🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lịch Sử Giao Thương: Thương Mại Định Hình Thế Giới Như Thế Nào?
Ebooks
Nhóm Zalo
LỊCH SỬ GIAO THƯƠNG
Thương mại định hình thế giới như thế nào? WILLIAM J. BERNSTEIN
Ngọc Mai dịch
Võ Minh Tuấn hiệu đính
—★—
ebook©vctvegroup
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Dành tặng Jane!
BẢN ĐỒ
Các tuyến đường tơ lụa cổ đại
Hệ thống thương mại thế giới, thiên niên kỷ thứ ba TCN Các con kênh cổ đại ở Suez
Gió mùa đông
Gió mùa hè
Hành trình lương thực Athens
Các vùng đất và hành trình hương liệu
Thế giới thương mại trung cổ
Quần đảo Gia vị
Giao thương gia vị/nô lệ đông Địa Trung Hải, khoảng năm 1250 Cái chết Đen - Hồi I: Giai đoạn 540-800
Cái chết Đen - Hồi II: Giai đoạn 1330-1350
Đường Tordesillas ở phương Tây
Hành trình đầu tiên của Da Gama, 1497-1499
Cỗ máy gió toàn cầu
Eo Hormuz
Đế chế Hà Lan ở châu Á thời kỳ đỉnh cao vào thế kỷ 17 Khu vực trồng cà phê và các cảng ở Yemen cuối trung cổ Quần đảo Mía đường
Cửa sông Châu Giang
Kênh Erie và hệ thống Saint Lawrence năm 1846 Dòng chảy dầu thế giới, hàng triệu thùng mỗi ngày
LỜI NÓI ĐẦU
Bối cảnh chẳng có gì đặc biệt: một buổi sáng tháng chín, tại sảnh khách sạn giữa trung tâm Berlin. Trong lúc nhân viên lễ tân và tôi lịch sự chào nhau bằng thứ tiếng Anh và tiếng Đức rời rạc, tôi lơ đãng đưa tay với trái táo trong chiếc tô đặt trên quầy và thả vào ba lô. Vài giờ sau, khi cơn đói tìm đến, tôi quyết định dừng ở Tiergarten để ăn nhanh chút đồ nhẹ. Khung cảnh và âm thanh của công viên thành phố rộng lớn này làm tôi suýt quên mất cái nhãn bé xíu cho biết bữa trưa miễn phí của mình là một “sản phẩm của New Zealand.”
Ti vi Đài Loan, rau diếp Mexico, sơ mi Trung Hoa, và dụng cụ Ấn Độ phổ biến đến nỗi khiến người ta dễ quên mất rằng những điều kỳ diệu này của thương mại chỉ vừa mới xuất hiện. Còn hình ảnh nào tượng trưng cho thiên anh hùng ca về thương mại toàn cầu hay hơn hình ảnh trái táo đến từ bên kia địa cầu của tôi, được tiêu thụ đúng lúc những người anh em của nó tại châu Âu vừa chín tới và vào vụ thu hái?
Hàng nghìn năm trước đây, chỉ những hàng hóa có giá trị cao nhất - tơ lụa, vàng bạc, gia vị, trang sức, đồ sứ, và thuốc men - là được vận chuyển giữa các lục địa. Thật dễ hiểu khi một món hàng đến từ vùng đất xa xôi được bao phủ trong sự thần bí, lãng mạn, và địa vị quyền quý. Nếu trở lại thế kỷ 3 và địa điểm là thành Rome, thì ví dụ điển hình nhất cho hàng nhập khẩu xa xỉ chính là tơ lụa Trung Hoa. Những hoàng đế La Mã vĩ đại nhất được lịch sử ca tụng nhờ các cuộc đại chinh phục, công trình kiến trúc và xây dựng, cũng như thể chế pháp luật. Nhưng Elagabalus, trị vì từ năm 218 đến 222, thì lại được nhớ đến, nếu có dịp hiếm hoi nào đó ông ta được nhớ đến, vì hành xử tàn bạo cùng với sở thích dành cho các cậu trai trẻ và tơ lụa. Trong suốt thời gian tại vị, ông ta đã khiến người dân vốn thờ ơ ở kinh đô thế giới cổ đại bị choáng váng trước sự phô diễn nhiều hành động bê bối, từ đùa cợt vô hại tới giết chóc trẻ em theo tính khí đồng bóng của ông ta. Tuy nhiên, chẳng điều gì khiến thành Rome quan tâm (và nhen nhóm sự đố kỵ) bằng gia tài quần áo của ông ta và những trò màu mè lúc ông ta chưng diện nó, như cạo hết lông trên người và vẽ mặt bằng bột trắng bột đỏ. Mặc dù loại vải ưa thích của ông ta đôi khi lẫn cả vải lanh - cũng được gọi là sericum [Từ gốc La Mã, chỉ sản phẩm làm từ tơ. (Tất cả chú thích của người biên tập trong sách này sẽ đánh dấu (BT); các chú thích còn lại là của người dịch.)] - nhưng Elagabalus vẫn là vị vua đầu tiên ở phương Tây mặc quần áo hoàn toàn bằng tơ lụa.1
Xuất phát từ vùng đất quê hương ở Đông Á tới điểm cuối hành trình ở thành Rome cổ đại, chỉ tầng lớp thống trị mới đủ khả năng chi trả cho thứ sản phẩm tiết ra từ loài vật không xương Bombyx mori nhỏ bé - con tằm. Độc giả hiện đại, vốn đã quen với thứ vải nhân tạo thoải mái, êm mượt, lại chẳng đắt đỏ gì, hãy tưởng tượng quần áo từng được, làm chủ yếu bằng ba nguyên liệu: da động vật, rẻ, nhưng nóng và nặng nề; len thô; hoặc vải lanh trắng dễ nhàu. (Vải bông dù đã xuất hiện ở Ấn Độ và Ai Cập nhưng lại khó sản xuất hơn, vì thế giá đắt hơn, thậm chí đắt hơn tơ tằm). Trong một thế giới với nguyên liệu may mặc hạn chế như vậy, sự mơn trớn dịu êm, nhẹ như không của tơ lụa trên da trần có thể quyến rũ bất kỳ ai từng được cảm nhận nó. Không khó để hình dung những thương gia buôn tơ lụa đầu tiên, ở mỗi cảng và mỗi quán trọ trên đường đi, kéo từ trong túi ra một xấp vải sặc sỡ, đưa
ể
cho nữ chủ nhà với cái nhìn ranh mãnh, “Thưa bà, bà phải cảm nhận nó để tin vào điều đó.”
Thi sĩ Juvenal, viết vào khoảng năm 110, phàn nàn về loại phụ nữ ham mê xa xỉ là “những người thấy chiếc áo choàng mỏng nhất vẫn là quá nóng với họ; muốn da thịt mong manh của mình được cọ xát bằng những mảnh tơ lụa tốt nhất.”2 Chính các vị thần cũng không cưỡng lại nổi: nữ thần Isis được mô tả là đã khoác lên mình “tấm lụa cao sang có thể biến đổi màu sắc, khi vàng, khi hồng, khi ánh lửa, và khi thì màu tối mơ hồ (khiến tâm trí phiền não của tôi thêm day dứt)”.3
Mặc dù người La Mã biết tới tơ lụa Trung Hoa, nhưng họ lại không biết gì về Trung Hoa. Họ tin rằng tơ lụa mọc trực tiếp trên cây dâu, mà không hay rằng lá dâu chỉ là nhà và thức ăn của con tằm.
Hàng hóa được vận chuyển từ Trung Hoa tới thành Rome như thế nào? Rất chậm chạp và đầy hiểm nguy, mỗi bước đi đều đầy gian khó.4 Thương lái Trung Hoa xếp tơ lụa lên tàu tại các cảng phía nam cho hành trình dài ven biển, từ Đông Dương, vòng qua bán đảo Mã Lai và vịnh Bengal tới các cảng ở Sri Lanka. Ở đó, họ sẽ gặp các lái buôn Ấn Độ, những người này chuyển vải tới các cảng Muziris, Nelcynda, và Comara ở Tamil thuộc vùng ven biển phía tây nam Tiểu lục địa. Tại đây, nhiều nhà môi giới Hy Lạp và Ả-rập tiếp tục vận chuyển hàng tới đảo Dioscordia (nay là Socotra), nơi tập trung đông đúc giới thương lái Ả-rập, Hy Lạp, Ấn Độ, Ba Tư, và Ethiopia. Từ Dioscordia, hàng được chất lên tàu Hy Lạp, tiến vào Biển Đỏ tại Bab el Mandeb (tiếng Ả rập nghĩa là “Cổng u sầu”) tới cảng chính của vùng biển này là Berenice ở Ai Cập; sau đó băng qua sa mạc tới sông Nile bằng lạc đà; và tiếp theo là đi thuyền xuôi dòng xuống Alexandria, từ đây các con tàu La Mã Hy Lạp và La Mã Ý tiếp tục chuyển hàng qua Địa Trung Hải tới Puteoli (nay là Pozzuoli) - hải cảng lớn thuộc La Mã - và Ostia. Đã thành thông lệ chung, người Trung Hoa hiếm khi đi quá phía tây Sri Lanka, người Ấn Độ hiếm khi đi quá phía bắc cửa Biển Đỏ, và người Ý hiếm khi đi quá phía nam Alexandria. Lộ trình đó dành cho người Hy Lạp, họ tự do di chuyển từ Ấn Độ tới Ý, mang đến sự giao thương phồn thịnh.
ầ ể
Sau mỗi cung đường dài và đầy hiểm nguy của hành trình, tơ lụa khi sang tay lại bị đẩy giá lên cao hơn. Ở Trung Hoa nó đã đủ đắt đỏ; sang đến thành Rome, nó còn đắt hơn cả trăm lần - có giá ngang với vàng, đắt đến mức chỉ vài ounce cũng tiêu tốn cả năm tiền lương của một người làm công trung bình.5 Chỉ những người giàu có nhất, như Hoàng đế Elagabalus, mới đủ khả năng khoác nguyên một tấm áo choàng làm từ tơ lụa.
Một cách khác để tới thành Rome là qua Con đường Tơ lụa nổi tiếng, được khai phá đầu tiên nhờ công của các sứ thần người Hán vào thế kỷ 2, di chuyển chậm chạp trên đường bộ qua Trung Á. Tuyến đường này phức tạp hơn nhiều, và lộ trình cụ thể cũng thay đổi nhiều tùy thuộc tình hình chính trị và quân sự biến động, từ phía nam đèo Khyber
Tuyến đường núi nối Afghanistan với Pakistan. (BT)
tới điểm xa nhất về phương bắc là biên giới phía nam Siberia. Khi đường biển bị giới thương gia Hy Lạp, Ethiopia, và Ấn Độ thống trị, các “cảng” đường bộ lên ngôi, tại những thành phố lớn của Samarkand (nay là Uzbekistan), Isfahan (ở Iran), và Herat (ở Afghanistan), có đầy đủ dịch vụ do những người môi giới Do Thái, Armenia, và Syria cung cấp. Bởi vậy, không thể trách được người La Mã khi họ cho rằng tơ lụa được làm ở hai quốc gia khác nhau - một ở phương bắc, Seres, đến bằng đường bộ; và một ở phương nam, Sinae, có thể đến bằng đường thủy?
Đường biển rẻ hơn, an toàn hơn, nhanh hơn đường bộ, và vào thời kỳ cận đại còn có thêm ưu điểm là đi vòng tránh được các khu vực bất ổn. Ban đầu tơ lụa đến được châu Âu là qua đường bộ, nhưng sự ổn định của đế chế La Mã thời kỳ đầu đã khiến Ấn Độ Dương trở thành kênh kết nối Đông-Tây ngày càng được ưa chuộng cho hầu hết các loại hàng hóa, bao gồm cả tơ lụa. Mặc dù nền thương mại La Mã suy yếu dần vào thế kỷ 2, nhưng hải trình này vẫn được khai thác cho tới khi bị người Hồi giáo cắt đứt vào thế kỷ 7.
Nhịp độ biến động theo kỳ của gió mùa tác động tới việc buôn bán tơ lụa. Mùa mưa khiến cho thời gian vận chuyển vải vóc tính từ khi vải lên tàu ở phía nam Trung Hoa tới khi cập cảng Ostia hoặc Puteoli kéo dài ít nhất 18 tháng. Những hiểm họa chết người rình rập các thương gia ở mỗi điểm đến, đặc biệt là trên các tuyến đường nguy hiểm trên biển Ả-rập và vịnh Bengal. Thiệt hại về người, tàu, và hàng hóa xảy ra thường xuyên đến nỗi những tấn bi kịch đó nếu được ghi lại, thì thường với chú thích ngắn gọn: “Mất trắng.”
Ngày nay, hầu hết các mặt hàng thông thường chỉ tăng giá vừa phải sau khi vượt qua những hành trình như vậy. Tính hiệu quả của vận tải liên lục địa ngay cả với hàng rời khối lượng lớn dường như là điều bình thường hiện nay nhưng thời đó lại là sự phi thường.
Các hạng mục giá trị cao chu du quanh địa cầu nhanh gần bằng tốc độ âm thanh nhờ những đội bay vận hành buồng lái lắp máy điều hòa, cuối hành trình có taxi và khách sạn bốn sao chờ đón. Thậm chí các mặt hàng đặc thù, khối lượng lớn còn được vận chuyển bằng tàu có sẵn băng hình và khoang đồ ăn đầy ắp, đưa đến độ an toàn và thoải mái mà thủy thủ thời cận đại khó hình dung được. Phi hành đoàn hay thủy thủ đoàn ngày nay là những người có kỹ năng chuyên môn cao, nhưng hiếm ai xem họ là “những nhà buôn.” Hầu hết chúng ta không dùng thuật ngữ đó cho những người bán và người mua là các công ty đa quốc gia của thế giới thương mại phong phú này.
ể
Mới đây chưa lâu, có thể nhận diện nhà buôn một cách đơn giản. Đó là người tiến hành mua và bán số lượng nhỏ hàng hóa để đút túi riêng, họ kèm sát hàng ở mỗi bước hành trình. Trên tàu, họ thường ngủ trên hàng hóa của mình. Mặc dù hầu hết những nhà buôn này không để lại cho chúng ta dữ liệu ghi chép nào, nhưng cánh cửa soi rọi vào giao thương đường dài cận đại có thể tìm thấy từ bản thảo Geniza, một tập hợp những tài liệu trung cổ được tình cờ phát hiện trong nhà kho cạnh một hội đường chính tòa Do Thái cổ tại Cairo. Luật Do Thái không cho phép phá hủy tài liệu có nhắc đến tên của Thượng đế, kể cả thư từ thương mại và gia đình thường ngày. Do quy định này áp dụng đối với hầu hết các loại bản thảo thời trung cổ, nên số lượng lớn văn bản được lưu trữ ở những nơi như geniza là hội đường địa phương. Lượng người Do Thái tại Cairo tăng mạnh trong bối cảnh đế chế Hồi giáo Fatimid khá thịnh vượng và cởi mở vào giai đoạn thế kỷ 10 tới thế kỷ 12, cùng với khí hậu khô đã giúp bảo quản kho tài liệu này (đặc biệt những bản thảo tiếng Ả-rập nhưng sử dụng hệ thống chữ viết Hebrew) đủ tốt để chúng còn giữ được đến ngày nay. Thư từ thường xuyên giữa anh em họ hàng hay đối tác kinh doanh, kéo từ Gibraltar tới Alexandria tới Ấn Độ, tạo nên sự thoáng hiện hiếm hoi. Để quan sát những người bán rong chuyên mua và bán hàng hóa - một thế giới chậm chạp, nguy hiểm, khắc nghiệt, và thô lậu.
Công việc chuẩn bị thậm chí đã nhọc nhằn từ trước khi bắt đầu hành trình. Các lái buôn sẽ không lên đường ra ngoại quốc nếu không có thư giới thiệu tới một đầu mối kinh doanh được kỳ vọng, hoặc thư bảo lãnh an toàn từ các nhà chức trách địa phương dọc tuyến đường. Nếu không, chắc chắn họ sẽ bị cướp bóc, quấy nhiễu, hoặc sát hại. Thêm nữa, tất cả những người lữ hành trong thế giới Hồi giáo trung cổ cần một rafiq, tức là người đồng hành, thường cũng là nhà buôn. Lái buôn và rafiq đặt an toàn bản thân trong tay nhau. Hiếm có tai ương nào trên đường đi lại tệ hơn cái chết của rafiq, vì nhà chức trách địa phương có thể cho rằng người lữ hành giờ đây sở hữu tiền bạc và đồ đạc của rafiq, vậy là tước đoạt và tra tấn sẽ chờ đón. Để người thân hay vị khách lên đường mà không có rafiq sẽ bị coi là thiếu tôn trọng6.
Trong thế giới này, di chuyển bằng tàu thì nhanh hơn, rẻ hơn, an toàn hơn, và thoải mái hơn đường bộ. Tuy thế, “nhanh hơn”, “rẻ hơn”, “an toàn hơn”, và “thoải mái hơn”, tất cả đều là những khái niệm có tính tương đối. Trước khi thuyền buồm nhỏ châu Âu và thuyền hình vuông xuất hiện ở bán đảo
Iberia vào thế kỷ 15, loại tàu lớn di chuyển chủ yếu bằng buồm dành riêng cho hàng cồng kềnh, giá trị thấp; còn hành khách và những loại hàng hóa quý hơn thì sử dụng thuyền có mái chèo, là phương tiện vận chuyển hàng hải nhanh và đáng tin cậy nhất. Một chiếc galley dài xấp xỉ 46 mét có khả
năng chứa tới 500 tay chèo, chưa kể những người khác trong thủy thủ đoàn, các sĩ quan và hành khách. Nhồi nhét quá nhiều người vào không gian chật hẹp như vậy gây ra tình trạng cực kỳ mất vệ sinh, biến con thuyền đó thành cống nổi. “Sự khủng khiếp của bệnh tật và thứ mùi ghê tởm từ những người
đồng hành thật quá sức chịu đựng”, một nhà buôn không rõ danh tính từng đi thuyền trên sông Nile thuật lại. “Tình hình tệ hại đến mức có ba người bị chết, và những người khác phải ở trên tàu một ngày rưỡi cho tới khi xác chết phân hủy.”7 Việc thuyền trưởng không sẵn lòng vào đất liền và chôn cất những xác chết trong ngày họ từ giã cõi đời, một sự vi phạm nghiêm trọng phong tục Hồi giáo, đã ẩn chứa những nguy hiểm đang chờ hành khách và thủy thủ đoàn trên bờ.
Gác sang một bên vấn đề vệ sinh cơ bản, chính thuyền trưởng và thủy thủ đoàn cũng thường là nguồn cơn hiểm họa. Không hiếm gặp những vụ trộm cắp và sát hại trên tàu, và tàu buôn cung cấp những con mồi dễ dàng cho ề ố ế
đám người công quyền thối nát. Sau khi trả cho một quan chức thứ “thuế đầu người” đáng khinh bỉ trước khi rời cảng, nhà buôn sông Nile ở trên vẫn hồ nghi rằng chính quan chức đó có thể quay lại tống tiền mình một lần nữa:
“Tôi rời tàu rồi đi tiếp, bắt kịp nó ở al-Rumayla, tại đó tôi lại lên tàu sau khi nó cập bến. Quả thực nhận định của tôi là đúng. Sau khi tôi rời đi, cảnh sát đã quay lại để bắt tôi.”8
Những gian nan và hiểm nguy đó không chỉ dành riêng cho tàu Hồi giáo. Các nhà buôn Ai Cập thường lựa chọn đi bằng tàu Ý hoặc Byzantine, những con tàu đó cũng chẳng an toàn hay tiện nghi hơn. Dù là tàu nào thì cũng có thể gặp phải nạn sát hại, cướp biển, hoặc bệnh tật, và tiếp đó là trôi dạt mất phương hướng do mất điều khiển. “Những con tàu ma” này là vật chứng cho phí tổn sinh mạng được trả bởi thủy thủ đoàn và hành khách, đặc biệt là trên những tuyến đường gia vị ở Ấn Độ Dương xa xôi.
Tuy thế, dù hành trình đi biển thời trung cổ có đắt đỏ, khó chịu, và hiểm nguy, nhưng các nhà buôn vẫn ưa thích cách này hơn là đi đường bộ. Ngay cả dọc theo những con đường chính ở trung tâm đế chế Fatimid Ai Cập, thư bảo lãnh an toàn cũng chẳng bảo vệ được người lữ hành khỏi bị dân du mục tấn công. Nhiều tuần lễ trên những con tàu nặng nề, hôi hám vẫn còn hơn hàng tháng trời trông chừng kẻ cướp trên lưng lừa hay lạc đà.
Những tài liệu Geniza cũng mô tả chi phí đắt đỏ của vận chuyển đường bộ. Hầu hết dữ liệu lịch sử cho thấy vải là loại sản phẩm đầu tiên được mua bán. Tổng chi phí vận chuyển từ Cairo tới Tunisia cho một kiện hàng “hoàng gia” [purple] (bằng lượng vải chất lên một con lạc đà, nặng khoảng gần 230 kg) là 8 dinar vàng. Số tiền này tương đương sinh hoạt phí trong bốn tháng của một gia đình hạ-trung lưu ở Ai Cập thời trung cổ. Một nửa số đó để chi dùng cho đoạn đường bộ ngắn ngủi khoảng 192 km từ Cairo tới Alexandria, nửa còn lại dành cho quãng đường biển 1.920 km từ Alexandria tới Tunisia. Vì thế, tính trên đơn vị chiều dài, vận chuyển đường bộ đắt gấp 10 lần vận chuyển đường biển.9 Do sự kém tiện nghi, rủi ro, và chi phí khủng khiếp như vậy, nên các nhà buôn chỉ chọn nó nếu họ không thể đi bằng đường biển, chẳng hạn khi Địa Trung Hải bị “đóng cửa” vào mùa đông.
Giả như nhà buôn đủ may mắn để về đích với hàng hóa và người còn nguyên vẹn, thì lại phát sinh rủi ro do biến động thị trường. Giá cả hoàn toàn nằm ngoài khả năng dự đoán, thường được thỏa thuận với lời cảnh báo “Giá cả không tuân theo nguyên tắc nào”, và “Giá cả nằm trong tay của Chúa.”10 Vậy vì sao một người có thể mạo hiểm cả sinh mạng và tài sản trong những hành trình có thể khiến anh ta rời xa gia đình và nhà cửa hàng năm trời, mà chỉ mang lại chút lợi tức nghèo nàn? Đơn giản thôi: đời đi buôn tàn khốc đó vẫn còn khá hơn so với cuộc sống còn khắc nghiệt hơn của trên 90% dân cư làm nghề nông chỉ kiếm đủ ăn. Mức lợi tức 100 dinar mỗi năm - đủ để duy trì đời sống thượng-trung lưu - giúp nhà buôn trở thành người giàu có.11
***
Adam Smith đã viết rằng bản chất của con người là “mang thiên hướng giao dịch, đổi chác, và trao đổi thứ này, lấy thứ kia”, vậy nên khuynh hướng tự nguyện này đơn thuần là bản tính con người “mà không liên quan đến nhân tố nào khác nữa.”12 Có rất ít truy vấn lịch sử khác cho chúng ta biết về thế giới mình đang sống ngày nay giống như kết quả nghiên cứu về nguồn gốc của thương mại thế giới đã cung cấp - nếu chúng ta đặt ra những câu hỏi phù hợp. Ví dụ, bắt đầu từ khi lịch sử được ghi lại, đã xuất hiện giao thương ổ Ả ề
đường dài sôi nổi giữa Lưỡng Hà và Nam Ả-rập về lương thực và kim loại. Và thậm chí nếu quay về thời kỳ trước đó, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những bằng chứng hùng hồn về hoạt động vận chuyển đường dài thời tiền
sử dành cho các nguyên liệu chiến lược như đá vỏ chai và công cụ bằng đá. Trong khi các động vật khác, đặc biệt là loài linh trưởng, bới lông và chia sẻ thức ăn với nhau, thì việc trao đổi một cách có hệ thống hàng hóa và dịch vụ, đặc biệt qua những khoảng cách cực dài thì không thấy ở các loài khác ngoài Homo Sapiens (người tinh khôn). Điều gì khiến con người thời xa xưa tiến hành hoạt động mua bán?
Các nhà nhân học tiến hóa xác định dấu mốc xuất hiện hành vi của con người hiện đại là ở phía đông và nam châu Phi vào khoảng 100.000 năm trước13. Một trong những hành vi đó, khuynh hướng “giao dịch và đổi chác” bẩm sinh, đã khiến cho số lượng và chủng loại hàng hóa tăng lên không ngừng. Mặc dù thương mại thế giới tăng trưởng song song với các cải tiến công nghệ trong vận tải đường bộ và đường biển, nhưng ổn định về chính trị thậm chí đóng vai trò quan trọng hơn. Ví dụ, ngay sau khi lực lượng của Octavian chiến thắng liên quân Anthony và Cleopatra trong trận Actium ở phía tây Hy Lạp vào năm 30 TCN và mở rộng đáng kể lãnh thổ của đế chế La Mã, thành Rome đã ngập tràn hồ tiêu, động vật ngoại lai, ngà voi, và trang sức quý từ phương Đông. Trong số hàng hóa mới mẻ này, tơ lụa Trung Hoa là mặt hàng nổi tiếng nhất và được thèm muốn nhất, nhưng chưa một người bản địa nào ở bán đảo Ý từng gặp người Trung Hoa trước đó, và như chúng ta đã thấy, thậm chí những người La Mã chuyên vẽ bản đồ cũng không xác định được vị trí chính xác của Trung Hoa. Giao thương giữa thành Rome và phương Đông nở rộ nhanh như thế nào trong buổi bình minh của đế chế thì cũng co về nhỏ giọt đột ngột như vậy, khi thành Rome bắt đầu thời kỳ suy tàn kéo dài sau cái chết của Marcus Aurelius vào cuối thế kỷ 2. Trên thực tế, tơ lụa của Elagabalus là một trong những mặt hàng xa xỉ hiếm hoi được nhập từ Ấn Độ sau giai đoạn này.
Giao thương đường dài tăng trưởng mạnh mẽ sau trận Actium, và thời suy tàn của nó sau đó 200 năm không liên quan tới những đổi thay trong công nghệ hàng hải. Dĩ nhiên, thương lái La Mã, Hy Lạp, Ả-rập, và Ấn Độ thường đi lại trên những tuyến thương mại qua Ấn Độ Dương không tự dưng mất đi năng lực hàng hải sau thời trị vì của Marcus Aurelius.
Giờ hãy xem xét đóng góp của thương mại đối với sự phong phú của nông sản trên hành tinh chúng ta. Thử tưởng tượng những món ăn của Ý thiếu vắng cà chua, những cao nguyên quanh Darjeeling không có cây chè nào, trên bàn của người Mỹ không có bánh mì trắng hay thịt bò, quán cà phê ở bất cứ nơi nào trên thế giới không có cà phê gốc Yemen, hay người German nấu ăn mà không dùng khoai tây. Đó chính là tình trạng hạn chế chủng loại nông phẩm của thế giới trước khi có “trao đổi Columbus”, khi hàng tỉ mẫu đất trồng trọt bị các loại gia vị từ những lục địa xa xôi xâm lấn trong nhiều thập niên sau năm 1492. Điều đó đã xảy ra như thế nào và vì sao, và cho chúng ta biết điều gì về bản chất của thương mại?
Trong suốt bảy thế kỷ từ khi Nhà tiên tri Muhammad qua đời cho tới thời Phục hưng, các quốc gia Hồi giáo ở châu Âu, châu Á, và châu Phi đã tỏa sáng và vượt qua cả các nước Kitô giáo phương Tây. Những người theo Muhammad chiếm lĩnh con đường chính yếu của thương mại đường dài thế giới qua Ấn Độ Dương, và trong quá trình truyền bá thông điệp đầy quyền lực của ông từ Tây Phi tới biển Đông. Sau đó, với tốc độ ngoạn mục, một phương Tây mới hồi sinh nắm quyền kiểm soát các tuyến thương mại toàn cầu trong những thập niên tiếp sau hai hành trình đầu tiên qua Mũi Hảo
ể ể
Vọng của Bartholomew Diaz và Vasco da Gama. Liệu chúng ta có thể hiểu những sự kiện đó dưới góc nhìn vĩ mô hơn về lịch sử thương mại?
Những tổ chức thương mại quốc gia lớn, đặc biệt là các công ty Đông Ấn Anh và Đông Ấn Hà Lan, dẫn đầu sự thống lĩnh giao thương của châu Âu và khiến thương mại thế giới trở thành lãnh địa gần như độc quyền của những thực thể kinh doanh lớn, và trong thế kỷ 20 là của những công ty đa quốc gia. Ngày nay, các tổ chức này - có nguồn gốc phương Tây, với sự chiếm lĩnh về văn hóa và kinh tế đậm chất Mỹ - thường là mục tiêu bị ghét bỏ và oán giận tột cùng. Đâu là gốc rễ của các tập đoàn quốc tế khổng lồ thời hiện đại, và xung đột văn hóa liên quan tới thương mại với chủ nghĩa chống thân Mỹ gay gắt ngày nay có phải là một hiện tượng mới?
Thế giới ngày càng phụ thuộc vào dòng chảy không ngừng của thương mại, khiến chúng ta vừa thịnh vượng lại vừa dễ bị tổn thương. Chỉ cần Internet bị ngắt trên diện rộng cũng đủ giáng đòn chí tử vào nền kinh tế toàn cầu - một
tình cảnh thật kinh ngạc khi tính đến việc Internet mới phổ biến chỉ hơn mười năm nay. Thế giới phát triển lệ thuộc vào nguồn nhiên liệu hóa thạch từ những quốc gia bất ổn nhất, phần lớn trong đó chảy qua chỉ một eo biển nhỏ hẹp đổ vào vịnh Ba Tư. Lịch sử thương mại có trao cho chúng ta cột mốc nào để dẫn lối chúng ta qua những hiểm nguy nơi đại dương đó không?
Với hiểu biết thông thường hôm nay, có thể thấy rằng những cuộc cách mạng truyền thông và vận tải cuối thế kỷ 20 đã giúp các nước trên thế giới lần đầu tiên có thể cạnh tranh kinh tế trực tiếp với nhau. Tuy nhiên, chúng ta cũng sẽ thấy rằng việc này chẳng có gì mới mẻ. Từ nhiều thế kỷ trước, mức độ “phẳng” của thế giới đã tạo ra cả kẻ thắng lẫn người thua, và không ngạc nhiên khi họ có xu hướng lần lượt là ủng hộ hoặc chống đối lại tiến trình này. Lịch sử cách mạng thương mại trước đây đã nói gì với chúng ta về cuộc đấu tranh chính trị vĩ đại ngày nay xoay quanh toàn cầu hóa?”14
Vậy thì, chúng ta lĩnh hội thế nào từ thế giới buôn bán tơ lụa cổ xưa và tư liệu Geniza, trong đó công việc của nhà buôn thật cô độc, đắt đỏ, và quả cảm, nên chỉ những hàng hóa quý giá nhất mới đủ trả chi phí, cho tới thế
giới kinh doanh hiện đại với rượu vang từ Chile, xe hơi từ Hàn Quốc và táo từ New Zealand?
Các quốc gia ổn định là các quốc gia thương mại. Thương mại giữa thành Rome và Đông Á bắt đầu sau chiến thắng của Octavian tại trận Actium, và mở ra thời kỳ khá yên bình kéo dài gần hai thế kỷ trên những tuyến đường thương mại qua Địa Trung Hải và Biển Đỏ. Trong khi người La Mã kiểm soát
nhiều nhất, một phần ba về phía tây của tuyến đường giữa Alexandria và Ấn Độ, thì tầm ảnh hưởng của họ xa nhất về phía đông là tới sông Hằng.
Mặc dù các nhà buôn đơn độc hiếm khi vận chuyển hàng hóa trên toàn bộ hành trình từ Ấn Độ tới thành Rome, nhưng vẫn có những mối liên hệ ngoại giao trực tiếp thường xuyên giữa nhiều vùng của Ấn Độ và thành Rome. Trong vòng vài năm khi Octavian lên ngôi với hiệu Augustus, các nhà cai trị Ấn Độ đã tỏ lòng tôn kính ông ta bằng nhiều lễ vật cầu kỳ và quà cáp lạ lùng - rắn, voi, ngọc quý, và những người nhào lộn, tất cả đều được hoàng đế triển lãm ở cung điện - và tại Ấn Độ người ta xây các đền thờ để tôn vinh ông ta. Đáng chú ý nhất là công dân La Mã được tự do di chuyển ở nhiều nơi trên Tiểu lục địa này; điểm khảo cổ gần Pondicherry được khai quật từ năm 1945 tới 1948 đã hé lộ bằng chứng về một đặc khu thương mại La Mã từng hoạt động cho tới khoảng năm 200.15
Ấ ằ ồ ề ề
Hàng hóa nội địa Ấn Độ được mua bằng đồng tiền vàng và bạc khá bền, niên đại của mỗi đồng được xác định bằng hình hoàng đế. Vẫn còn tìm thấy nơi lưu trữ những đồng tiền này ở phía nam Ấn Độ, giúp chúng ta có cái nhìn sơ lược về đặc điểm thương mại 2.000 năm trước. Trong đó có những đồng tiền vàng và bạc thời Augustus và Tiberius (năm 27 TCN tới năm 37), cho thấy thương mại đã phát triển mạnh với lượng hàng hóa lớn. Sau khi Tiberius qua đời, thành phần các loại đồng tiền Ấn Độ được tích trữ đã thay đổi. Số lượng lớn tiền được tìm thấy đều là đồng vàng, không có đồng bạc, các đồng tiền mang chân dung của Caligula, Claudius, và Nero (từ năm 37- 68). Theo sử gia E. H. Warmington, sự thiếu vắng các đồng bạc này có thể cho thấy việc buôn bán khi ấy chủ yếu diễn ra với các mặt hàng xa xỉ. Số ít những đồng tiền La Mã các loại được tìm thấy sau cái chết của Marcus Aurelius vào năm 180.16 Khi giới cầm quyền La Mã và nhà Hán cuối cùng sụp đổ vào khoảng năm 200, thương mại với phương Đông gần như dừng lại hoàn toàn.
