🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kiếm tiền thời khủng hoảng Ebooks Nhóm Zalo KIẾM TIỀN THỜI KHỦNG HOẢNG Tiến sĩ Martin D. Weiss là một trong nhưng nhà tư vấn hàng đầu, là chủ tịch của Weiss Rating Inc., một hãng chuyên cung cấp các đánh giá xếp hạng độc lập về cổ phiếu, các quỹ đầu tư, hãng môi giới, các công ty, ngân hàng và hãng bảo hiểm. Đây là hãng xếp hạng duy nhất cung cấp các thông tin nhiều chiều hoàn toàn miễn phí về thị trường chứng khoán, không nhận bất cứ khoản thù lao nào từ các công ty được xếp hạng. Weiss là gương mặt quen thuộc trên các kênh truyền hình nổi tiếng như ABC, CBS, NBC và CNN. CRASH PROFITS Copyright © 2003 by Martin D. Weiss, Ph.D. All Rights Reserved. This translation published under license. KIÊM TtìÊN THỜI KHỦNG HOẢNG Bản quyền tiếng Việt © Công ty Cố phần Sách Alpha Thiết kế bìa: Cẩm Vân Biên tập viên Alpha: Phan Thị Kiều Diễm Không phần nào trong xuất bản phẩm này được phép sao chép hay phát hành dưới bất kỳ hình thức hoặc phương tiện nào mà không có sự cho phép trước bẳng văn bản của Công ty Cố phần Sách Alpha. Chúng tôi luôn mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp cùa quý vị độc giả đế sách ngày càng hoàn thiện hơn. Góp ý về sách, liên hệ về bản thào và bàn dịch: publication® alphabooks, vn Liên hệ hợp tác về nội dung số: [email protected] Liên hệ hợp tác xuất bản & truyền thông trên sách: project® alphabooks.vn Liên hệ dịch vụ tư vấn, đại diện & giao địch bản quyền: [email protected] Martin D. Weiss KIẾM TIỀN THỜI KHỦNG HOẢNG Thoát khỏi các trò lửa đảo khi thị trường chứng khoán, bất động sản và tài chính suy thoái Trần Hoàng Anh, Nguyễn Ngọc Toàn dịch NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG - Xà HỘI KHỦNG HOẢNG CƠ HỘI ĐẦU TƯ VÀ LÀM GIÀU T hời gian trước, “khủng hoảng” có lẽ là từ được nhắc đến nhiều nhất, nó xuất hiện trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng, len lỏi vào cả những câu chuyện trong bữa cơm gia đình. Khủng hoảng ảnh hưởng mạnh mẽ không chỉ đến nền kinh tế vĩ mô của một đất nước, quốc gia mà còn tác động đến cuộc sống của từng người. Người ta coi khủng hoảng như một cơn bão quét, đặt chân đến đâu sẽ cuốn theo tài sản, sự yên ổn đến đó. Trong cơn bão “khủng hoảng” đó, dù ít hay nhiều, ai cũng sẽ phải gánh chịu tổn thất. Nhưng trong Kiếm tiền thời khủng hoảng, tác giả cuốn sách lại nhìn vấn đề đó từ quan điểm hoàn toàn trái ngược. Với cách tư duy mới mẻ, Martin Weiss coi khủng hoảng như một cơ hội đầu tư và làm giàu, không những chúng ta có thể bảo toàn tài sản mà còn CÓ thể gia tăng khối tài sản đó dù trong thị trường giá lên hay giá xuống. Không liệt kê những lý thuyết đầu tư cũ kỹ khô cứng, điều đặc biệt cùa cuốn sách này là nó được viết dưới dạng tiểu thuyết - một tiểu thuyết dạy cách kiếm tiền khi thị trường chứng khoán “chao đảo”. Nhân vật chính trong truyện là một giáo viên vật lý, hoàn toàn xa lạ với những chỉ số, quỹ đầu tư, trái phiếu, quyền chọn, v.v... Cũng đã từng thất bại, bị lừa gạt, nhưng nhờ những hướng dẫn chi tiết, hiệu quả của nhà tư vấn chỉ-nhận-phí, dần dần cô đã tìm ra cho mình phương thức đầu tư thành công. Mở đầu cuốn sách là hình ảnh Phố Wall đang bị bao trùm bởi bóng mây đen của khủng hoảng, của những trò bịp bợm, lừa dối, những mánh khóe của các công ty môi giới, kiểm toán. Hàng trăm nhà đầu tư đã rơi vào cảnh khốn cùng vì những nhận định và báo cáo sai lệch. Những ngụy tạo sổ sách kế toán, những vụ mờ ám quanh quỹ lương hưu hay việc biến các công ty con thành những thùng rác kế toán,... diễn ra khắp nơi. Luật pháp chính phủ thì không đủ chặt chẽ để bảo vệ nhà đầu tư. Và đó cũng mới chỉ là phần nổi của tảng băng trôi. Đọc đến đây, hẳn bạn sẽ nghĩ: Liệu đạo đức có thể tồn tại ở Phố Wall và ở bất cứ nơi nào đồng tiền đang ào ạt xoay vòng từ tài khoản nhà đầu tư này sang tài khoản nhà đầu tư khác không? Và liệu có cách thức nào để không bị cuốn vào và trở thành nạn nhân của vòng xoáy đó không? Bạn sẽ tìm được câu trả lời trong cuốn sách này. Nhẹ nhàng như một câu chuyện, lôi cuốn và sống động như một cuốn tiểu thuyết nhưng vẫn rất thực tế với đầy ắp những sự kiện, cuốn sách giúp người đọc dễ dàng hiểu, nắm vững và áp dụng những bí quyết học được để đầu tư thành công trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Trong thế giới kinh doanh phức tạp và mang tính toàn cầu như hiện nay, những kinh nghiệm cũng như những hướng dẫn cụ thể tác giả đưa ra sẽ là chiếc la bàn định hướng cho các nhà đầu tư vượt qua cơn bão thị trường. Thực tế cho thấy, mọi cuộc khủng hoảng rồi cũng sẽ kết thúc và nếu biết cách đầu tư thông minh, bất cứ ai cũng có thể an toàn vượt qua những thời kỳ đen tối nhất. Do đó, để luôn là người chiến thắng, mỗi chúng ta hãy tìm cách vượt qua khủng hoảng và coi nó là cơ hội để nền kinh tế tự điều chỉnh và hoàn thiện, là cơ hội cho mọi người tạo lập của cải. Trong “nguy” có “cơ”, và cơ hội sẽ dành cho ai biết lắng nghe và thành thực tin rằng mình có thể kiếm lời trong khủng hoảng. Dù trong thời kỳ khủng hoảng hay khi nền kinh tế ổn định và tăng trưởng, các cá nhân, các nhà đầu tư, những người quản lý công ty và chủ doanh nghiệp vẫn có thể tìm thấy trong cuốn sách này những nguyên tắc cốt lõi để kiếm được lợi nhuận từ thị trường hay ít nhất là bảo toàn được lợi nhuận và tiền bạc của mình. Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả! Tháng 11 năm 2014 CÔNG TY Cổ PHẦN SÁCH Alpha MỤC LỤC Khủng hoảng - cơ hội đầu tư và làm giàu........................5 Giới thiệu.........................................................11 Chương 1. Những mánh khóe của tay môi giới chứng khoán....................20 Chương 2. Bong bóng........................................29 Chương 3. Sự thổi phòng của phố wall......................52 Chương 4. Bong bóng vỡ.....................................73 Chương 5. Túi đồ trang điểm trị giá 17.000 Đô-la..........85 Chương 6. Hãy bán các cổ phiếu này ngay bây giờ!......103 Chương 7. Hãy giữ chặt túi tiền............................126 Chương 8. Tăng thâm hụt ngân sách.......................143 Chương 9. Bong bóng thị trường trái phiếu................158 Chương 10. Bong bóng thị trường bất động sản............171 Chương 11. Những người thắng cuộc ít ỏi..................189 Chương 12. Nhóm bảo vệ...................................208 Chương 13. Những nguy cơ tiềm ẩn.........................239 Chương 14. Giảm phát!......................................280 Chương 15. Sự sụt giá của các cổ phiếu blue-chip..........335 Chương 16. Hãy chuyển tài khoản của bạn đi!..............354 Chương 17. Lời kêu gọi hành động..........................372 Chương 18. Mất thăng bằng.................................398 Chương 19. Gói cứu trợ lớn..................................407 Chương 20. Đợt tăng mạnh.................................441 Chương 21. Khoảng gián đoạn..............................460 Chương 22. Trò chơi đổ lỗi..................................474 Chương 23. Đáy thị trường..................................503 Chương 24. Ngày đen tối nhất..............................539 Chương 25. Sự phục hồi thật sự.............................547 GIỚI THIỆU G iờ đây hàng triệu nhà đầu tư đang phải sống trong nỗi lo sợ về tương lai và có lẽ bạn cũng nằm trong số đó. Tôi cũng nghĩ giai đoạn sắp tới sẽ là thời kỳ kinh tế rất khó khăn. Nhưng khác với hầu hết các nhà đầu tư khác, nỗi lo sợ gần như không có chỗ trong tâm trí tôi. Thực ra, cha tôi, Irving Weiss, đã bắt đầu luyện cho tôi cách đối mặt với những thời kỳ như thế này từ cách đây 50 năm. Trong khi những đứa trẻ khác chơi cờ hay vui đùa cùng cha mẹ thì cha con tôi lại cùng nhau chơi trò thị trường chứng khoán. Nếu tôi làm người mua thì cha tôi sẽ đóng vai người bán, hoặc ngược lại. Đó là cách cha dạy tôi những bài học mà ông học được từ vụ sụp đổ thị trường chứng khoán năm 1929. Cha tôi từng là một trong những người chơi chứng khoán nổi tiếng ở Phố Wall. Ông gần như là người duy nhất đoán trước được vụ sụp đổ 1929. Ông không những bảo toàn được túi tiền của mình trong khi giá các loại cổ phiếu khác rơi tự do mà còn tận dụng vụ sụp đổ đó để thu về những khoản lợi nhuận lớn. Với số tiên 500 đô-la vay của bà nội, cha tôi đã biến nó thành 100.000 đô-la ngay trong thời kỳ sụt giảm tồi tệ nhất của thị trường chứng khoán Ông đã giảng giải cho tôi tại sao mọi cuộc khủng hoảng rồi cũng sẽ kết thúc... các vụ sụt giá cổ phiếu diễn ra và ảnh hưởng đến người dân như thế nào... làm thế nào để chuẩn bị đối phó với sự sụp đổ thị trường và hậu quả của chúng... và làm thế nào để vẫn có thể an toàn và làm giàu chân chính ngay cả trong những thời khắc khó khăn nhất. Tôi muốn chia sẻ những bài học quý giá này với các bạn. Cha tôi nói rằng ông đã chiến thắng trong Đại khủng hoảng năm 1929 không chỉ một lẩn mà tới hai lẩn - khi cổ phiếu sụt giảm vào những năm 1930 và khi cổ phiếu chạm đáy - bằng cách mua lại cổ phiếu của các công ty lớn nhất nước Mỹ ở mức giá gần như thấp nhất trong thế kỷ. Năm 1924, ở tuổi 16, cha tôi bắt đầu sự nghiệp với công việc đánh máy ở Phố Wall. Đến năm 1928, ông được cất nhắc vào vị trí nhân viên chăm sóc khách hàng - nhân viên môi giới. Khi đó, ở Phố Wall, cơn sốt chứng khoán đang vào giai đoạn cao trào. Các nhà đầu tư dồn toàn bộ số tiền họ có vào thị trường chứng khoán, thậm chí còn vay thêm tiền để mua cổ phiếu. Nhưng cha tôi không mua điên cuồng như vậy. Ông nhận thẫy tình hình kinh doanh trên khắp nước Mỹ đang không tốt và ngày càng xấu đi. Ông cũng nhận thấy thị trường chứng khoán Anh và các thị trường khác ở châu Âu đang lao xuống dốc. Và ông cũng biết rất nhiều nhà đầu tư đang chìm ngập trong nợ nần. Vì vậy, khi cuộc Đại khủng hoảng xảy ra vào tháng 10/1929, ông đã khuyên cha mẹ chỉ nên đầu tư vào các kế hoạch an toàn tuyệt đối và không nên đầu tư vào thị trường chứng khoán. Trong khi hàng triệu người mất hết tiền vì cuộc Đại khủng hoảng, gia đình tôi đã không bị mất một xu. Đó là sự kiện đáng nhớ đầu tiên trong sự nghiệp đầu tư của ông. Sự kiện thứ hai đến khi ông gặp George Kato, một sinh viên người Nhật đang theo một khóa học của chương trình trao đổi văn hóa, đổng thời cũng là một nhà phân tích có mối quan hệ mật thiết với các nhà đầu cơ sắc sảo nhất lúc bấy giờ. George nhanh chóng trở thành cố vấn của cha tôi, dạy ông cách bán khống trong thị trường chứng khoán để có thể kiếm lời từ một cuộc khủng hoảng. Vì vậy, tháng 4/1930, khi các cổ phiếu tạm thời hồi phục và mọi người ở Phố Wall đều cho rằng xu hướng thị trường đi xuống đã chấm dứt, cha tôi đã vay 500 đô-la của bà tôi và áp dụng những điều ông học được từ George Kato để bán khống các cổ phiếu mà ông nghĩ rằng sẽ có khả năng giảm nhiều nhất. Cuộc Đại khủng hoảng 1929 mới chỉ là bước khởi đẩu. Cuộc suy thoái kéo dài hơn và sâu hơn bắt đầu từ năm 1930 và diễn ra gần ba nám ròng. Cha tôi kể lại rằng, khi thị trường chạm đáy, ông đã biến số tiền 500 đô-la vay từ bà nội thành 100.000 đô-la - tương đương với 1.300.000 đô-la hiện nay! Nhưng ông cũng thú nhận rằng ông đã trải qua những lần thua lỗ nặng mỗi khi thị trường không đi theo hướng dự đoán của ông. “Cha đã toát mổ hôi hột”, ông thường nói vậy, “và đôi khi mọi thứ trở nên rat tệ. Thế rồi, vào những ngày trước lễ nhậm chức của Franklin Delano Roosevelt*1 (FDR), cha tôi được xem bản thống kế từ Cục Dự trữ Liên bang (FED), thể hiện chính xác số tiền mặt mà người dân Mỹ đang rút khỏi các ngân hàng Mỹ. Mọi người đang rút ra số lượng tiền rất lớn và ông kết luận rằng sắp tới, các ngân hàng trong nước sẽ đóng cửa hàng loạt. Đa phần mọi người đều cho rằng khủng hoảng và đóng cửa ngân hàng là một trong những điều tồi tệ nhất có thể xảy ra. Họ coi đó là dấu hiệu của một đợt suy thoái trầm trọng hơn - là lúc nên tháo chạy. Nhưng cha tôi lại cảm thấy điều ngược lại mới chính xác. Ông tin rằng đợt đóng cửa ngân hàng này đánh dấu thời điểm kết thúc hoàn toàn đợt suy giảm thị trường chứng khoán. Ngày 3/3/1932, cha tôi đã sẵn sàng hành động. FDR sẽ nhậm chức vào ngày hôm sau và cha tôi cho rằng ngài tổng thống mới sẽ không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc đóng cửa các ngân hàng để thực hiện tất cả những bước cần thiết nhằm phục hổi thị trường. Ông biết được điều đó qua việc các cổ phiếu blue chip được bán với mức giá rẻ bất ngờ. Và rồi, cha tôi kể tiếp: “Cha và một số người nữa đi thẳng đến văn phòng chính của các hãng. Bỏ qua các chi nhánh nhỏ lẻ, cha muốn các lệnh đặt của mình đến tay người có khả năng liên lạc trực tiếp với các giao dịch viên trên sàn. Bằng cách mua tất cả những gì có thể, cha đã mua được cổ phiếu của các hãng GM, AT&T, GE và Sears với giá rẻ như bèo và gần chạm đáy.” Phần còn lại thuộc về lịch sử. Ngay sau khi nhậm chức, FDR đã cho đóng cửa tất cả các ngân hàng như cha tôi dự đoán. Tiếp nữa, ông còn cho đóng cửa cả thị trường chứng khoán, điều cha tôi không dự đoán được. Tuy nhiên, quan điểm của các nhà đầu tư cũng bắt đầu thay đổi. Niềm tin vào hệ thống ngân hàng bắt đầu hồi phục. Các nhà đầu tư giàu có đã lên kế hoạch mua lại cổ phiếu. Cuối cùng, khi thị trường chứng khoán mở cửa trở lại, giá cổ phiếu tăng vù vù. Sự hồi phục diễn ra và cha tôi đã có được thứ khiến nhiêu người thèm muốn. “Cha chỉ ước gì mình giữ chỗ cổ phiếu đó thêm một thời gian nữa”, ông nói. “Tuy nhiên, cha đã thu một khoản lời kha khá dù rút lui quá sớm.” Đó là 70 năm trước! Giờ đây, tôi dành cả cuộc đời của mình để chia sẻ các kinh nghiệm đó - cả thành công và thất bại - cho các nhà đầu tư nhỏ, bao gồm những điều tôi học được từ cha mình và cả những điều tôi lĩnh hội được trong 30 năm phân tích các công ty và thị trường. Tôi đã nói với các nhà đầu tư rằng họ không nên kỳ vọng biến 500 đô-la thành 100.000 đô-la và bạn cũng không nên trông đợi điều đó. Tuy nhiên, bạn chắc chắn có khả năng thay đổi tương lai tài chính của mình, lấy lại số tiền đã mất và có một khoản tiền dự trữ thoải mái cho bản thân và gia đình. Trong ngắn hạn, tôi đoán rằng sẽ có một vài điều tồi tệ xảy ra nhưng về cơ bản, tôi là người lạc quan. Tôi tự tin về kiến thức, công nghệ và khả năng hồi phục trong dài hạn của chúng ta. Tôi có thể thấy, một ngày mai tươi sáng hơn khi những tàn dư của cuộc khủng hoảng vừa qua được giải quyết. Các vụ sụp đổ thị trường chứng khoán - thậm chí cả các đợt suy thoái kinh tế - cũng chưa phải đã là tận thế. Nước Mỹ từng trải qua những thời kỳ tồi tệ hơn nhưng vẫn tồn tại. Nên lần này, chúng ta cũng sẽ tiếp tục tồn tại. Nếu chúng ta làm đúng, mọi thứ thậm chí sẽ còn tốt hơn, và chúng ta có thể tận dụng khoảng thời gian giữa hai thời kỳ như một cơ hội để sửa chữa các yếu kém kinh tế và xã hội mà chúng ta đang mắc phải. Có hai cơ hội dành cho bạn: bạn có thể kiếm tiền khi thị trường chứng khoán đi lên hoặc đi xuống. Kể cả nếu chỉ tận dụng một trong hai cơ hội này và bắt đầu với một số vốn rất nhỏ, bạn vẫn có thể thành công. Càng thành công, bạn càng có khả năng đầu tư vào các doanh nghiệp được quản lý tốt nhất, làm ăn phát đạt nhất và có lãi nhất khi họ cần tới sự hỗ trợ của bạn nhất. Cuốn sách này nhằm giúp bạn tối đa hóa các cơ hội thành công của mình. Nửa đầu cuốn sách sẽ nói về cuộc khủng hoảng gần đây - nguyên nhân khiến chúng ta rơi vào cuộc khủng hoảng này, những nguy cơ còn tiềm ẩn và ngay bây giờ bạn có thể làm gì. Nửa sau cuốn sách viết vế các kịch bản cho trường hợp xấu nhất trong tương lai và các bước khôn ngoan cần thực hiện trước, trong và sau cuộc khủng hoảng. Mặc dù trong cuốn sách này, tôi đã vẽ nên một bức tranh thảm khốc, nhưng hãy luôn nhớ rằng không bao giờ là quá muộn - đối với bạn nói riêng và đối với đất nước nói chung - để thực hiện hành động bảo vệ. Và thậm chí cả trong những thời khắc tối tăm nhất, chúng ta vẫn sẽ còn niềm hy vọng vào một ngày mai tươi sáng hơn. Hãy nhớ rằng, kịch bản xấu nhất mà tôi đặt ra không phải là tình huống nhất thiết sẽ xảy ra. Mục đích của nó là để cảnh báo những điều có thể xảy ra nếu các nhà lãnh đạo của chúng ta vẫn tiếp tục hướng đi hiện tại. Và đó cũng là cách để tôi báo cho bạn biết về những cơ hội đặc biệt mà thị trường bất lợi có thể mang lại cho bạn. Một vài sự kiện vượt ngoài tầm kiểm soát của bất kỳ cá nhân hoặc nhóm người nào. Nhưng đừng bao giờ xem thường khả năng của bạn trong việc thay đổi tương lai của mình. Ngày 6 tháng 12 năm 2002 Palm Beach Gardens, Florida HƯ CẤU HAY THỰC TẾ? Cuốn sách này bao gồm thông tin về các công ty và hội đồng quản trị có thực. Tuy nhiên, vì nó được viết dưới dạng một cuốn tiểu thuyết nên những đặc điểm nhận dạng của