🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Khúc Quanh Của Dòng Sông
Ebooks
Nhóm Zalo
https://thuviensach.vn
Mục lục
Lời Giới Thiệu
Phần I - Chương 1
Chương 2:
Chương 3:
Chương 4:
Chương 5:
Phần Ii - Chương 6
Chương 7:
Chương 8:
Chương 9:
Chương 10:
Chương 11:
Phần Iii - Chương 12
Chương 13:
Chương 14:
Chương 15:
Phần Iv - Chương 16
Chương Kết:
https://thuviensach.vn
KHÚC QUANH CỦA DÒNG SÔNG V. S. Naipaul
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả: Cao Việt Dũng
Lời Giới Thiệu
Vidiadhar Surajprasad Naipaul mang quốc tịch Anh, sinh năm 1932 ở Chaguanas gần Port of Spain thuộc Trinidad, trong một gia đình di cư từ miền Bắc Ân Độ, song không ít tác phẩm của ông lại lấy bối cảnh Châu Phi. Con người V.S. Nailpaul bao gồm nhiều nền văn hoá, cuộc đời ông trải rộng trên cả bốn châu lục lớn – ông từng du lịch khắp Châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Sự đa dạng đó khiến Naipaul luôn băn khoăn về vị trí, gốc gác của mình. Khi còn trẻ ông đã từng chán nản với sự nghèo nàn về tinh thần ở Trinidad, bỏ sang Anh học đại học, nhưng khi đã định cư tại đó ông lại thấy mình không thể hòa đồng được với lối sống bản địa, trong khi đó dòng máu Án Độ vẫn chảy mạnh trong huyết quản. V.S. Naipaul, với tư cách nhà văn, thường đặt ra những câu hỏi về đa dạng văn hoá, đặc tính tâm lý phức tạp của các nhóm và tộc người, sự hoà trộn và đặc điểm tiêu biểu không thể nhầm lẫn, cả đến những mặc cảm mang tính bộ tộc, dân tộc…tất cả đều được miêu tả kỹ lưỡng và tinh tế trong Khúc quanh của dòng sông.
Salim từ vùng biển phía Đông châu Phi đi sâu vào lục địa, đến một thành phố nằm bên khúc quanh của một dòng sông lớn, để tìm cách kinh doanh, để tìm kiếm chỗ đứng cho mình trong thế giới và để tìm hiểu bản thân mình. Ở thành phố đó, Salim phải sống trong bầu không khí ngột ngạt của một chế độ hậu thực dân, bàng hoàng trước nền độc lập lạ lẫm, loay hoay không biết phải bắt đầu từ đâu, chủ động hay thụ động trước những biến chuyển, và bạo loạn chắc chắn sẽ xảy ra. Anh tiếp xúc với người dân
https://thuviensach.vn
bản địa, như cô Zabeth và đứa con trai Ferdinand, như cặp vợ chồng Mahesh và Shoba…Anh tìm hiểu thành phố, từ Quảng trường đến trường Trung học, từ khách sạn Van der Wyeden đến bến tàu…Rồi không gian được mở rộng ra với việc xây dựng Khu mới bên ngoài thành phố, sự xuất hiện trở lại của người da trắng, sự thay da đổi thịt của giới trẻ châu Phi, sự biến động chính trị của vị Tổng thống vĩ đại. Không gian được tiếp tục mở rộng khi Indra, người bạn thời thơ ấu của Salim xuất hiện, thoạt tiên trong hào quang của một người học ở Oxford về, sau đó dưới hình dạng thảm hại của một kẻ hoang mang trước tất cả, không chắc chắn về điều gì hết. Không gian còn mở rộng tới châu Âu, nhưng đến đó thì Salim đã hiểu ra mình không thể chay thoát những ràng buộc vô hình. Thế giới dù rộng lớn vẫn không có chỗ cho anh, anh vẫn phải đóng đinh vào cái thành phố bên khúc quanh của dòng sông.
V.S.Naipaul bắt đầu cầm bút từ rất sớm, sau khi học xong Universtity College of Oxford. Cả đời ông gần như không làm công việc nào khác ngoài viết văn. Sau tiểu thuyết đầu tay, The Mystic Masseur (Người thợ mát xa bí ẩn – 1957), Naipaul trở nên nổi tiếng với cuốn A House for Mr. Biswas (ngôi nhà của ngài Biswas – 1961), tiểu thuyết thứ nhất của ông. Những tác phẩm đầu tay này thường lấy bối cảnh vùng Tây Ấn, sau đó Naipaul mở rộng địa lý văn chương của mình, hướng tới chủ đề hậu thuộc địa nóng bỏng, nhất là tại châu Phi.
Hai tiểu thuyết của ông về đề tài này là Guerillas và nhất là A bend in the River, một phẫu thuật tài tình trưng bày những ung nhọt, từ các vết thương lâu năm khó lành lẫn các vết thương mới của châu Phi già nua mà ngây thơ, đã giành được độc lập nhưng vẫn còn nguyên vẹn mặc cảm nô lệ - tự ti và thấp kém. Lẫn trong sự miêu tả tinh vi, thấu đáo là một niềm thương cảm kín đáo, một day dứt cho số phận một châu lục đang trong giai đoạn bế tắc.
https://thuviensach.vn
Giới thiệu V.S. Naipaul nghĩa là giới thiệu một trong những nhà văn sử dụng Anh ngữ được đánh giá cao nhất hiện nay, xứng đáng với danh hiệu người nối tiếp Conrad. Việc ông giành được giải Nobel văn chương năm 2001 (chưa kể trước đó 30 năm, ông đã đoạt giải Booker 1971) không nằm ngoài dự đoán của các nhà nghiên cứu văn học thế giới .
Naipaul đã đóng góp to lớn cho một dòng văn học đau đớn nhưng có ích, dòng văn học nhìn trực diện vào các xã hội lạc lõng giữa thế giới, đứng bên lề sự phát triển chung và còn lâu năm nữa mới thoát được vũng lầy đó.
Người dịch
https://thuviensach.vn
KHÚC QUANH CỦA DÒNG SÔNG V. S. Naipaul
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả: Cao Việt Dũng
Phần I - Chương 1
Thế giới vẫn chỉ là thế giới; ở đó con người chẳng là gì, tự cho phép mình chẳng là gì và do đó không hề có vị trí cho mình.
Nazruddin, người đã để lại cửa hiệu cho tôi với giá bè bạn, không nghĩ chuyện buôn bán của tôi về sau sẽ dễ dàng. Đất nước này, cũng giống như khắp châu Phi, đầy rẫy bất ổn sau khi giành được độc lập. Thành phố ở sâu trong nội địa, ở khúc quanh của một dòng sông lớn, đã gần như ngừng tồn tại, và Nazruddin nói tôi sẽ phải tay trắng đi lên.
Tôi lái chiếc Peugeot đi về phía thành phố. Ở châu Phi lúc nay, đó không phải là cách di chuyển tốt nhất – lái xe từ bờ biển phía Đông vào nội địa. Trên đường đi có quá nhiều nơi bị chốt chặt hoặc ngập ngụa máu. Vào thời điểm đó, dù những con đường đã ít nhiều thông thoáng, chuyến đi cũng mất đứt của tôi một tuần lễ.
Vấn đề không chỉ nằm ở những chỗ lở cát, bùn lầy hay những con đường núi hẹp, ngoằn ngoèo, gẫy khúc. Còn phải đối mặt với chuyện mặc cả tại các trạm gác biên giới, thường nằm ven bìa rừng với những túp lều gỗ treo những lá cờ thật lạ. Tôi tự nhủ mình và chiếc Peugeot tốt nhất là lời tịt những người mang súng – tức là lao vào hết bụi rậm này đến bụi rậm khác. Để rồi sau đó việc dàn xếp còn khó khăn hơn và phải xì ra một vài tờ giấy bạc ngân hàng cũng như một sô đồ hộp, để tôi – và chiếc xe Peugeot – thoát khỏi những chỗ mà tôi đã tự buộc mình lao vào.
https://thuviensach.vn
Một số cuộc tranh cãi như thế mất đến nửa ngày trời. Người chỉ huy đòi hỏi thật nực cười – hai hay ba nghìn đô la. Tôi đáp luôn là không có. Anh ta sẽ đi vào lều của mình, ra vẻ chẳng còn gì để mà bàn; tôi thì cứ việc đứng bên ngoài, vì tôi cũng chẳng còn việc gì để làm cả. Rồi sau một hay hai tiếng đồng hồ, hoặc tôi vào trong lều, hoặc anh ta đi ra ngoài, và chúng tôi có thể ngã giá hai hay ba đô la. Chính Nazruddin đã khuyên, khi tôi hỏi ông về giấy thị thực, rằng tốt hơn hết là chìa tiền ra. "Lúc nào anh cũng có thể chui vào những chỗ như thế. Nhưng ra thì khó đấy. Đó là một cuộc chiến cá nhân. Mọi người đều phải tự tìm cho mình cách để thoát ra".
Tôi đi mỗi lúc một sâu hơn vào châu Phi – bụi cây, sa mạc, đá trên sườn núi, những hồ nước, mưa vào buổi chiều, bùn, và rồi ở sườn núi bên kia ẩm ướt hơn, những khu rừng dương xỉ và rừng gorilla – khi đi như thế tôi thầm nghĩ, quả là điên rồ. Mình đang đi sai hướng. Cuối con đường này không thể co 'được một cuộc đời mới.
Nhưng tôi vẫn tiếp tục đi. Việc lái xe mỗi ngày cũng giống như đang cố đạt tới một cái gì đó, và việc mỗi ngày cứ phải cố đạt tới một cái gì đó khiến tôi trở nên khó mà quay lui. Và tôi không thể ngăn mình nghĩ rằng điều này cảm giác khác gì những người nô lệ thời xưa. Họ đã từng có hành trình giống hệt tôi, nhưng là đi bộ và theo hướng ngược lại, từ trung tâm lục địa ra bờ biển phía Đông. Càng đi về phía biển và xa khu đất của bộ lạc mình, họ càng bị tách khỏi các thảo nguyên và khó có khả năng về được nhà mình, sẽ mỗi lúc họ trở nên lo lắng hơn về cách những người châu Phi xa lạ nhìn họ, cho đến cuối cùng, họ tới được bờ biển, và khi bước chân lên những con tàu họ chỉ còn lo tới việc có đến được những ngôi nhà an toàn ở bờ bên kia không. Cũng giống tâm trạng người nô lệ xa nhà, chuyến đi càng nhiều điều gây nản chí, tôi lại càng hăng hái muốn hoà nhập vào cuộc sống mới hơn.
Khi tới nơi tôi thấy Nazruddin không nói sai. Nơi này đã chịu nhiều biến động, hơn một nửa thành phố bên khúc quanh dòng sông đã bị phá
https://thuviensach.vn
huỷ. Nơi từng là khu ngoại ô châu Âu gần ghềnh nước đã bị thiêu huỷ, cây bụi đã um tùm trên đống đổ nát, thật khó để phân biệt nơi trước đây từng là vườn tược với nơi trước đây từng là phố xá. Khu hành chính, thương mại gần cầu tàu và trạm hải quan cùng một số khu dân cư trung tâm vẫn còn, nhưng dường như thế là hết. Ngay cả các cité (tiếng Pháp trong nguyên bản – khu dân cư) châu Phi cũng chỉ còn thưa thớt người ở, và cũng đã suy tàn, với nhiều ngôi nhà thấp hệt như bao diêm, màu xanh da trời hoặc xanh lá cây nhợt nhạt bỏ hoang, bị giống nho nhiệt đới màu nâu và xanh lớn nhanh và chết cũng nhanh xâm chiếm.
Cửa hiệu của Nazruddin nằm trên một quảng trường chợ tại khu phố buôn bán. Nó đầy mùi chuột cống và đầy phân, nhưng được cái còn khá lành lặn. Tôi đã mua lại cả nhà kho của Nazruddin – nhưng chẳng còn gì trong đó. Tôi cũng mua được cả danh tiếng của cửa hiệu, nhưng điều này chẳng mấy ý nghĩa bởi rất nhiều người châu Phi đã quay trở về với cây bụi, về với sự an toàn trong những ngôi làng của mình, tại những khu kinh rạch chằng chịt khó tìm.
Sau nỗi lo lắng khi vừa đến nơi, tôi thấy cũng không có nhiều việc để làm. Nhưng tôi không đơn độc. Còn có các thương gia khác nữa, những người nước ngoài khác, một số đã ở đây qua các cuộc biến động. Tôi cùng họ chờ đợi. Hoà bình được giữ vững. Mọi người lại bắt đầu quay trở về thành phố, từng mét vuông cité dần đông đảo lên. Người ta bắt đầu cần hàng hóa mà chúng tôi có thể cung cấp. Và chầm chậm, công việc buôn bán lại bắt đầu khởi sắc.
Zabeth thuộc số khách hàng sớm nhất và thường xuyên nhất của tôi. Cô là một marchande [1] không phải người bán hàng ở chợ mà là bán lẻ theo lối cò con. Cô thuộc một cộng đồng ngư dân, gần như là một bộ lạc nhỏ, khoảng mỗi tháng một lần cô từ làng mình lên thành phố để mua buôn hàng hóa.
https://thuviensach.vn
Cô mua ở chỗ tôi bút chì và vở viết, lưỡi dao cạo, ống tiêm, xà phòng, kem đánh răng và bàn chải đánh răng, vải vóc, đồ chơi bằng nhựa, bô sắt và hộp nhôm, khay và chậu men. Ngư dân làng Zabeth cần những vật dụng đơn giản đến từ thế giới bên ngoài đó và cần chúng cả khi có biến động. Không phải đồ dùng thiết yếu, cũng không phải đồ xa xỉ, chúng chỉ là những thứ làm cho cuộc sống dễ dàng hơn. Người ở đây biết làm nhiều việc, họ tự xoay sở rất tài. Họ thuộc da, dệt vải, rèn sắt, họ đục rỗng các thân cây lớn để làm thuyền và những cây nhỏ hơn để làm chạn bếp. Nhưng với những người tìm kiếm một cái thùng lớn không rò để đựng nước và đồ ăn, hãy thử tưởng tượng họ sung sướng đến thế nào khi có được cả một cái bồn tráng men!
Zabeth biết chính xác những gì người dân làng cô cần và biết rõ khả năng hay độ sẵn sàng mau thứ đó của họ. Các thương gia ngoài bờ biển (trong đó có cả cha tôi) thường nói – đặc biệt khi họ phải tự an ủi vì đã mua phải đồ đắt – rằng mọi thứ cuối cùng đều có người mua. Tại đây điều này không hề đúng. Người ta thích thú với những thứ mới – chẳng hạn ống tiêm, điều này đối với tôi là một bất ngờ - và thậm chí những đồ hiện đại, nhưng sở thích cao nhất của họ luôn là những mẫu mới nhất của các mặt hành họ cần mua. Họ tin tưởng một mẫu hàng, một nhãn mác nhất định. Thật vô ích khi cố "bán" mọi thứ cho Zabeth, tôi buộc phải gút lại trong phạm vi những mặt hàng cố định. Buôn bán kiểu này thật chẳng ra sao, nhưng nó tránh được phức tạp hóa vấn đề. Và nó khiến Zabeth, khác với những người châu Phi khác, trở thành một nữ tướng gia giỏi giang.
Cô không biết đọc biết viết. Cô ghi danh sách dài dặc đồ phải mua vào đầu và nhớ rằng rõ giá tiền từng thứ đồ của những lần mua trước. Cô không bao giờ đòi cho chịu tiền – cô ghét điều đó. Cô trả bằng tiền mặt, lấy tiền từ chiếc túi nhỏ luôn mang theo mình khi đến thành phố. Tất cả các lái buôn đều biết đến chiếc túi nhỏ của Zabeth. Không phải vì cô không tin tưởng các ngân hàng, cô chỉ không hiểu nổi chúng.
https://thuviensach.vn
Tôi từng bảo cô, bằng thứ ngôn ngữ pha trộn của dòng sông mà chúng tôi quen dùng "Beth ạ, một ngày nào đó sẽ có kẻ cướp túi của cô đấy. Mang theo tiền trong người như thế không an toàn đâu".
Nếu có ngày đó, Mis Salim, tôi sẽ biết mà ở lại nhà.
Thật là một cách nghĩ ngợi hay ho. Nhưng rõ ràng cô là một phụ nữ rất lạ lùng.
Cũng như những người khác, cô gọi tôi là Mis, nói tắt của từ mister. Tôi là mister bởi vì tôi là người nước ngoài, người đến từ khu bờ biển xa xôi, lại nói tiếng Anh, tôi là mister để phân biệt với những người nước ngoài khác định cư tại đây, các monsieur. Dĩ nhiên, điều này chỉ có trước khi Người Đàn Ông Vĩ Đại tới và biến chúng tôi thành citoyens và citoyennes [2]. Trong một khoảng thời gian – điều này rất ổn, cho đến khi những lời nói dối của ông ta làm người dân trở nên bối rối và sợ hãi, nên khi tìm được một thần tượng khác mạnh hơn ông ta, họ bèn quyết định chấm dứt toàn bộ và bắt đầu lại từ đầu.
Ngôi làng của Zabeth cách đây chừng 60 dặm, ở khá xa đường cái, con đường thực ra cảm giác khác gì lối mòn, và cách dòng sông chừng vài dặm. Đi bằng đường bộ hay đường sông đều khó khăn, mất đứt hai ngày. Riêng đường bộ, mùa mưa có thể mất tới ba ngày. Thoạt tiên Zabeth đi đường bộ, cùng những trợ tá của mình lội bì bõm ra đến đường cái và đợi ở đó cho đến khi có xe tải hoặc xe buýt. Khi tàu hơi nước bắt đầu chạy lại, Zabeth thường xuyên sử dụng đường sông, nhưng cũng không dễ dàng hơn là mấy.
Những kênh rạch bí mật từ các ngôi làng dẫn ra sông thường rất nông, đầy những trở ngại bất ngờ và nhiều muỗi kinh khủng. Xuôi những dòng kênh này, Zabeth và người của mình chèo xuồng độc mộc ra đến dòng sông chính, và họ thường xuyên phải đẩy chúng đi. Ra đến sống, đậu sát bờ, họ đợi tàu hơi nước trên những chiếc xuồng nhỏ bé chất đầy hàng hóa –
https://thuviensach.vn
thường là thực phẩm – để bán cho người trên tàu thuỷ và chiếc thuyền nhỏ mà tàu kéo theo. Thực phẩm đa phần là cá hoặc khỉ, còn tươi hoặc đã được boucane [3] - theo cách của vùng này, với một lớp da dày ụ đen thui. Đôi khi có một con rắn hoặc một con cá sâu nhỏ xông khói, một tảng thịt lớn màu đen khó nhận dạng là thịt gì – nhưng dưới lớp da cháy xém đó lộ ra màu thịt trắng hoặc hồng nhạt rất hấp dẫn.
Khi chiếc tàu thuỷ xuất hiện, kéo theo thuyền chở khách, Zabeth và người của mình chống sào hoặc chèo xuồng ra tận giữa sông và dừng lại ở chỗ con tàu sẽ đi qua. Tàu đến, những chiếc xuồng độc mộc chao đảo theo lớp sóng dồi, Zabeth và người của mình ném dây thừng lên sàn thuyền, nơi luôn có những bàn tay đưa ra đón dây để buộc nó vào một thanh sắt cố định nào đó, rồi những chiếc xuồng độc mộc, đang ở sát bên suờn tàu, bắt đầu chuỷên động về hướng đối diện, trong khi những người trên tàu ném những mẩu giấy hoặc vải xuống con cá hoặc con khỉ họ muốn mua.
Việc điều khỉên xuồng độc mộc ghé sát con tàu hoặc chiếc thuyền đang chạy là một kỹ thuật mà người vùng sông nước biết cách thực hiện, nhưng không phải là không nguy hiểm. Gần như sau mọi chuyến đi của chiếc tàu thuỷ đều có tin tức về việc một chiếc xuồng độc mộc bị lật nhào đâu đó và có người chết. Nhưng liều lĩnh vậy cũng đáng; sau đó, chẳng cần cố sức gì, với tư cách một marchande đang bán hàng, Zabeth được con tàu kéo đến tận gần thành phố, cô tháo xuồng của mình khi đi ngang đống đổ nát của nhà thờ lớn, ngay trước khi đến các cầu tầu, để tránh các vị quan chức, những người chỉ chăm chăm đòi đóng thuế. Một chuyến đi thật ra trò! Biết bao rắc rối và nguy hiểm để bán được những sản phẩm đơn giản người dân làng cô làm ra, và để mang về vài món đồ cho họ.
Một hoặc hai ngày trước khi tàu thuỷ đến có một phiên chợ ngoài trời ở ngay lối vào cầu tàu. Nếu còn ở thành phố Zabeth thế nào cũng tham gia. Chẳng may trời mưa cô sẽ ngủ dưới mái hiên một cửa hàng rau hoặc quán bar, hôm sau cô sẽ vào ở trong một nhà trọ châu Phi, nhưng thoạt tiên
https://thuviensach.vn
những chỗ như thế chưa có. Khi cô đến cửa hiệu, không gì trong dáng vẻ của cô gợi đến chuyến đi khó nhọc hay những đêm ngủ ngoài trời. Cô luôn ăn mặc đàng hoàng, quấn mình trong mảnh vải lớn theo kiểu châu Phi, đầy nếp gấp, tôn thêm độ lớn cho cặp mông khổng lồ của cô. Trên đầu cô là chiếc khăn xếp – thứ trang phục của những người đi xuôi dòng sông, và mang theo mình chiếc túi nhỏ với những đồng tiền nhàu nát thu được từ những người trong làng và những người trên tàu thuỷ. Cô đi mua đồ, trả tiền; và vài giờ trước khi tàu thuỷ xuất phát, cô lại cùng với những người đàn bà trong đội của mình – những người gày gò, thấp nhỏ, xấu xí, bận quần áo nhàu nhĩ – đến để mang hàng đi.
Xuôi dòng sông tốn ít thời gian
hơn. Nhưng vẫn rất nguy hiểm cho những chiếc xuồng độc mộc với mỗi lần áp vào và tách ra khỏi thuyền nhỏ chở khách..Hồi đó tàu thuỷ rời thành phố vào lúc bốn giờ chiều nên mãi nưả đêm Zabeth và người của cô mới đến được nơi họ phải rời chiếc tàu thuỷ. Zabeth cẩn thận không để lộ chỗ vào làng mình. Cô tháo dây thừng, đợi cho đến lúc con tàu với chiếc thuyền đi khỏi và ánh sáng đã hoàn toàn tắt lịm rồi mới chống sào đẩy xuồng vào dòng kênh bí mật của mình, và cả đêm họ cật lực chèo chống xuồng dưới tán cây rừng.
Về nhà vào ban đêm! Tôi không ra sông vào ban đêm. Tôi không thích việc này bởi không thấy an toàn. Trong bóng tối của dòng sông và cánh rừng bạn chỉ có thể chắc chắn vào những gì bạn nhìn thấy – và ngay cả những đêm sáng trăng bạn cũng không nhìn thấy gì nhiều đâu. Khi gây ra một tiếng động – chẳng hạn khua mái chèo trên mặt nước – bạn sẽ nghe thấy chính mình như thể đang là một ai đó khác hẳn. Dòng sông và cánh rừng như đang hiển hiện, và mạnh hơn bạn nhiều. Bạn cảm thấy không được chởchẹ như một kẻ đột nhập.
Torng ánh sáng ban ngày – dù màu sắc có nhợt nhạt và ma quái với cái nóng ẩm hứa hẹn mát mẻ hơn vào buổi tối, bạn có thể tưởng tượng thành
https://thuviensach.vn
phố đang được xây dựng lại và mở rộng ra. Bạn có thể tuu những khu rừng bị bật gốc, những con đường đi xuyên qua các kênh rạch và đầm lầy. Bạnc có thể tưởng tượng khu đất đã biến thành cái mà Người Đàn Ông Vĩ Đại sau này sẽ vẽ ra, ái viễn cảnh về "Khu công nghiệp" dài 2000 dặm dọc theo sông. (Nhưng ông ta không bao giờ thực sự thực hiện nó, đó chỉ là ý muốn của ông ta để tỏ ra mình là một thầy phù thuỷ cao tay hơn những phù thuỷ khác mà nơi đây từng biết đến). Dù vậy, trong ánh sáng ban ngày, bạn có thể tin vào viễn tưởng đó. Bạn có thể tưởng tượng khu đất đang được những người chính bạn cải tạo để trở lại bình thường, giống như những phần nhỏ đã từng bình thường trong một khoảng thời gian ngắn trước khi độc lập – những chỗ giờ đã biến thành đống đổ nát.