Bước tiến lớn khác của thương mại trong thời kỳ này đến từ thủy thủ Hy Lạp, những người đã biết khai thác gió mùa tây nam vào mùa hè của vùng Tây Ấn Độ Dương. Ban đầu, họ tận dụng gió mùa để ra khơi, chỉ nhằm tránh cướp biển phía ngoài bờ biển Ba Tư. Tuy nhiên, khoảng năm 110 TCN, họ đã vượt qua đại dương đầy hiểm nguy vào mùa hè, thẳng về phía đông qua vịnh Ả-rập từ lối vào Biển Đỏ tại Bab el Mandeb, tới điểm cực nam Ấn Độ và xa hơn trong thời gian chưa đầy sáu tuần, 1.000 năm trước khi người Trung Hoa phát minh ra la bàn. Theo truyền thuyết, một hoa tiêu tên Hippalus “đã phát hiện” ra những cơn gió mậu dịch (thuật ngữ này cũng ra đời từ đó) ở vịnh Ả-rập, mặc dù hiển nhiên là các thủy thủ Ấn Độ và Ả-rập cũng biết đến loại gió này. Một yếu tố chính giúp mở rộng thương mại hàng hải đường dài không phải là do lở đất trên hàng ngàn cây số bờ biển dài vô tận, mà chính là nhờ các thủy thủ Hy Lạp đã sẵn sàng đưa tàu đi thẳng qua tuyến đường mở rộng lớn của Ấn Độ Dương trước các cơn gió mùa khủng khiếp.
Sau khi vượt qua Bab el Mandeb vào cuối xuân hoặc cuối hạ, người thủy thủ nhắm hướng đông trong cơn gió tiếp theo. Nếu đích đến của anh ta là lưu vực Indus (Pakistan ngày nay), anh ta sẽ hướng về phía bắc, và nếu mục tiêu là bờ biển Malabar ở Tây Nam Ấn Độ, anh ta sẽ hướng về phía nam. Vào giữa mùa hạ, khi các cơn bão trở nên dữ dội nhất và nói chung phải tránh né chúng, thì tuyến đường Malabar có thêm rủi ro khi vượt qua phía nam của Tiểu lục địa này, điều thường là một sai lầm tai hại. Hành trình trở về dựa theo gió mùa đông bắc tương đối hiền hòa và mát mẻ thì an toàn hơn; bỏ qua Bab el Mandeb thậm chí bằng cách mở đường vòng rộng về phía bắc hoặc nam vẫn là một phương án dễ chấp nhận, vì nó giúp người thủy thủ đến được các điểm ẩn náu và tiếp tế ở Ả-rập hay Đông Phi.
Các nhà buôn Hy Lạp tại Ai Cập thời Ptolemy có thêm lợi thế là tài luyện kim, giúp họ có đinh sắt để đóng tàu. (Thuyền thời kỳ đầu của Ả-rập và Ấn Độ sử dụng sợi xơ dừa để buộc các thanh gỗ lại với nhau, nên khi biển động mạnh thì rã thành từng mảnh). Thân tàu được kết nối bằng đinh sắt chứng tỏ khả năng chống đỡ trước gió mùa hè tây nam, với những trận bão tàn bạo nhiều phen chẻ rời cả tàu thuyền chắc chắn nhất. Trước khi tàu cao tốc và động cơ hơi nước xuất hiện vào thế kỷ 19, chính nhịp điệu gió mùa - hướng tây nam vào mùa hè, đông bắc vào mùa đông - đã làm nên nhịp độ thương mại hằng năm trên Ấn Độ Dương.
Nếu như khao khát bẩm sinh của con người muốn thách thức tự nhiên nơi biển cả đã được đền bù xứng đáng, thì quyết định tương tự trên đất liền bằng cách sử dụng loài lạc đà chậm chạp, to lớn, và không có khả năng
ố ố
phòng vệ vốn đã bị quên lãng, cũng gặt hái những thành quả tương tự. Vốn đã biến mất ở Bắc Mỹ, và nhanh chóng tiến gần tới tuyệt chủng ở Âu-Á, loài lạc đà lần đầu tiên được ghi nhận giá trị cách đây khoảng 6.000 năm chỉ vì sữa của chúng. Phải tới 2.500 năm sau, khoảng năm 1500 TCN, con người mới bắt đầu khai thác khả năng của lạc đà trong việc vận chuyển hàng trăm cân hàng và vượt qua những lãnh thổ vốn không thể chinh phục bằng cách khác. Nếu không có sự thuần hóa lạc đà, con đường tơ lụa xuyên Á và con đường hương liệu qua Ả-rập không thể hình thành.
Ít ai biết sự thật rằng tổ tiên của giống lạc đà hiện đại (cùng với ngựa) có nguồn gốc ở Bắc Mỹ và từng di cư về phía đông qua vùng đất của eo Bering nối với châu Á. Dẫu cho những đàn lạc đà hay ngựa nhanh nhẹn chỉ mất vài chục năm để xoay xở trên hành trình từ trung tâm Bắc Mỹ tới trung tâm Âu Á, thì chuyến đi vất vả ấy còn khó khăn hơn đối với những loài thực vật mong manh từ vùng khí hậu ôn hòa. Những loài cây này có ít cơ hội sống sót qua hành trình liên lục địa chứa đựng nhiều yếu tố bất ngờ khi vượt đại dương, hay hàng ngàn năm di cư đầy may rủi qua vùng lục địa lạnh lẽo từ quê nhà Bắc Mỹ tới nơi tương tự ở Âu-Á. Vì thế, trong khi các loài động vật có thể di cư qua eo Bering trong các thời kỳ băng hà, những giống cây trồng lại không thể.
Mọi thứ đã thay đổi vào năm 1493 với hành trình thứ hai của Christopher Columbus, làm đảo lộn nền nông nghiệp và kinh tế của cả Cựu Thế giới và Tân Thế giới. 17 con tàu của Columbus là kiểu tàu gỗ Noah xứ Iberia, chở tới Tân Thế giới khoảng 1.300 người khai hoang cùng gần như toàn bộ các giống cây trồng và động vật thuần hóa của phương Tây. Chúng lan ra rất nhanh. Thậm chí sự trao đổi những giống cây “nhỏ bé” - như bí ngòi, bí ngô, đu đủ, ổi, bơ, dứa, và ca cao từ Tây bán cầu; nho, cà phê, cùng số lượng lớn các loại cây ăn quả và cây quả hạch từ châu Âu - cũng mang tầm quan trọng lớn về kinh tế.
Trong tất cả các loài động thực vật được mang đi ở lần viễn chinh thứ hai này, không có loài nào gây ảnh hưởng ngay lập tức như giống lợn. Có ngoại hình và tập tính rất giống với loài lợn lòi hoang, săn chắc, và nhanh nhẹn hơn hẳn giống lợn nông trại hiện đại và có khả năng chuyển hóa 20% lượng thức ăn thành chất đạm (so với 6% của gia súc), giống động vật ăn cỏ mắn đẻ này ngấu nghiến đủ các loại cỏ, trái cây, rễ cây nhiệt đới dồi dào ở Tân Thế giới. Hơn nữa, những loài động vật ăn thịt lớn gần như đã biến mất ở cả Bắc Mỹ và Nam Mỹ sau khi người châu Mỹ bản xứ đầu tiên xuất hiện, mà không có bệnh tật gì nghiêm trọng đe dọa các loài này. Trong xứ thiên đường ấy, loài lợn nhanh chóng thoát khỏi sự lệ thuộc vào những người chăn lợn viễn chinh và nhân lên nhanh chóng, không chỉ ở Hispanola (mục tiêu của lần viễn chinh năm 1493, đảo này bao gồm cả Haiti và Cộng hòa Dominica ngày nay) mà còn ở Cuba và Puerto Rico, và ở nhiều đảo nhỏ hơn ở Caribe. Người Tây Ban Nha nhanh chóng phát hiện ra, nếu thả một cặp lợn đang độ sinh sản vào vùng đảo hoang màu mỡ thì vài năm sau chắc chắn họ sẽ có một nguồn thịt lợn dồi dào. Trong môi trường sống thoải mái như vậy, không chỉ lợn mà cả ngựa và gia súc cũng sinh trưởng mạnh mẽ chẳng cần con người can thiệp. Từ các căn cứ có nguồn dự trữ ngày càng tốt ở Hispanola và Cuba, người Tây Ban Nha giờ đã đủ tài lực để tấn công phần lãnh thổ chính của châu Mỹ. Đội hình của họ gồm ngựa giống Caribe và chó chiến đấu, theo sau là những đàn lợn đông đúc, một “kho quân nhu móng guốc” thực thụ.17 Được trang bị súng và kiếm thép, cỗ máy chiến tranh trên lưng ngựa đáng sợ này có thể phá hủy đội hình dân bản địa đông đúc hơn mà gần như không bị thiệt hại gì.
Trong vòng vài thập niên sau cuộc chinh phục của Cortés và Pizarro, lượng gia súc trong khu vực châu Mỹ nói tiếng Tây Ban Nha phát triển nhanh đến mức cứ mỗi 15 tháng lại tăng gấp đôi. Từ Mexico tới vùng đồng hoang ở Argentina, những khu vực bỏ không rộng lớn ở Tân Thế giới lúc nhúc toàn màu đen của gia súc. Một quan sát viên người Pháp ở Mexico viết trong sự kinh ngạc về “vùng đồng bằng rộng lớn, bằng phẳng, trải dài vô tận, và khắp nơi bao phủ bởi hằng hà sa số gia súc”.18
Số người địa phương ít ỏi chỉ sử dụng một phần rất nhỏ của núi thịt bò ngày càng dâng cao, hầu hết số còn lại để cho thối rữa sau khi đã lọc riêng da và móng guốc, những bộ phận duy nhất của bò có thể mang đi bán. Trước năm 1800, riêng Argentina đã xuất khẩu hàng triệu tấm da mỗi năm.
Sự xuất hiện của những con thuyền trữ lạnh vào cuối thế kỷ 19 đã thay đổi tất cả, giúp châu Âu lục địa có nguồn cung thịt bò giá rẻ. Điều này gây thiệt hại cho người bán thịt ở châu Âu, giống như hàng dệt may và điện tử giá rẻ từ châu Á ồ ạt tấn công các nhà sản xuất của châu Mỹ vào thế kỷ 20. Nếu nhà bình luận Thomas Friedman của tờ New York Times viết bài vào năm 1800, chắc hẳn ông sẽ chẳng gặp chút khó khăn nào để giải thích về tính phẳng của thương mại thế giới với giới thợ thuộc da châu Âu; cũng như không có người chăn thả gia súc nào của châu Âu gặp khó khăn với khái niệm này vào năm 1900.
Nhiều quá thường sinh ra bi kịch. Trong hàng ngàn năm, người châu Âu sống rất gần những loài vật đã thuần hóa mang tính chuyên biệt cao và trở nên miễn dịch với nhiều tác nhân sinh bệnh nguy hại, còn với người châu Mỹ bản địa thì lại có nguy cơ nhiễm bệnh cao. Gươm và súng vận hành cùng với đậu mùa và sởi, là những bệnh nhiều khi xuất hiện cách đó hàng trăm cây số trước lúc người da trắng hiện diện bằng xương bằng thịt. Một người Tây Ban Nha đã nhấn mạnh rằng thổ dân “chết như cá trong chậu.”19 Tệ hơn, hệ sinh thái bản địa thực sự bị hủy hoại, việc chăn thả súc vật quá mức đã tàn phá cảnh quan, những loài thực vật và cỏ dại đơn điệu của châu Âu lan tỏa thay thế các loài thực vật địa phương đa dạng.
Nguồn cung hạt giống từ người châu Mỹ bản địa, đặc biệt là khoai tây và ngô, đã thay đổi chế độ ăn của châu Âu. Trên cùng diện tích, hai loại hoa màu này cho năng suất cao hơn hẳn lúa mì; khoai tây có thể lớn lên giữa đất cằn trong những điều kiện môi trường đa dạng, từ địa hình ngang mực nước biển tới độ cao hơn 3.000 mét; ngô thì đòi hỏi cao hơn, phải là đất màu mỡ và thời tiết nóng kéo dài, nhưng có thể phát triển trong khí hậu “nửa nọ nửa kia” - quá khô để trồng lúa nhưng quá ẩm để trồng lúa mì. Cả một dải đất kiệt quệ của phía nam châu Âu, trải dài từ Bồ Đào Nha tới Ukraine, hoàn toàn đáp ứng điều kiện đó. Cho tới năm 1800, nơi đây trở thành một trong những vùng trồng ngô lớn nhất thế giới.
Ngô và khoai tây không chỉ giúp châu Âu thoát khỏi cánh tay tử thần của cái bẫy Malthus
Lý thuyết của Thomas Malthus (1766-1834) chỉ ra nguyên nhân của nghèo đói bằng một tỉ lệ đơn giản giữa tốc độ tăng trưởng dân số với tốc độ tăng trưởng của cải - tương ứng với mức sống tối thiểu. (BT)
mà còn trực tiếp thúc đẩy thương mại. Vào thuở bình minh của Cách mạng Công nghiệp, những loại hoa màu này giúp châu Âu có lượng thực phẩm dư thừa để đổi lấy sản phẩm và nhân công nông nghiệp tự do giúp sản xuất nhiều hơn. Đổi lại, năng suất trồng trọt tăng lên đòi hỏi nhiều phân bón, lúc đầu được đáp ứng nhờ bóc lớp phân chim bao phủ trên các đảo ở Thái Bình
ố
Dương và Mỹ Latin. Tương tự, việc đưa khoai mỡ, ngô, thuốc lá, và lạc tới Trung Hoa đã giúp nhà Thanh mới lên mở rộng tầm ảnh hưởng vào thế kỷ 17 và 18.20
“Toàn cầu hóa”, hóa ra không phải là một hay thậm chí là một chuỗi sự kiện; mà đó là tiến trình diễn ra chậm rãi trong một thời gian rất, rất dài. Thế giới không đột nhiên trở nên “phẳng” với phát kiến về Internet, và thương mại không bất ngờ bị các tập đoàn lớn tầm cỡ toàn cầu chi phối vào cuối thế kỷ 20. Khởi đầu bằng hàng hóa giá trị cao được ghi nhận trong lịch sử, sau đó từ từ mở rộng sang các mặt hàng ít quý giá hơn, cồng kềnh và dễ hư hỏng hơn, những thị trường của Cựu Thế giới dần tiến đến hợp nhất. Với hành trình đầu tiên của người châu Âu tới Tân Thế giới, quá trình hội nhập toàn cầu diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Hôm nay, các tàu Container đồ sộ, máy bay phản lực, Internet, cùng mạng lưới cung ứng và sản xuất ngày càng được toàn cầu hóa chỉ là những bước tiến xa hơn của một quá trình đã diễn ra suốt 5.000 năm qua. Nếu chúng ta muốn biết về những mô hình thương mại toàn cầu đang chuyển dịch nhanh chóng ngày nay, cách thực sự hữu ích là tìm hiểu những gì đã xảy ra trước đây.
Khoảng mười năm trước, tôi tham gia vào lĩnh vực tài chính và kinh tế; trong thời kỳ đó, tôi đã viết ba cuốn sách. Cuốn đầu tiên là một chuyên luận về lý thuyết và thực tiễn tài chính, trong đó nhấn mạnh bối cảnh lịch sử. Trong mỗi cuốn tiếp theo đó, tôi đi vào lãnh địa lịch sử sâu hơn. Cuốn thứ ba, The Birth of Plenty (Khởi sinh của Sung túc), bàn về nguồn gốc mang tính thể chế của sự thịnh vượng toàn cầu xuất hiện từ sau năm 1820. Rất ít độc giả phát hiện ra tiền đề cơ bản của cuốn sách - đó là sự giàu có gần đây của thế giới hiện đại được củng cố nhờ phát triển quyền sở hữu tài sản, quy định pháp luật, cơ chế thị trường vốn, và chủ nghĩa duy lý khoa học. Thử nghiệm thất bại và sự giàu có hay nghèo đói hiện nay tại các quốc gia riêng lẻ là minh chứng cho vai trò của những yếu tố then chốt này.
Cuốn sách này không căn cứ vào tiền đề nào như vậy. Tổn thương và xáo trộn mà toàn cầu hóa kinh tế thế giới gây ra cho đời sống của các cá nhân, doanh nghiệp, quốc gia là có thật, và tranh cãi thì lại gây ra hiềm khích. Nói theo ngôn ngữ kinh tế, con người không chỉ bị ảnh hưởng bởi sự bình quân
(mức giàu có của công dân trung bình) mà còn vì sự khác biệt (khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn). Có thể diễn đạt giản đơn hơn: tự do thương mại tạo ra những sự khích lệ và cơ hội ngang bằng giúp nâng cao phúc lợi nói chung cho con người đồng thời làm gia tăng chênh lệch giàu nghèo với ảnh hưởng xấu về mặt xã hội. Ngay cả nếu thương mại có thể cải thiện chút ít thu nhập thực tế của những người dưới đáy, thì khi tập trung chú ý vào mức độ giàu có ngày càng tăng của những người bên trên, họ sẽ cảm nhận được nỗi đau của sự thua kém về kinh tế.
Chừng nào chúng ta bỏ sang một bên các thuật ngữ có tính chất thống kê, thì chừng đó những từ đồng nghĩa “bình quân” và “trung bình” cũng bắt đầu mang sức nặng tư tưởng của riêng chúng. Phái hữu khuynh ủng hộ bình quân, nhưng hiếm khi nhắc đến thuật ngữ điểm trung vị - tức thu nhập hay của cải của “người ở giữa.” Khi Bill Gates bước vào một căn phòng đầy kín người, thu nhập bình quân của mọi người trong phòng sẽ tăng vọt trong khi thu nhập trung vị của họ gần như không thay đổi gì - những người bảo thủ ủng hộ kinh tế thị trường thường bỏ qua khái niệm này.
Nhưng đây không phải là cuốn sách về những con số; nếu bạn muốn có dữ liệu chi tiết về quy mô thương mại và giá cả hàng hóa qua các thời kỳ, có thể tìm thấy chúng ở phần tài liệu tham khảo của cuốn sách này. Cách tốt nhất
ể ề ế
để trình bày về lịch sử thương mại thế giới là thông qua những câu chuyện và ý tưởng được chọn lọc kỹ càng. Mong mỏi lớn nhất của tôi là những câu chuyện và khái niệm trong cuốn sách này sẽ cung cấp thông tin và thách thức các nhận định ở cả hai góc độ tư tưởng lớn trong vấn đề tự do thương mại.
Cuốn sách này được cấu trúc như sau: Chương 1 và Chương 2 bàn về nguồn gốc của thương mại thế giới, bắt đầu với những bằng chứng rời rạc đầu tiên về buôn bán đường dài Thời kỳ Đồ đá. Dấu vết thương mại rõ ràng trong các dữ liệu sớm nhất của vùng Lưỡng Hà cho thấy xuất khẩu lúa gạo và vải vóc dư thừa từ vùng đất giàu có nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates, cũng như việc nhập khẩu những kim loại chiến lược đặc biệt là đồng, vốn vắng bóng ở vùng đất phù sa nơi đây. Trục thương mại đầu tiên này trải dài hơn 4.800 km từ những ngọn đồi ở Anatolia, xuyên vùng Lưỡng Hà, ra khỏi vịnh Ba Tư, ngang qua bờ biển Ấn Độ Dương, và vươn tới sông Indus. Những điểm trọng yếu của trục thương mại này là các trung tâm lớn kế tiếp nhau ở Ur, Akkad, Babylon, và Nineveh (tất cả đều thuộc Iraq ngày nay). Thương mại qua các thành phố này dần mở rộng về quy mô và mức độ phức tạp theo thời gian, đầu tiên là ở Trung Đông, sau đó mở về phía tây qua Địa Trung Hải, tiến vào vùng bờ biển Đại Tây Dương thuộc châu Âu, và tận cùng phía đông tới Trung Hoa. Trước khi thành Rome sụp đổ, hàng hóa phải sang tay nhiều lần trên hành trình giữa London và kinh đô Trường An của nhà Hán. Sự sụp đổ của đế chế Tây La Mã tạo ra điểm gián đoạn tự nhiên giữa thế giới thương mại cổ đại huy hoàng và kỷ nguyên sau đó.
Chương 3 tới Chương 6 trình bày con đường hình thành thương mại ở Ấn Độ Dương. Câu chuyện này bắt đầu chính xác ở vùng phía tây Ả-rập xa xôi từ cuối thời cổ đại và thuật lại chi tiết sự lan tỏa mạnh mẽ của Hồi giáo trong thương mại, với tầm ảnh hưởng từ Andalusia tới Philippine, mà thiên sứ được chọn, Nhà tiên tri Muhammad, lại chính là một nhà buôn. Hồi giáo tạo nên sự gắn kết để hình thành một hệ thống tiên tiến gồm các thương cảng lớn, pha tạp dân địa phương, hộ gia đình buôn bán và các tầng lớp khác từ khắp nơi tụ hội cho một mục đích duy nhất: lợi nhuận. Chúng ta có thể bổ sung: hệ thống này hầu như hoàn toàn không có người châu Âu, vốn đã bị loại khỏi Ấn Độ Dương trong gần nghìn năm do người Hồi giáo chiếm lĩnh Ả rập, châu Á, và châu Phi. Mỗi nước tham gia hệ thống này đều đối mặt với tình huống “tiến thoái lưỡng nan” cơ bản của thương mại - giao thương, tấn công, hay bảo vệ. Rồi như hiện nay, cách thức mỗi chính phủ, từ những thành phố tự trị yếu ớt nhất tới những đế chế hùng mạnh nhất, xử lý ba lựa chọn trên đã định hình môi trường thương mại, và thực sự là cả số mệnh quốc gia.
Chương 7 tới Chương 10 trình bày chi tiết làm thế nào hệ thống thương mại đa văn hóa rộng lớn này lại bị tan nát khi Vasco da Gama giành được lợi thế trước “sự phong tỏa” của Hồi giáo, trước đó đã ngăn cản các nhà buôn châu
Âu trước cánh cổng phía tây của Ấn Độ Dương. Trong kỷ nguyên phương Tây chiếm lĩnh thương mại, người Bồ Đào Nha quanh Mũi Hảo Vọng đã đóng vai trò dẫn lối. Trong vòng vài thập niên sau sự kiện quan trọng đó, Bồ Đào Nha tiếp quản những đỉnh cao chỉ huy của Ấn Độ Dương tại Goa, đánh dấu các yếu điểm phía đông và phía tây ở Malacca và Hormuz. (Tuy nhiên, quốc gia này đã không lấy được lối vào Biển Đỏ tại Aden.) Một thế kỷ sau, người Hà Lan gạt người Bồ Đào Nha sang một bên, để rồi đến lượt mình người Hà Lan lại bị công ty Đông Ấn Anh làm cho lu mờ.
Trong khi tham vọng của các vua chúa và nhà buôn cùng với tôn giáo của Nhà tiên tri dẫn dắt lịch sự cận đại, thì những tư tưởng thế tục lại thúc đẩy
mạnh mẽ kỷ nguyên hiện đại. Chương 11 tới Chương 14 nghiên cứu thương mại toàn cầu ngày nay dựa trên các học thuyết kinh tế hiện đại cơ bản. Giống như quan điểm rất nổi tiếng của Keynes:
“Những người thực tế, tin rằng họ nằm ngoài tầm ảnh hưởng của mọi lý thuyết, thường lại bị vài nhà kinh tế học lỗi thời chi phối. Còn những kẻ điên rồ nắm trong tay quyền lực, nghe theo những sứ mệnh viển vông, lại đi gieo rắc sự điên cuồng từ các tác giả tầm thường của vài năm về trước.”
Các tác giả tân tiến trong lĩnh vực thương mại - David Ricardo, Richard Cobden, Eli Heckscher, Bertil Ohlin, Wolfgang Stolper, và Paul Samuelson - giúp chúng ta hiểu về những dịch chuyển lớn lao xuất hiện trong hệ thống toàn cầu mang tính hội nhập hơn bao giờ hết.
Mặc dù cấu trúc cuốn sách này tuân theo trình tự thời gian, nhưng vẫn có nhiều đoạn tường thuật đan xen thay thế dòng chảy ngày tháng và sự kiện đơn thuần. Ví dụ, hai câu chuyện liên quan mật thiết là buôn bán hương liệu của Nam Ả-rập và thuần hóa lạc đà, cả hai đều diễn ra trong vài nghìn năm. Ở một thái cực khác, hồi ký của những nhà lữ hành trung cổ để lại cho chúng ta các ghi chép khái quát và trung thực về những chuyến hành trình của họ - Marco Polo, học giả luật Morroco Ibn Battuta, và dược sĩ Bồ Đào Nha Tomé Pires - cung cấp những hình ảnh rời rạc nhưng chi tiết của thương mại thế giới diễn ra trong thời gian chỉ vài chục năm.
Cuối cùng, về hai lưu ý xuyên suốt cuốn sách này, tuy đơn giản nhưng dễ nhầm lẫn. Thứ nhất, thương mại là một sự thôi thúc bản năng và không thể suy giảm của con người, cần thiết như nhu cầu thức ăn, chốn ở, tình dục, và các mối quan hệ. Thứ hai, sự thôi thúc giao thương ảnh hưởng sâu sắc tới quỹ đạo của loài người. Đơn giản là thương mại trực tiếp thúc đẩy sự thịnh vượng toàn cầu: nó cho phép các quốc gia tập trung sản xuất những hàng hóa mà điều kiện địa lý, khí hậu, và nền tảng tri thức khiến họ có thể làm tốt nhất, rồi đổi các hàng hóa đó lấy những mặt hàng được sản xuất tốt nhất ở một nơi khác. Quy luật về lợi thế so sánh của Ricardo cho chúng ta biết rằng, sẽ tốt hơn nhiều nếu người Argentina nuôi bò, người Nhật sản xuất ô tô, và người Ý tạo ra giày thời trang, so với việc từng quốc gia cố gắng tự cung tự cấp cả ba mặt hàng đó. Hơn nữa, trải qua nhiều thế kỷ, lạc đà và tàu thuyền đã mang trên mình những kiện hàng cùng những vị khách đi lậu huy hoàng của lịch sử, đó là nguồn vốn tri thức của con người: chữ số “Ả-rập” (thực ra là Ấn Độ), đại số, và kế toán kép. Nếu không phải vì nhu cầu hàng hải đường dài, thì đồng hồ và đồng hồ đeo tay chính xác sẽ chắc chắn không thể xuất hiện cho đến mãi sau này; nếu không vì mong muốn vận chuyển đường dài các loại thực phẩm dễ hỏng thì tủ lạnh gia đình - vật dụng không hay ho gì nhưng thiết yếu - chắc sẽ không hiện diện trong mỗi ngôi nhà của thế giới phát triển ngày nay.
Cuộc sống hiện đại hòa vào dòng chảy thương mại đang trỗi dậy hơn lúc nào hết; nếu muốn hiểu xu hướng và tiến trình của nó, chúng ta phải du hành về đầu nguồn nơi có các trung tâm thương mại mang những cái tên như Dilmun và Cambay, nơi có thể tìm thấy nguồn gốc và hình dung được tương lai của thương mại.
LƯU Ý VỚI ĐỘC GIẢ
Nhiều chủ đề nêu ra trong cuốn sách này không mang tính chắc chắn. Hơn nữa, tôi thấy khó mà hoàn toàn bỏ qua vô số những chi tiết vụn vặt hấp dẫn quanh nhiều truyền thuyết. Nhằm bảo toàn mạch kể chuyện, tôi dành những ầ ố
nội dung gây tranh cãi và thông tin không quan trọng ở phần ghi chú cuối sách; độc giả quan tâm có thể tham vấn ở đó. Nếu không, có thể bỏ qua chúng mà không ảnh hưởng gì.
Những sự kiện mô tả trong sách diễn ra ở nhiều nơi trên khắp thế giới. Chuyển tên các địa điểm đó sang ký tự Latin thường khó khăn; trong mỗi trường hợp, tôi dùng cách phát âm phổ dụng nhất trong tài liệu học thuật ngôn ngữ Anh do cơ sở dữ liệu trực tuyến JSTOR (Kho lưu trữ Báo chí) xác định.
Ngoài ra còn có vấn đề tiền tệ qua hàng nghìn năm. Đáng chú ý là đơn vị tiền tệ cơ bản của thời cận đại không thay đổi: một đồng vàng nhỏ nặng xấp xỉ 4 gram - một phần tám của ounce - và bằng với kích thước của đồng 10 cent Mỹ ngày nay, xuất hiện ở nhiều thời kỳ và tại nhiều địa điểm, như đồng livre của Pháp, đồng Florin của Florentine, đồng ducat của Tây Ban Nha hay Venice, đồng cruzado của Bồ Đào Nha, đồng dinar của thế giới Hồi giáo, đồng bezant của Byzantine, hay đồng solidus của đế chế La Mã cuối cùng. Theo giá vàng hiện tại, những đồng tiền đó có giá trị tương dương khoảng 80 đô la Mỹ. Ba ngoại lệ chủ yếu của nguyên tắc này là guilder của Hà Lan, nặng bằng khoảng một phần năm các đồng trên, còn đồng 1 pound của Anh và aureus của La Mã thời kỳ đầu thì nặng gấp đôi trọng lượng đó. Dirham của người Hồi giáo, drachma của Hy Lạp, và denarius của La Mã là loại đồng bạc gần như cùng kích thước và trọng lượng, mỗi đồng tương đương một ngày công của người lao động có kỹ năng trung bình, với tỉ lệ quy đổi là 12 đồng bạc tương đương 1 đồng vàng.
1.
NGƯỜI SUMER
Thông điệp chúng ta nhận được từ quá khứ xa xôi vốn không dành cho chúng ta hoặc được chúng ta lựa chọn, chúng là những di vật ngẫu nhiên về khí hậu, địa lý, và hành vi con người. Chúng cũng nhắc nhở chúng ta về những chiều kích tri thức kỳ lạ và giới hạn bí ẩn trong năng lực khám phá của chúng ta.
- Daniel Boorstin1
Khoảng năm 3000 TCN, một bộ lạc chăn thả gia súc đã tấn công cộng đồng nhỏ của nông dân Sumer vào thời kỳ thu hoạch. Từ khoảng cách an toàn, họ sử dụng súng cao su, giáo, và tên để tấn công bất ngờ. Phía nông dân phản
công bằng gậy khi áp sát. Gậy - cây gỗ cứng, một đầu gắn đá tròn, được thiết kế để đánh mạnh vào đầu đối phương - vũ khí chuyên biệt đầu tiên dành riêng cho mục đích tấn công đồng loại. (Các loài động vật có sọ cứng, góc cạnh hiếm khi phô ra một cái góc lý tưởng nào để tấn công bằng gậy). Vì sọ người tròn và dễ vỡ, nên dù ở tư thế tiếp cận trực diện hay quay lưng chạy thì gậy vẫn đặc biệt phát huy hiệu quả đập vỡ sọ nạn nhân.2
Việc tấn công vào mùa thu hoạch là chuyện khá bình thường: dê và cừu của dân chăn thả gia súc rất nhạy cảm với bệnh tật và sự thất thường của khí hậu, vì vậy mà nhu cầu tồn tại của bộ lạc du mục buộc họ phải thường xuyên tấn công để cướp lương thực từ những láng giềng trồng trọt có nguồn dự phòng ổn định hơn. Trong trận đấu lần này, những người chăn thả gia súc đội trên đầu thứ gì đó trông lạ lẫm và sáng loáng, đã phần nào bảo vệ được họ. Những cú đánh mạnh, thẳng, vốn chỉ một đập đã đủ chết người, thì nay chỉ gây choáng, nhiều cú đơn giản là trượt qua bề mặt trơn của thiết bị bảo vệ trên đầu đối phương. Lợi thế bảo vệ này đã hoàn toàn thay đổi cục diện cân bằng chiến lược về sức mạnh giữa hai bên, giúp bộ lạc chăn thả gia súc đánh tan sự phản công của phe nông dân.
Sau cuộc tấn công, những người nông dân sống sót liền xem xét thiết bị bảo vệ từ số ít dân du mục bị hạ. Loại “mũ bảo hiểm” này được phủ một lớp dày 0,3 cm, làm từ thứ nguyên liệu mới, kỳ lạ và có màu vàng, ôm khít lấy lớp da đầu. Những người nông dân trước đó chưa bao giờ nhìn thấy đồng, vì vùng
đồng bằng bồi tích nằm giữa các sông Tigris và Euphrates không tạo ra đồng. Thực tế, đối thủ du mục của họ có được kim loại này từ các lái buôn sống gần nguồn cung cấp, cách xa họ hàng trăm cây số về phía tây, trong sa mạc Sinai. Chẳng bao lâu sau, nông dân Sumer cũng có nhà cung cấp của mình, giúp họ tạo ra những chiếc gậy bịt đầu đồng chết người, khiến dân du mục sau đó ứng phó bằng loại “mũ bảo hiểm” dày dặn hơn. Theo cách ấy, cuộc chạy đua vũ trang đã ra đời mà tính đến lúc này, là dựa trên nguồn kim loại đến từ những xứ xa xôi thông qua thương mại.3
Nông dân và người chăn thả gia súc đã có được đồng để trang bị cho “mũ bảo hiểm” như thế nào, và những giao dịch đó làm cách nào vượt qua khoảng cách hàng trăm cây số giữa trang trại, đồng cỏ, và mỏ đồng? Các nhà cổ nhân học tin tưởng rằng, cách tốt nhất để tìm hiểu vấn đề này là quay về thời kỳ cách đây 60.000-80.000 năm, khi dân cư hiện đại đầu tiên về mặt di truyền học ở châu Phi bắt đầu chế tạo nhiều công cụ tinh xảo hơn, vỏ sò
ổ
đục lỗ (đoán chừng được sử dụng làm vòng cổ), và vẽ các hình ảnh khó hiểu từ các mảng màu đỏ son. Khoảng 50.000 năm trước đây, một số ít những người này có thể đã nhập cư qua Palestine vào vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu và châu Âu. Đâu đó trước hành trình này, ngôn ngữ đã phát triển, giúp họ thực hiện những hành vi phức tạp hơn, đặc trưng cho “loài người”: tạo tác khéo léo các công cụ từ xương động vật và gạc hươu nai, các bức tranh trong hang động, các tác phẩm điêu khắc, và công nghệ phóng tinh xảo, ví dụ như atlad, loại gậy có thiết kế đặc biệt giúp cải thiện phạm vi và độ chính xác của ngọn giáo phóng đi. Những kỹ năng ngày càng phức tạp này có thể lại góp phần tạo nên một đặc trưng vận động khác của con người hiện đại: giao thương đường dài về các loại vũ khí mới, dụng cụ, và trang sức vụn vặt.4
Mặt khác, các sử gia, bắt đầu từ xa xưa với mô tả của Herodotus được viết vào khoảng năm 430 TCN, nói về “thương mại im lặng” giữa người Carthage và “chủng tộc người sống ở một phần Libya bên kia Những cột chống trời của Hercules” (eo Gibraltar), khá giống với những người Tây Phi ngày nay:
“Khi đến nơi này, [người Carthage] dỡ hàng hóa xuống, sắp xếp gọn gàng dọc bờ biển, và sau đó quay trở lại tàu, đốt khói. Trông thấy khói, những người bản địa liền xuống biển, đặt ở đó một lượng vàng nhất định để đổi lấy hàng, sau đó lại đi ra xa. Người Carthage sau đó vào bờ và xem xét chỗ vàng; nếu cho rằng lượng trao đổi là hợp lý, họ sẽ gom vàng và ra đi; ngược lại, nếu thấy ít vàng quá, họ quay lại tàu và đợi, những người bản địa lại tới và thêm vàng cho tới khi họ hài lòng. Đó là sự trung thực tuyệt đối ở cả hai phía; người Carthage không bao giờ đụng vào vàng cho đến khi lượng vàng tương đương với giá trị hàng mà họ mang bán, còn người bản địa không bao giờ đụng vào hàng hóa cho đến khi vàng đã được mang đi.”5
Chao ôi, mô tả của Herodotus về sự thể hiện chuẩn mực của mỗi bên có vị hoang đường làm sao.6 Nhưng có thể về cơ bản ông đã nắm đúng bối cảnh. Trong một vài dịp xa xưa thời tiền sử không được ghi lại, một hoặc vài người đã sớm khởi đầu cho thương mại đường dài bằng cách bày hàng lên thuyền giữa sông nước.