họ đã được thay đổi so với nguyên mẫu. Các nhân vật Các công ty Linda và Gabriel Dedini Harris & Jones James Dubois MetroBank Paul E. Johnston UCBS Oliver Dulles CECAR Tamara Belmont Tập đoàn ABC Don Walker Tập đoàn XYZ chương 1 NHỮNG MÁNH KHÓE CỦA TAY MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN Để bạn có thể nắm được toàn bộ những gì sẽ xảy ra và tại sao nó lại xảy ra như vậy, cuốn sách này được viết dưới dạng một cuốn tiểu thuyết, bao gồm một số nhân vật và công ty hư cấu. Bằng cách này, cuốn sách sẽ hướng dẫn bạn từng bước vượt qua mê cung sự kiện và quyết định mà rồi bạn sẽ phải đối mặt trong tương lai. Tuy nhiên, không hoàn toàn giống như một cuốn tiểu thuyết, nội dung sách lại nói về thế giới hiện thực. Nó cho bạn những lời khuyên đáng tin cậy, được minh chứng bằng các tài liệu. Những lời hướng dẫn lần lượt được đưa ra mang đến cho bạn sự chỉ dẫn hữu ích, có thể áp dụng ngay bây giờ để giúp bạn thoát khỏi những nguy cơ và đạt được mục đích tài chính của mình. Câu chuyện bắt đẩu với những mánh khóe lừa bịp và những nguy cơ mà bạn (với tư cách là nhà đầu tư và khách hàng) đang phải đối mặt; ngoài ra, chúng tôi còn đưa ra bạn lời khuyên về cách bảo toàn số tiền của bạn. Sau đó, sẽ là những lời khuyên giúp bạn kiếm được lợi nhuận từ khủng hoảng. Linda Dedini, cô con gái 30 tuổi của một trong những CEO hưởng lương cao nhất nước Mỹ, không muốn nói nhiều về bố mình. Cô gắn bó với ông về tình cảm nhưng hoàn toàn độc lập về tài chính. Cô yêu quý ông nhưng không muốn nhận một chút tiền nào từ ông. Vợ chồng cô là những người có tính độc lập, muốn chứng minh rằng họ có thể tự làm giàu mà không cần sự giúp đỡ của cha. Khác với đám bạn bè, cô không muốn nói với mọi người rằng cha cô là một CEO nổi tiếng. Cô là giáo viên dạy vật lý tại một trường cấp ba ở Arlington, Virginia và cô bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Cô thậm chí không muốn nghe lời khuyên đầu tư của cha. Thay vào đó, hầu hết mọi quyết định tài chính của cô đều dựa vào lời khuyên của một trong những hãng môi giới chứng khoán lớn nhất nước Mỹ: Công ty Harris & Jones. Công ty này có trên 5 triệu khách hàng và là một trong những công ty danh tiếng nhất Phố Wall. Cô cảm thấy có thể tin tưởng ở họ. Nhân viên trực tiếp phụ trách tài khoản của cô, James Dubois, đã làm rất tốt nhiệm vụ trong suốt những năm 1990. Vì thế, cô cũng rất tin tưởng anh ta. Một buổi sáng thứ hai, cô gọi điện cho anh để xin lời khuyên. Cô có một khoản tiền 160.000 đô- la và muốn đầu tư. Đây là khoản tiền có được nhờ bán căn hộ thứ hai và cô hy vọng sẽ biến số tiền này thành một ngân quỹ lớn đủ để trang trải chi tiêu khi nghỉ hưu và học phí cho các con. “Tôi có một loại cổ phiếu rất thú vị dành cho cô”, tay môi giới chứng khoán tuyên bố đầy phấn khích. “Giá khởi điểm của nó là 64 đô-la, nhưng bây giờ chỉ còn 40 đô-la. Tin tốt lành là loại cổ phiếu này có thể đem lại lợi nhuận 2 đô-la/cổ phiếu trong năm nay. Với mức giá 40 đô-la, như vậy, giá bán ra của nó chỉ gấp 20 lần so với lợi nhuận mà nó thu được.” “Như vậy có tốt không?”, cô hỏi. “Tốt không ấy à? Cô không đùa đấy chứ? Đó là một món hời! Hầu hết các công ty trong ngành này đều bán cổ phiếu với mức giá gấp 30 hay 40 lần so với lợi nhuận nó kiếm được. Vì thế, cổ phiếu của công ty này có giá trị thật gấp 30 hay 40 lần so với khoản lợi nhuận 2 đô-la/cổ phiếu. Nhân chúng lên và cô có gì nào?” “Khoảng 60 hay 80 đô-la gì đó cho một cổ phiếu?” “Chính xác. Và có nhiều khả năng là 80 đô-la. Nhưng cô chỉ phải trả 40 đô-la! Đó là lý do tại sao các chuyên gia phân tích của chúng tôi đánh giá cổ phiếu này là “nên mua”. Cô có xem chương trình CNBC sáng nay không? Không ư? Thật đáng tiếc. Chỉ vài giờ trước, chuyên gia phân tích của chúng tôi đã nói về nó. “Cổ phiếu đó tên là gì?” “United Comminications and Business Systems - UCBS. Tôi chắc rằng cô đã từng nghe cái tên đó.” Cô chậm rãi gật đầu. Sau khi gạt bỏ những lo ngại, cô quyết định đầu tư 80.000 đô-la vào công ty này. Nhân viên môi giới mua cho cô 2.000 cổ phiếu với giá 40 đô-la và cô chỉ phải đợi chúng lên giá. Nhưng tình hình lại diễn biến theo chiều ngược lại. Có tin đồn rằng UCBS đã phóng đại lợi nhuận. Chi tiết thì không rõ lắm, nhưng theo vài nguồn tin (trong đó có những nguồn tin đáng tin cậy) thì thay vì kiếm được 2 đô-la/cổ phiếu, thực tế công ty chỉ kiếm được 1 đô-la. Vì hầu hết các nhà đầu tư vẫn đánh giá giá cổ phiếu của công ty ở mức 20 lần lợi nhuận nên nếu như những tin đồn đó là sự thật thì cổ phiếu này sẽ chỉ có giá 20 X 1 đô-la, hay 20 đô-la. Ngay lập tức, các nhà đầu tư bắt đầu bán tháo cổ phiếu khi giá rơi về mức 20 đô la. Trong vòng vài ngày, cô đã mất gần nửa số tiền đầu tư. Như cứa thêm vào nỗi đau, vài tháng sau, người ta còn phát hiện ra một số lời nhận xét tốt đẹp mà Phố Wall đánh giá về cổ phiếu này thật ra là do công ty đó mua và trả tiền. Các chuyên gia được trả một khoản tiền lớn để đẩy giá cổ phiếu lên và đánh bóng triển vọng vốn đã được phóng đại của công ty này. Khi tin này lộ ra, một số chuyên gia đã giáng cấp cổ phiếu của công ty xuống mức “giữ”, mà thực ra đó là ký hiệu của Phố Wall thay cho “bán”. Một lãn nữa, giá cổ phiếu này lại giảm xuống một nửa, tức là còn 10 đô-la. Từ khoản đầu tư 80.000 đô-la, giờ đây cô chỉ còn vỏn vẹn 20.000 đô-la. Khi cô đang suy ngẫm về tình trạng khó khăn của mình thì vào một buổi chiểu, tiếng chuông điện thoại reo cắt ngang dòng suy nghĩ của cô. Lại là Dubois. Trong khi cô còn đang cảm thấy bất ngờ, anh ta lại gợi ý cô nên mua thêm 2.000 cổ phiếu của chính công ty này, loại cổ phiếu đang khiến danh mục đầu tư của cô rơi tự do. “Hãy xem này”, anh ta nói. “Tất cả những tin đồn xấu mà cô nghe về UCBS chính là cái may trong cái rủi. Chúng khiến giá cổ phiếu giảm xuống dưới giá trị thực của nó. Điều cô cần làm lúc này là bỏ ra một chút tiền nữa và có thể cắt giảm chi phí bình quân một cách ngoạn mục. Thay vì mua 2.000 cổ phiếu với giá 40 đô-la, giờ đây cô có thể có 2.000 cổ phiếu với mức giá chỉ còn 10 đô-la, và như vậy, tổng cộng cô sẽ có 4.000 cổ phiếu với mức giá trung bình là 25 đô-la. Đó chính là mức giá trung bình.” Cô do dự. Cô nói với anh ta rằng thật ra cô đang nghĩ đến chuyện bán số cổ phiếu đang có. “Ổ không!”, anh ta đáp lại trong hơi thở gấp gáp. “Giờ mới chính là thời điểm xấu nhất để làm việc đó. Thay vào đó, cô nến mua thêm! Và nếu như cô không có đủ can đảm để mua thêm thì hãy giữ chúng lại!” Dubois ngừng lại đôi chút để thăm dò phản ứng của cô. Nhưng cô vẫn im lặng. “Hãy nhớ một quy luật vàng để chiến thắng trên sàn chứng khoán!”, anh nói với giọng điệu chuyên nghiệp. “Đó là luôn đâu tư dài hạn. Thị trường sẽ đem lại lợi nhuận cao hơn cho các kế hoạch đầu tư dài hạn. Mọi thứ luôn quay vòng.” Trước đây, cô đã nghe đi nghe lại điều này từ hầu hết mọi người - bạn bè, các chuyên gia hoạch định tài chính, chương trình tivi và các nhà bình luận. Điều đó dường như đã trở thành một chân lý với nhiều bằng chứng lịch sử trong hàng thập kỷ. Cô chưa từng nghe ai nói điều ngược lại và vì thế, cô dễ dàng chấp nhận nó mà không hề thắc mắc. Những ngày sau đó, trong cô luôn giằng co về quyết định này và mỗi lần cô nói chuyện với Dubois, anh đều đưa ra một câu châm ngôn mới về đầu tư để thuyết phục cô kiên nhẫn và chờ đợi. Nhân viên môi giới này có một mục đích là: anh ta muốn giữ khách hàng này và kinh nghiệm cho anh ta biết rằng một khi khách hàng bán tháo cổ phiếu, họ thường từ bỏ luôn thị trường chứng khoán và tệ hơn nữa là đóng luôn tài khoản. Do đó, anh ta quyết tâm ngăn cản cô bán cổ phiếu bằng mọi cách. Thủ thuật đầu tiên mà anh ta vận dụng là luận điệu “thua lỗ trên giấy tờ”. “Đừng lo lắng về khoản thua lỗ đó”, anh ta tuyên bố. “Chúng chỉ là những khoản thua lỗ trên giấy tờ mà thôi. Nếu bán chúng, cô sẽ biến nó thành sự thật.” Anh ta không hề nói rằng thực ra chẳng có gì khác biệt giữa khoản thua lỗ trên giấy tờ và khoản thua lỗ thực. Anh ta cũng không tiết lộ với cô rằng ủy ban Chứng khoán (SEC) thậm chí còn yêu cầu các nhà môi giới phải định giá cổ phiếu mà họ nắm giữ trong danh mục đầu tư theo giá hiện hành để xác định khoản lỗ thật dù các cổ phiếu đã được bán hay chưa. Anh ta thừa hiểu rằng, dù thế nào lỗ vẫn là lỗ. Đó là một sự thật. Khi luận điệu “thua lỗ trên giấy tờ” không còn tỏ ra hiệu quả, anh ta cố gắng lập luận theo kiểu: “Đừng có ngốc mà bán đi khi giá đang chạm đáy.” Anh ta thậm chí còn sử dụng câu nói mà ông giám đốc kinh doanh cũ đã nói với anh ta: “Chúng ta đã ở gần, rất gần đáy. Thậm chí có thể chúng ta đang chạm đáy rồi. Nếu bây giờ cô bán thì chỉ ba tháng sau cô sẽ phải trả giá. Đừng hành động ngu ngốc như thế chứ.” Sự thật thì nhà môi giới hay bất kỳ ai cũng đều không thể biết đáy nằm ở đâu. Cùng lúc đó, với kinh nghiệm cá nhân, anh ta hiểu rằng cổ phiếu không chạm đáy nếu chỉ đơn giản vì nó có vẻ rẻ. Trên thực tế, với danh mục đầu tư cá nhân của mình, nhà môi giới đã quyết định rằng anh ta không nên là người đưa ra mức đáy cho đến khi những người môi giới khác làm việc đó. Như thường lệ, vào giữa tuần, thị trường đột nhiên hồi phục mạnh mẽ và Linda Dedini cho rằng đây chính là cơ hội thoát khỏi tình cảnh hiện tại. Cô gọi điện cho Dubois để kết thúc mọi thứ nhưng anh ta lập tức phản bác lại với lập luận về một sự “hồi phục lớn hơn”. “Thị trường đang hổi phục!”, anh ta nói và miêu tả chi tiết những diễn biến của chỉ số Dow Jones. “Cổ phiếu UCBS đang bắt đầu hồi phục. Không phải là cô đang muốn rút ra đấy chứ? Tôi không tin! Sau khi kiên trì như thế, cô lại muốn bỏ chạy bây giờ, khi mà mọi thứ đang bắt đầu thay đổi theo chiều hướng có lợi cho cô?” Nhà môi giới giở con bài cuối cùng trong những thủ thuật của mình là kích động lòng yêu nước. Anh ta hỏi: “Cô có biết điều gì sẽ xảy ra nếu ai cũng làm như cô không? Điều đó sẽ khiến thị trường tài chính khủng hoảng. Nhưng chỉ cần cô và hàng triệu nhà đầu tư khác có thêm chút niềm tin vào nền kinh tế của chúng ta, vào đất nước chúng ta - thì thị trường sẽ hồi phục và mọi người cùng kiếm được lợi.” Những tháng sau đó, cô sẽ nhận ra rằng có nhiều khoản đầu tư khác có thể giúp cô kiếm được lợi khi thị trường đi xuống và sau một vài thất bại ban đầu, cô sẽ mài dũa được kỹ năng để kiếm lợi lớn khi thị trường suy sụp. Tuy nhiên, hiện tại cô chỉ biết có ba lựa chọn: mua, bán hoặc giữ lại. Và cô quyết định giữ lại. Nhà môi giới không hể biết rằng cô có những lý do riêng khi làm việc đó: cha cô chính là CEO của công ty này. chương 2 BONG BÓNG2 Paul E. Johnston, CEO của UCBS, cũng chỉ biết rất ít vế cách kiếm tiền khi thị trường suy thoái. Đứng trong văn phòng của mình, ông đang dõi mắt nhìn về Phố Wall. Thực tế, nhiều tháng trước đây, trong đầu ông không hề có khái niệm nào về việc kiếm lợi nhuận khi thị trường suy thoái. Một thập kỷ trước, UCBS chỉ là một công ty với một nhà máy nhưng nay đã biến thành một tổ hợp bao gồm nhiều nhà máy và được biết đến là một trong những nhà sản xuất chế tạo công nghệ lớn nhất nước Mỹ. Thách thức cấp bách nhất hiện nay của ông là: làm thế nào để huy động được một số tiền lớn. Không có thêm tiền, ông không thể tạo ra một bước nhảy vọt trong công nghệ chế tạo sợi quang. Không có tiền, ông không thể thu mua những công ty mới nổi và đang dẫn đầu trong ngành công nghệ nước Mỹ cũng như nước ngoài. Ông cũng có thể sẽ không thể tự bảo vệ mình khỏi các tập đoàn khổng lổ toàn cầu đang lăm le muốn mua lại. Tệ nhất là ông có thể không có khả năng trả những khoản nợ sắp đến hạn - khoản tiền mà UCBS đã sử dụng trong các vụ mua lại công ty. Ồng cần bao nhiêu tiền? Lần thứ ba trong vòng 24 giờ qua, ông suy nghĩ về danh sách các công ty mà ông đang muốn mua và tính toán ra con số khoảng 4,3 tỷ đô-la, một số tiền lớn chưa từng có trong lịch sử công ty. Tham vọng ư? Đúng. Không thế ư? Không. Các gã khổng lồ viễn thông và công nghệ cao khác đều đã làm được, tại sao ông không thể? Tuy vậy, sẽ chẳng có ngân hàng hay nhà đầu tư nào đủ lớn để cho Johnston vay khoản tiền ông đang muốn có. Ngay cả một công xooc-xi-om các ngân hàng quốc tế lớn nhất cũng không làm điều đó. Chỉ có một nguồn duy nhất để kiếm tiền: thị trường chứng khoán. Vào những năm 1990, thị trường chứng khoán biến đổi nhanh chóng. Đầu tiên, để huy động một khoản tiền lớn thì phải là một công ty có tiếng tăm trong danh sách Fortune 100 với cổ phiếu được giao dịch trên sàn chứng khoán New York (NYSE). Tuy nhiên, hiện nay, hầu hết các công ty có dự án công nghệ cao hấp dẫn đều có thế huy động một số tiền lớn bằng cách niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng khoán mới là sàn giao dịch chứng khoán Nasdaq - nơi hàng triệu nhà đầu tư khắp thế giới đang đầu tư hàng tỷ đô-la. Chỉ trong 60 tháng, từ tháng 1/1995 đến tháng 12/2000, các nhà đầu tư đã đổ 993 triệu đô-la vào WorldCom và 258 triệu đô-la vào XO Communications. Họ đều cố gắng giành giật để có được cổ phiếu của Globalstar Telecommunications, Luminent, Prodigy Communications, Internet Capital Group hay các công ty tên tuổi khác lúc đó. Hơn 2.809 công ty mới được thành lập. Tổng cộng, 177 tỷ đô-la được huy động, trong đó 103 tỷ đô-la đã được huy động chỉ trong hai năm 1999 và 2000. Johnston đã quá quen với những đam mê này trên sàn giao dịch Nasdaq. Nhiều năm trước ông từng là một trong những người tiên phong gia nhập câu lạc bộ những người chơi chứng khoán và niêm yết cổ phiếu của UCBS trên sàn giao dịch Nasdaq. Ông cũng thường xuyên qua lại Phố Wall để huy động những khoản vốn lớn. Ông vay tiền đến mức tối đa và đến cuối năm 1999, với mỗi đô-la vốn chủ sở hữu, UCBS nợ 5 đô- la. Tệ hơn, với mỗi đô-la nợ đến hạn phải trả trong vòng một năm, công ty chỉ có 8 xu tiến mặt trong ngân hàng. Đó chính là lý do ông cần huy động gấp 4,3 tỷ đô-la. Ông biết có hai công ty từng huy động được số tiền lớn như vậy: Công ty ƯPS bán 109 triệu cổ phiếu mới cho các nhà đầu tư vào tháng 11/1999 để thu về 5,4 tỷ đô-la và Công ty Conoco bán 191 triệu cổ phiếu mới vào tháng 10/1998 để thu vẽ 4,4 tỷ đô-la. Vị CEO này biết rõ điều đó. Ông cũng biết rằng để huy động số vốn lớn như thế, ông không thể chỉ tới Phố Wall với cái mũ trong tay và vài con số yếu ớt chẳng có gì nổi bật để khoe. Ông cần có một câu chuyện cực kỳ mời gọi. Ông phải đưa ra câu chuyện về sự tăng trưởng kỳ diệu, những dự báo lợi nhuận hấp dẫn, những sản phẩm công nghệ tuyệt diệu trong tương lai. Ngài giám đốc cũng đã quá quen thuộc với đối tượng khán giả trong những buổi thuyết trình của ông. Các nhà đầu tư sẽ không dễ dàng đổ tiền tiết kiệm cả đời và quỹ lương hưu của họ vào cổ phiếu của công ty hay các giám đốc quỹ đầu tư cũng sẽ không đầu tư vào một loại cổ phiếu nào đó mà không tính toán kỹ càng. Không. Thực tế là ông luôn tránh tiếp xúc trực tiếp với những người đó vì nỗi sợ hãi hay lòng tham của họ có thể che mất tầm nhìn hay làm ảnh hưởng đến sự tập trung của ông đối với các kế hoạch tăng trưởng. Đối tượng duy nhất để ông trình bày các dự định của mình là các chuyên gia phân tích ở Phố Wall - những người trẻ tuổi, tài năng, làm việc cho những công ty lớn ở Phố Wall như Merrill Lynch, Salomon Brothers Smith Barney, Prudential Securities và Lehman Brothers. Đàm phán với các giám đốc quỹ đầu tư và các nhà đầu tư là công việc của họ, chứ không phải của ông. Việc cửa họ là giới thiệu cổ phiếu của UCBS cho giới truyền thông và công chúng. Nhưng để đạt được kết quả tốt nhất, ông cần họ thuyết phục mọi người tin rằng công ty đang làm ăn phát đạt. Ông cẩn khiến họ bị kích động và thèm .muốn sở hữu những cổ phiếu của ông. Khi đó, họ sẽ viết các báo cáo nghiên cứu; chuyển tải những cảm giác đó đến hàng triệu nhà đầu tư. Nhưng Johnston cũng biết rằng các báo cáo tài chính của UCBS không phải là một bức tranh hoàn hảo. Đằng sau vẻ hào nhoáng được đánh bóng bề ngoài là những khiếm khuyết trong hoạt động với những dự án kinh doanh đang nằm bên bờ vực phá sản cũng như các khoản nợ dễ dàng nhận ra. Đó là lý do tại sao vào một buổi sáng, ông mời vài nhà tư vấn kinh doanh được trả lương cao nhất trên thế giới đến giúp ông tìm ra cách chỉnh sửa lại các báo cáo tài chính của UCBS. Các nhà tư vẫn này rất thông minh. Họ đến từ một trong năm công ty kiểm toán hàng đẩu nước Mỹ. Họ biết tất cả những công cụ mới nhất, những mẹo sổ sách giúp làm đẹp các con số. Nhưng liệu chỉ những đề xuất của họ đã đủ chưa? Liệu chúng có hợp pháp không? NHỮNG THỦ THUẬT KẾ TOÁN "HOÀN TOÀN HỢP PHÁP" Mặt trời đã lên cao trên bầu trời Manhattan buộc vị CEO đưa mắt rời khỏi khung cửa và nhớ đến các nhà tư vần đang đợi ông trong phòng