Nhưng ở trên bờ sông vào ban đêm là chuyện khác hẳn. Bạn cảm thấy đất đang đưa mình trở về với cái gì đó thật thân quen, cái gì đó mà vào lúc nào đấy bạn từng biết nhưng đã quên hoặc cố tình quên, song nó vẫn luôn ở nguyên đó. Và khu đất đang đưa bạn trở lại 100 năm trước vẫn luôn ở đó.
Zabeth đã đi những chuyến ghê gớm làm sao! Đó là mỗi lần cô đến đây để lấy đi của hiện tại (hoặc tương lại) một vài hàng hoá quý giá nào đó, mang về cho người làng mình – chẳng hạn những lưỡi dao cạo mua sỉ cả gói nhưng được bán lẻ từng lưỡi một, những kỳ diệu của kim loại – những thứ hàng đó càng trở nên quý giá hơn khi người ta hiểu rằng cô mang chúng từ thành phố về cho làng chài của mình – cái thế giới thực, an toàn, được bảo vệ khỏi người khác bởi rừng rậm và đường sông khó đi. Và được bảo vệ bằng những cách khác nữa. Mọi người ở đây đều biết rằng mình đang được tổ tiên dõi nhìn từ trên cao, những người hiện đang sống vĩnh hằng tại một tầng trời cao hơn, và sự lướt qua trái đất của họ không hề bị lãng quên, mà được lưu giữ hết sức cẩn thận, đó chính là một phần trong sự hiện diện của cánh rừng. Trong rừng sâu an toàn hơn cả. Đó là thứ an toàn mà Zabeth đã để lại sau lưng để có được những hàng hoá quý giá, vì nó cô ta đã từ bỏ cả sự an toàn tuyệt đối của mình.
https://thuviensach.vn
Zabeth không phải là một phụ nữ bình thường. Bề ngoài cô cảm giác hề giống gì với người dân trong khu. Họ nhỏ, nhẹ ký và rất đen, còn Zabeth lại to béo với nước da đồng hun, ở vài chỗ thứ đồng hun đó cháy rực lên, nhất là trên gò má, trông như thể trang điểm vậy. Có một cái gì đó thật khác biệt ở Zabeth, như mùi vị chẳng hạn. Nó rất mạnh và rất khó ưa, và thoạt tiên tôi từng nghĩ –vì cô đến từ một làng chài – rằng đó là mùi cá lưu niên. Tôi nghĩ chắc là do đồ ăn ở làng quanh đi quẩn lại chỉ có cá và cá. Nhưng những người bộ lạc Zabeth mà tôi từng gặp không có mùi giống với cô. Người châu Phi cũng nhận ra mùi vị khác biệt đó. Nếu vào cửa hàng khi Zabeth có trong đó, thế nào họ cũng bịt mũi và chó khi còn bỏ đi thẳng.
Metty, thằng nhỏ lai châu Phi đã lớn lên trong gia đình tôi ở bỡ biển và đã tới ở cùng tôi, nói rằng mùi của Zabeth nặng đến nỗi lũ muỗi cũng phải tránh xa. Tôi còn cho rằng đến đàn ông cũng không dám gần Zabeth, dù cô cũng có vẻ mỡ màng (mà đàn ông thì lại thích cái đó) và dù cô có cái túi nhỏ đựng tiền. Zabeth chưa lấy chồng, và, theo chỗ tôi được biết, cô không sống chung với người đàn ông nào cả.
Cũng chính Metty – nó học được các tập quán địa phương rất nhanh – nói với tôi rằng Zabeth là một phù thuỷ, và trong vùng chúng tôi ai cũng hiểu một phù thuỷ có nghĩa thế nào. Mùi vị của cơ thể cô là mùi của các thứ dầu xoa. Những người phụ nữ khác sử dụng nước hoa và toả mùi hấp dẫn, thứ dầu xoa của Zabeth lại cảnh báo và ngăn chặn. Cô đã được bảo vệ. Cô biết điều đó, và những người khác cũng biết thế
Tôi đã đối xử với Zabeth đúng như với một marchande và một khách hàng tốt. Giờ đây khi tôi biết rằng trong Khu chúng tôi cô là một người quyền lực, một nhà tiên tri, tôi lại càng không quên điều đó. Thế nên tôi cũng cảm thấy cô thật sự hập dẫn.
Chú thích:
[1] Thương gia
https://thuviensach.vn
[2] Công dân [3] Xông khói
https://thuviensach.vn
KHÚC QUANH CỦA DÒNG SÔNG V. S. Naipaul
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả: Cao Việt Dũng
Chương 2:
Châu Phi là nhà tôi, đã từng là nhà của gia đình tôi từ hàng thế kỷ nay. Nhưng chúng tôi đến từ bờ biển phía Đông, điều đó có ý nghĩa khác hẳn. Bỡ biển không hẳn là châu Phi. Đó là nơi pha trộn A rập - Ấn độ - Ba tư – Bồ đào nha, và chúng tôi, những người sống tại đó, gần như là người của Ấn độ dương. Thực sự châu Phi nằm ở đằng sau chúng tôi. Nhiều dặm cây bụi hoặc sa mạc ngăn chia chúng tôi với những người sống ở các vùng cao hơn, nên chúng tôi hướng về phía Đông, nơi có những vùng mà chúng tôi có quan hệ buôn bán – A rập, Ấn độ, Ba tư. Cũng có những khu đất của tổ tiên chúng tôi. Nhưng chúng tôi hoàn toàn không thể nói mình là người A rập hoặc Ấn độ hoặc Ba tư, và khi so sánh mình với những người đó, chúng tôi thấy mình giống người châu Phi hơn.
Gia đình tôi theo đạo Hồi. Nhưng chúng tôi là một nhóm đặc biệt. Chúng tôi khác với những người Arập và Hồi giáo khác ở bờ biển, còn về tập quán và thói quen chúng tôi gần với những người Hindu vùng Tây bắc Ấn độ hơn, đó cũng chính là gốc gác của chúng tôi. Tôi không thể biết rõ chúng tôi đã đến nơi đây khi nào. Chúng tôi không thuộc dạng những người ở đây. Chúng tôi chỉ sống ở đây, làm những việc dành cho chúng tôi, làm theo những gì đời trước mình đã làm. Chúng tôi không bao giờ hỏi tại sao lại như thế, chúng tôi không quan tâm. Trong sâu thẳm, chúng tôi thấy mình là một dân tộc hết sức cổ xưa, nhưng dường như chúng tôi không có cách nào đánh giá được sự trôi qua của thời gian. Cha tôi hay ông tôi đều không biết ngày tháng của những câu chuyện của mình. Không phải vì họ đã quên hoặc bị rối trí – quá khứ chỉ đơn giản là quá khứ.
https://thuviensach.vn
Tôi nhớ đã nghe ông kể rằng ông từng chèo một chiếc thuyền chở nô lệ như là chở hàng hoá hay cao su gì đó, song không thể nói cho tôi biết ông làm việc đó khi nào. Ông có trong ký ức mình đủ chuyện trôi nổi trên biển mà không hề có ngày tháng hay điểm mốc thời gian liên hệ nào, như thể đó là sự kiện mang tính độc nhất trong một cbsn không sự kiện. Ông không nói đó là một việc ghê gớm gì, chỉ nói dó là một việc không bình thường ông từng làm – không phải là chở nô lệ, mà là chở cao su. Và chưa cần đến ký ức của chính tôi, về câu chuyện của ông, tôi cho rằng đó có thể là một phần của lịch sử đã biến đi mãi mãi. Tôi tin, từ cuốn sách mới đọc được, rằng ý tưởng về cao su có thể đã xâm chiếm đầu óc ông vào lúc đó, trước Thế chiến II, khi cao su trở thành một thứ hàng hoá được ưa chuộng – và sau đó là một vụ bê bối lớn - ở Trung Phi. Do đó tôi nhận thấy rằng các sự kiện vẫn đang bị ông tôi che giấu, hoặc là ông chẳng mấy quan tâm đến chúng.
Câu chuyện về toàn bộ giai đoạn đảo lộn đó của châu Phi – sự nổi loạn của người A rập, sự bành trướng của châu Âu, sự vươn ra ngoài lục địa – là lịch sử gia đình duy nhất mà tôi biết. Đó là số phận những người sống ở đây. Mọi kiến thức về lịch sử của chúng tôi và lịch sử Ấn Độ dương tôi đều đọc trong những quyển sách do người châu Âu viết, thí dụ người A rập chúng tôi trong thời gian đó là những nhà phiêu lưu và nhà văn lớn, rằng các thuỷ thủ của chúng tôi đã chèo thuyền vượt Địa Trung Hải và khám phá ra châu Mỹ, rằng một hoa tiêu người Ấn đã dẫn đường cho Vasco da Gama từ Đông Phi đến Calicut, rằng tữ chèque đã được các thương gia Ba tư chúng tôi sử dụng lần đầu tiên…Chúng chẳng hề t.ao nên chút hiểu biết hay tự hào của chúng tôi. Tôi cảm thấy nếu không có người châu Âu, toàn bộ quá khứ của chúng tôi đã bị bay biến, giống như vết giày các ngư dân trên bãi biển bên ngoài thành phố nơi chúng tôi ở.
Có một trại giam trên bờ biển. Những bức tường xây bằng gạch. Chúng đã trở thành đống đổ nát khi tôi còn là một đứa bé, và ở châu Phi nhiệt đới, vùng đất của việc xây dựng vô tội vạ giống như một mảnh lich sử
https://thuviensach.vn
hiếm hoi. Chính trong nhà giam này, những nô lệ đã bị nhốt sau khi đã đi bộ đến từ trung tâm lục địa, vùng thảo nguyên, tại đó họ chờ đợi những chiếc thuyền buồm A rập sẽ đưa họ vượt biển. Nhưng nếu bạn không biết, thì nơi đó chẳng nói lên gì hết, chỉ là những bức tường đổ nát trên một tấm bưu ảnh chụp bãi biển với những cây dừa.
Đã từng có khi người A rập cai quản nơi đây, rồi người châu Âu tới, giờ đây người châu Âu đã đi. Nhưng có rất ít thay đổi trong cách suy nghĩ của người dân. Họ vẫn vẽ hình những con mắt to ở mũi thuyền để cầu may mắn, và các ngư dân có thể trở nên rất giận dữ, thậm chí hăng máu, nếu một người khách nào đó chụp hình họ - nghĩa là đang buộc họ phải rời khỏi linh hồn của mình. Mọi người ở đây vẫn sống như thế, họ vẫn như vậy lâu nay, không hề có khoảng cách giữa quá khứ và hiện tại. Mọi thứ diễn ra trong quá khứ đều đã biến mất, vần luôn chỉ có hiện tại mà thôi. Thế cho nên, như hậu quả của một thứ hỗn loạn nào đó trên thiên đường, ánh sáng của bình minh vẫn luôn phải nhường chỗ cho bóng đêm, và con người luôn sống trong hoàng hôn vĩnh hằng.
Chế độ nô lệ ở bờ biển phía Đông không giống như phía Tây. Không ai bị đưa đi làm đồn điền. Phần lớn người dân rời khỏi vùng biển của chúng tôi tới nhà của người A rập để làm người hầu. Một số trở thành thành viên của những gia đình mà họ tới, một số ít hơn trở nên có quyền lực bằng chính sức mạnh của mình. Với một người châu Phi, một đứa trẻ của rừng, đi hàng trặm dậm tữ nội địa và xa làng mình, bộ lạc mình, sự bảo vệ của một gia đình ngoại quốc là rất quý giá để có thể tồn tại đơn độc giữa những người châu Phi xa lạ và thù địch. Đó là lý do giải thích tại sao việc buôn nô lệ vần được tiếp tục khá lâu sau khi các nước châu Âu đã cấm, và tôi tại sao, vào thời khi người châu Âu đang kinh doanh một loại cao su nào đó, ông tôi lại có thể buôn một mặt hàng khác. Đó cũng là lý do giải thích tại sao một chế độ nô lệ bí mật vẫn tiếp tục trên bờ biển cho mãi đến sau nạy Những người nô lệ, hay thuộc về các dân tộc có thể bị coi là nô lệ, muốn giữ nguyên như thế.
https://thuviensach.vn
Trong khu này của gia đình tôi có hai gia đình nô lệ, và họ đã ở đây ít nhất ba thế hệ. Họ sợ nhất là bị đuổi đi. Chính thức mà nói những người này chỉ là những người giúp việc. Nhưng họ muốn những người khác – những người châu Phi khác cũng như những người A rập và Ấn độ nghèo đói – biết họ thực sự là nô lệ. không phải là họ tự hào về chế độ nô lệ như một thứ thân phận, điều họ tự hào là sợi dây nối kết đặc biệt với một gia đình danh tiếng. Họ có thể tỏ ra hết sức nghiệt ngã với những người thuộc gia đình nhỏ hơn.
Khi còn nhỏ tôi thường đi dạo trên những lối đi hẹp hai bên là tường trắng ở khu phố cổ của thành phố, nơi gia đình chúng tôi ở. Tôi tắm rửa sạch sẽ và ăn bận tử tế, họ bôi thứ phấn của họ lên mắt tôi, và đeo một lá bùa may mắn lên cổ tôi, và rồi Mustafa, một ông già ở chỗ chúng tôi sẽ lắc vai tôi lia lịa. Tôi đã đi dạo như thế này: Mustafa đặt tôi lên vai ông để mọi người thấy của báu của gia đình tôi, và cùng lúc đó cho thấy vị trí được tin cậy của ông trong gia đình tôi. Có một vài thằng nhóc chỉ trỏ trêu chọc chúng tôi. Khi tình cờ chạm trán với những thằng bé đó, Mustafa để tôi xuống, bảo tôi chửi, thêm vào đó chính những câu chửi của ông, bảo tôi đánh nhau, và rồi, khi mọi việc trở nên quá bất lợi cho tôi, ông sẽ gỡ tôi ra khỏi những cái đấm cái đạp của bọn nhóc và đặt tôi lên vai ông. Và chúng tôi lại tiếp tục dạo chơi.
Câu chuyện về Mustafa, người A rập, những chiếc thuyền buồm và những người nô lệ như thế này giống như rút ra từ tập Nghìn lẻ một đêm. Nhưng khi nghĩ đến Mustafa, và thậm chí chỉ cần nghe từ "nô lệ", tôi liền nghĩ ngay đến khungoài của chỗ chúng tôi ở, một sự pha trộn giữa sân trường và sân sau nhà, tất cả những người đó, một số gào thét, hàng đống quần áo treo trên dây phơi hoặc trải rộng trên những tảng đá to,cái mùi nằng nặng của những đống vải đó hoà lẫn vào mùi của những hố xí tạm bợ và cái góc chứa nước giải, hàng đống đĩa men và đĩa đồng cáu bẩn trên bàn giặt giữa sân, trẻ con chạy đi chạy lại khắp nơi, việc chuẩn bị bữa ăn không một phút ngừng trong khu bếp tối thui. Tôi nghĩ đến đám phụ nữ, trẻ con,
https://thuviensach.vn
về các chị em tôi và gia đình họ, về những người phụ nữ phục vụ và gia đình họ, cả hai đều có vẻ như có sức nặng ngang nhau, tôi nghĩ về những cuộc tranh cãi trong các phòng của gia đình, những cuộc tranh cãi nẩy lửa trong khu này của những người giúp việc. Chúng tôi quá đông đúc trong khu nhà nhỏ bé đó. Chúng tôi không cần đến tất cả những người hầu đó. Nhưng họ không phải là những người phục vụ bình thường, và không lý do nào để đuổi họ đi được cả. Chúng tôi bị dính vào với họ.
Trên bờ biển phía Đông đã từng như thế. Những người nô lệ có thể biến đổi theo nhiều cách. Những người hầu của chúng tôi không còn là người châu Phi thuần tuý nữa. Họ không được gia đình công nhận, nhưng tại những điểm nào đó trong phả hệ, họ được pha trộn thêm dòng máu châu Á. Mustafa có dòng máu Gujarat trong huyết quản: Metty cũng vậy, sau này nó đã tìm mọi cách vượt qua lục địa để đến với tôi. Dù vậy, đó là một cuộc chuỷên giao máu từ ông chủ sang nô lệ. Với những người A rập trên bờ biển chúng tôi, tiến trình đã thực hiện theo cách khác. Những người nô lệ đã tấn công chủ của mình; dòng giống A rập ông chủ rõ ràng đã biến mất.
Trước đây, các nhà thám hiểm và chiến binh A rập vĩ đại đã từng thống trị. Họ đã đi sâu vào nội địa, xây dựng các thành phố và dựng lên các vườn ươm cây trong rừng. Rồi quyền lực của họ mất dần vào tay người châu Ậu. Các thành phố và vườn cây của họ biến mất, bị cây bụi nuốt trọn. Họ thôi không còn có trong đầu ý tưởng về vị thế của mình trong thế giới, và họ đánh mất nghị lực của mình; họ quên mất mình từng là ai và từ đâu đến. Họ chỉ biết họ là người Hôi giáo; và trong đạo Hồi giáo họ cần có vợ và nhiều vợ. Nhưng họ đã bị tách khỏi gốc rễ A rập của mình và chỉ còn có thể tìm thấy vợ của mình trong số những người phụ nữ châu Phi, những người trước đây từng là nô lệ cho họ. do đó, rất sớm, những người A rập, hay là những người tự gọi mình là A rập, đã trở thành những người Phi Châu, không khác biết gì hết. Ít khi họ suy nghĩ về nền văn minh độc đáo của mình. Họ có kinh Koran và các giới luật của nó; họ chỉ gắn kết vào một
https://thuviensach.vn
số lối ăn mặc, đội một thứ mũ, và có một bộ râu cắt tỉa đặc biệt; chỉ vậy thôi. Họ chỉ có một ít ký ức về những việc tổ tiên họ từng làm ở châu Phi. Họ chỉ có thói quen về quyền lực, mà không đủ nghị lực hay học thức để quay lại được quyền lực đó. Quyền lực của những người A rập – khá lớn khi tôi còn là một đứa trẻ - chỉ là vấn đề về tập quán. Nó có thể bị thổi bay vèo bất cứ lúc nào. Thế giới vẫn chỉ là thế giới.
Tôi lo ngại giùm người A rập. Tôi cũng lo lắng cho chúng tôi. Bởi vì, khi có quyền, thì chẳng có gì khác biệt lớn lao nào giữa họ và chúng tôi hết. Cả hai đều là những nhóm nhỏ sống dưới lá cờ của người châu Âu và cùng ở bên rìa lục địa. Trong ngôi nàh gia đình chúng tôi, khi còn là một đứa trẻ, tôi chưa bao giờ nghe thấy một cuộc tranh luận nào về tương lai của chúng tôi hoặc tương lai của bờ biển. Ai cũng cho rằng mọi chuyện sẽ tiếp diễn, rằng những cưới xin có thể tiếp tục được tổ chức giữa những người có sự đồng thuận với nhau, rằng thương mại buôn bán có thể tiếp tục, rằng châu Phi có thể cho chúng tôi những thứ nó từng cho.
Các chị em tôilấy chồng theo lối truyền thống, nghĩa là, cả tôi nữa, cũng có thể lấy vợ khi đủ tuổi và nới rộng cuộc sống gia đình chúng tôi. Nhưng lúc còn nhỏ, khi còn học ở trường, tôi đã nhận ra rằng cách sống của chúng tôi quá cổ lỗ và dường như đã đến hồi cáo chung.
Những thứ nhỏ bé có thể mang đến chúng tôi nhiều cách suy nghĩ mới, chẳng hạn những bức tem thư. Chính quyền Anh đã cho chúng tôi nhiều loại tem đẹp. Những lọai tem đó miêu tả cảnh sắc và đồ vật của địa phương; một cái có tên là "thuyền buồm A rập". Trong những con tem có hình chiếc thuyền đó, có cái gì kỳ lạ khiến một người nước ngoài từng nói "Đó là điều nổi bật nhất ở vùng này". Không có con tem về thuyền buồm ấy có lẽ tôi đã chẳng mảy may quan tâm đến những chiếc thuyền. Tôi học cách quan sát chúng. Mỗi khi thấy chúng chen chúc nhau ở ven bờ nước tôi nghĩ chúng như là cái gì đó thật thân thiết với vùng chúng tôi, gần gũi, cái gì đó người nước ngoài có thể nhận ra, cái gì đo không được hiện đại cho
https://thuviensach.vn
lắm, và chắc chắn chẳng hề giống với những tàu hàng và tàu khách cập vào những cầu cảng hiện đại của chúng tôi.
Vậy là từ khi còn bé tôi đã phát triển cho mình thói quen nhìn ngắm, tự gắn mình vào khung cảnh thân quen và thử nhận ra nó từ một khoảng cách nào đó. Chính từ thói quen hay nhìn ngắm này mà tôi có ý nghĩ rằng với tư cách là một cộng đồng chúng tôi đã tụi lùi về sau nhiều quá. Và đó là khởi đầu cho tình trạng bất an của tôi.
Tôi thường nghĩ về cảm giác bất an đó như là một điểm yếu, một điểm kém cỏi trong tính tình của tôi, và tôi có thể hổ thẹn nếu ai đó phát hiện ra điều này. Tôi giữ cho riêng mình những ý nghĩ về tương lai, và thế là đủ để thoải mái sống trong nhà chúng tôi, nơi, như tôi đã từng nói, không bao giờ có cái gì đó tương tự một cuộc tranh luận chính trị. Gia đình tôi không có người điên. Bố tôi và anh em ông là thương gia, buôn bán; theo cách của riêng mình họ cố theo kịp thời đại. Họ có thể điều chỉnh được hoàn cảnh; họ chấp nhận rủi ro và đôi khi họ có thể trở nên rất cục cằn. Nhưng họ đã đi sâu vào cuộc đời mình đến nỗi kt nào bước lui và nhìn ngắm lại bản chất cuộc đời nó. Họ làm điều họ phải làm. Khi mọi chuyện trở nên sai trái họ có sự an ủi của tôn giáo. Chập nhận số phận không chỉ đơn thuần là sự sẵn sàng, đó là một lòng tin trầm tĩnh và sâu sắc về sự phù phiếm của đời người.
Tôi không bao giờ có thể lên cao đến thế. Sự bi quan của tôi, sự bất an của tôi, là một chuyện thuộc trần thế nhiều hơn. Tôi không hề có cảm giác tôn giáo của gia đình mình. Sự bất an đó là do tôi thiếu một tôn giáo đích thực, và cũng giống như một đổi thay nhỏ về sự bi quan cao cả của lòng tin chúng ta, sự bi quan dẫn con người đến những day dứt. Đó là cái giá dành cho thái độ duy vật của tôi, sự tìm kiếm của tôi để chiếm lĩnh được trạng thái trung hoà, giữa sự thẩm thấu vào cuộc sống và bay lơ lửng phía trên mặt đất.
https://thuviensach.vn
Sự bất ổn tôi cảm thấy về vị thế của chúng tôi trên bờ biển là do tính khí của tôi và quả có ít thứ có thể làm tôi bình tâm trở lại. Các sự kiện ở mảnh đất châu Phi này bắt đầu biến chuyển rất nhanh. Về phía Bắc có một cuộc nổi loạn đẫm máu của một bộ lạc sống trên núi cao mà người Anh dường như không thể trấn áp nổi, và cũng có những vụ bùng nổ thể hiện sự bất tuân và sự tức giận khác nữa. Những triệu chứng bệnh đôi khi cũng là bệnh tật thực sự, và tôi không nghĩ rằng sự sợ hãi của bản thân khiến tôi cảm thấy hệ thống chính trị mà chúng tôi đang sống dang sắp chấm dứt, và rằng cái sẽ thay thế sẽ không hề dễ chịu. Tôi sợ những lời nói dối – những người da đen khẳng định người da trắng nói dối.
