩnh vực văn hóa. Vua rất thích âm nhạc. Bản thân nhà vua thường phối âm các nhạc khúc và điệu trống Chiêm Thành rồi giao cho nhạc công biểu diễn để hoàng gia và triều đình cùng thưởng thức. 58 Ngoài âm nhạc, vua Thánh Tông còn rất giỏi múa khiên và đánh cầu. Múa khiên và đánh cầu là hai tiết mục thường xuyên được biểu diễn trong các dịp hội lớn. Chính vua Lý Thánh Tông, những khi ngẫu hứng, vẫn đứng ra biểu diễn cho quan lại xem. Muốn múa được môn này, trước tiên, người trình diễn phải giỏi võ nghệ, di chuyển linh hoạt, múa theo các bài võ để che kín thân mình. 59 Môn đánh cầu thì phức tạp hơn và chỉ dành cho hoàng gia và các đại thần. Cầu là một quả bóng hình tròn, màu đỏ, làm bằng da, bên trong nén chặt lông cho bóng được căng mà lại nhẹ. Người chơi cưỡi ngựa, tay cầm cương, tay cầm gậy có đầu cong, cố gắng đánh sao cho bóng lọt vào được cầu môn trước sự truy cản của đối phương. Trò chơi này tương tự như môn polo nổi tiếng của hoàng gia nước Anh. 60 Sân chính điện ở trước thềm cung vua thường được dùng để chơi trò chơi này. Hai cầu môn bằng gỗ dựng ở phía đông và Tây. Cầu môn cao hơn 3m, trên có trạm rồng, dưới có tòa sen bằng đá được phủ vải vóc. Cầu môn ở bên Đông treo cờ có chữ Nhật ( ), bên Tây treo cờ có chữ Nguyệt ( ). Trước thềm có hai giá cờ để phe bên nào được thì lấy cờ cắm vào giá của mình. Người chơi chia làm hai phe, mỗi phe mặc áo vóc màu khác nhau: bên đông màu vàng, bên tây màu tía. Đuôi ngựa của mỗi phe cũng được thắt cùng màu áo. 61 Vua là người mở đầu cuộc chơi. Sau khi lên ngựa trong tiếng nhạc, vua gọi tên từng vương hầu, quan lại cho phép họ lần lượt lên ngựa. Các quan sắp hàng ở phía tây, vua đứng ở góc tây nam. Khi mọi người đã vào hàng ngũ, viên quan nội thị mở một chiếc hộp, lấy quả cầu ra và ném xuống sân. Một viên thông sự xướng lên: - Phe Hoàng thượng đánh vào cửa đông! Vua liền cầm trượng, phóng ngựa đuổi theo quả cầu trong tiếng nhạc cổ vũ. Khi vua đánh cầu lọt vào cầu môn thì cờ phất lên, chiêng trống đánh vang lừng. Vua quay ngựa trở về ban rượu cho các quan rồi lại lên ngựa đánh tiếp. 62 Bấy giờ các quan mới ruổi ngựa tranh cầu. Có tiếng trống họa theo khi nhanh, khi chậm. Nếu quả cầu vào gần đến cầu môn thì tiếng trống càng thúc giục. Cầu lọt vào thì trống đánh ba hồi, tiếng nhạc nhẹ đi. Nếu vua được thì mọi người hô “vạn tuế”, còn các quan được thì hô “hảo”. Phe được lấy cờ cắm vào giá của phe mình thì gọi là được một thỉ. Xong ba thỉ, vua lại ban rượu. Mỗi phe có hai mươi tư cờ. Phe nào được hai mươi tư thỉ trước thì thắng. 63 Tháng giêng năm Nhâm Tý (1072), vua Thánh Tông bị bệnh nặng rồi qua đời ở điện Hội Tiên, thọ 50 tuổi. Tuy thời gian trị vì không lâu nhưng vua Lý Thánh Tông đã làm được nhiều điều lợi ích cho dân, cho nước. Nhà vua đã xây dựng đất nước có kỷ cương vững chắc, có nền kinh tế ngày một phồn thịnh, văn hóa ngày càng phong phú, đem lại ấm no cho muôn dân, xứng đáng với cái tên Đại Việt mà ngài đã đặt ra. 64 Sau khi vua Thánh Tông băng hà, Thái tử Càn Đức - lúc bấy giờ mới bảy tuổi - được đưa lên ngôi, tức vua Nhân Tông. Tương truyền khi mới sinh, Thái tử Càn Đức đã có quý tướng: “Trán dô, mặt rồng, tay dài quá gối...”