họp kín liền với văn phòng của ông. Ông dứt khỏi sự mơ màng và vội vã bước vào phòng họp. Ngồi trước mặt ông là ba nhân viên đến từ công ty kiểm toán - một phụ nữ tầm 40 tuổi có bằng MBA Harvard, một gã trẻ hơn cũng có bằng MBA và Oliver Dulles, một người đàn ông trung niên có mái tóc muối tiêu với nhiều năm kinh nghiệm làm kế toán viên công chứng3. “Chúng ta đang có một thách thức lịch sử trước mắt”, Johnston nói sau màn giới thiệu ngắn. “Để đạt mục tiêu, chúng ta cần phải chấm dứt việc coi cổ phiếu UCBS là loại cổ phiếu cần phải bán. Thay vào đó, chúng ta phải coi nó là thứ gì đó có giá trị hơn. Chúng ta phải coi nó như một loại tiền tệ mới như đô-la Mỹ, bảng Anh hay yên Nhật. Chúng ta phải làm sao để cổ phiếu UCBS trở thành một trong những loại tiền có giá trị nhất thế giới. Chúng ta muốn thấy cổ phiếu UCBS tăng cao hơn và tạo ra nhiều tiền hơn nữa. Và chúng ta sẽ sử dụng thứ tiền tệ đó, hay nói cách khác đó là cổ phiếu của chúng ta, để mua những công ty lớn hơn.” Vị CEO dừng lại và trong giây phút im lặng đó, ông thầm nghĩ: “Cần phải nâng giá cổ phiếu và quyền chọn của mình lên mức cao hơn. Mình đã trở nên giàu có nhờ làm vậy. Và giờ đây, mình sẽ còn giàu có hơn nữa.” Nữ tư vấn viên đáp lại như thể bà đã nghe thấy những suy nghĩ đó của ông. “Giải pháp thứ nhất trong kế hoạch của chúng tôi”, bà nói, “là đề nghị thay đổi mức lương thưởng của ban giám đốc công ty. Chúng tôi cho rằng, họ - và cụ thể là ngài - cần được thưởng và khuyến khích để giúp công ty đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh hơn mức hiện tại. Hiện tại, nếu tính tất cả số cổ phiếu-và quyền chọn, cá nhân ngài chỉ nhận được không quá 14 triệu đô-la trong năm nay. Nhưng dựa trên phân tích so sánh mức thu nhập của ngài với giám đốc của các công ty trong cùng ngành, chúng tôi thấy rằng đáng lẽ ngài phải có thu nhập gấp ít nhất năm lần, có thể là 10 lần mức hiện tại. Dĩ nhiên, phương tiện duy nhất có thể khiến điều đó trở nên khả thi chính là quyền lựa chọn được mua cổ phiếu. Vì thế, chúng tôi đề nghị phải tiến hành cải tổ mạnh mẽ chính sách thưởng quyền chọn”. VỊ CEO gật đẩu tỏ vẻ hiểu biết. Quyền chọn là một phương thuốc tiên mới của các tập đoàn Mỹ. Chúng cho các CEO có cơ hội kiếm được các khoản lợi nhuận kêch xù. Ngoài ra, các khoản lợi nhuận đó không bao giờ bị tính là chi phí hay bị trừ khỏi khoản lợi nhuận báo cáo cho các cổ đông. Quyền chọn cho phép các CEO tham ô của công ty và lấy đi những khoản tiền lớn trong khi các cổ đông hầu như không hay biết. Vị CEO này đã sở hữu một lô quyền chọn cho phép ông ta có quyền mua cổ phiếu rẻ hơn giá hiện tại: giá cổ phiếu của UCBS hiện đang là 12 đô-la và quyền chọn cho phép ông ta mua 1 triệu cổ phiếu với giá trung bình 10 đô-la, rẻ hơn 2 đô-la so với giá trị thật. Nếu muốn chuyển chúng thành tiền mặt, ông có thể mua 1 triệu cổ phiếu giá 10 đô-la và bán ra với giá 12 đô-la, như vậy ông có thể bỏ túi 2 đô-la cho mỗi cổ phiếu và tổng cộng sẽ là 2 triệu đô-la. Không tồi lắm, ông tự nghĩ, nhưng như thế vẫn chưa đủ. Điều khiến ông lo lắng nhất và cũng chính là điểm chính mà các nhà tư vấn đang cố gắng giải quyết là: sự chênh lệch giữa thu nhập của ông và giám đốc các công ty cùng quy mô khác. Johnston biết, chẳng hạn, ban giám đốc của Enron, một trong những công ty đi đầu trong việc sử dụng “tài khoản ngụy tạo” (creative accounting) được trả lương rất cao. Mức lương cơ bản của Kenneth Lay, Chủ tịch Hội đồng quản trị của Enron là 1,3 triệu và 7 triệu đô-la tiền thưởng. Ngoài ra, tháng 3/2000, ông ta còn bán quyền chọn của mình với giá 123 triệu đô- la. CEO của Enron, Jeffrey Skilling, cũng nhận được mức lương 850.000 đô-la và mức tiền thưởng 5,6 triệu đô-la. Năm 2000, ông ta cũng bán quyền chọn của mình với giá 62 triệu đô-la. Cũng trong thời gian đó, Andrew Fastow, CFO của Enron đã kiếm được hơn 30 triệu đô-la nhờ quản lý hai trụ sở chính của Enron. Đó là chưa kể đến WorldCom, một trong những tập đoàn viễn thông đang ngày càng lớn mạnh trở thành người khổng lồ trong làng viễn thông thế giới. Tương tự UCBS, tập đoàn này phát triển chủ yếu nhờ các kế hoạch thâu tóm, mua lại cổ phần của các công ty khác. Johnston cho rằng WorldCom là một trong số những công ty có mức thu nhập cao nhất. Sự thực là Bernard Ebbers, Chủ tịch kiêm CEO của WorldCom, được nhận mức lương 41 triệu đô-la cùng với số tiền thưởng 10 triệu đô-la trong năm 2000. Ngoài ra, ông ta còn được thưởng hơn 1.000 quyền mua bán cổ phần của WorldCom trị giá 53,4 triệu đô-la. Trong năm 2000, Ebbers đã bán được hơn 1 triệu quyền chọn và thu về 23,4 triệu đô-la. Sau đó, trước khi rời công ty, ông ta còn được công ty cho vay một khoản tiền lớn là 408 triệu đô-la, chưa kể đến khoản lương hưu 1,5 triệu đô-la. Nhưng điều mà Johnston không biết là với những trò gian lận đó thì sớm hay muộn, đế chế Enron cũng sẽ sụp đổ. Ông cũng không cảm nhận được chút gì về các nguy cơ sắp xảy ra với WorldCom, một vụ gian lận và phá sản tai tiếng hơn nhiều so với vụ Enron. Không ai mường tượng ra hậu quả đó. Thay vào đó, cuộc họp tại UCBS chỉ tập trung vào việc tăng quyền chọn cho ban giám đốc công ty, đó là điểm mấu chốt. Quyền chọn cho bạn những quyền lợi mà không phải thực hiện nghĩa vụ gì. Với quyền chọn, bạn có thể mua cổ phiếu ở mức giá tương đối rẻ và sau đó bán đi ngay lập tức với giá cao hơn. Nếu giá cổ phiếu công ty không tăng, bạn cũng không mất gì ngoại trừ quyền đó. Nhưng nếu giá cổ phiếu tăng, quyền chọn có thể đáng giá hơn 10 năm lương cơ bản. Chẳng cần thông minh lắm cũng có thể biết được điều gì sẽ xảy ra nếu cổ phiếu công ty giảm, chẳng hạn nếu cổ phiếu giảm 30% thì các nhân vật chóp bu của công ty sẽ mat đi 1/3, 1/2 hay thậm chí 2/3 tài sản cá nhân. Tùy từng công ty mà số phần trăm đó được quy ra số tiền cụ thể. Nhưng các CEO này không hề ngu ngốc. Họ biết rằng thứ tốt nhất là một bản báo cáo lợi nhuận hấp dẫn để nâng giá cổ phiếu. Do đó, mỗi quý một lần, họ đều tìm cách chỉnh sửa các con số, che giấu thua lỗ bằng mọi cách có thể, ngụy tạo doanh thu để thu hút các nhà đầu tư. Nhưng khi tất cả các mánh khóe đó bị bại lộ thì mọi sự tăng trưởng và phát triển ngụy tạo đó sẽ bị phơi bày. Sau đó, khi những cổ phiếu này sụt giảm, hàng triệu người sẽ cháy túi, công chúng và quốc hội Mỹ sẽ nhận được bài học cay đắng, còn các CEO này đã ra đi bình an vô sự, sở hữu những biệt thự trên đồi Beverly cùng những du thuyền và những tài khoản ngân hàng 8 con số. Tuy nhiên, hiện giờ có rất ít người cảm thấy thắc mắc với những biện luận của Phố Wall về khoản tiền lương lớn cùng mức tiền thưởng khổng lồ dành cho các CEO. “Miễn là các giám đốc này làm giàu cho bạn”, các chuyên gia lý giải, “tại sao bạn phải quan tâm đến mức lương của họ?” Do đó, không ai cảm thấy băn khoăn gì khi nữ tư vẩn viên đưa cho Johnston bản báo cáo với những sửa đổi vế chế độ thù lao cho ban giám đốc. Trong bản báo cáo, tên ông cùng với bốn quan chức cao cap khác của công ty được ghi trên đẩu của năm cột và tương ứng với mỗi cột là tên các loại cổ phiếu của UCBS bắt đầu từ mức 10 đô-la cho đến 100 đô-la. “Đây là bản tính cho thấy ngài và ban lãnh đạo cao cấp của công ty có thể kiếm được bao nhiều với đề nghị của chúng tôi, và điều đó cũng còn tùy thuộc vào tình hình cổ phiếu của UCBS”, bà ta tuyên bố. Trong khi xem xét bản báo cáo, Johnston khẽ giấu đi nụ cười mỉm. Con số cuối cùng trong tổng thù lao của ông là 360 triệu đô-la ở mức giá cổ phiếu 100 đô-la. Ngay cả khi giá cổ phiếu chỉ còn một nửa - 50 đô-la - thì ông cũng có thể ra đi với khoản tiên 180 triệu đô la. “Nào hãy nói tiếp đi!”, ông ta nghĩ. Người phụ nữ chờ đợi cho đến khi tác động của những con sổ đã lắng xuống và tiếp tục giải thích cơ sở của sự tính toán trên. “Thứ nhất, chúng tôi đế xuất tăng tổng số -quyền chọn cho các giám đốc lên bốn lần. Thứ hai, bên cạnh việc tăng quyền chọn cho ngài và các giám đốc cao cấp, chúng tôi cũng đẽ nghị giảm chế độ thưởng quyền chọn cho quản lý cấp trung và đối với nhân viên cắt hoàn toàn. Dĩ nhiên”, bà ta thêm vào, “không phải là tôi hay ngài có thể quyết định được mọi thứ - điều đó còn phụ thuộc vào hội đồng quản trị của UCBS.” Vị CEO cảm thấy hơi lo lắng về điều này. Ông biết hội đồng quản trị sẽ nhanh chóng thông qua những thay đổi này. Vì sao ư? Vì lý do đơn giản là chính họ cũng được hưởng những khoản thù lao tương tự như các giám đốc cao cấp. Họ sẽ còn được thưởng nhiều hơn nếu bỏ phiếu đồng ý. “Bây giờ”, người phụ nữ kết luận, “ban lãnh đạo công ty sẽ có động lực mạnh mẽ để làm mọi thứ có thể nhằm nâng giá cổ phiếu UCBS trên thị trường chứng khoán, điều đó dẫn tới mục thứ hai trong kế hoạch “của chúng tôi - đó là lợi nhuận của ngài. Oliver sẽ tiếp tục trình bày phần này.” Bà ta gật đầu với gã chuyên gia kế toán. Gã đưa ra một tấm bảng màu vàng với những điểm nguệch ngoạc được ghi trên đó. TRÒ CHƠI VỚI NHỮNG CÔNG TY CON Oliver Dulles là một tay kỳ cựu về các con số, vượt ra khỏi địa hạt của một chuyên gia kế toán bình thường. Gã có bằng cử nhân tâm lý xã hội của đại học New York, được nhiều giáo viên biết đến vì gã luôn cho rất nhiều tính toán thống kê vào các bài luận nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, đầu những năm 1980, nguồn tài trợ cho những nghiên cứu của gã, vốn rất dồi dào dưới thời Tổng thống Johnson, thì nay đã trở nên cạn kiệt. Công việc giảng dạy cũng hiếm. Do đó, Dulles thay đổi nghề nghiệp và với kỹ năng xử lý các con số, gã chuyển sang nghề kế toán và kiếm được một công việc ổn định cùng mức thu nhập đảm bảo. Công việc kế toán thường khiến gã cảm thấy chán nản nhưng gã biết mình không còn lựa chọn nào khác. “Chúng tôi đã xem xét rất kỹ hoạt động của các ngài”, gã nói. “Chúng tôi đã đọc từng dòng trong các báo cáo tài chính của công ty. Và chúng tôi đã nhìn thấy cơ hội để làm nó phát triển hơn so với hiện tại.” “Trước tiên”, gã tiếp tục, “chúng tôi đã tập hợp danh sách tất cả các công ty con, liên doanh và cổ đông của UCBS ở Mỹ và nước ngoài. Đó là một bản danh sách dài tới 27 trang, rất phức tạp nhưng cũng đầy tiềm năng, hứa hẹn nhiều cơ hội thuận lợi. Trong hẩu hết các trường hợp, UCBS chỉ sở hữu không quá 49% vốn của các công ty đó. Đó là một quyết định khôn ngoan. Bởi vì như ngài cũng biết, nếu không nắm được đa số phiếu thì ngài sẽ không phải tổng hợp tình hình tài chính của họ vào kết quả tài chính của UCBS. Điều đó có nghĩa là ngài có thể tiếp tục sử dụng chúng để chuyển nợ ra khỏi sổ kế toán của ngài vĩnh viễn. Sau đó, nếu các công ty con này có lãi, chúng ta sẽ có quyền chọn mua những cổ phiếu chi phối mà chỉ phải mất thêm một chút tiền. Đó là khi chúng ta có thể tổng hợp những con số, cộng khoản tiền đó vào lợi nhuận của UCBS và có thể khoe thành tích đó với các nhà đầu tư.” “Đây là một trò may rủi”, nhà tư vấn trẻ phụ họa đầy phấn khích. “Nhưng nếu lỗ, chúng ta sẽ giấu đi. Nếu lãi, chúng ta sẽ khoe ra. Kiểu gì thì chúng ta cũng đẹp đẽ như bông hồng. Mọi người đều làm thế cả.” Thực tế, trong những năm cuối thập niên 1990, hầu hết các công ty đa quốc gia lớn đều lợi dụng các công ty con, đặc biệt là các công ty nước ngoài để làm đẹp sổ sách kế toán của mình. Hình mẫu được dẫn ra để minh họa cho những luận điểm trong buổi gặp chính là Enron, công ty dễ dàng trở thành nhà vô địch trong trò chơi gian lận với các công ty con. Theo ước đoán, Enron có tới hơn 900 công ty con, cổ đông và liên doanh ở Mỹ và nước ngoài, trong đó nhiều công ty chỉ là cái vỏ rỗng. Enron tuyển dụng 245 luật sư và 145 trong số đó làm việc tại tòa tháp đôi ở Houston, Texas - số lượng luật sư tương đương với số luật sư của sáu văn phòng luật lớn nhất thành phố. Họ làm việc toàn thời gian để xây dựng vẻ ngoài hợp pháp cho mạng lưới công ty con khổng lồ. Enron cũng rất lão luyện trong việc thổi phồng giá trị tài sản và nhờ đó khiến Phố Wall, toàn bộ chính phủ Mỹ và hàng triệu nhà đầu tư tin rằng nó là công ty lớn thứ bảy tại Mỹ, lớn hơn cả Walt Disney, JP Morgan Chase, Boeing, 3M và Chevron Texaco. Sau đó, người ta phát hiện ra rằng nếu doanh thu của Enron được tính chính xác thì nó chỉ đứng ở vị trí 69. Các nhà tư vấn cũng trích dẫn những trường hợp thành công khác bằng các thủ thuật hợp pháp để chuyển khoản nợ và lỗ như: Adelphia Communications (đã phá sản năm 2002), Computer Associates, Global Crossing, Halliburton, Lucent Technologies, Qwest Communications và Tyco International. Sau đó, người ta phát hiện trong vài trường hợp, các thủ thuật bất hợp pháp cũng đóng một vai trò rất lớn. Các hành động bất hợp pháp đó từng là chủ đề nóng hổi trên trang đầu của nhiều tờ báo, nhưng chính các hành động được coi là hợp pháp lại là nền tảng cho các chiến lược lừa dối. Trước đó, CEO của UCBS đã nghe nói nhiều về việc lập các tài khoản ngụy tạo và ông cũng có thể chấp nhận trò gian lận này một chút. Tuy nhiên, các đề xuất trên bàn có quy mô lớn hơn nhiều. Giờ đây, ông đang nói chuyện với đại diện của một trong những công ty kiểm toán danh tiếng nhất nước Mỹ... và họ đang trình bày một kế hoạch có thể biến các công ty con thực tế thành thùng rác kế toán - chỗ để vứt bỏ những khoản nợ xấu và những chi phí lớn. Mặc dù cảm thấy hơi lo ngại, nhưng ông vẫn ngồi ngả người và im lặng lắng nghe. “Cấu trúc này”, nhà tư vấn trẻ tiếp tục, “sẽ khiến báo cáo lợi nhuận và bản cân đối kế toán của các ngài tỏa sáng. Chỉ cần như vậy thôi, thì thay vì bán với giá 11 đô-la/cổ phiếu, giá cổ phiếu của UCBS sẽ là xấp xỉ 18 đô-la/cổ phiếu. Thay vì chỉ huy động được vài đồng bạc, các ngân hàng đầu tư sẽ cho ngài tiếp cận với nguồn vốn mà ngài không thể mơ đến trước đây. Các nhà đầu tư và ngân hàng sẽ tranh nhau đầu tư cho ngài”. THỦ THUẬT TUYỆT DIỆU VỚI QUỸ LƯƠNG HƯU Một lúc sau, nữ tư vấn viền yêu cầu trợ lý giảm độ sáng đèn phòng và bật máy chiếu nối với laptop của bà. “Chúng tôi giữ điều tuyệt diệu nhất đến cuối cùng ’, bà thông báo. “Tất cả những điều chúng tôi đã nói với ngài chỉ còn thật nhỏ bé nếu so với điều mà chúng tôi sắp chỉ cho ngài thấy ngay bây giờ.” Trên màn hình xuất hiện hình chiếu đầu tiên. “Đây là những số liệu mới nhất mà chúng tôi có về quỹ lương hưu của UCBS”, bà tuyên bố, rồi đột ngột ngừng lại để hàm ý một điều kỳ diệu sắp sửa được nói ra. “Biểu đồ thứ nhất trả lời cho câu hỏi quan trọng: Chúng ta cần bao nhiêu tiền để thỏa mãn những hứa hẹn của mình với nhân viên? Câu trả lời là 9,6 tỷ đô- la. Đồ thị thứ hai trả lời câu hỏi quan trọng tiếp theo: Lúc này chúng ta thật sự đang có bao nhiêu tiền trong quỹ? Dựa vào giá trị các khoản đầu tư vào cuối năm, câu trả lời là 11,1 tỷ đô-la.” Johnston giả bộ không biết gì để gợi ra một câu hỏi không thiên vị. “Đó có phải là một mức thặng dư lớn không?”, ông thắc mắc. “Ngài không đùa đấy chứ, nó rất lớn. Đó là khoản thặng dư lớn đến 1,5 tỷ đô-la, nó lớn hơn số chúng ta cần. Nói cách khác, quỹ lương vượt quá mức cần thiết 1,5 tỷ đô-la. Tại sao? Thị trường chứng khoán đang tăng trưởng. Thị trường trái phiếu cũng đi lên. Vì thế, danh mục đầu tư đã tăng hơn mức dự báo. Đây chính là mỏ vàng. Và mỏ vàng này vẫn đang nằm đó, chưa có ai khai thác.” Vị CEO thật sự bối rối. “Tôi không hiểu. Khoản thặng dư 1,5 tỷ mà bà nói là khoản tiền thuộc về nhân viên của chúng tôi. Đó là tiền giữ trong những quỹ riêng không có mối quan hệ gì với hoạt động của chúng tôi. Làm thế nào mà có thể chuyển khoản tiền này sang tài khoản của chúng tôi chứ? Bà biết rõ rằng làm như vậy là phạm pháp và có thể bị ngồi tù.” Sự lo lắng của ngài giám đốc thể hiện cả trên khuôn mặt. “Không, không, không. Chúng tôi không nói về việc thật sự lấy đi quỹ lương hưu. Điều chúng tôi muốn nói ở đây là việc chuyển vòng một vài con số. Những gì chúng tôi sẽ làm là đưa khoản lợi nhuận chưa được hiện thực hóa trong quỹ lương hưu - khoản lợi nhuận trên giấy đó - sang sổ sách của chúng ta. Sau đó, chúng ta sẽ báo cáo với các nhà đầu tư đó là khoản lợi nhuận thu được. Như vậy, các báo cáo tài chính của chúng ta sẽ trông thật tuyệt vời và các nhà đầu tư sẽ đẩy giá cổ phiếu UCBS lên.” Nhân viên tư vấn viên trẻ hầu như im lặng suốt buổi thuyết trình, bỗng nhảy vào cao giọng với vẻ phấn khích. “Tuyệt! Chỉ cần đợi cho đến khi các con số tấn công Phố Wall! Cổ phiếu UCBS sẽ vượt trần!”