Cái đói rất có thể là nguyên nhân đưa con người lên những con thuyền nguyên thủy đó. Hai vạn năm trước, Bắc Âu cũng giống với Lapland hiện đại: cảnh tượng hoang sơ, lạnh lẽo điểm xuyết cây cối với số lượng ít hơn và kích thước nhỏ hơn ngày nay. Những Homo sapiens đầu tiên của châu Âu, có thể vừa mới quét sạch kẻ thù của mình là người Neanderthal, sinh sống chủ yếu dựa vào săn bắt những giống thú lớn, nhất là tuần lộc. Thậm chí trong khung cảnh lý tưởng này, việc săn bắt những loài thú chạy nhanh bằng giáo mác, cung tên cũng chẳng phải là kế sinh nhai chắc chắn. Tuy nhiên, tuần lộc có một điểm yếu mà con người đã nhẫn tâm lợi dụng, đó là bơi rất kém. Khi dập dềnh trong nước, không có gì dễ bị đe dọa bằng chúng: di chuyển chậm chạp, gạc nhô cao để cố gắng giữ mũi ở trên mặt nước. Vào lúc nào đó, những con người thông minh Thời kỳ Đồ đá đã nhận ra lợi thế săn bắt to lớn mà họ có được nếu có thể lướt trên mặt nước, và đã làm ra con thuyền đầu tiên. Sau khi dễ dàng bắt kịp và tiêu diệt con mồi, họ đưa nó lên thuyền, mang thịt về nơi bộ lạc hạ trại bằng thuyền dễ dàng hơn nhiều so với đi trên mặt đất. Chẳng bao lâu sau, con người đã áp dụng ưu điểm này để vận chuyển các hàng hóa khác.
Các bức tranh hang động và phế tích hàng hải rải rác cho thấy những con thuyền đầu tiên có thể đã xuất hiện ở Bắc Âu cách đây vào khoảng 15.000 ế ề ầ ằ
năm. Những chiếc thuyền đầu tiên này được làm bằng cách khâu da động vật phủ bên ngoài bộ khung cứng (thường là gạc hươu nai), dùng cho cả săn bắn và vận chuyển, thường có bộ phận điều hướng ở đuôi, còn thợ săn mang vũ khí hoặc hành khách ở phía trước. Không phải ngẫu nhiên mà kim khâu bằng xương tuần lộc cũng đồng thời xuất hiện trong tư liệu khảo cổ này, bởi cần có nó để khâu thuyền bằng da. Những chiếc thuyền đầu tiên này còn ra đời trước loại xuồng độc mộc “thô sơ” hơn, do tại Bắc Âu lạnh lẽo, quang cảnh chẳng khác gì thảo nguyên, các loài cây phát triển không đủ lớn để làm kiểu xuồng đó cho cánh thợ săn khoác lông thú.
Chỉ những chứng tích bền bỉ nhất, chủ yếu là các công cụ bằng đá, còn tồn tại đến giờ để gợi nên đặc điểm nguyên sơ của thương mại đường dài thuở ban đầu. Một trong những loại hàng hóa đầu tiên được vận chuyển bằng thuyền hẳn phải là đá vỏ chai, một loại đá núi lửa đen (thực chất là một dạng thủy tinh), ngày nay được những kiến trúc sư cảnh quan và người làm vườn khắp nơi trên thế giới ưa chuộng. Người tiền sử ưa chuộng loại đá này không phải vì thẩm mỹ, mà do khi vỡ sẽ dễ đập nhỏ nó thành công cụ cắt hay vũ khí sắc bén. Giá trị lịch sử của đá vỏ chai nằm ở hai điểm: thứ nhất, nó chỉ được tạo ra ở một số vùng núi lửa, và thứ hai, sử dụng công nghệ nhận dạng dấu vết nguyên tử tinh vi có thể xác định các mẫu đá đơn lẻ có nguồn gốc từ vùng núi lửa nào.
Lớp phủ bằng đá vỏ chai có niên đại hơn 12.000 năm được tìm thấy tại hang Franchthi trên đất liền Hy Lạp có nguồn gốc từ núi lửa trên đảo Melos, cách xa bờ biển hơn trăm cây số. Những tạo tác này chắc hẳn do thuyền chuyên chở, song không còn sót lại vết tích khảo cổ nào như vài mẩu tư liệu hay kể cả thông tin truyền miệng để chúng ta biết bằng cách nào đá vỏ chai từ Melos tới đất liền. Liệu lớp đá vỏ chai đó là do các nhà buôn dùng để đổi lấy sản vật địa phương, hay đơn giản là người trong đất liền đã mang chúng về sau những chuyến thám hiểm vì thấy có giá trị?
Áp dụng công nghệ nhận dạng dấu vết nguyên tử với đá vỏ chai giúp xác định dòng dịch chuyển loại nguyên liệu này qua các miền đất trái ngược nhau như vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu và Yucatán. Ở Trung Đông, nhà nghiên cứu Colin Renfrew đã ghép nối các vùng với nguồn nguyên liệu có niên đại khoảng từ năm 6000 TCN. Lượng đá vỏ chai đo được ở mỗi điểm khai thác giảm mạnh theo khoảng cách tới nguồn, đây là gợi ý mạnh mẽ về vai trò của thương mại đã dẫn tới kết quả như vậy. Ví dụ, tất cả lưỡi dao bằng đá tìm thấy ở vùng Lưỡng Hà đến từ một trong hai nơi khai thác ở Armenia. Tại điểm cách nguồn thuộc vùng núi lửa hơn 400 km. Trong số đá vụn khai thác được, có khoảng 50% là đá vỏ chai, còn tại điểm khai thác thứ hai cách nguồn 500 km, tỉ lệ đá vỏ chai trong đá vụn chỉ là 2%7.
Tuyến đường đá vỏ chai trong Thời kỳ Đồ đá này, có thể đặt trong bối cảnh hiện đại để đánh giá chi phí của thương mại tiền sử. Vận chuyển một lượng đá vỏ chai giữa Armenia và Lưỡng Hà thời tiền sử cũng tương tự gửi một món quà Giáng sinh cho gia đình từ Boston tới Washington, DC. Nhưng, thay vì trả vài đô la và trao kiện hàng cho nhân viên mang đồng phục màu nâu, chuyến hàng như vậy ở thời tiền sử (bao gồm cả chuyến trở về) làm mất hai tháng nhân công của một nhà buôn đơn lẻ - ở mức rất tương đối, ngang với 5.000-10.000 đô la thời điểm hiện tại.
Khi nông nghiệp xuất hiện, công nghệ hàng hải mới này mở rộng sang những người làm nông ổn định, họ áp dụng thiết kế da-và-khung cho những hành trình trên sông. Một hình mẫu thương mại đã ra đời và không thay đổi trong cả vài nghìn năm: lái buôn từ các vùng dân cư có nghề nông phát triển
ể
đã vận chuyển lương thực, súc vật nơi nông trại, và những mặt hàng được sản xuất giản đơn như vải và công cụ, xuôi về hạ lưu để đổi lấy hàng hóa của các nhóm thợ săn, chủ yếu là da động vật. Giới khảo cổ thường tìm thấy vết tích của những chợ tiền sử như vậy tại các đảo nhỏ không có cây cối nằm giữa sông. Đây không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên: các khu vực này không chỉ tiện lợi với hình thức vận chuyển bằng thuyền, mà còn giảm thiểu cơ hội cho một bên nào đó phục kích thành công.
Lưỡi rìu và rìu lưỡi vòm có niên đại khoảng năm 5000 TCN, còn sót lại như bằng chứng chính về thương mại đường thủy của Thời kỳ Đồ đá này. Các nhà khảo cổ xác định những mỏ đá Balkan là nguồn nguyên liệu làm rìu và lưỡi rìu, nhiều mảnh vỡ của chúng được tìm thấy ở khắp nơi, từ cửa sông Danube tại biển Đen tới biển Baltic và Biển Bắc. Các tạo tác bằng đá bền lâu này, được tìm thấy ở những nơi cách rất xa những nguồn hiếm hoi đã được biết đến, minh chứng cho sự trao đổi đường dài sống động của vô số hàng hóa.8
Vận chuyển đường thủy về bản chất là rẻ và hiệu quả hơn đường bộ. Một con ngựa kéo có thể chịu tải trọng hơn 90 kg trên lưng. Khi có xe ngựa và đường đẹp hỗ trợ, nó có thể kéo khoảng 1,8 tấn. Cùng tiêu hao sức lực như vậy, cũng con ngựa đó có thể kéo tới 27,2 tấn khi sử dụng đường kéo thuyền ven kênh, bằng tải trọng của một con thuyền buồm nhỏ thời cổ đại.9
Herodotus cũng mô tả những con thuyền bọc da khâu tương tự chở rượu “được chứa trong những cái thùng làm bằng gỗ cọ.” Những con thuyền đó “tròn, giống cái khiên”, làm bằng da sống, và do hai nhà buôn Armenia đẩy
xuôi theo dòng Euphrates tới Babylon. Sau đó từ đây, đến lượt tiền thân của những con thuyền chở hàng đầu tiên sử dụng trong thương mại hàng hải, là loại thuyền có hình dạng tròn nên tốc độ chậm nhưng có tải trọng lớn nhất với số lượng thủy thủ đoàn ít nhất và nguyên liệu tạo nên tối thiểu. (Ngược lại, từ thời cổ đại các loại tàu chiến đã hẹp và tốc độ cao, với khả năng chuyên chở thấp hơn.)
Loại thuyền lớn nhất có khả năng chở khoảng 14 tấn và mang theo vài con lừa, để đến cuối hành trình khi khung gỗ có thể bị vụn ra thì phần da quý giá được gói lại và những con lừa đó sẽ chở về lại Armenia. Herodotus giải thích:
“Rất khó để chèo thuyền ngược dòng do áp lực của dòng chảy, vì thế chuyển được làm bằng da sống chứ không phải gỗ. Sau khi mang da trở lại Armenia bằng lừa, họ lại tạo ra những con thuyền khác với thiết kế tương tự.”10
Sau khi trở lại Armenia, nông dân sửa chữa lại những tấm da cho phù hợp khung thuyền mới rồi chất lên thuyền các mặt hàng mới, và hành trình vài tháng tới những trung tâm giao thương lại bắt đầu. Chắc chắn các nhóm thợ săn và nông dân Thời kỳ Đồ đá ở Bắc Âu cũng chèo thuyền đưa hàng hóa xuôi dòng rồi đưa thuyền ngược dòng theo cách tương tự.
Có thể xem đó là sự khởi đầu của thương mại. Nhưng loại hình thương mại sớm nhất và bền lâu nhất của lịch sử đã ra đời ngoài mong muốn tấn công (hay phòng vệ) lãnh thổ - trao đổi lương thực từ các cộng đồng nông dân phát triển sống tại những khu vực bồi tích để lấy kim loại, thứ thường được tìm thấy ở những nơi ít màu mỡ hơn.
Khoảng 6.000 năm trước, con người đã tìm ra cách tinh chế quặng đồng vốn thừa mứa ở ngay dưới những lớp kim loại tinh khiết trong các mỏ nguyên sơ đầu tiên. Không lâu sau đó, các mỏ ở Ergani trong vùng núi Anatolia (nay là Thổ Nhĩ Kỳ thuộc châu Á) bắt đầu chuyển đồng tới những khu dân cư đầu tiên ở Uruk (nay là phía nam Iraq, khoảng 160 km về phía tây Basra). Sông Euphrates nối với Ergani và Uruk, và dù những con thuyền ngày đó có thể dễ dàng đưa vài tấn đồng xuôi dòng đi Uruk trong vòng vài tuần, thì chuyển hàng trăm tấn gạo ngược dòng tới Anatolia lại là cả vấn đề.11
Công dân Lưỡng Hà sau này tận dụng ưu thế thuận lợi hơn về địa điểm của các nguồn khoáng sản ở vịnh Ba Tư. Các tài liệu viết tay xuất hiện ngay trước năm 3000 TCN lờ mờ cho thấy giao thương đồng - lương thực quy mô lớn đã phát triển dọc tuyến đường này. Vùng đất sữa và mật ong trong huyền thoại của người Sumer cổ đại là một nơi có tên Dilmun, được ca tụng vì sự giàu có và có thể thuộc Bahrain ngày nay. Tuy nhiên, nơi đây thịnh vượng không phải nhờ điều kiện đất đai khá màu mỡ, mà bởi vị trí chiến lược là trạm giao thương kim loại đồng xuất xứ từ vùng đất Magan, ngày nay là Oman, ngay phía ngoài lối vào vịnh Ba Tư tại eo Hormuz.
Không xa Qalat ah-Bahrain ngày nay, những cuộc khai quật phục vụ khảo cổ tại các vùng đất tương tự Dilmun cổ đại đã tìm thấy kho báu chôn giấu đồ vật thuộc Thời đại Đồ đồng. Nơi đây rộng chỉ tầm 20,2 ha nhưng dân số khoảng 5.000 người, có lẽ nhiều hơn hẳn số người có thể sống dựa vào vùng nông nghiệp xa thành phố. Tài liệu bằng chữ hình nêm ghi lại rằng, từ năm 2800 TCN, các chuyến hàng nhỏ, thường gồm vài tấn lúa mạch, bắt đầu di chuyển xuôi xuống vịnh hướng tới Dilmun và Magan. Tới cuối thiên niên kỷ này, lượng lương thực vận chuyển tăng nhiều đến mức mỗi chuyến chở tới vài trăm tấn. Nơi đây phát triển sớm đến kinh ngạc và được ví như phiên bản Las Vegas cổ đại - với dân số đông nằm giữa những vùng cằn cỗi,
ố ẩ
sống dựa vào lượng lớn lương thực nhập khẩu từ những nơi cách xa cả vài trăm cây số.12
Khai quật Dilmun mang tới cơ hội hấp dẫn và thường có tính cá biệt cao để hiểu về mô hình thương mại lương thực và đồng của người Sumer tại vịnh Ba Tư. Thị trấn này nằm trên đảo và được tưới tắm bằng con suối hào phóng mà người cổ đại gọi là dòng nước “ngọt ngào” hay tươi mát. Năm 2000 TCN, bức tường thành phố bao quanh một khu vực rộng gần bằng Ur, thành phố lớn nhất vùng Lưỡng Hà. Nằm ở trung tâm là quảng trường thành phố với một đầu thông ra cửa biển; đầu kia là tòa nhà chất đầy những con dấu và cân, gần như chắc chắn đó là nhà hải quan. Chất đống cao ngất xung quanh quảng trường có lẽ là những giỏ lớn đựng lúa mạch và chà là từ bờ sông Tigris; những kiện hàng quý giá hơn - như vải Lưỡng Hà hay ngà voi và đồng thỏi dành riêng cho Ur - đặt ở ngay bên ngoài nhà hải quan, có các thủy thủ bồn chồn đứng canh, trong khi chỉ huy của họ vừa tranh cãi vừa hối lộ và phỉnh phờ nhân viên nhà nước ở bên trong.
Nếu đó là năm 1800 TCN, số đồng thỏi này có thể dành riêng cho cửa hàng của Ea-nasir, nhà buôn đồng lớn nhất ở Ur, là nơi các nhà khảo cổ học tìm thấy điểm cất giữ nhiều phiến đất sét thuật lại chi tiết lĩnh vực giao thương chiến lược này.13 Một phiến đất sét kể về chuyến hàng 20 tấn kim loại; phiến khác ghi khiếu nại của một khách hàng Nanni nào đó:
“Ông đã nói rằng, “tôi sẽ giao đồng thỏi loại tốt tới Gimil-Sin.” Đó là điều ông đã nói, nhưng ông đã không làm thế; ông giao hàng xấu cho sứ giả của tôi và nói “Lấy đi hoặc để nó lại đó.” Tôi là ai mà ông lại cư xử với tôi như vậy? Chúng ta không phải đều là quý ông sao?”14
Tính hiếu kỳ và tham vọng của những thợ kim loại thủ công đầu tiên chế ra đồng ở cửa hàng của Ea-nasir quả thực phi thường. Đây là quá trình loại bỏ lưu huỳnh, oxy, chlo, hoặc carbonate, phụ thuộc vào loại quặng, để thu được kim loại tinh khiết - nóng chảy - lần đầu tiên ra đời vào khoảng năm 3500 TCN. Các nhà luyện kim của vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu nhanh chóng tiến hành trộn đồng địa phương với kim loại nhập khẩu từ nơi khác là thiếc. Loại hợp kim đồng-thiếc mới được rèn này không phải loại duy nhất cứng và bền, trước đây đã có hợp kim đồng-asen và đồng-antimon, nhưng nó nóng chảy ở nhiệt độ thấp hơn nhiều so với đồng nguyên chất. Hơn thế nữa, nó không bị nổi tăm và vì thế dễ đúc.
Hợp kim mới thần kỳ này là đồng thiếc, và nhanh chóng trở thành tiêu chuẩn cho một hàng dài những ứng dụng gồm vũ khí, dụng cụ nấu nướng, đồ nghi lễ, và nông cụ. Không phải ngẫu nhiên các triều đại Ur đầu tiên của người Sumer, những người tiên phong trong tổ chức nông nghiệp, cũng là những người đầu tiên tìm ra tỉ lệ tối ưu của đồng và thiếc, 10 trên 1, vào khoảng năm 2800 TCN.15
Chỉ có thể chắc chắn hai điều về nguồn cung cấp thiếc của người Sumer: không giống như asen và antimon, sẵn có ở địa phương và rẻ, chi phí để có thiếc rất đắt đỏ và thường phải trải qua cả hành trình rất dài mới tới được với họ. Giá thiếc cao hơn khoảng 10 lần so với đồng, một tỉ lệ giữ mãi tới đầu thế kỷ 20. Nhưng thiếc đến từ đâu? Brittany và Cornwall đã bắt đầu sản xuất thiếc từ trước năm 2000 TCN, nhưng không có ghi chép nào về tàu thuyền đi lại qua Những cột chống trời của Hercules (eo Gibraltar), cho mãi tới khoảng năm 450 TCN, khi nhà hàng hải xứ Phoenicia là Himilco mạo hiểm tiến vào Đại Tây Dương và mang thiếc về từ các mỏ ở Bắc Âu.16 Các nhà sử học đưa ra giả thiết rằng thiếc đã đi từ Bắc Âu tới vùng Lưỡi liềm Phì ằ ế
nhiêu bằng những tuyến đường bộ phức tạp qua Pháp, đặc biệt là dọc thung lũng sông Garonne, xuất phát từ đầu nguồn ở vùng ven biển phía trên Địa Trung Hải đi theo hướng tây bắc tới Bordeaux thuộc Đại Tây Dương ngày nay. Trước giai đoạn đó, Trung Á cũng là nguồn cung dồi dào của kim loại quý này. Tất cả ba hành trình bằng đường biển qua Gibraltar, đường bộ qua Pháp, và từ Trung Á - đều có thể đã được sử dụng.
Đâu đó các nhà khảo cổ đã tìm thấy những dấu vết hấp dẫn. Năm 1983, nhà khảo cổ hàng hải Don Frey đưa các thợ lặn Thổ Nhĩ Kỳ xem một vài tài liệu, đây là những thợ lặn chuyên tìm bọt biển và thường cung cấp cho giới học giả thông tin về xác tàu đắm. Sau cuộc trao đổi, một người trong số đó đã tới gặp Frey và nói về một đống các thỏi kim loại nằm bên vách đá dưới đáy đại dương tại một thành phố ven biển thuộc Bodrum về phía tây Thổ Nhĩ Kỳ, có tên là Ulu Burun. Cuộc thám hiểm tại đó đã tìm ra một xác tàu niên đại khoảng năm 1350 TCN, chứa đầy những hàng hóa cổ đại: ngà thô của voi và hà mã, thủy tinh thời kỳ đầu, và vô số đồng thỏi. Trong số những đồ quý hiếm này, họ cũng tìm thấy một ít mảnh vỡ từ thiếc thỏi, những mẫu vật kim loại đầu tiên được biết đến. Các nhà khảo cổ ước tính có khoảng một tấn thiếc đã chìm cùng với con tàu, cùng với 10 tấn đồng; con số này phù hợp với tỉ lệ lý tưởng của đồng và thiếc trong hợp kim đồng-thiếc: 10 trên 1.17 Vẫn không xác định được quốc tịch của con tàu, chưa kể đến nguồn gốc của số thiếc đó vẫn còn là bí ẩn.18
Nếu bằng chứng này về việc mua bán thiếc đường dài trong thế giới cổ đại thuở ban đầu có vẻ mang tính phỏng đoán là chính, thì đúng vậy. Từ những phiến đất có chữ hình nêm niên đại khoảng năm 3300 TCN của người Sumer - ngay sau những bằng chứng đầu tiên về đồng nóng chảy nhưng sớm hơn thời gian xuất hiện hợp kim đồng-thiếc - chúng ta chỉ có ít bằng chứng khảo cổ về thương mại hàng hóa trước thời kỳ đó. Nhưng nếu có thương mại đường dài đối với mặt hàng thiếc vào khoảng năm 3000 TCN, thì chắc hẳn cũng tồn tại trao đổi đường dài tương tự với các hàng hóa có giá trị khác, như vải lanh, hương trầm, nhựa thơm, hổ, lông đà điểu, và hàng nghìn hình ảnh, âm thanh, và mùi vị khác giờ đây đã đi vào dĩ vãng.
Trong khi người phương Tây ngày nay lo ngại vì lệ thuộc vào dầu mỏ do các khu vực bất ổn chính trị nhất hành tinh cung cấp, thì bối cảnh của vùng Lưỡng Hà cổ đại còn bi đát hơn. Vùng đất phù sa bằng phẳng giữa những con sông này chỉ gồm nước và đất là nhiều, vì thế có khả năng sản sinh dồi dào lúa mạch, lúa mì nguyên thủy, cá, và len. Tuy nhiên, tại cái nôi của nền văn minh cổ đại này gần như thiếu vắng các nguyên liệu chiến lược bấy giờ: kim loại, gỗ lớn, và thậm chí là đá dùng trong xây dựng. Sự tồn tại của các dân tộc lớn thuộc khu vực Lưỡng Hà - Sumer, Akkad, Assyria, và cuối cùng là Babylon - chính là xoay quanh sự trao đổi hàng hóa dư thừa của họ với kim loại từ Oman và Sinai, đá granit và cẩm thạch từ Anatolia và Ba Tư, gỗ xẻ từ Lebanon.
Do phạm vi của các nền văn minh này còn mở rộng trong suốt nhiều thời kỳ tiếp theo, nên thương mại đường dài cũng lan tỏa như vậy. Vào thiên niên kỷ 4 TCN, vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu không phải là khu vực duy nhất có các cộng đồng hợp nhất; hoạt động có tổ chức trong nông nghiệp, quân đội, tôn giáo, và hành chính cũng đã bắt đầu xuất hiện ở Thung lũng Indus, ngày nay thuộc Pakistan. Thậm chí đã có bằng chứng về giao thương của hai khu vực này trước cả khi xuất hiện các ghi chép lịch sử. Các nhà khảo cổ học tìm thấy đèn và cốc chén ở khu vực Lưỡng Hà có niên đại từ cuối thiên niên kỷ 4 TCN, chúng được làm bằng vỏ ốc xà cừ vốn chỉ có ở Ấn Độ Dương và vịnh Oman. Do chi phí vận chuyển trên hành trình này chắc hẳn rất lớn, nên
ấ ồ ằ ố
không có gì ngạc nhiên khi chỉ tìm thấy đồ làm bằng loại vỏ ốc này ở cung điện hay lăng mộ những người có địa vị cao.
Tới năm 2500 TCN, thị hiếu thay đổi, các đồ vật mang tính biểu trưng mới - lọ, dụng cụ, và trang sức làm bằng đồng - thay thế cho cốc chén và đèn làm bằng ốc xà cừ. Ở giai đoạn ban đầu này, chi phí vận chuyển vẫn còn quá đắt đỏ, và người bình thường sử dụng các công cụ bằng đá chứ không phải kim loại. Kể cả nếu họ có khả năng chi trả cho dụng cụ bằng đồng xa xỉ, thì có thể các sản phẩm cao cấp này vẫn chỉ dành riêng cho giới thượng lưu cai trị và quân đội.
Trong 500 năm tiếp theo, kim loại trở nên dồi dào, và công cụ bằng đồng cuối cùng đã được sử dụng rộng rãi ở vùng Lưỡng Hà. Do có giá trị cao nên đồng thường được dùng trong trao đổi (cùng với gia súc và lương thực) trong suốt Thời kỳ Đồ đồng. Vài thế kỷ sau đó, khoảng năm 2000 TCN, nguồn cung đồng gia tăng làm giá thành hạ. Sự dư thừa này đặt ra yêu cầu thay đổi theo hướng sử dụng bạc làm vật trung gian trao đổi, hoặc như cách gọi ngày nay, “tiền.”
Sự xuất hiện của bạc với tư cách tiền tệ thế giới làm cho bạc được nhận biết trên phạm vi quốc tế đã thúc đẩy thương mại, vì nó giúp cho việc mua và bán các hàng hóa chính yếu khác trở nên thuận tiện. Nếu không có nó, thương mại buộc phải trao đổi trực tiếp giữa những cặp hàng hóa. Ví dụ, với 10 mặt hàng khác nhau, sẽ có 45 cặp trao đổi khả dĩ (và theo đó là các mức giá). Trong khi đó, việc sử dụng rộng rãi tiền bằng bạc chỉ yêu cầu 10 mức giá khác nhau - mỗi mức áp dụng cho một mặt hàng. Hơn nữa, tính chủ quan khi quyết định liệu một con bò trị giá 50 hay 55 con gà khiến trao đổi trong các giao dịch quy mô lớn thiếu đi độ tin cậy.
Nanni và Ea-nasir, hai nhà buôn được nhắc tới trong những trang trước, đã chứng kiến sự phát triển của các thị trường tài chính đầu tiên. Những thương nhân buôn bán kim loại và lương thực, được gọi là alik-Dilmun (nghĩa là “tiến lên-những nhà buôn của Dilmun”), phải mua số lượng lớn các nông sản sau đó cung cấp trang thiết bị và người cho những con tàu đủ lớn để chuyển hàng tới Dilmun. Lượng vốn cần thiết do các nhà đầu tư bên ngoài cung cấp, với kỳ vọng thu được tiền lời đáng kể. Một bản hợp đồng ghi trên phiến đất sét giúp chúng ta có được thông tin hiếm hoi về một giao dịch tài chính như vậy, đó là khoản cho vay từ một người đàn ông giàu có tên “U” cho hai đối tác thương mại, “L” và “N”:
“2 mina bạc, [tương đương giá trị của] 5 gur dầu và 30 bộ quần áo phục vụ hành trình tới Dilmun để mua đồng cho các bạn hàng L và N… Sau khi chuyến đi biển kết thúc an toàn, U sẽ không thừa nhận sự mất mát thương mại nào; người đi vay đồng ý trả cho U 4 mina đồng cho mỗi đồng shekel bạc như một mức giá thỏa đáng.”
Nói cách khác, U đã cho hai nhà buôn L và N vay 120 shekel
Shekel: đơn vị trọng lượng thời cổ đại, tương ứng nửa ounce, cũng là loại đồng vàng hay bạc có trọng lượng như vậy.
(2 mina) bạc, với kỳ vọng thu được 480 mina (khoảng một phần tư tấn) đồng; nếu chuyến đi thất bại, L và N sẽ chịu thiệt hại.
Trong khi vùng Lưỡng Hà rõ ràng đã nhập khẩu số lượng lớn các mặt hàng gồm ngà voi, trang sức, nô lệ, nước hoa, và dầu, chúng ta lại biết rất ít về hàng hóa xuất khẩu, ngoại trừ lương thực. Do Lưỡng Hà từng là vùng nông nghiệp màu mỡ nhất thế giới, chắc hẳn nơi đây đã chuyển ra ngoài số lượng
rất lớn “hàng hóa xuất khẩu vô hình”, kiểu như cá và len.20 Sử gia Christopher Edens lưu ý kiến thức của chúng ta về giao thương tới Bắc và Nam Tigris và Euphrates thời kỳ đầu là
“một chiều, và dựa trên nền tảng hạn hẹp của các tài liệu có quá ít con số và khác nhau về bối cảnh… Các tài liệu kinh tế phản ánh về con người vùng Lưỡng Hà chứ không phải về các hãng nước ngoài… Những nguồn khác thì nhắc tới sự xuất hiện của các con tàu nước ngoài nhưng không tiết lộ hàng hóa là gì.”21
Tuy thế, các mảnh ghép rời rạc của lịch sử vẫn gợi ý về hệ thống đường bộ và đường biển dọc khu vực vòng cung gần 5.000 km từ những dãy núi ở Anatolia, từ đông nam chạy suốt vùng Lưỡng Hà và vịnh Ba Tư, về phía đông qua vùng biển gần bờ thuộc Ấn Độ Dương, và đông bắc tới thung lũng Indus thuộc Pakistan ngày nay.22 Thương mại dọc mạng lưới rộng lớn này - phiên bản 1.0 của Tổ chức Thương mại Thế giới, nếu bạn đồng ý như vậy - chắc hẳn phải gián tiếp (cũng như những liên hệ mãi về sau này giữa thành Rome và nhà Hán ở Trung Hoa), liên quan tới hàng tá, nếu không muốn nói là hàng trăm, những đoạn hành trình, trung gian, và các giao dịch riêng lẻ. Mặc dù người Anatolia và người ở thung lũng Indus biết về những sản phẩm của nhau, nhưng không xác định được là họ có trực tiếp gặp nhau hay không; hơn nữa, họ có thể bị tách biệt do một số chưa xác định những người làm môi giới. Bất cứ khi nào có thể, các nhà buôn đều khai thác hiệu quả của thương mại đường thủy; nếu không được thì sử dụng loài vật đầu tiên được thuần hóa cho vận chuyển là lừa thồ hàng.
Những người làm việc cho chính phủ và đền thờ ở cả Sumeria và Ai Cập đều thực hiện những giao dịch sớm nhất này, nhưng tới năm 2000 TCN, thương mại đường dài của Sumer phần lớn nằm trong tay tư nhân (những người như Ea-nasir), trong khi ở Ai Cập nó vẫn còn dưới quyền điều khiển của nhà nước. Điều còn chưa rõ ràng là liệu khu vực vòng cung 5.000 km này có phải là cái nôi của những “cộng đồng di cư thương mại” đầu tiên - những khu kiều dân cố định của các nhà buôn nước ngoài đóng vai trò thúc đẩy thương mại giữa đất mẹ và quê hương thứ hai, những người môi giới đặt lòng tin giống như ở quê nhà vào thành phố mà họ là khách.
Có rất nhiều chỉ dẫn lôi cuốn, đặc biệt là nơi lưu trữ các con dấu sử dụng rộng rãi ở thung lũng Indus, được phát hiện ở vùng Lưỡng Hà; và những đai đeo cổ của động vật, thuộc về vùng Lưỡng Hà, được tìm thấy ở thung lũng Indus. Con dấu bằng đá có chức năng giống như một dạng niêm phong hàng hóa phiên bản cổ đại: nhà buôn đặt một cục đất sét lên kiện hàng đã đóng gói, rồi lăn hoặc ấn dấu qua cục đất sét, ghi biểu tượng riêng của anh ta; sau đó để nó khô và cứng lại thành con dấu, thông báo cho người mua biết rằng nhà buôn bảo đảm về hàng hóa trong kiện, và hàng không bị xáo trộn dọc đường. Loại ký hiệu bằng đá nhỏ hơn cũng thường được dùng để thêm vào con dấu các thông tin về chủng loại và số lượng hàng hóa.24 Nhân viên chính phủ sử dụng dấu có thiết kế riêng, và cả dấu thương mại và dấu chính phủ của những nền văn minh khác nhau đều rất khác biệt, vì thế các con dấu “thung lũng Indus” tìm thấy ở vùng Lưỡng Hà rõ ràng cho thấy sự hiện diện một khu vực kiều dân của các nhà buôn thung lũng Indus ở vùng đất giữa hai con sông này.
Bằng chứng rõ nét nhất của các cộng đồng di cư thương mại đầu tiên được tìm thấy ở cực tây vùng vòng cung. Suốt thập niên 1990, nhà khảo cổ Gil Stein đã khai quật di chỉ Anatolia ở Hacinebi Tepe, điểm cực bắc có thể lưu thông tàu thuyền trên sông Euphrates. Tại đó, ông tìm thấy bằng chứng về ề ể ề
nền văn hóa địa phương phát triển có niên đại lùi về năm 4100 TCN, bao gồm những khu nhà ở lớn, nhà xác, và đáng nói nhất là những con dấu đặc biệt bằng đá phẳng. Nhóm khảo cổ cũng phát hiện ra một khu vực nhỏ chứa các đặc điểm nhân tạo của nền văn minh Uruk có niên đại vào khoảng năm 3700 TCN; các tạo tác bao gồm con dấu hình trụ đặc trưng của vùng Lưỡng Hà và xương dê mang dấu hiệu “Lưỡng Hà” cho nghề giết mổ. Mặc dù khu kiều dân này có thể cho thấy một quyền lực thâu tóm từ phía nam, nhưng có một số lý do để cho rằng không phải như vậy. Thứ nhất, nó khá nhỏ; thứ hai, nó không có tường thành bao quanh; thứ ba, việc vận chuyển ngược dòng từ vùng Lưỡng Hà còn nhỏ lẻ; và thứ tư, người Anatolia ít nhất cũng có tiến bộ quân sự ngang bằng với người vùng Lưỡng Hà. Không thể không đi đến kết luận rằng Stein đã khám phá ra vùng di cư thương mại đầu tiên được biết tới, có lẽ đồng thời với sự ra đời của công nghiệp đồ đồng địa phương.25
Chữ viết ra đời vào khoảng năm 3300 TCN đã vén bức màn lịch sử và tiết lộ về một mô hình thương mại đường dài được thiết lập hoàn chỉnh, không chỉ với các hàng hóa xa xỉ và chiến lược, mà còn với cả những mặt hàng có số lượng lớn như lương thực và gỗ.