Chính châu Âu đã cho chúng tôi, những người sống ở bờ biển, ý tưởng nào đó về lịch sử của chúng tôi, chính châu Âu, tôi cảm thấy thấy vậy, cũng đã mang đến những lời nói dối. Những người từng sống ở vùng này của châu Phi trước người châu Âu chưa từng bao giờ nói dối về mình. Không phải vì chúng tôi đạo đức hơn họ. Chúng tôi không nói dối bởi vì chúng tôi không bao giờ sở hữu chính mình và không hề nghĩ là có cái gì đó để mình phải nói dối hết; chúng tôi là những người giản đơn như thế đấy. Nhưng người châu Âu có thể nói một đằng làm một nẻo; và họ có thể hành động theo cách đó bởi vì họ có ý thức về cái họ nợ nền văn minh của mình. Đó là chỗ lợi thê của họ so với chúng tôi. Người châu Âu muốn có vàng và nô lệ, cũng giống như mọi người khác; nhưng cùng lúc đó họ cũng muốn người ta dựng tượng mình như những người từng làm việc tốt cho nô lệ vậy. Là những người thông minh và đầy nghị lực, và ở đỉnh cao quyền lực của mình, họ có thể diễn tả cả hai mặt của nền văn minh của họ; và họ có cả nô lệ lẫn tượng.
Bởi tự sở hữu mình,so với chúng tôi người châu Âu được trang bị tốt hơn để đôi mặt với những thay đổi. Và tôi không còn tính đến châu Phi, rằng thực tế ctgcg còn gì để cho đi nữa cả. Người châu Âu chuẩn bị để đi, hoặc chiến đấu, hoặc gặp những người châu Phi ở nửa đường. Chúng tôi tiếp tục sống như trước đây, mù quáng. Ngay cả gần đây vẫn không có gì
https://thuviensach.vn
giống như một cuộc tranh luận chính trị trong nhà chúng tôi hoặc trong nhà những gia đình mà tôi biết. Chủ đề bị né tránh. Tôi cũng tự thấy mình né tránh nó.
Một tuần tôi đến chơi squash tại nhà anh bạn Indar của tôi hai lần. Ông Indar đến từ Punjab, Ấn Độ, để làm công nhân hợp đồng trong ngành đường sắt. Ông già người Punjab đã làm việc tốt. Khi hoàn thành hợp đồng ông đến ở bờ biển và trở thành một người cho vay tiền ỡ chợ, mỗi lần cho vay 20 hoặc 30 sillings cho những người bán hàng ở chợ đang túng tiền phải giật tạm để mua hàng. Cho vay 10 silling tuần này sẽ mang về 12 hoặc 15 sillings vào tuần sau. Không phải cách buôn bán tốt nhất, nhưng một người năng động (và cũng khá cứng rắn) có thể tăng nhanh vốn liếng của mình trong vòng một năm. Thì đó cũng là một thứ nghề dịch vụ, một sinh kế. Và còn hơn cả sinh kế nữa. Gia đình đã phát triên rất nhanh. Họ đã trở thành các chủ nhà băng theo cách không chính thống, cai quản các công ty nhỏ nhưng ăn nên làm ra, nhiều vụ buôn bán đến tận Ấn Độ, A rập và vịnh Ba Tư (vẫn bằng những chiếc thuyền buồm như trên tem thư).
Gia dình Indar sống trong một khu nhà lớn torng khu đất trải nhựa. Nhà chính ở cuối khu đất, có các nhà nhỏ, riêng, những ngôi nhà khác cho gia nhân (gia nhân đúng nghĩa, những người được thuê và có thể bị sa thải, không phải những người ăn bám như ở chỗ chúng tôi) và có sân squash. Mọi thứ đều bi .quây vào bên trong bức tường cao phủ cây, cổng chính với người gác. Khu nhà nằm ở khu mới của thành phố, tôi không nghĩ là còn có thể biệt lập và được bảo vệ tốt hơn như thế nữa.
Những người giàu không bao giờ quên là họ giàu, và tôi coi Indar như một đứa con ngoan của gia đình cho vay tiền hoặc nhà băng của cậu ta. Cậu đẹp trai, cẩn thận trau chuốt hình dáng bên ngoài, và khá là sát gái, với cái gì đó kín đáo trong cách nói năng. Tôi cho rằng như thế là do cách nhìn của cậu đối với tài sản riêng của mình và cũng là do những lo lắng về tình dục
https://thuviensach.vn
của cậu ta. Tôi nghĩ cậu là một người hay bí mật lui tới nhà thổ và sống trong nỗi lo lắng bi .phát giác hoặc bị dính thứ bệnh nào đó.
Chúng tôi uống nước cam lạnh hay trà nóng sau khi chơi (Indar đã bắt đầu lo lắng tới trọng lượng cơ thể của mình) thì cậu bảo tôi là cậu sẽ đi. Cậu sẽ đến Anh, tới một trường đại học danh tiếng để học trong vòng ba năm. Indar, cũng như gia đình cậu ta, vẫn thường tuyên bố những tin quan trọng theo cách bình thường như thế. Tin này làm tôi hơi thất vọng. Indar có thể làm mọi điều cậu ta thích không chỉ vì cậu ta giàu có (tôi từng gắn việc ra nước ngoài học với giàu có), mà còn vì cậu ta đã học tại đây, ở trường trung học nói tiếng Anh cho đến năm 18 tủôi. Tôi đã rời trường khi 16. Không phải vì tôi hoặc không giỏi, cũng không phải gia đình sa sút, mà vì không ai trong gia đình tôi học quá 16 tuổi.
Chúng tôi ngồi trên bậc thềm của sân squash, trong bóng mát. Indar bình thản nói "Nhà tớ sẽ đi khỏi đây, cậu cũng biết đấy. Sống ở châu Phi cần phải mạnh mẽ lắm, chúng tớ không mạnh mẽ."
Cậu đã gợi ra điều không thể gợi ra. Ngay khi cậu nói tôi thấy bức tường nhà cậu chẳng có tác dụng gì cả. Hai thế hệ đã trôi qua khi tôi nhìn thấy nó; và tôi buồn cho cái công trình rồi sẽ bị vứt đi này. Ngay khi Indar nói tôi cảm thấy tôi có thể thâm nhập đầu óc cậu ta và thấy cái cậu ta thấy – sự nhỏ bé, cái cổng và người coi nhà không có khả năng ngăn chặn được hiểm nguy thật sự.
Nhưng tôi không tỏ ra mình hiểu điều cậu ta nói. Tôi xử sự như những người từng cáu giận và làm tôi chán ngán vì không chịu công nhận sự thay đổi đang đến chỗ chúng tôi. Và khi Indar hỏi tôi "Cậu sẽ làm gì?", tôi đã nói, như thể không nhìn thấy vấn đề gì hết vậy "Tớ sẽ ở lại. Tớ sẽ buôn bán".
Điều này chẳng đúng tí nào cả. Tôi cảm thấy điều ngược lại cơ. Nhưng tôi thấy là mình không sẵn lòng – ngay khi câu hỏi được đặt ra với
https://thuviensach.vn
tôi – công nhận hoàn cảnh vô phương cứu chữa của mình. Bằng bản năng tôi rơi vào những thái độ của gia đình mình. Nhưng với tôi và chủ nghĩa đinh mệnh chỉ là điều vớ vẩn, tôi quan tâm nhiều hơn đến thế giới và mong không phải phủ nhận điều gì. Mọi điều tôi có thể làm là che giấu sự thật. Và khám phá này về bản thân đã làm tôi xáo động rất nhiều khi đi bộ về nhà qua thành phố nóng bỏng.
Mặt trời buổi chiều chiếu xuống trên con đường nóng bỏng màu trắng mềm mại và những lề đường ngoằn ngoèo. Tất cả đều bình thường. Có vẻ như không hề có nguy hiểm nào trong những đám người, những con phố gẫy khúc, những lối đi hai bên có tường trắng. Nhưng với tôi nơi này đã bị nhiễm độc.
Tôi có một căn phòng ở tầng trên trong ngôi nhà gia đình chúng tôi. Nó vẫn sáng đèn khi tôi trở về. Tôi nhìn qua khu nhà mình, thấy những cái cây và màu xanh của những cái sân lân cận và những khoảng không gian mở. Dì tôi đang gọi một trong những người con gái của mình, một vài cái bình đồng cũ kỹ đã được mang ra ngoài sân để cọ bằng giũa đã biến mất. Tôi nhìn vào người đàn bà sùng đạo đó, đang được che chở sau những bức tường ngôi nhà của mình, và thấy nỗi lo lắng về những cái bình đồng của bà là vớ vẩn làm sao. Bức tường sơn màu trắng mỏng tang (mỏng hơn tường của khu nô lệ ở bờ biển) không bảo vệ bà nhiều lắm. Bà mới dễ bị tổn thương làm sao – bản thân bà, tôn giáo của bà, tập quán của bà, lối sống của bà. Cái sân nhỏ hẹp chứa toàn bộ cuộc sống của bà, đã trở thành toàn bộ thế giới của bà, từ lâu nay đến thế. Làm sao người ta không nhận thấy điều ấy? Làm sao người ta có thể không hỏi điều gì thực sự bảo vệ chúng tôi?
Tôi nhớ lại cái nhìn chiêm ngưỡng và đầy phấn khích Indar dành cho tôi. Và quyết định đã đến với tôi vào lúc đó. Tôi phải đi. Tôi không thể bảo vệ ai hết, không có ai có thể bảo vệ tôi. Chúng tôi không thể bảo vệ chính chúng tôi, chúng tôi chỉ có thể, bằng nhiều cách, trốn khỏi sự thật. Tôi phải
https://thuviensach.vn
đi khỏi khu nhà của gia đình và cộng đồng của tôi. Ở lại đây với cộng đồng mình, để cho rằng suốt đời đi cùng họ, được đi cùng với họ chỉ là sự phá huỷ. Tôi chỉ có thể làm chủ được số phận của mình khi đơn độc. Một dòng thuỷ triều của lịch sử - đã bị chúng tôi lãng quên, chỉ sống trong những cuốn sách của người châu Âu mà tôi từng đọc – đã mang chúng tôi đến đây. Chúng tôi đã sống cuộc sống của mình theo cách của chúng tôi, đã làm cái chúng tôi phải làm, nguyện cầu Chúa và tuân theo những lời giới răn của Người. Giờ đây – vang vọng lại những lời nói của Indar – một dòng triều lịch sử khác đã tới để mang chúng tôi đi.
Tôi không thể tiếp tục tuân theo Số phận được nữa. Mong muốn của tôi không phải là trở nên tốt đẹp theo cách truyền thống của chúng tôi, mà phải tạo ra được sự tốt đẹp. Nhưng bằng cách nào đây? Tôi phải dâng tặng điều gì? Tài năng nào, kỹ năng nào, ngoài những kỹ năng buôn bán châu Phi mà gia đình tôi có? Nỗi lo lắng này bắt đầu gặm nhấm tôi. Và chính vì thế, khi Nazruddin đề nghị bán cửa hiệu cho tôi, một cửa hiệu và công việc buôn bán ở vùng đất xa xôi của châu Phi, tôi đã đồng ý ngay tắp lự.
Trong cộng đồng chúng tôi, Nazruddin là một người lạ. Ông cùng độ tuổi với cha tôi, nhưng trông trẻ hơn nhiều và còn khá sung sức. Ông chơi tenis, uống rượu vang, nói tiếng Pháp, đeo kính đen và mặc com lê ( với những chiếc ve áo to tướng và ca vát quăn tớn). Trong chúng tôi ông là người nổi tiếng (và hay bị chế giễu sau lưng) về các thói quen châu Âu của mình, mà ông có được không phải từ châu Âu (ông chưa bao giờ ở đó), mà từ một thành phố ở trung tâm châu Phi nơi ông đã từng sống và buôn bán.
Nhiều năm trước, vì sự bốc đồng, Nazruddin đã bỏ công việc kinh doanh ở bờ biển và chuỷên vào sâu hơn trong đất liền. Những nước thuộc địa ở châu Phi tạo cảm hứng cho các hoạt động của ông. Nhưng Nazruddin cũng chẳng làm gì hơn là theo những con đường thương mại cũ của người A Rập để vào sâu hơn; và ông đã dừng ở trung tâm châu lục, bên khúc quanh của một dòng sông.
https://thuviensach.vn
Đó cũng là giới hạn người A rập từng đến trong thế kỷ trước. Tại đó họ đã gặp người châu Âu, tiến đến từ hướng khác. Với người châu Âu nó thật nhỏ bé tầm thường. Với người A Rập ở miền trung châu Phi đó là tất cả, nghị lực từng đẩy họ đến châu Phi đã chết ở nơi ngọn nguồn này, và sức mạnh của họ giống như ánh sáng của một ngôi sao đã tắt. Sức mạnh A Rập đã biến mất ; trên khúc quanh của dòng sông đã mọc lên thành phố của người châu Âu, chứ không phải của người A rập. Và chính từ thành phố đó mà Nazruddin, lại xuất hiện trở lại giữa chúng tôi sau một khoảng thời gian, đã mang về những thói quen và thị hiếu xa lạ cùng những câu chuyện về thành công trong công việc buôn bán của mình.
Nazruddin là người lạ, nhưng ông vẫn ở trong cộng đồng của chúng tôi bởi vì ông cần những người chồng và người vợ cho những đứa con của mình. Tôi luôn biết rằng ông thấy ở tôi người chồng tiềm năng cho một trong số những đứa con gái của ông; và tôi đã sống với sự công nhận đó lâu đến mức nó chẳng còn làm phiền gì tôi nữa. Tôi thích Nazruddin. Tôi đón chờ những lần ông đến chơi, nói chuyện với ông, thái độ thân mật hết sức của ông khi ông ngồi xuống trong căn phòng u buồn của chúng tôi hay ở ngoài hiên và nói về những điều phấn khích của thế giới xa xôi của ông.
Ông là một người rất nồng nhiệt. Ông tô vẽ những điều ông đã làm. Ông thích những ngôi nhà mình mua (thường là mua với giá hời), những tiệm ăn ông chọn, những món ăn ông gọi. Mọi thứ với ông đều diễn ra thật hoàn haỏ, và những câu chuyện của ông về vận may bất ngờ có thể khiến ông trở nên không được khiêm tốn cho lắm nếu ở ông không có cái tài miêu tả mọi việc thật là hay ho. Ông buộc tôi phải làm những gì ông đã làm, đến nơi ông đã từng đến. Theo một cách nào đó ông đã trở thành hình mẫu của tôi.
Ngoài ra ông còn biết xem tướng tay, và những thứ ông đọc được thật có giá trị vì ông chỉ đọc khi nào ông có hứng. Khi tôi 10 hay 12 tuổi, ông đã đưa tôi đọc và gửi những thứ thật kỳ diệu cho tôi. Cho nên tôi rất kính
https://thuviensach.vn
trọng những lời phán xét của ông. Ông dần thêm những cai mới vào việc đọc. Tôi đặc biệt nhớ một chuyện. Ông ngồi trên cái xích đu gỗ, đung đưa từ rìa thảm ra đến sàn nhà. Ông đột ngột ngừng điều đang nói và đòi tôi cho ông xem tay. Ông cầm lấy đầu những ngón tay của tôi, rồi bỏ tay tôi ra. Ông nghĩ ngợi một lúc về những điều ông vừa nhìn thấy – đó là cách của ông, nghĩ về những điều ông đã thấy nhiều hơn là chăm chăm nhìn vào tay, và ông nói "Cháu là người có lòng tin lớn nhất mà bác biết", Điều này không làm tôi thích thú; dường như nó có nghĩa tôi chẳng là gì trong cuộc đời này hết cả. Tôi nói "Bác có thể đọc được chính bàn tay của bác không? Bác có biết nó nói lên được điều gì không?" Ông nói, "Không biết được, không biết được". Âm điệu giọng nói của ông đổi khác, tôi ngắm nhìn người đàn ông này, người có (theo lời kể của ông) mọi thứ diễn ra thật tốt đẹp, đã thực sự sống với ý nghĩ mọi thứ rồi đều sẽ trở nên xấu xa. Tôi nghe đó là cách một người có thể xử sự; và tôi cảm thấy thân thiết với ông sau đó, thân thiết hơn cả với những người trong gia đình tôi.
Rồi xảy ra một sự đổ vỡ mà một số người dã ngầm tiên liệu trước đối với người đàn ông luôn thành công và nói nhiều này. Đất nước mà Nazruddin gia nhập trở nên độc lập, khá đột ngột, và trong suốt nhiều tuần nhiều tháng, tin tức từ nơi đó thường chỉ là những trận chiến và chết chóc. Theo cách một số người nói bạn có thể tin là nếu Nazruddin từng là một loại nnkhác, nếu ông bớt huênh hoang về thành công của mình, uống ít rượu hơn và chừng mực hơn trong cách cư xử, các sự kiện đã có thể diễn ra theo cách khác. Chúng tôi nghe rằng ông cùng gia đình bay đến Uganda. Có tin họ đã ngồi thùng xe tải xuyên qua cây bụi trong suốt nhiều ngày, hoảng loạn và đói khát tại thành phố ven biên giới Kisoro.
Chí ít thì ông cũng được an toàn. Bằng chuyến đi khó nhọc ông đã đến được bờ biển. Những người muốn thấy ông suy sụp đã thất vọng. Nazruddin vẫn luôn ngẩng cao đầu, vẫn mặc bộ đồ đen và đeo đôi kính đen. Tấn thảm kịch đã không hề ảnh hưởng đến ông.
https://thuviensach.vn
Thường khi thì Nazruddin đến thăm, người ta nỗ lực hết sức để đón tiếp ông chu đáo. Phòng khách được lau cẩn thận, và những chiêc bình bằng đồng với những hình vẽ các cuộc săn được lau chùi. Nhưng lần này, vì người ta tin ông đang gặp rắc rối, và do đó ông tầm thường giống chúng tôi, nên không ai cố gắng hết cả. Phòng khách vẫn ở trong tình trạng lộn xộn bình thường và chúng tôi ngồi trên hiên nhà đối diện với cái sân.
Mẹ tôi mang trà ra, rồi rót theo cách không như thường lệ, như tính hiếu khách quy định vậy, mà xử sự như bà đang hành lễ trọng. Khi bà đặt khay nước xuống dường như bà tan vỡ thành những giọt nước mắt. Những người anh rể của tôi lượn vòng qudnh với những khuôn mặt lo lắng. Nhưng Nazruddin – dù vừa trải qua chuyến đi dài dặc sau xe tải – không kể gì về thảm hoạ, mà chỉ có chuyện về những may mắn và thành công nối tiếp nhau. Ông đã nhìn thấy rắc rối đến; ông đã tiên đoán được nó trước hẳn mấy tháng.
Nazruddin nói "Không phải người châu Phi làm tôi điên tiết. Không phải người châu Âu, cũng không phải những người khác. Ngay trước khi có bạo loạn mị người sẽ trở nên điên rồ. Chúng ta ở vào thời kỳ bùng nổ kinh tế rất mạnh mẽ. Mọi người chỉ luôn nói đến tiền thôi. Một mẩu cây bụi không đáng giá gì ngày hôm nay sẽ được bán vào ngày mai với giá một triệu quan. Chẳng khác gì trò ảo thuật, nhưng là tiền thật đấy nhé. Chính tôi cũng tin vào điều đó, và suýt nữa thì sa bẫy.
"Một buổi sáng Chủ nhật nọ tôi đến chỗ đã mua với giá hơi dắt. Thời tiết xấu. Nóng và oi nồng. Bầu trời tối den nhưng không có mưa; nó chỉ như thế thôi. Ánh sángthì ở xa lắm – đã mưa ở đâu đó trong rừng. Tôi nghĩ, không hay rồi. Chỉ có cây bụi thôi. Luôn luôn là cây buị. Tôi khó có thể chờ đến sáng thứ Hai sau đó. Tôi bèn bán mọi thứ đi. Bán với giá rẻ mạt, nhưng tôi đòi được trả bằng tiền châu Âu. Tôi bèn gửi gia đình đi Uganda.
"Các bạn có biết Uganda không? Một đất nước rất đáng yêu. Tuyệt lắm, nó ở độ cao tới 4000 feet, và người ta nói nó chẳng káhc gì Scotland
https://thuviensach.vn
với những quả đồi. Ở đó người Anh xây dựng chế độ hành chính khá khẩm nhất mà bạn có thể đòi hỏi. Rất đơn giản nhưng hiệu quả rất cao. Những con đường đẹp tuyệt vời. Và những người Bantu ở đó da rất trắng".
Đó là Nazruddin. Chúng tôi từng nghĩ ông gục ngã. Thay vì đó, ông đã cố làm chúng tôi phấn khích lên với sự nhiệt thành của mình với đất nước mới, và đòi chúng tôi lại phải công nhận vận may của ông một lần nữa. Quả thật ông luôn tự chủ được. Dù không bao giờ nói điều gì rõ ràng, ông vẫn nghĩ chúng tôi sống ở bờ biển thế này thật đáng sợ, và hôm đó ông bèn chào hàng tôi.
Ông vẫn còn lợi tức ở đất nước cũ của mình – một cửa hiệu, qua nhệ với một vài hãng. Ông nghĩ sẽ là thận trọng nếu vẫn giữ lại cửa hiệu trong khi chuyển tài sản của mình ra khỏi đất nước, để tránh mọi người biết quá nhiều về việc của ông. Và giờ đây ông đề nghị bán cửa hiệu và những mối đó lại cho tôi.
"Bây giờ thì nó không còn đáng giá mấy đâu. Nhưng rồi sẽ lại ổn. Thực ra bác có thể tặng không cho cháu. Nhưng điều này có thể chẳng hay ho gì cho cả cháu và bác. Cháu phải luôn biết khi nào cần chi tiền. Một thương gia không phải một nhà toán học. Hãy nhớ điều đó. Đừng bao giờ bị hoa mắt bởi sự đẹp đẽ của những con số. Một thương gia là người mua giá 10 và hạnh phúc bán được ở giá 12. Loại người kia mua 10, thấy nó tăng lên 18 nhưng vẫn không làm gì cả, hắn ta chờ lên đến 20. Vẻ đẹp của những con số. Khi nó tụt trở về 10 hắn ta vẫn đợi để nó lên lại 18. Nào, thì nó sẽ quay về. Nhưng thế là lãng phí mất một phần tư cuộc đời rồi. Và tất cả những gì hắn ta có về tiền là một sự phấn khích toán học". Tôi nói "Cửa hiệu đó, giả định mua giá 10, bác sẽ bán cho cháu bao nhiêu?" "2. Trong ba hay bốn năm nữa nó sẽ lên được 6. Ở châu Phi công việc kinh doanh không bao giờ chết; không bao giờ bị cắt đứt lưng chừng. Nhưng sẽ là lãng phí thời gian nếu bác chờ nó lên được 6. Với bác vải vóc ở Uganda hay hơn.
https://thuviensach.vn
Nhưng với cháu điều này là tốt đấy. Điều cháu phải luôn biết là khi nào cần rút lui".
Nazruddin đã thấy lòng tin ở đường chỉ tay của tay tôi. Nhưng ông đã đọc sai tôi. Bởi vì khi tôi châp nhận lời chào hàng của ông, tôi dang trên đường mất lòng tin ở ông. Tôi đã chấp nhận lời chào hàng này vì tôi muốn đi xa. Để tách khỏi gia đình và cộng đồng của mình, điều này cũng đồng nghĩa với tách khỏi lời cam kết bất thành văn với Nazruddin và con gái của ông.
Ông có một cô con gái đáng yêu. Mỗi năm một lần, cô đến bờ biển để ở vài tuần với người chị của bố cô. Cô được giáo dục tốt hơn tôi; có lời đồn cô sẽ đi học kế tóan hoặc luật. Cô có thể trở thành một cô gai rất tốt để lấy làm vợ, nhưng tôi ngưỡng mộ cô như tôi có thể ngưỡng mộ một cô gái của chính gia đình mình. Không gì dễ hơn là cưới con gái của Nazruddin. Với tôi, không gì có thể tồi tệ hơn thế. Và cũng chính vì sự tồi tệ này cũng như mọi điều khác mà tôi muốn ra đi, khi tôi rời bờ biển trên chiếc xe Peugeot.