. Johnston nghĩ còn lâu điều đó mới có thể trở thành hiện thực. Nhưng thực tế, nó đã từng xảy ra. Năm 2000 và 2001, một số tập đoàn lớn nhất nước Mỹ đã sử dụng lợi nhuận trên giấy từ quỹ lương hưu của nhân viên để nâng mức lợi nhuận báo cáo cho cổ đông lên một cách ngoạn mục. Hay năm 2001, công ty Verizon Communications lỗ hàng tỷ đô-la. Nhưng chỉ bằng cách cộng thêm lợi nhuận dự tính hơn 2 tỷ đô-la từ quỹ lương hưu, nó đã có thể báo cáo mức lợi nhuận đáng kinh ngạc 389 triệu đô-la. Năm 2001, Eastman Kodak lỗ hàng chục triệu đô-la. Nhưng bằng cách gộp lợi nhuận dự tính 100 triệu đô-la từ quỹ lương hưu và thật kỳ diệu, khoản lỗ đó đã biến thành khoản lãi 76 triệu đô-la. Một công ty khác củng lỗ hàng chục triệu đô-la vào năm 2001 là TRW Nhưng cũng bằng cách cộng thêm lợi nhuận dự tính 100 triệu đô-la từ quỹ lương hưu, nó đã biến lỗ thành khoản lãi 68 triệu đô-la. Cũng tương tự, khoản lỗ 99 triệu đô-la vào năm 2001 của Honeywell International đáng lẽ sẽ lớn hơn nhiều. Nhưng công ty đã cộng cả hàng trăm triệu lãi dự tính trong quỹ lương vào lợi nhuận công ty. Và còn nhiều trường hợp khác nữa. LỢI NHUẬN MA Johnston không có ý niệm mơ hổ nào về sự sụp đổ thị trường tài chính sắp tới, nhưng ông vẫn quyết định tranh luận. “Thế nếu thị trường chứng khoán đi xuống, điều gì sẽ xảy ra?” Các nhà tư vấn chết lặng. Âm thanh duy nhất trong phòng họp là tiếng rì rì nhỏ phát ra từ quạt máy chiếu. Cuối cùng, người phụ nữ nói nhẹ và chậm để cố gắng giảm bớt mức độ nghiêm trọng của những điều mà bà chuẩn bị nói. “Thị trường chứng khoán không bao giờ đi xuống quá một năm. Và dù gì đi nữa, theo quy định, ngài có thể lờ nó đi.” “Bằng cách nào?”, ngài giám đốc hỏi. “Thật sự rất dễ. Giả dụ, chúng ta có 100 triệu đô-la trong quỹ và dự tính lãi hàng năm là 10%. Điều đó cho phép chúng ta có 10 triệu đô la lãi một năm, đúng không?” “Đúng.” “Bây giờ, giả sử chúng ta gặp một năm xui xẻo trên thị trường chứng khoán như điều ông lo lắng và quỹ lương hưu bị lỗ 5%. Ngài nghĩ xem chúng ta sẽ phải trừ bao nhiêu phần trăm khỏi báo cáo lợi nhuận của công ty?” “5% của 100 triệu đô-la. Vậy là 5 triệu đô-la.” “Hãy tính lại đi vì theo GAAP - những nguyên tắc kế toán được công nhận chung - chúng ta có thể chia khoản lỗ chưa hiện thực hóa ra 10 năm hoặc hơn thế.” “Tôi hiểu rồi”, ngài giám đốc nói. “Chúng ta sẽ chỉ phải trừ đi 1/10 khoản lỗ và chỉ đứa ra con số là nửa triệu.” Người phụ nữ lắc đầu: “Không, thực tế chúng ta còn có thể báo cáo lãi 9,5 triệu.” “Hả? Làm thế nào mà bà kiếm ra con số đó?” “Hãy nhớ rằng, chúng ta đã dự tính mức lãi 10 triệu/năm. Do vậy, chúng ta có thể lấy 10 triệu lãi dự tính đó trừ đi nửa triệu khấu hao lỗ do thị trường chứng khoán suy giảm. 10 triệu trừ nửa triệu bằng 9,5 triệu còn gì.” Ngài giám đốc bật cười khùng khục. Các nhà tư vấn cũng cười phá lên. Mọi người trong phòng đều đủ thông minh để nhận ra rằng lợi nhuận 9,5 triệu đô-la chỉ là khoản lợi nhuận ma - một ảo ảnh tạo ra nhờ thủ thuật kế toán. Điều khiến họ thấy nực cười là các thủ thuật đó lại hoàn toàn phù hợp với GAAP. “Như chúng tôi vừa nói”, người phụ nữ thêm vào, “thủ thuật kế toán với quỹ lương hưu là một mỏ vàng. Bất kỳ lúc nào ngài cần nâng giá cổ phiếu UCBS hay cần huy động vốn, thì tất cả những gì ngài cần làm là biến đổi một chút những con số này... và ngài sẽ đặt tay vào hũ vàng này.” TRÒ CHƠI CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH “Phần tiếp theo có lẽ là công cụ ít được biết đến nhất”, nhà tư vấn trẻ nói. “Chứng khoán phái sinh4! Chúng ta sẽ...” “Hãy giải thích cho ông ấy biết chúng là gì trước đã”, gã chuyên gia kế toán ngắt lời. “Ô, vâng. Chúng đơn giản là việc đánh cược, đánh cược trên hầu như mọi thứ. Đánh cược liệu một nước đang phát triển có phải trả mức lãi nhiều hơn 3% so với mức mà Kho bạc Mỹ trả từ ngày 1/1 đến 30/6 ư? Đó không phải là vấn đề. Đánh cược trên việc tiêu thụ gas, điện và vi mạch ư? Quá dễ.” VỊ CEO hiểu rằng có nhiều điều để nói về chứng khoán phái sinh hơn thế, nhưng ông muốn chuyển ?ang phẩn tiếp theo. “Nếu chúng ta thua thì sao?”, ông hỏi. “Thắng, thua hay hòa, dù thế nào thì chúng ta cũng có cách định giá những chứng khoán phái sinh này. Thêm nữa, chúng ta cũng có nhiều cách điều chỉnh thời gian định giá chính xác. Thực tế, ngài có thể làm mọi thứ mình muốn. Giả dụ, ngài không muốn mua bán một chứng khoán phái sinh chuẩn đang được bán trên các sở giao dịch. Ngài chỉ cần tạo ra một chứng khoán phái sinh riêng biệt của chính mình - với đủ loại kích cỡ, hình dáng và màu sắc. Về bản chất tất cả chúng, chỉ là các hợp đồng. Nên ngài sẽ đến gặp một số nhân vật có tham gia trò chơi - đó có thể là một đối thủ cạnh tranh, một ngân hàng hay bất kỳ cái gì - và nói: “Tôi cược là điều này hay điều kia sẽ xảy ra.” Anh ta sẽ nói: “Được, tôi sẽ đánh cược với ông.” Ngài thảo ra một bản hợp đồng, ký kết và thế là xong. Giờ đây, ngài có thể tự hào mình là chủ của một chứng khoán phái sinh mới mà có lẽ chưa từng tồn tại trước đó. Bởi vì nó là duy nhất nên ngài có thể thoải mái đưa ra mức giá, chuẩn bị và thông báo với các nhà đầu tư như thế nào là phụ thuộc vào ngài. Tình huống tệ nhất thì cũng chỉ là ngài phải viết gì đó vào phần chú thích của báo cáo, chỗ mà chẳng ai để ý và cũng không hiểu gì.” Paul E. Johnston tự cảm thấy xấu hổ về những thủ đoạn đó và lo lắng nếu xảy ra vấn đề gì đó. Nhưng nỗi lo lắng này bị che lấp bởi ham muốn quyền lực và sự giàu có. Hơn nữa, kết luận gồm bốn từ “hoàn toàn hợp pháp” mà các nhà tư vấn đưa ra đã làm ông bớt lo sợ. “Mọi thứ chúng tôi đề xuất, mọi thủ thuật, đều hoàn toàn hợp pháp”, các nhà tư vấn đồng thanh nói. chương 3 SỰ THỔI PHỒNG CỦA PHỐ WALL T hông qua một cuộc họp qua điện thoại với hơn 20 chuyên gia phân tích, các số liệu đã được biến tấu của UCBS cuối cùng cũng đến được Phố Wall. Như thường lệ, chỉ có vài người biết cuộc họp này và tham dự - đa phần họ đều là đại diện của các hãng lớn. Johnston hùng hồn trình bày các số liệu mới về doanh thu, thể hiện rõ ràng rằng UCBS đã vượt quá cả sự kỳ vọng lạc quan nhất của Phố Wall. Các chuyên gia phân tích vội vã hoàn tất những bản báo cáo rất đẹp đẽ, thổi phồng kết quả kinh doanh... các nhà đầu tư đổ xô tìm mua cổ phiếu của UCBS... và giá của nó đang từ 11 đô-la tăng vọt lên 30 đô-la/cổ phiếu. Tổ chức bảo lãnh chính của UCBS chính là Harris & Jones - một trong các hãng môi giới chứng khoán và ngân hàng đầu tư sừng sỏ nhất ở Phố Wall. Harris & Jones đã ngay lập tức tận dụng cơ hội để thu về số vốn mà ngài CEO mong muốn. Chuyên gia xuất sắc nhất hãng, một trong những tay chơi chứng khoán cừ khôi tại Phố Wall đã đưa ra một bản phân tích hấp dẫn về UCBS với khuyến nghị nên mua cổ phiếu này. Hàng loạt cổ phiếu được phân phối tới các nhà môi giới để cung cấp cho khách hàng. Harris & Jones thậm chí còn đầu tư hàng triệu đô-la vào hệ thống vệ tinh và thu hình của mình tại các văn phòng chính của hãng ở Phố Wall để tất cả các thông tin liên quan đến việc chào bán chứng khoán có thể được công bố trên kênh CNBC - một mạng lưới tin tức tài chính hàng đầu quốc gia. Harris biết rằng hàng triệu nhà đầu tư sẽ xem chương trình này và họ không muốn nghe theo những khuyến nghị về cổ phiếu của Bloomberg, trang web hoặc tờ Wall Street Journal vào sáng hôm sau. Với sự dẫn dắt của Harris, UCBS đã bán được hơn 3,5 triệu cổ phiếu với mức giá trung bình là 36 đô la/cổ phiếu. Chỉ trong vài tuần ngắn ngủi, CEO của UCBS, Paul E. Johnston, được ca ngợi như một người hùng của Phố Wall, hình của ông được đăng trên trang bìa tạp chí Forbes và thậm chí ông còn được mời nghỉ qua đêm trong phòng ngủ của Lincoln tại Nhà Trắng. Giá cổ phiếu UCBS tăng vọt lên mức 50 đô-la/cổ phiếu và thậm chí còn cao hơn. Một điều lạ lùng là chuyên gia của hãng Harris và cả các chuyên gia của các hãng khác tại Phố Wall lại không hề tiến hành điều tra về các khoản lợi nhuận bất thường từ quỹ lương hưu của UCBS. Chẳng ai mảy may nghĩ tới việc xem xét các báo cáo theo mẫu 10K5 thường niên của công ty cũng như việc nghiên cứu cẩn thận các chú thích khó hiểu trong các báo cáo của công ty, vì vậy, những thời kỳ làm ăn không tốt của công ty đã được giấu nhẹm. Phố Wall hoàn toàn nhất trí với sự tăng trưởng hấp dẫn của cổ phiếu UCBS. Thực tế, sự nhất trí còn quá mức đến nỗi giám đốc quỹ đầu tư nào chưa có cổ phiếu UCBS trong danh mục đầu tư của mình đều bị cho rằng đã “để lỡ cơ hội” hoặc tệ hơn là “không làm tròn trách nhiệm với các nhà đầu tư”. Chẳng bao lâu sau, họ cũng bị cuốn vào dòng xoáy, và gần như mọi tổ chức trên khắp nước Mỹ - các quỹ đầ u tư, quỹ lương hưu, các nhà thờ, các tổ chức tài trợ cho trường đại học, các quỹ tín thác lớn và nhiều tổ chức của Đức - đã đua nhau mua rất nhiều cổ phiếu UCBS. Giá cổ phiếu lại một lần nữa tăng vọt. Giờ đây, mỗi cổ phiếu đã đạt đến mức xấp xỉ 64 đô-la. Tuy nhiên, có một nhà phân tích lại chẳng hề vui mừng chút nào. Cô cũng làm việc tại hãng Harris & Jones và cũng nghiên cứu về cổ phiếu. Nhưng thật ra, cô được đào tạo để trở thành một nhà kinh tế. Cô tên là Tamara Belmont, trợ lý nghiên cứu cho chuyên gia cấp cao chịu trách nhiệm về UCBS. Trong cuộc họp đầu tiên với UCBS, cô không hể phát biểu gì và trong những ghi chép của mình về UCBS gửi cho sếp, cô cũng không đả động điều gì. Thế nhưng đến khi đã rõ ràng là bong bóng Internet bị vỡ, cô bắt đầu lên tiếng về những lo ngại của mình. Cô muốn sếp hạ mức cổ phiếu UCBS xuống thành “nên bán”. Nhưng sếp cô nói rằng nếu hành động như vậy thì có thể sẽ gây ra những hậu quả thê thảm - cho cá nhân sếp, hãng và có thể cả UCBS. Sếp nhắc đi nhắc lại rằng bất kỳ sự hạ mức nào vào lúc này cũng có thể làm cổ phiếu trượt giá và phá vỡ mối quan hệ kinh doanh vô cùng quan trọng mà hãng đang có. Để giãi bày nỗi thất vọng của mình, cô nhấc điện thoại và gọi cho một người bạn phổ thông hiện cũng đang làm cùng ngành. “Vì cậu không tham gia vào thị trường nên mình có thể nói cho cậu biết điều này”, cô nói với giọng kìm nén, gần như là thì thầm trong điện thoại. “Mình cho rằng UCBS thật sự là một thảm họa. Công ty này đã tăng trưởng quá nhanh và quá sớm. Nó có quá nhiều khoản nợ và sẽ nhanh chóng ngốn hết số vốn huy động được. Tài sản hữu hình của công ty rất ít ỏi - gần như là không có mảnh đất, tòa nhà hoặc bất kỳ thứ gì có thể bán ngay khi cần tiền mặt. Công ty đã được định giá quá cao so với doanh thu đạt được. Thậm chí các số liệu doanh thu này dường như cũng đã được biến báo thông qua một số thủ thuật nào đó mà mình chưa hiểu được. Hệ thống kế toán của công ty này quả là phức tạp.” “Thế mà sếp cậu vẫn đưa ra đánh giá về cổ phiếu này ở mức nên mua mạnh à? Cậu có nghĩ rằng đây có thể là một vụ gian lận không?” Không còn thầm thì nữa, lúc này giọng Belmont trở nên quả quyết hơn: “Một vụ gian lận thôi á? Cậu có đang đùa mình không đấy? Đó là một sự dối trá trắng trợn! Một vụ bán rẻ, một trò lừa ghê tởm.” Cô im lặng trong phút chốc, rồi nói: “Mình không phải là người duy nhất ở đây cảm thấy ghê tởm với trò lừa mà họ gọi là “nghiên cứu” này. Một vài chuyên viên nghiên cứu khác cũng có cùng cảm nhận như mình, nhưng bọn mình đang bế tắc. Vừa mới đây thôi, bọn mình đã nói chuyện với sếp - giám đốc bộ phận nghiên cứu của bọn mình. Cậu còn nhớ ông ấy chứ, Don Walker ấy. Cậu đã gặp ông ấy ở bữa tiệc công ty mình rồi đấy. Nhưng rồi, những điều bọn mình ẳ nói cũng chỉ như gió thoảng thôi. Chẳng có gì thay đổi cả - trừ Don. Mình tình cờ biết được bản thân ông ấy cũng chán ghét những điều đó giống như bọn mình vậy. Tuy nhiên, trước mặt mọi người, ông ta vẫn giữ vẻ lạnh lùng và làm đúng phận sự của mình - không tỏ ra quá lo ngại hoặc quá tự hào khi nói về UCBS.” “Sao cậu biết được ông ấy nghĩ gì?” “Hôm trước có mấy đồng nghiệp bàn tán về chuyện đó. Họ kể rằng họ tình cờ nghe được điều này khi vào nhà vệ sinh. Sếp của mình có thói quen đi vào đó, bật vòi nước lên, rồi xả ra một tràng những càu chửi thề bọn chủ ngân hàng đầu tư. “Bọn chủ ngân hàng đáng nguyền rủa!” hoặc “Thật là những đợt IPO chết tiệt!” Rất nhiều lần như vậy và có lần, chính mình cũng được chứng kiến.” “Thôi, quên ông ấy đi. Thế còn cậu, cậu định làm gì?” “Kế hoạch của mình là sẽ cảnh báo cho một số khách hàng thân thiết nhất - những người mà bọn mình đã giúp mua cổ phiếu UCBS trong đợt IPO của công ty này cách đây vài năm. Một số trong số họ là CEO của các công ty mà bọn mình cung cấp dịch vụ ngân hàng. Bọn mình không thể quay lưng lại với họ được.” “Nhưng còn đánh giá của sếp cậu về cổ phiếu UCBS thì sao?”, người bạn cũ hỏi. “Ông ấy có định vẫn giữ khuyến nghị nên mua vào cổ phiếu này không?” “Hiện giờ thì vẫn vậy... hoặc ít nhất là cho đến khi sự chú ý đối với cổ phiếu này đã dịu bớt. Khi đó, Don Walker định rằng bọn mình sẽ hạ dần cấp độ cổ phiếu này xuống mức “nên tích lũy” và rồi có thể là xuống mức nên nắm giữ”. Ông ấy nói rằng bọn mình sẽ chậm rãi hạ mức cổ phiếu này và dần dần. Bọn mình có thể thực hiện việc này khi giá cổ phiếu đang phục hồi kha khá, lúc này sẽ không có nhiều người để ý tới và như vậy giá cổ phiếu sẽ không bị sụt giảm. Ông ấy cho rằng rồi cuối cùng, bọn mình có thể ngừng đưa tin tức. Ông ấy nói rằng, dù sao đi nữa thì đến lúc đó hãng cũng không còn nhiều việc để làm với công ty này nữa. Bên cạnh đó, không có ai ngoài hãng bọn mình biết được rằng đã ngừng đưa tin tức. Bọn mình cứ âm thầm thực hiện thôi. Bọn mình sẽ ngừng phát hành các báo cáo mới và cứ để đánh giá cũ về cổ phiếu UCBS lấp lửng như vậy, và.. “Và để cho hàng nghìn nhà đầu tư nhỏ lẻ chịu trận?” Tamara phản biện lại, nhưng những lý lẽ của cô lúc này không hề mang tính thuyết phục. “Thôi nào, để cho mình thở một chút. Mình chỉ là một trợ lý thôi mà. Mình chẳng có trách nhiệm gì ở đấy cả. Don còn nói rằng nếu các nhà đầu tư nhỏ lẻ mua cổ phiếu thì đó không phải là vấn đề của bọn mình. Ông ấy cho rằng bọn mình đang làm đúng đối với các khách hàng VIP của bọn mình. Rồi bọn mình sẽ hạ giá cổ phiếu này ngay khi có thể, vì phải cân nhắc những vấn đề chính trị chết tiệt ấy mà. Mình ghét như vậy, nhưng ngoài việc đó, mình còn có thể làm gì hơn?” Cuối cùng thì đợt “phục hồi kha khá” của cổ phiếu chỉ là một đợt tăng ngắn hạn và chuyên gia của hãng Harris & Jones đã lỡ cơ hội hạ mức cổ phiếu. Hàng tháng sau, những lời đồn đại rằng UCBS bị cạn kiệt tiền mặt và thậm chí có khả năng phá sản bắt đầu lan ra. Nhưng cả hãng Harris lẫn bất kỳ hãng nào khác đều không có cơ hội nào để hạ mức một cổ phiếu công ty này, cho tới khi giá cổ phiếu chỉ còn dưới 6 đô-la/cổ phiếu... và ngay cả lúc đó thì đánh giá tệ nhất về UCBS trên Phố Wall vẫn là “nên nắm giữ”. Các khách hàng VIP của hầu hết các hãng ngân hàng đầu tư lớn không thể không quan tâm đến vấn đề này. Họ đã mua cổ phiếu UCBS từ đợt chào bán lần đầu ra công chúng với mức giá 3 đô la/cổ phiếu. Sau đó, khi nhận được những cú điện thoại cảnh báo từ các chuyên gia, họ đã bán ra cổ phiếu này ở mức 30 đô-la/cổ phiếu - một khoản lãi ngoạn mục với tỷ lệ 1 ăn 10. Ngược lại, các nhà đầu tư bình thường, những người làm theo khuyến nghị trên kênh CNBC hoặc báo chí, đã thua lỗ thảm hại. Đa phần họ mua vào cổ phiếu này khi chúng đang ở thời kỳ cực thịnh, với mức giá từ 40 đến 60 đô-la. Không ai trong số họ từng nghe thấy hoặc đọc được từ “nên bán”. Do vậy, họ phải chịu một kết cục cay đắng. PHỐ WALL BIẾN THÀNH MỘT CHIẾC MÁY Ổ Ả NGỐN KHỔNG LỒ VÀ Đà XƠI TRỌN CỦA CẢI CÚA BẠN CHO BỮA TRƯA Trong thế giới hiện thực của Phố Wall, những cảnh tượng như vậy có thể lặp đi lặp lại ở khắp nơi. Tháng 4/1999, Mary Meeker, chuyên gia chứng khoán của hãng Morgan Stanley Dean Witter - vốn được tờ tạp chí tài chính Barrorn’s mệnh danh là: “Nữ hoàng Internet” - đã đưa ra một đánh giá nên mua đối với cổ phiếu của Priceline.com đang ở mức 104 đô la/cổ phiếu. Trong vòng 21 tháng, cổ phiếu này đã bị nướng bay khi được bán ở mức giá 1,5 đô-la. Các nhà đầu tư nghe theo khuyến nghị của cô nàng Meeker đã thua lỗ 98% số tiền đầu tư của mình. Họ đã biến núi tiền trị giá 10.000 đô-la của mình thành một đống giấy vụn 144 đô-la. Có vẻ như chẳng hề nản lòng hay ngượng ngùng, cô nàng Meeker lại tiếp tục đưa ra các đánh giá nên mua đối với cổ phiếu Homestore.com Yahoo!, Amazon.com, Drugstore.com,... Các phương tiện thông tin đại chúng ngay lập tức truyền tải đi khuyến nghị này. Hàng triệu nhà đầu tư ngây thơ đã giẫm đạp lên nhau để có thể trở thành những người đầu tiên làm theo lời khuyên đó của cô nàng. Sau đó, cổ phiếu Yahoo sụt giảm 97%; Amazon, com là 95%; Drugstore.com là 99%; và Homestore.com là 95,5%. Nguyên cớ gì mà cô nàng Meeker đã đưa ra những khuyến nghị tồi tệ đó? Và tại sao cô nàng này vẫn ương ngạnh giữ nguyên các đánh giá nên mua ngay cả khi giá các cổ phiếu đó đã sụt giảm 20%, 50%, 70% và rồi cuối cùng là tới 99%? Câu trả lời là: Với mỗi khuyến nghị nên mua mà cô nàng Meeker đưa ra, thì công ty nơi cô làm việc - Morgan Stanley Dean Witter sẽ nhận được một khoản tiền vì đã quảng bá