Năm 3000 TCN, vịnh Ba Tư có vai trò là tuyến đường huyết mạch của thương mại. Do nền văn minh dần mở rộng về phía tây vào Ai Cập, Phoenicia, và Hy Lạp, nên có giả định về một tuyến đường hàng hải khác ngày càng đóng vai trò quan trọng - ra ngoài Biển Đỏ và vào Ấn Độ Dương qua lối ra phía nam Biển Đỏ tại Bab el Mandeb, nay là Yemen. Trong hơn 4.000 năm, mối liên hệ giữa Ai Cập-Biển Đỏ đóng vai trò là điểm nòng cốt của thương mại thế giới, và với nó Ai Cập đã thu lợi lớn.
Ai Cập thời trước triều đại Ptolemy, với nhiều mỏ nguyên liệu dồi dào và dễ dàng tiếp cận với các mỏ đồng ở vùng sa mạc Sinai lân cận, không phụ thuộc nhiều vào giao thương với các quốc gia khác cho những nguyên liệu chiến lược thiết yếu như người Sumer. Ngoại lệ quan trọng nhất đối với khả năng tự cung tự cấp của người Ai Cập là gỗ, mặt hàng họ có thể nhập khẩu dễ dàng từ Phoenicia - nơi có gỗ xẻ được đánh giá cao vì khả năng chống mối mọt - bằng lộ trình hợp lý qua Địa Trung Hải.
Những con tàu Ai Cập chạy tuyến Biển Đỏ tới tận “vùng đất của Punt” (nay là Yemen và Somalia), dài hơn 2.400 km về phía nam.26 Có những dấu hiệu về các chuyến tàu như vậy từ rất sớm, khoảng năm 2500 TCN, và một phát hiện khảo cổ học may mắn đã cho chúng ta thấy câu chuyện đầy thuyết phục về một hành trình như vậy xuất hiện vào khoảng năm 1470 TCN, theo lệnh của Nữ hoàng Hatshepsut.
Sau năm 1479 TCN, Hatshepsut cai trị với vai trò nhiếp chính cho con trai của người chồng quá cố (và là em cùng cha khác mẹ) với một người bình dân. Bà để lại lăng mộ tại Deir el-Bahri (bên sông Nile, ngay qua Luxor), với những bức chạm nổi và các câu chuyện mô tả về một hành trình thương mại tới Punt.
Câu chuyện được kể lại trong bốn bức, bức thứ nhất cho thấy vài chiếc galley, mỗi chiếc có lẽ dài khoảng 24 mét và có các thủy thủ cùng đội chèo thuyền. Bức thứ hai mô tả việc dỡ các kiện hàng chắc là lương thực và hàng dệt của Ai Cập tại Punt; bức thứ ba, chất lên thuyền những loài thực vật hoặc cây lớn; và bức thứ tư, những chiếc thuyền trở về. Bên trên những bức này có ghi:
ố ề ấ
“Việc bốc hàng lên thuyền rất nặng nhọc với những sản vật kỳ lạ của vùng đất Punt: tất cả những loại gỗ thơm tuyệt vời từ vùng đất của Chúa, rất nhiều nhựa thơm, những cây thơm còn tươi, cùng với gỗ mun, và ngà tinh chế, với vàng xanh của Emu, gỗ quế, gỗ khesyt, hương liệu ihmut, hương liệu sonter, mỹ phẩm cho mắt, với đười ươi, khỉ, chó, và da báo miền Nam, với người bản địa và con cái của họ. Chưa bao giờ những thứ hàng như vậy được vận chuyển cho bất kể vị vua nào từ lúc khởi thủy.”27
Khi các triều đại Ai Cập suy tàn sau thời Hatshepsut tại vị, người Phoenicia nắm quyền kiểm soát thương mại Biển Đỏ. Có quan hệ xa với những người đi biển Canaan, họ định cư tại khu vực nay là Lebanon. Với nguồn gỗ dồi dào và địa hình chiến lược của vùng đất giữa Lưỡng Hà và Ai Cập, không tộc người cổ đại nào có vị thế tốt như vậy để nổi trội trong hoạt động buôn bán trái phép hàng hóa bằng đường biển, ưu thế thương mại của họ tại phía tây Địa Trung Hải kéo dài hơn 1.000 năm. Có khả năng Phoenicia là những người đầu tiên tiến hành thương mại đường dài trực tiếp. Cuốn sách đầu tiên về các vua có ghi:
“Và Vua Solomon xây dựng một hạm đội hải quân tại Eziongeber, bên cạnh Eloth, trên bờ Biển Đỏ, thuộc vùng đất của Edom. Và Hiram đưa vào hạm đội những người hầu và thủy thủ của mình có kiến thức về biển cả, cùng với những người hầu của Solomon. Và họ đến Ophir, rồi từ đó tìm kiếm vàng, được 420 talent, và đem về cho Vua Solomon.”28
Giải thích: thương mại đường dài của vương quốc Solomon, gần với thời kỳ đầu của thiên niên kỷ 1 TCN, do người Phoenicia thực hiện (Hiram là vua của Tyre, thành bang thống lĩnh của người Phoenicia). “Eziongeber” rất có thể là một thành phố cảng nằm ở Tall al-Khulayfah, gần Elat (“Eloth”), bên vịnh Aqaba (cực đông bắc của Biển Đỏ). “Ophir” có thể là Ấn Độ, căn cứ vào những mặt hàng nhập khẩu từ nơi đây: kim loại quý, gà trống, ngà, và vượn.29 Khối lượng 420 talent vàng tương đương 13 tấn và trị giá hiện tại khoảng 270 triệu đô la Mỹ - số tiền đáng kể, thậm chí theo các tiêu chuẩn ngày nay.
ầ ể
Tới năm 400 TCN, người Phoenicia đã quen thuộc với phần lớn bờ biển Tây Âu, cũng như bờ biển ở cả Đông và Tây Phi.30 Trong thế giới cổ đại, đây là một phạm vi giao thương cực kỳ lớn. Sự thống trị của Phoenicia trong thương mại đường dài cũng vậy, khoảng năm 600 TCN, pharaoh Necho của Ai Cập đã lệnh cho các thủy thủ Phoenicia đi vòng quanh châu Phi bằng đường biển: Herodotus viết:
“Các thủy thủ Phoenicia giương buồm từ vịnh Ả-rập nhắm tới đại dương phía nam, và mỗi mùa thu đến lại dừng ở vài điểm thuận tiện trên bờ biển [thuộc châu Phi], gieo hạt giống trên một mảnh đất, và đợi mùa thu hoạch vào năm tới. Rồi sau khi thu hoạch lương thực, họ lại ra khơi, và sau chu trình tròn hai năm vòng quanh Những cột chống trời của Hercules, đến năm thứ ba họ quay lại Ai Cập. Họ đưa ra một tuyên bố mà chính tôi cũng không thể tin được, dù những người khác có thể, rằng khi họ giương buồm về hướng tây quanh cực nam của [châu Phi], Mặt trời ở bên phải - về phía bắc của họ.”31
Điều khiến Herodotus nghi ngờ - đó là họ không thể thấy Mặt trời ở bên phải, hướng bắc, trong khi đang đi về phía tây - lại có thể thuyết phục độc giả hiện đại. Có thể chính vì nhà sử học cổ đại không biết cách thức Mặt trời chuyển
động ở bán cầu nam nên toàn bộ câu chuyện về những người Phoenicia quả cảm đi vòng quanh mũi nam của châu Phi, hơn 2.000 năm trước chuyến đi của Vasco da Gama, đã trở nên thuyết phục hơn.32
Trong những thế kỷ tiếp theo, quyền lực dịch chuyển về phía đông vào tay Ba Tư, và đế chế này đã nhắm tới khu vực Aegea. Nhằm tìm kiếm phương án thay thế cho hành trình đường bộ gian nan về phía bắc qua Hellespont (nay là Dardanelles), Darius Đại đế đã hoàn thiện con kênh ở Suez (vốn được pharaoh Necho thiết kế), nối sông Nile, và theo đó là cả Địa Trung Hải, với Biển Đỏ.33 Tuy nhiên, hoài bão Aegea của Ba Tư đã gặp trở ngại vào đầu thế kỷ 5 TCN khi diễn ra các cuộc chiến ở Marathon, Salamis, và Platea, cho phép người Hy Lạp xâm nhập vào hệ thống chính trị, thương mại, và quân đội của Địa Trung Hải.
Mặc dù một Hy Lạp độc lập và các thành phố tự trị của Phoenicia đều vừa giao thương vừa thực dân hóa một khu vực rộng lớn ở Địa Trung Hải và biển Đen (người Phoenicia thỉnh thoảng lại mạo hiểm vượt qua cả Địa Trung Hải), nhưng hành trình thương mại của họ đã không nối liền các lục địa hay đại dương. Tham vọng đế quốc của người Athens có thể cuối cùng đã châm ngòi cho Chiến tranh Peloponnese, phá hủy thế giới của người Hy Lạp và lót đường cho cuộc chinh phục ngoạn mục của Alexander Đại đế trên khắp Hy Lạp, Ai Cập, và Tây Á vào cuối thế kỷ 4 TCN. Chính sự xâm chiếm này đã Hy Lạp hóa thế giới phương Tây, và mở rộng đáng kể phạm vi của thương mại toàn cầu thời cổ đại.
Di sản bền lâu nhất của Alexander có thể là kiến tạo thành phố quốc tế Alexandria, trong nhiều thế kỷ đã là nền tảng cho thương mại sinh lời với Ả rập, Ấn Độ, và Trung Hoa. Khu trung tâm này không tồn tại lâu sau cái chết của Alexander vào năm 323 TCN, do đế chế của ông bị chia cắt thành các lãnh thổ đầy xung đột của người kế vị. Một trong số đó, Ai Cập, do vị tướng Ptolemy của ông cai quản, kế thừa truyền thống hàng hải và thương mại của các triều đại trước, cũng như công nghệ đóng tàu của Phoenicia, trong đó tập trung vào phần thân làm từ các tấm gỗ tuyết tùng. Công nghệ này giúp người Ai Cập mở hải trình trên Biển Đỏ tiến vào Ấn Độ Dương, và từ đó hình thành thương mại khơi xa đều đặn với Ấn Độ. Tuy nhiên, ưu tiên của họ không phải là thương mại, mà là tìm kiếm voi, “xe tăng của thế giới cổ đại”, ằ ố ế ố
từ Ethiopia nhằm chống lại kẻ thù là đế quốc Seleucid của Hy Lạp thời kỳ hậu Alexander.34 Với suy nghĩ này, Ptolemy II đã nỗ lực, với rất ít thành công, để mở lại con kênh cũ thời Darius, vốn đã bị bùn vùi lấp.
Do vị trí chiến lược của Ai Cập giữa Địa Trung Hải và Ấn Độ Dương, qua Biển Đỏ, con kênh này có thể là tuyến đường lý tưởng để vận chuyển voi của Ptolemy bằng tàu. Giấc mơ về con kênh xuyên biển qua Suez đưa các nhà lãnh đạo về tình cảnh như Necho năm 600 TCN. Nhiều khó khăn cản trở công trình này. Xây dựng một con kênh nước sâu dài 100-130 km là công trình vô cùng lớn, có thể gây áp lực cho những quốc gia thậm chí giàu có nhất, dù cổ đại hay hiện đại. Ghi chép của Herodotus cho thấy nỗ lực của Necho đã khiến hơn 120.000 dân công bị thiệt mạng. Tệ hơn, sông Nile được xác định là điểm cuối phía tây của con kênh. Khi sông Nile vào mùa lũ, nó trút mọi trầm tích vào kênh. Rồi khi nước sông Nile xuống thấp, dưới cả mực nước Biển Đỏ, khiến nước biển mặn tràn vào sông, đầu độc nguồn nước uống và tưới tiêu. Thêm nữa, còn có nỗi sợ hãi tồn tại đến tận bây giờ, đó là kẻ thù có thể sử dụng con kênh để bao vây Ai Cập - lý do khiến Necho không bao giờ hoàn thiện nó.
Nhưng cám dỗ là quá mạnh, nên những người Ba Tư, Ptolemy, La Mã thời cổ đại, và các đế chế Hồi giáo đầu tiên kế tiếp nhau thử xây dựng kênh.35 Trừ lần cuối cùng, còn tất cả những lần xây dựng trước đó về cơ bản đều theo cùng lộ trình, bắt nguồn từ nhánh sông ở cực đông (nhánh Pelusiac) của vùng châu thổ sông Nile qua lòng sông cạn, Wadi Tumilat, tới cực bắc hồ Great Bitter ngày nay, ở ngay phía bắc vịnh Suez hiện tại. Trước khi xuất hiện triều đại caliphate, nhánh Pelusiac của sông Nile đã bị bùn vùi lấp, buộc các kỹ sư Ả-rập phải bắt đầu con kênh ở một nhánh khác nằm gần hơn về phía nam vùng châu thổ. Vào các thời kỳ Thiên Chúa giáo thịnh hành, qua một kênh hẹp ở cực nam, hồ Great Bitter nối với vịnh Suez rồi từ đó ra Biển Đỏ. Những nỗ lực sau đó nhằm nối sông Nile với hồ Great Bitter chủ yếu là nạo vét lòng sông và mở rộng phần còn lại của các con kênh trước đây đang bị đọng bùn.
Kênh nối hồ Great Bitter và vịnh Suez vừa nông vừa nhỏ; một cơn gió đông to kết hợp với mực nước thấp thường khiến tàu thuyền mắc cạn. (Hoàn cảnh như vậy có thể dễ dàng tạo nên câu chuyện vượt biển thần bí của Moses và những người đi theo ông. Ngay sau đó nước có thể đã nuốt chửng những người Ai Cập đang theo đuổi mục tiêu. Con kênh nối hồ Great Bitter và vịnh Suez này cuối cùng đóng lại vĩnh viễn vào khoảng năm 1000, có thể do một trận động đất.)
Dù rõ ràng rằng mỗi con kênh của Ba Tư hay Abbasid đã vận hành hơn một thế kỷ, nhưng không rõ có con kênh nào khác hoạt động hay không, hoặc nếu có thì trong bao lâu. Và thậm chí một con kênh có vận hành thì cũng chỉ làm nhiệm vụ là đặt các thủy thủ vào vô vàn khó khăn trên hành trình Biển Đỏ, nơi những cơn gió ngược mạnh ở nửa phía bắc ngăn trở các hành trình hướng về phía bắc. Hơn nữa, các con tàu dù lên đường ở hướng nào cũng phải đối mặt với những bãi cạn chết người. Nếu gió và đá ngầm chưa đủ để nản lòng, thì đã có thêm những tên cướp biển quấy phá trên toàn bộ hành trình, đặc biệt ở khu vực phía trên.
Giờ chúng ta có thể quay lại câu chuyện về những con voi của Ptolemy. Thuộc hạ của ông đưa lũ voi từ quê hương chúng ở vùng đất trung tâm Phi châu nhắm hướng đông tới Ethiopia, tại đây voi được đưa lên thuyền và chở tới cảng Berenice của Ai Cập, khoảng hai phần ba đường là hướng lên phía bắc Biển Đỏ. Tiếp đó họ đưa đoàn voi qua sa mạc hướng tới điểm bắt đầu phần sông Nile nơi tàu thuyền qua lại được, nằm ở Coptos hoặc Caenopolis, và từ đó tiếp tục đi thuyền khoảng 500 km về phía bắc tới Alexandria.
Duy nhất trong số các con sông lớn trên thế giới, sông Nile chảy về phía bắc, với những cơn gió hướng bắc thổi quanh năm. Hai điều kiện này giúp tàu thuyền xuôi dòng về phía bắc và giương buồm ngược dòng về phương nam. Hành trình qua lại giữa sông Nile, sa mạc, và Biển Đỏ với Ấn Độ Dương có thể vẫn là một trong “những con đường huyết mạch huy hoàng” của thương mại cho tới khi động cơ hơi nước ra đời, không chỉ giải phóng thủy thủ khỏi các thất thường của gió mà còn định hướng việc xây dựng con kênh hiện đại, theo đó tránh toàn bộ vùng châu thổ ngập bùn của sông Nile.
Sau năm 200 TCN, các nhà buôn Hy Lạp của triều đại Ptolemy dần mở rộng hoạt động giao thương về phía tây tới Ấn Độ. Một thế kỷ sau đó, thuyền trưởng đầy tham vọng, Eudoxus của Cyzicus, đi thẳng từ Ai Cập tới Ấn Độ qua hành trình dài dọc theo bờ biển ngoài khơi Bab el Mandeb. Đầu tiên ông đi sát phía nam và sau đó là phía đông bờ biển Ả-rập tới eo Hormuz tại cửa vịnh Ba Tư, cuối cùng đi về vùng bờ biển ngày nay là Iran và Pakistan tới trung tâm thương mại nam Ấn Độ - tổng chiều dài của hành trình khoảng 8.000 km. Chiến công này dẫn đường cho “khám phá” trọng yếu về gió mùa Ấn Độ Dương.
Ấn Độ Dương khổng lồ hoạt động như một nơi tích nhiệt, nhiệt độ gần như không thay đổi khi cả vùng đất rộng lớn của châu Á nóng lên vào mùa hè và hạ nhiệt vào mùa đông. Do nóng làm giảm áp còn lạnh làm tăng áp, nên gió ở một khu vực nhất định có xu hướng thổi từ nơi có áp suất cao (lạnh) tới
ấ ấ ố
nơi có áp suất thấp (nóng) - tức là giống như hướng gió từ phía nam vào mùa hè (gió mùa tây nam) và từ phía bắc vào mùa đông (gió mùa đông bắc).
Thuyền trưởng người Hy Lạp ở Ai Cập, Hippalus (người có thể là một hoa tiêu của Eudoxus), đã thắng yên cương cho những cơn gió mùa này, giúp các nhà buôn Hy Lạp vượt biển Ả-rập từ Bab el Mandeb tới Ấn Độ trong vài tuần. Từ đó giúp hình thành những trung tâm rộng lớn, đa sắc tộc như các cảng Socotra và Malabar - những cộng đồng đa ngôn ngữ, pha trộn các khu kiều dân thương mại của nhiều quốc gia và sắc tộc, điều tiết hàng hóa, tạo nên của cải, và thỏa mãn những nhu cầu bất tận của người phương Tây (nghĩa là, người La Mã) bằng những mặt hàng xa xỉ của phương Đông như lụa, bông, gia vị, đá quý, và động vật hiếm.
Octavian lên ngôi đã chuẩn bị nền tảng cho hai thế kỷ phát triển của Pax Romana
Hòa bình La Mã, thời kỳ hòa bình dưới thời đế chế La Mã.
, một môi trường ổn định mà ở đó thương mại đường dài cổ đại thăng hoa. Chẳng bao lâu sau, các đại sứ Ấn Độ xuất hiện ở thành Rome mang theo những món quà kỳ thú. Những thứ xa xỉ mới mẻ - tơ lụa Ấn Độ và động vật hoang dã Ấn Độ nhờ những cơn gió mậu dịch mang lại - đã mời gọi sự giàu có cho đế chế này. Khỉ, hổ, vẹt mào, tê giác không phải hiếm gặp ở kinh đô; lũ vẹt biết nói tiếng Latin xuất hiện trong mọi chương trình giải trí; người La Mã chuộng ngà voi của cả Ấn Độ lẫn châu Phi dùng để trang trí đồ đạc, vũ khí, xe ngựa, đồ trang sức, và các dụng cụ âm: nhạc. Người ta đồn rằng triết gia phái khắc kỷ kiêm nhà soạn kịch Seneca có 500 cái bàn ba chân với chân bàn làm bằng ngà voi - không hề có ý châm biếm ở đây, khi ông là người công khai chỉ trích thói phung phí của đế chế này.
Không phải mọi hàng hóa nhập khẩu đều là đồ xa xỉ. Các con tàu chuyên đi khơi xa thường cần có đồ dằn, gọi là “hàng hóa dằn tàu” như rượu, gỗ xẻ, thậm chí là các vò nước được giao dịch với số lượng lớn. Đổ đầy khoang nhiều con tàu Hy Lạp là số lượng lớn hồ tiêu làm gia tăng hương vị cho phong cách nấu nướng Địa Trung Hải của cả người giàu lẫn người nghèo tại La Mã, vốn cũng đã thơm ngon và chủ yếu gồm lúa mì với lúa mạch. Gia vị này được ưa chuộng tới mức khi Vua Alaric của Goth chiếm cứ thành Rome để đòi tiền chuộc vào năm 408, ông ta đã yêu cầu 1.400 kg tiêu đen.
Western Ghats là một rặng núi thấp, cao dần lên từ tây nam bờ biển Malabar của Ấn Độ và hấp thụ hơi ẩm từ gió mùa hè. Tổng lượng mưa dồi dào tạo ra khí hậu nhiệt đới tốt tươi, lý tưởng để trồng Piper nigrum - tiêu đen, và Piper longum - tiêu dài, loại tiêu mạnh hơn nên giá đắt hơn.
Hồ tiêu Malabar cuối cùng cũng tìm thấy con đường tới những horrea - kho hàng - khổng lồ ở Ostia, ở Puteoli, và tất nhiên là ở cả thành Rome. Mặc dù hình ảnh đương thời của kinh thành này bị lu mờ do những tàn tích của Đấu trường và Quảng trường La Mã, nhưng cuộc sống thương nghiệp của thành
Rome cổ đại tập trung tại những con phố chật kín nhà cửa, cửa hàng và horrea. Có lẽ không gì quan trọng hơn là horrea piperataria, kho hàng gia vị, nằm ngay phía ngoài Via Sacra, đường phố chính của kinh đô, ngày nay chạy qua khu vực Quảng trường. Đặc thù của thế giới tiền hiện đại là giao dịch một mặt hàng nhất định được tập trung tại một khu vực. Từ horrea, hồ tiêu được phân bổ tới các cửa hàng bán lẻ nhỏ hơn trong “phố gia vị” ở khu vực Via Sacra láng giềng, tại đây nó được bán trong các túi nhỏ cho những gia đình giàu có và tầng lớp trung lưu. (Ngược lại, những hàng hóa quý giá hơn của Ấn Độ - như ngọc trai, ngà, đồ đạc bằng gỗ cứng loại tốt, và tơ lụa Trung Hoa - được bán tại Quảng trường.) Một cuốn sách nấu ăn từ thời kỳ này còn sót lại, có vẻ do một người La Mã tên là Apicius viết, đã sử dụng hồ tiêu ở 349 trong tổng số 468 công thức; người La Mã dùng hồ tiêu không chỉ trong món ăn chính, mà còn trong đồ ngọt, rượu, và thuốc.
Ngày nay việc đầu tư ngân hàng mang nhiều tham vọng thành công và bành trướng thế nào, thì trước đây thương mại hồ tiêu cũng như vậy với người La Mã - đó là con đường ngắn nhất để trở nên rất giàu có. Ở đế chế thời kỳ đầu
ầ ấ ồ
này, một người hám lợi thường được mô tả là “kẻ đầu tiên lấy hồ tiêu mới mua từ trên lưng lạc đà xuống.”37 Nhà thơ Persius viết:
“Những nhà buôn hám lời nhờ lợi lộc dẫn lối, chạy
Tới những người Ấn khô nẻ, và Mặt trời đang lên;
Từ đó họ mang đi Hồ tiêu nóng, và Dược liệu đắt đỏ,
Nhẫn của Bart đổi lấy Gia vị, mặt hàng Ý của họ.”38
Pliny viết: “Hãy tư duy rằng vị cay là đặc tính thú vị duy nhất và chúng ta bằng mọi cách đi tới Ấn Độ để có được nó! Cả tiêu và gừng mọc tự nhiên trên những vùng đất của chúng, nhưng lại được mua theo trọng lượng giống như vàng và bạc.”39 Lên án tinh thần của Pliny, cũng như của Seneca hay những người chỉ trích khác đối với sự suy tàn của La Mã, là tấm gương phản chiếu quan điểm chung ngày nay: rằng giao thương Đông-Tây đóng góp vào sự sụp đổ của đế chế La Mã bằng cách rút cạn kiệt vàng bạc nơi đây để trả cho những thứ xa xỉ nhất thời. Hoàng đế La Mã tai tiếng nhất, Nero, hẳn nhiên có góp phần cho phiên bản nhập siêu thời cổ đại này; theo Pliny, “Nguồn tin cậy cho biết lượng dầu thơm Ả-rập làm ra trong một năm không bằng lượng Hoàng đế Nero đốt trong một ngày vào lễ tang người vợ Poppaea của mình.”40 Nhà sử học người Anh E. H. Warmington dành hẳn một chương trong tập thiên sử thi giao thương Ấn Độ-La Mã của mình để viết về “sự cân bằng nghịch” này:41
“Không chỉ nước Ý tiêu dùng nhiều hơn những gì họ làm ra, không chỉ một thành Rome hay một quận Latium sản xuất kém cỏi… mà chính cả đế chế thường xuyên không thể cung cấp sản phẩm của mình đủ đáp ứng các khu vực bên ngoài nói chung và tới các nước phương Đông nói riêng nhằm cân bằng lượng lớn hàng hóa nhập từ các quốc gia đó, và kết quả là kim loại quý chảy ra khỏi đế chế dưới dạng tiền đồng mà không có chiều ngược lại tương xứng.”42
Tuy nhiên lối nghĩ thông thường cho rằng thành Rome khánh kiệt vì mua hồ tiêu và tơ lụa có thể không chính xác. Tự nhiên ban cho nơi đây nguồn kim loại thường và kim loại quý dồi dào, và người La Mã cũng xuất khẩu khá nhiều những hàng hóa cồng kềnh. San hô đỏ của Địa Trung Hải và thủy tinh tốt nhất thế giới (cũng được ưa chuộng ở Trung Hoa) được xuất sang Ấn Độ. Chì từ Tây Ban Nha và đồng từ Cyprus (Síp) đổ kín các khoang dằn của nhiều con tàu Hy Lạp. Thiếc vùng Cornwall đi thẳng từ Anh sang Alexandria sẵn sàng cho hành trình tiếp theo, các con tàu Ý lên đường tới Ai Cập và Ấn Độ oằn mình chở đầy rượu vang hảo hạng. Cũng như khí hậu và thiên nhiên đã cho Trung Hoa và Ấn Độ ưu thế về nông sản giá trị cao như tơ lụa và tiêu, công nghệ kỹ thuật xây dựng tiên tiến cũng mang lại ưu thế lớn về khai thác mỏ cho thành Rome. Hơn nữa, Trung Hoa và Ấn Độ thực sự ưa thích bạc hơn vàng. Trong khi bạc chảy về phương Đông, số lượng đáng kể vàng từ Ấn Độ lại đi về phương Tây. Ví dụ, chúng ta biết rằng vào cuối thế kỷ 17, 1 ounce vàng ở Trung Hoa mua được chỉ 5 hay 6 ounce bạc, trong khi ở Tây Ban Nha có thể mua được 12 ounce.43 (Marco Polo ghi lại rằng ở Burma trong suốt cuối thế kỷ 13, 1 lượng vàng chỉ mua được 5 lượng bạc.44) Chênh lệch tỉ lệ trao đổi vàng và bạc giữa Đông và Tây đã tồn tại ít nhất từ thời Seneca; vì vậy thật điên rồ khi một nhà buôn La Mã mua hàng hóa Trung Hoa bằng bất cứ đồng tiền nào khác mà không phải là bạc. Theo ngôn ngữ của hai sử gia kinh tế Dennis Plynn và Arturo Giráldex, “Không có sự mất cân bằng của cán cân thương mại - giữa Đông-Tây, Bắc-Nam, Âu-Á, hay nơi nào khác - bởi dòng chảy của nguồn lực tiền tệ đã bù đắp tất cả. Ở đó chỉ còn là thương mại.”45
ế ế ổ ế
Đế chế Tây La Mã sụp đổ đã làm chậm lại quá trình mở rộng thương mại thế giới ra ngoài cái nôi Ấn Độ Dương. Nhưng không làm nó chấm dứt. Một tôn giáo độc thần mới mạnh mẽ - Hồi giáo - xuất hiện và thúc đẩy quá trình mở rộng mới của thương mại xuyên Ấn Độ Dương, qua những đồng bằng rộng lớn của châu Á, và tới những điểm tận cùng của lục địa Á-Âu rộng lớn. Thương mại dọc trục Trung Hoa-La Mã nối những khoảng cách vĩ đại, nhưng vẫn còn trong tình trạng hội nhập hạn chế: giữa điểm xuất phát và đích đến, hàng hóa qua tay các nhà buôn thuộc nhiều tầng lớp, tôn giáo, văn hóa, và quan trọng nhất, truyền thống pháp lý.
Nhà tiên tri xuất hiện quét sạch mô hình rời rạc và nhiều nhánh của thương mại trong thế giới cổ đại. Trong vài thế kỷ sau cái chết của Muhammad, một văn hóa, một tôn giáo, và một luật lệ đã hợp nhất thương mại của ba lục địa thuộc Cựu Thế giới trong gần nghìn năm trước khi xuất hiện những con tàu đầu tiên của người châu Âu tại phương Đông.
2.
NHỮNG EO BIỂN CỦA THƯƠNG MẠI
Và để chống lại những người này, những kẻ thù lớn nhất của chúng ta, vốn thiếu tính tổ chức và bị chính vận may của họ bội phản, hãy để chúng ta bước vào cuộc chiến với những trái tim mang cơn thịnh nộ; hãy để chúng ta tin rằng khi đối phó với kẻ thù thì việc giành quyền xoa dịu tâm hồn giận dữ bằng sự trả thù quân xâm lược là công bằng và chính thống, và cũng như vậy, theo ngạn ngữ, chúng ta có được những niềm vui thích nhất chính là ở sự trả thù quân địch.
- Gylippus, chỉ huy người Sparta, trước khi lực lượng hải quân Athens bại trận tại cảng Syracusé1
Hễ ai khống chế được Malacca là coi như đã đặt được tay lên yết hầu của Venice.
- Tomé Pires2
Hiếm có câu chuyện cổ nào lại
khuấy động tâm hồn hiện đại như sự kiện xảy ra vào thời kỳ Chiến tranh Peloponnese, khi quân Athens bị tiêu diệt trong cuộc viễn chinh tới Sicily. Về phía đông cảng Syracuse của người Sicily, trên những đồng bằng vùng thượng và bến tàu vùng hạ, đội quân do người Sparta dẫn đầu từ những tiền đồn xa xôi thuộc về nền văn minh Hy Lạp đã lần lượt bắn hạ từng người lính Athens, từng con tàu Athens.
Thucydides, một quan sát viên tỉ mỉ vốn không quen khoa trương đã chẳng ngần ngại thốt lên, “Đây là… trận đánh vĩ đại nhất chúng ta từng biết trong lịch sử Hy Lạp - là chiến thắng rực rỡ nhất của người thắng cuộc, là thất bại nặng nề nhất của kẻ thua cuộc.”3
Nhưng Chiến tranh Peloponnese thì quan hệ gì tới lịch sử thương mại? Thực ra là liên quan rất lớn, bởi lý do khiến Athens muốn nắm quyền kiểm soát hoàn toàn lại xuất phát trực tiếp từ việc buôn bán thứ hàng hóa cơ bản nhất - lương thực - ở khu vực đặc thù của cái nôi văn minh Tây phương thuộc về Hy Lạp. Hơn nữa, chính những nền tảng văn hóa và thể chế của văn minh Tây phương đã ra đời tại Hy Lạp cổ đại, cũng như ám ảnh của phương Tây hiện đại đối với việc kiểm soát những tuyến đường biển trọng yếu và những điểm chốt hàng hải chiến lược bắt nguồn từ cấu tạo địa hình và nông nghiệp đặc thù của Hy Lạp, khiến nơi đây phụ thuộc vào lương thực nhập khẩu. Sức mạnh khiến Anh và Mỹ lần lượt kiểm soát các tuyến vận chuyển của thế giới trong thế kỷ 19 và 20 xuất phát từ nhu cầu của Hy Lạp cần nguồn cung thực phẩm từ lúa mì và lúa mạch nhập khẩu.4
Câu hỏi vì sao một Athens kiêu hãnh lại để nhu cầu vượt quá khả năng cũng như nguồn lực của mình, và chịu thất bại tại vùng bờ biển Sicily xa xôi, đã khuấy động giới sử gia phương Tây kể từ khi Thucydides, vị tướng bị trục xuất người Athens, viết cuốn sử ký nổi tiếng đầu tiên của mình. Không phải tình cờ mà mối quan tâm ngày nay đối với cuộc xung đột cổ đại này lại trở nên mạnh mẽ, khi các siêu cường hùng mạnh nhất trong lịch sử bị sa lầy nhiều hơn vào cuộc chiến tại Trung Đông. Chẳng khó khi liên hệ những người ủng hộ chính sách đối ngoại quốc gia ngày nay với những nhân vật chính của Athens: kiêu căng, tài giỏi, và xảo trá kiểu diều hâu như Alcibiades, hay cẩn trọng và trung thành kiểu bồ câu như Nicias, đã bị người Syracuse bắt giữ và hành quyết.
Nhưng điều tiên quyết nào đã khiến Athens muốn trở thành đế chế? Hy Lạp cổ đại bao gồm trên dưới cả trăm thành phố tự trị nhỏ
và độc lập dàn theo thế liên minh, đa dạng và thay đổi liên tục, gần như không ngừng chiến tranh với nhau. “Hy Lạp” là một khái niệm mang tính văn hóa và ngôn ngữ, không phải một quốc gia. Chỉ những mối hiểm nguy to lớn từ bên ngoài, như cuộc xâm lược của người Ba Tư vào đầu thế kỷ 5 TCN, mới có thể đưa những người anh em bướng bỉnh này vào một thể thống nhất, dù chỉ trong thời gian rất ngắn ngủi.
Quan sát bản đồ khu vực Aegea một cách sơ lược, có thể mường tượng ra địa hình này. Bờ biển Hy Lạp dài ngoằn ngoèo, như tấm thảm dệt với vô vàn đảo, bán đảo, lạch, vịnh, và những con kênh. Địa hình phức tạp, cùng với cảnh quan tương đối nhiều đồi núi của Hy Lạp, đã thúc đẩy việc hình thành hầu hết các tuyến thương mại bằng đường biển.
Cùng với địa lý, yếu tố đóng vai trò chính yếu khác trong thương mại Hy Lạp là hầu hết các thành phố ở đó đều gặp tình trạng đất đai cằn cỗi và sinh sống khó khăn do nạn đói. Những nền văn minh đầu tiên của loài người xuất phát từ vùng đất giữa sông Tigris và sông Euphrates, cũng như vùng đất dọc theo đôi bờ sông Nile trù phú, là hai khu vực trồng trọt tốt nhất thế giới. Hy Lạp nhiều núi, nhưng lại thiếu những thung lũng được phù sa bồi đắp màu mỡ không như của hai xã hội lâu năm hơn kia, và có mỗi lớp đất đá vôi mỏng được tưới tắm bằng lượng mưa trung bình chỉ khoảng 400 millimét/năm. Do các tiềm năng nông nghiệp hạn chế, nên dân cư nơi này tập trung ở vùng bờ biển, tiến hành đánh bắt cá, sản xuất thủ công, và thương mại.