Tôi mất lòng tin vào Nazruddin. Đúng, ông – một người say mê cuộc đời, một người nhìn xa trông rộng nhiều kinh nghiệm – đã từng là hình mẫu của tôi, và tôi cũng đang lái xe để đến thị trấn của ông. Mọi điều tôi biết về thị trấn ở khúc quanh dòng sông đều có được từ những câu chuyện của Nazruddin. Nhưng điều thật lố bịch có thể xảy đến với chúng ta vào lúc nào đó, và đến cuối chuyến đi khó nhọc này cái thường trực nằm trong đầu óc tôi là điều Nazruddin từng nói về những quán ăn của thị trấn, về thức ăn và tới châu Âu. "Rượu Saccone và rượu Speed", ông nói. Đó là quan sát của một lái buôn. Ông muốn nói ngay cả ở đó, trung tâm châu Phi, rượu cũng được mang đến từ các thương gia trên bờ biển phía Đông của chúng tôi chứ không phải từ bờ bên kia.
Tôi chưa từng bao giờ ăn tại một quán ăn Âu thật sự hay được nếm rượu vang – chúng tôi bị cấm – một cách thích thú; và tôi biết rằng cuộc sống Nazruddin miêu tả đã chấm dứt. Nhưng tôi đã lái xe qua cả châu Phi
https://thuviensach.vn
để đến thị trấn của Nazruddin như thể ở dưới cuộc sống đó sẽ được tái tạo cho riêng mình.
Khi đến nơi tôi thấy rằng thị trấn mà Nazruddin từng thêu dệt bao nhiêu câu chuyện đã bị phá huỷ, đã quay trở lại thành cây bụi mà ông từng thấy khi quyết định bán đi. Mặc chính bản thân mình, mặc tất cả những gì được nói về các sự kiện mới xảy ra, tôi vẫn bị sốc, cảm thấy bị lừa. Dường như sự ngờ vực trong tôi sống dậy.
Rượu vang! Kiếm được thứ lương thực đơn giản nhất cũng đã khó khăn lắm rồi; nếu muốn có rau bạn phải lôi chúng ra từ một cái lon rất cũ – và đắt tiền – hoặc bạn tự trồng lấy mà ăn. Người châu Phi đã rời bỏ thị trấn và trở về làng mình có khấm khá hơn; ít nhất thì họ cũng đã trở về với cuộc sống truyền thống của mình và dù ít dù nhiều cũng tự làm lấy mà ăn. Nhưng với chúng tôi, những người còn ở lại thị trấn, những người cần cửa hiệu và các loại dịch vụ - một nhúm người Bỉ, một số người Hy Lạp và Italia, một nhúm người Ấn độ - đó là tất cả, một kiểu tồn tại của Robinson Cursoe. Chúng tôi có xe và chúng tôi sống trong những ngôi nhà sạch sẽ - tôi đã mua một căn hộ ở phía trên nhà kho bỏ hoang gần như không có gì cả. Những cửa hiệu trống rỗng; nước là cả một vấn đề; điện thì chập chờn; và dầu hoả thì thường xuyên thiếu thốn.
Vài tuần một lần chúng tôi lại thiếu dầu hoả. Hai thuyền chở dầu trống rỗng bị những người dưới hạ lưu dòng sông chiêm lấy, kéo tuột vào một con rạch bí mật và biến thành chỗ ở. Người dân ở đây thích cọ nhẵn như chùi căn nhà mình để tránh rắn; và những tấm đáy bằng thép của các con thuyền cung cấp một mặt phẳng sống lý tưởng.
Một trong những buổi sáng thiếu dầu hoả đó tôi đã đun nước của mình trên một cái lò than bằng gang làm ở Anh – được trữ tại cửa hiệu của tôi để bán cho những người châu Phi ở làng. Tôi mang chiếc lò ra tầng đệm của cầu thang lộ thiên đằng sau nhà, ngồi chồm hổm quạt . Xung quanh tôi mọi người đều làm thế; khói tuôn mù mịt.
https://thuviensach.vn
Và đầy những đống đổ nát. Miscerique probat populos et foedera jungi. Những từ La tinh đó, mà tôi không biết nghĩa, là tất cả những gì còn lại của một toà nhà bên ngoài cầu tầu. Tôi thuộc lòng những từ đó; tôi đọc chúng theo cách đọc của riêng mình, chúng chạy qua đầu tôi như một chuỗi từ vô nghĩa. Chúng được khắc trên một mảnh đá granite, phần còn lại của phiến đá giờ đã nhẵn lỳ. Bức tượng đồng bên dưới những chữ đó đã bị bóc đi; những mảnh đồng nhỏ lởm chởm còn lại trên mặt đá cho thấy người thợ khắc đã dán lá chuối hoặc cành cọ lên trên cùng để tạo khuôn cho tác phẩm của mình. Tôi biết rằng toà nhà này được xây dựng cách đây ít năm; khoảng cuối thời thực dân, để kỷ niệm 60 năm tàu thuỷ hơi nước được đưa vào sử dụng ở thủ đô.
Vậy là ngay sau khi vừa được dựng lên – rõ ràng là với những bài diễn văn tiên đoán 60 năm phục vụ tương lai – toà công trình về tàu thuỷ cũng gục luôn. Cùng với tất cả các loại tượng và công trình thực dân khác. Bệ cột xiêu vẹo, rào chắn bảo vệ nham nhở, đèn báo mực nước nát tương và bị vứt lỏng chỏng. Đống đổ nát đúng là đống đổ nát , không hề có ý định nào vực chúng dậy. Tên của tất cả các phố chính đều bị đổi. Những tấm bảng cứng đỡ lấy những cái tên mới, được viết rất cẩu thả. Không ai sử dụng tên mới, vì chẳng ai quan tâm lắm đến chúng. Mong muốn chỉ là thoát khỏi cái cũ, là quét sạch được ký ức về kẻ xâm lược. N' giảm nhẹ chiều sâu của sự tức giận Phi châu, ước muốn tàn phá, không thèm biết đến hậu quả sẽ ra sao.
Nhưng cái đáng rầu lòng hơn cả là khu ngoại ô đổ nát gần ghềnh nước. Từng một thời là khu nhà có giá trị, giờ đây đã bị cây bụi che phủ, là cái sân chung, theo phong tục của người châu Phi. Những ngôi nhà lần lượt bị đốt cháy. Chúng bị lột mất những gì mà người địa phương thực sự cần, ở mặt trước hoặc mặt sau nhà, những mảnh tôn, những đoạn ống nước, chậu tắm, bồn rửa bát và thau rửa mặt (những cái chậu không rò, rất thuận tiện để rửa sắn). Các bãi cỏ và khu vườn đã trở lại thành cây bụi; đường phố đã biến mất, cành nho và các loại dây leo đã bò lên trên những bức tường
https://thuviensach.vn
nham nhở trắng bợt bằng bê tông hoặc đất sét rỗng ruột. Đâu đó trong đám cây bụi vẫn có thể nhìn thấy những mảnh bê tông của cái từng là nhà hàng (rượu Saccon và Speed) và hộp đêm. Một hộp đêm tên là "Napoli", giờ đã thành ra một cái tên vô nghĩa, được vẽ lên trên một bức tường bê tông, gần như đã bong cả.
Mặt trời, mưa gió và cây bụi đã làm cho khung cảnh nơi này trông thật cổ lỗ, giống như của một nền văn minh đã chết. Đống đổ nát, trải rộng hàng acre, dường như đang nói về thảm hoạ cuối cùng. Nhưng nền văn minh không chết. Tôi tồn tại trong đó và rõ ràng là đang tiến lên trong nó. Và điều này có thể tạo ra một cảm giác là lạ; ở giữa đống đổ nát thời gian của bạn trở nên vô định. Bạn cảm thấy như mình là một con ma, đến từ tương lai chứ không phải từ quá khứ. Bạn cảm thấy cuộc đời bạn và tham vọng của bạn đã sống ở bên ngoài bạn và bạn đang nhìn vào những phế tích của cuộc đời đó. Bạn đang ở tại một nơi mà tương lai đã đến và cũng đã đi.
Với những đống đổ nát và mất mát, thị trấn của Nazruddin đã trở thành một thị trấn ma. Và với tôi, một người mới đến, ở đây chẳng có gì giống với một cuộc sống xã hội con người. Những người trở về không được chào đón. Họ đã bị cắt đứt khỏi mối dây liên hệ; họ không biết các sự việc đã diễn ra như thế nào, và họ rất bực dọc. Người Bỉ, nhất là những người còn trẻ, đầy tức tối và cảm thấy bất công. Người Hy Lạp, những người thuộc các gia đình danh giá, nóng nảy và điên tiết về những người khác, cố gìn giữ gia đình và những người bạn thân cận của mình. Tôi đã đến thăm ba ngôi nhà, thăm họ vào những ngày trong tuần, đúng giờ ăn trưa, bữa giờ đây đã là bữa chính của tôi. Đó đều là những ngôi nhà của người châu Á hay người Ấn độ.
Có một cặp vợ chồng đến từ Ấn độ. Họ sống trong một căn hộ nhỏ đầy mùi a nguỳ và trang trí bằng những bông hoa giấy và nhiều bức vẽ tôn giáo màu sắc sặc sỡ. Người chồng là một chuyên gia Liên Hiệp Quốc vì lý do nào đó không muốn quay về Ấn độ, ông ở lại đây làm những công việc
https://thuviensach.vn
vớ vẩn sau khi hợp đồng đã hết hạn. Họ là một cặp vợ chồng hiếu khách và cố gắng (tôi cảm thấy vì những lý do tôn giáo) bày tỏ sự hiếu khách với những người nước ngoài sợ hãi hoặc mắc kẹt. Họ làm hỏng tính hiếu khách của chính mình vì tỏ ra quá hiếu khách. Tôi thấy đồ ăn của họ quá lỏng và quá nhiều hạt tiêu, và tôi không thích cách ăn của người chồng. Ông cúi gập đầu xuống món ăn, mũi cách đĩa thức ăn một hoặc hai inch và tạo ra tiếng ồn rất lớn khi ăn, chẹp chẹp môi vào nhau. Trong khi ông ăn, vợ ông quạt cho ông, mắt vẫn không rời khỏi đĩa của ông, quạt bằng tay phải, tựa cằm lên lòng bàn tay trái. Nhưng tôi vẫn đến đó một tuần hai lần, vì lý do không có chỗ nào khác để đi hơn là vì đồ ăn.
Một chỗ khác mà tôi đến là một ngôi nhà thô kệch, giống như trại gia súc, thuộc về một cặp vợ chồng già cả người Ấn độ, cả gia đình họ đã bỏ đi trong những cuộc biến loạn. Cái sân rộng và bẩn thỉu, đầy những xe hơi và xe tải bị bỏ lại, tàn tích của công việc kinh doanh chuyên chở trong những ngày còn chế độ thực dân. Cặp vợ chồng già dường như không biết mình đang ở đâu. Cây bụi châu Phi bên ngoài khu vườn họ, nhưng họ không nói tiếng Pháp lẫn tiếng châu Phi, và theo cách họ cư xử, bạn có thể nghĩ dòng sông ngay phía dưới con đường chính là sông Hằng, với những ngôi đền và các giáo sĩ linh thiêng cùng những bậc thềm dẫn xuống chỗ tắm chung. Nhưng thật dễ chịu khi ở chỗ họ. Họ không trông chờ trò chuyện, và thật là sung sướng nếu bạn không thể phải nói gì hết, nếu bạn chỉ ăn thôi rồi ra đi.
Tôi thấy thân thiết nhất với Shoba và Mahesh, và tôi nhanh chóng coi họ là bạn. Họ có một cửa hiệu ở chỗ trước hẳn phải là địa điểm buôn bán phát đạt lắm, đối diện với khách sạn Van der Weyden. Cũng giống tôi, họ là người nhập cư từ phía Đông và là những người trốn chạy khỏi cộng đồng của mình. Họ là một cặp vợ chồng đẹp đến kỳ lạ, thật khó tìm thấy những người chú ý tới ăn mặc và vẻ ngoài tại thị trấn của chúng tôi như họ. Nhưng đã quá lâu họ không tiếp xúc với bạn hữu và đã quên tò mò với những người đó. Cũng như những người sống tách biệt khác, họ tự thu mình lại và không quá quan tâm đến thế giới bên ngoài. Cặp vợ chồng đẹp đẽ này sống
https://thuviensach.vn
những ngày thật căng thẳng. Shoba, người vợ, hão huyền và nóng nảy, Mahesh, người đơn giản hơn, luôn ở trong trạng thái lo lắng cho vợ.
Đó là cuộc sống của tôi tại thị trấn của Nazruddin. Tôi từng muốn bỏ tất cả đi để bắt đầu lại. Nhưng trong mỗi thứ đều có những cấp độ khác nhau, và tôi cảm thấy gánh nặng của những ngày tháng vô nghĩa. Cuộc sống của tôi không hề bị gì ngăn trở, nhưng lại chật hẹp hơnbg hết, sự cô đơn của những buổi tối giống như một cơn đau. Tôi không nghĩ tôi có được nguồn sống. Điều may mắn là tôi đã mất ít thôi, trừ thời gian; tôi vẫn luôn có thể đi – dù chưa hề biết sẽ đi đâu. Và rồi tôi thấy là mình không thể đi. Tôi phải ở lại.
Điều tôi lo sợ cho vùng bờ biển cuối cùng cũng xảy ra. Có một cuộc nổi dậy, và những người A rập – những người mang đặc tính châu Phi hệt như những người hầu của mình – cuối cùng đã bị hạ gục.
Thoạt tiên tôi nghe tin từ những người bạn Shoba và Mahesh, họ nghe được trên radio – tôi chưa hề có thói quen nghe đài BBC. Chúng tôi coi tin này là một bí mật, là cái gì đó cần không để người trong vùng biết; đó là lúc chúng tôi thấy sung sướng vì trong vùng không có tờ báo nào.
Rồi báo từ châu Âu và Mỹ đến tay nhiều người trong thị trấn và được truyền tay nhau, và tôi thấy thật kỳ lạ, sao mà một số tờ vẫn tìm ra được những lời hay ho nói về cảnh nồi da nấu thịt ở bờ biển. Nhưng người ta vẫn có thái độ như thế về những vùng họ chẳng mấy quan tâm và không phải sống tại đó. Một số tờ báo nói đến kết cục của chủ nghĩa phong kiến và bình minh một thời đại mới. Nhưng điều xảy ra không phải là mới. Những người yếu ớt đã bị tiêu diệt. Rằng, ở châu Phi, điều này không có gì là mới mẻ, đó là thứ luật cổ xưa nhất của châu lục.
Cuối cùng thư từ từ bờ biển cũng đến – đến cả một đợt – từ người nhà. Chúng được viết rất kín đáo, nhưng thông điệp thì rõ ràng. Không có chỗ cho chúng tôi tại bờ biển nữa, cuộc sống của chúng tôi tại đó đã chấm dứt.
https://thuviensach.vn
Gia đình phân tán. Chỉ những người già mới có thể ở lại khu đất của gia đình – và cuối cùng là tại đó cuộc sống đã trở lại bình lặng hơn. Những người hầu của gia đình, cuối cùng trở thành gánh nặng, không chịu bỏ đi, nấn ná mãi cái tình trạng nô lệ của mình ngay cả vào thời của cuộc cách mạng, đã trở thành bộ phận cấu thành của gia đình. Và một chi tiết trong những lá thư đó có liên quan đến tôi.
Tôi không được chọn ai mà tôi muốn; có vẻ như là tôi đã bị một ai đó chọn. Một trong số các cậu bé hoặc chàng trai trẻ nào đó trong số các gia nhân muốn đi càng xa bờ biển càng tốt, và đã cả quyết đòi được gửi "đến sống với Salim". Cậu bé nói đã luôn có "một tình cảm đặc biệt đối với Salim", và đã làm loạn đến mức mọi người đành phải gửi nó đến cho tôi. Tôi có thê hình dung ra vở kịch. Tôi có thể hình dung ra sự kêu gào, sự vật vã và lồng lộn. Đó là cách cư xử của gia nhân trong nhà chúng tôi, có lẽ họ còn tệ hơn cả lũ trẻ con. Cha tôi, không biết những người khác viết thư thế nào, đã viết trong thư của mình rằng ông và mẹ tôi đã quyết định gửi ai đó tới để chăm sóc tôi – điều này dĩ nhiên có nghĩa là ông gửi cho tôi một đứa nhóc để tôi nuôi nấng và cho ăn.
Tôi không thể từ chối, thằng bé đang trên đường đi tới đây. Chi tiết thằng bé đó có "một tình cảm đặc biệt" với tôi quả là một tin tức hay ho. Một lý do tốt hơn cho sự chọn lựa của nó là tôi chỉ hơn nó có ba, bốn tuổi, chưa vợ, và là người thích hợp hơn cả để giúp nó thực hiện những cuộc lang bạt của mình. Nó luôn là một người lang thang. Chúng tôi đã gửi nó đến trường đạo Hồi khi nó còn bé, nhưng nó luôn chạy trốn đi đâu đó, dù bị mẹ đánh không biết bao nhiêu lần. (Và cái cảnh nó kêu gào còn mẹ nó gào thét trong sân – cả hai đều cố tình trầm trọng hoá vở kịch, cố thu hút được sự chú ý của những người khác trong nhà càng nhiều càng tốt!) Không ai có thể nghĩ nó là một gia nhân. Luôn có giường ngủ và phòng riêng, nó chẳng khác gì người thị trấn, luôn thân thiện, không đáng tin và đầy bạn bè, luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người và không bao giờ làm đến một phần tư những gì đã hứa.
https://thuviensach.vn
Một buổi tối nó tới trên khoang xe một chiếc xe tải của Daulat, không lâu sau khi tôi nhận được thư nói nó đã được gửi đi. Và trái tim tôi rên lên vì nó, nó trông thật nhàu nhĩ, mệt mỏi và sợ hãi. Nó vẫnsn sót sau cú sốc những sự kiện ở bờ biển, và nó không hề thích chuyến đi xuyên qua châu Phi một tí nào.
Nửa quãng đường đầu nó vượt qua bằng xe lửa, bò với vận tốc trung bình mười dặm một giờ. Rồi nó chuỷên sang đi xe buýt và cuối cùng bằng xe tải của Daulat; mặc dù những cuộc chiến tranh, đường xấu và xe cộ cũ nát, Daulat, một người trong cộng đồng c tôi, vẫn tiếp tục công việc chở xe tải thuê qua lại giữa thị trấn của chúng tôi và biên giới phía Đông. Những người lái xe của Daulat giúp thằng bé qua được rất nhiều quan chức . Nhưng thằng bé có dòng máu pha trộn, vẫn còn khá là châu Phi nên thật khó khăn để qua được các bộ lạc nội địa để đi từ bờ biển đến thị trấn. Nó không tự cho phép mình ăn đồ ăn của họ, và thế là nó không ăn gì trong suốt nhiều ngày. Dù không biết, nhưng nó đã thực hiện chuyến đi ngược với chuyến đi mà tổ tiên của nó từng thực hiện trước đó một thế kỷ hoặc hơn.
Nó lao vào vòng tay tôi, biến cái ôm hôn của người đạo Hồi thành cái ghì nén của một đứa trẻ. Tôi vỗ vỗ vào lưng nó, và nó chỉ chờ cử chỉ đó để gào tướng lên. Và ngay giữa những tiếng hò hét và la lối đó, nó bắt đầu kể cho tôi về những vụ bắn giết nó tận mắt chứng kiến tại khu chợ gần nhà.
Tôi không quan tâm đến tất cả những gì nó kể. Tôi lo lắng về những người quen biết, và cố bắt nó giảm la hét, cố làm cho nó hiểu là cái cách biểu hiện của kiểu cư xử nô lệ đó (mà nó phần nào có trong máu) còn có thể chấp nhận được ở khu bờ biển, nhưng người ở đây thì không hiểu nổi đâu. Nó tiếp tục được một chút nữa, về sự tàn ác của Mufar, người châu Phi, làm như căn hộ của tôi là khu nhà của gia đình và có thể hét lên bất cứ gì nó muốn về những người ở bên ngoài. Và cùng lúc đó người lái xe châu Phi của Daulat thân thiện mang lên cho chiếc vali cùng các thứ đồ đạc khác
https://thuviensach.vn
– không nhiều nhặn lắm, nhưng được gói ghém thành nhiều gói nhỏ; một ít dây thừng, một cái giỏ mây đựng quần áo, vài cái hộp các tông.
Tôi tảng lờ thằng bé lắm điều – để ý đến nó đồng nghĩa với khuyến khích nó tiếp tục – và tôi thoả thuận với người lái xe, đi ra phố với anh ta để trả tiền. Tiếng ồn ã trong căn hộ tầng trên đã giảm, đúng như tôi dự tính, sự cô độc và lạ lẫm của căn hộ có hiệu ứng của mình; và khi quay trở lại tôi từ chối nghe thêm bất kỳ lời nào của thằng bé cho đến khi nó được ăn.
Nó trở nên trật tự và đúng mực, và trong khi tôi chuẩn bị đậu rán và pho mát trét trên bánh mì nướng, thì nó lấy từ đống giỏ và hộp của mình ra những thứ gia đình gửi cho tôi. Gừng, nước sốt và gia vị từ mẹ tôi. Hai bức ảnh gia đình từ cha tôi, và một bức tranh tường trên giấy rẻ tiền về một địa điểm linh thiêng ở Gujarat, nhưng được trình bày theo lối hiện đại: người nghệ sĩ đã vẽ thêm xe hơi, xe máy và xe đạp và thậm chí cả đám người lộn xộn vào những đường phố xung quanh. Đó là cách cha tôi muốn nói, hiện đại như tôi thì cũng phải quay lại với lòng tin thôi.
"Lúc đó cháu đang ở chợ, Salim ạ" thằng bé nói sau khi đã ăn. "Thoạt tiên cháu nghĩ có chuyện cãi cọ gì đó quanh sạp hàng của Mian. Cháu không thể tin vào điều đã trông thấy. Họ đối xử với nhau cứ như thể dao găm thì không chém đứt da, còn nó nthì không cấu tạo bằng da thịt vậy. Cháu không thể tin được vào điều đó. Cuối cùng thì như là một đàn chó lao vào phản thịt. Cháu nhìn thấy tay với cả chân máu me đầm đìa nằm vung vãi khắp nơi. Đúng là như thế đấy. Chúng vẫn còn ở đấy vào ngày hôm sau, tay với chân ấy".
Tôi cố ngăn nó lại. Tôi không muốn nghe thêm nữa. Nhưng thật không dễ chút nào. Nó lại tiếp tục về tay chân bị cắt bỏ, tay chân của những người mà chúng tôi biết từ khi còn nhỏ. Những gì nó trông thấy thật là kinh khủng. Nhưng tôi cũng bắt đầu cảm thấy nó cố tự buộc mình phải khóc nhiều hơn một chút khi mà nó đã thôi muốn khóc. Tôi cảm thấy điều này
https://thuviensach.vn
làm nó đôi lúc quên mất gì đó, và nghĩ đến những việc khác. Dường như nó liên tục muốn tự đe doạ mình, điều này làm tôi cáu tiết.
Vài ngày sau, nó bắt đầu vui vẻ trở lại. Và những sự kiện bờ biển không bao giờ được nhắc lại nữa. Nó ổn định nhanh hơn tôi dự kiến. Tôi từng nghĩ nó sẽ âu sầu và tách biệt; tôi đã nghĩ, đặc biệt sau chuyển đi không lấy gì làm sung sướng của nó, rằng nó sẽ ghét thị trấn lạc hậu của chúng tôi. Nhưng nó lại thích thị trấn; và thích nó vì chính bản thân nó được mọi người ưa, theo cách trước kia nó chưa từng biết đến.
Về mặt thể chất mà nói, nó khá là khác với người ở đây. Nó cao hơn, cơ bắp hơn, to lớn hơn và khoẻ khoắn hơn trong các cử động. Nó được mọi người ngưỡng mộ. Những người đàn bà ở đây, với cách sống tự do quen thuộc của mình, không hề che giấu muốn tìm ở nó lạc thú – gọi nó trên đường phố, dừng lại, nhìn nó chằm chằm với những cặp mắt khích động, cười mỉm (và thoáng bối rối ) dường như muốn nói "Hãy xem đó là một trò đùa, một chuyện cười. Hoặc hãy coi nó là nghiêm túc", Cách nhìn của tôi về nó cũng thay đổi. Nó không còn là một thằng bé trongsố những người nô lệ. Tôi thấy cái mà những người ở đây thấy, trong mắt tôi nó trở nên đẹp đẽ và đặc biệt hơn. Với người địa phương nó không hoàn toàn là một người châu Phi và không gợi lên sự đối nghịch mang tính bộ lạc nào, nó xa lạ với những mối quan hệ châu Phi mà người ta muốn có. Nó toả sáng. Nó học tiếng địa phương rất nhanh, và thậm chí đã có cả một cái tên mới.