cho các cổ phiếu. Bộ phận bảo lãnh của Morgan Stanley được trả hàng triệu đô- la. Và Morgan Stanley đã thưởng cho cô nàng Meeker tấm séc trị giá 15 triệu đô-la - vì đã giúp công ty thực hiện ngoạn mục các vụ này. Trong khi hàng triệu nhà đầu tư đang phải chịu trận thì Morgan Stanley Dean Witter và Mary Meeker, cũng như các công ty có cổ phiếu được quảng bá lại hả hê với khoản tiền kiếm được. Đây có phải là trường hợp duy nhất không? Không hề. Năm 1999, các nhà lãnh đạo hàng đầu của Salomon Smith Barney nhận được một tin gây sửng sốt: AT&T đang có kế hoạch chào bán bộ phận công nghệ không dây khổng lồ của mình ra công chúng và đây sẽ là một đợt IPO lớn nhất trong lịch sử. Lẽ tất nhiên, các hãng môi giới Phố Wall đều muốn trở thành tổ chức bảo lãnh cho đợt IPO có một không hai này. Và cả vì lý do là: mức phí họ nhận được sẽ lên tới hàng triệu đô-la. Nhưng Salomon lại gặp phải một vấn đề nhỏ. Một trong các chuyên gia chứng khoán hàng đầu của hãng, Jack Grubman, từng đưa ra nhận định không tốt về AT&T. Liệu điều đó có nghiêm trọng không? Không, ở Phố Wall vào cuối những năm 1990 thì không. Các chuyên gia của Salomon quyết định sẽ xoay chuyển lập luận của mình nhằm giành được vụ bảo lãnh phát hành cho AT&T, Grubman đã khéo léo biến chuyển đánh giá về cổ phiếu này ở mức nên mua. Các hãng lớn đều thu được món lợi kếch xù từ việc mua cổ phiếu này. Salomon được vinh danh là nhà bảo lãnh hàng đầu và kiêm được hàng triệu đô-la. AT&T được đánh giá tốt và thực hiện đợt IPO thành công mỹ mãn... và còn kiếm được hàng triệu đô-la. Grubman, người hùng tạo nên chiến thắng đó, đã được hưởng mức lương hàng năm lên tới 20 triệu đô- la. Vậy mà, khoảng 4,8 triệu nhà đầu tư lại phải gánh chịu một kết cục không công bằng trong thương vụ này. Họ cho rằng đánh giá nên mua của Grubman về cổ phiếu này là sự đánh giá trung thực. Họ không hề biết rằng thực ra đó chỉ là cổ phiếu rẻ mạt được thổi phồng lên mà thôi. Họ đã đặt lòng tin vào Salomon và Grubman. Họ đã mua cổ phiếu của AT&T Wireless. Để rồi sau đó, họ phải hãi hùng chứng kiến cảnh cổ phiếu này sụt giảm từ 29,5 đô-la xuống còn có 14,75 đô-la - một khoản lỗ 49,7%. Một số ví dụ khác: Mark Kastan của hãng Credit Suisse First Boston khen ngợi cổ phiếu Winstar không khác gì Grubman ca ngợi AT&T. Gã đã liên tiếp đưa ra các đánh giá với khuyến nghị nên mua đối với cổ phiếu này cho đến lúc xảy ra kết cục cay đắng cho nhiều người khác. Chẳng ngạc nhiên khi: hãng của Kastan đã sở hữu số cổ phiếu Winstar trị giá 511 triệu đô-la. Năm 2000, một chuyên gia của Goldman Sachs đã đưa ra 11 đánh giá rất tốt về một số loại cổ phiếu, để rồi sau đó khiến các nhà đầu tư thua lỗ tới 71% số tiền của họ. Gã này được trả 20 triệu đô-la tiền công cho các phi vụ này. Một trong các khuyến nghị ít tồi tệ nhất trong năm của gã đã làm giảm 71%; còn khuyến nghị tồi tệ nhất thì làm giảm tới 98,8% số tiền của các nhà đầu tư. Trong khi đó, Henry Blodget làm việc tại Merrill Lynch trở nên nổi tiếng khi dự đoán cổ phiếu sẽ lên tới mức 400 đô la. Nhưng chẳng bao lâu sau, cổ phiếu này lại được bán dưới mức giá 11 đô-la. Blodget cũng dự đoán rằng cổ phiếu Quokka Sports sẽ đạt 1.250 đô-la. Kết cục là công ty này phá sản. Blodget còn liên tiếp đưa ra các đánh giá nên mua mạnh các cổ phiếu của Pet.com (sau đó đã ngừng hoạt động), eToy (giảm 95% giá trị), InfoSpace (giảm 92% giá trị) và BarnesandNoble.com (giảm 84% giá trị). Khi các nhà đầu tư thua lỗ hàng triệu đô-la thì Merill Lynch xơi gọn 100 triệu đô- la chỉ qua các đợt IPO của các công ty mạng kể trên. Trong các trường hợp trên, tất cả mọi người đều trở nên giàu có ngoại trừ các nhà đầu tư. Các hãng môi giới kiếm được hàng chục triệu đô-la. Các nhà phân tích cũng vậy. Các công ty được ca ngợi cũng kiếm được hàng trăm triệu đô-la. Nhưng các nhà đầu tư tội nghiệp lại trắng tay. Tamara Belmont càng ngày càng hiểu rõ ràng về những trò bất lương này của Phố Wall. Cô biết rằng đó không phải là những việc làm tình cờ. Cô hiểu rằng đây không chỉ đơn thuần là “sự nhầm lẫn” như nhiều đồng nghiệp cho là như vậy. Đó là các chiến dịch được dàn xếp nhằm lừa đảo công chúng. Đó là các nỗ lực công khai của những nhân vật ở Phố Wall hòng làm giàu trên túi tiền của các nhà đầu tư. “Cậu có muốn biết một kinh nghiệm hữu ích không?”, cô hỏi người bạn cũ của mình trong một dịp ghé thăm bạn vào cuối tuần. Cô đưa cho bạn mình một tờ giấy. “Cậu hãy dán cái này vào gương nhà tắm để sẽ không bao giờ quên.” Các chữ viết trong tờ giấy được đánh với cỡ 36, in đậm, có nội dung như sau: ĐỪNG MONG CÓ LÒNG NHÂN ĐỨC Ở PHỐ WALL. CÁC HÃNG LỚN KHÔNG KINH DOANH ĐỂ LÀM GIÀU CHO BẠN. HỌ KINH DOANH ĐỂ LÀM GIÀU CHO CHÍNH HỌ Vào thời điểm đó, đây là kiểu suy nghĩ cấp tiến và chưa từng được bàn luận trước công chúng. Tuy nhiên về sau này, các bí mật xấu xa nhất của Phố Wall đã bị vén màn trước tất cả mọi người. SỰ PHẢN BỘI QUÁ ĐÁNG Tháng 8/2001, CEO của SEC đã xác nhận trước quốc hội rằng gần như tất cả các hãng lớn trên Phố Wall đều có liên quan đến việc gây ra các mâu thuẫn về quyền lợi. Và năm tiếp theo, Elliot Spitzer - Tổng Chưởng lý bang New York, tuyên bố rằng các mưu đồ đó là “một sự phản bội quá đáng đối với lòng tin [của các nhà đầu tư] và là sự lạm dụng hết sức tồi tệ đối với hệ thống, đã cố tình làm sai luật nhằm tăng lợi tức cho công ty.” Không phải lúc nào Phố Wall cũng như vậy. Các thập kỷ trước đó, ít nhất sẽ có một vài chuyên gia phân tích của các hãng lớn sẽ cố gắng tìm ra các điểm dối trá và chỉ ra các yếu kém của các công ty niêm yết. Tuy nhiên, các hãng ở Phố Wall vào những năm 1990 không có những tiếng nói phản biện, rồi lại có những trường hợp ca ngợi công ty niêm yết và thậm chí thổi phồng những lập luận nhằm bán được chứng khoán. Điều gì ẩn giấu đằng sau thay đổi này? Những điều khiến các CEO chỉ nói đúng một nửa sự thật hoặc nói dối hoàn toàn về doanh số và lợi nhuận của công ty họ là tiền bạc và danh lợi. Trước kia, phần lớn thu nhập của các công ty môi giới Phố Wall là các khoản phí môi giới - thực hiện mua và bán chứng khoán thay mặt cho nhà đầu tư. Giờ đây, phần lớn số tiền họ kiếm được lại là từ phí quỹ đầu tư - thực hiện quảng bá và giới thiệu các cổ phiếu thay mặt cho các khách hàng tổ chức. Nói đơn giản, các hãng lớn tại Phố Wall trước kia từng làm việc hầu như chỉ để phục vụ các nhà đầu tư tìm cách mua cổ phiếu. Còn giờ, đa phần họ lại quay sang phục vụ các công ty niêm yết tìm cách bán cổ phiếu cho các nhà đầu tư. Một sự thay đổi tương tự cũng diễn ra rộng khắp đối với các chuyên gia phân tích làm việc trong các hãng ở Phố Wall. Những năm trước, phần lớn số tiến thù lao họ nhận được là từ khoản lương cổ định. Còn bây giờ, đa phần thù lao có được từ các khoản thưởng liên quan trực tiếp đến khả năng của họ trong việc nhẫn nhịn quảng bá cho các cổ phiếu. Thực tế, thông điệp từ các công ty môi giới ở Phố Wall đến các nhà phân tích lúc này là: “Càng giúp chúng tôi bán được nhiều cổ phiếu, bạn càng kiếm được nhiều tiền.” Còn đối với các nhà phân tích không nghe theo thông điệp đó, thì lại có một thông điệp mạnh mẽ hơn tiếp theo sau: “Hãy soạn các bản báo cáo làm tổn hại tới doanh số bán hàng và bạn sẽ được ghi vào lịch sử!” Một ví dụ điển hình: năm 2001, ngay trước khi xảy ra vụ sụp đổ Enron, Chung Wu, một nhà phân tích của UBS PaineWebber, đã gửi e-mail đến các nhân viên của Enron cảnh báo họ về việc nắm giữ cổ phiếu của công ty này - khi đó đang ở mức giá 37 đô-la – là không khác gì việc “đánh cược với số phận”. E-mail này khiến ban giám đốc Enron giận điên lên và phản đối PaineWebber dữ dội. Chung Wu bị sa thải, còn Paine Webber vội vàng đưa ra một khuyến nghị mới với nội dung nên mua cổ phiếu Enron, còn “vấn đề nhỏ” kia lại lắng xuống. Ba tháng sau, cổ phiếu Enron bán ra với giá chưa đầy 25 xu. Không một hãng môi giới lớn nào ở Phố Wall lại giới hạn số tiền thù lao dành cho các nhà phân tích dựa trên kết quả thật sự trong việc lựa chọn các cổ phiếu của họ. Ngược lại là đằng khác. Các nhà phân tích có thể sai lẩm một lần, hai lần, một nghìn lần, nhưng họ vẫn nhận được các khoản tiền thưởng kếch xù, miễn là họ tiếp tục đưa ra khuyên nghị tốt về các cổ phiếu và với điều kiện vẫn còn “những kẻ khờ khạo” tiếp tục lao vào mua những cổ phiếu đã bị thổi phồng này. Đó là điều mà các bộ phận ngân hàng đầu tư mong muốn và là cách thức thực hiện của họ. Thế nếu thực tế cho thấy tình hình tài chính của một công ty nào đó đang xuống dốc thì sao? Nếu có nhà phân tích nào đó không ưa gì công ty niêm yết thì sao? Những điều đó có tạo ra sự khác biệt nào không? Không. Để kiểm chứng, bất kỳ ai cũng có thể vào xem trang web của Tổng Chưởng lý bang New York và xem phần cáo buộc của Elliot Spitzer đối với Merrill Lynch. Bạn sẽ thấy những điều mà các nhà phân tích của Merrill nói sau lưng các nhà đầu tư vể các cổ phiếu mà họ từng quảng cáo rùm beng ra công chúng. Loại cổ phiếu từng một thời lừng lẫy của công ty mạng Infospace đã được Merrill chính thức đưa ra lời khuyên “nên mua”. Tuy nhiên, trong các e-mail nội bộ của Merrill mà Spitzer phát hiện ra, lại thể hiện là người của Merrill lại có ý kiến hoàn toàn trái ngược. Họ viết rằng Infospace là một “thứ rác rưởi”. Kết quả là: các nhà đầu tư tin vào phân tích của Merrill đã thất bại thảm hại. Họ bị mất tới 93,5% số tiền đầu tư khi Infospace sụp đổ. Lời khuyên mà Merrill đưa ra đối với một loại cổ phiếu nóng khác, Excite@Home, là “nên tích lũy!” Vậy mà, trong các e-mail nội bộ, các chuyên gia phân tích Merrill đã viết rằng Excite@Home chỉ là đồ bỏ đi. Kết cục: Các nhà đầu tư tin tưởng vào Merrill đã mất tới 99,9% số tiền khi Excite@Home phá sản. Khuyến nghị của Merrill Lynch đối với cổ phiếu của 24/7 Media cũng vậy, “nên mua!” Còn các nhận xét nội bộ của Merrill mà Spitzer phát hiện được là “24/7 Media cũng chỉ là đồ rác rưởi”. Kết quả: các nhà đầu tư tin vào khuyến nghị của Merrill đã mất 97,6% số tiền của họ khi 24/7 Media sụp đổ. Tại sao họ lại làm như vậy? Bởi Merrill Lynch kiếm được hàng trăm triệu đô-la từ các công ty nhờ việc họ thuyết phục các nhà đầu tư nên mua. Vì các chuyên gia phân tích của hãng được thưởng tới hàng triệu đô-la khi giúp các công ty đó bán cổ phiếu mặc dù biết rằng các cổ phiếu này không đáng giá một xu. Và có thể vì một điều nữa không kém phần quan trọng, đó là những người công khai bất đồng với ý kiến của công ty chắc chắn sẽ phải lãnh chịu hậu quả khôn lường. Mối quan hệ giữa Merrill Lynch với Enron là một ví dụ điển hình. Tháng 4/1998, hai giám đốc cao cấp của Merrill đã gửi thông báo khẩn đến chủ tịch hãng, trong đó họ than phiền về một chuyên gia phân tích của Merrill đã không có tinh thần hợp tác. Họ cho biết chuyên gia phân tích này đã mắc một lỗi nghiêm trọng khi đưa ra đánh giá có vẻ “nhạt nhẽo” về Enron và điều này khiến phía Enron trở nên không có thiện cảm với chuyên gia phân tích này. Họ kết luận rằng điều này đã dẫn đến hậu quả là Merrill Lynch đã để xổng mất một thương vụ ngân hàng đầu tư có lợi cho Enron. Không hề ngạc nhiên, ngay mùa hè năm đó, Merrill đã thay chuyên gia thiếu tinh thần hợp tác đó bằng một chuyên gia khác. Tay này đã mau mắn nâng hạng đánh giá Enron lên thành loại cổ phiếu nên mua. Và kết quả là ngay đầu năm 1999, Enron đã đền ơn cho Merrill bằng một thương vụ ngân hàng mang lại cho hãng này một khoản phí là 45 triệu đô-la. Các tay bào chữa cho Merrill Lynch lập luận rằng Enron chỉ là trường hợp duy nhất và e-mail của các những nhân viên phân tích mà ngài Spitzer phát hiện ra chỉ là “những con sâu bỏ rầu nồi canh.” Nhưng những lập luận này không hề đúng. Các công ty đó chỉ là một số trong hàng tá các công ty mà Merrill từng đánh bóng. Các công ty này đã kiếm được hàng triệu đô-la từ các nhà đầu tư khi cổ phiếu của họ tăng giá. Bộ phận ngân hàng đầu tư của Merrill đã thu về 115 triệu đô-la tiền phí cho 52 giao dịch ngân hàng đầu tư từ các công ty mà họ đã thổi phồng. Còn các chuyên gia đưa ra những đánh giá dối trá đó cũng kiếm chác kha khá trong các phi vụ đó - với các khoản tiền thưởng kếch xù gắn với doanh số bán cổ phiếu. Trong khi đó, các nhà đầu tư tin tưởng vào các đánh giá đó bị rơi vào cảnh khốn cùng. Các tay bào chữa của Phố Wall cũng cho rằng Merrill Lynch là trường hợp tệ nhất và các hãng khác không đến nỗi tệ như vậy. Thế nhưng, lập luận này cũng sai nốt. Bản thân Tổng Chưởng lý Spitzer cũng phải cảnh báo rằng nếu các hành động của Merrill đã hèn hạ đến như vậy thì hành động của các hãng môi giới lớn khác chắc chắn sẽ còn tệ hơn. Thực tế, những điều tra mới về Salomon Smith Barney khiến các hành vi lừa đảo của Merrill chưa là gì khi so sánh với hãng này. Từ năm 1997 cho đến năm 2002, Salomon Smith Barney, một đơn vị của Citigroup, đã thu được số tiền 809 triệu đô-la từ dịch vụ bảo lãnh phát hành cho các công ty trong mảng viễn thông, cộng thêm 178 triệu đô-la từ dịch vụ tư vẵn sáp nhập, lóng cộng là gần một tỷ đô-la tiền phí - số tiền cao hơn so với bất kỳ hãng môi giới nào khác ở Phố Wall có thể thu được. Cùng thời gian đó, Salomon và siêu sao viễn thông Jack Grubman đã tung ra khắp Phố Wall các khuyến nghị tốt đẹp về các công ty vốn là nguồn gốc của khoản tiền từ trên trời rơi xuống trị giá gần một tỷ đô-la trên: AT&T, Verizon, WorldCom, Global Crossing, Level 3 Communications, Qwest Communications và nhiều công ty khác. Có thể dự đoán trước, các nhà đầu tư đều tin tưởng Salomon đã bị đánh cho tơi bời khi mất tới 77,8% số tiền của mình với AT&T, 92,6% với Qwest, 99% với WorldCom, 97% với Level 3 Communications và 99,9% với Global Crossing. Tổng cộng, có tới 14 công ty viễn thông mà Grubman và Salomon thuyết phục các nhà đầu tư mua cổ phiếu đã bị vỡ nợ hoặc đệ đơn phá sản. Nhìn đâu ở Phố Wall cũng thấy những cảnh tượng tương tự. Joseph Wolf tại UBS Warburg đã đưa ra tới 10 khuyến nghị nên mua cổ phiếu của Optical Communications Products trong thời gian từ tháng 11/2000 đến tháng 7/2002, để rồi cổ phiếu này giảm từ 18,88 đô-la xuống còn 1,19 đô-la. Tháng 7/2001, Linda Mutschler tại Merrill Lynch đã đưa ra đánh giá nên mua cổ phiếu Sprint PCS, lúc này đang ở mức 24,8 đô-la. Sau đó đầu năm 2002, cô ta nâng mức đánh giá cổ phiếu này lên thành mua mạnh, ngay trước khi cổ phiếu này sụt giảm tới 50%. James Parmelee, chuyên gia của Credit Suisse đã đưa ra 11 đánh giá nên mua mạnh đối với cổ phiếu Corvis Corporation trong khoảng thời gian từ tháng 11/2000 đến tháng 10/2001, trong khi giá của cổ phiếu này giảm từ 26,69 đô-la xuống còn có 1,77 đô-la, tức là giảm 93,4% giá trị chỉ trong chưa đầy một năm. Đó là trò lừa đảo hay nhất mọi thời đại. Ngay cả băng đảng tội phạm mafia cũng còn phải tái mặt vì ghen tị với những thủ đoạn đó. chương 4 BONG BÓNG VỠ S au này, một số nhà đầu tư đã khám phá ra cách xoay chuyển tình thế ở Phố Wall để lấy lại khoản tiền đã mất trong danh mục đầu tư của mình. Họ muốn công bằng được thực thi. Đầu tiên mọi việc diễn ra bình thường nhưng cùng với sự phát triển lên đến cực điểm của những vụ bê bối, các nhà đầu tư bắt đầu phản đối. “Những kẻ hèn hạ đã làm nhiều việc xấu xa mà lại không bị trừng trị!” họ hét lên. “Ủy ban Chứng khoán (SEC) đâu rồi? FBI đâu rồi? Ai đó phải làm gì đi chứ!” Cuối cùng, các nhà cầm quyền cũng bắt giữ những tên vô lại của các tập đoàn lớn của Mỹ và Phố Wall. Các luật kế toán được xem xét kỹ lưỡng hơn. Họ đặt ra những nguyên tắc chỉ đạo mới cho các chuyên viên phân tích, tư vấn của thị trường chứng khoán. Một số người bị bắt giữ. John Rigas và hai con trai của ông là Timothy và Michael, thành viên ban giám đốc hãng truyền thông Adelphia, bị cách chức vào ngày 24/7/2002. Scott Sullivan, CFO của WorldCom và giám đốc cao cấp David Myers cũng như CEO Dennis Kozlowski của Tyco, tất cả họ đều phải chịu một kết cục giống nhau. Các nhà đầu tư reo hò vui vẻ. Thật không may cho các nạn nhân, những hành động của chính phủ vẫn quá ít ỏi và muộn màng. Những người bị hại đầu tiên đã bị cướp mất hàng tỷ đô-la và không một nhà chức trách nào có thể đền bù được những thiệt hại đó. Với các hãng môi giới ở Phố Wall, những hành động đó lại là quá nhiều và quá sớm. Khoản phí IPO giảm từ 51,5 tỷ đô-la vào năm 2000 xuống còn 8,4 tỷ đô-la vào quý I năm 2002, giảm 84%. Lơi nhuận của Merrill Lynch giảm còn 85% trong năm 2001. Lợi nhuận cũng sụt giảm ở Morgan Stanley, Lehnman Brothers và Goldman Sachs. Đây là thời điểm họ cần nhiều lợi tức nhất, các nhà làm luật và công chúng đã tấn công vào bản chất của chiến lược mở rộng thị trường và những nghiên cứu sai lầm của các công ty. Ở Ở một vài công ty