Một trang trại Hy Lạp truyền thống có thể không trồng đủ lương thực cho nhu cầu của chính mình, nhưng lại làm ra đủ rượu vang và dầu ô liu để đổi lấy thừa mứa lúa mì và lúa mạch nhập khẩu. Vì thế nông dân Hy Lạp lệ thuộc vào thương mại không chỉ để nuôi gia đình, mà còn để kiếm thêm thu nhập đủ bù đắp cho nguồn lực cần thiết trong khoảng thời gian tham gia hội đồng và đơn vị quân đội cơ bản tại địa phương, bộ binh trang bị vũ khí nặng.5
Cùng thời gian, một số thành phố tự trị tại Hy Lạp lần đầu tiên hình thành chế độ dân chủ vào thời kỳ đầu thiên niên kỷ 1 TCN, họ cũng bắt đầu sử dụng quá mức nguồn cung lương thực. Thậm chí ở
Hy Lạp, đất đai Attica - vùng lãnh thổ do Athens cai quản - đặc biệt nghèo nàn. Theo Thucydides, đất đai cằn cỗi khiến Athens không hấp dẫn những đội quân xâm lược, vì thế tạo ra môi trường chính trị ổn định cho nơi đây. “Tình trạng ổn định của những mảnh đất cằn” này, theo ông, đã thu hút sự giàu có, sức mạnh, và trí tuệ từ những thành phố tự trị giàu hơn, mạnh hơn, nhưng cũng ương ngạnh.6
Nguồn cung lúa mạch của Hy Lạp có thể đủ đáp ứng cho nhu cầu sinh sống ít nhất là thời kỳ đầu, nhưng theo thời gian, khẩu vị ngày càng giàu sang và tinh túy của Hy Lạp đòi hỏi phải có lúa mì. Trồng lúa mì yêu cầu tưới nước đúng lúc để mọc mầm, đặc biệt khó đáp ứng trong điều kiện khí hậu có lượng mưa ít và không ổn định. Cùng với nhân vật anh hùng dân gian của Anh thời trung cổ John Barleycorn, loại bánh mang tính nghi lễ cúng tế của cả Hy Lạp và thành Rome là bánh làm từ lúa mạch, dễ trồng hơn nhiều trong điều kiện khí hậu khô và đất cằn. Trước khi thương mại lương thực diễn ra mạnh mẽ vào thế kỷ 6 TCN, người ta chỉ ăn bánh mì vào những ngày lễ của Hy Lạp.7
Những người nội trợ Hy Lạp khó tính có được bột mì từ đâu? Trước thế kỷ 6 TCN, chủ yếu là từ Ai Cập, vựa thóc của Địa Trung Hải. Herodotus ghi lại rằng, pharaoh Amasis8 đã trao thành phố Naucratis nằm bên nhánh Canopic của châu thổ sông Nile cho Hy Lạp để làm đô thị thương mại cho các nhà buôn từ nhiều thành phố Hy Lạp.9
Hy Lạp cũng thuộc địa hóa Sicily nhằm tận dụng đất đai màu mỡ từ nham thạch quanh núi lửa Etna trên bờ biển phía đông. Điểm cực nam của Syracuse chính là do thực dân người Corinth, đối thủ mạnh mẽ từ Athens ở ngay phía tây nam của Syracuse, đặt nền móng vào cuối thế kỷ 8 TCN. Nhưng có thể nói, Hy Lạp được lợi chính là ở vùng nội địa rộng lớn và màu mỡ trên bờ bắc biển Đen. Cũng vào khoảng thời gian những người nông dân Corinth lập nên Syracuse, các thành bang Aegea bắt đầu đưa số lượng lớn những thực dân tới vùng thung lũng cực kỳ màu mỡ ở các con sông Bug và Dnieper, nay
thuộc phía nam Ukraine (từ đây trở đi sẽ được gọi là “Pontus”, thay cho Greek Pontus Euxine - biển Đen ngày nay).
Khi các công dân Hy Lạp bắt đầu thu được lương thực từ những vùng thuộc địa ở Pontus và Sicily, địa hình đơn giản nơi đây đã thúc đẩy một nhóm thành bang - gồm Athens và những đồng minh trên các đảo Aegea - đưa tàu đi theo hướng tây bắc tới Pontus để tìm thêm nguồn cung lương thực. Nó cũng khiến nhóm thứ hai - gồm Sparta, Corinth, và Megara (nằm trên đường giữa Athens và Corinth) cùng các đồng minh - nhắm về phía tây tới Sicily. Các con tàu của Corinth và Megara có thể tới Sicily bằng cách đi thẳng từ phía tây ra khỏi vịnh Corinth, hoặc theo hành trình dài hơn bằng cách đi về phía nam quanh Peloponnese. Cả hai lộ trình trên đều qua các cung đường thủy hẹp, và vì thế dễ bị các thành bang đối thủ hoặc cướp biển tấn công. Ví dụ, tàu từ Corinth và Megara khi tới vịnh Corinth và trên đường về đều dễ bị chặn ở lối vào phía tây, nơi bề rộng chỉ khoảng 1,6 km. Hành trình phía nam tới Sicily cũng dễ gặp các thành bang kẻ thù và cướp biển do phải đi qua eo biển rải rác các đảo nằm giữa phía nam vùng đất Hy Lạp rộng lớn - Peloponnese, bao gồm cả Sparta - và đảo của Crete.
Nguồn cung lương thực của người Athens và các đồng minh Aegea thậm chí cũng dễ bị đe dọa. Hành trình tới vựa lúa của họ ở Pontus không chỉ phải len qua một mà là hai hành lang nhỏ hẹp giữa biển Aegea và biển Đen: Dardanelles (Hellespont - “cây cầu của người Hy Lạp”) và Bosphorus thậm chí còn hẹp hơn nằm ngay phía bắc. Hơn nữa, giao thông đường biển tới và về từ Piraeus, thành phố cảng của Athens, phải sử dụng tuyến đường qua những eo biển nằm giữa các đảo hình thành nên lối ra vịnh Saronic. Vào thời kỳ giữa thế kỷ 7 TCN, nguồn cung thực phẩm cho một Athens tăng trưởng nhanh từ vùng thung lũng màu mỡ của Attica chiếm tỉ trọng nhỏ hơn bao giờ hết. Thành bang này tự thấy mình ngày càng phụ thuộc vào lúa gạo nhập khẩu có được do trao đổi hàng thủ công tinh xảo và nông sản thương mại - gốm, nguyên liệu dệt, dầu ô liu, và rượu vang.
Vì thế, sự sống còn của Athens lệ thuộc vào một trong những tuyến đường cung ứng mong manh nhất hành tinh. Tệ hơn, bão tố và mây bao phủ đã “đóng cửa” đại dương phần lớn thời gian trong năm, co hẹp mùa ra khơi chỉ còn từ đầu tháng Năm tới cuối tháng Chín - bốn tháng rưỡi.10 (Trước khi phát minh ra la bàn, bầu trời đầy mây là cản trở lớn đối với hành trình ra khơi, đặc biệt vào ban đêm.)
Khi dân số Hy Lạp ngày càng đông, cạnh tranh về nguồn cung lương thực trước tình trạng khan hiếm gia tăng cùng với điều kiện địa chính trị khó khăn đã tập hợp và phân chia các thành bang thành hai nhóm đối lập: một do Athens lãnh đạo, một do Sparta lãnh đạo. Hai liên minh này kèn cựa liên miên, và kết quả xung đột là Chiến tranh Peloponnese thảm khốc.
Ngay từ năm 700 TCN, “Cuộc chơi Vĩ đại” của Hy Lạp, cuộc chiến giành quyền kiểm soát Hellespont và lương thực biển Đen đã được chuẩn bị kỹ lưỡng. Khoảng năm 660 TCN, Megara - láng giềng và đối thủ chính của Athens, đồng minh của Sparta - đã thiết lập Byzantium và Chalcedon làm các điểm phòng vệ cho Bosphorus. Không lâu sau, thành bang Mytilene thuộc Tây Aegea đã chiếm đóng Sigeuma, án ngữ Hellespont, chỉ cách tàn tích Troy của Homer vài cây số.
Athens phản công bằng cách giành lại Sigeum từ Mytilene vào khoảng năm 600 TCN. Năm 535 TCN, bạo chúa Peisistratus của Athens bắt đầu trên diện rộng một chương trình thuộc địa hóa quanh biển Đen, củng cố các eo biển (cùng với các dự án phát triển khác trong 33 năm trị vì của ông ta, bao gồm hệ thống nước đô thị và thư viện công đầu tiên ở Athens).
Peisistratus cũng thắt chặt an ninh ba hòn đảo phía nam Sigeum nhằm tiếp cận Hellespont từ phía tây nam: Tenedos, Imbros, và Lemnos. Năm 506 TCN, Athens chiếm được vùng bờ biển phía tây màu mỡ của đảo Euboea nằm về phía tây Aegea từ thành bang Chalcis; sự thâu tóm này đã mang lại ảnh hưởng kép: tăng cường nguồn cung lương thực, và hoàn thiện “đường cao tốc hàng hải” giúp
tàu thuyền tự do di chuyển giữa Piraeus và Hellespont. Cũng đôi lần, sự xâm nhập của người Ba Tư vào cuối thế kỷ 6 và đầu thế kỷ 5 TCN đã làm gián đoạn tạm thời thương mại trên biển Đen. Nhưng Athens chưa bao giờ từ bỏ mối quan tâm của nó, nên cuối cùng đã đập tan sức mạnh của Hoàng đế Ba Tư Xerxes từ Sestos, nằm trong Hellespont, hai năm sau khi đánh bại hải quân của vị vua này tại Salamis (một đảo phía tây nam Athens) vào năm 480 TCN.
Vừa thoát khỏi cuộc tấn công của Ba Tư, Athens đã phải sơ tán trong suốt cuộc chiến Salamis. Được cảnh báo từ cơn hoạn nạn này, người Athens đã dựng nên “tường thành” gồm hai thành lũy song song cách nhau độ trăm mét, dài khoảng 6,5 km chạy từ nam thành phố tới cảng Piraeus, giúp Athens sống sót trong cuộc bao vây vô thời hạn trên đất liền nhờ được tiếp tế từ tàu nước ngoài neo tại các vũng tàu.
Không may, cuối cùng thì “trường thành” chỉ chuyển dịch điểm yếu của Athens từ trên cạn xuống dưới nước. Năm 476 TCN, Sparta bất ngờ tấn công vào huyết mạch của Athens ở Hellespont và Bosphorus, vị chỉ huy Pausanias của Sparta lần lượt chiếm được cả Sestos và Byzantium. Gần như ngay lập tức, Athens đã đánh đuổi quân Sparta ra khỏi các thành phố này.
Trước năm 450 TCN, nhằm đảm bảo an toàn cho các tuyến thương mại, lực lượng mở rộng, hùng hậu của hải quân Athens bắt đầu tuần tiễu biển Đen với cường độ gần như liên tục, một hành động chưa từng có trong thế giới của quân đội và hải quân đương thời dạng dân-lính bán chuyên nghiệp. Chính Pericles đã dẫn đầu một đội tàu chiến nhằm phô diễn sức mạnh trên vùng biển của mình.
Trong suốt những năm hòa bình, các nhà buôn Athens đã vận chuyển hàng triệu giạ lương thực qua Hellespont. Vào những thời kỳ đói kém, số lượng lương thực vận chuyển đến Athens tăng lên mức ba triệu giạ mỗi năm. Phần lớn lương thực biển Đen này được đưa lên tàu ở Theodosia, nằm ở phía đông nơi giao nhau của hai con sông Bug và Dnieper.
Vùng bờ biển và nội địa của biển Đen cũng cung cấp cho Hy Lạp gia súc, len, cá, và gỗ. Đổi lại, dân cư địa phương vốn giản dị cũng đánh giá hàng hóa sản xuất tại Hy Lạp hơn hẳn đồ Ai Cập phổ thông và nhàm chán. Do các nhà buôn Hy Lạp thu được lợi nhuận từ hàng hóa Pontus cao hơn Ai Cập, nên thương mại dần dịch chuyển về phía bắc.
Với việc này, Athens nhận ra rằng chỉ có sức mạnh hải quân thôi thì chưa đủ. Bởi kẻ thù có thể dễ dàng phong tỏa những eo biển hẹp của Aegea, Hellespont, và Bosphorus, nên Athens đã thâu tóm sự kiểm soát chính trị tại những điểm hẹp nhất dọc các tuyến này. Thêm nữa, chỉ đơn giản là chiếm được vài thành phố và cứ điểm phòng thủ là chưa đủ; các thành phố khác trong khu vực cũng lệ thuộc vào những tuyến đường biển và các điểm bị thắt lại tương tự, tất cả đều cần góp sức người sức của cho công cuộc bảo vệ những nơi đó. Cách duy nhất để đạt được mục tiêu này là thông qua một nhóm liên kết, được chỉ đạo tập trung, gồm các thành bang có cùng tư duy mà sau này dần hợp nhất vào đế chế Athens.
Cách thức Athens đạt được kỳ tích này - bằng bề ngoài mềm mỏng nhưng bên trong cứng rắn - là hình ảnh quen thuộc mà đáng ngại với độc giả Mỹ hiện đại. Athens hỗ trợ những người bạn của mình ở biển Aegea và biển Đen bằng cách giúp họ chống lại cướp biển và các cuộc tấn công từ “người man di” địa phương - liều mình đòi lại vùng đất đã bị thực dân Hy Lạp lấy mất. Đổi lại, Athens thu nạp đồ cống tế từ những thành phố liên minh này và cũng miễn thuế xuất khẩu lương thực đối với Piraeus. Ngược lại, quyền kiểm soát các tuyến đường biển ở Aegea giúp Athens trừng phạt kẻ thù của mình - Sparta, Corinth, và Megara. Ví dụ, vào thời kỳ đầu Chiến tranh Peloponnese, Athens thiết lập một cơ sở ở Naupactus nằm trên lối hẹp dẫn vào phía tây vịnh Corinth nhằm phong tỏa tàu thuyền tới Corinth và Megara.11 Athens sử dụng đầy đủ những công cụ chính trị và quân sự này để kìm giữ các đồng minh còn do dự, chẳng hạn Rhodes (nằm ngay phía ngoài bờ biển phía tây nam Thổ Nhĩ Kỳ ngày
nay), các đảo Chios và Lesbos phía tây Aegea. Thậm chí Athens còn chi phối giá lương thực và duy trì dự trữ để sử dụng cho những lúc bị phong tỏa hay dịch bệnh; bất cứ nhà buôn nào, của Athens hay ngoại quốc, nếu bị bắt gặp vét hàng để đầu cơ thị trường hay tái xuất khẩu lương thực sẽ bị phạt tù chung thân.
Tương tự Thế chiến I, Chiến tranh Peloponnese khởi đầu vào năm 431 TCN bắt nguồn từ một mâu thuẫn khá nhỏ, trong trường hợp này là tranh giành giữa nhóm đầu sỏ chính trị và những người theo dân chủ ở thành bang Epidamnus nhỏ xíu (nay là Durres bên bờ biển Albania). Phe dân chủ kêu gọi trợ giúp từ Corcyra (Corfu ngày nay), vốn khai sinh ra Epidamnus và cũng nằm trong liên minh hải quân quyền lực với Athens. Sau khi bị Corcyra từ chối, phe dân chủ đã kêu gọi Corinth điều một hạm đội đến trợ giúp và được toại ý.
Người Corcyra, tức giận khi bị người Corinth can thiệp vào nơi từng là thuộc địa của mình, đã đánh bại hạm đội Corinth. Athens bắt đầu e ngại người Corinth có thể tham gia liên minh Sparta để đánh lại hạm đội lớn của Corcyra và làm thay đổi cán cân quyền lực chống lại mình. Điều này dẫn tới xung đột hải quân giữa Athens và Corinth, rồi nhanh chóng bùng nổ thành đại “xung đột toàn cầu” của thế giới Hy Lạp.
Lúc đầu, đế chế Athens gặp thuận lợi, với chiến thắng tại Pylos ở phía tây nam Peloponnese và bắt giữ được số lượng lớn quân Sparta. Lúc này, người Sparta, vốn thường xuyên thiếu hụt nhân lực do phần lớn dân số bị ép làm nô lệ, có thể đã thiết lập nền hòa bình hào phóng với Athens nhằm lấy lại số binh lính bị bắt giữ. Thay vì thế, người Athens đã khiến chiến tranh bị kéo dài.
Năm 415 TCN, Alcibiades một người trẻ ngông cuồng theo chủ nghĩa bành trướng, và Nicias một chiến binh già kỳ cựu và cẩn trọng, tranh cãi về việc xâm lược Sicily. Alcibiades đưa ra các lợi ích từ lương thực nơi đây đối với Athens; Nicias tranh luận rằng chính sự hào hiệp của đối phương là lý do để nói không với ý định xâm lược;
“Lợi thế lớn nhất họ hơn chúng ta… sự thật là họ sản xuất lương thực cho chính mình và không phải nhập khẩu chút nào.”12
Kẻ hiếu chiến đã giành phần thắng, kết quả là đội quân viễn chinh tới Sicily bị tổn thất nặng nề khiến quê nhà thành ra dễ bị tấn công. Đại đô đốc Lysander của Sparta, thay vì tấn công trực tiếp vào Athens, một lần nữa lại nhắm tới vùng yết hầu của đế chế giờ đã bị để ngỏ tại Hellespont. Vị chỉ huy quỷ quyệt chậm rãi tập hợp lực lượng và đợi tới giữa hè năm 405 TCN, khi có nhiều tàu chở lương thực nhất mang theo những hàng hóa quý giá chuẩn bị về phương nam trước khi biển đóng lại. Chọn đúng thời điểm, Lysander đổ bộ vào tàn dư của hạm đội Athens tại Aegospotami, phía trong Hellespont gần Sestos. Quân Sparta đánh chìm hoặc chiếm giữ hầu hết thuyền Athens và thảm sát hàng ngàn phân đội. Con thuyền galley bất khả xâm phạm của Athens sống sót và trở về quê hương mang theo hung tin; khi tin tức thất bại về tới Piraeus, “Những lời than vãn lan rộng… trên trường thành của thành phố, người này báo cho người kia khiến đêm đó ở Athens chẳng ai ngủ nổi.”
Vào lúc đó, chẳng còn cần xâm lược Athens, bởi lưỡi gươm ác nghiệt của đói kém đã đánh bại Athens hiệu quả và rẻ hơn cả đội quân trang bị vũ khí nặng đáng sợ của Sparta. Trong thỏa thuận hòa bình bẽ bàng, Athens vẫn giữ được độc lập, nhưng chỉ hạn hẹp; phải từ bỏ hạm đội còn lại, san bằng các công sự ở Piraeus và kéo đổ “trường thành” mà cho tới bấy giờ vẫn giúp Athens chống lại các cuộc bao vây. Và điều nhục nhã cuối cùng, Athens buộc phải trở thành đồng minh của Sparta.
Athens rồi đây sẽ vùng dậy lần nữa, và thậm chí giành được địa vị thống trị thương mại biển Đen từ lực lượng hải quân Sparta đã suy yếu, nhưng không bao giờ lấy lại được vị thế quyền lực và tầm ảnh hưởng như trước. Thử thách tiếp theo là Thebes, đã nắm quyền kiểm soát các eo biển vào năm 360 TCN, dù bị Athens tái chiếm ba năm sau đó. Chẳng bao lâu sau, Philip từ Macedon, cha của Alexander Đại đế, tấn công Hellespont ở Perinthus (một thành phố
nhỏ bên Propontis, vùng biển nội địa giữa Hellespont và Bosphorus) và sau đó là chính Byzantium. Một lần nữa, người Athens, dưới sự tập hợp của nhà hùng biện Demosthenes, đã cầm cự được. Athens một lần nữa giữ được dây cứu sinh, dù hạn chế.
Alexander bảo đảm tự do trên biển cho tàu thuyền Hy Lạp, mặc dù lời hứa này không ngăn ông thi thoảng cho giữ lại một con tàu chuyên chở đi riêng lẻ nhằm biểu thị việc ai mới là người thực sự kiểm soát những tuyến đường biển này. Trong những thế kỷ tiếp theo, Athens tiếp tục duy trì độc lập trên danh nghĩa, không còn kiểm soát được dây cứu sinh hay số phận của mình nữa. Và với việc Athens cho ra đời nhiều tổ chức hoạt động về tri thức, nghệ thuật, và các thể chế Tây phương, thì đồng thời cũng làm nên một truyền thống kém vẻ vang. Trong các thế kỷ sau Chiến tranh Peloponnese, Athens đứng đầu trong một hàng dài các đế chế Tây phương già nua đối mặt với sự chuyển dịch ê chề từ quyền lực toàn cầu sang các công viên giải trí ngoài trời, có tiếng tăm chỉ nhờ nghệ thuật, kiến trúc, học thuật, và quá khứ.
Nếu Hy Lạp là cái nôi của văn minh Tây phương, thì chắc hẳn đặc điểm địa hình mang tính chiến lược đặc biệt của nó đã định hình phần lõi của chiến lược hải quân phương Tây, trong đó nhấn mạnh tính an toàn của các tuyến đường biển. Venice, rồi Hà Lan, và Anh, lần lượt trở thành những Athens của thế kỷ 13, 17, và 19 - các nước đã phát triển nhanh hơn cả nguồn cung thực phẩm nội địa, với thịnh vượng và tồn vong gắn với khả năng kiểm soát các tuyến đường biển và những điểm chốt chiến lược xa xôi như Kattegat (eo biển nằm giữa Jutland và Thụy Điển), eo biển Anh, Suez, Aden, Gibraltar, Malacca, và lại một lần nữa, Hellespont và Bosphorus.
Ngày nay, với sản lượng dầu ngày càng tăng từ các mỏ khổng lồ ở Ả-rập Saudi, Iraq, và Iran đi qua vịnh Ba Tư, các bộ quốc phòng ở Washington, London, New Delhi, và Bắc Kinh không cần tới sự nhắc nhở về tầm quan trọng của việc duy trì tự do hàng hải qua những vùng nước hẹp ở quốc gia mình. Mặt khác, các cường quốc thương
mại châu Á thời trung cổ bị ru ngủ với địa lý mở của Ấn Độ Dương thì lại chưa bao giờ học được điều đó. Trong nhiều thế kỷ, quân Hồi giáo thực sự có khả năng loại bỏ các quốc gia châu Âu yếu ớt và lạc hậu ra khỏi trung tâm thương mại đường dài thế giới tại Ấn Độ Dương. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn do việc họ chinh phục vùng đất rộng lớn ở Trung Đông, khiến cho châu Âu không thể tiếp cận “cửa sau” của Ấn Độ Dương tại vịnh Ba Tư và Bab el Mandeb. Ví dụ, Caliphate Abbasid hùng mạnh ở Baghdad chỉ nỗ lực chút ít cho việc bảo vệ yếu điểm sống còn của mình trên vịnh Ba Tư tại Hormuz, khiến cướp biển nở rộ nơi đây. (Các đế chế Ả-rập thời kỳ đầu cũng không xem xét tới chuyện đưa việc xây dựng và bảo trì đường sá vào quy định.)
Trong khi Mông Cổ và nhà Minh của Trung Hoa tiến hành nhiều đột kích đường biển nhắm tới Nhật Bản, Indonesia, và Ấn Độ Dương, thì họ lại nỗ lực khá ít trong việc bảo đảm an toàn cho eo Malacca, có vai trò kiểm soát thương mại tới tất cả các điểm phía tây. Người Hồi giáo Ấn Độ kiểm soát tất cả nhưng lại bỏ qua các tuyến đường biển cho tới khi người Bồ Đào Nha xuất hiện, đó là lúc Malik Ayaz, thống đốc Hồi giáo của thành phố Gujarati thuộc Diu trên bờ biển phía tây Ấn Độ, điên cuồng kêu gọi các chỉ huy Mamluk của Ai Cập giúp đánh đuổi người Bồ Đào Nha. Năm 1508, liên quân Mamluk-Ấn Độ bất ngờ tấn công một đội tàu nhỏ của Bồ Đào Nha ở cảng Chaul (ngay phía nam Mumbai ngày nay), và gây ra một thất bại nhức nhối cho người châu Âu. Năm sau, Bồ Đào Nha đưa một hạm đội lớn hơn tới ngoài khơi của Diu và đảo ngược thất bại trước đây, mở ra cánh cửa để châu Âu thống trị thương mại gia vị trọng yếu, trước đây do người Hồi giáo độc quyền.
Vai trò của sức mạnh và chiến lược hàng hải trở nên nhỏ bé khi hai đợt gió mùa có thể thổi hàng hóa từ Basra vượt Ấn Độ Dương tới Malacca mà không gặp trở ngại gì. Địa hình mở và dễ chịu của Ấn Độ Dương khiến các cường quốc thương mại Hồi giáo đã chuẩn bị không đầy đủ trước cuộc tấn công dữ dội của châu Âu.
Uy thế của phương Tây ở Ấn Độ Dương không hề ồn ào; vì người Hồi giáo đã hiện diện ở Chaul, họ không dễ dàng bị đuổi đi như thổ dân châu Mỹ ở Tân Thế giới. Vài năm sau thất bại tại Diu, một hạm đội được tái lập của Ai Cập đã cầm chân người châu Âu ở Aden, và lực lượng của Nhà tiên tri giành lại quyền kiểm soát Bab el Mandeb chiến lược cho tới khi người Anh cuối cùng cũng lấy được cảng từ Ottoman vào năm 1839. Nhưng bất chấp sự man rợ và pha tạp của hải quân Hồi giáo, rốt cuộc họ cũng đã không cho thấy sự tương thích nào với đội ngũ cựu học sinh từ những ngôi trường thô bạo của Hellespont, Kattegat, Gibraltar, và eo biển Anh.
Không khó để bắt gặp bóng ma của nỗi ám ảnh Athens cùng với Hellespont phản chiếu trong sự hiện diện của Hải quân Mỹ ở Bab el Mandeb và các eo Gibraltar, Hormuz, Malacca, hay thất bại nhất thời của Bồ Đào Nha tại Chaul đã tái hiện qua cuộc tấn công vào chiến hạm USS Cole của Mỹ ở Aden. Nhưng chúng ta đã đi đủ xa cho câu chuyện của mình. Gần một thiên niên kỷ kể từ Chiến tranh Peloponnese tới sự sụp đổ của thành Rome, và lại một thiên niên kỷ khác tính từ sự lụi tàn của thành Rome tới bình minh của bá quyền Tây phương, được tuyên ngôn bởi sự hiện diện của người Bồ Đào Nha ở Ấn Độ Dương.
Trong hầu hết thời gian kể từ khi thành Rome sụp đổ, những người trung thành với tôn giáo độc thần mới hùng mạnh đã thống trị thương mại đường dài trung cổ trọn vẹn như phương Tây thống trị nó ngày nay; di sản của sự thống trị xưa kia vẫn còn hiện hữu khá rõ.
3.
LẠC ĐÀ, HƯƠNG LIỆU, VÀ CÁC NHÀ TIÊN TRI
Hầu như lúc nào các họa sĩ và người vẽ minh họa cũng vẽ chân dung lạc đà ở góc nhìn nghiêng… Nhìn từ trước, mũi lạc đà như bằng cao su, phồng ra, môi trên trượt về đằng trước xuống dưới,
phủ bên ngoài răng, phình ra ngoài phần môi dưới ngắn hơn, theo cái kiểu mà sau khi nhìn rồi sẽ thấy khác hẳn hình dung đầy đủ về con lạc đà dựa trên góc nhìn nghiêng kia. Những gì tôi thấy là một sinh vật khác, như một con rắn biển hay một con khủng long mặt
chó.
- Leila Hadley1
Mọi lữ khách đều nên nghiên cứu về kỹ thuật tấn công bất ngờ trên sa mạc. Một phe nào đó đang tiến đến có thể là bạn bè, nhưng luôn có thể là kẻ địch… Phía tấn công có hai loại, một là giữa bộ lạc của họ và của bạn không có tử thù, hai là có cả hai loại này đều muốn lạc đà và vũ khí của bạn, tiếp đến là cả mạng sống của bạn.
- Bertram Thomas2
Nếu chúng ta tin tưởng vào các nghiên cứu địa chất và hóa thạch gần đây, thì khủng long đã biến mất một cách đột ngột, bí hiểm trong sự lạnh lẽo khi có một tiểu tinh cầu khổng lồ đâm vào vịnh Mexico khoảng 65 triệu năm trước đây và gây nên thời kỳ băng hà. Các tổ tiên thuộc động vật có vú máu nóng của chúng ta có khả năng thích nghi tốt hơn với cái lạnh đã hồi sinh. Vào khoảng 40 triệu năm trước, một trong số đó, loài Protylopus kích thước cỡ con thỏ, xuất hiện ở Bắc Mỹ. Vào thời kỳ bắt đầu của kỷ Pleistocene, khoảng ba triệu năm trước, eo đất Panama đã hình thành giúp Protylopus đi cư sang Nam Mỹ, nơi các thế hệ tiếp sau của chúng, gồm lạc đà không bướu llama, lạc đà không bướu alpaca, lạc đà guanaco, và lạc đà vicuna phát triển mạnh ở Andes. Ở Bắc Mỹ, có lẽ là vào 500.000 năm trước, Protylopus cũng đã sinh ra giống lạc đà ngày nay.
Kỷ Pleistocene mới kết thúc từ 10.000 năm trước, được đánh dấu bằng những thời kỳ bị gián đoạn với băng giá bao phủ khắp nơi. Trong suốt những thời kỳ đan xen băng giá này, băng tích lũy trên bề mặt địa cực mở rộng của Trái đất đã làm mực nước biển hạ xuống tới cả trăm mét, hơn mức cần thiết để làm lộ ra phần đáy của eo Bering, mà ngày nay độ sâu ở đó chưa đầy 70 m. Beringia là cây cầu trên cạn giúp các loài động thực vật di chuyển giữa các bán cầu Đông và Tây.
Trong những lần trao đổi vào cuối kỷ Pleistocene, đã có hai cuộc di cư quan trọng: con người đi từ Siberia theo phía đông sang Tân Thế giới, Á ề
còn lạc đà và ngựa đi theo hướng ngược lại sang châu Á và về phía trên để vào châu Phi. Cả hai loài móng guốc này mau chóng biến mất ở Bắc Mỹ - có lẽ đã làm mồi cho loài mèo lớn răng kiếm, có lẽ do thay đổi nguồn thức ăn gây ra bởi biến đổi khí hậu, hoặc có lẽ bị người tiền sử tàn sát. Dù ngựa đã tái xuất đầy ngoạn mục ở châu Mỹ nhờ những người Tây Ban Nha thích phiêu lưu, nhưng lạc đà thì chưa bao giờ trở lại quê hương ban đầu của mình.
Lạc đà lúc đầu cũng không phát triển mạnh trên quê hương mới ở Cựu Thế giới. Không giống loài ngựa nhanh nhẹn, lạc đà không có khả năng phòng vệ và có vận tốc cao nhất khoảng 32 km/h - miếng mồi dễ dàng cho sư tử hoặc bất cứ loài thú ăn thịt to lớn và nhanh nhẹn nào. Ở những khu vực khô hạn nhất của châu Á, đặc biệt là Ả-rập, lạc đà phát triển được lợi thế tiến hóa đặc trưng: khả năng trữ và giữ nước, giúp chúng sống sót trong thời gian dài trên sa mạc cách xa những ốc đảo, nơi tập trung các loài thú ăn thịt lớn.
Lạc đà không trữ nước ở bướu của chúng như thường được cho là thế, mà phân bố đều khắp cơ thể. Chúng dễ dàng đi nhiều ngày, và trong trường hợp đặc biệt là nhiều tuần mà không có nước, nhờ mỗi
lần uống vào một lượng lớn - lên tới 190 lít. Chúng giữ được chất lỏng nhờ thận có khả năng phi thường là cô đặc nước tiểu một cách hiệu quả. Những con lạc đà châu Á đầu tiên là loại hai bướu (Bactria), nhưng ở các sa mạc Ả-rập và châu Phi nóng bức hơn, lạc đà tiến hóa thành kiểu một bướu quen thuộc (dromedary), nhằm giảm diện tích bề mặt, từ đó giảm bay hơi nước. Cơ chế giữ nước của lạc đà một bướu cũng tiến hóa, đó là có thể thụ động tăng nhiệt cơ thể thêm 6 độ F vào lúc nóng bức trong ngày, khả năng này (thường không xuất hiện ở động vật có vú) làm giảm thiểu mất nước do tiết mồ hôi. Cho tới ngày nay, lạc đà một bướu chiếm đa số ở Ả-rập và châu Phi, trong khi lạc đà Bactria thường xuất hiện ở châu Á.3
Lúc đầu, cả hai loài lạc đà đều bại trận, và chỉ nhờ sự xuất hiện ngẫu nhiên của loài người mới thoát khỏi tuyệt chủng. Lạc đà là một trong số ít loài động vật có thể thuần hóa được. Một loài động vật phải có đồng thời các đặc điểm tương đối hiếm sau thì con người mới nuôi được: là nguồn thực phẩm hấp dẫn và dinh dưỡng, dễ theo đàn, dễ bảo, không sợ con người, miễn dịch với các bệnh ở người, và quan trọng nhất là khả năng sinh sản trong điều kiện nuôi nhốt. Chỉ một số ít loài vật đáp ứng được tất cả các tiêu chí trên. Dê và cừu là các con vật được thuần hóa đầu tiên, từ khoảng 10.000 năm trước, tiếp đó là gà, lợn, gia súc, và cuối cùng là lạc đà. (Lừa, ngựa, và chó lúc đầu được thuần hóa để dùng trong vận chuyển, săn bắn, và quân sự, nhưng thường ở tận cùng trong chuỗi thức ăn.4
Chúng ta không biết các giống cây và loài vật đã được thuần hóa như thế nào, và lạc đà cũng không ngoại lệ. Nếu căn cứ trên bằng chứng về nhân học, có vẻ như loài người bắt đầu uống sữa lạc đà khoảng 5.000 năm trước ở vùng Sừng châu Phi, hoặc có thể chỉ ngang qua Biển Đỏ ở phía nam Ả-rập. Cho tới ngày nay, người Somalia vẫn không di chuyển bằng lạc đà, vì cho rằng loài vật to lớn, chậm chạp, và vụng về này khiến người cưỡi thành mục tiêu dễ dàng hơn. Ngày nay,
ề ấ ế
khu vực này là nơi tập trung nhiều lạc đà nhất trên thế giới, nhưng chỉ để sử dụng cho mục đích lấy sữa. Dần dà, con người khám phá ra những công dụng khác của loài này: thịt và da của con đực, lông của cả con đực và cái, và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là vận chuyển.