Ở nhà chúng tôi gọi nó là Ali, hoặc – khi chúng tôi muốn gợi về bản chất hoang dã đặc biệt và không thể tin cậy của Ali – Ali-wa ("Ali! Ali! Nhưng Ali-w ở đâu?") Giờ thì nó vứt toẹt cái tên của nó đi. Nó thích được gọi oà Metty hơn, đó là tên người ở đây gọi nó. Trước đây không lâu tôi đã hiểu đó không hoàn toàn là một cái tên, mà chỉ là từ tiếng Pháp, métis, con lai. Nhưng tôi không dùng tên ấy theo nghĩa đó khi gọi nó. Với tôi đó chỉ là một cái tên: Metty.
https://thuviensach.vn
Tại đây, cũng như ở bờ biển, Metty là một kẻ ưa lang thang. Nó có phòng ngủ ngay cạnh bếp, đó là cánh cửa đầu tiên bên tay phải khi b.an đi vào từ tầng đệm của cầu thang lộ thiên. Tôi thường nghe tiếng nó đi về rất muộn ban đêm. Nó đến với tôi chính là vì cái tự do này đây. Nhưng Metty tận hưởng cái tự do đó, là một người káhc hẳn đứa bé đến đây trong sự gào thét và la hoảng, với những cung cách của người nô lệ. Nó đã nhanh chóng rũ bỏ được những cung cách đó; nó đã có một ý tưởng mới về giá trị của mình. Nó trở nên hữu dụng hơn trong cửa hiệu, và tại căn hộ, những thói quen lang thang của nó – mà tôi rất sợ, khiến sự có mặt của nó trở nên rõ ràng. Nhưng nó vẫn luôn ở đó, và tại thị trấn nó giống như một người của tôi. Nó làm giảm bớt đi sự cô đơn và làm cho những tháng ngàh trống rỗng dễ chịu hơn – những tháng chờ đợi công việc làm ăn khởi động trở lại. Và, thật chậm chạp, công việc làm ăn cũng bắt đầu trở lại.
Chúng tôi có thói quen uống cà phê buổi sáng tại căn hộ, rồi đến cửa hiệu, ăn trưa riêng, cửa hiệu, những buổi tối riêng tư. Đôi khi người làm cômg và ông chủ gặp nhau, bình đẳng với những nhu cầu giống nhau, trong những quán bar nhỏ bé tối đen đã bắt đầu xuất hiện ở thị trấn của chúng tôi, những dấu hiệu của một cuộc sống đang thức dậy trở lại; những ngôi nhà bé xíu với mái nhà bằng thép uốn, không trần, những bức tường bê tông sơn màu xanh da trời hoặc xanh lá cây thật đậm, những sàn nhà bằng bê tổng màu đỏ.
Một tối tại một trong những nơi như thế này Metty đã đặt dấu ấn lên mối quan hệ mới của chúng tôi. Khi đi vào tôi nhìn thấy nó đang nhảy một cách cuồng loạn – người uốn éo, mông ngoáy lia lịa, trông thật tuyệt. Nó dừng lại ngay khi trông thấy tôi – bản năng gia nhân của nó. Rồi nó cúi gập người và làm một cử chỉ chào đón tôi như thể nó là chủ ở chốn này. Nó nói, bằng thứ giọng Pháp học được, "Tôi không được phép làm gì bậy bạ trước mặt patron (ông chủ) của tôi". Và nó thôi không nhảy nữa.
https://thuviensach.vn
Rồi nó học cách tự thể hiện. Nhưng không hề có gì vướng mắc giữa chúng tôi. Nó càng ngày càng trở thành một của báu. Nó trở thành người quản lý khách hàng cho tôi . Nó luôn tốt tính với khách hàng và kiếm về cho cửa hiệu của tôi nhiều nguồn lợi. Vì là một người lạ, một người được thuê làm, nó là người duy nhất trong thị trấn dám trêu chọc Zabeth, marchande đồng thời là phù thuỷ.
Đó chính là những gì diễn ra giữa chúng tôi, khi thị trấn đang dần trở lại cuộc sống, khi những chuyến tàu thuỷ lại bắt đầu chạy đến từ thủ đô, mỗi tuần một lần, rồi một tuần hai chuyến, khi người ta bắt đầu từ những ngôi làng trở về các cité của thị trấn, khi công việc thương mại phát triển dần, cả việc buôn bán của tôi, đã từ lâu đứng ở một con số không, lên dần (theo đúng đơn vị đo lường 10 của Nazruddin), lên được số 2, và thậm chí còn cho tôi triển vọng về số 4.
https://thuviensach.vn
KHÚC QUANH CỦA DÒNG SÔNG V. S. Naipaul
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả: Cao Việt Dũng
Chương 3:
Zabeth, vì là thầy bói hoặc phù thuỷ, luôn giữ khoảng cách với đàn ông. Nhưng không hẳn lúc nào cũng như thế, Zabeth không phải luôn là thầy bói. Cô có một đứa con trai. Thỉnh thoảng cô nói với tôi về nó, như thể nói về một phần cuộc đời cô đã để lại phía sau lưng. Cô nói về nó xa xôi đến nỗi tôi tưởng là nó đã chết. Thế rồi một hôm cô dẫn nó tới cửa hiệu.
Nó khoảng chừng mười lăm mười sáu tuổi, đã khá to lớn, cao và nặng hơn đàn ông ở vùng chúng tôi, những người có chiều cao trung bình khoảng năm feet. Da nó đen hoàn toàn, không có chút gì nước da màu đồng của mẹ nó, khuôn mặt nó dài và có đường nét rõ ràng hơn, và từ những gì Zabeth nói tôi đoán rằng cha đứa trẻ là người của một bộ tộc phương Nam.
Cha thằng bé là một thương gia. Là thương gia, ông ta đi khắp đất nước trong khoảng thời gian hoà bình diệu kỳ, hồi còn thực dân, khi mà người ta có thể, nếu muốn, không phải quan tâm nhiều lắm đến rang giới giữa cac bộ lạc. Thế là trong những chuyến đi của mình, ông ta đã gặp Zabeth; chính nhờ ông ta mà Zabeth có được những kỹ năng buôn bán. Thời độc lập, ranh giới giữa các bộ lạc lại một lần nữa trở nên rất quan trọng, và việc đi lại không còn an toàn như trước nữ. Người đàn ông phương Nam đã quay trở về bộ lạc của mình, mang theo đứa con trai do Zabeth sinh ra. Một người cha luôn có thể đòi được đứa con, những câu thành ngữ dân gian phổ biến ở châu Phi đều nói thế. Và Ferdinand, tên thằng bé, đã sống xa mẹ mấy năm vừa qua. Nó đã đi học ở phương Nam,
https://thuviensach.vn
tại một thành phố mỏ, và đã ở đó qua tất cả những cơn biến động xảy đến sau khi độc lập, đặc biệt là cuộc chiến tranh ly khai dài dặc.
Giờ đây vì một lý do nào đó – có thể là người cha dã chết, hoặc đã cưới vợ và muốn rũ bỏ khỏi Ferdinand, hoặc chỉ đơn giản là vì Zabeth muốn – Ferdinand đã được gửi trả lại cho mẹ nó. Nó là một người lạ trong vùng. Nhưng ở đây không ai có thể sống mà không thuộc về một bộ lạc nào đó, và Ferdinand, vẫn theo tục lệ bộ lạc, đã được nhận vào bộ lạc của mẹ nó.
Zabeth đã quyết định gửi Ferdinand tới trường trung học thị trấn chúng tôi. Ngôi trường đã được sửa sang và hoạt động trở lại. Đó là toà nhà bằng đá hai tầng vững chãi, hai sân xây theo phong cách thuộc địa, với những hàng hiên rộng ở tầng trên và tầng dưới. những người chiếm dụng ngôi nhà đã chiếm lấy tầng dưới, nấu ăn trên những viên đá tại hàng hiên và ném rác rưởi xuống sân và sàn nhà. Những thứ rác lạ lùng, không phải các lon, giấy và đồ hộp và những thứ chứa đồ khác mà bạn có thể tìm thấy trong thị trấn, mà là một thứ rác khác trang nhã hơn, vỏ sò, xương và tro, những thứ bao tải đã bi .đốt cháy, khiến cho những đống rác trông chẳng khác những ụ đất đã được sàng kỹ.
Dãy hàng rào và những mảnh vườn đã đổ nát. Nhưng hoa giấy đã mọc lên như rừng quấn quanh những cây cọ cao, trùm lên tường bao trường học, và bò lên những cái cột vuông của cổng chính để quấn hai vòng quanh cái bảng trang trí bằng kim loại, nơi có khắc những dòng chữ bằng kim loại, vẫn là tiêu chí của trường: Semper Aliquid Novi. Những người chiêm dụng ngôi nhà, rụt rè và dở sống dở chết, đã chuyển đi ngay khi được yêu cầu. Một vài cánh cửa, cửa sổ và ô chắn sáng được thay, nền nhà được sửa, cả trường được sơn lại, rác rưởi trên sàn được quét sạch đi, sàn được láng toàn bộ, và trong ngôi nhà mà tôi từng nghĩ là đã thành một đống đổ nát lại bắt đầu xuất hiện những khuôn mặt trắng của các thầy giáo.
https://thuviensach.vn
Ferdinand đến cửa hiệu với tư cách một học sinh trung học. Nó mặc đồng phục của trường, áo sơ mi trắng và quần sọoc cũng màu trắng. Đó là một bộ trang phục đơn giản nhưng nổi bật; và – mặc dù cái quần soọc có vẻ gì đó phi lý với một thân hình cao lớn đến thế - bộ quần áo vẫn rất quan trọng vbcả Ferdinand lẫn Zabeth. Zabeth sống một cuộc sống thuần tuý châu Phi, với cô chỉ châu Phi là hiện hữu. Nhưng với Ferdinand cô muốn khác đi. Tôi chẳng thấy có gì mâu thuẫn ở đây cả; tôi thấy thật tự nhiên khi ai đó giống như Zabeth, đã sống một cuộc sống khó nhọc đến thế, muốn con trai mình có được cái gì đó tốt đẹp hơn. Cuộc đời tốt đẹp hơn đó nằm bên ngoài những con đường vô tận của ngôi làng và dòng sông. Nó nằm ở sự giáo dục và sự đòi hỏi những kỹ năng mới; và với Zabeth, cũng như nhiều người châu Phi khác cùng thế hệ với cô, giáo dục là cái gì đó mà chỉ người nước ngoài mới có thể cung cấp được.
Ferdinand là học sinh nội trú của trường trung học. Zabeth mang nó tới cửa hiệu để giới thiệu nó với tôi. Cô muốn tôi để mắt đến thằng bé khi nó sống ở thị trấn xa lạ này và muốn tôi bảo vệ nó. Nếu Zabeth lựa chọn tôi cho việc đó, thì không phải là vì tôi là một đối tác kinh doanh mà cô đặt niềm tin. Đó còn là bởi vì tôi là một người nước ngoài và còn là người nói tiếng Anh, người mà Ferdinand có thể học được những thái độ và cách sống của thế giới bên ngoài. Tôi là ai đó mà Ferdinand có thể lấy làm gương để học tập.
Thằng bé cao lớn trầm tính và tỏ vẻ kính trọng. Nhưng tôi có cảm giác điều này chỉ kéo dài khi có mẹ nó ở đó. Có một sự chế giễu xa xôi và nhẹ nhàng trong mắt nó. Thằng bé có vẻ đùa giỡn người mẹ mà nó mới biết. Cô là một người đàn bà ở làng; còn nó, dù sao, đã sống ở thành phố mỏ miền Nam, nơi chắc hẳn nó đã thấy những người nước ngoài sành điệu hơn tôi. Tôi không cho rằng nó kính trọng cửa hiệu của tôi như mẹ nó. Cửa hiệu là một căn nhà bằng bê tông, với những thứ hàng hoá tầm tầm xếp đầy trên sàn (nhưng tôi biết mọi thứ ở đâu). Không ai có thể nghĩ đây là một nơi
https://thuviensach.vn
hiện đại, và nó không được sơn màu sáng sủa như một số cửa hiệu của người Hy Lạp.
Tôi nói, vì lợi ích của Ferdinand cũng như của Zabeth, "Ferdinand là một cậu bé khá đấy, Beth ạ. Cậu ấy có thể tự chăm lo cho mình mà không cần đến tôi đâu."
"Không, không. Mis Salim. Ferdinand sẽ đến chỗ ông. Ông cứ đánh nó khi nào ông muốn".
Thật chẳng ra sao. Nhưng đó cũng chỉ là một cách nói. Tôi mỉm cười với Ferdinand và nó mỉm cười với tôi, kéo nhệch khoé miệng ra. Nụ cười khiến tôi nhận ra cái miệng rất nhỏ và những nét thật gọn gàng. Trên khuôn mặt thằng bé tôi cảm thấy mình có thể nhìn thấy nét gì đó của một số loại mặt nạ châu Phi, trên đó những đường nét được đơn giản hoá và nhấn mạnh, và, với ký ức về những mặt nạ đó, tôi nghĩ tôi đã nhìn thấy một sự khác biệt rất lạ trong những đường nét của nó. Tôi cứ có cảm giác đang nhìn Ferdinand với con mắt một người châu Phi, và đó là điều tôi luôn cảm thấy khi nhìn nó. Đó là hiệu ứng mà khuôn mặt nó gây lên trong tôi, mà tôi thấy, sau này, là một khuôn mặt với quyền lực lớn lao.
Tôi không sung sướng gì về yêu cầu của Zabeth, nhưng cần phải làm theo thôi. Và khi tôi chầm chậm lắc đầu sang hai bên, để cả hai biết rằng Ferdinand cứ coi tôi là bạn, Ferdinand bắt đầu cúi người xuống trong động tác quỳ gối. Nhưng một lúc thì nó thôi. Nó không thể hoàn thành động tác bỉêu lộ sự thành kính; nó giả vờ có cái gì đó đâm vào chân nó, và nó cào xước cái đầu gối mà nó quỳ lên. Ngược với chiếc quần sọoc trắng, nước da của nó thật đen và khỏe khoắn, với một vẻ hồng hào nhẹ nhàng.
Quỳ xuống trên một đầu gối là một hành động tôn kính truyền thống. Đó là cách mà những đứa trẻ của vùng cây bụi biểu lộ sự kính trọng đối với một người lớn tuổi hơn. Nó giống như một phản xạ, được thực hiện mà không hề có lẽ nghi đặc biệt nào. Bên ngoài thị trấn bạn có thể những đứa
https://thuviensach.vn
trẻ đột ngột bỏ việc đang làm, như thể khiếp sợ khi gặp một con rắn, quỳ gối trước mặt những người lớn lần đầu tiên chúng gặp, hơi cúi gằm đầu xuống, và rồi như thể chưa có gì xảy ra, chúng lại quay trở lại việc đang làm. Đó là một tập quán trải dài từ những vương quốc trong rừng ra đến phía Đông. Nhưng nó là một tập quán của vùng cây bụi. Nó không thể được đem vào thị trấn, và với một người như Ferdinand, đặc biệt sau khoảng thời gian nó ở thành phố mỏ miền Nam, cái cử chỉ trẻ con biểu lộ lòng tôn kính đó có vẻ như là quá lạc hậu và quỵ luỵ.
Tôi đã bị khuấy động vì khuôn mặt của nó. Giờ thì tôi nghĩ sẽ còn có nhiều biến động ở đây nữa.
Trường trung học không xa cửa hiệu là bao, đi bộ rất đơn giản nếu mặt tr`i không thiêu đốt quá hoặc trời không mưa – mưa sẽ làm đường phố ngập lụt suốt. Ferdinand mỗi tuần đến cửa hiệu một lần để gặp tôi. Nó đến vào khoảng ba giờ rưỡi chiều thứ sáu, hoặc vào sáng thứ bảy. Nó luôn mặc màu trắng để chứng tỏ mình là học sinh trung học, và đôi khi, dù trời nóng, nó vẫn mặc áo đồng phục với dòng chữ Semper Aliquid Novi in trên túi áo ngực.
Chúng tôi chào nhau, và theo cách châu Phi chúng tôi có thể làm điều đó rất lâu. Thật khó để tiếp tục sau khi chúng tôi đã kết thúc màn chào hỏi đó. Nó không nói tin tức gì cả, nó để tôi phải hỏi. Và khi tôi hỏi – để mà hỏi – một số câu như "Hôm nay cháu làm gì ở trường?" hoặc "Cha Hoiishama có dạy lớp cháu không?" nó sẽ trả lời ngắn và chính xác khiến tôi phải nghĩ xem nên hỏi gì tiếp.
Trò chuyện với nó thật rắc rối khiến tôi không hề thích thú như trò chuyện với một người châu Phi khác. Tôi cảm thấy với nó tôi phải cố gắng một cách đặc biệt, và không biết mình có thể làm gì. Nó la một thằng bé đến từ những bụi cây, khi những ngày nghỉ đến nó quay về ngôi làng của mẹ nó. Nhưng ở trưỡng trung học nó học được những thứ mà tôi hoàn toàn mù tịt. Tôi không thể nói chuyện với nó về bài tập ở trường, lợi thế thuộc
https://thuviensach.vn
về nó. Và lại còn khuôn mặt của nó nữa chứ. Tôi nghĩ có rất nhiều thứ diễn ra đàng sau khuôn mặt đó mà tôi cũng mù tịt. Tôi cảm thấy ở đó có một sự vững chắc và tự sở hữu, và với tư cách một người bảo trợ và người dạy dỗ tôi bị nó nhìn qua đó.
Có thể, nếu không có gì bắt buộc, những cuộc gặp của chúng tôi sẽ phải chấm dứt. Nhưng tại cửa hiệu lại có một sự hấp dẫn, đó là Metty. Metty chơi tốt với tất cả mọi người. Nó không vấp phải vấn đề tôi có với Ferdinand, và chính vì Metty mà Ferdinand đến cửa hiệu, rồi sau đó là căn hộ. Sau cuộc trò chuyện khó nhọ bằng tiếng Anh và tiếng Pháp với tôi, Ferdinand có thể, cùng với Metty, đi thăm dò các nơi xung quanh. Khi đó nó sẽ có một tính cách khác, nói liến láu với cái giọng cao vống, tiếng cười lúc nào cũng vang lên như là một phần những gì nó nói. Và Metty có thể đi cùng nó, Metty đã hấp thụ nhiều những trọng âm của tiếng nói địa phương, và những cung cách để nói thứ tiếng đó.
Theo quan điểm của Ferdinand thì Metty là người dẫn đường trong thị trấn tốt hơn tôi. Và với hai thằng bé dính chặt vào nhau đó những thú vui của thị trấn là những cái mà bạn có thể đoán ra – bia, quán bar, đàn bà.
Bia là một phần thực phẩm ở đây, trẻ con uống bia, người ta bắt đầu uống từ khi còn sáng sớm. Chúng tôi không có nhà máy bia nào trong vùng, và rất nhiều kiện hàng được tàu thuỷ mang tới là thứ bia nhẹ hều mà người ở đây rất khoái. Tại rất nhiều điểm dọc theo dòng sông, những chiếc xuồng độc mộc của làng lấy những can bia từ con tàu đang chạy, và con tàu, trên đường trở về thủ đô, sẽ nhận về những can không.
Còn với đàn bà thì thật đơn giản. Không lâu sau khi tôi đến, Mahesh bạn tôi nx với tôi rằng đàn bà ngủ với đàn ông bất cứ khi nào được yêu cầu, một người dàn ông có thể gõ cửa phòng bất cứ người đàn bà nào và ngủ với cô ta. Mahesh không nói với tôi điều đó với sự phấn khích hay đồng tình nào – anh đã dính quá chặt vào Shoba xinh đẹp của mình. Với Mahesh, sự dễ dãi về tình dục là một phần của sự hỗn loạn và đi xuống của nơi này.
https://thuviensach.vn
Đó chính là điều – sau lần thoả mãn đầu tiên – tôi tự cảm thấy. Nhưng tôi không thể nói chống những lạc thú mà tôi cũng hưởng. Tôi không thể ngăn Metty và Ferdinand tới những chỗ mà tôi cũng tới. Trên thực tế, sự hạn chế nằm ở mặt khác. Mặc dù đã có những thay đổi đối với Metty, tôi vẫn coi nó là một thành viên của gia đình lớn, và tôi phải cẩn thận không làm gì khiến nó tổn thương hoặc làm những người khác trong gia đình tổn thương nếu biết. đặc biệt, tôi làm sao để mình không bi .phát hiện khi ở cùng với một người đàn bà châu Phi. Và tôi tự hào rằng dù khó khăn, tôi chưa bao giờ bị phản đối hết cả.
Ferdinand và Metty có thể uống rượu ở những quán bar và công khai ôm ấp dàn bà hoặc đến nhà những người đàn bà mà chúng biết. Còn tôi thì – với tư cách chủ của một đứa và người giám hộ của đứa kia – phải giấu giếm.
Ferdinand có thể học gì ở tôi cơ chứ? Tôi đã nghe khi còn ở bờ biển – và những người nước ngoài tôi thường gặp cũng nói vậy – rằng người châu Phi không biết phải "sống" như thế nào. Điều này có nghĩa là người châu Phi không biết tiêu tiền sao cho hợp lý hoặc làm sao để giữ được một ngôi nhà. Tốt thôi! Những hoàn cảnh của tôi là không thông thường, nhưng Ferdinand có thể thấy gì khi nó nhìn thấy nhà của tôi?
Cửa hiệu của tôi là cả một sự hỗn loạn. Tôi có hàng cuộn vải và giấy dầu trên giá, nhưng phần lớn kho hàng được bầy la liệt trên nền nhà bê tông. Tôi ngồi sau cái bàn ở giữa kho bằng bê tông của mình, đối diện với cửa ra vào, với một cái cột bê tông gần bàn cho tôi cảm giác đang được bỏ neo trong bỉên cả của sự hỗn độn này – những cái chậu tráng men to dùng, viền màu trắng và xanh, hoặc viền xanh với nền hoa, hàng đống đĩa men với những vuông vải thô, mảnh giấy màu đậm giữa những cái đĩa, những chiếc cốc men và bình sắt cùng những lò than, khung giường sắt và xô kẽm hoặc nhựa, những chiếc lốp xe đạp cùng đèn pin, cùng những cây đèn dầu bằng thuỷ tinh màu xanh lá cây, hồng hoặc mã não.
https://thuviensach.vn
Đó là cái đống hổ lốn mà tôi đang quản lý. Tôi quản lý chúng một cách kính cẩn bởi vì chúng là nguồn sống của tôi, là những phương tiện của tôi để nâng lên được mức hai hoặc bốn. Nhưng nó là một đống hổ lốn đã quá lỗi thời, được sản xuất riêng cho những cửa hiệu như của tôi, và tôi ngờ rằng những người công nhân làm ra chúng, ở châu Âu, Mỹ, và ngày nay có thể ở Nhật nữa – chẳng hề có ý niệm nào về việc sản phẩm của mình được dùng để làm gì. Những cái chậu nhỏ hơn, chẳng hạn, được đặt hàng là bởi vì chúng rất thích hợp để nuôi giòi, được bỏ vào cùng đất ẩm. Những cái chậu to hơn – một món hàng lớn: một ngôi làng mua không quá hai hoặc ba cái trong suốt một thế hệ - được dùng để ngâm sắn khử độc tố.
Đó chính là công việc buôn bán của tôi. Cũng tương tự như thế về tính chất thô kệch là căn hộ của tôi. Bà già người Bỉ không chồng sống ở đây trước tôi là một người khá nghệ sĩ. Tôi thêm vào bầu không khí "phòng tranh" của bà một sự bừa bãi nhẹ nhàng – dường như nó nằm ngoài sự kiểm sóat của tôi. Metty cai quản cái bếp và biến nó thành một nơi thật kinh khủng. Tôi không tin nó từng bao giờ lau bếp dầu. Metty chẳng hề xấu hổ, cái bếp đã bắt đầu toả khói trở lại và bốc mùi với đủ loại nhiên liệu trên đó. Toàn bộ cái bếp bốc mùi, dù nó chỉ được dùng chủ yếu để đun cà phê sáng. Tôi hiếm khi chịu đựng nổi khi bước chân vào bếp. Nhưng Metty chẳng để ý gì hết cả, dù phòng ngủ của nó ở ngay đối diện với bếp.
