🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Không Gia Đình - Hector Malot
Ebooks
Nhóm Zalo
MỤC LỤC
Tựa
Lời giới thiệu
PHẦN I
1. Ở làng
2. Người bố nuôi
3. Gánh xiếc của ông cụ Vitali
4. Nhà mẹ
5. Lên đường
6. Bước đầu trong nghề
7. Tôi tập đọc
8. Vượt ngàn băng nội
9. Tôi gặp một người khổng lồ đi hài bảy dặm 10. Ra trước công lý
11. Trên thuyền
12. Người bạn đầu tiên của tôi
13. Đứa trẻ nhặt được
14. Tuyết và sói
15. Ngài Giôlicơ
16. Vào Pari
17. Một ông “bầu gánh” trẻ con ở phố Luốcxin 18. Mỏ đá Giăngtili
19. Lidơ
20. Tôi làm vườn
21. Gia đình tan tác
PHẦN II
22. Tiến lên
23. Một thành phố đen
24. Thợ đun xe
25. Lụt mỏ
26. Trong ngách ngược
27. Công cuộc cứu nạn
28. Một bài học nhạc
29. Con bò của hoàng tử
29. Con bò của hoàng tử 30. Má Bácbơranh
31. Gia đình cũ và gia đình mới 32. Lão Bácbơranh
33. Tìm kiếm
34. Gia đình Đơrixcơn
35. Thờ cha kính mẹ
36. Capi hư nết
37. Tã đẹp nói dối
38. Những đêm Nôen
39. Anh Bốp
40. Thuyền thiên nga
41. Tã đẹp nói thật
42. Giữa gia đình
LỜI GIỚI THIỆU
Hécto Malô (Hector Malot), sinh năm 1830 ở miền tây Bắc nước Pháp, là một nhà văn chuyên viết tiểu thuyết, được bạn đọc người Pháp yêu mến. Những tiểu thuyết của ông, như KHÔNG GIA ĐÌNH, TRONG GIA ĐÌNH, PÔNGPÔNG, RÔMANH CANBƠRI v.v… đều lành mạnh và hấp dẫn.
Ông mất năm 1890.
Trong tiểu thuyết của Malô, KHÔNG GIA ĐÌNH nổi tiếng hơn cả. Nó đã được giải thưởng của Viện Hàn lâm văn học Pháp. Nhiều nước trên thế giới đã dịch lại và xuất bản nhiều lần[1]. Từ một trăm năm nay nó đã trở thành người bạn thân yêu của thiếu nhi Pháp và
châu Âu. Không những thiếu nhi, mà cả những bậc cha mẹ, anh chị, thầy giáo và tất cả những ai yêu mến trẻ em, chú ý đến trẻ em đều đọc nó say sưa, vì qua mỗi một câu chuyện lý thú, nó giải đáp cho người ta nhiều câu hỏi luôn mới mẻ về việc nuôi dạy thiếu nhi.
KHÔNG GIA ĐÌNH kể chuyện một em bé không cha mẹ, không họ hàng thân thích, đi theo một đoàn xiếc chó, khỉ, rồi cầm đầu đoàn ấy đi lưu lạc khắp nước Pháp, sau đó bị tù ở Anh, cuối cùng tìm thấy mẹ và em. Em bé Rê-mi ấy đã lớn lên trong gian khổ. Em đã chung đụng với mọi hạng người, sống khắp mọi nơi, “nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương”. Em đã lao động mà sống, lúc đầu dưới quyền điều khiển của một ông già từng trải và đạo đức, cụ Vitali về sau thì tự lập và không những lo cho mình mà còn bảo đảm việc biểu diễn và sinh sống cho cả một gánh hát rong. Đã có khi em và cả đoàn lang thang mấy hôm liền không có chút gì trong bụng. Đã có khi em suýt chết rét. Đã có khi em bị lụt ngầm chôn trong giếng mỏ mười mấy ngày đêm. Đã có khi em mắc oan bị giải ra trước tòa án và bị bỏ tù. Và cũng có khi em được nuôi nấng đàng hoàng, no ấm. Nhưng dù ở đâu, trong cảnh ngộ nào, em vẫn noi theo nếp rèn dạy của ông già Vitali giữ phẩm chất làm người, nghĩa là ngay thẳng, gan dạ, tự trọng, thương người, ham lao động, không ngửa tay xin xỏ, không dối trá, gian giảo, nhớ ơn nghĩa, luôn luôn muốn làm người có ích.
Bên cạnh Rêmi có chú bé nghệ sĩ Mátchia khôn ngoan, linh lợi, tháo vát, tận tình với bạn, một tài hoa nghệ thuật nở sớm cộng với một tấm lòng vàng; con chó Capi khôn như người và rất có nghĩa; con khỉ Giôlicơ liến láu và đáng thương… Những con người và con vật ở đây được dựng lên linh hoạt sống động, gây nhiều hứng thú cho bạn đọc nhỏ của chúng ta.
Qua câu chuyện phiêu lưu hết sức hấp dẫn của chú bé Rêmi, người ta thấy quyển sách ca ngợi lao động, ca ngợi tinh thần tự lập tự tin của tuổi trẻ, phát huy ý thức chịu đựng gian khổ và tập quán xoay sở tháo vát, đề cao nghệ thuật, khuyến khích tình bạn chân chính. Nó phản ánh cảnh lao động và sinh hoạt bấp bênh, nguy hiểm, đầy đe dọa của những người thợ mỏ và của nhân dân lao động thành phố trong xã hội tư sản. Đồng thời nó thể hiện cái thực tế là tình thương người, lòng biết ơn, tình hữu ái giai cấp ở về phía những người lao động. Quyển sách lại diễn tả nhiều cảnh đẹp thiên
nhiên, nhiều cảnh sinh hoạt hấp dẫn ở nông thôn và thành thị, giúp bạn đọc thêm phần hứng thú trong khi theo dõi câu chuyện, lại có thể mở rộng hiểu biết.