Cho tới khoảng năm 1500 TCN, lừa vẫn là loài vật được lựa chọn cho việc vận chuyển. Về sau, các bộ lạc du mục nuôi lạc đà để vận chuyển hàng khối lượng lớn. Nếu lừa giống một chiếc xe hơi dạng sedan gia đình, có thể vận chuyển hàng nhẹ qua các con đường có bề mặt cứng và bằng phẳng, thì lạc đà là một chiếc Land Rover, với những móng guốc khổng lồ được bít kín giúp chúng mang vác khối lượng hàng gần bằng hai lần ở vận tốc gấp đôi, qua những quãng đường dài của vùng đất hoang vu không lối mòn. Khả năng này đã cách mạng hóa hoạt động thương mại qua những vùng cát ở Trung Đông và thảo nguyên ở châu Á.5
Một người chăn lạc đà đơn lẻ, điều khiển ba tới sáu con, có thể vận chuyển một tới hai tấn hàng đi quãng đường khoảng 30 đến 100 km mỗi ngày. Khi Tiglath-pileser III của người Assyria đánh bại Nữ hoàng Samsi Ả-rập vào khoảng năm 730 TCN, chiến lợi phẩm của ông bao gồm 20.000 gia súc, 5.000 bọc gia vị và 30.000 lạc đà.6
Một thương nhân không thể đơn giản là quăng những túi hàng hóa đầy ắp nặng trĩu qua lưng lạc đà. Bướu lạc đà mềm, không phù hợp cho điều đó và còn lắc lư qua lại, nên nó cần có yên với khung và đệm để phân bố trọng tải hàng đều khắp trên lưng. Khoảng từ năm 1300 TCN đến 100 TCN, các bộ lạc du mục người Ả-rập thời tiền Hồi giáo đã cải tiến yên lạc đà, khiến một con lạc đà thồ trung bình có thể mang hơn 220 kg hàng, và những con khỏe nhất có thể mang tới hơn 450 kg. Chiếc yên lạc đà của Bắc Ả-rập với hình dạng tối ưu đã được liên tục sử dụng ở Trung Đông suốt 2.000 năm qua.
Lạc đà Bactria ở Trung Á được chuyên hóa cao và nuôi dưỡng cẩn trọng cũng như lạc đà ở sa mạc Ả-rập, con người thuần hóa chúng cho mục đích vận chuyển cũng vào khoảng cùng thời gian đó, năm 2500-2000 TCN. Khí hậu mát hơn và ẩm hơn của các thảo nguyên châu Á, Iran, và Ấn Độ phù hợp với loài lạc đà hai bướu. Nhưng trong
khi ở sa mạc Ả-rập, lạc đà một bướu được ghi nhận không chỉ ở khả năng vận chuyển mà còn cả sữa, thịt, lông, thì ở Trung Á lại không như vậy. Ở phần này của thế giới, nền nông nghiệp định canh đã định hình và lan ra rộng khắp. Người Trung Á thấy lông cừu tốt hơn lông lạc đà, sữa và thịt bò phong phú và ngon hơn của lạc đà. Hơn nữa, trâu bò thách thức lạc đà trên những khoảng cách ngắn, đặc biệt trong khí hậu ẩm thì lạc đà khó phát triển mạnh.
Vì thế, khi thời cổ đại dần trôi qua, cả số lượng lẫn phạm vi của loài một bướu được định giá cao hơn đã tăng và bắt đầu chạm tới lãnh thổ của loài Bactria: đầu tiên là ở Syria và Iraq, sau đó là Iran, tiếp đến là Ấn Độ, và cuối cùng là chính Trung Á. Khi hai loài tiếp xúc với nhau, những quy luật lai giống đã làm nên điều kỳ diệu đặc trưng của chúng. Hai loài đủ tương đồng để lai giống, và như vẫn thường xảy ra, thế hệ
ầ
con lai đầu tiên của loài Bactria và loài một bướu (gọi là đời F1) là một loài sở hữu khả năng chịu đựng và sức mạnh phi thường, hoàn toàn phù hợp cho những khoảng cách dài của giao thương đường bộ ở Trung Á. Dọc suốt Con đường Tơ lụa đã bùng nổ nhu cầu đối với loài “siêu lạc đà” lai chéo có khả năng chở tới nửa tấn hàng từ Trung Hoa đến những vùng rìa phía tây châu Á.
Loài lạc đà này có thể lai giống bằng cách dùng một con Bactria đực phục vụ số lượng lớn các con cái một bướu, hoặc ngược lại. Tuy nhiên, người ta sử dụng gần như duy nhất cách ghép đôi một con Bactria đực và một con cái một bướu, nhưng vì một con Bactria đực có thể phục vụ nhiều con cái một bướu, nên cách này trở nên phổ biến hơn nhiều, kể cả ở Tây Á. (Tình huống tương tự xảy ra ở loài động vật thồ dẻo dai ở phía tây với khả năng phục vụ đa mục đích, loài la, thường vô sinh vì là kết quả phối giống giữa ngựa cái và lừa đực, nhưng với lý do khác. Phiên bản F1 “ngược” giữa ngựa đực và lừa cái - loài la hinny - hiếm khi được nhân giống, do khó khăn khi sinh nở vì cơ quan sinh sản của lừa cái nhỏ hơn kích thước của con.)
Tính logic bền vững trong nghề chăn thả vật nuôi cũng đòi hỏi loài lai chéo khỏe mạnh ở thế hệ thứ nhất không được phối với nhau, do thế hệ thứ hai thường bị nhỏ và thoái hóa; tiếng Ả-rập và Thổ Nhĩ Kỳ gọi
thế hệ lai chéo đời thứ hai này bằng những cái tên đều mang nghĩa là “còi cọc.” Vì vậy, lạc đà một bướu và loài lai chéo thống trị gần như toàn bộ châu Phi và châu Á; chỉ ở những vùng núi cao nhất và lạnh nhất thuộc Trung Á, nơi loài lai chéo khỏe mạnh chẳng thể sinh sôi, thì loài Bactria thuần chủng mới ít nhiều xuất hiện.7
Lạc đà được tiếp tục sử dụng rộng rãi từ Morocco tới Ấn Độ, rồi miền Tây Trung Hoa, đã minh chứng cho hiệu quả vận chuyển phi thường của chúng. Thời kỳ hiện đại với những con đường được phủ bề mặt tốt thì kết hợp sử dụng lạc đà-và-xe thậm chí còn hiệu quả hơn. Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc ước tính số lượng lạc đà trên toàn thế giới ngày nay chỉ còn khiêm tốn ở mức 20 triệu (bao gồm 650.000 lạc đà hoang dã ở những vùng xa xôi hẻo lánh của Úc bị dư thừa vì đường ray xe lửa xuất hiện).8
Mặc dù bộ đôi người dắt và lạc đà loại tốt có thể đi được gần 100 km mỗi ngày, nhưng mức thông thường là khoảng 50 km. Với khả năng tích trữ nước “an toàn” của lạc đà là ba ngày, các ốc đảo và điểm nghỉ chân trên sa mạc cần bố trí cách nhau khoảng 160 km; điều này đã hạn chế tính khả thi của các tuyến đường, đặc biệt ở Trung Á. Hơn nữa, vì lạc đà không xoay xở được ở những nơi dốc và hẹp, nên lừa được sử dụng để đi qua các vùng núi trên hành trình châu Á.9
Chúng ta đã bắt gặp một loại hàng hóa, tơ lụa, được vận chuyển qua những khoảng cách xa xôi bằng lạc đà. Nhưng hàng ngàn năm trước khi tơ lụa được mang từ Trung Hoa tới thành Rome bằng lạc đà, hay tàu thuyền, thì một loại hàng hóa quý giá khác cũng đã vượt hàng
ngàn cây số từ sa mạc Ả-rập mênh mông tới những trung tâm văn minh lớn của thế giới cổ đại thuộc vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu.
ề Ả
Thương hiệu và cũng là lời nguyền của bán đảo Ả-rập là khí hậu khô nóng. Một nhánh sông lâu đời hiếm khi chảy qua được vùng sa mạc mênh mông nơi đây. Ở đó chỉ có hình ảnh mờ nhạt của chúng: những thung lũng với sông cạn và ngoằn ngoèo khô nẻ (tương tự những con lạch ở Tây Nam châu Mỹ), mà ngay cả lữ khách dạn dày kinh nghiệm cũng thường chẳng nắm bắt được cho tới khi dòng sông im lìm đó trỗi dậy thành nước lũ trong những trận bão tố cách nhau cả chục năm.
Tuy nhiên, một phần của bán đảo này thời cổ xưa lại được biết tới với tên gọi Arabia Felix - nghĩa đen là “Ả-rập hạnh phúc.” Tên gọi này phản ánh sự phì nhiêu của nơi đây. Nằm ở vùng núi phía tây nam bán đảo, ngày nay là Yemen, khu vực này đón những cơn gió mùa hạ ấm, ẩm và tiếp nhận lượng mưa bình quân 254 mm/năm. Tên của thành phố cảng Aden phía tây nam bắt nguồn từ chữ Eden (địa đàng) trong tiếng Ả-rập, đã mô tả chính xác nơi đây - mảnh đất hiếm hoi mang khí hậu ẩm. (Phần khô hạn còn lại của bán đảo mang tên Arabia Deserta.)
Hương liệu là tên gọi chung cho hương trầm, nhựa thơm, và những chất thơm kỳ lạ hiếm hoi hơn đã được sản xuất hàng nghìn năm nay ở Arabia Felix. Những cư dân Saba và Ma’in đầu tiên cũng như người Somalia phía bên kia Bab el Mandeb đã tiên phong trong lĩnh vực trồng trọt và xuất khẩu chúng.
Trước khi tơ lụa và hồ tiêu đến phương Tây, hương liệu là hàng hóa xa xỉ cao cấp của thế giới cổ đại. Với bất kỳ ai sống ở Ả-rập khoảng năm 1500 TCN, công dụng hiển nhiên nhất của lạc đà mới được thuần chủng là vận chuyển hương liệu phục vụ khách hàng vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu và lòng chảo Địa Trung Hải. Trở về mãi năm 3500 TCN, những quý tộc Ai Cập và Babylon đã được thưởng thức những sản phẩm thơm này. Công trình bằng đá từ năm 2500 TCN ngợi ca hành trình đường biển phục vụ mua bán hương liệu tới vùng đất Punt, nay là Yemen và Somalia. Các nhà buôn có thể đã ra khơi xuôi theo hết chiều dài Biển Đỏ, nhưng như chúng ta đã thấy, nước cạn, cướp biển, và gió ngược đã gây tai họa cho hành trình này. Sẽ là an toàn và chắc chắn hơn nếu đi theo đường bộ về phía bắc dọc theo vùng bờ biển Ả rập của Biển Đỏ, tiếp đó đi về hướng tây qua Sinai.
Vòng đời cây trồng cũng thuận lợi cho hành trình lạc đà. Người trồng thu hoạch chủ yếu vào mùa thu và mùa xuân, không đồng điệu với gió đông để đi đường biển tới Ai Cập hay gió hè để đi đường biển tới Ấn Độ, nhưng trái lại, những đoàn lạc đà lại có thể hoạt động quanh năm. Giá rét của hải trình qua Biển Đỏ, cùng với tính chất thất thường của mùa màng và gió mùa, đã khiến người dân trên bán đảo thuần hóa lạc đà đặc biệt cho mục đích chuyên chở hương liệu.
Hàng hóa mua bán gồm hai loại hơi khác nhau: hương trầm, một loại nhựa được chiết từ cây Boswellia sacra; và nhựa thơm, là dầu thơm lấy từ cây Commiphora myrrha. Cả hai đều là loại cây vỏ có đốm mốc, cao vài mét, sinh trưởng chủ yếu ở địa hình cao phía nam Ả-rập và vùng lân cận phía bắc Somalia.
Hương trầm và nhựa thơm có được vị thế của những mặt hàng xa xỉ cao cấp vì lý do thuộc cả hai khía cạnh thiêng liêng và trần tục. Mặc dù ề
trí tưởng tượng cho phép chúng ta hình dung về hình ảnh và âm thanh của những nền văn minh cổ đại, thì mùi vị của chúng lại vượt khá xa khả năng lĩnh hội thời nay. Trong những thành phố chật chội vệ sinh không đảm bảo, mũi có khả năng phân biệt địa điểm không kém bất cứ tấm bản đồ nào: mùi phân từ ống cống và lò mổ, mùi nước tiểu quanh các tòa nhà chính phủ, đền đài, và nhà hát; hay cuộc tấn công khứu giác bằng những mùi đặc biệt kinh tởm từ xưởng thuộc da, hàng cá, và nghĩa địa.
Sống giữa những mùi hôi thối ấy, nơi mà chỉ những công dân giàu có nhất mới được thường xuyên tắm táp bằng nước sạch và thay quần áo, thì chỉ cần một ít chất có giá trị như nhựa thơm có thể dễ dàng xức lên vùng da cơ thể và giúp giấu đi mùi hôi trong cuộc sống hằng ngày. Các dược sĩ thoải mái dùng nhựa thơm trong thuốc, và nó cũng là lựa chọn hàng đầu để ướp xác trong thế giới cổ đại. Thêm vào đó, hương liệu cũng là mùi thơm của thần ái tình, như từng được chứng thực trong nét quyến rũ của người đàn bà ngoại tình nổi tiếng, hư hỏng, và nguy hiểm xuất hiện trong Kinh Thánh:
“Em đã điểm tô chiếc giường bằng cách phủ lên tấm thảm thêu, với nhiều hình trang trí, bằng vải lanh loại tốt từ Ai Cập.
Em đã xức hương thơm cho chiếc giường bằng nhựa thơm, lô hội, và quế.
Đến đây, để chúng ta đắm chìm trong tình yêu cho tới sáng: để chúng ta an ủi mình bằng tình yêu.
Bởi người chồng đang vắng nhà, anh ấy đã đi một hành trình xa;
Anh ấy đã mang theo một túi tiền, và sẽ về nhà vào ngày đã định.”11
Hương trầm cũng có mùi thơm nhưng mang tính chất thần bí hơn. Chất nhựa này có thể cháy, tạo thành làn khói nhẹ, mỏng mảnh uốn lượn, và dưới con mắt của người cổ đại, sẽ chậm rãi đi tới thiên đường, nơi ấy sự xuất hiện và mùi thơm của nó sẽ làm hài lòng thánh thần. Tại Trung Hoa và Ấn Độ, trong lễ tang phải đốt hương trầm. Ở những nơi thờ cúng của người Do Thái thời kỳ đầu, làn khói mờ ảo đó được xem như tấm mạng che cho chính sự hiện diện của Đấng toàn năng.12
Pliny đã viết rằng, Alexander Đại đế đặc biệt ưa thích đốt nhiều hương liệu ở bàn thờ thánh. Leonides, thầy giáo của Alexander thì phàn nàn rằng “ông ấy sùng bái các thần linh bằng cách ép hương trầm phải nhả khói cuồn cuộn.” Theo Pliny, Alexander sau đó đã chinh phục Ả-rập, và ngay sau đó “ông gửi cho Leonides một tàu đầy hương trầm, với lời nhắn yêu cầu ông ta sùng bái các thần linh không giới hạn.”13
Pliny cũng cho chúng ta một bản mô tả sống động về thương mại hương trầm tại Arabia Felix. Loài cây này tiết ra chất lỏng trơn, có bọt, tập trung ở vỏ. Người trồng rạch trên thân cây, và chất lỏng bắn trên đất hoặc trên những tấm thảm lá cọ, để khô và đông cứng lại. Đây là ầ ế ấ ấ ầ
hương trầm tinh khiết nhất, được ưa chuộng nhất, trong khi phần còn dư đọng trên cây và tiếp xúc lẫn với vỏ cây là sản phẩm loại hai. Tính chính trực của người trồng đã làm Pliny sửng sốt:
“Rừng được chia thành những khu vực xác định, và nhờ sự trung thực của các chủ nhân mà không xảy ra xâm lấn, và dù không có ai canh gác cây sau khi đã rạch lấy nhựa, nhưng chẳng người nào lấy trộm từ hàng xóm của mình.”14
Ngày nay, theo quan sát của Pliny, đàn ông và phụ nữ Ả-rập du mục vẫn thu hoạch trên các cây đã đánh dấu quyền sở hữu. Trước Công nguyên, hương trầm được trồng hạn chế trong vùng sống tự nhiên của nó ở Tây Nam Ả-rập, và dân địa phương chỉ rạch cây vào thời điểm nóng nhất trong năm là tháng Năm, trước khi xuất hiện gió mùa tây nam mát, ẩm. Sau khi để khô trong vài tuần, sản phẩm sau cùng bắt đầu hành trình bằng lạc đà về phương bắc tới các chợ vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu và Địa Trung Hải, hoặc được cất thêm vài tháng cho tới khi không còn những cơn bão khủng khiếp nhất của mùa mưa, để rồi sau đó theo tàu hướng về phía đông tới Ấn Độ. Nhà tự nhiên học người Hy Lạp Theophrastus mô tả những giao dịch của “thương mại im lặng” với độ tin cậy cao là đặc trưng của hoạt động mua bán ban đầu:
“Và khi họ đưa hàng ra, mỗi người xếp hương trầm và nhựa thơm của mình thành đống giống nhau, rồi để đó và trông chừng; ở đống hàng của mình, anh ta đặt một tấm bảng trên đó ghi số lượng hàng, giá bán mỗi đơn vị; rồi khi các nhà buôn tới, họ nhìn vào những tấm bảng, thấy hài lòng với tấm nào, họ định lượng và trả tiền ở chỗ vừa lấy tấm bảng lên, và sau đó tu sĩ đi tới, lấy một phần ba cho thần linh, để phần còn lại vào chỗ cũ, và phần này vẫn ở nguyên đó cho tới khi chủ hàng tới lấy.”15
Hương trầm mới khô, còn dính và dễ vỡ, được bảo quản trong các lồng gỗ; nhựa thơm dễ bay hơi hơn thì vận chuyển trong các dụng cụ bằng da động vật. Qua hàng nghìn năm, hai mặt hàng quý sản xuất ở những vương quốc huyền bí và xa xôi này đã vượt qua một hành trình phức tạp từ góc tây nam bán đảo Ả-rập tới đích cuối cùng ở Babylon, Athens, và kinh đô Memphis của Ai Cập cổ đại. Nhà sử học Nigel Groom viết, “Có thể hình dung bầy lạc đà trong đoàn lữ hành thời cổ đại với những giỏ hương trầm phồng lên ở cả hai bên yên hay nhịp nhàng với những chiếc túi da dê buộc kín bên trong đựng đầy nhựa thơm.16
Pax Romana đã thay đổi mô hình này. Một phần đáng kể trong số chiến lợi phẩm của La Mã được dùng để mua hương liệu. Những người La Mã và Hy Lạp đầu tiên có thể đã xoa dịu thần linh bằng cách hiến tế người, nhưng trong xã hội Hy Lạp cổ và cộng hòa La Mã thuở ban đầu, người ta hiến tế con vật. Trên giá ba chân kế bên bàn thờ hiến tế là acera, trong đó chứa hương trầm.17 Việc đốt chất thơm này đóng vai trò trung tâm trong lễ nghi của người La Mã, được miễn thuế quốc gia, trong khi hầu hết hàng hóa nhập khẩu khác chịu mức thuế 25%. (Cổng vòm Titus của Quảng trường La Mã mô tả hoàng đế mang theo một bụi nhựa thơm cùng đoàn quân chiến thắng diễu hành qua
kinh đô sau khi giành được Jerusalem vào năm 70. Loài cây này tạo ra một trong những thứ chất thơm đắt nhất.)18 Đế chế trở nên thịnh vượng khiến nhu cầu hương liệu tăng lên, và La Mã dần mở rộng phạm vi kiểm soát về phía nam tới Arabia Felix trong suốt thế kỷ 1 và 2, khiến cho cả đường biển và tuyến đường lạc đà an toàn hơn và rẻ hơn.
ầ ề ồ ế
Khi nhu cầu nhiều hơn, người trồng tăng thêm hai vụ mỗi năm, kết quả là sản phẩm tạo ra kém chất lượng hơn sản phẩm của vụ mùa tháng Năm truyền thống. Phạm vi trồng trọt mở rộng về phía đông tới Zufar, tức Oman ngày nay.
Sự mở rộng này tăng thêm khoảng cách khó khăn cho hàng hóa tới thành Rome. Một lượng hương trầm và nhựa thơm của vùng trồng mới đi thẳng từ các cảng Qana và Moscha phía đông Ả-rập tới Berenice ở Biển Đỏ, sau đó là Alexandria. Nhưng hầu hết hương liệu thương mại được vận chuyển bằng lạc đà; vua của Arabia Felix, với mong muốn kiểm soát thị trường có lợi này, đã đảm bảo một lượng lớn hương liệu được vận chuyển bằng đường bộ qua thành phố Shabwah, ở phía đông Arabia Felix.
Pliny đã mô tả cách thức hương liệu sau khi thu gom được mang tới Shabwah, nơi “chỉ có một cổng để ngỏ dành cho hương liệu.” Nếu không sử dụng cổng được chỉ định - dấu hiệu chắc chắn của buôn lậu - sẽ bị trừng phạt bằng cái chết. Đường bộ dường như là độc quyền của chỉ một bộ lạc, có các tu sĩ trông nom quá trình thu hoạch và vận chuyển hương liệu. Tùy từng trường hợp mà Pliny nhận diện bộ lạc đó là Gebanitae hoặc Minaean.
Các tu sĩ ở Shabwah lấy 10% giá trị hàng xem như thuế nhập khẩu. Tiếp theo hương liệu sẽ đi Thomna, kinh đô của đất nước Gebanitae hoặc Minaean, họ sẽ tiếp tục kiểm soát việc buôn bán. Pliny ghi lại hành trình từ Thomna tới Gaza dài khoảng 2.400 km, đi mất 65 ngày, trung bình 37 km/ngày. Trên hành trình, phải chịu thêm các chi phí, trong số đó:
“Một phần hương liệu cố định cũng đưa cho các tu sĩ và thư lại của nhà vua, nhưng ngoài ra, người bảo vệ và tùy tùng, người gác cổng, người hầu cũng có phần của mình; thực sự, họ phải chi trả liên tục trên suốt hành trình, nơi này là cho nước, nơi kia cho cỏ khô, hay phí thuê chỗ nghỉ tại các trạm dừng chân.”19
Lượng hàng mỗi con lạc đà mang trên lưng tới thành Rome phải chịu tổng chi phí mua hàng và vận chuyển khoảng 1.000 denarius, tương đương 2 denarius cho 0,5 kg. Hương trầm cao cấp nhất - xếp hạng dựa trên độ trắng, độ giòn, và khả năng đốt - được bán ở thành Rome với giá khoảng 6 denarius/0,5 kg. Loại thấp cấp nhất có giá khoảng 3 denarius/0,5 kg, ngang với giá tiêu đen. (Denarius là đồng bạc nhỏ nặng 1/8 ounce, tương đương giá một ngày công lao động có tay nghề. Vì thế, 0,5 kg hương trầm tương đương một tuần công lao động có tay nghề; 0,5 kg nhựa thơm tương đương hai tuần.) Để so sánh, loại hương liệu cao cấp nhất, như nhựa thơm từ Palestine, có giá 1.000 denarius/0,5 kg.
Do giá bán thấp nên để kiếm lợi nhuận từ hương trầm thì phải bù bằng số lượng. Khác với các loại hương liệu khác, hương trầm được vận chuyển bằng lạc đà (khoảng 230 kg), vì thế nó là mặt hàng thương mại quan trọng nhất thời kỳ này. Nếu chúng ta sử dụng tính toán của Pliny làm mệnh giá và ước tính tổng chi phí vận chuyển lượng hương liệu bằng lạc đà từ Arabia Felix tới thành Rome vào khoảng 1.000 ổ
denarius, thì ở mức giá bán lẻ bình quân là 5 denarius/0,5 kg, tổng lợi nhuận cho lượng hàng trên có thể đạt 1.500 denarius.
Hương liệu tạo ra của cải cho mọi mắt xích trong chuỗi cung ứng. Sự giàu có này phân bổ cho những người môi giới, những người phục vụ đoàn lữ hành, và bản thân những người dắt lạc đà với khả năng dắt tới sáu con cùng lúc. Chậm chạp đi theo con đường vòng vèo dọc bờ biển phía tây (Biển Đỏ) của bán đảo, các đoàn lữ hành kết nối nguồn cung hương liệu ở Arabia Felix với các khách sộp ở vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu, sau đó là ở Hy Lạp, thành Rome, và Byzantine. Dọc suốt hành trình này, nhiều thị trường lớn phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là tại các thành phố Shabwah, Thomna, và Marib của Sabaean-Gebanite. Một nhóm khác, thành viên các bộ lạc du mục, cũng hưởng lợi bằng cách cưỡng đoạt chuỗi cung ứng hương liệu giá trị này. Hương liệu từ phía tây Ả-rập qua Gaza và Alexandria cập bến Puteoli, trải qua hành trình lên tới khoảng 6.400 km.
Việc xác định chính xác ai kiểm soát hoạt động mua bán này vẫn còn rất mơ hồ, do những khó khăn khi tiến hành nghiên cứu tại Yemen và Ả-rập Saudi ngày nay. Trong gần trọn thế kỷ 20, người phương Tây không được lui tới Marib, thị trấn có vai trò quan trọng của Minaean Gebanite cổ đại. Năm 1951, lãnh tụ Hồi giáo Yemen đã cho phép nhà khảo cổ học lừng danh của Mỹ là Frank Albright tới thăm Marib nhằm giúp giải đáp điều huyền bí này, nhưng đoàn của ông ngay lập tức buộc phải lùi bước trước mũi súng từ những người địa phương không thiện chí. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều văn tự Minaean rời rạc nhưng hấp dẫn ở những nơi xa xôi như Memphis của Ai Cập hay Delos của Hy Lạp, cho thấy sự hiện diện của những cộng đồng buôn bán người Ả-rập cách xa quê nhà hàng nghìn cây số.
Khi việc thuần hóa lạc đà để vận chuyển lan rộng sang phía bắc và phía đông, các trạm nội địa trong truyền thuyết, như Palmyra, Samarkand, và Shiraz (ngày nay lần lượt thuộc Syria, Uzbekistan, và Iran), tràn ngập những thương nhân lạc đà, hướng dẫn viên đoàn lữ hành, và lái buôn từ nhiều quốc gia. Đến lượt mình, mỗi thành phố đều trở nên giàu có và hùng mạnh hơn. Ngày nay, có lẽ những dấu vết thương mại hương liệu hiển thị rõ nét nhất là các đền đài và lăng mộ bằng đá lộng lẫy tại Petra, kinh đô của Nabataea, phía nam Jordan hiện tại.
Vương quốc thần bí của những người thờ Mặt trời này thịnh vượng vào giai đoạn từ năm 300 TCN tới thời kỳ thành Rome sụp đổ, và sự thịnh vượng đó gắn với việc kiểm soát một phần ba con đường hương liệu của Ả-rập về phương bắc. Cũng vậy, bến cuối Địa Trung Hải của hành trình lạc đà tại Gaza cũng phát triển nhờ thương mại. Hương liệu được Alexander chuyển cho Leonides - 15 tấn hương trầm, 3 tấn nhựa thơm - đến từ các kho tại Gaza là do Alexander chiếm đoạt trên đường đi từ Tyre tới Ai Cập vào năm 332 TCN. Cho tới lúc đó, Gaza đã là một nơi lâu đời và giàu có, nằm trên một nấm mồ khổng lồ bị người Assyria bao vây vài lần trong các thế kỷ trước đó.
Khi hương liệu tới Ai Cập, tính cách chân thật dễ dãi của người Arabia Felix đã hoàn toàn biến mất. Một lần nữa, Pliny viết:
ầ
“Mặt khác, bên cạnh Hercules, ở Alexandria, nơi làm hương trầm để bán, sự thận trọng không bao giờ là đủ để đảm bảo an toàn cho các điểm sản xuất. Dấu được đóng lên tạp dề của công nhân, họ phải mang mặt nạ hoặc mạng trùm kín đầu, và trước khi được phép rời khỏi chỗ làm việc, họ phải cởi bỏ hết quần áo của mình.”20
Bởi thế mà việc buôn bán hương liệu cổ đại cũng không khác gì buôn bán cocaine và heroin ngày nay: khá an toàn tại nguồn nông sản thô, nhưng rủi ro cao quanh khu vực thành phẩm và người dùng cuối.
Ở đích cuối là thành Rome, hương liệu sinh lời kém hơn. Cùng với tơ lụa, nhập khẩu hương liệu làm thất thoát bạc của đế chế; Nigel Groom ước tính riêng kinh đô mỗi năm tiêu tốn khoảng 15 triệu denarius cho lượng hương liệu tương đương 10.000 tải trọng-lạc đà. Sẽ không thành vấn đề, miễn là của cải cướp bóc từ nước ngoài tiếp tục cập bến; riêng tài sản của Seneca đã được nhiều người biết đến với con số gần 100 triệu denarius. Nhưng vào thế kỷ 2, khi dừng các cuộc xâm chiếm và người La Mã trở nên phung phí hơn bao giờ hết, dù có thiên về văn hóa hơn là kinh tế thì có lẽ cũng không bị trách cứ khi kết luận rằng sự hùng cường của đế chế đã tan theo làn khói hương liệu.21
Mặc dù hương trầm và nhựa thơm lan tỏa sự thịnh vượng tới các thành phố và thị trấn dọc suốt hành trình của đoàn lữ hành, nhưng có một nơi trong số đó - một ốc đảo nhỏ phía tây Ả-rập nằm trên hành trình từ nơi sản xuất hương liệu tại Yemen đến điểm tiêu thụ xa xôi ở phía tây Địa Trung Hải và vùng Lưỡi liềm Phì nhiêu - lại có thể mê hoặc thế giới văn minh. Nơi đó, thương mại hương liệu là chất xúc tác để Hồi giáo ra đời, với tầm ảnh hưởng về quân sự, tinh thần, và thương mại đã làm thay đổi châu Á, châu Âu, và châu Phi trung cổ. Ngự trị trên dòng chảy thương mại toàn cầu trỗi dậy dọc theo các hành trình đường bộ và đường biển ở châu Á, Hồi giáo đã thống trị đời sống tinh thần cũng như thương mại của châu lục này.
Câu chuyện chiến công của tôn giáo mới này bắt đầu với tổ tiên của người Ả-rập trên sa mạc, họ là những nông dân ít du cư, làm việc trên những ốc đảo khô hạn. Khoảng 3.000-3.500 năm trước đây, họ là những người đầu tiên thuần hóa được lạc đà, cho họ khả năng thách thức vùng sa mạc Ả-rập hoang vu và đáng sợ. Nhưng ngay cả với khả năng di chuyển mới này, vị thế của họ vẫn mong manh, họ co cụm nơi ốc đảo trong những mùa hè chết chóc không một giọt mưa, lang thang quanh sa mạc với dê và lạc đà suốt thời gian còn lại của năm.
Cuộc sinh tồn nay đây mai đó tuyệt vọng này đưa đến cho họ một vị trí xa xôi quý giá về địa lý, tránh được các cuộc xâm lược. Hai cỗ máy lớn săn mồi của phương Tây thời kỳ hậu La Mã, đế quốc Byzantine và Sassanid Ba Tư, đều tìm cách đoạt lại của nhau hào quang quá khứ từ Trajan và Darius; Byzantine nỗ lực giành Lưỡng Hà từ Ba Tư, trong khi Ba Tư hy vọng chiếm lại Syria và Ai Cập từ Byzantine. Kẹt cứng trong cuộc chiến sống còn không dứt, những thế lực này không để tâm nhiều tới những cư dân sa mạc ngoại lai nghèo khổ ở phía nam. Có một ngoại lệ khác biệt với tính chất xa xôi và độc lập của Ả-rập là vùng
ấ ổ
sản xuất hương liệu Arabia Felix phì nhiêu, có gió mùa thổi qua, sau đã trở thành con tốt đen đủi trong phiên bản cổ đại của Cuộc chơi Vĩ đại.
Môi trường khắc nghiệt không có quy luật này của sa mạc đã định hình đời sống kinh tế và tôn giáo của bán đảo Ả-rập, và ghi dấu ấn lên văn hóa của thế giới Hồi giáo cho tới ngày nay. Sống sót ở Ả-rập, với đặc điểm thiếu quyền lực tập trung, đã, và giờ vẫn còn, lệ thuộc hoàn toàn vào nỗ lực cao của gia đình và bộ lạc.
Những khái niệm của phương Tây về tự do cá nhân và các quy tắc pháp luật đơn giản không thể áp dụng được ở sa mạc này. Một cuộc tấn công vào một người của bộ lạc được coi là tấn công vào cả bộ lạc, và trong bối cảnh kẻ sát nhân có thể nhanh chóng và im lìm biến mất, thì việc bị cáo buộc là có tội hay vô tội không thành vấn đề. Toàn thể bộ lạc của kẻ đó phải chịu trách nhiệm cho thar - sự trừng phạt. Kết quả là danh dự và trả thù trở thành cái vòng luẩn quẩn, kéo dài mãi, dường như không có điểm bắt đầu hay kết thúc, điều rất quen thuộc ở Trung Đông hiện nay. Khi sự trợ giúp đầu tiên mà nạn nhân viện tới là họ hàng của mình, chứ không phải cảnh sát hay hệ thống pháp luật độc lập, thì nghèo đói và bất ổn chính trị là kết quả thường thấy.
Ở vùng đất cằn cỗi kiệt cùng như vậy, nguồn thức ăn chính thường là lấy trộm từ lều trại và đoàn lữ hành của các bộ lạc lân cận. Hoạt động mang tính chất quân sự đặc trưng của vùng sa mạc này ghazu - cuộc đột kích sử dụng ngựa (vừa nhanh hơn vừa dễ hơn trong việc điều
khiển phi nước đại so với lạc đà). Phe đi cướp nhanh chóng và khéo léo tiến hành các cuộc tấn công như vậy để tránh gây ra tai họa dẫn đến thar.22 Nhắc lại về tình huống tiến thoái lưỡng nan của giao thương: mua bán, bảo tiêu, hay đột kích. Do không có cơ quan quyền lực nào cao hơn bộ lạc, những người làm ăn luôn chọn đột kích.