Bạn đi thẳng vào lối đi đó từ tầng đệm của cầu thang lộ thiên dính vào mặt sau của toà nhà. Ngay khi mở cánh cửa tầng đệm bạn sẽ bắt gặp cái mùi nồng nặc, nặng nề của rác, dầu ăn và dầu hoả, những thứ quần áo dơ bẩn cùng với mùi sơn và gỗ cũ. Và cả nhà bốc mùi như thế bởi vì bạn không thể mở được dù chỉ một cửa sổ. Thị trấn, đang trong thời suy thoái, đầy rẫy trộm cướp, và dường như là không thể để mở bất cứ gì. Bên phải là phòng ngủ của Metty, chỉ cần liếc mắt bạn cũng thấy Metty đã biến nthành một căn phòng nhỏ đích thị của người hầu, với cái giường cũi, những cái bánh xe và hàng đống túi, rồi thì hộp giây, quần áo nó thì treo lên mắc và
https://thuviensach.vn
mấu cửa sổ. Đi tiếp xuống theo lối vào, một chút nữa sau cái bếp, ở bên trái, là phòng khách.
Đó là một căn phòng rộng, và người đàn bà Bỉ đã sơn toàn màu trắng, cả trần nhà, tường, cửa sổ, thậm chí cả rầm cửa sổ. Trong căn phòng trắng với những ván sàn trần trụi đó có một cái đi văng bọc vải thô màu xanh đậm, và, để hoàn chỉnh hiệu ứng của phòng tranh, có một cái bàn chân niễng không sơn gì cả, rộng như một bàn bóng bàn. Trên nó là đủ thứ đồ linh tinh của tôi – những cuốn tạp chí cũ, sách bìa giấy, thư từ, giầy, vợt đánh bóng và mỏ lết, hộp giầy và hộp áo phông trong đó tôi đã nhét đủ thứ bà rằn. Một góc bàn được giữ sạch, và nó luôn luôn được phủ lên một tấm vải trắng cháy sém, đó chính là nơi Metty ủi quần áo, đôi khi với bàn là điện (luôn nằm trên bàn), đôi khi (khi bàn ủi điện bị hỏng) bằng bàn ủi than rất cứng, một thứ hàng mà cửa hiệu có bán.
Trên bức tường trắng ở cuối phòng là một bức tranh sơn dầu lớn vẽ một bến cảng châu Âu, được vễ bằng màu đỏ, vàng và xanh da trời. Nó được vẽ theo phóng cách hiện đại cẩu thả, người đàn bà đã vẽ nó và ký tên trên đó. Bà đặt nó một cách kiêu hãnh trong căn phòng chính của mình. Nhưng bà ta cũng nghĩ nó không đủ giá trị để mà liều lĩnh mang theo thời biến động. Trên sàn nhà, dựa vào những bức tường, là những bức vẽ khác mà tôi thừa hưởng từ người đàn bà. Cứ như thể bà ta dã mất lòng tin vào những thứ đồ lặt vặt của mình, và khi cơn khủng hoảng thời độc lập xảy đến, bà bèn vui sướng bỏ ra đi.
Phòng ngủ nằm cuối lối vào. Với tôi đây là nơi của một sự tan hoang đặc biệt, với những giá đựng cốc chén to tướng và cái giường nhồi cỏ to khủng khiếp. Điều gì từng diễn ra trên cái giường chắc hẳn thuộc về người đàn bà! Những ước đoán đó, như là một bảo đảm cho sự tự do của tôi, những sự buông thả đó, cái cảm giác ngượng ngùng đó, biết bao nhiêu người đàn bà châu Phi đã bị tống khỏi đó vào những giờ thật khó khăn – trước khi Metty về đến nơi, hoặc trước khi Metty thức dậy! Nhiều lần trên
https://thuviensach.vn
cái giường đó tôi đợi đến sáng để quét sạch ký ức mình, và thường thì, nhớ đến người con gái của Nazruddin và lòng thin của ông vào sự tin tưởng của chính tôi, tôi tự hứa sẽ trở nên tốt đẹp. Khi ấy tôi thấy cần thay đổi và cái giường trong căn phòng chợt có những liên quan khác với tôi. Nhưng cũng chỉ đến thế mà thôi.
Quý bà người Bỉ đã cố tình đưa một mẩu châu Âu và quê nhà vào nghệ thuật, một lối sống khác, vào cái vùng đất của mưa, nóng và cây cối lá rộng này – luôn hiện hữu, nền trời tranh tối tranh sáng, qua những khe cửa sổ sơn màu trắng. Bà ta hẳn có ý thức rất cao về bản thân mình, nhưng xem ra điều bà ta cố làm chẳng mấy giá trị gì. Và tôi cảm thấy khi Ferdinand nhìn vào cửa hiệu và căn hộ của tôi, nó cũng sẽ có cùng kết luận đó về tôi. Sẽ là khó khăn cho nó để tìm thấy bất cứ sự khác biệt nào giữa cuộc sống của tôi và cuộc sống nó từng quen biết. Điều này lại thêm vào những u uất ban đêm của tôi. Tôi tự hỏi về bản chất của những hơi thở của mình, những gì chèo chống thực sự cho sự tồn tại của tôi, và tôi bắt đầu cảm thấy rằng mọi cuộc đời mà tôi có thể có ở bất kỳ đâu – dù giàu có, thành công và hào nhoáng đến chừng nào – thì cũng chỉ là một phiên bản của cuộc đời tôi hiện đang sống mà thôi.
Những suy nghĩ đó có thể đưa tôi đến những chỗ tôi không hề muốn. Nó là một phần hiệu ứng của sự cô độc của tôi, tôi biết điều đó. Tôi biết có điều gì đó ngăn cách tôi với Ferdinand và cuộc sống vùng cây bụi. Và điều đó là vì tôi không có phương tiện nào trong cuộc độ nhật định hình ra sự khác biệt đó, hoặc để bày ra bản chất thực sự của tôi, rằng tôi cảm thấy ngu ngốc khi bày ra những thứ của mình.
Tôi chỉ cho Ferdinand những thứ của tôi. Tôi nát óc nghĩ sẽ phải cho nó xem gì tiếp theo. Nó rất lạnh nhạt, như thể nó đã nhìn thấy tất cả những cái đó từ trước rồi. Đó chỉ là cung cách của nó thôi, cái giọng nói đều đều nó dùng để nói với tôi. Nhưng điều này làm tôi điên tiết.
https://thuviensach.vn
Tôi muốn nói với nó "Hãy nhìn những tạp chí này đi. Không có ai trả tiền để tao đọc chúng đâu. Tao đọc nó bởi vì tao là kiểu người như thế đó, bởi vì tao quan tâm đến các sự việc, bởi vì tao muốn biết về thế giới. Hãy nhìn vào những bức tranh này đi. Người đàn bà đó đã đưa vào chúng biết bao nhiêu là rối loạn. Bà ta muốn làm ra cái gì đó thật đẹp để treo trong nhà mình. Bà ta không treo nó lên vì nó thuộc cái gì đó ma quái đâu".
Cuối cùng thì tôi cũng nói những điều đó với nó, nhưng không hoàn toàn với lời lẽ như thế. Ferdinand không trả lời. Và những bức tranh chỉ là những thứ lộn xộn – người đàn bà không biết phải bôi kín những bức toan như thế nào và hy vọng thoát ra được với những mảng màu thật dữ dội. Và những quyển sách và tạp chí cũng chỉ là mấy thứ lộn xộn – đặc biệt những sách báo khiêu dâm, những cái chỉ làm tôi trầm uất và bối rối, nhưng tôi không vứt đi vì cũng có những lúc tôi cần đến chúng.
Ferdinand không hiểu được sự kích động của tôi.
Một hôm nó nói "Chú không cần phải đưa cháu xem cái gì đâu, Salim ạ."
Bắt chước Metty nó không gọi tôi là ngài nữa, Metty gọi tôi là patron, và khi có mặt người thứ ba, nó cố tình nói sao cho từ đó vang lên mang màu sắc thật mỉa mai. Metty có mặt ở đây ngày hôm đó, nhưng khi Ferdinand nói với tôi là tôi không cần phải cho nó xem thêm gì nữa, nó không nói mỉa. Nó không bao giờ mỉa mai.
Một buổi chiều, tôi đang đọc báo thì Ferdinand tới cửa hiệu. Tôi chào nó và tiếp tục đọc. Đó là một tạp chí về khoa học thường thức, kiểu báo mà tôi đã đâm ra nghiện. Tôi thích thu nhận những mẩu kiến thức theo lối như thế, và khi đọc tôi thường nghĩ rằng môn khoa học hoặc lĩnh vực tôi đang đọc là cái tôi nên dành toàn bộ ngày và đêm để trau dồi kiến thức, khám phá, tự mình tạo ra cái gì đó, sử dụng toàn bộ khả năng của mình. Đó là
https://thuviensach.vn
một cảm giác thật hay, theo quan điểm của tôi, nó cũng hay ngang với chính bản thân cuộc đời của người có tri thức.
Chiều hôm đó Metty đến hải quan để nhận một số hàng hoá tới trên chuyến tàu thuỷ hai hôm trước – đó là tốc độ di chuỷên của những thứ ở đây. Ferdinand nhìn ngó cửa hiệu một lúc. Tôi thấy gợn lại chuyện nó bảo đừng có cho nó xem cái gì nữa cả, và tôi không muốn là người bắt đầu câu chuyện. Cuối cùng nó đi tới bàn và nói "Chú đang đọc gì đó, Salim?"
Tôi không thể chịu được nữa, người thầy giáo và người giám hộ trong tôi biến mất. Tôi nói "Cháu xem này, họ đang chế tạo một kiểu điện thoại mới. Nó chạy bằng năng lượng ánh sáng chứ không phải điện như trước nữa".
Tôi không bao giờ thực sự tin vào những thứ mới mẻ kỳ diệu mà tôi đọc được. Tôi không bao giờ nghĩ tôi lại có thể nhìn thấy chúng trong đời. Nhưng đó chính là khía cạnh hấp dẫn để mà đọc chúng, bạn có thể đọc hết bài báo này đến bài báo khác về những thứ bạn chưa từng bao giờ được sử dụng cả.
Ferdinand nói "Họ là ai?"
"Cháu muốn nói gì?"
"Những người đang làm điện thoại mới là ai?"
tôi nghĩ, đã đến thế rồi, chỉ sau vài tháng ở trường trung học. Nó chỉ mới ra khỏi vùng cây bụi, tôi biết mẹ nó, tôi coi nó như một người bạn, và chúng tôi đã đạt đến sự vô nghĩa mang tính chính trị này rồi. Tôi không trả lời thoe cách nó trông chờ. Tôi không nói "Người da trắng". Dù nửa người tôi đã nghĩ thế rồi, để đặt nó trở lại vị trí của nó.
Tôi lại nói "Các nhà khoa học".
https://thuviensach.vn
Nó không nói gì nữa. Tôi không nói gì nữa, và cố tình quay trở lại việc đọc. Đó là kết cục của đoạn nói chuyện ngắn ngủi giữa chúng tôi. Đó cũng là kết cục của những cố gắng làm thầy của tôi, để tự thể hiện mình và những thứ của tôi cho Ferdinand.
Bởi tôi nghĩ nhiều về việc tôi không chịu nói từ "Người da trắng" khi Ferdinand hỏi tôi định nghĩa "họ" – những người đang làm loại điện thoại mới. Và tôi thấy rằng trong mong muốn không làm nó thoả mãn, thực tế tôi đã nói điều tôi muốn nói. Tôi không đả động đến người da trắng. Tôi không muốn nói thế, tôi chỉ không thể nói thế được, những người giống thế tôi biết trong thị trấn của chúng tôi, những người đã ở lại đây sau khi độc lập. Tôi thật sự muốn nói các nhà khoa học, tôi muốn nói những người ở xa chúng tôi theo mọi nghĩa.
Họ! Khi chúng tôi muốn nói về chính trị, khi chúng tôi muốn lạm dụng hoặc đề cao về mặt chính trị, chúng tôi nói "người Mỹ", "người châu Âu", "người da trắng". Khi chúng tôi muốn nói về những người sản xuất hay chế tạo, tất cả chúng tôi – dù giòng giống nào đi nữa – đều nói "họ". Chúng tôi chia cách những người đó từ các nhóm của đất nước nọ và theo cách đó gắn họ vào với chúng tôi. "Họ làm ra xe hơi chạy trên mặt nước."Họ làm ra vô tuyến nhỏ như bao diêm." Từ "họ" mà chúng tôi nói theo nghĩa đó là rất xa xôi, xa đến nỗi hiếm khi là người da trắng. Họ không thiên vị, họ ở mãi trên mây cao, giống như những vị chúa nhân từ. Chúng tôi chờ đợi sự ban phước của họ, và trương ra những phước lành đó – như chính tôi mang cặp kính rẻ tiền và cái máy ảnh cũ rích mua của Nazruddin cho Ferdinand xem – cứ như thể chúng tôi chịu trách nhiệm về họ vậy.
Tôi cho Ferdinand xem những thứ của tôi như thể tôi để nó đi vào những bí mật sâu xa hơn thuộc số kiếp của tôi, bản chất thực sự cuộc đời tôi nằm dưới sự tầm thường vô vị của những ngày những đêm của tôi. Trên
https://thuviensach.vn
thực tế, tôi và tất cả những người khác giống như tôi trong thị trấn, người châu Á, người Bỉ, người Hy Lạp – tất cả đều ở xa "họ" lắm.
Đó là nỗ lực cuối cùng của tôi để trở thành thầy giáo cho Ferdinand. Giờ đây tôi quyết định đơn giản là cứ để nó thoải mái, như trước kia. Tôi cảm thấy để nó tiếp tục đến cửa hiệu và căn hộ là đã giữ được lời hứa với mẹ nó rồi.
Trường học tạm nghỉ với lý do mùa mưa đã tới ,và Zabeth đến thị trấn để mua hàng và mang Ferdinand về cùng. Cô dường như hài lòng với sự tiến bộ của nó. Và không hề tỏ vẻ gì muốn tráo đổi ngôi trường trung học và những quán bar của thị trấn với ngôi làng của Zabeth. Thế là nó về nhà trong kỳ nghỉ. Tôi nghĩ về chuyến đi xuôi dòng sông bằng tàu thuỷ và thuyền độc mộc. Tôi nghĩ về mưa trên dòng sông, về đoàn phụ nữ của Zabeth đi xuyên qua những chặng đường sông về đến ngôi làng bị che giấu, về những đêm đen và những ngày trống rỗng.
Giờ đây bầu trời hiếm khi sáng sủa. Nó đã chuyển từ màu ghi hay xám sang màu bạc gắt. Thời gian này thì chớp loé lên và sấm nổ, thường thì ì ùng ngoài rừng, nhưng cũng có lúc ngay trên đầu. Từ cửa hiệu tôi có thể nhìn thấy mưa bắt đầu xối xả xuống những cây phượng ở chợ. Mưa kiểu này rất tai hại với công việc buôn bán của các chủ cửa hiệu, nó thổi bay mọi thứ quanh những sạp hàng bằng gỗ và đẩy mọi người đến trú mưa dưới mái hiên bạt của các cửa hiệu quanh quảng trường. Tất cả đều biến thành người nhìn mưa, họ uống rất nhiều bia. Những con phố không được trải nhựa đỏ ứa lên vì bùn, đỏ là màu loại đất ưa thích của cây bụi.
Nhưng đôi khi một ngày mưa kết thúc bằng một hoàng hôn mây vần vũ đầy huy hoàng. Tôi thích nhìn cảnh chiều tà đó từ một chỗ gần ghềnh nước. Một thời nơi đó từng là công viên nhỏ với nhiều trò tiêu khiển, nhưng những gì còn lại của công viên chỉ là một đoạn tường bê tông quay lưng ra sông và một khoảng đất trống trơn trở nên lầy lội trong cơn mưa. Những tấm lưới ngư phủ treo trên những gốc cây đổ khổng lồ giữa những
https://thuviensach.vn
tảng đá ở của dòng sông (chính các tảng đá đó trên sông đã tạo ra cái ghềnh). Tại một điểm nút của khu đất trống có những túp lều rơm, nơi đó đã trở thành một làng chài. Mặt trời lên chiếu ánh sáng qua những khay mây màu ghi, nước chuyển từ màu nâu sang vàng, rồi đỏ và tím. Và luôn luôn có tiếng động không thay đổi của ghềnh nước với vô số những nếp gấp nhỏ của nước vượt qua đá. Đêm tối buông xuống, và đôi khi mưa cũng tới, và tiếng nước tuôn lại thêm vào âm thanh của ghềnh.
Từ trên khúc quanh của dòng sông luôn lao xuống những khóm lan dạ hương nước, những hòn đảo nổi màu nâu trên dòng sông thẫm màu, bập bềnh trên ghềnh. Như thể mưa và dòng sông đã thổi bay cây bụi từ giữa lục địa và ném nó nổi lềnh bềnh trên nước để trôi ra đại dương, cách đó hàng bao dặm. Nhưng lan dạ hương là thành quả của riêng dòng sông. Loại hoa thân cao màu tử đinh hương chỉ mới xuất hiện cách đây vài năm, và trong ngôn ngữ địa phương chưa có từ để chỉ nó. Người ở đây vẫn gọi nó là "vật mới" hoặc "vật mới trên sông", và với họ nó là một kẻ thù. Thân cây và những chiếc lá dai ngoách tạo nên những đám thực vật dầy dính chặt vào hai bên bờ sông và bít dòng nước lại. Nó lớn nhanh, nhanh hơn tốc độ tiêu diệt của con người với các loại dụng cụ có trong tay. Những con kênh nối vào các ngôi làng cần phải phong quang. Đêm ngày loại cây lan dạ hương nước này trôi nổi đến từ phía Nam, tự gieo mầm trên dặm đường chu du của mình.
Tôi đã quyết định để mặc Ferdinand làm gì thì làm. Nhưng tôi chợt nhận ra nó có một thái độ khác đối với tôi. Nó không còn xa cách với tôi, và khi nó đến cửa hiệu nó không chăm chăm bỏ tôi lại để đi tìm Metty nữa. Tôi nghĩ hẳn là mẹ nó đã nói với nó về chuyện này. Tôi cũng nghĩ rằng dù vui vẻ khi về ngôi làng của mẹ nó trong kỳ nghỉ, có thể nó bị sốc vì thời gian ở đó – tôi tự hỏi nó trải qua những ngày đó như thế nào – và không còn nhìn thị trấn và cuộc sống ở thị trấn, như trước nữa.
https://thuviensach.vn
Sự thật rất đơn giản. Ferdinand đã bắt đầu lớn lên và nó đã tự coi mình là một cái gì đó giữa biển cả. Nó có dòng máu pha trộn nhiều bộ lạc, và với nơi này nó là một người xa lạ. Nó không hoàn toàn thuộc về nhóm người nào, và nó không hề tìm được mẫu người nào giống nó cả. Nó không biết phải nghĩ về mình thế nào. Nó muốn tìm cho ra, và nó muốn tôi làm việc đó cùng nó.
Tôi có thể thấy giờ đây nó thử vào nhiều vai, hướng đến nhiều cách hành xử khác nhau. Danh mục đó của nó có hạn chế. Vài ngày sau khi Zabeth tới thị trấn để mua hàng, nó có thể là con trai của mẹ nó, một marchande. Nó có thể vờ trở thành người liên danh để buôn bán với tôi, ngang hàng với tôi, tuyên bố nhiều điều về doanh thu và giá cả. rồi nó có thể biến thành một thanh niên châu Phi đang trưởng thành, học sinh trường trung học, hiện đại, tiên phong. Trong vai trò đó nó muốn mặc bộ đồng phục có in dòng chữ Semper Aliquid Novi, không nghi ngờ gì nữa, nó cảm thấy có thể học được một số cung cách từ các thầy giáo người Âu của mình. Bắt chước một thầy giáo, nó có thể, trong căn hộ, đứng bắt chéo chân dựa vào bức tường trắng của phòng tranh và, đứng bất động ở vị trí đó trong suốt cuộc trò chuyện. Hoặc, bắt chước một thầy giáo khác, nó có thể vừa nói vừa đi vòng quanh chiếc bàn bằng gỗ thô, kéo một vài vật ra, nhìn chúng, rồi lại vứt xuống.
Giờ thì nó lại cố nói chuyện với tôi. Không phải theo cách nó nói với Metty, với tôi nó thử nghiệm một kiểu trò chuyện nghiêm túc rất đặc biệt. Trước nó luôn chờ tôi đặt câu hỏi trước, bây giờ thì nó tự mình trình bày các ý tưởng, các luận đỉêm tranh luận nhỏ bé, vì nó muốn tiếp tục cuộc tranh luận. Trong cuộc chơi này nó vào vai học sinh trung học mới và coi tôi như một thầy giáo dạy ngôn ngữ. Tôi rất thích trò này. Tôi bắt đầu nghĩ đến những gì nên nói khi ở trường trung học – và tôi muốn biết về điều đó.
Một hôm nó nói với tôi "Salim, chú nghĩ gì về tương lai của châu Phi?"
https://thuviensach.vn
Tôi không nói gì, tôi muốn biết nó nghĩ gì. Tôi tự hỏi liệu rằng nó, dù có sự pha tạp về dòng máu và đã ở nhiều nơi, thực sự có trong đầu một ý tưởng về châu Phi không, hoặc liệu ý tưởng về châu Phi đã đến với nó, cũng như bạn cũ của nó ở trường, từ những cuốn altas. Chẳng phải Ferdinand vẫn là – cũng giống Metty, trong chuyến đi từ bờ biển – kiểu người mà khi ở giữa các bộ lạc xa lạ, thà chết đói còn hơn ăn thức ăn lạ? Liệu Ferdinand có ý tưởng về châu Phi lớn hơn nhiều so với châu Phi của Zabeth, người đi lại rất an toàn từ ngôi làng của cô tới thị trấn chỉ vì cô biết mình được bảo vệ một cách đặc biệt?
Ferdinand chỉ có thể nói với tôi rằng thế giới bên ngoài châu Phi đang lụi tàn, còn châu Phi thì đang đi lên. Khi tôi hỏi nó thế giới bên ngoài lụi tàn thế nào, nó không nói được. Và khi thúc nó vượt qua những gì nó biết được ở trường trung học, tôi thấy những ý tưởng của cuộc tranh luận ở trường học có trong óc nó đã trở nên xáo trộn và bị đơn giản hoá. Những ý tưởng về quá khứ bị lẫn lộn với hiện tại. Trong bộ đồng phục học sinh của mình, Ferdinand tự thấy nó có tầm quan trọng, như trong những ngày còn thuộc địa. Cùng lúc nó tự thấy mình là con người mới của châu Phi, và trở nên quan trọng bởi lý do này. Ngoài cái lý tưởng về tầm quan trọng của bản thân, nó đã đồng nhất châu Phi vào con người nó, và tương lai của châu Phi không gì khác hơn là nghề nghiệp mà nó sẽ làm sau này.
Những cuộc tranh luận mà Ferdinand, trong vai trò của nó, cố thực hiện với tôi bao giờ cũng kéo dài, bởi vì không phải lúc nào nó cũng biết cách rút ngắn. Nó tranh luận về một vấn đề nào đó, rồi sau lại vứt đi không chút ngần ngại, như thể đó là một bài tập ngôn ngữ mà nó có thể làm tốt hơn vào lần sau. Rồi, mọi chuyện lại quay lại như xưa, nó bỏ tôi lại để đi tìm Metty.
Dù đã biết thêm vè những gì diễn ra ở trường trung học (rất nhanh chóng lại trở về thói thời thượng kiểu thực dân), và những gì diễn ra trong tâm hồn Ferdinand, tôi vẫn không cảm thấy gần gũi với nó hơn. Khi coi nó
https://thuviensach.vn
là một sự huyền bí, xa lạ và nhạo báng đàng sau khuôn mặt đeo mặt nạ, tôi nghĩ nó là một người vững vàng. Giờ đây tôi cảm thấy rằng những trìu mến của nó lớn hơn những trìu mến thông thường, rằng tính cách nó đã trở nên trơn tuột. Tôi bắt đầu cảm thấy sự vô nghĩa ở đó, và ý nghĩ về một trường trung học đầy những Ferdinand làm tôi chán ngán.