lớn, tình hình thậm chí còn xấu hơn nhiều. Các số liệu kế toán bị sửa đổi, các khoản nợ lớn bị che giấu trong sổ sách các công ty con ở nước ngoài và còn rất nhiều khoản lỗ bị phủ lên bằng bản lợi nhuận dự kiến trong quỹ lương hưu của nhân viên. Bây giờ, các quy định đã bắt đầu thay đổi. Rõ ràng là, thời kỳ trì trệ mang lại thuận lợi cho họ trong những năm 1990 nay đã trở thành thòng lọng treo cổ họ vào những năm 2000. UCBS là ví dụ điển hình cho những sự kiện xảy ra sau đó. SỰ TRỞ LẠI CỦA CÁC KIỂM TOÁN VIÊN Vài tháng sau cuộc gặp đầu tiên với các tư vấn viên, CEO của UCBS thấy họ còn tiến hành một cuộc gặp tương tự với một công ty khác. “Chúng tôi là kiểm toán viên - không phải là tư vấn viên”, một tay khôn khéo trả lời. “Chúng tôi muốn đưa ra một vài câu hỏi về tình hình tài chính thực tế của UCBS.” Ngay lập tức, Paul Johnston giơ tay lên phản đối. “Đợi chút! Tôi đã biết tất cả. Chúng hoàn toàn hợp pháp.” Các kiểm toán viên lén lút nhìn nhau và sau đó, một người trả lời: “Trông bề ngoài thì có thể như vậy. Nhưng thực tế thì không. Ví dụ, hãy tận dụng những mối quan hệ hợp tác và các chi nhánh.” “Đừng nói với tôi những lý thuyết đó nữa”, Johnston phản đối. “Các hãng tên tuổi khác mà tôi biết có đến hàng trăm trụ sở và chi nhánh. Nếu so sánh với họ thì chúng ta chỉ là một công ty quá nhỏ bé. Chúng ta chỉ sở hữu chưa đến 49% vốn của mỗi chi nhánh. Đó là lý do tôi tập trung toàn bộ sổ vốn mình có vào một công ty. Liệu đó có phải là quy định không?” “Đúng, nhưng nó chỉ là một phần của quy định mà thôi. Quy định chỉ ra rằng nếu ngài có thể quản lý tốt các chi nhánh công ty thì số vốn ít không còn là vấn đề. Thậm chí, nếu ngài chỉ có 1% vốn thì ngài cũng có thể củng cố công ty của mình. Những công ty mà ngài nhắc tới như Tyco, Enron, v.v... đều thuê một nhóm luật sư lớn để tạo ra sự hợp pháp hóa về hình thức. Công ty ngài thậm chí còn chưa làm được điều đó.” LÀM SÁNG TỎ SỰ GIAN DỐI TRONG LƯƠNG HƯU Như thường lệ, các kiểm toán viên xem xét một lượt bản sao các bảng tính lớn trong máy tính và tập trung chú ý vào bảng dự kiến lương hưu cho người lao động. Giám đốc điều hành hít một hơi dài. Ông ta biết điều gì sắp xảy ra. Ngay từ đầu, ông ta đã cảm thấy lo sợ và càng ngày nỗi lo sợ càng tăng. “Tôi không cần phải nhắc lại với anh chứ”, ông ta nói với một tay kiểm toán viên, “anh đã nói rằng, thị trường cổ phiếu tăng vào cuối những năm 1990 đã tạo nên một đống vàng chưa từng có cho UCBS. Và bây giờ khi thị trường cổ phiếu sụt giá vào đầu những năm 2000 thì hũ vàng anh nói đến giờ chỉ còn là đống than chì và nó là đòn chí tử làm suy giảm lợi nhuận của chúng tôi trong những năm tới”. “Năm 2000”, ông tiếp tục, “thị trường sụt giảm mạnh kéo theo sự thâm hụt quỹ lương hưu và chúng ta đã cố tình lờ đi, nhưng đến năm 2001, thị trường lại tiếp tục sụt giảm và chúng ta vẫn tiếp tục lờ đi. Tuy nhiên, hiện tại, thị trường vẫn đang suy giảm và chúng ta không thể lờ nó thêm nữa. Chúng ta phải thừa nhận sự thâm hụt này. Đúng, chúng ta có thể kéo dài tình trạng này thêm một thời gian, nhưng nếu thị trường suy giảm hơn nữa...” Giọng ông kéo dài, gợi mở về một hậu quả khủng khiếp. Johnston chỉ có thể nghĩ được một lời bào chữa: UCBS cũng chỉ là một trong hàng trăm công ty chịu ảnh hưởng từ sự suy sụp thị trường chứng khoán. Ông ta nghĩ rằng có thể - chỉ là có thể - các nhà đầu tư không muốn giao dịch với UCBS. Vì vậy, sau nửa tiếng, cuộc thảo luận lại quay trở về tình trạng khủng hoảng tiền trợ cấp đang lan rộng trên toàn quốc. Theo điều tra của hãng Walson Wyatt tại 500 công ty của Mỹ, 87% cho biết tiền lương hưu của họ được thanh toán đầy đủ vào đầu năm 2000. Đến đầu năm 2002, khi chỉ số S&P 500 giảm 20% thì con số này giảm xuống chỉ còn 37%. Tổng thâm hụt của 234 công ty có chương trình hưu trí quyền lợi xác định trước thuộc S&P 500 lên đến hơn 78 tỷ đô-la. Nhưng ngay cả con số khổng lồ này cũng đã là dựa trên những nhận định hết sức lạc quan về thị trường và nền kinh tế. General Motors là một ví dụ. Năm 1999, tiền trợ cấp của GM có khoản thặng dư 4,5 tỷ đô-la nhưng đến cuối năm 2001, GM lâm vào tình trạng khủng hoảng với mức thâm hụt trong quỹ lương là 12,6 tỷ đô-la. Ford cũng đã đi từ số tiền dư 8,2 tỷ đô-la năm 1999 đến sự thâm hụt 2,4 tỷ đô-la. Năm 1999, hãng Delta Airlines có khoản dư nhỏ trong quỹ lương hưu là 148 triệu đô-la nhưng đến năm 2001, đã thâm hụt tới 2,3 tỷ đô-la. Thông thường, khi các công ty tính toán tổng quỹ lương hưu trong danh mục vốn đầu tư, họ luôn cố gắng làm sai lệch các khoản nợ tiềm tàng bằng ba cách: Họ đương nhiên cho rằng thị trường chứng khoán sẽ được bù lại trong năm tới, kể cả khi không có bằng chứng nào chứng minh cho sự phục hồi đó. Họ luôn tin vào sự phát triển vững chắc của nền kinh tế, thậm chí ngay cả khi thực tế là nó có khả năng suy thoái. Họ tin chắc những khoản đầu tư lớn sẽ quay trở lại, trong khi thực tế thì điều đó quá xa vời. Họ luôn sống ở thế giới trong mơ mà không ai đánh thức nổi. Nhưng khi những giấc mơ biến đi như cơn gió thoảng và thực tế hiện ra trên giấy tờ thì đó là lúc bắt đầu chuỗi ngày địa ngục. Họ phải đối diện với những món nợ khổng lồ phải thanh toán. Khi mọi việc đổ vỡ, những con số được đưa ra quả là khó tin. Hai phần ba các công ty trong s&p 500 nợ lương hưu của nhân viên. Mười ba công ty khác thâm hụt quỹ trợ cấp lương hưu hơn 1 tỷ đô la: General Motors (12,7 tỷ đô-la), Exxon (7,2 tỷ), Ford (2,5 tỷ), Delphi (2,4 tỷ), Delta Airlines (2,4 tỷ), United Technologies (2,3 tỷ), AMR (1,9 tỷ), Pfizer (1,3 tỷ), Procter&Gamble (1.1 tỷ); bốn công ty có mức thâm hụt 1 tỷ đô-la là: Chevron Texaco, Pharmacia, Goodyear, Raytheon; và 32 công ty có mức thâm hụt hơn nửa tỷ đô-la. Hơn 100 công ty có mức thâm hụt 100 triệu đô-la hoặc hơn. CÁCH CHE GIẤU CỦA CÁC KIỂM TOÁN VIÊN Cuộc họp giữa Johnston với các kiểm toán viên kết thúc trong sự tranh luận gay gắt. Các kiểm toán viên muốn UCBS sửa chữa sai lầm và ngay lập tức bắt tay vào việc điều chỉnh trên quy mô rộng để có thể kiếm được lợi nhuận nhưng Johnston lại muốn hoãn kế hoạch đó. Ông hiểu rõ những ý kiến tranh luận của họ và thậm chí còn đồng ý với hầu hết những ý kiến đó. Nhưng ông chưa sẵn sàng đặt cược cho kế hoạch tài chính đó. Ông vội vã quay trở lại bàn làm việc của mình trong khi người thư ký nhanh chóng nối liên lạc cho ông nói chuyện với giám đốc công ty kiểm toán. “Đầu tiên, các nhân viên tư vấn của ông đến và nói cho chúng tôi biết cần phải làm gì, làm như thế nào và tại sao tất cả đều hoàn toàn hợp pháp”, Johnston quát lên với những lời lẽ chua cay, “Nhưng mấy tháng sau, các kiểm toán viên của ông lại quay lại và nói với chúng tôi rằng mọi thứ mà các nhân viên tư vấn nói đều là sai lầm. Còn bây giờ đến lượt tôi nói với ông rằng: trừ phi ông triệu tập các kiểm toán viên của ông về hoặc cho qua tất cả sổ sách của chúng tôi, nếu không thì hãy nói lời tạm biệt với khoản tiền phí tư vấn béo bở đi.” Vì vậy, ngay cả khi các kiểm toán viên không thể khắc phục những vấn đề tài chính thì hành động duy nhất họ làm cũng chỉ là ghi chú lại các thông tin vào hồ sơ. Trong bản ghi chép, họ quy trách nhiệm ngụy tạo sổ sách kế toán thuộc về ban giám đốc và đặt ra những vấn đề nghi vấn. Nhưng sau đó, các bản ghi chép đó được xếp vào kho lưu trữ hổ sơ và không ai quan tâm đến nó nữa. Trong khi đó, trong bản báo cáo chính thức gửi cho các cổ đông, các kiểm toán viên này lại thực hiện một chiến lược hoàn toàn khác biệt. Họ cấp cho UCBS một giấy chứng nhận tình hình tài chính hiện tại của công ty như sau: “mọi giấy tờ và chứng từ của công ty đều hợp lệ”. Họ không hề đả động đến những số liệu thực tế. Trách nhiệm của họ là phải sửa chữa những sai lầm và cảnh báo cộng đồng? Đúng, nhưng đó không phải là điều khiến họ bận tâm. Họ có thể bị tố cáo vì những hành động gian lận, đi ngược lại sự kỳ vọng và ủy thác của mọi người? Đúng, nhưng điều đó cũng không khiến họ bận tâm. Các kiểm toán viên có thể dễ dàng bỏ qua nghĩa vụ và trách nhiệm của mình để thực hiện những hành vi che giấu tội lỗi. Một ví dụ thực tế: trong một vụ kiện lớn của SEC, tổ chức Waste Management (quản lý chất thải) đã bị nêu tên vì những trò bịp bợm trong sổ sách kế toán nhằm che giấu 1,7 tỷ đô-la chi phí từ năm 1992 đến năm 1997, trong đó, hai giám đốc cấp cao phải có trách nhiệm bồi hoàn 28,4 triệu đô-la. Trước đó, khi tiến hành điều tra các kiểm toán viên đã phát hiện ra những vấn đề rắc rối ở công ty này nhưng khi ban giám đốc công ty lờ đi những kiến nghị của họ thì họ cũng cho qua chuyện này. HẦU NHƯ CÁC KIỂM TOÁN VIÊN LUÔN THẤT BẠI TRONG VIỆC CẢNH BÁO NHỮNG RẮC RỐI TÀI CHÍNH Đầu năm 2002, hãng truyền hình cáp khổng lổ Adelphia Communications đã công khai khoản nợ 2,3 tỷ đô-la chưa từng được công bố trong các bảng quyết toán trước đây. Các nhà đầu tư cảm thấy bất lực khi chứng kiến giá cổ phiếu giảm từ 25 đô-la vào ngày 11/3 xuống còn 11,83 đô-la vào ngày 2/4. Sự sụt giảm này khiến tài khoản của họ bị thiệt hại quá nửa chỉ trong ba tuần. Chỉ một năm trước khi sự việc bị vạch trần, các kiểm toán viên ở Deloitte và Touche đã cấp giấy chứng nhận đảm bảo tính pháp lý của các hoạt động của công ty này. Đến ngày 25/6, những vụ bê bối tài chính của Adelphia đã chính thức đẩy các nhà đầu tư rơi vào phá sản hoàn toàn. Giữa nám 2002, Xerox tuyên bố sẽ giải trình lại về khoản thu nhập 2 tỷ đô-la năm 1997 và đồng ý thanh toán cho SEC khoản phạt 10 triệu đô-la, một khoản phạt lớn nhất thuộc kiểu này từ trước đến nay. Mới 13 tháng trước đó, các kiểm toán viên KPMG đã cấp cho họ báo cáo xác nhận tình hình tài chính vững mạnh. Enron, WorldCom và ít nhất là 29 tập đoàn khác đều dính líu đến việc có được những báo cáo xác nhận tình hình tài chính từ các kiểm toán viên không lâu trước khi những rắc rối tài chính bị phanh phui. Chúng đều là những công ty lớn, có tên tuổi và có khả năng chi phối thị trường với tổng giá trị lên đến 1.800 tỷ đô-la. Tuy nhiên, đó chỉ là bề nổi của tảng băng trôi. Vẫn còn nhiều công ty đang tìm cách che giấu những mánh khóe hoặc hợp pháp hóa sổ sách. Rõ ràng là những thủ thuật kế toán không chỉ được giới hạn ở một số trường hợp mang tính điển hình và nhiều người biết đến như Enron và WorldCom. Nó đã trở thành một dịch bệnh lan tràn khắp nước Mỹ. Nó cũng không chỉ giới hạn ở Arthur Anderxen, công ty kiểm toán đầu tiên bị kết án gian lận. Việc phê duyệt các nghi vấn tài chính đã trở thành một việc thông thường trong quy trình hoàn tất thủ tục và hổ sơ đánh giá tài chính của các công ty ở cả năm hãng kiểm toán lớn nhất nước Mỹ. Không chỉ có Arthur Andersen mà còn cả Deloitte & Touche, Ernst & Young, KPMC và PricewaterhouseCoopers. Các hãng này đều phải chịu trách nhiệm cho những sai lệch trong sổ sách kế toán của các công ty trên. Đương nhiên, nếu sai phạm tài chính này không đáng kể, các kiểm toán viên sẽ không phải chịu trách nhiệm vì không nhận thấy vấn đề. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, sự thiếu nhất quán giữa sổ sách và thực tế lớn đến nỗi mọi sự điều chỉnh sau đó chỉ càng làm giảm khoản lợi nhuận thu được cũng như giá trị cổ phiếu của công ty. Vì vậy, khó có thể tin được rằng những người có trách nhiệm kiểm tra kỹ lưỡng tình hình kế toán của công ty lại là những người che giấu các vụ bê bối đó cho đến ngày nó được đưa ra ánh sáng. GIẢI PHÁP CỦA CHÍNH PHỦ: CÁCH KHẮC PHỤC BÌ NGOÀI Trong suốt những năm cuối của thập kỷ 1990, Arthur Levitt nguyên chủ tịch ủy ban Chứng khoán SEC, đã cố gắng sửa chữa những sai lầm trên. Trước quốc hội, ông đưa ra kiến nghị cần phải có sự tách bạch rõ ràng giữa công việc của đội ngũ tư vấn viên và kiểm toán viên nhưng quốc hội Mỹ đã gạt đi mà không để ý tới kiến nghị đó. Cuổi cùng, năm 2002, Quốc hội Mỹ cũng đã thông qua dự luật Cải cách tình hình tài chính công và bảo vệ các nhà đầu tư (Public Company Accounting Reform and Investor Protection) nhằm gây khó khăn cho các công ty trong việc chỉnh sửa sổ sách. Luật mới này là một bước đi đúng đắn nhưng vẫn không thể khắc phục được tình trạng thực tế. Nó không giúp tách bạch hoàn toàn giữa công việc tư vấn và kiểm toán - một cách thức để giải quyết vấn đề. Nó không loại bỏ được động cơ làm giàu của các CEO, do đó họ vẫn tiếp tục sử dụng những mánh khóe gian lận trong thị trường chứng khoán. Nó cũng không xóa bỏ được những xung đột sâu rộng về lợi nhuận ở Phố Wall. Ihậm chí nó còn không để cập nguy cơ tài chính nghiêm trọng nhẫt, đó là những thủ thuật với quỹ lương hưu của nhân viên. Trong khi đó, ủy ban Chứng khoán cũng cố gắng giải quyết những trục trặc của hệ thống kiểm toán quốc gia bằng cách yêu cầu CEO của hàng trăm công ty lớn lấy tư cách cá nhân để chứng nhận rằng những bản tuyên bố tài chính của họ là đúng và xác thực. Đó là một hành động tốt, nhưng nó đã quên mất mục tiêu cơ bản là: tìm ra những mánh khóe nhằm hợp pháp hóa sổ sách kế toán của các công ty. Chương 5 TÚI ĐỒ TRANG ĐIỂM TRỊ GIÁ 17.000 ĐÔ-LA Đ ã quá hai giờ sáng nhưng Paul E. Johnston, CEO của UCBS, vẫn không tài nào ngủ được. Liệu có phải do các lỗ hổng, sai sót trong hệ thống tài chính kế toán của công ty khiến ông phải băn khoăn suy nghĩ? Không hẳn như thế vì trong vài tháng qua, ông đã biết cách giải quyết những vấn đề này. Hay đó là do ông quá lo sợ về việc công ty không có khả năng chi trả những hóa đơn đến hạn? Không đúng vì đó cũng là vẫn để ông có thể xử lý được. Điều đang thật sự day dứt trong thâm tâm ông là những lời của cô con gái trong cuộc nói chuyện điện thoại vài giờ trước. Cô đi thẳng vào vấn đề: “Những tin đồn đó có phải là sự thật không hả cha?” Cô muốn biết rõ sự thật: “Thật sự thì đang có chuyện gì xảy ra vậy cha?” Nhưng khi ông cất tiếng nói thì cô lại ngắt lời ông và từ chối nghe bất cứ thông tin nào. Cô cũng tiết lộ rằng mình đã mua cổ phiếu của UCBS nhưng lại không nói rõ đã mua bao nhiêu và cố gắng nhấn mạnh rằng đó không phải là một khoản đầu tư lớn. Tuy nhiên, Johnston hiểu rằng số tiền đó cũng khá lớn. Lấy hết can đảm, lần đầu tiên trong nhiều năm qua, ông nhận thấy mình đang làm điều mà mình đã thề là sẽ ngăn ngừa hết sức có thể, đó là: nói chuyện trực tiếp với một cổ đông. Nhưng thật oái oăm vì ông đang phải làm việc đó và người đó lại chẳng phải ai khác, lại chính là con gái của ông. Nhiều ngày sau, Johnston không tài nào ngủ được. Ông có thể tưởng tượng thấy con gái mình ngồi ở hàng ghế đầu trong hội nghị cổ đông hàng năm, lo lắng chờ đợi bài phát biểu của ông. Hoặc, ông cũng có thể tưởng tượng ra ánh mắt nhìn đầy trách móc của con rể. Không tài nào ngủ được, ông mở kênh CNN và các kênh tin tức khác. Cứ tối đến, lo lắng lại dâng lên trong ông. Ngày qua ngày, ngay trên trang nhất, ông có thể nhìn thấy bạn bè hay các đối thủ của mình bị còng tay và bắt đi. Ông luôn lo lắng tìm đọc từng dòng tin trên tờ New York Times Online. WORLDCOM THÚ NHẬN RẰNG CÔNG TY NÀY ĐẪ GIẤU NHẸM CÁC KHOẢN CHI TIÊU VÀ THỔI PHỒNG DÒNG TIẾN MẶT CỦA CÔNG TY LÊN TỚI 3,8 TỶ ĐÔ-LA (theo Andrew Ross Sorkin, thời báo New York Times ngày 26/2/2002). Tối qua, WorldCom, hãng vận tải đường dài lớn thứ hai quốc gia, thừa nhận đã khai man dòng tiền mặt của công ty lên tới hơn 3,8 tỷ đô-la trong suốt năm quý gần đây và đây được coi là một trong những trường hợp làm giả sổ sách doanh nghiệp lớn nhất. Tổng giá trị của WorldCom từng đạt mức cao nhất là 115,3 tỷ đô-la vào tháng 6/1999 khi giá cổ phiếu của công ty này lên đến mức 62 đô-la, nhưng giờ đầy tổng trị giá của WorldCom chỉ còn dưới 1 tỷ đô-la. Trước khi sự việc được vạch trần, cổ phiếu của công ty này đã giảm hơn 94% trong năm, giờ đây nó giảm xuống còn 26 xu sau vài giờ giao dịch đêm qua. Công bố do SEC đưa ra vào sáng sớm hôm nay cho biết những sai sót tài chính này là vụ việc đầu tiên, chưa từng có tiền lệ trong giới chứng khoán trước đây. Vài ngày sau đó, một bài báo khác lại khiến ông phải rùng mình. Tên tuổi các CEO và thành viên ban quản trị WorldCom được đăng ở vị trí nổi bật nhất. Tên tuổi cùng tất cả dữ liệu về những khoản tiền họ đã kiếm được từ việc bán cổ phiếu đều được phơi bày. Thậm chí, khi giá cổ phiếu giảm, họ vẫn tiếp tục khuyên mọi người mua và việc đó đã gây ra vụ gian lận tài chính lớn nhất trong lịch sử thế giới. Ngay trên mặt báo là ảnh của Bert C. Robert, Chủ tịch Hội đồng quản trị, người đã bán cổ phiếu của mình với giá 22,8 triệu đô-la... Tiếp đến là Scott D. Sullivan, CFO của công ty, với 44,2 triệu đô-la... James Quell Crowe, cựu Chủ tịch Hội đồng quản trị với giá 24,7 triệu đô-la... và Gerald H. Taylor, nguyên CEO của MCI có được 21,8 triệu đô-la. CEO John