. Tuy còn nhỏ nhưng vua Nhân Tông vốn là người thông minh, lại được mẹ là Linh Nhân Thái hậu làm nhiếp chính, cộng thêm Thái úy Lý Thường Kiệt hết lòng giúp đỡ nên việc nước vẫn ổn định, phát triển. Càng ngày, Nhân Tông càng tỏ ra là vị vua sáng suốt. Vua chịu khó học hỏi, lại biết nghe lời phải trái của các quan đại thần nên được các cả triều đình kính nể. 65 Khi lên ngôi, vua Nhân Tông ra sức chấn chỉnh bộ máy cai trị, định rõ quan chế. Quan văn võ được chia làm chín bậc từ hàng đại thần đến các quan chức ở địa phương. Đứng đầu có Thái sư, Thái phó, Thái úy (Tam thái)... Vua Nhân Tông còn cho thu thập những điều lệ, những quy định trong việc trị nước của các đời trước để chỉnh lý lại thành bộ sách Hội Điển. Đây là bộ sách ghi chép các quy chế chính trị, hành chính đầu tiên ở nước ta. Những việc làm này đã góp phần củng cố bộ máy quan lại, thống nhất quyền lực trong việc điều hành đất nước lúc ấy. 66 Trước đây có thông lệ, cứ con cháu của quan lại, quý tộc là được làm quan, vì thế, nhiều kẻ bất tài, kém đức vẫn được trọng dụng trong khi người tài giỏi lại không được dùng. Do đó, vào năm Ất Mão (1075), triều đình cho mở khoa thi Nho học tam trường (khảo học trò qua ba vòng thi) để tuyển người minh kinh bác học (hiểu rõ kinh sách và học rộng). Đây là khoa thi đầu tiên mở đường cho truyền thống khoa cử ở nước ta. 67 Khoa thi đầu tiên này có mười người đỗ. Đứng đầu là Lê Văn Thịnh, người làng Đông Cứu, huyện Yên Định, lộ Bắc giang (nay là huyện gia Lương, Bắc Ninh). Tương truyền cha mẹ ông là người nhân từ, thường giúp đỡ tất cả những ai có hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn. Cha ông vừa dạy học vừa bốc thuốc trong làng và ngay từ còn nhỏ, Văn Thịnh đã được cha dạy dỗ cẩn thận. 68 Lê Văn Thịnh nổi tiếng thông minh, học đâu nhớ đấy và nhớ rất lâu. Ông rất chăm học, thường chong đèn đọc sách đến khuya, mẹ phải giục nhiều lần mới đi ngủ. Nhờ chuyên cần như thế nên năm mười ba tuổi, Lê Văn Thịnh đã nổi tiếng là người thông minh kinh sử, hiểu biết rộng. Mọi người trong vùng và bạn bè gọi ông là thần đồng. Năm Lê Văn Thịnh mười tám tuổi, cả cha lẫn mẹ ông đều qua đời. Ông dời đến sống ở trang Chi Nhị (nay là thôn Chi Nhị, huyện gia Lương, tỉnh Bắc Ninh) và mở trường dạy học ở đây. Dân trong vùng biết tiếng ông nên cho con theo học rất đông. 69 Mùa xuân năm Ất Mão, triều đình mở khoa thi tuyển chọn nhân tài. Lê Văn Thịnh dự thi và đỗ thủ khoa. Như vậy, ông là vị Trạng nguyên* đầu tiên trong lịch sử khoa cử nước ta. Ông được mời vào cung để dạy vua học rồi được phong chức Binh bộ Thị lang. Những người đỗ trong kỳ thi năm ấy đều được làm quan. Tuy các khoa thi lúc đó chưa được tổ chức đều đặn và khoảng cách giữa hai khoa thi khá lâu (thường là mười hai năm) nhưng việc triều đình mở khoa thi tuyển chọn nhân tài đã là động lực thôi thúc kẻ sĩ, học trò trong cả nước chuyên tâm học hành hơn. * Cách gọi người thủ khoa là Trạng nguyên sau này mới được đặt. 70 Năm Bính Thìn (1076), triều đình cho xây trường Quốc Tử giám - trường đại học đầu tiên của nước ta - cạnh Văn Miếu. Lúc đầu, học trò trường Quốc Tử giám chỉ là các hoàng tử và con cháu quan lại trong triều đình. Về sau, trường thu nhận thêm những học trò giỏi là con của thường dân. Trường đã hoạt động trong suốt 700 năm* và đã đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước. * Đến triều Nguyễn, vua Gia Long đặt kinh đô ở Huế và dời trường Quốc Tử Giám về đấy. 71 Lúc này, ở phương bắc, nhà Tống thường bị các bộ tộc xung quanh nổi lên chống lại. Ngay từ khi mới thành lập, nhà Tống đã phải chịu mất một phần đất vào tay người Khiết Đan (nước Liêu). Những năm triều Lý mới được thành lập, ở phương bắc, nước Liêu đem quân đánh vào đất Tống, bắt nhà Tống cắt đất và hàng năm phải cống nộp nhiều vàng bạc. 72 73 Sau đó, một bộ tộc ở vùng tây bắc Trung Quốc lại nổi lên chống nhà Tống và thành lập triều đình riêng, gọi là nhà Hạ. Nhà Tống nhanh chóng bị nhà Hạ uy hiếp và phải cống nạp nhiều vàng bạc, châu báu cho nhà Hạ. Bởi phải cống nạp nhiều nơi nên kinh tế nhà Tống dần dần kiệt quệ. 74 Không chỉ bị các nước mạnh hơn uy hiếp mà ngay trong nội bộ triều đình nhà Tống cũng đã xuất hiện nhiều tiêu cực. Bọn quan lại, địa chủ ra sức thâu tóm ruộng đất của nông dân để hưởng thụ một cuộc sống xa xỉ còn quốc khố thì cạn kiệt. Dân chúng đã phải è cổ chịu gánh nặng thuế khóa ngày một cao dù mùa màng liên tục thất bát. Vì thế ở nhiều nơi, nông dân nổi dậy chống triều đình. 75 Trước tình thế đó, tể tướng nhà Tống là Vương An Thạch cho áp dụng những biện pháp cải cách gọi là Tân pháp để làm giàu cho quốc khố và tăng cường sức mạnh cho quân đội. Nhưng thực chất, Tân pháp chỉ là những chính sách nhằm tăng cường hơn nữa việc bóc lột dân chúng nên không được người dân Tống ủng hộ. Như lửa đổ thêm dầu, những cuộc khởi nghĩa chống đối triều đình càng nổi lên mạnh mẽ. 76 Để chứng tỏ Tân pháp của mình đã đem lại sức mạnh cho nhà Tống và để làm lạc hướng đấu tranh của nhân dân Tống, Vương An Thạch đã bày âm mưu xâm chiếm Đại Việt. Y hy vọng nếu chiếm được Đại Việt, nhà Tống sẽ lấy lại uy thế đối với các nước phương bắc và khi đó, lời nói của y ở trong triều đình nhà Tống sẽ có nhiều người nghe theo. Nghĩ vậy, y vội vã viết sớ dâng lên vua Tống. 77 Nghe Vương An Thạch to nhỏ: “Lúc ta diệt được giao Chỉ (ý nói nước Đại Việt), uy ta sẽ có. Rồi ta sẽ báo cho Thiểm Tây biết, quân Thiểm Tây tất sẽ thêm khí thế. Với khí thế ấy, ta sẽ nuốt tươi nước Hạ. Mà nếu nuốt được nước Hạ thì kẻ nào dám quấy nhiễu Trung Nguyên nữa?”, vua Tống cả mừng, quyết định đánh Đại Việt. Vua Tống còn hy vọng chiếm được Đại Việt rồi sẽ vơ vét được nhiều của cải: “Nghe nói vùng khê động có nhiều của quý. Sau khi giao Chỉ thua, hãy đặt thành quận huyện để cai trị và hãy sung công của cải”. 78 Vương An Thạch chuẩn bị cuộc chiến tranh xâm lược rất kĩ lưỡng, thành ung châu (nay thuộc Nam Ninh, Quảng Tây) nằm trên con đường bộ dẫn vào nước ta và hai cửa biển ở Khâm châu, Liêm châu đều được nhà Tống xây dựng thành căn cứ để tích lũy lương thảo, khí giới. Vương An Thạch còn cho mộ thêm quân và đóng nhiều tàu chiến. 79 Nhưng những âm mưu của Tống Thần Tông và Vương An Thạch đã bị nhà Lý phát giác. Tuy thế, trong việc ngoại giao với nhà Tống, nhà Lý vẫn cố giữ quan hệ hòa hảo, vẫn sai sứ sang nộp cống. Trước hiểm họa đất nước bị xâm lăng, Lý Thường Kiệt chủ trương đánh sang đất Tống để phá hủy kho lương thảo, vũ khí, qua đó đánh tan ý chí chiến đấu của quân Tống. Chiến lược tấn công trước để tự vệ của Lý Thường Kiệt được triều đình nhà Lý chấp thuận. 80