Rồi còn ý tưởng về tầm quan trọng của nó nữa. Điều này làm tôi lo lắng – làm gì có an toàn cho bất kỳ ai tại đất nước này – điều cũng làm Metty lo lắng. Khi bạn ở xa những thủ lĩnh và các chính trị gia thì chỉ còn duy nhất thật sự dân chủ kiểu châu Phi: mọi người đều là dân làng. Metty là một trợ lý bán hàng ở cửa hiệu và là một dạng gia nhân, Ferdinand là học sinh trung học có tương lai; thế mà tình bạn giữa hai đứa lại giống như tình bạn giữa hai người ngang bằng. Tình bạn đó tiếp tục tồn tại. Nhưng Metty, là gia nhân ở nhà tôi, đã tìm thấy hình mẫu để vươn lên làm ông chủ, và nó hẳn tự cảm thấy – với ý nghĩ mới mẻ về giá trị của mình – lại bị bỏ rơi phía sau.
Một hôm đang ở căn hộ thì tôi nghe thấy tiếng bước chân chúng đi vào. Metty đang giải thích về mối quan hệ của nó với tôi và cửa hiệu, giải thích về chuyến đi từ bờ biển.
Metty nói "Gia đình tớ đã quen với gia đình của chú ấy. Họ thường gọi tớ là Billy. Tớ sẽ học kế toán. Tớ sẽ không ở lại đây, cậu biết đấy. Tớ sẽ đi Canada. Tớ sẽ có giấy tờ và mọi thứ. Tớ chỉ còn chờ khám bệnh thôi".
Billy! Tốt thôi, cái tên này gần với Ali. Canada – đó là nơi những người anh rể của tôi đã tới, trong một bức thư tôi nhận được không lâu sau khi Metty tới tôi đã nghe nói về mối lo ngại của gia đình về chuyến "khám bệnh" của người anh rể này. Rõ ràng Metty đã biết được về Canada theo cách đó.
Tôi gây tiếng động để chúng biết tôi đang ở nhà, và khi chúng vào phòng khách tôi làm ra vẻ không nghe thấy gì cả.
https://thuviensach.vn
Ít lâu sau, vào một buổi chiều mưa dầm dề, Ferdinand tới cửa hiệu và đột ngột, vẫn còn ướt như chuột lột, nó nói "Salim, chú phải gửi cháu sang Mỹ học".
Nó nói như thể nó là một người đã tuyệt vọng. Ý tưởng đó bùng cháy trong nó, và rõ ràng nó cảm thấy nếu nó không thoát đi, nó sẽ không bao giờ làm được nữa cả. Nó đến trong cơn mưa nặng hạt, đi qua những đường ngập nước, quần áo nó ướt sũng. Tôi kinh ngạc vài sự đường đột và tuyệt vọng của Ferdinand, và ở lời yêu cầu lớn lao của nó. Với tôi, ra nước ngoài để học tập là điều gì đó thật hiếm hoi và đắt đỏ, cái gì đó ngoài khả năng của gia đình tôi.
Tôi nói "Thế tại sao chú phải gửi cháu đi Mỹ? Tại sao chú phải chi tiền cho cháu?"
Nó không nói gì cả. Sau cơn tuyệt vọng và chuyến đi giữa trời mưa, toàn bộ sự việc hẳn là phải dẫn tới một ý định khác trong cuộc nói chuyện.
Liệu đó chỉ đơn thuần là tính đơn giản của nó? Tôi cảm thấy cơn tức dâng lên – trời mưa, chớp và bóng tối không thật của buổi chiều hẳn là có tác dụng nào đó.
Tôi nói "Tại sao cháu nghĩ chú phải có trách nhiệm với cháu? Thế cháu đã làm gì cho chú?"
Điều này đúng. Thái độ của nó, kể từ khi nó bắt đầu cảm thấy đang hướng tới một nhân vật nào đó, cho rằng tôi đang nợ nó một cái gì đó, chỉ đơn giản là tôi có vẻ luôn sẵn sàng giúp đỡ.
Nó câm lặng. Nó đứng trân giữa bóng tối của cửa hiệu và nhìn vào tôi không hề tức tối, như thể nó đã dự tính trước tôi sẽ xử sự như thế này, và phải bỏ qua. Trong một lúc mắt tôi và mắt nó giao nhau. Rồi sự nhiệt tình của nó bị xẹp xuống, tôi biết nó sắp chuỷên chủ đề.
https://thuviensach.vn
Nó lấy tay kéo chiếc áo trắng ướt đẫm ra khỏi da – chiếc áo với dòng chữ của trường trung học trên túi – và nói "Áo cháu ướt mất rồi". Khi tôi không trả lời, nó lại tiếp tục kéo ở một vài chỗ khác rồi nói "Cháu đã đi giữa lúc trời mưa".
Tôi vẫn không trả lời. Nó bỏ mặc cái áo và ngó lơ ra ngoài đường phố ngập nước. Đó là cái cách nó chuẩn bị sau khi đã có một sự khởi đầu sai lầm, những ý đinh về cuộc trò chuyện của nó có thể kết thúc với những câu ngắn như thế, những nhận xét gây tức tối về những gì nó hoặc tôi đang làm. Thế là giờ đây nó nhìn ra ngoài trời mưa và nói những câu đứt quãng về những gì nó nhìn thấy. Có vẻ như nó đã lùi bước.
Tôi nói "Metty ở trong kho ấy. Nó sẽ đưa cháu khăn tắm. Và bảo nó cho cháu một tách trà".
Dù sao đó chưa phải là kết thúc của một chuyện. Với Ferdinand giờ đây không có gì dễ dàng kết thúc hết cả.
Hai lần một tuần tôi ăn trưa với những người bạn Shoba và Mahesh tại căn hộ của họ. Căn hộ này khá loè loẹt và về mặt nào đó rất giống họ. Hai người là một cặp vợ chồng đẹp, rõ ràng đẹp nhất thị trấn. Họ không có đối thủ, cho nên họ luôn tỏ ra kiêu hãnh ngầm. Trong căn hộ của họ, thêm vào những vẻ đẹp thật sự của những tấm thảm Ba Tư và Kashmir và những đồ cổ họ lại thêm vào những đồ vật dởm đời, hào nhoáng – đồ đồng Moradabad giả cổ, những bức tranh sơn mài về các vị thần Hindu sản xuất hàng loạt, những ngọn đèn tường chùm ba sáng chói. Còn có một bức tượng người đàn bà khoả thân bằng thuỷ tinh. Nó cũng có chút nghệ thuật, đồng thời là những gì còn lưu giữ được về vẻ đẹp của một người đàn bà, vẻ đẹp của Shoba – vẻ đẹp cá nhân là nỗi ám ảnh và chủ đề của cặp vợ chồng này, cũng như tiền bạc đối với người giầu.
Một ngày tại bữa trưa Mahesh nói "Thằng bé ở cùng anh sao vậy? Nó đã trở nên malin (láu cá) như tất cả những người khác rồi".
https://thuviensach.vn
"Metty hả?"
"Hôm trước nó đến chỗ tôi. Nó làm như quen tôi từ lâu rồi ấy. Nó muốn chứng tỏ với thằng bé châu Phi đi cùng nó. Nó bảo nó mang đến cho tôi một khách hàng. Nó nói đứa bé châu Phi là con trai của Zabeth và là bạn thân của anh".
"Tôi không biết thế nào là bạn thân cả. Thế nó muốn gì?"
"Metty bỏ chạy khi tôi bắt đầu nổi cáu, bỏ lại thằng bé. Thằng bé nói nó muốn có một cái máy ảnh, nhưng tôi không nghĩ nó muốn gì hết cả. Nó chi muốn nói thôi."
Tôi nói "Tôi hy vọng nó cho anh nhìn thấy tiền của nó."
"Tôi làm gì có máy ảnh nào cho nó xem. Đó là món hàng không chạy mà, Salim. Lúc nào cũng phải trả hoa hồng, mọi nơi. Hiếm khi hoàn được vốn lắm."
Máy ảnh là một trong số các ý tưởng xôi hỏng bỏng không của Mahesh. Mahesh là như vậy, luôn tìm các ý tưởng nhỏ mà anh nhanh chóng từ bỏ. Anh từng nghĩ du lịch đã bắt đầu sống lại, cùng với những công viên giải trí ở phía Đông thị trấn chúng tôi. Nhưng du lịch thực ra chỉ tồn tại trong những bức ảnh lớn in ở châu Âu cho chính phủ ở thủ đô. Các công viên giải trí đã quay về với thiên nhiên, theo một cách chẳng có ý nghĩa gì cả. Những con đường và các ngôi nhà nghỉ, luôn rất xập xệ, đã biến đi; khách du lịch (người nước ngoài có thể quan tâm đến những thiết bị chụp ảnh rẻ tiền) đã không tới. Mahesh đã phải gửi những chiếc máy ảnh của mình sang phía Đông bằng các trạm chuyên chở mà những người như chúng tôi quen dùng (dù sao cũng là hợp pháp) để gửi hàng hoá đi mọi hướng.
Mahesh nói "Thằng bé nói anh sẽ gửi nó đi Mỹ hoặc Canada để học."
https://thuviensach.vn
"Tôi sẽ gửi nó đi học gì cơ?"
"Học quản trị kinh doanh. Để nó điều hành công việc kinh doanh của mẹ nó. Phát triển công việc đó."
"Phát triển công việc đó! Mua bán lưỡi dao cạo và bán lại từng cái cho những người ở làng chài!"
"Tôi biết nó chỉ cố ngoằng anh vào với những người bạn của anh".
Một trò ảo thuật đơn giản, nếu bạn nói gì đó về một người với các bạn của anh ta, bạn có thể bắt người đó làm những gì anh ta sẽ làm.
Tôi nói "Ferdinand là người châu Phi đấy".
Khi gặp lại Ferdinand sau đó tôi bảo nó "Bạn chú là Mahesh đã nói với chú là cháu sẽ đi Mỹ để học quản trị kinh doanh. Cháu đã nói với mẹ chưa?"
Nó không hiểu sự mỉa mai ở đây. Kiểu nói chuyện này làm nó không kịp chuẩn bị, nó chẳng biết nói gì cả.
Tôi nói "Ferdinand, cháu không được đi khắp nơi nói với mọi người những điều không đúng như thế. Cháu muốn nói gì về quản trị kinh doanh thế?"
Nó nói "Kế toán, đánh máy, tốc ký. Những gì chú làm ấy"
"Chú không tốc ký. Và đó không phải là quản trị kinh doanh. Đó chỉ là việc của một thư ký quèn. Cháu không đi Mỹ và Canada để học những cái đó đâu. Cháu có thể làm được việc đó ngay tại đây. Chú nghĩ có những chỗ ở thủ đô dạy các môn đó. Và rồi đến lúc cháu sẽ tìm ra việc cháu muốn làm hơn thế."
https://thuviensach.vn
Nó không thích điều tôi nói với nó. Mắt nó bắt đầu long lanh vì cảm thấy bị nhục mạ và tức giận. Nhưng tôi không để sự việc kéo dài. Nó phải tính toán với Metty, chứ không phải với tôi, nếu thực sự nó có cái để mà tính.
Nó tìm thấy tôi khi tôi sắp đi chơi squash ở Câu lạc bộ Hellenic. Giầy vải, áo phông, vợt, khăn tắm quanh cổ, cũng giống như hồi trước ở khu bờ biển. Tôi rời khỏi phòng khách và đứng ở lối vào để lấy chỗ cho nó đi, để tôi có thể khoá cửa. Nhưng nó vẫn ở lại trong phòng khách, không phải để chờ Metty.
Tôi ra đến tầng đệm của cầu thang. Hôm đó mất điện. Khói từ những cái lò than và những đốm lửa xanh hồng xuất hiện giữa những cái cây rậm rạp – cây bánh mì, cây hoa đại, cây phượng – tạo ra hình ảnh ngôi làng trong vùng với một nơi ở, mà tôi từng nghe nói, vào những ngày xa xưa khi cả người châu Phi lẫn người châu Á đều chưa được phép sống. Tôi biết những cái cây này từ hồi còn ở bờ biển. Tôi cho là chúng cũng được nhập khẩu đến đó; nhưng tôi gắn chúng với bờ biển và nhà tôi, một cuộc sống khác. Vẫn những cái cây đó, nhưng ở đây chúng có vẻ thật nhân tạo, giống như bản thân thị trấn. Chúng quen thuộc, nhưng chúng nhắc tôi nhớ mình là ai.
Tôi không nghe gì về chuyện Ferdinand đi học nước ngoài nữa, và nó cũng nhanh chóng trút bỏ lốt một học sinh trung học sáng chói. Nó bắt đầu thử một thứ khác mới mẻ. Không còn cái dáng đứng dựa vào tường với hai chân bắt chéo nhau, không còn lối đi lại quanh cái bàn gỗ thô, cầm lên và ném xuống các vật nữa, cũng không còn cuộc tranh luận nghiêm túc nào nữa.
Giờ đây nó có khuôn mặt nghiêm nghị, cách diễn đạt úp mở và khép kín. Nó luôn ngẩng cao đầu và đi lại chậm chạp. khi ngồi lên đi văng trong phòng khách, nó ngồi vào sâu đến nỗi đôi khi lưng nó chạm đến tận chỗ dựa. Nó tỏ ra chán nản, buồn bã. Nó nhìn mà như không thấy gì, nó luôn
https://thuviensach.vn
sẵn sàng nghe, nhưng không buồn nói gì cả - đó là ấn tượng nó cố gây ra. Tôi không biết Ferdinand đóng vai này của ai, và phải qua miệng Metty tôi mới hiểu Ferdinand muốn hướng tới điều gì.
Trong học kỳ này tại trường trung học có một số thằng bé đến từ các bộ lạc hiếu chiến phía Đông. Chúng rất cao lớn, và Metty sợ hãi nói với tôi rằng những đứa này được đưa đi trên những cái kiệu do nô lệ của chúng khiêng, họ là những người thuộc chủng tộc hèn kém hơn. Những con người cao lớn của rừng rú này luôn ngưỡng mộ châu Âu. Khi đó tôi nhớ ra có những bài báo về họ trên các tờ tạp chí – những người châu Phi không quan tâm gì tới trồng trọt hoặc buôn bán mà chỉ trông vào, một đặc điểm rất giống người châu Âu, những người châu Phi khác. Sự ngưỡng mộ châu Âu này vẫn còn tồn tại, các bài báo và bức ảnh tiếp tục xuất hiện trên các tờ tạp chí, dù cho có những thay đổi ở châu Phi. Trên thực tế, giờ đây có những người châu Phi cảm thấy như người châu Âu, và coi các bộ lạc hiếu chiến là tộc người cao đẳng nhất ở châu Phi.
Tại trường trung học, dù thế nào chăng nữa vẫn còn tính chất thực dân, những thằng bé mới đã tạo ra một sự xáo động. Ferdinand, cả bố mẹ đều làm về thương mại, đã quyết định thử vai một chiến bịnh cô độc của rừng rậm. Nó không thể làm trò đó ở trường trung học và ra cái vẻ đã quen được các nô lệ chờ đợi. Nhưng nó nghĩ nó có thể đóng vai đó trước mặt tôi.
Tôi biết những điều khác về vương quốc rừng rậm. Tôi biết rằng các tộc người nô lệ đã vùng lên và đã bị thảm sát và phải tiếp tục phục tùng. Nhưng châu Phi rộng lớn lắm. Cây bụi tiếp tục làm biến mất đi âm thanh của vụ giết người với những dòng sông con hồ đầy bùn rửa sạch những vết máu.
Metty nói "Chúng cháu phải đến đó, patron. Cháu nghe nói đó là nơi tốt đẹp duy nhất còn lại ở châu Phi. Vẫn còn nhiều người da trắng ở đó lắm. Cháu nghe nói Bujumbura chẳng khác gì Paris đâu."
https://thuviensach.vn
Nếu tôi tin rằng Metty hiểu một phần tư những gì nó nói, nếu tôi tin, chẳng hạn, rằng nó thực sự ngóng trông những người da trắng ở Bujumbura, hoặc biết Canada ở đâu và như thế nào, thì hẳn tôi sẽ lo lắng vì nó lắm. Nhưng tôi biết nó rõ hơn thế nhiều, tôi biết nó nói chuyện chỉ để mà nói. Vẫn thế thôi, nói không ngừng! Những người da trắng đã bị đẩy bật đi khỏi thị trấn chúng tôi và những công trình của họ bị phá huỷ. Nhưng vẫn còn nhiều người da trắng ở đó, tại một thị trấn khác, và các chiến binh cũng như nô lệ. Và đó là hào quang của những thằng bé dòng dõi chiến binh, hào quang đối với Metty và hào quang đối với Ferdinand.
Tôi bắt đầu hiểu thế giới đơn giản và chẳng có gì phức tạp hết cả. Với những người như tôi và Mahesh, và những người Hy Lạp và Italia vô giáo dục ở thị trấn chúng tôi, thế giới là một nơi khá là đơn giản. chúng tôi có thể hiểu nó, và nếu không có quá nhiều trở ngại chúng tôi còn có thể làm chủ nó. Không có gì quan trọng khi chúng tôi ở xa nền văn minh của chúng tôi, xa khỏi những người chế tạo và sản xuất. Không quan trọng gì việc chúng tôi không thể làm được những gì chúng tôi muốn sử dụng, bởi vì mọi người thậm chí không hề có kỹ năng kỹ thuật của những người tiền sử. Trên thực tế, càng ít học thì chúng tôi lại càng được đến trong thanh bình, chúng tôi càng dễ tiếp nối nền văn minh của chúng tôi hoặc các nền văn minh khác.
Với Ferdinand thì không có khả năng đó. Nó không bao giờ có thể đơn giản. Nó càng cố càng trở nên lẫn lộn. Trí óc nó rỗng tuếch, tôi bắt đầu nghĩ thế. Đó là một mớ hổ lốn, đầy những thứ vớ vẩn.
Cùng với việc những thằng bé các bộ lạc chiến binh xuất hiện, ở trường trung học bắt đầu có những lời khoác lác và tôi bắt đầu cảm thấy Ferdinand – hoặc ai đó – cũng đã khoác lác về tôi. Hoặc là cái gì đó không đúng về tôi. Cả thế giới dường như chỉ quay xung quanh cái ý nghĩ rằng tôi quan tâm đến giáo dục và các lợi ích cho giới trẻ châu Phi.
https://thuviensach.vn
Các chàng thanh niên, không phải tất cả đều là học sinh trường trung học, lũ lượt kéo đến cửa hiệu, có khi cầm sách trên tay, có khi với bộ đồng phục Semper Aliquid Novi rõ ràng là đi mượn. Chúng muốn tiền. Chúng nói chúng nghèo và muốn tiền để có thể tiếp tục học tập. Một số kẻ ăn mày đó rất táo tợn, đi thẳng đến chỗ tôi và nói ra những yêu cầu, những đứa nhút nhát lượn quanh quẩn cho đến khi thấy không có ai trong cửa hiệu. Chỉ một số mới nghĩ đến việc phải bịa ra các câu chuyện, và những câu chuyện đó thì giống hệt chuyện của Ferdinand, một người cha bị chết hoặc ở xa, mẹ ở làng, một đứa trẻ không được bảo vệ và đầy tham vọng.
Tôi kinh ngạc trước sự ngu ngốc này, rồi tôi bực mình, tôi phát điên lên. Không một đứa nào trong số đó để ý đến việc bị Metty tống khứ khỏi cửa hiệu, một số còn vác mặt quay lại nữa. Cứ như thể chẳng đứa nào thèm quan tâm đến những phản ứng của tôi, cứ như thể ở nơi nào đó tại thị trấn tôi đã được gán cho một "tính cách" đặc biệt, và điều tôi nghĩ về chính bản thân mình chẳng có tầm quan trọng nào hết. Rằng cái đó chẳng gây ngán ngẩm tí nào. Tính vô tội, ngây thơ chẳng ra ngây thơ này - tôi nghĩ chỉ có thể do Ferdinand chỉ lối, do cái cách nó suy diễn từ mối quan hệ của chúng tôi và ý tiếng của nó về điều mà tôi có thể có ích.
Tôi đã nói với Mahesh, rất nhẹ nhàng, về những vấn đề đã được giản lược hoá vì lợi ích của một người đầy thiện chí "Ferdinand là một người châu Phi". Ferdinand có lẽ làm điều nó làm với tôi với lũ bạn của nó, khi giải thích mối quan hệ với tôi. Và giờ đâyh tôi cảm thấy hết những lời dối trá và tráo trở của nó, cảm thấy cái nhân vật nó gán cho tôi, một cái mạng dã được tung ra trùm lên tôi. Tôi trở nên hết sức khổ sở.
Có lẽ điều này là đúng với tất cả chúng tôi, những người nước ngoài ở đất nước này. Những sự kiện mới đã chỉ ra sự vô vọng của chúng tôi. Giờ đã có hoà bình theo cách nào đó, nhưng toàn bộ chúng tôi – người châu Á, Hy lạp và những người châu Âu nữa – vẫn rất khổ sở, vì bị đối xử theo những cách khác. Một số sợ hãi, cư xử hết sức cẩn trọng, cần phải tỏ ra tận
https://thuviensach.vn
tuỵ với ai đó, những người khác làm giống tô. Điều đó đã có trong lịch sử của vùng này, tại đây con người thường xuyên là con mồi. Bạn không cảm thấy tàn độc đối với con mồi của mình. Bạn tạo ra một cái bẫy cho nó. Cái bẫy có thể hụt mười lần, nhưng nó vẫn luôn là cái bẫy mà bạn dựng lên.
Không lâu sau khi tôi đến Mahesh nói với tôi về những người châu Phi bản địa "Anh không bao giờ được quên, Salim ạ, rằng họ malin lắm", Anh nói tiếng Pháp, vì những tữ tiếng Anh mà anh có thể dùng – "tinh quái", "láu lỉnh", "xấu tính" – đều không đúng. Những người ở đây malin theo kiểu malin của một con chó đuổi theo một con thằn lằn, hoặc giống như cách một con mèo đi bắt chim. Những người ở đây malin bởi vì họ biết rằng con người chỉ là những con mồi.
Họ không phải là những người ngu ngốc. Họ rất nhỏ và nhẹ cân. Như thể để trừng phạt sự mênh mông của sông và rừng ở đây, họ thích chính mình làm người khác bị thương tổn. Họ không sử dụng nắm đấm. Họ sử dụng lòng bàn tay, họ thích đẩy, xô lấn, vỗ tay. Buổi đêm, hơn một lần, bên ngoài một quán bar hoặc một tiệm nhảy nhỏ, tôi nhìn thấy một kẻ như thể đã say xỉn đẩy và xô, một tràng vỗ tay, trở thành một tên giết người có hệ thống, như thể vết thương thứ nhất và chỗ chảy máu thứ nhất làm cho nạn nhân biến thành cái gì đó kém một con người ,và thúc đẩy tên sát nhân hoàn thành sự tàn phá của mình.
Tôi không được bảo vệ. Tôi không có gia đình, không cờ, không vật tổ. Ferdinand đã nói gì với lũ bạn của nó về điều đó? Tôi cảm thấy đã đến lúc tôi phải chấn chỉnh mọi việc với Ferdinand, và cho nó biết một điều khác về tôi.
Tôi sớm tìm thấy cơ hội. Một buổi sáng có thằng nhóc ăn vận bảnh bao bước vào cửa hiệu với một quyển sổ cái cầm tay. Nó thuộc loại người rụt rè. Nó nhìn quanh, tìm người và khi nó đi đến chỗ tôi, tôi nhìn thấy cuốn sổ không có vẻ gì là sổ kinh doanh như thoạt nhìn. Gáy của cuốn sổ màu đen và nham nhở vì bị cầm nhiều. Tôi cũng nhìn thấy cái áo của nó, rõ
https://thuviensach.vn
ràng là cái áo đẹp nhất nó có, không sạch sẽ như tôi nghĩ. Đó là một cái áo đẹp nó chỉ mặc vào những dịp đặc biệt, rồi cởi ra và treo lên một cái mắc áo, rồi mặc lại khi có một dịp đặc biệt khác. Cổ áo vàng ệch ra ở bên trong.