Các cư dân sa mạc thời tiền Hồi giáo cầu nguyện nhiều thần linh, và Hồi giáo phù hợp với nhiều đức tin và thực hành tôn giáo của Ả-rập thuở ban đầu. Những người Ả-rập đầu tiên xây dựng thánh đường dành cho nhiều vị thần; linh thiêng nhất là Kaaba ở Mecca, một tảng đá granite lớn mà ở một góc của nó có viên đá đen, có lẽ là một mảnh thiên thạch. Không chắc liệu Kaaba là dành cho al-Llah vị thần chính của Ả-rập, hay cho Hubal một trong các vị thần ở vị thế thấp hơn. Người Trung Đông cổ đại thường thờ cúng những mảnh vỡ từ thiên thạch; Elagabalus vị hoàng đế yêu tơ lụa của La Mã, đã được mô tả trong Lời giới thiệu, là một người Syria vốn bắt đầu sự nghiệp của mình như một tu sĩ đứng đầu một đền thờ chứa dấu tích từ trời ở thị trấn Emesa (nay là Homs thuộc Syria). Lúc trở thành hoàng đế, ông làm người La Mã sợ hết hồn khi mang theo tảng đá và xây dựng một đền thờ khác cho nó ở kinh đô23. (22 năm sau cái chết của Elagabalus, quyền lãnh đạo liên minh các đế chế thuộc về Hoàng đế Philip, một người Ả-rập.)
Tới năm 500, người Ả-rập nơi sa mạc thường xuyên qua lại với người Kitô giáo và người Do Thái. Người Do Thái có lẽ đã di cư về phía nam sau khi Nebuchadnezzar xâm chiếm Jerusalem vào năm 586 TCN và
ế ồ ề ề Ả
thiết lập các đồn điền cọ ở Hejaz. Tương tự, Kitô giáo truyền bá vào Ả rập vừa từ Byzantine ở phía bắc, vừa từ phía nam qua Bab el Mandeb ở Abyssinia theo Kitô giáo Coptic. Người Kitô giáo và người Do Thái thường chế giễu người Ả-rập về đức tin đa thần, về sự thiếu vắng một tín ngưỡng bao quát, và về một kiếp sau. Vì thế, một ý thức tôn giáo ở vị thế thấp hơn đã xuất hiện giữa những cư dân sa mạc, cùng với khao khát dồn nén về một hệ đức tin toàn diện của chính họ.
Chính xác là Mecca đã trở thành trung tâm thương mại sầm uất như thế nào vẫn còn là điều bí ẩn; nó không sản xuất ra thứ gì có giá trị, không phải trung tâm lớn của tiêu dùng hay chính quyền, và ít có ý nghĩa chiến lược. Một số nhà sử học cho rằng lợi thế chính của nó là vị trí; Mecca nằm gần như ở giữa tuyến đường kéo dài hai tháng tới bán đảo Ả-rập từ tận Byzantine ở phía bắc và Yemen của người Abyssinia ở phía nam, nên tương đối an toàn trước những cuộc cướp bóc từ cả hai phía. Tuy nhiên, đây không phải là lý do chính làm nên sự nổi bật của nơi này. Cũng không chắc chắn về vai trò của thương mại hương liệu đối với sự phát triển của thành phố: con đường lữ hành chính có đi qua thị trấn hay không vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi (ngược lại với Medina, gần như chắc chắn con đường hương liệu chính đã qua nơi này).24 Mecca nằm ở một thung lũng khô hạn cằn cỗi, và suốt thời kỳ tiền Hồi giáo đã hoàn toàn lệ thuộc về thực phẩm từ các khu vườn và đất trồng của Taif, cách đó 121 km.25 Theo nghĩa hẹp, có thể xem Mecca như một phiên bản thu nhỏ, khô cằn, đóng kín của Venice tại Ả-rập, nơi mà nguồn cung thực phẩm và nhịp độ cuộc sống thường ngày hòa theo nhịp điệu thương mại, kể cả khi nó có thực sự nằm trên con đường hương liệu chính hay không.
Lý do thực sự khiến Mecca sớm nổi lên ở Ả-rập thời tiền Hồi giáo có thể nằm ở tảng đá Kaaba và một số nơi linh thiêng thờ các thần linh sa mạc khác gần đó. Hằng năm, các tín đồ đi hành hương, được gọi là hajj (sau này chỉ còn người Hồi giáo thực hiện), để tỏ lòng tôn kính, và đi xung quanh tảng đá Kaaba và viên đá đen. Hajj đóng vai trò không nhỏ vào sự thịnh vượng và hùng cường của Mecca.
Cuối thế kỷ 5, bộ lạc Quraish do một tộc trưởng là Qussay dẫn đầu đã từ phương bắc tới đây, chiếm lấy Mecca, và sau đó chống lại những cuộc xâm lấn của cả người Byzantine và Abyssinia. Tiếp đến Qussay thuyết phục Quraish và các bộ lạc lân cận rằng nếu tiến hành giao thương và bảo vệ những đoàn lữ hành thì sẽ thu được lợi nhiều hơn là tấn công họ. Đánh thuế các nhà buôn và bán cho họ sự bảo đảm an toàn hóa ra lại thu được nhiều tiền hơn là cướp đoạt từ cuộc hành trình còm còi và đáng sợ.26 Quraish tiếp tục bình định Mecca với dân số ngày càng tăng, tạo ra của cải, và dần thoát khỏi di sản du mục, công xã dữ dội của mình. Cuộc sống của họ từ đó về sau gắn liền với thương mại, chứ không phải sự tồn tại nhất thời của những ốc đảo và lều trại trên sa mạc.
Khoảng đầu năm 500, Abyssinia cải sang Kitô giáo và trở thành một cường quốc trong khu vực, có mối quan hệ mật thiết với những người đồng đạo của mình ở Byzantine. Người cai trị cuối cùng của một Arabia Felix độc lập, Yusuf Asai điển trai (cũng được biết tới là Dhu
Nuwas và “người đàn ông với những lọn tóc xoăn”), cải sang đạo Do Thái vào đầu thế kỷ 6 và tiếp tục tàn sát, bắt làm nô lệ hàng ngàn người Kitô giáo trong vương quốc của mình. Năm 525, để phản đối những hành động chống Kitô giáo hung bạo của Yusuf Asai, người Abyssinia đã tấn công qua Bab el Mandeb và nhấn chìm quân đội của ông. Người ta cho rằng vị vua trong cơn tuyệt vọng đã cưỡi ngựa lao xuống biển.27
Thất bại của vị vua Do Thái Yemen này và hệ quả của việc người Abyssinia Kitô giáo thống trị Arabia Felix đã khởi động một chuỗi sự kiện mà ảnh hưởng của nó còn vang vọng tới ngày nay. Năm 570, một thống đốc người Abyssinia ở Arabia Felix tên là Abraha nổi dậy chống lại vua của mình và lập ra một đế quốc đối địch trên bán đảo. Là một người Kitô giáo trung thành với quân đội được voi Phi châu chuyển tới qua Bab el Mandeb hậu thuẫn, Abraha đã bị Hoàng đế Justinian của Byzantine xúi giục tấn công Mecca, lúc đó là nơi cuối cùng theo đa thần giáo tại Ả-rập. Tuy nhiên, những con voi bất hạnh, dù là vũ khí khiếp sợ trên hầu hết chiến trường cổ đại, lại không phù hợp với miền cát khô Ả-rập và gục ngã trước bệnh tật hoặc khí hậu khắc nghiệt ngay bên ngoài cổng thành phố. Người Mecca chưa bao giờ trông thấy loài vật này, và xa lạ với những kiến thức sinh vật học và vi trùng học cơ bản nên họ tin rằng có sự can thiệp từ thần thánh. Năm 571 được ghi dấu ở Ả-rập là “Năm của Voi.”28 Cũng năm này xuất hiện Nhà tiên tri Muhammad trong một nhánh nhỏ hơn của Quraish, sự xuất hiện đó mãi về sau vẫn được người Hồi giáo ghi nhớ cùng sự kiện voi huyền thoại. Tất nhiên, ông đã trở thành một nhà buôn.
Nếu Abraha và các đồng minh voi của mình thành công ở Mecca, và Muhammad vẫn được sinh ra, thì có lẽ ông đã trở thành một tu sĩ Kitô giáo. Nhân vật Muhammad trong lịch sử tốt nhất là mang hình tượng mờ ảo: suốt hơn một thế kỷ sau cái chết của Muhammad, vẫn chưa có tài liệu nào viết về cuộc đời ông, và thậm chí vì nhu cầu tư tưởng, những người chép sử ký ban đầu còn xuyên tạc thông tin về Muhammad. Tuy nhiên, những sự thật cơ bản và chắc chắn thì không thể bàn cãi. Mồ côi từ nhỏ, Muhammad được người chú Abu Talib, một nhà buôn giàu có nuôi dưỡng. Dù Muhammad có thể đã dùng những năm tháng đầu đời để quan sát và tham gia vào việc kinh doanh của người chú, thì cũng không có tài liệu trực tiếp nào ghi về những nỗ lực làm ăn thuở ban đầu của ông. Điều xác thực hơn là ở độ tuổi 25, ông làm thuê cho một góa phụ già, bà Khadija, cũng vận hành một hãng buôn phát đạt. Chúng ta không biết chính xác đoàn lữ hành của bà mang theo hàng hóa gì, nhưng chắc chắn trong số đó có chà là, nho khô, đồ da từ Taif lân cận, hương trầm từ Yemen, hàng dệt từ Ai Cập, và còn nhiều nữa.
Là phụ nữ, bà không tháp tùng hàng hóa, vì vậy Muhammad nhanh chóng có được kinh nghiệm ở cương vị đại diện của bà tại Syria. Ấn tượng với năng lực và bị thu hút bởi con người của chàng trai trẻ, bà đề nghị kết hôn, và được chấp nhận; Muhammad trở thành người đàn ông có vị thế và của cải.
ế
Trong các chuyến đi của mình, Muhammad gặp người Do Thái và người Kitô giáo - “người của Kinh Thánh” - và cảm nhận được sức mạnh từ hệ đức tin đầy mê hoặc của họ. Thực tế là cả Do Thái giáo và Kitô giáo đều liên quan tới những cường quốc ngoại lai bị căm ghét, làm cho sức hút của các tôn giáo này bị giới hạn và khiến Muhammad cùng những đồng hương Ả-rập tìm kiếm con đường của riêng mình. Ý thức ham muốn của người Ả-rập đã được khuếch đại với việc thay đổi thái độ trước chủ nghĩa vật chất của nhóm quý tộc thương mại Quraish giàu có mới nổi tại Mecca, thể hiện ở việc quay lưng lại với cách thức hành xử kiểu bộ lạc cổ đại.29 Theo ngôn ngữ của Maxime Rodinson, nhà sử học lỗi lạc phương Tây chuyên về Hồi giáo:
“Phẩm giá truyền thống của những đứa con sa mạc không còn là con đường chắc chắn dẫn tới thành công. Tính tham lam, và khả năng nhận biết cơ hội lớn, lại hữu ích hơn nhiều. Người giàu trở nên kiêu căng hống hách, hãnh diện với thành công như là thành
tích cá nhân - chứ không phải là của cả bộ lạc. Quan hệ huyết thống suy yếu.”30
Sau đó, tới cuối thế kỷ 6, nhiều người Ả-rập bị lay động bởi cặp đôi nhu cầu: tạo ra đặc tính đồng nhất riêng lẻ chống lại hai tôn giáo độc thần có nguồn gốc ngoại quốc kia, phát triển sức mạnh chính trị để chống lại sự giàu có và thối nát của người Quraish. Dưới áp lực kinh tế xã hội hỗn loạn này, duy nhất al-Llah đã nổi lên giữa các vị thần sa mạc, thông qua giọng nói của thiên thần Gabriel mạnh mẽ truyền những đoạn đầu tiên của Kinh Koran tới một Muhammad đang tuyệt vọng trên núi Hira, ngay bên ngoài Mecca, vào năm 610. Đống bùi nhùi khô của nhiệt tình tôn giáo đã được châm lửa, và gần như lập tức bùng thành đám cháy lớn của tinh thần cải đạo và chinh phục, tràn ngập phần lớn châu Á, châu Phi, và châu Âu.
Người Hồi giáo từ lâu đã nhận thấy sự ủng hộ từ Khadija là tối quan trọng cho sứ mệnh tối thượng của Nhà tiên tri: một câu thành ngữ phổ biến của Ả-rập là “Hồi giáo không thể trỗi dậy mà không có thanh kiếm của Ali và sự thịnh vượng của Khadija.” (Ali, anh họ và cũng là con rể của Muhammad, sau cùng trở thành người truyền thừa thứ tư của Nhà tiên tri; vụ ám sát ông đã chia thế giới Hồi giáo thành nhóm thiểu số Shiite và nhóm đa số Sunni, nhóm tin và nhóm không tin vào việc quyền lãnh đạo nên được chuyển giao trực tiếp thông qua dòng dõi của Muhammad là Ali.)
Khác với các tôn giáo khác trên thế giới, Hồi giáo do một nhà buôn lập nên. (Người kế tục gần gũi nhất của Muhammad là nhà buôn vải Abu Bakr, cũng là một người làm thương mại.) Thực tế bất thường đó bao trùm linh hồn của đức tin này và dẫn dắt những sự kiện lịch sử tác động tới các tuyến đường bộ châu Á và các tuyến đường biển Ấn Độ Dương suốt chín thế kỷ tiếp theo. Dấu vết của nó vẫn còn hiện hữu trong thế giới ngày nay, từ những tiểu khu hiện đại của người Ấn theo Hồi giáo ở Đông Phi, tới giới thương gia Lebanon vẫn còn sinh sống ở Tây Phi, đến “những người Syria” tại các tiền đồn của thế giới thứ ba trong tiểu thuyết của Graham Greene.
ấ ồ ắ ầ
Văn bản thiêng liêng nhất của Hồi giáo gắn với tầm quan trọng của thương mại, như trong đoạn trích nổi tiếng này từ Kinh Koran: “Hỡi những kẻ có đức tin! Đừng gian dối cấu xé tài sản của nhau, trừ phi nó được trao đổi bằng sự đồng thuận của hai bên.”31 Tuy nhiên, đoạn quan trọng nhất về buôn bán và giao thương lại xuất hiện trong hadith, tập hợp những câu chuyện về cuộc đời của Muhammad, trong đó đưa ra lời khuyên chung về buôn bán: “Sẽ không nguy hại gì nếu ngươi (buôn bán) vào mùa Hajj” cho tới những chỉ dẫn chi tiết:
“Người mua và người bán có quyền hủy bỏ hoặc xác nhận giao dịch, miễn là họ chưa rời đi hay đến lúc rời đi, và nếu họ nói ra sự thật và nói cho người kia về sai sót của hàng hóa, giao dịch của họ sẽ được ban phước lành, còn nếu họ che giấu điều gì và nói dối, phước lành của giao dịch sẽ mất đi.”32
Một người kể chuyện tên là Jabir bin Abdullah thuật lại việc có người đến gặp Muhammad, đề nghị mua những con lạc đà phiền phức của ông với giá một đồng vàng. Để thể hiện lòng nhân ái, Muhammad sau đó trả lại con lạc đà và cho phép Jabir giữ đồng vàng, để con cháu biết rằng ở thời điểm đó trong cuộc đời, Nhà tiên tri đã rút khỏi thương mại, còn thương mại chưa rút khỏi cuộc đời Nhà tiên tri.33
Chỉ trong vài thập niên, tín ngưỡng mới đã quét từ Mecca tới Medina rồi quay trở lại, tiếp đó đi qua Trung Đông, theo hướng tây tới Tây Ban Nha và theo hướng đông tới Ấn Độ. Ở góc độ thương mại, Hồi giáo thời kỳ đầu có thể xem như bong bóng lạm phát cao của thương mại; những người ngoại đạo đứng ngoài, còn bên trong là sự thống nhất về thể chế và thần học phát triển nhanh chóng. Khuôn khổ cuốn sách này không cho phép kể lại chi tiết câu chuyện truyền bá kinh ngạc của Hồi giáo thời kỳ đầu, nhưng cũng nên lưu ý rằng tốc độ lan truyền chớp nhoáng phần lớn là do xung đột giữa tín ngưỡng mới, trong đó ngăn cấm trộm cắp từ người đồng đạo nhưng không cấm nếu lấy của dân ngoại đạo, với nhu cầu kinh tế của ghazu (tước đoạt). Nhà tiên tri có thể sinh ra là một nhà buôn, nhưng khi chết đi thì lại là một người đi cưỡng đoạt. Chẳng bao lâu sau khi bị trục xuất khỏi Mecca vào năm 622, ông bắt đầu tấn công các đoàn lữ hành của dân ngoại đạo nơi đây. Tôn giáo mới tuyên bố rằng tất cả tài sản của dân ngoại đạo chiến bại đều phải bị tước đoạt, với một phần năm dành cho Allah và umma - quần chúng - phần còn lại để đội quân thắng trận và các chỉ huy chia nhau.34 Nếu người nào tự nguyện cải đạo, thì của cải sẽ không bị tước đoạt. Vì thế, khi có thêm nhiều bộ lạc xa xôi cải đạo, thì lại cần phải đi xa hơn nữa để đột kích những bộ lạc ngoại đạo vẫn còn kháng cự nhằm tìm kiếm thức ăn. Sau cái chết của Nhà tiên tri vào năm 632, quá trình này tiếp tục leo thang khi một số người bại trận còn những người khác bị dẫn dắt đồng thời bởi sức mạnh chính trị, tinh thần, quân sự của tôn giáo mới, và bởi khát khao giữ gìn tài sản, đã nhìn thấy ánh sáng và cải đạo. Cả hai cơ chế - chinh phục hay cải đạo trong hòa bình - đã nhanh chóng kéo biên giới Hồi giáo ra xa, xa mãi khỏi điểm khởi đầu nằm sâu trong bán đảo.
Sáu năm sau, quân đội Ả-rập bị chặn lại bên ngoài Constantinople do một chuỗi các sự kiện bất thường, bao gồm việc lên ngôi của Hoàng
ế ầ ế ế
đế Leo xứ Isauria, bậc thầy chiến lược, và thời tiết mùa đông lạnh khác thường gây ra nguy hiểm chết người với đội quân sinh ra trong điều kiện khí hậu Ả-rập có khâu hậu cần do lạc đà đảm nhiệm. Theo J. J. Saunders, học giả về Hồi giáo, “Nếu [Constantinople] thất thủ, bán đảo Balkan có lẽ đã bị giày xéo, người Ả-rập có lẽ đã đi thuyền theo sông Danube tiến vào trung tâm châu Âu, và Kitô giáo có lẽ đã là tôn giáo ít người biết đến, tồn tại lay lắt trong những cánh rừng ở Đức.”35
Đơn hàng làm ăn đầu tiên của người Ả-rập là cung cấp thực phẩm cho dân chúng mới cải đạo và đói khát ở bán đảo. Từ xa xưa, Ai Cập đã là vựa lúa của Địa Trung Hải, và cuộc chinh phục của Hồi giáo mở rộng nguồn cung này tới các thị trường Ả-rập đang có nhu cầu. Caliphate lúc đầu sử dụng các đoàn lữ hành xuôi theo tuyến đường hương liệu để vận chuyển lương thực, nhưng đế chế Hồi giáo mới nhanh chóng dẹp con kênh cũ ngang mực nước biển nằm giữa sông Nile và Biển Đỏ để thiết lập một hải trình chi phí thấp nối Ả-rập với nguồn cung thực phẩm ở Ai Cập. Cũng như thời hiện đại, các nghiên cứu mang tính chiến lược đã quyết định số phận của phiên bản kênh đào Suez cổ đại này. Lúc đầu, giới cầm quyền quyết định mở rộng con kênh thẳng ra Địa Trung Hải. Theo phương án này thì hành trình sẽ tương tự con kênh ngày nay, nhưng Caliphate Omar (người kế thừa thứ hai của Nhà tiên tri, sau Abu Bakr) không đồng ý vì e ngại Byzantine có thể lợi dụng đường nối Địa Trung Hải và Biển Đỏ để gây trở ngại cho hajj. Cái gì làm no thì cũng có thể gây đói: lương thực đang chảy qua Biển Đỏ vốn trước đây theo phương bắc tới Constantinople. Mất đi nguồn dự trữ thực phẩm thiết yếu này góp phần không nhỏ vào sự suy tàn của Byzantine. Một thế kỷ sau đó, Caliphate Abu Jaffar đã đóng con kênh lần cuối cùng nhằm cắt đường cung lương thực tới các đối thủ Ả-rập.
Tiếp đó, lực lượng Hồi giáo giành quyền kiểm soát phía tây Địa Trung Hải từ Byzantine tại trận đánh của Dhat al-Sawari - trận Masts - năm 655. Vào thuở ban đầu này, người Ả-rập vẫn chưa hình thành hải quân chuyên nghiệp, vì thế tàu thuyền của họ gồm các thủy chủ Kitô giáo Coptic dày dạn kinh nghiệm, những người mà trớ trêu thay, khinh miệt chúa tể Hy Lạp của mình, nhưng lại tiếp tay cho một trong những chiến thắng vĩ đại nhất của Hồi giáo. Trong phút chốc, hải trình giữa Tây phương với Ấn Độ và với Trung Hoa bị bẻ gãy, và cứ như thế cho tới khi Vasco da Gama trở thành người châu Âu đầu tiên vượt qua Ấn Độ Dương sau đó 850 năm.36
Sau chiến thắng tại trận Masts, hải quân Hồi giáo dần mở rộng phạm vi kiểm soát của mình trên Địa Trung Hải. Năm 711, một nô lệ người Berber là Tariq ibn Ziyad được trả tự do đã tổ chức thành công cuộc đột kích táo bạo tại mũi đá phía nam Tây Ban Nha, sau đó nằm dưới sự kiểm soát của người Goths. Chiến thắng nổi tiếng này mở màn cho công cuộc chinh phục toàn bộ Tây Ban Nha chỉ trong ba năm của người Hồi giáo, và được những kẻ xâm lược Umayyad tán dương bằng cách đặt tên cho mũi đá là Jabil Tariq, tức núi Tariq, có tên chính thức sau này là Gilbraltar.
Là một trong những hòn đảo chiến lược ở Địa Trung Hải, Cyprus gần như chiến bại ngay từ đợt càn quét đầu tiên của Ả-rập vào năm 649.
ấ ầ
Crete thất thủ năm 827, Malta năm 870, và Sicily năm 965, phần thưởng lớn nhất của đại dương sau hơn một thế kỷ xung đột. Một thiên niên kỷ mới bắt đầu, mà với những quốc gia Kitô giáo thì nơi người La Mã từng gọi là mare nostrum - biển của chúng ta - giờ đây nhung nhúc tàu thuyền Hồi giáo. Phạm vi chinh phục và thương mại của Hồi giáo tại châu Âu rộng tới mức một lượng lớn đồng tiền Hồi giáo có niên đại từ thế kỷ 9 và 10 đã được tìm thấy tận Trung Âu, Scandinavia (đặc biệt là ở đảo Gotland, ngoài khơi phía tây Thụy Điển), Anh và Iceland.37
Các đế chế Umayyad và Abbasid đầu tiên đã thống trị lần lượt vào trước và sau năm 750. Các đế chế này kiểm soát khu vực rộng lớn hơn cả lãnh địa người La Mã cai trị, và chính sự mở rộng phạm vi chinh phục của họ đã làm cạn kiệt nguồn chiến lợi phẩm tiềm năng, khiến cho thương mại ngày càng đóng vai trò điều tiết những ưu tiên về quân sự. Tây Âu nghèo đói và tụt hậu không thu hút họ như Trung Á, với con đường tơ lụa giàu có. Người Umayyad không trở lại Gaul sau thất bại tại thành phố Poitiers của Pháp vào năm 732, cũng không tích cực phản công cuộc tái chinh phục của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, được bắt đầu vào năm 718 và lên tới đỉnh điểm là trục xuất những người Moor cuối cùng (và cả người Do Thái) năm 1492.
Ngược lại, quân đội Hồi giáo tấn công những vùng xa xôi nhất ở Trung Á hết lần này tới lần khác nhưng không thành công, cho tới khi đánh bại quân nhà Đường ở Trung Hoa tại Talas (Kazakhstan ngày nay) vào năm 751, và khiến cho nơi này của thế giới với những con đường dành cho hành hương và buôn bán sinh lời rơi vào tay người Hồi giáo, và vẫn vậy cho tới ngày nay. Những cuộc chinh phục bất ngờ thường mang lại may mắn không lường trước: thứ quan trọng nhất người Hồi giáo giành được ở Talas không phải đất đai hay tơ lụa, mà là một loại hàng hóa vừa tầm thường vừa cao quý. Trong số các tù nhân Trung Hoa tại Talas có các thợ làm giấy, những người đã nhanh chóng phổ biến ngón nghề tuyệt diệu của mình vào thế giới Hồi giáo, và sau đó là châu Âu, thay đổi mãi mãi văn hóa và tiến trình lịch sử của con người.
Những cuộc chinh phục ban đầu của người Hồi giáo về bản chất đã tái tạo Pax Romana, nhưng thậm chí ở cấp độ cao hơn. Đế chế Umayyad và Abbasid trên thực tế nằm ở những khu vực thương mại tự do rộng lớn trong đó ranh giới và rào cản cũ đã bị xóa bỏ, đặc biệt là dọc theo sông Euphrates, nơi ranh giới giữa phương Đông và phương Tây đã có từ thời xa xưa nhất. Ba con đường lớn tới châu Á - qua Biển Đỏ, vịnh Ba Tư, và Con đường Tơ lụa - đã không còn ở thế cạnh tranh chọn một nữa; thay vào đó, chúng nằm trong hệ thống cung ứng hội nhập toàn cầu, phục vụ tất cả các bên ghi nhận quyền bá chủ của chế độ caliphate.
Trong gần một thiên niên kỷ tiếp theo, các chuyến đi biển Hồi giáo đã kéo theo những cuộc chinh phục và cải đạo. Đáng ngạc nhiên, vào giữa thế kỷ 8, chỉ 100 năm sau cái chết của Nhà tiên tri, hàng nghìn nhà buôn Hồi giáo (khả năng là người Ba Tư) xuất hiện không chỉ ở các cảng ven biển Trung Hoa, mà ở cả những thành phố trong nội địa.38 Ngược lại, những con tàu lớn đầu tiên của Trung Hoa chuyên đi
ể ề Ấ
biển không liều lĩnh vào Ấn Độ Dương cho tới khoảng năm 1000, và Đô đốc thái giám Trịnh Hòa huyền thoại đã không đưa hạm đội đồ sộ của mình tới Sri Lanka và Zanzibar trong 400 năm sau đó.
Tiếng Ả-rập là ngôn ngữ cầu nối giữa đế chế mới với hải quân Hồi giáo làm nhiệm vụ tuần tra các cảng và đường biển từ Gibraltar tới Sri Lanka. Vào thế kỷ 9, các nhà cai trị Hồi giáo ở Trung Á đã thiết lập quan hệ với người Khazar ở Volga, và thông qua họ, kết nối với người Scandinavia; ở phương Đông, quan hệ giữa người Hồi giáo và Trung Hoa phát triển nhanh chóng thông qua Con đường Tơ lụa và các tuyến hàng hải, còn giới nhà buôn Bắc Phi thì cử các đoàn hành hương đi về phía nam qua Sahara. Trong vài thế kỷ sau khi Nhà tiên tri qua đời, những người kế thừa ông đã thu nạp gần như trọn vẹn cái thế giới đã biết vào một khu chợ khổng lồ, trong đó có thể trao đổi vàng, ngà voi, và lông đà điểu Phi châu với lông thú của Scandinavia, hổ phách Baltic, tơ lụa Trung Hoa, hồ tiêu Ấn Độ, và sản phẩm thủ công kim loại của Ba Tư.39 Hơn nữa, người Ả-rập được tiếp thêm sinh lực từ các lần đi chinh phục, đã trải qua cuộc phục hưng văn hóa mở rộng trên nhiều lĩnh vực; những thành tựu vĩ đại nhất kỷ nguyên này về văn hóa, nghệ thuật, toán học, và thiên văn học không xuất hiện ở thành Rome, Constantinople, hay Paris, mà ở Damascus, Baghdad và Cordova.
Pax Islamica
Hòa bình kiểu Hồi giáo
không phải là một phúc lành thuần khiết; ranh giới giữa phương Tây và phương Đông dịch chuyển về phía tây vào Địa Trung Hải, quyền đi lại tự do qua đó đã rơi vào tay người Hồi giáo và Kitô giáo. Theo lời sử gia George Hourani, “Thay vì đường cao tốc, Địa Trung Hải trở thành một ranh giới, một đại dương chiến trận - một sự thay đổi đã tàn phá Alexandria.40 Mặc dù mạng lưới thương mại Hồi giáo sở hữu nhiều tính năng tiên tiến, bao gồm hối phiếu, các tổ chức tín dụng tinh vi, và thị trường tương lai, nhưng không quốc gia Hồi giáo nào từng thiết lập được một thể chế tài chính mang tính nền tảng của thế giới hiện đại: ngân hàng quốc gia hay trung ương.41
Nhưng điều này nằm ngoài chủ đề chính. Trong vài thế kỷ sau khi thành Rome sụp đổ, những mảnh vỡ của đế chế cũ trong tình trạng bị quên lãng, giống như ao tù của thương mại thế giới, không biết gì về các cuộc cách mạng thương mại và công nghệ diễn ra ở Trung Đông, Ấn Độ, và đặc biệt ở Trung Hoa. Ngay cả khi như vậy, ngành đóng tàu Địa Trung Hải vẫn thu lời khi đưa ra loại buồm tam giác Ả-rập, giúp các con thuyền trở hướng để đón gió, một kỳ tích mà loại buồm vuông buộc dây của phương Tây cổ xưa không thể làm được.
Vùng đất Pax Islamica này được hoàn toàn thừa nhận cho tới thế kỷ 11, khi một quốc gia theo Kitô giáo trỗi dậy giành lại những lãnh thổ trọng yếu ở Tây Ban Nha, Sicily, và Malta. Được khuyến khích bởi những thành quả này, năm 1095 Giáo hoàng Urban II đã triệu tập Cộng đồng Clermont và phát động Thập tự chinh Thứ nhất, tạm thời giành lại vùng Đất Thánh.
ế ố ế ằ
Trong thế kỷ 12, Saladin nối tiếp cuộc chinh phục Fatimid bằng việc loại bỏ quân thập tự chinh khỏi Jerusalem (mặc dù ông đã rất hài lòng khi giao thương với các kẻ thù Kitô giáo) và củng cố sức mạnh Hồi giáo ở Trung Đông. Những chiến thắng của Saladin làm nên thành tựu lớn nhất của Hồi giáo. Tiếp đó là một loạt các biến cố mang tính phá hoại: các cuộc xâm lược của Mông Cổ vào thế kỷ 13, dịch bệnh vào thế kỷ 14, các chuyến thâm nhập của Vasco da Gama vào Ấn Độ Dương trong thế kỷ 15 và 16.
Mặc cho sự suy tàn kéo dài của Hồi giáo, các nhà buôn Hồi giáo đã thống trị thương mại đường dài tới thế kỷ 16, và còn tiếp diễn tới đầu thời kỳ hiện đại tại nhiều khu vực.
4.
CON ĐƯỜNG TỐC HÀNH
BAGHDAD-QUẢNG CHÂU: CHÂU Á VỚI 5 DIRHAM MỖI NGÀY
Khi thế kỷ 13 tới hồi kết thúc, hai đế chế hàng hải lớn ở Địa Trung Hải là Genoa và Venice tấn công lẫn nhau trong cuộc chiến sống còn giành các tuyến đường thương mại. Khoảng năm 1292, tại một nhà tù ẩm ướt của
Genoa, một chỉ huy hải quân Venice giết thì giờ trong nhiều ngày và nhiều tuần bằng cách kể lại ký sự đời mình cho bạn tù tên là Rustichello, một tác giả nổi tiếng và khiêm nhường của thành Pisa.
Những gì mà người tù này, bị giam giữ trên đảo Curzola của Dalmatia, kể với người bạn mới của mình nghe thật hoang đường! Trong ít nhất một thế kỷ trước khi anh ta bị tù, gia đình anh ta đã giàu có nhờ buôn bán với phương Đông, nắm giữ một cửa hàng chất đầy gia vị và tơ lụa ở khu người Venice của Constantinople, trung tâm thương mại lớn thời đó. Venice trở nên giàu có không chỉ nhờ các mặt hàng hiếm có của phương Đông, mà còn nhờ dòng người hành hương và thập tự chinh đến và về từ Đất Thánh.
Mặc dù người tù Venice hiểu biết về phương Đông, nhưng anh ta cũng không phải là người tiên phong. Trong nhiều thế kỷ, các nhà buôn, sứ thần, và nhà truyền giáo của châu Âu đã mạo hiểm vượt qua Con đường Tơ lụa để kiếm tìm của cải, quyền lực, và cải đạo. Thực tế, khoảng 40 năm trước, ngay sau khi anh ta ra đời, cha và chú của anh ta đã xóa sổ cơ sở của họ ở Constantinople, bắt đầu cuộc phiêu lưu vào sâu Trung Á do người Mông Cổ kiểm soát, cuối cùng họ bị kẹt giữa các bộ lạc đang chiến tranh tại thị trấn thương mại Bukhara (Uzbekistan ngày nay), ở đó họ gặp sứ giả của Húc Liệt Ngột (Hulagu), Hãn vương Trung Á; bị mê hoặc bởi miệng lưỡi những người anh em từ Ý, phái viên của Hãn vương đã mời họ tới phương Đông. Hai nhà buôn tinh ranh không cần phải được mời tới lần thứ hai cho chuyến tham quan vùng đất của tơ lụa và gia vị.
Khoảng năm 1265, hai anh em đến cung điện của Đại hãn Hốt Tất Liệt, là anh trai Húc Liệt Ngột tại Trung Hoa, họ ở lại đây hơn năm năm rồi trở về Venice với lá thư của Hốt Tất Liệt gửi Giáo hoàng Clement IV. Có vẻ như Đại hãn tò mò và ủng hộ Kitô giáo này cần một 100 nhà truyền giáo Kitô tới dạy cho người Trung Hoa về đức tin mạnh mẽ đó của phương Tây. Tuy nhiên, khi những người Venice trở về nhà vào năm 1269, Giáo hoàng Clement IV đã qua đời, hai anh em Maffeo và Niccolò Polo đành phải chờ tới khi tân giáo hoàng cấp cho họ các giáo sĩ theo yêu cầu của Hốt Tất Liệt. Trong khi họ đang tìm vận may ở Trung Hoa, vợ của Niccolò đã qua đời, để lại cho ông chăm sóc cậu con trai 15 tuổi Marco, đã trưởng thành từ một đứa bé ngày nào còn chập chững.1
Bản gốc của cuốn The Travels of Marco Polo (Marco Polo du ký), được Rustichello dựng lại dựa theo ký ức của Marco Polo và những ghi chép về Venice, có thể nói là văn bản đầu tiên viết bằng tiếng Pháp mà sau đó là ngôn ngữ chung của châu Âu. Những câu chuyện lạ lùng - về vùng đất nơi bò là thiêng liêng, góa phụ tự lao mình vào giàn thiêu xác chồng, những
ắ ằ ố ắ
người đàn ông trẻ bị bắt cóc, bị mê hoặc bằng thuốc hasit, bị đắm chìm với nữ sắc và cuộc sống xa hoa, được huấn luyện thành sát thủ (tất cả những điều này xảy ra ở Ấn Độ); về nơi mà mặt đất chảy ra đầy những chất nhớt
dính có thể đốt cháy (các mỏ dầu ở Lưỡng Hà); về nơi rất xa ở phương bắc có Mặt trời, không bao giờ lặn vào mùa hè và chẳng bao giờ mọc vào mùa đông - gây ấn tượng với người châu Âu như là sản phẩm của một trí tưởng tượng thái quá. Trên thực tế, mức độ chính xác của Travels lại rất đáng lưu
tâm, bao gồm các mô tả mà Polo có được một cách gián tiếp và gián tiếp của gián tiếp về những nơi anh ta đã không đặt chân đến, như Burma, Siberia, Java, và thậm chí Quần đảo Gia vị huyền bí hơn.