W. Sidgmore thậm chí còn kiếm được nhiều hơn, 87,3 triệu đô-la và Lawrence C. Tucker, thành viên của hội đồng quản trị là vượt trội hơn cả, ông ta dễ dàng thu về 110,8 triệu đô-la. Các nhà đầu tư cũng nhanh chóng nhận ra những thủ đoạn làm giàu bất chính của WorldCom trong khi đang phải chịu sức ép từ việc kinh doanh thua lỗ. Do vậy, họ rất muốn những kẻ vô lại này bị bỏ tù. Họ muốn thấy sự trừng phạt. HAI CỰU QUAN CHỨC CỦA WORLDCOM BỊ BUỘC TỘI VÌ NHỮNG HÀNH VI GIAN LẬN (theo Kurt Eichenwald, thời báo New York Times ngày 2/8/2002). Hôm qua, hai cựu CEO của tập đoàn viễn thông quốc tế khổng lồ WorldCom cũng đã bị buộc tội do thực hiện sự gian lận sổ sách lên tới hàng tỷ đô-la. Việc gian lận sổ sách đã giúp họ che đậy những khoản lỗ khổng lồ nhưng cuối cùng chính nó lại đẩy họ đến tình trạng phá sản. Bảy giờ sáng hôm qua, cơ quan FBI ở Hạ Manhattan đã tiến hành bắt giữ Scott D. Sullivan, nguyên CEO và David F. Myers, nguyên kiểm soát viên của WorldCom. Sau đó, họ bị giải đến tòa án liên bang để tiến hành xét xử. Hàng đêm, sau khi tất cả các nhân viên đã ra về, Johnston mệt mỏi thả người xuống chiếc ghế xô-pha bọc da trong phòng làm việc, chộp lấy chiếc điều khiển tivi, bồn chồn tìm kiếm các kênh tin tức, từ CNN, Fox, MSNBC và nhiều kênh tin tức khác nữa. Ngày càng nhiều người quen của ông xuất hiện trên màn hình, bị cảnh sát dẫn giải, hứng chịu những lời cáo buộc giận dữ, lê bước trong sự tủi nhục để rồi bị kết án và ngồi tù. Ngoài ra còn có tin tức về David B. Duncan, kiểm toán viên hàng đầu tại Arthur Andersen, cũng bị buộc tội vi phạm pháp luật, biện hộ cho những hành vi sai trái... Tiếp đến là Scott D. Sullivan, nguyên tổng giám đốc tài chính, và David F. Myers, nguyên kiểm soát viên của WorldCom đều bị buộc tội gian lận và làm giảm trị giá cổ phiếu... Và Samuel D. Waksal, nguyên CEO của tập đoàn ImClone cũng đã bị buộc tội vì giao dịch nội gián. Một tin tức khác cũng đập vào tai Johnston: “John J. Rigas, 78 tuổi, người sáng lập kiêm CEO của Adelphia, cùng hai con trai đã bị cơ quan liên bang bắt giữ lúc 6 giờ sáng hôm qua tại căn hộ ở Manhattan, khu Upper East Side...” “Những người này bị buộc tội đã sử dụng tiền của công ty một cách bất hợp pháp, từ những khoản cho vay cá nhân cho đến mua cổ phiếu, xây dựng sân golf trị giá 13 triệu đô-la, tổ chức những chuyến du lịch xa xỉ tới châu Phi và...” “Việc CEO của các công ty lớn đang phải đối mặt với cảnh tù tội không còn là chuyện hiếm mà đã trở nên phổ biến trong nhiều tháng gần đây.. “Hôm nay, Samuel D. Waksal, nguyên CEO của hãng công nghệ sinh học ImClone, đã bị bắt tại nhà riêng ở Manhattan và bị buộc tội dính líu đến giao dịch chứng khoán ngầm...” “Spitzer tiến hành khởi kiện đối với năm CEO thuộc lĩnh vực viễn thông vì các khoản thu cá nhân bất chính - trong đó có CEO của WorldCom là Bernard J. Ebbers, CEO của USA McLeod là Clark E. McLeod; chủ tịch hội đồng quản trị của Qwest - Phillip F. Anschutz, CEO của Qwest, Joseph P. N. Nacchio, cộng thêm cả nhà sáng lập kiêm chủ tịch hội đồng quản trị của Metromedia Fiber Networks là Stephen A. Garofalo...” “L. Dennis Kozlowski chủ tịch hội đồng quản trị kiêm CEO tập đoàn Tyco, vừa chính thức bị buộc tội...” Vào bốn giờ sáng ngày 18/9/2002, Johnston một lần nữa giật mình khi đọc tờ New York Times Online và thấy bài báo dưới đây: THÔNG TIN CHI TIẾT VẾ SỐ PHẬN CÁC GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH CỦA TẬP ĐOÀN TYCO. Tập đoàn quốc tế Tyco International là nơi nhiều nhà lãnh đạo hàng đầu bị buộc tội phá hoại công ty. Hôm qua, mạng lưới lừa đảo và tư lợi bất chính đã bị vạch trần và danh sách này bao gồm toàn bộ đội ngũ quản lý công ty. Báo cáo của Tyco chỉ ra rằng, nguyên CEO của công ty là L. Dennis Kozlowski với lối sống hám danh lợi và chi tiêu hoang phí đã bí mật lấy hàng chục triệu đô-la tiền cho vay của các giám đốc điều hành. Kozlowski đã phớt lờ ban giám đốc và không cần sự đồng ý của họ để đưa 56 triệu đô-la cho 51 nhà quản lý của Tyco, cộng thêm 39 triệu đô-la để thanh toán lợi tức thuế. Và số tiền này sẽ được phần định rõ ràng để thanh toán các khoản mà công ty đã vay của họ. Vụ bê bối của Tyco khiến nỗi sợ hãi của Johnston càng tăng lên. Một bản danh sách dài kê khai các vật dụng cá nhân đã được CEO này mua bằng số tiền của các nhà đầu tư ủy thác cho công ty này được đăng tải công khai trên tờ New York Times và tivi. Tiền mua bức bích họa Đức và một chiếc du thuyền 72.000 đô-la Túi đồ trang điểm: 17.000 đô-la Chuồng chó: 15.000 đô-la Giỏ đựng đồ khâu vá: 6.300 đô-la Màn cửa phòng tắm : 6.000 đô-la Hai bộ thảm: mỗi bộ là 5.960 đô-la Hai thùng rác mạ vàng: mỗi thùng là 1.650 đô-la Một thùng rác trị giá 1.650 đô-la! Một túi đồ trang điểm trị giá 17.000 đô-la! Tất cả đều được mua bằng tiền của các cổ đông! Ông không dám đọc tiếp những dòng tít hay những thông tin mới tương tự và ông thật sự rất lo lắng về tình hình hiện tại của mình. Ông cảm thấy sợ hãi vì có thể hình dung rõ ràng sự quay lưng lại của thị trường chứng khoán, tên tuổi của công ty ông sẽ xuất hiện trên các bài báo với những dòng tít lớn và gương mặt của chính ông được đăng tải trên kênh truyền hình CNN trông thật khờ khạo. Tuy nhiên, ngay sau đó, mọi cảm giác bồn chồn lại được thay thế bằng một chút tự hào. Ông không bao giờ lấy hết khoản tiền thưởng dành cho các giám đốc điều hành do các tư vấn viên đề xuất và việc này cũng đã được ban giám đốc tán thành. Ông cũng chưa từng một lần vượt quá giới hạn luật pháp mà các chuyên gia tư vấn đưa ra. Ô Tuy nhiên, ông cũng tự cảm thấy tội lỗi và bị đe dọa. Ông hối hận vì đã gian lận số tiền trợ cấp lương hưu. Ông ước mình chưa từng gây áp lực cho các kiểm toán viên để họ bỏ qua những sai sót số liệu. Nếu có thể quay trở lại thời điểm này vài năm trước thì ông có thể vạch ra một kế hoạch cho riêng mình, ngay cả nếu điều này đồng nghĩa với các hợp tác ngắn hạn và những hy sinh cá nhân và ngay cả nếu điều này có khiến số lượng vốn huy động và giá cổ phiếu của công ty sụt giảm, các nhân viên thất vọng và giảm nguồn vốn đầu tư của các cổ đông. Và khi đem ra so sánh, thì sự sáng suốt, khả năng kiểm soát, lòng tự trọng về lâu dài có thể khiến những vấn đề đó chẳng có gì đáng nói. Cú sốc cuối cùng mà ông gặp phải là vợ ông cho biết vợ chồng Linda, con gái ông, cũng bị mất tiền trong vụ đầu tư này. Họ đã đầu tư 80.000 đô-la vào cổ phiếu UCBS và mất 75% số tiền ngay cả trước khi những tin tức xấu bị lọt ra ngoài. Họ còn phải gánh chịu thêm một khoản thua lỗ nữa khi đầu tư 80.000 đô-la vào cổ phiếu viễn thông của Global Crossing, Qwest và WorldCom. Vợ ông cho biết: “Ngoại trừ ngôi nhà, Linda và Gabriel đã gần như khánh kiệt.” Chính lời nói ấy khiến ông nghĩ mình là kẻ gián tiếp gây nên những hậu quả đó. Vợ ông còn nói thêm: “Nếu lần này chúng cũng lại từ chối các khoản tiền giúp đỡ thì có lẽ chúng sẽ lại phải lấy khoản tiền học ít ỏi của bọn trẻ để sử dụng. Và chúng sẽ chẳng còn một xu.” Johnston gục người xuống. Vài ngày rồi vài tuần trôi qua, vị CEO của UCBS đã phải chịu đựng những lời chỉ trích. Ông phải tự đấu tranh với bản thân: lúc đầu là cố gắng bác bỏ, sau đó là tự thừa nhận lỗi lầm của mình khi đã làm tiêu tan cuộc sống của hàng nghìn nhà đầu tư, và bước cuối cùng, cũng là bước khó khăn nhất - đó là cố gắng lấy lại sự thanh thản trong tâm hồn và biến những cảm xúc đó thành hành động thiết thực. Ồng run rẩy phác thảo các mốc thời gian để bắt đầu quá trình xua đuổi những bóng ma đang ám ảnh mình. Ông sẽ thay đổi và đó là những thay đổi lớn trong hệ thống, chiến lược và cả văn hóa doanh nghiệp. Ông chợt nhớ đến một số CEO, như Warren E. Buffett, từng áp dụng chính sách loại bỏ việc thưởng các quyền chọn cho ban giám đốc từ rất lâu. Trong một buổi hội thảo của ủy ban Bảo vệ lòng tin cộng đầng và các doanh nghiệp tư nhân (Commission on Public Trust and Private Enterprise) tổ chức Ở New York, ông ngồi ở hàng ghế sau cùng với Buffett, Paul Volcker - cựu Chủ tịch FED, và vài người khác. Họ đã cùng đề xuất một cuộc cải cách triệt để cho các tập đoàn lớn của Mỹ - cụ thể là việc công khai số lượng cổ phiếu bán ra của ban giám đốc, coi các quyền chọn mua cổ phiếu cũng như các khoản chi tiêu, phải có sự đồng ý của cổ đông trước khi quyền chọn mua cổ phiếu được định giá lại, việc bán cổ phiếu của các ủy viên hội đồng quản trị phải được tiến hành chặt chẽ và có yêu cầu khoảng thời gian lâu hơn. Ồng muốn tham gia nhóm các nhà lãnh đạo doanh nghiệp này để được báo chí và công chúng coi là người tiên phong trong công cuộc cải cách doanh nghiệp. Hơn thế nữa, ông còn muốn hướng tới mục đích cao hơn là không phải nhìn thấy tên mình xuất hiện trong những bài báo như trên. Và như vậy, ông vẫn có thể lầy lại danh tiếng của mình. Tuy nhiên, để cứu được UCBS thì đã quá trễ. NỢ NẦN VÀ GIẢM PHÁT Nhiều khó khăn của UCBS không chỉ giới hạn trong các vấn đề kế toán, sổ sách đơn thuần. Nếu không, công ty đã có thể thực hiện điều chỉnh kịp thời, các cổ đông cũng có thể điều chỉnh mức giảm cổ phiếu xuống còn 30% hoặc 40%. Nhưng những rắc rối kế toán chỉ là phần nổi của tảng băng trôi. Vẫn đề chính là UCBS đã bị kẹt lại giữa khoản nợ đến kỳ phải trả và sự giảm phát - sự sụt giảm giá cả các mặt hàng chính của công ty. Nếu UCBS không rơi vào cảnh nợ nần thì nó vẫn còn tồn tại và có thể thanh toán hết các khoản nợ với khoản tiền mặt từ doanh thu. Ngoài ra, công ty cũng có thể vay nợ từ người này để thanh toán cho người kia. Nếu không phải vì sự giảm phát - sự sụt giảm lượng hàng bán ra và giá thành sản phẩm - thì UCBS đã có thể xoay sở được. Nếu sa thải hàng chục nghìn nhân công, bán đi hàng trăm công ty con và công ty liên doanh, và thậm chí bị suy giảm chỉ còn là một công ty chế tạo quy mô nhỏ như mới khởi đầu thì cũng không sao. Nhưng không. Hai áp lực - nợ nần và giảm phát lại xảy ra cùng lúc đối với UCBS. Từ nay đến cuối năm, UCBS phải thanh toán khoản nợ 1 tỷ đô-la và các thương phiếu đến hạn. Cũng trong thời gian đó, công ty không hề có hy vọng kiếm được đủ tiền để thanh toán các khoản nợ này. Thực tế, ba ngành cơ bản có ảnh hưởng mạnh mẽ tới UCBS là PC, viễn thông và mạng không dây cũng đang lâm vào tình trạng khủng hoảng. Đối với nền công nghiệp sản xuất PC, Johnston đã đọc được một bài báo của Goldman Sachs về sự kết hợp các phương tiện báo chí. Tiến hành khảo sát 100 CIO trong danh sách Fortune 1000, Goldman nhận thấy một thực tế là hơn một nửa nhà lãnh đạo đều mong muốn có thể giảm chi tiêu xuống dưới mức ngân quỹ dành cho IT. Chỉ có 8% trong số họ đang tiến hành nâng cấp hệ thống máy tính và 44% trong số đó trì hoãn việc nâng cấp máy tính sang năm sau. Johnston gửi bài báo đó cho phó tổng giám đốc phụ trách bán hàng để xem ý kiến của ông như thế nào. Ngay hôm sau, sau bữa ăn trưa, ngài phó tổng giám đốc nói: “Doanh thu từ mặt hàng PC của chúng ta đang sụt giảm! Hãy nhìn vào bảng số liệu bán hàng mà chúng ta có được. Doanh thu liên tục giảm trong vòng năm quý. Thật khủng khiếp! Mỗi khi chúng ta cho rằng thị trường máy tính đã chạm đáy thì nó lại sụt giảm một lần nữa. Không ai muốn nâng cấp máy tính nữa. Tôi không thể đổ lỗi cho họ. Máy tính của tôi ít nhất cũng nhanh hơn gấp 10 lần so với tốc độ mà tôi cần. Vậy tôi sẽ làm gì với một chiếc máy tính thậm chí còn có tốc độ nhanh hơn gấp 10 lần so với chiếc máy tính hiện tại của tôi? Điều đó đã quá rõ ràng.” Johnston vẫn lặng thinh, cố tỏ vẻ lạc quan: “Ngài bi quan quá đấy, hãy nhìn nhận mặt tích cực của vấn đề đi.” Ngài phó tổng giám đốc nhún vai và cười: “Ông cho rằng tôi bi quan. Vậy tôi sẽ chỉ cho ông thấy phân tích của Brian Gammage - chuyên gia của Gartner Dataquest. Ông ta nói: “Mọi thứ đang ngày càng trở nên tồi tệ, đây là kết quả tệ nhất từ quý ba năm ngoái và là thời điểm ảm đạm nhất trong một năm đầy tối tăm.” Những lời nói đó chả phải cũng đúng với tình hình kinh doanh mặt hàng PC của chúng ta hay sao?” “Vậy hãy bàn về ngành viễn thông.” “Ô, không. Đừng bắt tôi phải nói đến vấn đề này. Nhưng thôi được, nếu ông đã nài. Thực tế cho thấy, những “người họ hàng” viễn thông sẽ rất sung sướng đổi chỗ cho những người kinh doanh PC. Chắc chắn vậy, có thể hiện nay việc kinh doanh PC đang rơi vào hố, nhưng việc kinh doanh lĩnh vực viễn thông thậm chí còn đang bị hút vào cái hố khổng lồ của những khoản nợ, những khoản chi tiêu vượt mức và thậm chí cả những hành động phi pháp. Chắc ngài cũng biết về vụ phá sản của Global Crossing, WorldCom và có lẽ sắp tới là Qwest. Nhưng ngài có biết rằng chỉ từ năm 2000 đến 2002 có tới 82 công ty viễn thông đã nộp đơn xin phá sản không? Ngài có nhận ra rằng có quá nhiều doanh nghiệp trong ngành viễn thông đang đứng bên bờ vực sụp đổ tài chính và chính điều đó có thể làm tê liệt nhiều lĩnh vực chủ chốt trong nền kinh tế Mỹ không?” “Tình hình tồi tệ đến vậy sao?” “Còn tệ hơn thế ấy chứ!” “Thế còn công ty con chuyên về thiết bị di động của chúng ta thì sao?”, vị CEO vẫn giả vờ hỏi. “Ngành di động hiện nay như đang ở trong một vụ va chạm với năm chiếc ô tô đâm sầm vào nhau trên đường cao tốc vậy. Những người điều hành bộ phận di động của chúng ta luôn tự cho rằng mình là người thông minh và họ đã chi hàng tỷ đô-la vào những thứ gọi là Làn sóng thứ ba. Những thứ này có thể hữu ích đối với thể loại phim khoa học viễn tưởng hoặc kỷ nguyên kỹ thuật nào đó trong tương lai. Còn bây giờ, chúng chỉ là một trong những thứ cồng kềnh đắt tiền nhất mà lại không có ích gì lắm trong lịch sử nhân loại. Công ty con chuyên về công nghệ không dây của chúng ta đã đánh liều - bỏ ra gần 1/4 tỷ đô-la chỉ để đổi lấy một mẩu nhỏ của chiếc bánh. Ông có muốn nghe về con số các công ty trên thế giới đã chi cho những thứ thuộc về công nghệ 3G không? Đây nhé: chỉ riêng hãng Telecoms ở châu Âu là 260 tỷ đô-la; tại Mỹ là 1.000 tỷ đô-la. Nhưng tổng lợi nhuận thu về từ các khoản đầu tư này lại là con số 0. Một con số 0 to đùng, tròn trĩnh.” Trước đây vị CEO từng nghe tới những con số này từ các nguồn khác nhau. “Đó là lý do tại sao tôi khuyến khích họ nên tập trung kinh doanh điện thoại di động tốc độ chậm thông thường”, ông nói. “Nước cờ hay đấy! Nhưng doanh thu mảng này cũng đang cạn đi rồi. Có quá nhiều nhà sản xuất tung ra quá nhiều các mẫu sản phẩm khác nhau với những mức giá cạnh tranh gay gắt. Có quá nhiều các nhà cung cấp dịch vụ, quá nhiều các mạng chồng chéo lên nhau, có quá nhiều các thỏa thuận và giao kèo mua bán. Đó chính là những dấu hiệu của cuộc khủng hoảng thừa quy mô toàn thế giới! Đó là lý do tại sao sáu nhà cung cấp dịch vụ trên toàn nước Mỹ lại cắt giảm sử dụng vốn tới hơn 20% trong quý đầu tiên của năm 2002! Đó là lý do tại sao Nokia và Ericsson lại yếu đi. Đó cũng là lý do tại sao nên bán công ty con này trước khi quá muộn.” Johnston, với vẻ mặt lạnh lùng, chăm chú nhìn ngài phó tổng giám đốc trong giây lát. Ông không chắc liệu có nên thú nhận những mối lo ngại trong lòng mình về công ty hay không (điều đó khiến ông cảm thấy xấu hổ), hay là nên cố giữ một vẻ phản biện cứng rắn, như khi nói chuyện với các chuyên gia Phố Wall. Cuối cùng, ông quyết định kết hợp cả hai cách: “Tôi công nhận rằng chúng ta đã mắc những sai lầm nghiêm trọng trong lĩnh vực công nghệ cao. Tôi cũng công nhận rằng chúng ta đã không dừng lại và tự đặt ra những câu hỏi cơ bản nhất như: Công ty này có thu được lợi nhuận không? Công ty này có các tài sản hữu hình có thực không? Nhưng đó là một phần của trạng thái ung dung mà. Chúng ta có bị đuổi kịp không? Tất nhiên là có. Tuy nhiên, may thay, chúng ta lại là một công ty đa dạng hóa và...” Ngài phó tổng giám đốc ngắt lời, lắc đầu: “Tôi chỉ có một câu hỏi thôi.” “Ngài hỏi đi”, Johnston đáp lại. “Người ta nói rằng cuộc suy thoái năm ngoái là ngắn và nhẹ nhàng thôi, đúng không?” “Đúng.” “Người ta nói rằng hiện chúng ta đang trong giai đoạn phục hồi, có phải không?” “Phải.” “Vậy thì, nếu chúng ta gặp phải quá nhiều vấn đề, nếu hầu hết mọi người trong ngành của chúng ta đều gặp phải quá nhiều vấn đề trên toàn thế giới, thậm chí cả trong giai đoạn phục hồi - khi đó, ông có thể nói cho tôi biết điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta lại rơi lại vào một cuộc suy thoái ở mức trung bình không? Ông có thể cho tôi biết điều gì sẽ xảy ra nếu, lạy Chúa, chúng ta rơi vào một cuộc suy thoái trầm trọng hoặc kéo dài?” Cuộc gặp mặt kết thúc và Johnston không biết nên làm gì tiếp theo. Ông cảm thấy mình giống như một kẻ nghiện rượu đang cố tìm khoảng thời gian đúng đắn để tới cuộc họp của câu lạc bộ dành cho những người cai nghiện rượu. Nhưng cuối cùng, ông cũng