Nó nói "Mis Salim".
Tôi cầm lấy cuốn sổ, còn nó ngó lơ, mi mắt sụp xuống.
Cuốn sổ thuộc về trường trung học và nó đã cũ lắm rồi. Nó là một vật thuộc về giai đoạn cuối của chế độ thực dân: cả một danh sách đăng ký cho một phòng tập thể dục mà trường trung học từng có kế hoạch xây dựng. Bên trong bìa là nhãn của trường, với những cánh tay và khẩu hiệu. Đối diện với đó là cái nổi bật hơn cả, bằng lối viết tng Anh bằng tay thuôn và đều đã bị người châu Phi ở đây quên đi. Người đóng góp đầu tiên là thống đốc tỉnh, và ông ta ký thật rõ ràng, trên cả một trang giấy. Tôi mở các trang, nhìn vào những chữ ký riêng của các quan chức và thương gia. Tất cả còn mới, nhưng dường như đã thuộc về một thế kỷ nào trước đây.
Tôi nhìn thấy, với sự quan tâm đặc biệt, chữ ký của một người thuộc cộng đồng chúng tôi mà Nazruddin từng nói đến. Người này có những ý tưởng rất cổ về tiền bạc và sự an toàn, ông ta dùng sự giàu có của mình để xây lên một cung điện, mà ông ta đã phải rời bỏ sau độc lập. Các lái buôn, những người đã thiết lập quyền lực cho chính phủ trung ương, đã đến đóng ở đó, giờ đây cung điện là một trại lính. Ông ta đóng góp một khoản tiền lớn. Tôi thấy chữ ký của Nazruddin – tôi ngạc nhiên, tôi đã quên rằng ông đã từng ở đây, ở giữa những cái tên của thời thực dân đã chết này.
Phòng tập thể dục vẫn chưa được xây. Tất cả những phô trương về lòng trung thành và lòng tin vào tương lai và niềm tự hào công dân này đã đi tong. Nhưng cuốn sổ vẫn còn lại. Giờ đây nó đã bị đánh cắp, những tài sản bằng tiền được công nhận. Ngày thágn đã bị viết đè lên, rất rõ, và tên của cha Huisman đã được viết đè lên chữ ký của người đứng đầu giáo xứ trước ông.
https://thuviensach.vn
Tôi nói với thằng bé đứng trước mặt "Tôi sẽ giữ cuốn sổ này. Tôi sẽ đưa nó cho những người sở hữu nó. Ai đưa cho anh cuốn sổ này? Ferdinand phải không?"
Trông nó thật thê thảm. Mồ hôi bắt đầu rịn ra từ cái trán thấp của anh ta, và anh ta lau vội nó đi. Anh ta nói "Mis Salim".
"Anh đã làm việc của anh rồi. Anh đưa cho tôi cuốn sổ. Bây giờ thì đi đi".
Anh ta vâng lời.
Ferdinand đến vào buổi chiều hôm đó. Tôi biết nó – nó muốn nhìn vào mặt tôi, và tìm ra dấu hiệu về cuốn sổ. Nó nói "Chú Salim?" tôi không thèm nói. Tôi để nó đứng đấy. Nhưng nó không phải đứng đó lâu.
Metty đang ở trong nhà kho,và Metty hẳn là phải nghe thấy tiếng nó. Metty gọi "Oo-ông!" Ferdinand trả lời, và đi vào nhà kho. Nó và Metty bắt đầu chuyện trò trong đó. Cơn nóng giận của tôi trào lên khi nghe những âm thanh thoả mãn rì rào, nhiều ngữ điệu đó. Tôi lấy cuốn sổ về phòng tập thể dục từ ngăn kéo bàn và đi vào nhà kho.
Căn phòng, với một cửa sổ nhỏ có chấn song ở trên cao, một nửa đang ở trong bóng tối. Metty đang ở trên thang, đang kiểm lại hàng ở những giá tường. Ferdinand đang cúi xuống những cái giá ở bức tường khác, chỉ ngay dưới cửa sổ. Thật khó để nhìn thấy mặt nó.
Tôi đứng ở cửa ra vào. Tôi phác một cử chỉ về phía Ferdinand với cuốn sổ và nói "Cháu đang gặp rắc rối đấy"
Nó nói "Rắc rối gì cơ?"
Nó nói theo cái lối thẳng băng, không âm sắc của nó. Nó không hề muốn tỏ ra châm biếm, nó thực sự hỏi tôi đang nói về chuyện gì. Nhưng tôi
https://thuviensach.vn
thật khó nhìn thấy mặt nó. Tôi nhìn thấy lòng trắng mắt nó, và tôi nghĩ tôi nhìn thấy khoé miệng nó đang nhăn ra thành một nụ cười. Khuôn mặt này gợi đến những cái mặt nạ đầy ghê sợ! Và tôi nghĩ: phải – rắc rối gì cơ?
Nói về rắc rối là tự coi như là có luật lệ và điều chỉnh mà ai cũng phải công nhận. Ở đây chẳng có gì hết cả. Cũng đã từng có trật tự ở đây, nhưng trật tự đó cũng có những vô lý và tàn ác – điều đó giải thích tại sao thị trấn đã bị bốc sạch. Chúng tôi sống trong sự đổ nát đó. Thay vì những quy định thì giờ đây chỉ các quan chức mới có thể phán định bạn đúng, sau khi bạn đã trả tiền. tất cả những gì tôi có thể nói với Ferdinand là "Đừng có làm hại ta, cậu bé, bởi vì ta có thể làm hại cháu nhiều hơn thế".
Tôi bắt đầu nhìn thấy gương mặt nó rõ ràng hơn.
Tôi nói "Cháu hãy mang cuốn sổ này trả về cho cha Huismans. Nếu cháu không làm, thì chính chú sẽ làm. Và chú sẽ thấy ông ta đuổi thẳng cháu về nhà".
Trông nó tái nhợt, như thể bị tấn công. Rồi tôi nhận ra Metty đứng trên cầu thang. Metty căng thẳng, hồi hộp; mắt nó đã phản bội lại nó. Và tôi biết là tôi đã sai lầm, đã dồn hết sự tức giận lên đầu Ferdinand.
Đôi mắt Ferdinand sáng bừng lên, và lòng trắng càng lộ rõ ràng hơn. Đến lúc này, vào cái thời điểm khủng khiếp này, trông nó giống như một nhân vật hoạt hình trong một bộ phim cổ lỗ. Nó dường như đang cúi về trước, suýt mất thăng bằng. Nó thở thật sâu. Mắt nó rời khỏi mặt tôi. Nó đang điên lên vì tức, cảm giác bị xúc phạm đã làm nó trở nên điên rồ. Hai tay nó để thẳng và rộng ở hai bên sườn nên trông như dài hơn thường lệ. Đôi bàn tay nó co cứng lại. Miệng nó mở rộng. Nhưng điều tôi nghĩ là một nụ cười lại hoàn toàn không phải nụ cười. Nếu ánh sáng rõ hơn tôi có thể thấy cái đó từ đầu.
https://thuviensach.vn
Trông nó thật đáng sợ, và tôi chợt nghĩ: đó là cách xử sự của nó khi nhìn thấy máu nạn nhân của mình, khi nó thấy kẻ thù bị giết. Và tiếp theo ý nghĩ đó là một ý nghĩ khác "Sự điên giận đang bao trùm lên cả thị trấn".
Tôi có thể đẩy sự việc lên cao hơn, và biến sự giận dữ đó thành những giọt nước mắt. Nhưng tôi đã không đẩy lên. Tôi nghĩ tôi đã cho cả hai đứa một ý tưởng mới về việc tôi là người như thế nào, và tôi để chúng lại trong nhà kho để bình tâm lại. Một lúc sau tôi nghe chúng nói với nhau, nhưng rất nhỏ.
Vào lúc bốn giờ, giờ đóng cửa, tôi gọi to Metty. Và nó, sung sướng vì có cơ hội để đi ra ngoài và được hoạt động nói, "Patron", và nhăn nhó mặt mày để chứng tỏ nó làm công việc đóng cửa hàng nghiêm túc đến mức nào.
Ferdinand đi ra, khá bình tĩnh, bước di với bước chân nhẹ nhàng. Nó nói "Salim?" tôi nói "Chú sẽ mang trả cuốn sổ". Và tôi nhìn thấy nó bước đi trên đường phố đỏ quạch, cao lớn, buồn bã và chậm chạp dưới những cây phượng không lá, đi ngang qua những quầy hàng chợ của thị trấn.
https://thuviensach.vn
KHÚC QUANH CỦA DÒNG SÔNG V. S. Naipaul
www.dtv-ebook.com
Dịch Giả: Cao Việt Dũng
Chương 4:
Cha Huismans không có đó khi tôi bước vào trường trung học cùng với cuốn sổ. Chỉ có một người Bỉ trẻ tuổi ở phòng thường trực, anh ta nói với tôi là cha Huismans thỉnh thoảng thích đi vắng vài ngày. Ông đi đâu? "Ông đi đến vùng cây bụi. Ông đến tất cả các ngôi làng ở đó", người đàn ông trẻ tuổi nói, rất nóng nảy – anh ta có thể là thư ký hoặc thầy giáo. Anh ta còn nóng nảy hơn khi tôi đưa anh ta cuốn sổ quyên góp.
Anh ta nói "Chúng nó đến và cầu xin để được nhận vào trường. Ngay khi cho chúng vào là chúng bắt đầu ăn cắp. Chúng có thể làm sạch cả cái trường nếu anh đi vắng. Chúng đến và cầu xin trông coi con chúng. Thế rồi trên phố chúng xô đẩy anh để anh thấy rằng chúng chẳng thèm quan tâm đến anh". Anh ta trông không được khoẻ. Anh ta trông tái nhợt, nhưng lớp đa dưới mắt anh ta lại đen, và anh ta toát mồ hôi khi nói. Anh ta nói "Tôi xin lỗi. Sẽ là tốt hơn cho anh nếu nói với cha Huismans. Anh phải hiểu là không hề dễ dàng cho tôi ở đây. Tôi sống bằng bánh mật và trứng".
Điều này vang lên như thể anh ta đang có một chế độ ăn kiêng phong phú. Rồi tôi hiểu thực sự anh ta nói với tôi là anh ta đang chết đói.
Anh ta nói "Cha Huismans kỳ này có ý định cho bọn trẻ châu Phi đồ ăn. Có vẻ là tốt đấy. Có một bà châu Phi tại thủ đô làm được rất nhiều điều kỳ diệu với tôm pandan và tôm cua. Nhưng ở đây lại có sâu và bánh chân vịt trong nước xốt cà chua. Trông chỉ giống nước sốt cà chua thôi. Ngày đầu tiên! Dĩ nhiên, chỉ là để cho lũ nhóc thôi, nhưng hình ảnh ấy làm dạ dày tôi cồn cào cả lên. Tôi không thể đứng lại trong cảnh nhìn chúng nhai.
https://thuviensach.vn
Giờ thì tôi không thể buộc mình ăn bất cứ thứ gì của nhà bếp nữa cả. Tôi không có đồ làm bếp trong phòng, và ở xe của Weyden có mùi cống bốc lên từ hiên. Tôi phải đi đây. Tôi phải ra đi. Cha Huismans thì ổn thôi. Ông ấy là người tu hành. Tôi thì không phải là người tu hành. Ông đi vào vùng cây bụi. Tôi không muốn đi vào cây bụi."
Tôi không thể giúp anh ta. Thực phẩm là vấn đề với tất cả mọi người ở đây. Tôi cũng chẳng khá hơn là mấy; hôm đó tôi ăn trưa với một cặp vợ chồng Ấn Độ, trong cái mùi khủng khiếp của a nguỳ và khăn trải bàn mùi dầu.
Một tuần sau trở lại trường tôi được biết rằng chỉ hai ngày sau khi gặp tôi, anh chàng người Bỉ trẻ tuổi đã lên tàu thuỷ đi mất. Chính cha Huismans báo cho tôi tin đó, và cha Huismans, da rám nắng và khoẻ khoắn sau chuyến đi của mình, có vẻ như không lấy gì làm lo lắng về chuyện mất đi một giáo viên. Ông nói ông rằng mừng thấy cuốn sổ quyên góp trở về. Đó là một phần của lịch sử thị trấn, những đứa trẻ từng ăn cắp sách có thể nhận ra điều này vào một ngày nào đó.
Cha Huismans trạc bốn mươi tuổi. Ông không ăn vận theo lối tu sĩ, mà thường mặc quần bình thường và áo sơ mi khiến ông có vẻ như không phải người ở đây. Ông có khuôn mặt "dài ngoẵng" mà tôi nhận thấy là một số người châu Âu – người A rập hay người Ba Tư và Ấn độ thì không bao giờ - cũng có. Trên những gương mặt đó có cái gì đó trẻ con ở cái môi chẻ và cái trán dô ra. Có vẻ như là những người đó đẻ thiếu tháng, họ có vẻ như đã phải trải qua những tháng trầm tư rất sớm. Một số người trong đó đúng là yếu ớt như vẻ ngoài của họ, một số rất cứng rắn. Cha Huismans rất cứng rắn. Ấn tượng ông tạo ra là cái gì đó chưa hoàn thành, sự yếu ớt và cứng rắn.
Ông rời khỏi bờ sông, đi thăm những ngôi làng ông biết, và ông mang về nhà hai thứ - cái mặt nạ và bức chạm gỗ cũ kỹ. Ông thường xuyên muốn
https://thuviensach.vn
nói về những thứ đó hơn là nói về người giáo viên đã bỏ đi hoặc về cuốn sổ bị mất cắp.
Bức chạm gỗ thật tuyệt. Nó cao khoảng năm feet, một khuôn mặt người rất gày gò, chỉ có những đường viền, cổ và đầu, rất chân phương, được chạm trên một mẩu gỗ chu vi không lớn hơn sáu đến tám inch. Tôi biết về bức chạm – đó là một trong những thứ chúng tôi buôn bán ở bờ biển, chúng tôi tạo ra công việc cho một vài gia đình của một bộ lạc làm nghề chạm khắc. Nhưng cha Huismans chẳng buồn để ý đến thông tin tôi nói với ông, mà chỉ nói về điều ông thấy trong khuôn mặt ông mang về nhà. Với tôi nó là một mẩu gỗ cường điệu quá mức và quá thô tháp, một trò đùa của người đã khắc ra nó (những người thợ khắc thỉnh thoảng cũng làm những việc như thế), Nhưng cha Huismans hiểu khuôn mặt gầy gò nói gì, và với ông nó là thứ đầy tưởng tượng và ý nghĩa.
Tôi lắng nghe, và cuối cùng ông mỉm cười nói "semper aliquid novi". Ông đã dùng câu khẩu hiệu của trường để nói đùa. Những từ này đã cổ lắm rồi, ông nói với tôi, và có nguồn gốc châu Phi. Một nhà văn La Mã cổ đã vật câu đó về châu Phi rằng nơi đó "luôn có cái gì đó mới mẻ" – semper aliquid novi. Và khi đề cập đến mặt nạ và chạm khắc, những từ đó vẫn hoàn toàn đúng. Mọi tác phẩm chạm khắc, mọi mặt nạ đều phụng sự một mục đích tôn giáo cụ thể, và chỉ có thể làm được một lần. Bản sao thì chỉ là bản sao, không có cảm giác hay sức mạnh huyền bí nào trong chúng hết cả. Ông thấy trong những cái mặt nạ và đồ chạm trổ một tính chất tôn giáo, không có tính chất đó mọi vật đều sẽ chết cứng chẳng hề có vẻ đẹp gì hết.
Thật lạ là một giáo sĩ Cơ đốc lại có cách nhìn nhận như thế đối với các tín ngưỡng châu Phi, những cái mà trên bờ biển chúng tôi chẳng hề mảy may để ý đến. Và dù cha Huismans biết nhiều đến vậy về tôn giáo châu Phi và lao vào cuộc biến động lớn đến thế để tìm những mẩu đó, tôi chưa bao giờ cảm thấy ông quan tâm đến người châu Phi theo bất kỳ cách hiểu nào, ông có vẻ thật bàng quan với thực trạng của đất nước. Tôi ghen tị với ông
https://thuviensach.vn
về sự bàng quan này, và tôi nghĩ sau khi tôi từ chỗ ông về ngày hôm ấy, châu Phi của ông, châu Phi của dòng sông và cây bụi này, đã khác với châu Phi của tôi. Châu Phi của ông là một chốn đẹp đẽ, đầy ắp những điều mới mẻ.
Ông là một giáo sĩ, là người một nửa. Ông sống bằng những lời thề tôi không thể nói và tôi tiếp cận ông với sự kính trọng của những người như tôi kính trọng những con người thiêng liêng thánh thiện. Nhưng tôi bắt đầu nghĩ về ông như một cái gì đó khác nữa. Tôi bắt đầu nghĩ ông là một người thuần tuý. Sự có mặt của ông tại thị trấn làm tôi thích thú. Những thái độ của ông, những mối quan tâm của ông, hiểu biết của ông thêm cái gì đó vào nơi đây, làm cho nó bớt phần cằn cỗi. Tôi không thấy phiền gì khi ông chỉ quan tâm đến bản thân ông, ông hờ hững với sự ra đi của một giáo viên của ông, rằng ông chẳng coi tôi là cái thá gì khi nói chuyện với tôi. Với tôi điều đó là một phần của bản chất tôn giáo đặc biệt ở ông. Tôi tìm kiếm ông và cố hiểu những quan tâm của ông. Ông thường xuyên sẵn sàng nói (luôn nhìn xa vắng) và chỉ bảo những gì ông vừa tìm thấy. Đôi khi ông cũng đảo qua cửa hiệu của tôi và mua một số thứ cho trường. Nhưng sự rụt rè – không thực sự là rụt rè – không bao giờ rời bỏ ông. Ông không bao giờ dễ dàng với chính mình. Ông vẫn mãi là một người lạc lõng.
Ông giải thích cho tôi khẩu hiệu thứ hai của thị trấn – những từ La tinh khắc vào toà nhà đổ nát gần cầu tàu: Miscerique probat populos et foedera jungi. "Ngài tán thành sự hoà trộn các dân tộc và những mối dây ràng buộc của họ". Đó là nghĩa của những từ đó, và chúng cũng là những từ hết sức cổ, từ mãi thời Rome cổ xưa. Chúng được trích từ một bài thơ về sự hình thành Rome. Người anh hùng đầu tiên của Rome, đến Italy để xây dựng thị trấn cho mình, dừng lại ở vùng đất bờ biển châu Phi. Nữ hoàng tại đây đem lòng yêu chàng, và có vẻ như là chuyến đi Italy đã bị huỷ bỏ. Nhưng rồi các vị thần chứng kiến đã giúp một tay, và một torng số các vị thần nói rằng vị thần Rome vĩ đại không đồng ý định cư ở châu Phi, không đồng ý với sự hoà trộn các dân tộc ở đây và những hiệp ước liên minh giữa người châu
https://thuviensach.vn
Phi và người Rome. Những từ đó mang ý nghĩa như vậy trong bài thơ cổ tiếng La tinh. Tuy vậy, trong lời khẩu hiệu, những từ được khắc vào đá granit bên ngoài những cánh cửa cầu tàu, rõ ràng một công trình đã được dựng lên ở châu Phi, vị thần Rome vĩ đại đã đồng ý với sự hoà trộn các dân tộc những mối dây ràng buộc ở châu Phi. Miscerique probat populos et foedera jungi.
Tôi phân vân. Những từ ngữ xoáy tròn hai nghìn năm tuổi được dùng để kỷ niệm sáu mươi năm có tàu thuỷ từ thủ đô! Rome là Rome. Nơi này là cái gì đây? Khắc những từ ngữ lên một công trình bên cạnh dòng sông châu Phi hẳn nhiên là để mời chào xây dựng thị trấn. còn lại chút gì lo lắng, như trong câu thơ nguyên gốc nữa không? Và gần như là ngay khi được dựng lên công trình đó đã bị phá huỷ, chỉ để lại vài mảnh đồng và những từ đầy mỉa mai, lắp bắp với người dân, những người giờ đây đang sử dụng khoảng không gian trước nó để làm một cái chợ và để dựng lều ngủ buổi tối, với những con dê và những chuồng gà cùng khỉ bị xích (khỉ cũng là thực phẩm như dê và gà), khoảng hai ngày trước khi tàu thuỷ khởi hành.
Nhưng tôi mừng vì không nói ra, vì với cha Huismans những từ đó chẳng có gì là dương dương tự đắc hết cả. Chúng là những từ giúp ông tự nhận mình ở châu Phi. Chỉ đơn giản là ông không tìm thấy chính mình tại nơi nào đó trong vùng cây bụi, ông thấy bản thân mình như là một phần của đợt sóng lịch sử khổng lồ. Ông thuộc về châu Âu, ông dùng những từ La tinh để nhắc đến chính mình. Ông chẳng buồn để ý người châu Âu ở thị trấn chúng tôi đều thất học hoặc có sự khác biệt giữa cái ông bảo vệ trong cuộc đời chính ông và cái mà khu ngoại ô đổ nát gần những ghềnh nước bảo vệ. Ông có ý nghĩ riêng của mình về châu Âu, có ý nghĩ riêng về văn minh. Đó là cái nằm giữa chúng tôi. Không có cái gì giống vậy ở giữa tôi và những người mà tôi gặp ở Câu lạc bộ Hellenic. Và cha Huismans nhấn mạnh vào Âu châu tính của mình cũng như sự tách biệt của ông với người châu Phi hơn là những người đó với nhau. Xét theo khía cạnh nào ông cũng được an toàn hơn.
https://thuviensach.vn
Ông không hề cảm thấy bực bội, như một số người đồng bào của ông, về những gì xảy đến với thị trấn châu Âu. Ông không bị tổn thương bởi những lời sỉ nhục mà người ta ném lên các toà nhà và những bức tượng. Không phải bởi vì ông sẵn lòng tha thứ hơn người khác, hoặc hiểu hơn về những gì đã được làm cho người châu Phi. Với ông sự phá huỷ thị trấn châu Âu, thị trấn mà những người đồng bào của ông đã xây dựng, chỉ là một bước lùi tạm thời. Những cái đó xảy đến khi một cái gì đó lớn lao và mới mẻ được tạo ra, khi mà dòng chảy lịch sử đã được biến đổi.
Đó vẫn luôn là một công trình bên khúc quanh của dòng sông, ông nói. Đó là một địa điểm gặp gỡ tự nhiên. Các bộ lạc có thể thay đổi, quyền lực có thể thăng trầm, nhưng người ta vẫn quay lại đó để gặp gỡ và buôn bán. Thị trấn A rập có thể chỉ đáng kể hơn những công trình châu Phi một chút, và về mặt công nghệ mà nói thì không hơn là bao nhiêu. Người A rập, ở rất sâu trong nội địa, có thể phải xây dựng bằng các vật liệu của rừng, cbsn tại thị trấn của họ chắc phải hơn nhiều một kiểu cuộc sống ở rừng. Người A rập chỉ chuẩn bị con đường cho nền văn minh mạnh mẽ của châu Âu.
Với mọi thứ gắn liền với quá trình thuộc địa hoá của châu Âu, sự mở rộng dòng sông, cha Huismans có một sự sùng kính có thể làm người dân thị trấn kinh ngạc, những người này coi ông là người yêu quý châu Phi và do đó, theo cách nghĩ của họ, là một người đã vứt bỏ quá khứ thuộc địa. Quá khứ này từng thật đắng cay, nhưng dường như cha Huismans coi sự cay đắng là một thứ quà tặng, ông nhìn nhận bên trên cái đó. Từ sân khu sửa chữa tàu gần trạm hải quan, bị bỏ quên rất lâu, đầy những thừng chão và gỉ sắt, ông lấy đi những mảnh của những chiếc tàu thuỷ cũ và các mảnh máy móc bị dỡ tung từ cuối những năm 1890 và để chúng – giống như những thánh tích của một nền văn minh sớm – tại sân trong của trường trung học. Ông đặc biệt thích thú với một mảnh có trên mình một tấm thép hình bầu dục và trên đó có tên những người đã làm ra nó tại thị trấn Seraing nước Bỉ.
https://thuviensach.vn