Mặc dù gia đình làm chủ một hãng buôn có tiếng, và dù Travels đã cung cấp những thông tin quan trọng về phong tục, hàng hóa, trang phục, và tập quán nước ngoài, nhưng Marco Polo không để lại cho hậu thế nhiều chi tiết hữu ích về đặc điểm của thương mại đường dài trung cổ. Có lẽ việc thiếu dữ liệu định lượng trong tác phẩm là do Rustichello, một tác giả dày dạn kinh nghiệm, có xu hướng trực cảm rằng độc giả văn chương trung cổ quan tâm tới những người vợ tự thiêu theo chồng hay các thành phố có chu vi hàng cây số, hơn là giá hồ tiêu hay độ chính xác khi ra khơi mùa mưa.2
Nhờ sự ổn định do Pax Romana mang lại và việc nhà Hán khuyến khích thương mại đường dài một cách gián tiếp ở mức độ cao giữa La Mã và Trung Hoa vào thế kỷ 1 và 2, nên thế lực của các đế chế Hồi giáo thời kỳ đầu và nhà Đường đã thúc đẩy giao dịch trực tiếp ở mức cao giữa các vùng đất của triều đại caliphate với Trung Hoa suốt thế kỷ 7 tới thế kỷ 9. Những dữ liệu Trung Hoa cho thấy có thể người Hồi giáo đã đến Quảng Châu vào năm 620, tròn 12 năm trước cái chết của Nhà tiên tri.3
Trước khi người Trung Hoa phát minh ra la bàn, vào khoảng thế kỷ 12, thủy thủ đi biển dựa trên quan sát thiên văn; sương mù và trời đầy mây thường cũng nguy hiểm như những cơn bão khủng khiếp nhất; Mặc dù các thủy thủ từ thời Hy Lạp đã biết cách đo vĩ độ, nhưng mãi tới thế kỷ 18 thì mới có thể đo chính xác kinh độ.
ế ổ
Sự khiếp sợ là bạn đường chung thủy nơi xa khơi của các thủy thủ trung cổ. Như hồi ức sống động của một lữ khách Trung Hoa vào thế kỷ 5, đã trải qua hành trình tới Ấn Độ và trở về:
“Đại dương mở ra vô hạn. Ở phía tây không biết đâu là đông; chỉ bằng cách quan sát Mặt trời, Mặt trăng, và những ngôi sao để đi về phía trước. Nếu trời tối và có mưa, thuyền đi về phía trước theo kiểu được gió mang đi chứ không có hành trình xác định nào. Trong đêm tối, chỉ có thể thấy những con sóng, lớp này gối lên lớp trước, chói sáng như lửa… Các nhà buôn đầy khiếp sợ, không biết mình đang đi về đâu. Biển sâu đến vô cùng, và chẳng có nơi nào để họ có thể thả neo.”4
Ngay từ thế kỷ 7, người Trung Hoa đã được thấy nhiều nhà buôn Trung Đông, đủ để phân biệt trong số những người Hồi giáo tràn vào các cảng thì đâu là người “Po-ssi” hay người Ba Tư với truyền thống đi biển lâu đời vì dựa vào vịnh, đâu là người “Ta-Shih” hay người Ả-rập ít hơn hẳn và quen ở sâu trong đất liền. Người Trung Hoa cũng phân biệt rõ ràng thế giới Hồi giáo từ vùng đất mang nhiều bí ẩn xa về phía tây mang tên “Fu-lin” - Đế quốc Byzantine - được biết đến nhờ các loại đá quý và thủy tinh kỳ diệu.5 Tới năm 758, người Hồi giáo ở Quảng Châu đông tới mức họ có thể tấn công và thiêu rụi thành phố, rồi mang chiến lợi phẩm tẩu thoát ra biển.6
Người Hồi giáo, đặc biệt là người Ba Tư, hiểu về Trung Hoa nhiều hơn những gì người Trung Hoa biết về họ. Trong khi sự tồn tại của giao thương giữa Ba Tư tiền Hồi giáo với Trung Hoa vẫn còn gây tranh cãi, thì có thể chắc chắn rằng không lâu sau khi quân đội Hồi giáo đánh bại người Sassanid Ba Tư ở trận Ctesiphon (ngay phía nam Baghdad ngày nay) vào năm 636, các con tàu Ả-rập và Ba Tư đã đi thẳng tới các cảng của Trung Hoa. Hệ thống thương mại thế giới Hồi giáo dưới triều đại Khalifah đã được mô tả rõ ràng trong một tài liệu của Trung Hoa từ năm 727:
“Người Po-ssi có thiên hướng tự nhiên về buôn bán, họ có thói quen lái những con tàu lớn trên biển [Địa Trung Hải], và họ đi vào Ấn Độ Dương tới Ceylon [Sri Lanka], lấy các loại đá quý ở đó… Họ cũng tới đất nước K’un-lun [có lẽ là châu Phi] để tìm vàng. Họ cũng lái những con tàu lớn
tới Trung Hoa, thẳng tới Quảng Châu vì tơ lụa và những mặt hàng tương tự. Họ thích giết gia súc; phụng sự Thượng đế [Allah] và không biết gì về Phật giáo.”7
Người “Po-ssi” thiết lập các khu kiều dân thương mại dọc khắp bờ biển Trung Hoa - tập hợp đông đảo các nhà buôn Hồi giáo vận hành hoạt động xuất nhập khẩu với khối lượng giao dịch ngày càng tăng. Người Do Thái đã đồng hành hoặc theo sau dấu chân của họ. Gần như đồng thời, những người theo Kitô giáo Nestor, vốn đã bị trục xuất khỏi Đế quốc Byzantine bởi dị giáo của họ nhưng lại được khoan dung trong thế giới Hồi giáo vì là “người của Kinh Thánh”, bắt đầu tới từ phương Tây bằng đường bộ. Thật dễ hiểu vì sao nhánh Kitô giáo tách ra đã lan tỏa về phương Đông khi đối mặt với sự chối bỏ của Giáo hội Thiên Chúa giáo bất khoan dung man rợ và bị thu hút bởi lòng độ lượng tương đối của Hồi giáo.
Quan hệ giữa phương Đông và phương Tây củng cố thêm chiến thắng của Abbasid trước Umayyad vào năm 750; khiến trung tâm Hồi giáo chuyển dịch từ kinh đô Damascus sâu trong nội địa tới thành phố Baghdad ven sông có khả năng kết nối dễ dàng tới vùng Vịnh. Một lãnh đạo Abbasid phải thốt lên, “Đây là Tigris; không có gì ngăn cản giữa chúng ta và Trung Hoa; từ đây mọi thứ trên biển có thể đến với chúng ta qua đường này.”8
ấ ố
Ghi chép thời cận đại có rất ít thống kê liên quan tới thương mại, ánh sáng của lịch sử soi rọi thương mại giữa Trung Hoa và thế giới Hồi giáo chỉ xuất hiện với các bản thảo viết tay rời rạc. Một trong các tài liệu nổi tiếng nhất là
Akhbar Al-Sin wal-Hind bằng tiếng Ả-rập - “Một mô tả về Trung Hoa và Ấn Độ.” Vài lái buôn Ả-rập, đặc biệt một người có tên Sulayman, được cho là đã biên soạn tài liệu này vào giữa thế kỷ 9, đưa người đọc vào chuyến hành trình cuốn theo gió từ Baghdad tới Quảng Châu, dự báo điều kỳ diệu và phiêu lưu xuất hiện hơn 400 năm sau trong The Travels of Marco Polo.
Akhbar mô tả cảnh bốc hàng lên tàu ở Basra và tại Siraf, cảng nước sâu thuộc vịnh Ba Tư, tiếp đó là chuyến đi do gió mùa dẫn lối, kéo dài một tháng từ Oman ngay bên ngoài Hormuz, tới bờ biển Malabar của Ấn Độ, tại đây giới chức địa phương thu thuế mỗi tàu khoảng 10 tới 30 dinar (xấp xỉ 800- 2.400 đô la Mỹ ngày nay). Các con tàu Ba Tư sau đó lại giương buồm trên hành trình dài một tháng qua vịnh Bengal, được tiếp tế giữa đường ở quần đảo Andaman:
“Thổ dân là những kẻ ăn thịt người. Họ có màu da đen với tóc xoăn, gương mặt và đôi mắt dữ tợn, chân dài. Họ ở truồng, dương vật dài gần một cubit [50 cm]… Đôi khi thổ dân bắt giữ vài thủy thủ nhưng họ trốn được.”9
Các nhà buôn cập bến Đông Nam Á ở bờ biển Kedah, phía bắc Penang của Malaysia ngày nay, ở đó họ có thể lựa chọn giữa việc tiếp tục đi về phía nam quanh eo biển Malacca hay qua đoạn thắt hẹp của bán đảo Mã Lai. Hành trình từ Kedah qua Malacca tới Đông Dương mất khoảng 20 ngày; từ Đông Dương tới Quảng Châu mất thêm một tháng nữa. Dù Akhbar cho thấy toàn bộ hành trình từ Basra tới Quảng Châu chỉ mất khoảng bốn tháng đi đường biển, nhưng nhịp điệu gió mùa cũng như các trở ngại hành chính trên đường có thể kéo dài thời gian tới cả năm.
Do các nhà buôn và thuyền trưởng chuộng nương theo gió mùa cho hành trình về và đi từ cảng quê nhà với tần suất một lần mỗi năm, nên các thuyền và thủy thủ đoàn riêng lẻ có xu hướng chỉ quen đi trên một hành trình năm này qua năm khác (nếu họ đủ may mắn để sống sót qua nhiều hành trình). Ví dụ, một nhà buôn Gujarati, thường chất lên thuyền mình vải bông loại tốt và thuốc nhuộm chàm của quê nhà, đi theo gió mùa hè tới Malacca, đổi hàng lấy tơ lụa, gia vị, đồ sứ, rồi trở về theo gió mùa đông. Hoặc anh ta có thể đi đường biển về phía tây vào mùa đông và trở về vào mùa hè từ Aden với ngựa và hương liệu, hoặc tới Malindi ở bờ biển Đông Phi rồi trở về với vàng và nô lệ. Do đặc điểm của gió mùa và việc phải trở về quê nhà, nên hàng hóa vượt qua toàn bộ hành trình Baghdad-Quảng Châu phải đi qua ít nhất ba vùng biển khác nhau.
Trong Akhbar, người Trung Hoa tìm kiếm từ những nhà buôn Ả-rập và Ba Tư đồng, ngà, hương liệu, mai rùa, trong khi ở Quảng Châu người Hồi giáo mang về vàng, ngọc trai, và đương nhiên là cả tơ lụa và gấm. Quá trình trao đổi rất chật vật và thường do một cơ quan chính phủ độc quyền điều hành; người Trung Hoa giữ hàng hóa mang tới từ Baghdad trong các kho ở Quảng Châu trong sáu tháng cho tới khi “đoàn thủy thủ tiếp theo xuất hiện.” Thuế nhập khẩu là 30% hàng hóa, và sau đó, “Bất kể thứ gì mà chính quyền muốn lấy, [họ] sẽ mua ở mức giá cao nhất và thanh toán ngay lập tức, trong giao dịch cũng không có điều gì bất chính.”10
Akhbar đã tạo cú hích cho trào lưu viết du ký Trung Hoa của phương Tây mang giá trị lịch sử cao, về sau lan rộng nhờ Marco Polo, Ibn Battuta, và
ề ầ ế ắ ắ
nhiều nhà lữ hành sau đó. Hầu hết các tác giả vô danh của Akhbar thắc mắc về phạm vi và độ phức tạp của Thiên Quốc, [Nguyên văn: Celestial Empire. Theo một số tài liệu, đó là tên gọi Trung Hoa do Càn Long nhà Thanh tự xưng, hàm ý Trung Hoa là đế chế của Trời.] với hơn 200 thành phố lớn, có phong cách sống lạ lùng, và những thể chế cấp tiến: “Tất cả người Trung Hoa, dù giàu hay nghèo, già hay trẻ, đều học thư pháp và nghệ thuật viết.” Ngày nay những ai quan tâm tới tranh cãi về an sinh xã hội có lẽ nên xem xét mô tả trong Akhbar về hệ thống thuế và trợ cấp dưỡng lão của Trung Hoa:
“[Thuế] được thu theo đầu người dựa trên sở hữu của người đó đối với của cải và đất đai. Bất kể đứa trẻ nào được sinh ra đều phải đăng ký khai sinh với chính quyền. Khi đứa trẻ được 8 tuổi sẽ phải đóng thuế thân cho đến 80 tuổi, sau đó sẽ được nhận [trợ cấp] từ ngân quỹ. Họ nói, “Chúng tôi lấy của anh ta khi anh ta còn trẻ, và trả lương cho anh ta khi anh ta về già.”11
Không phải thứ gì của người Trung Hoa cũng làm hài lòng sự nhạy cảm của người Hồi giáo ngoan đạo. Đặc biệt là sự khó chịu với chế độ ăn có nhiều thịt lợn và sử dụng giấy vệ sinh, cả hai đều vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc vệ sinh của Hồi giáo. Sau cùng, người Hồi giáo ghi lại về thứ đồ uống kỳ dị nhất:
“Một trong các nguồn lợi tức quan trọng của nhà vua là… một loại thảo dược được trộn lẫn với nước nóng rồi uống. Thứ đồ uống này được bán ở mọi thị trấn với mức giá rất cao. Nó được gọi là al-sakh.”
Đây là loại cây rậm rạp hơn cả cỏ ba lá xanh với hương thơm hơi đậm hơn, và có vị chua. Họ đun nước và rắc lá này vào. Đó là phương thuốc chữa bách bệnh của họ.12
Thứ người phương Tây nhắc đến chính là trà, mặt hàng mà gần nghìn năm sau đã tạo lập nên đế chế thương mại của mình và làm tăng gấp bội nhu cầu của thế giới đối với đường mía, nô lệ, và đồ sứ.
Khoảng một thế kỷ sau khi Akhbar được viết, một thuyền trưởng Ba Tư là Burzug Ibn Shahriyar đã ghi lại 123 truyện ngắn, dựa trên trải nghiệm của bản thân hoặc do các thủy thủ và nhà buôn kể lại. Cuốn sách mang tên The Book of the Marvels of India (Những dị nhân Ấn Độ) kể về những người hung bạo và khổng lồ ăn thịt người không có thật, với phong cách hiện thực huyền ảo Nam Mỹ; thậm chí còn xuất hiện hòn đảo của phụ nữ chuyên tấn công đàn ông bị đắm tàu:
“cả nghìn đàn bà hoặc nhiều hơn, tới chỗ từng người đàn ông, mang họ đi về phía những dãy núi và buộc họ trở thành công cụ tiêu khiển cho mình… Hết người này tới người khác, những người đàn ông gục ngã và chết vì kiệt quệ hoàn toàn.”13
Tuy nhiên, trong những câu chuyện kỳ dị đó rải rác nhiều đoạn ngắn soi rọi bản chất thương mại trung cổ trên Ấn Độ Dương. Cuốn sách chỉ rõ về nỗi sợ hãi đắm tàu bao phủ cả dân buôn và thủy thủ; gần như câu chuyện nào cũng liên quan tới ít nhất là một con tàu đắm. Hành trình tới Trung Hoa nhiều hiểm nguy tới mức tác giả đã sửng sốt với chuyện một thuyền trưởng đã trải qua bảy chuyến đi:
“Trước ông ta, chưa ai vượt qua hành trình này mà không bị tai nạn. Đến được Trung Hoa mà không bỏ mạng trên đường - chỉ riêng việc ấy thôi đã được xem như chiến công hiển hách; nhưng lại có thể trở về an toàn và khỏe mạnh, thì là điều chưa từng có.”14
Chỉ có thể là hứa hẹn về của cải vô cùng lớn mới khiến những con người đó chấp nhận rủi ro tới mức gần như chắc chắn gặp thảm họa. Marvels nhắc tới Ishaq, một nhà buôn Do Thái và là chủ một con tàu, đã chất đầy 1 triệu dinar xạ hương, cùng tơ lụa và đồ sứ có giá trị tương đương, với cả trang sức và
đá quý cũng nhiều như vậy, chưa kể vô số những thứ kỳ diệu khác được làm từ tài nghệ của người Trung Hoa.15
Marvels tiếp tục mô tả món quà Ishaq tặng người bạn Hồi giáo, một chiếc hũ sứ màu đen với nắp bằng vàng. Khi người bạn hỏi trong đó có gì, Ishaq trả lời, “là món sekbadj [cá] tôi đã nấu cho anh tại Trung Hoa.” Người bạn nói rằng đã hai năm rồi, món ăn ngon lành đó chắc hẳn đã hỏng. Đến khi mở hũ, anh ta thấy trong đó “một con cá bằng vàng, với cặp mắt bằng đá hồng ngọc, được ủ bằng xạ hương cao cấp nhất. Giá trị chiếc hũ vào khoảng 50.000 dinar.” Cuối cùng, Ishaq bị những người Hồi giáo láng giềng lừa hết gia tài, rồi bị một thống đốc Sudan sát hại sau lần hối lộ không được như mong muốn.16
Câu chuyện dài nhất trong Marvels mô tả đau xót về hai đặc tính khác của thương mại Ấn Độ Dương thời trung cổ: lĩnh vực mua bán nô lệ lợi nhuận cao vô lương tâm, không cần e dè; và sức mạnh của người Hồi giáo trong việc gắn kết người Trung Hoa, Ả-rập, Ba Tư, Ấn Độ vào hệ thống thương
mại với tập quán và luật lệ được tất cả từ Baghdad tới Quảng Châu am tường.
Như thường lệ, câu chuyện bắt đầu với một vụ đắm tàu, lần này là ở ngoài bờ biển Đông Phi. Vốn khiếp sợ thổ dân ăn thịt người, các nhà buôn bị bỏ lại trên đảo hoang đã ngạc nhiên đầy thích thú khi được vị vua địa phương đưa về và đối xử tử tế, thậm chí còn cho phép họ tiến hành mua bán, “và đó là thương vụ tuyệt vời với chúng tôi, không bị hạn chế, không phải trả thuế?” Sau khi hoàn thành giao dịch, vua cùng các tùy tùng đưa họ ra con tàu mới sửa xong. Khi các nhà buôn chuẩn bị khởi hành, người kể chuyện liền tính toán về giá trị của các vị chủ nhà này trên thị trường nô lệ:
“Vị vua trẻ đó sẽ mang về ít nhất 30 dinar ở thị trường Oman, và đám hầu cận của gã đáng giá 160 dinar. Quần áo của chúng trị giá thấp nhất 20 dinar. Tổng cộng, chúng tôi có thể thu về lợi nhuận không dưới 3.000 dirham, mà chẳng phải động đậy một ngón tay.”17
Vậy là họ lên đường cùng với các tù nhân. Vị vua cố gắng làm các nhà buôn hổ thẹn bằng cách nhắc tới sự đối xử tử tế mà mình đã dành cho họ, nhưng mọi lý lẽ đều bị bỏ ngoài tai. Dọc đường, hơn 200 nô lệ nữa được đưa lên thuyền như hàng hóa; tất cả, bao gồm vua và đoàn tùy tùng, bị bán làm nô lệ ở Oman như đã định.
Nhiều năm trôi qua, số phận run rủi, người kể chuyện một lần nữa lại bị đắm tàu ở đúng nơi ngoài bờ biển Đông Phi năm nào. Tệ hơn, anh ta thấy chính vị vua bị anh ta bán làm nô lệ cách đây đã lâu đang tiếp đón mình. Nhìn chăm chăm vào đôi mắt đáng sợ của công lý mà vị vua được quyền thực thi, nhà buôn đã kinh ngạc khi vị vua điềm tĩnh và lịch sự kể lại chuyện người mua ông ở Oman đã mang ông tới Basra và Baghdad, tại đó nô lệ-vua đã cải sang Hồi giáo. Chẳng bao lâu sau khi tới Baghdad, ông trốn thoát, và sau
một loạt những cuộc phiêu lưu dựng tóc gáy ở Cairo, trên sông Nile, và giữa rừng rậm Phi châu, ông trở về được vương quốc cũ của mình, nơi đây cũng đã cải sang Hồi giáo khi ông vắng mặt.
Quan sát các tập quán và luật lệ thương mại Hồi giáo mang lại lợi ích cho quốc gia thương mại này đã khiến vị vua đối xử tử tế với tay lái buôn phản trắc. Như vị vua đã nói, “người Hồi giáo sẽ biết rằng họ có thể đến với chúng tôi như những người anh em, bởi chúng tôi cũng là người theo Hồi giáo.” Vị vua than thở về khao khát cháy bỏng nhất là trả lại tiền cho người chủ cũ ở Baghdad, “gấp chục lần số tiền ông ấy đã phải trả, coi như đền bù cho chậm trễ.” Không may là ước nguyện này bất thành, bởi đó vốn là công việc dành cho ai đó trung thực - mà người kể chuyện rõ ràng không phải kiểu như vậy.18
Làn sóng thương mại trực tiếp đầu tiên này tập trung ở Trung Hoa, như được mô tả rõ ràng trong Akhbar và Marvels, sau đó thì sụp đổ khi nhà Đường ngày càng bất ổn vào thế kỷ 9. Trong tình cảnh khó khăn quen thuộc như với người Trung Hoa ngày nay ở Indonesia, người Ấn ở Đông Phi, và người Do Thái gần như ở mọi nơi, các khu kiều dân thương mại ven biển Trung Hoa dĩ nhiên phải giơ đầu chịu báng trong những thời khắc khốn khó.
Ngay từ năm 840, Hoàng đế Vũ Tông đã tìm cách đổ lỗi cho những hệ tư tưởng ngoại lai đối với tình cảnh của Trung Hoa. Năm 878, phiến quân Hoàng Sào cướp phá Quảng Châu, sát hại 120.000 người Hồi giáo (chủ yếu là Ba Tư), Do Thái, và Kitô giáo sống trong khu thương mại ở thành phố này.19 Không thỏa mãn với cuộc tản sát các nhà buôn, Hoàng Sào còn nỗ lực triệt tiêu ngành xuất khẩu chính của Trung Hoa bằng cách phá hủy các khu vực trồng cây dâu tằm ở phía nam Trung Hoa.20 Sau sự kiện thảm khốc năm 878 này ở Quảng Châu, hoạt động ngoại thương của Trung Hoa dần dịch chuyển về phía bắc tới cảng Tuần Châu ở eo biển Đài Loan-Tuyền Châu huyền thoại của Marco Polo và Ibn Battuta. Quảng Châu, vốn là cửa ngõ chính cho hàng hóa nước ngoài vào Trung Hoa, đã không giành lại được vị thế thống trị cho tới thời kỳ hiện đại.
Trung tâm xuất nhập khẩu hướng nhiều hơn về phía bắc này có quan hệ lâu dài với Hàn Quốc và Nhật Bản, những quốc gia sở hữu các mặt hàng hấp dẫn các nhà buôn Ả-rập và Ba Tư. Những con tàu Hồi giáo có kích thước và lượng hàng đôi khi đến mức phải dùng thang dài cả chục mét để trèo lên, khiến người Trung Hoa thế kỷ 8 và 9 sửng sốt. Hoàng đế Vũ Tông nhanh chóng bổ nhiệm người giám sát thương mại hàng hải, với nhiệm vụ vào sổ thông tin về các con tàu, thu thuế, và ngăn không cho xuất khẩu “các mặt hàng hiếm và quý.”21 Một trong số đó là nhà quý tộc Triệu Nhữ Quát, có nhiệm vụ giám sát hoạt động ngoại thương ở Tuyền Châu vào đầu thế kỷ 13. Là một nhà biên soạn tri thức có phương pháp, ông đã lập bộ sưu tập về hàng trăm nhà buôn và thủy thủ nhớ nhà trong Chu-Pan-Chi (Chư Phiên Chí) - “Mô tả về Người Rợ.” Cuốn sách có thể xem như trái ngược với Travels of Marco Polo; dù Triệu chưa bao giờ ra khỏi Trung Hoa, nhưng Chu Pan-Chi đã mô tả chi tiết một số nơi xa xôi như Tiểu Á và Alexandria, bao gồm các chi tiết (một số chính xác, một số không) về ngọn hải đăng nổi tiếng của thành phố này.22
Trước khi người Mông Cổ từ thảo nguyên phương bắc tràn vào Trung Hoa trong thế kỷ 13, các nhà buôn Ba Tư và Ả-rập gần như độc quyền thương mại đường dài ở Trung Hoa, với hai cộng đồng Hồi giáo lớn và gần như tự trị ở Quảng Châu và Tuyền Châu. Theo Triệu:
ế ầ ố ầ
“Với lòng tử tế đầy cảnh giác dành cho Người Rợ ngoại quốc, nhà cầm quyền của chúng ta đã thiết lập ở [Tuyền Châu] và các Cơ quan Giám sát Đặc biệt ở Quảng Châu về [thương mại hàng hải], bất cứ khi nào các nhà buôn ngoại quốc gặp khó khăn hoặc muốn khiếu nại, họ phải tới gặp Cơ quan Giám sát Đặc biệt… Trong tất cả những vùng đất ngoại bang thịnh vượng chứa nhiều hàng hóa quý giá đa dạng, không đâu vượt qua được Ả-rập.”23
Các nhà lữ hành trung cổ khác lại mang những góc nhìn khác nhau khi kể chuyện cho chúng ta. Giữa thế kỷ 12, một giáo sĩ người Tây Ban Nha theo Do Thái giáo tên là Benjamin Tudela sau khi trải qua hành trình rộng khắp
châu Âu và Trung Đông, đã ghi lại những điều kỳ lạ và tươi đẹp của Alexandria và Constantinople, ông đặc biệt ấn tượng với cuộc sống trí tuệ của Baghdad, “nơi gặp gỡ của các triết gia, toán học gia, và tất cả những khoa học khác.” Gần như cùng thời gian này, nhà buôn Hồi giáo Shereek Idrisi, được sự bảo trợ của Vua Viking xứ Sicily, Roger II, đã xuất bản cuốn sách về địa lý Pleasure for the Man Who Wants to Know Thoroughly the Various Countries of the World (Thỏa lòng cho người muốn biết tường tận về các quốc gia trên thế giới), mô tả hết sức cặn kẽ về thương mại Biển Đỏ thời kỳ này. Idrisi đặc biệt bị cảng Aden hấp dẫn, ở đây ông gặp những con thuyền Trung Hoa chất đầy “hồ tiêu, một số nặng mùi, một số không mùi, trầm hương, cũng như kỳ nam, mai rùa và ngà, gỗ mun và mây, đồ sứ, [và] các loại yên bằng da.”24
Tác phẩm nổi tiếng Book of the Thousand Nights and a Night (Nghìn lẻ một đêm) với loạt truyện vô danh được nhân vật hư cấu Scheherazade kể nhằm trì hoãn thời gian người chồng xử tử nàng cũng có mô tả về thế giới thương mại ở những nơi này. Trong đó có truyền thuyết nổi tiếng về Ali Baba, Aladdin, và dĩ nhiên cả Thủy thủ Sinbad, có lẽ đã được ghi lại vào lúc nào đó trong thế kỷ 14.25
Các cuộc phiêu lưu của Sinbad không phải là truyện dành cho thiếu nhi. Nhiều câu chuyện trong đó rất giống với những gì được nhắc tới trong The Book of the Marvels of India; độc giả của cả hai tác phẩm sẽ hoài nghi rằng nếu nhiều nội dung trong những truyền thuyết về Sinbad không phải được sao chép hoàn toàn từ tác phẩm trước, thì chí ít cũng chung văn hóa truyền miệng.
Mỗi chuyến đi trong bảy lần lên đường tìm kiếm gia vị và đá quý để mua bán, người anh hùng của chúng ta đều bị đắm tàu hoặc bị tách khỏi tàu. Rồi anh phải chiến đấu với một loạt quái vật nguy hiểm hoặc những người man rợ. Ví dụ, ở chuyến đi thứ ba, Sinbad và những người đồng hành bị gã khổng lồ kỳ dị bắt đi, đây là kẻ đầu tiên quan sát kỹ càng các nạn nhân tiềm năng “như một tay đồ tể nhìn ngó chú cừu trước khi hắn giết thịt.” Gã khổng lồ cuối cùng lựa chọn người tròn trĩnh và ngon lành nhất trong họ, đó là rais (ông chủ). Gã khổng lồ túm lấy ông ta, giống tay đồ tể bắt súc vật, rồi ném xuống, kéo chân lên cổ và giữ nguyên đó; sau khi lấy một cái xiên dài thì xiên qua mông thẳng tới đỉnh đầu nạn nhân. Sau đó, châm mồi lửa hung tợn, quét qua cái xiên có Rais trên đó, và quay trên đống than, cho tới khi thịt quay xong, gã lấy xiên ra khỏi lửa và đặt trước mặt như một xiên Kabab. Sau đó xé nhỏ nạn nhân, từng miếng tay miếng chân, như róc thịt một con gà, dùng móng xé thịt ăn và gặm xương, cho đến khi chỉ còn chút xíu vứt ở một góc tường.26
Tất cả bạn đồng hành của Sinbad đều có kết cục tương tự chỉ trừ người anh hùng gầy gò của chúng ta, tưởng như chả phải là món ngon lành gì và được ố ề ế
tha. Thêm vào màn bỏ trốn gượng gạo, truyền thuyết Sinbad cũng đã phác họa nên một bức tranh thực về hoạt động gan góc thường ngày của thương mại đường dài thời kỳ Abbasid và Fatimid. Thậm chí chỉ cần đọc lướt qua Nghìn lẻ một đêm cũng thấy hé lộ rằng Sinbad không phải thủy thủ, mà là con cháu một gia đình thương gia giàu có ở Baghdad, sở hữu nhiều dinh cơ và kho hàng. Sinbad không sở hữu, hoặc đến mức như chúng ta đã nói, là điều hành cả thủy thủ đoàn của bất kỳ con tàu nào anh đã đi.
Để công bằng, giữa nhà buôn và thủy thủ ở Ấn Độ Dương có một ranh giới hợp lý, bởi chỉ một số ít thủy thủ nhận lương, còn phần đông thích sống bằng cách tự mình mua bán hàng hóa hơn.27 Dù công việc của Sinbad chính xác là gì, thì anh cũng đã thuật lại cách thức hoạt động của giới lái buôn vốn quen thuộc với độc giả của tài liệu Geniza:
“Tôi mua hàng hóa, buôn bán tất cả những gì cần cho một chuyến đi, kiên nhẫn khi ở biển cả, tôi cùng một thương hội lên tàu đi Bassorah
nay là Basra, điểm đầu vịnh Ba Tư
. Tại đó chúng tôi lại lên tàu và ra khơi nhiều ngày đêm, qua hết đảo nọ tới đảo kia, biển này tới biển nọ, bờ biển nọ tới bờ biển khác, mua bán và trao đổi ở bất cứ nơi đâu con tàu ghé tới.”28
Như đã thảo luận, Biển Đỏ thách thức nhà buôn với cướp biển, các eo biển hẹp, các chỗ cạn nguy hiểm và gió ngược, còn Con đường Tơ lụa phải đối mặt với cản trở cố hữu về vật lý, thậm chí hiểm nguy lớn hơn và cả những vấn đề thuộc về chính trị của một hành trình đường bộ. Trong số ba con đường lớn nối Á-Âu, hành trình còn lại - “Con đường của Sinbad”, qua Địa Trung Hải, qua sa mạc Syria, xuống Tigris hoặc Euphrates, ra vịnh Ba Tư vào Ấn Độ Dương - rõ ràng là con đường được ưa chuộng hơn.
Mỗi chuyến đi của Sinbad đều bắt đầu bằng việc sắp xếp hàng hóa từ quê nhà Abbasid để trao đổi ở nước ngoài, đặc biệt là hàng dệt may cao cấp của Baghdad. Từ thành phố này, Sinbad dùng thuyền đi sông loại nhỏ xuôi dòng tới Basra, sau đó lên tàu đi biển loại lớn hơn cho hành trình qua vịnh Ba Tư và Ấn Độ Dương.
Trong quá trình di chuyển đầy vất vả đó, Sinbad thường đương đầu với cảnh bị mất hàng hóa rồi sau lấy lại được, và tiếp tục “kiếm bộn tiền từ chúng, rồi tôi mua hàng hóa và những thứ cần thiết cho hoạt động mở rộng cũng như đồ thời trang” chất đầy các kho hàng của gia đình nơi quê nhà. Không lâu sau khi thoát khỏi việc bị biến thành bữa tối cho gã khổng lồ, Sinbad kể lại:
“Chúng tôi dừng mua bán tại một số hòn đảo cho tới khi đến đất Hind [Ấn Độ], ở đây chúng tôi mua đinh hương, gừng, và đủ loại gia vị; sau đó lên đường tới đất Sind [Trung Hoa], ở đây chúng tôi cũng tiến hành
mua bán… Tiếp theo chúng tôi lại giương buồm trong cơn gió ôn hòa và cầu nguyện Allah Toàn năng; sau một hành trình thuận lợi, chúng tôi đến Bassorah an toàn và khỏe mạnh. Tôi lưu lại đây vài ngày rồi nhanh chóng trở về Baghdad, tới ngay khu phố nơi tôi sống, vào nhà và chào gia đình, người quen, bạn bè.”29
Điều gì đã dẫn dắt nhân vật anh hùng huyền thoại này? Không có gì khác ngoài biểu hiện ở góc độ Hồi giáo trung cổ đáng tin cậy của thiên hướng trao đổi trong học thuyết của Adam Smith: khát vọng về “xã hội của đa dạng chủng tộc, vì thương mại và lợi nhuận”, được thêm vào không ít những sự lãng mạn và phiêu lưu dọc hải trình giữa Baghdad và Quảng Châu.30
ề ổ ồ