thực hiện được bước đầu tiên. Ông gọi điện cho các nhân viên kiểm toán, xin lỗi họ về bất kỳ sự khinh thị nào mà ông đã thể hiện hoặc ngụ ý trong cuộc họp lần trước về quá trình kiểm toán. Ngoài ra, ông đã làm một điều mà từ trước đến nay chưa từng làm: Ông triệu tập các nhân viên tư vấn và kiểm toán tới cùng một cuộc họp vào cùng lúc. Khi mọi người đã tập hợp đông đủ, ông đề nghị một cuộc nghiên cứu nội bộ bao quát mọi ngóc ngách của thủ đoạn kế toán: các quyền chọn và khoản thanh toán dành cho đội ngũ điều hành, các công ty con, các quỹ lương hưu, các chứng khoán phái sinh. Khi nhận được báo cáo, ông triệu tập ngay một cuộc họp báo với các chuyên gia Phố Wall - lần này là công khai, theo quy định mới của SEC. Sau đó, khi bình luận trong một buổi phỏng vấn trên kênh CNBC, một chuyên gia đã miêu tả cuộc họp đó như sau: “Tôi cảm thấy mình giống như vị linh mục trong phòng xưng tội, lắng nghe bản kinh cầu nguyện dài về những tội lỗi của công ty. Từng thứ một, từng việc một, vị CEO đó đã nói cho chúng tôi biết công ty họ đã làm sai những điều gì. Rồi ông ấy nói về việc họ định sửa chữa những lỗi lầm đó như thế nào. Những tin tức này có gây sốc cho thị trường không? Tất nhiên là có. Không ai mảy may nghi ngờ rằng UCBS lại lấn sâu vào các vụ gian lận kế toán đến vậy. Việc này có khiến cổ phiếu của họ lao xuống dốc không? Tắt nhiên là có. Nhưng nó đã xua tan đi không khí nặng nề. Nếu các nhà đầu tư có thể qua được cuộc họp ngay hôm nay thì họ có thể vượt qua bất cứ thứ gì khác. Tuy nhiên, khả năng tồn tại về tài chính của công ty thì lại là một vấn đề khác. Không ai biết được điều đó.” Bước thứ hai của Johnston là dọn dẹp. Ông vạch rõ thời gian còn lại của mình để tách rời các giao dịch chứng khoán phái sinh, bán hoặc sáp nhập các công ty con và nhiều việc khác nữa. Bước thứ ba của ông: xin từ chức. Chương 6 HÃY BÁN CÁC CỔ PHIẾU NÀY NGAY BÂY GIỜ! c ó một người nữa cũng xin thôi việc là Tamara Belmont. Cô thôi việc tại Harris & Jones và bắt đầu tìm kiếm cơ hội mới. Cô đã có tám năm kinh nghiệm ở vị trí nhà nghiên cứu kinh tế của Phố Wall. Trước đó, cô có bốn năm làm trợ giảng tại trường Đại học Columbia, dạy môn kinh tế vi mô. Cô yêu thích công việc nghiên cứu thuần túy. Cô muốn quay trở lại thế giới học thuật hoặc nghiên cứu, khắc phục mức lương thấp bằng cách viết báo hoặc diễn thuyết. Lời mời diễn thuyết đầu tiên mà cô nhận được là từ trường Kinh doanh Columbia. Khán giả là một nhóm các nhà đầu tư và nhân viên của họ. Tất cả họ đều quan tâm đến học thuật và đa phần đều đang sở hữu một vài loại cổ phiếu. Đây là cơ hội đầu tiên cho Tamara công khai thú nhận những gì đã dằn vặt cô trong suốt nhiều tháng trời nay. Đứng trên bục phát biểu, cô bắt đầu bài diễn thuyết của mình. Tôi tới đây hôm nay để trình bày về những bí mật của cá nhân tôi nói riêng và thế giới các công ty nói chung. Và tôi đành phải để các bạn biết một sự thật rằng chúng tôi đã dối trá! Tại Enron, WorldCom, Merrill Lynch, Arthur Andersen: chúng tôi đã lừa dối các bạn. Enron, thất bại lớn nhất từng có trong lịch sử! Chúng tôi đã dối trá về các khoản nợ, khoản lãi và các công ty con. Chúng tôi đã lừa dối các ngân hàng và các nhà môi giới. Chúng tôi đã lừa dối cổ đông và nhân viên. Chúng tôi đã lừa dối SEC, NASD, George Bush và thậm chí cả Bill Clinton. WorldCom, có quy mô lớn gấp gần ba lần Enron! Chúng tôi đã dối trá về số tiền 9 tỷ đô-la, con số lớn nhất từng có. Tại Merrill Lynch, một hãng môi giới lớn nhất và được đánh giá cao nhất trên thế giới, có hơn 10 triệu tài khoản khách hàng! Chúng tôi đã vận hành một chiếc máy nói dối thật sự. Chúng tôi đã đều đặn đưa ra các đánh giá sai lệch cho các nhà đầu tư trên toàn thế giới một cách hiệu quả và nhanh chóng. Tại Arthur Andersen, một trong những công ty kiểm toán được đánh giá cao nhất toàn quốc! Chúng tôi cũng đã lừa dối các bạn. Chúng tôi thậm chí từng bị tòa án kết tội vi phạm sự công bằng - vì đã lừa dối và cố gắng che đậy sự thật. Nhưng nếu các bạn tới đây ngày hôm nay và nghĩ rằng mình đã biết sự tồi tệ tột cùng của những điều dối trá của chúng tôi thì bạn nên tỉnh táo lại và uống chút cà phê đi. Ngoài Enron, còn có ít nhất 30 công ty khác đã dối trá và đây mới chỉ là bố những công ty bị phát hiện ra cho đến lúc này. Hơn thế nữa, cứ mỗi một vụ vi phạm như Enron, lại có hàng trăm công ty khác đảm bảo rằng tất cả các mánh khóe kế toán của họ là hoàn toàn hợp pháp. Bên cạnh Merrill Lynch, còn có ít nhất 46 hãng khác của Phố Wall đã lừa dối các bạn, trong đó có hãng của chúng tôi. Các hãng này đã quảng cáo cho cổ phiếu của các công ty sắp nộp đơn phá sản, cho dù có những dấu hiệu rành rành là các công ty này sắp phá sản. Ngoài Arthur Andersen, còn có bốn công ty kiểm toán lớn khác đã lừa dối các bạn. Mỗi công ty trong số này đều có các mâu thuẫn quyền lợi như nhau, cùng là cuộc chiến gay go giữa bộ phận tư vấn và bộ phận kiểm toán. Có thể các bạn từng nghe nhiều về những trò dối trá của chúng tôi. Nhưng bạn có biết chúng có thể gây nguy hiểm ra sao không? Bạn có biết chúng có thể làm tổn hại tới tương lai tài chính của gia đình bạn nhiều tới mức nào không? LẬP LUẬN CUỐI CÙNG Linda và Gabriel Dedini chắc chắn biết câu trả lời. Họ đã mất gần như toàn bộ số tiền họ có vì thị trường chứng khoán. Họ đã bán cả ngôi nhà-nghỉ dưỡng mùa hè và giờ đây thậm chí họ còn bàn về việc bán cả ngôi nhà đang ở. Tuy nhiên, đó là việc không thể. Không có nơi ở nào tốt hơn ở đây. Hai đứa con vẫn đang học phổ thông và chỉ cách trường vài dãy nhà. Cuộc tranh luận của họ đang lên tới cao trào thì có tiếng chuông điện thoại. Đó là Dubois, nhân viên môi giới từ hãng Harris & Jones, gọi tới để đưa ra một lập luận mới mà anh ta gọi là một “cơ hội đầu tư mới tuyệt vời”. Anh ta biết rằng danh mục đầu tư của họ đã bị giảm sút, vì vậy anh ta bắt đầu một chiến thuật khác. Anh ta nói về việc lãi suất cho vay thế chấp đã giảm thế nào và việc họ có thể điều chỉnh lại lượng chi trả ra sao, rút ra một khoản tiền mặt lớn từ khoản chênh lệch trong lãi suất thế chấp đó để đầu tư tiếp vào thị trường chứng khoán. Anh ta nói rằng tất cả mọi người đều đang làm vậy - chỉ có mỗi nhà Dedini là chưa. “Gia đình nhà Dedini đang để lỡ cơ hội này!”, anh ta nói, cứ như thể tất cả mọi người đang bàn tán chuyện đó khắp thị trấn. Anh ta cũng thừa nhận là rõ ràng thị trường chứng khoán đã điêu đứng vài năm rồi, nhưng điều này càng củng cố thêm lý do vì sao nên trở lại thị trường ngay bây giờ để mua được cổ phiếu ở mức giá sàn. Linda lịch sự lắng nghe và nói với anh ta rằng cô sẽ gọi lại trong vòng 24 giờ. Bốn giờ sau đó, cô có mặt trong văn phòng của một nhà hoạch định tài chính tại Baltimore, bang Maryland do một người bạn giới thiệu. NHÀ TƯ VẤN Cô tóm tắt ngắn gọn tiểu sử tài chính của cô và xin ý kiến anh ta. Tuy nhiên, trước khi tiếp tục, anh ta cho cô biết một số thông tin vẽ các mức phí mà anh ta áp dụng: dù lần tư vấn đầu tiên là miễn phí, nhưng từ các lần sau thì mức phí sẽ là 75 đô-la/giờ. Nhưng anh ta không kiếm tiền từ bất cứ thứ gì mang lại tiền hoa hồng. Anh ta không bán bảo hiểm, quỹ đầu tư hoặc bất kỳ sản phẩm đầu tư nào khác. Tất cả những gì anh ta bán là thông tin và lời khuyên. Anh ta không có động cơ nào để thúc đẩy cô tham gia bất cứ khoản đầu tư nào trừ các khoản có lợi nhất cho cô. Nếu cô muốn trả một tỷ lệ phần trăm nhỏ cho việc anh ta quản lý các tài sản của cô thì đó lại là một lựa chọn khác. Sự lựa chọn thuộc về cô. “Thật lạ lùng là”, anh ta nói, “có đến 40.000 nhà tư vấn tài chính đăng ký hành nghề tại bang Maryland, nhưng chỉ có vài trăm người trong số đó là các nhà hoạch định tài chính chỉ-nhận-phí. Tôi là một trong số đó. Nếu chị không muốn làm việc với tôi, tôi sẽ lấy làm tiếc vì lỡ mất phần việc này, nhưng tôi có thể chỉ cho chị cách làm thế nào để tìm được các nhà hoạch định tài chính chỉ-nhận-phí khác quanh khu vực này. Hoặc chị có thể thuê một kế toán viên đặc biệt được đào tạo chuyên sâu về đầu tư làm chuyên gia tài chính cá nhân cho chị. Họ cũng tính phí theo giờ. Nhưng dù định làm gì, mong chị hãy đừng quay lại với bất kỳ ai làm việc dựa trên tiền-hoa hồng. Họ không phải là nhà tư vấn. Họ chỉ là những người bán hàng được ngụy trang mà thôi”. “Làm thế nào mà tôi phân biệt được?”, cô hỏi. “Rất đơn giản. Bất kỳ ai trong ngành tài chính mà chị có quan hệ làm ăn đều có thể là người bán hàng hoặc nhà tư vấn. Nhưng không ai có thể cùng lúc đảm đương được hai vai trò đó. Những người bán hàng sẽ nói rằng họ không tính phí khi cho chị lời khuyên. Họ nói rằng lời khuyên là đi kèm theo dịch vụ hoặc đã được tính trong phí giao dịch hoặc tiền hoa hồng. Đó là một thứ cho không chết người.” “Thế còn các nhà tư vấn?” “Hoàn toàn khác. Các nhà tư vấn sẽ cho chị biết mức phí mà họ sẽ áp dụng với chị, sau đó thu phí và giải thích với chị họ đã tính phí những gì. Không gì có thể rõ ràng hơn.” Cô nhận thấy sự suy xét này là đúng nhưng vẫn chưa chắc chắn. “Liệu có các nguyên tắc đầu tư nào đã được thử nghiệm và chứng minh là đúng đắn, mà không cần tới cấu trúc tính phí, hoặc không cần tới phí hoa hồng và các mâu thuẫn quyên lợi chưa? Tôi dạy môn vật lý. Và bất kể được trả công ra sao, thì tôi cũng không thể thay đổi được thực tế là e hầu như luôn bằng mc2.” “Đây không phải là thuyết tương đối, mà là vấn đề lịch sử - lấy ví dụ từ chính các khoản đầu tư của chị nhé. Chị nói rằng chị đã mất 75% vốn với một loại cổ phiếu nào đó và mất gần 100% với một số loại khác. Chị nói một nhân viên môi giới của hãng Harris & Jones đã giới thiệu những cổ phiếu này với chị. Thế chị có biết rằng Harris là nhà bảo lãnh chính của đa phần các cổ phiếu này không và khoảng 90% thu nhập của họ trong năm qua là từ các hoạt động bảo lãnh này?” Linda Dedini lắc đầu. Cô không hề biết. “Nhưng còn Dubois thì sao, nhân viên môi giới ấy? Tôi đã tin tưởng anh ta? Tại sao anh ta lại nỡ...?” “Các nhân viên môi giới được đào tạo để trở thành những chiếc máy bán hàng. Tôi tình cờ biết một vài người làm việc tại Harris, vài người bạn của tôi làm việc ở đó. Chị có biết họ kiếm được bao nhiêu và kiếm như thế nào không? Các nhân viên môi giới của Harris nếu bán được gần hết số cổ phiếu của các công ty ủy thác cho họ sẽ nhận được khoản tiền thưởng hậu hĩnh lên tới hàng trăm ngàn đô-la. Họ được thưởng những kỳ nghỉ trọn gói dài ba tuần tại khu nghỉ mát năm sao. Nhân viên môi giới tại Harris của chị chưa bao giờ kể với chị những chi tiết đó, đúng không?” “Tôi hiểu. Nhưng đó không phải là lỗi của anh ta khi thị trường đi xuống.” “Đúng là không, nhưng chị hãy nhìn vào tất cả các cách thức mà anh ta có thể làm chị thiệt hại. Chị trả các khoản tiền hoa hồng cao cho “dịch vụ” mà chị nhận được từ túi tiền của chị. Chị đã mua các khoản đầu tư có khả năng thua lỗ hoặc mất trắng với giá cao hơn bình thường. Rồi cuối cùng chị sa lầy trong những khoản đầu tư thua lỗ.” Dường như cô vẫn chưa hoàn toàn hiểu những nhận định đó, vì vậy nhà tư vấn đã đưa ra ví dụ so sánh: “Nó giống như việc lên võ đài cùng một đô vật chuyên nghiệp vậy. Đầu tiên, anh ta tấn công chị bằng những khoản tiền hoa hồng. Sau đó, anh ta ném chị vào các khoản đầu tư tồi tệ. Và cuối cùng, anh ta ghìm chặt chị vào tấm thảm chùi chân mà không thể ngóc đầu dậy. Bài học từ câu chuyện này là: Đừng bao giờ hành động theo những lời khuyên miễn phí.” “Nhưng còn nguyên tắc đầu tư dài hạn thì sao?”, cô hỏi. “Ta luôn kiếm được tiền từ chứng khoán nếu biết đầu tư dài hạn. Đó là một trong các nguyên tắc chính mà tôi từng biết. Điều đó giống như việc vũ trụ không ngừng giãn nở vậy.” Nhà tư vấn bật cười thân thiện: “Chị thì biết về vũ trụ, còn tôi thì biết về thị trường chứng khoán. Hãy lấy thị trường giá xuống trong những năm từ 1929 đến 1932 làm ví dụ. Nếu chị đầu tư vào loại cổ phiếu trung bình của danh mục S&P 500 vào đỉnh của thị trường năm 1929, chị nghĩ mình sẽ mất bao nhiêu năm để trở lại điểm hòa vốn?” “Anh nói đi.” “Ít nhất là 25 năm. Tôi không biết chị bao nhiêu tuổi, còn bây giờ tôi 62 tuổi. Nếu phải đợi lâu như vậy thì đến tận 87 tuổi tôi mới có thể thu hồi lại vốn. Mà có khi lúc đấy tôi đang nằm sâu dưới lòng đất rồi cũng nên. Vì vậy, cho dù chị còn trẻ hơn tôi nhiều, liệu chị có thể đợi lâu như vậy không? Liệu các con chị có thể đợi lâu như vậy trước khi học đại học không? Và chị nghĩ liệu mình sẽ phải mất bao nhiêu năm để đuổi kịp những người đã đầu tư vào các cổ phiếu giá lên khi thị trường đi xuống... và sau đó lại dùng số tiền họ thu được để mua lại các cổ phiếu khi chúng gần chạm đáy?” “50 năm?” “Không, có thể là không bao giờ! Chị không bao giờ đuổi kịp được họ!” “Tôi hiểu rồi. “Chị thấy đấy. Toàn bộ cái lý thuyết “cổ phiếu luôn có lãi khi đầu tư dài hạn” chỉ là vớ vẩn. Lý thuyết này giả định rằng chị mua cổ phiếu vào lúc thị trường sắp bắt đầu chu kỳ tăng, trong khi trên thực tế thì chỉ có một số ít người lanh lẹ mới có thể mua cổ phiếu lúc thị trường sắp tăng và thường cũng chỉ mua với số lượng ít. Lý thuyết này cũng giả định rằng chị không bao giờ mua cổ phiếu lúc thị trường đang ở đỉnh, trong khi thực tế thì hầu hết tiền bạc đều đổ vào thị trường khi nó gần lên tới đỉnh. Chị mua mớ cổ phiếu của mình khi nào? Cuối những năm 1990 phải không? Hầu hết mọi người cũng vậy.” “Tôi hiểu”, Cô nói. Cô hiểu rất rõ về những ảo tưởng sai lầm. Cô đã từng nhắc nhở các sinh viên trong phòng thí nghiệm của mình về điều này vào mỗi đầu học kỳ. “Lý thuyết đó còn giả định rằng”, anh ta tiếp tục, “chị đã thu được lợi nhuận từ việc mua 30 cổ phiếu thuộc chỉ số Dow Jones hoặc 500 cổ phiếu S&P, trong khi trên thực tế thì chị đã không mua chúng. Chị đã mua các cổ phiếu của UCBS, Global Crossing, WorldCom và các cổ phiếu khác. Chị đã mua những cổ phiếu mà chúng có thể không bao giờ hồi phục được của các công ty đang có nguy cơ phá sản. Cho nên kể cả khi thị trường hồi phục thì chị cũng chẳng thể thu được gì. Ngay từ đầu, toàn bộ lập luận cho rằng thị trường chứng khoán luôn đi lên hoàn toàn không liên quan đến tình huống của chị”. Cô cảm thấy giận điên người. Cô không thể tin được rằng Dubois lại có thể lừa gạt mình như vậy và cô cũng không thể tin rằng lại có nhiều chuyên gia Phố Wall có thể dối trá đến thế. Họ làm vậy vì mục đích gì? Liệu chính bản thân họ có bị ai khác lừa gạt không, giống như cô đã bị họ lừa vậy? Mà điều này cũng chẳng quan trọng. Điều quan trọng lúc này là cô đang bế tắc và chưa tìm được lối thoát. “Được, nhưng tôi phải làm gì bây giờ?”, cô cố giữ vẻ bình tĩnh để hỏi. “Chị đang có khoản nợ nào không?” “Chỉ còn khoản vay thế chấp nhà thôi.” “Mức lãi suất thế chấp mà chị phải trả là bao nhiêu?” “Khoảng 9%.” “Chị có đảm bảo rằng mình sẽ tự trả được khoản tiền lãi hàng tháng không?” “Tất nhiên chúng tôi có thể, có Chúa chứng giám.” “Vậy tôi hỏi chị điều này nhé: Hiện giờ, chị có thể tìm được hình thức đầu tư nào hoàn toàn được đảm bảo và mang lại cho chị khoản lãi 9% không? Chị không thể, đúng vậy không? Vì nó không tồn tại. Nhưng chị có thể tiết kiệm được khoản 9% đó bằng cách trả hết hoặc trả dần khoản vay thế chấp. Và hãy nhớ điều này: Một đồng tiết kiệm được là một đồng kiếm được, phải vậy không?” “Đúng là như vậy, nhưng mọi người đều đang khuyên chúng tôi làm điều hoàn toàn ngược lại. Điều chỉnh lại lượng chi trả, rút ra bớt tiền mặt, chứ không phải nộp thêm vào!” “Ai khuyên chị như vậy? Có phải đấy là mấy gã môi giới thế chấp ăn mức phí cao ngất không? Có phải gã môi giới chứng khoán đó lại muốn làm trò ảo thuật với số tiền của chị không? Cho dù chị không nói, thì họ chính là nguồn gốc thúc đẩy việc tái huy động vốn. Cho dù không trực tiếp khuyên chị điều đó, thì họ vẫn là người tung những lời lẽ đó ra. Sự thật là, khi tính toán lại tất cả các chi phí bỏ ra, chị có thể thấy mình đã không tiết kiệm được đến nửa số tiền mà chị nghĩ mình có thể. Nếu vẫn định làm như vậy thì hãy chắc chắn rằng chị sẽ tiết kiệm được tiền chứ không phải là tăng thêm khoản nợ!” “Nhưng nếu không điều chỉnh lại lượng chi trả thì chúng tôi lấy đâu ra tiền để trả hết số nợ thế chấp?” “Câu hỏi này đưa chúng ta tới bước tiếp theo. Hãy bán ra các cổ phiếu của chị. Hãy ngừng lại việc tự làm tổn thất lại. Hãy thoát khỏi cái thị trường địa ngục đó. Hãy giữ an toàn số tiền của chị. Rồi sau đó, chúng ta có thể bắt đẩu lại, giúp chị đi đúng hướng và đúng cách. Tôi không dám đảm bảo sẽ thành công. Nhưng tôi có thể đảm bảo rằng sẽ không có mâu thuẫn về quyền lợi, không có điều gì chống đối lại chị.” “Nhưng giờ tôi không thể bán được”, cô nhếch mép cười đau khổ. “Tôi không thể chấp nhận được khoản lỗ.”