Nhưng KHÔNG GIA ĐÌNH dưới con mắt chúng ta không phải là một viên ngọc không vết. Do một nhà văn tư sản viết – dù là nhà văn tiến bộ – cuốn sách vẫn không khỏi mang những sai lầm của tư tưởng và quan niệm xã hội của ông ta. Tác giả tôn sùng những người giàu sang, có danh vọng, lịch sự. Ông đã dành cho Rêmi một bà mẹ đại tư sản với một gia tài kếch sù, để cho khi nhận ra mẹ, Rê mi có sẵn của cải đó mà đền ơn trả nghĩa. Làm như không có tiền muôn bạc triệu thì người ta không có cách gì tỏ lòng biết ơn! Dưới ngòi bút của tác giả Rê-mi quí trọng người lao động, những người có tấm lòng tốt, nhưng đối với những người có địa vị xã hội, có cử chỉ lịch sự, nghĩa là có cái vỏ đẹp đẽ, cao sang, Rêmi mới thật trố mắt khâm phục. Ước mơ của Rêmi – mà đấy là một mặt hạn chế của tác phẩm – là được hưởng một cuộc sống vàng lụa như họ, được trở thành những con người sang trọng như họ. Đó là điều mà chắc chắn là các bạn đọc thiếu nhi chúng ta ngày nay không tán thành, càng không để cho bị tiêm nhiễm.
Người dịch tập truyện không mong muốn gì hơn là khi đọc sách, các bạn vừa thấy hứng thú, vừa học tập được nhiều, được thưởng thức một tác phẩm văn học có giá trị đồng thời cũng rút ra được những điều tốt nên theo, những điều hạn chế nên tránh trong việc tu dưỡng, rèn luyện của mình, hoặc trong việc nuôi dạy con em sau này.
HUỲNH LÝ
PHẦN THỨ I KHÔNG GIA ĐÌNH
Hector Malot
1. Ở LÀNG
Tôi là một đứa trẻ người ta nhặt được.
Tuy vậy, cho đến năm lên tám, tôi vẫn tưởng tôi có mẹ cũng như mọi đứa trẻ khác, vì mỗi khi tôi khóc thì luôn luôn có một người đàn bà dịu dàng ôm tôi vào lòng, âu yếm ru, khiến cho nước mắt tôi ngừng chảy.
Mỗi khi tôi lên giường ngủ, cũng có một người đàn bà đến hôn tôi. Và khi gió rét tháng chạp trát những bông hoa tuyết vào cửa kính trắng xóa, bà ấy vừa ấp ủ chân tôi trong đôi bàn tay trìu mến của bà, vừa hát cho tôi nghe một bài hát mà giờ đây tôi vẫn còn nhớ điệu và lõm bõm vài lời ca.
Khi tôi chăn con bò sữa ở ven đường đầy cỏ, hoặc ở những đám cây hoang, lá dại mà gặp một trận mưa dông bất ngờ đổ xuống, thì bà chạy đến đón tôi, bắt tôi núp trong chiếc váy len của bà và túm váy lên che đầu che vai cho tôi cẩn thận.
Mỗi lần có chuyện gây gổ với bạn bè thì bà dỗ tôi, bảo tôi kể cho bà nghe những nỗi bực bội chất chứa trong lòng và hầu như lúc nào bà cũng tìm được những lời thích hợp để an ủi tôi, hoặc tỏ ra đồng tình với tôi.
Qua những việc ấy, và bao nhiêu việc khác nữa, từ giọng nói, cách nhìn, cái vuốt ve cho đến những lời trách mắng ôn tồn, tôi yên trí bà là mẹ tôi.
Tôi được biết bà không phải là mẹ đẻ, mà chỉ là mẹ nuôi, như thế này đây.
Làng tôi gọi là làng Savanông. Nói cho đúng thì đó là cái làng ở đó tôi lớn lên, tôi sống thời thơ ấu, chứ tôi làm gì có quê hương, có nơi chôn rau cắt rốn, cũng như tôi đã không có cha có mẹ gì cả. Làng Savanông là một trong những làng nghèo nàn nhất ở miền Trung nước Pháp.
Không nghèo vì dân làng chây lười, mà chính vì nó ở vào một vùng đất đai cằn cỗi. Đất mặt rất mỏng, muốn mùa màng tốt, phải có phân, vôi, mà những thứ này trong vùng quá hiếm. Vì thế, người ta
thấy ít những cánh đồng trồng trọt mà nhan nhản những đám cỏ hôi, cây dại. Hết những đám ấy thì là địa hạt của những lăngdơ[2]. Trên các lăngdơ cao ấy, gió lạnh thổi rát làm táp những lùm cây thưa thớt cành nhánh vặn vẹo quay cuồng.
Muốn thấy cây cối xanh tốt thì phải rời bỏ cao nguyên, xuống các thung lũng cạnh sông, ở đấy có những cây dẻ cao to và những cây sồi vạm vỡ.
Cái nhà tôi sống những năm đầu của tuổi thơ ấu dựng trong một thung lũng như thế, trên bò con suối nước chảy xiết đổ vào một phụ lưu của sông Loa.
Cho đến năm lên tám, tôi chưa hề thấy đàn ông trong nhà, tuy má tôi không phải là góa bụa. Chồng bà vốn là thợ đá đi làm ăn ở Pari như phần đông những người thợ khác trong vùng. Từ ngày tôi bắt đầu hiểu biết sự việc chung quanh mình thì tôi chưa thấy ông ta về làng lần nào. Thỉnh thoảng có bạn bè về quê, ông ta mới nhắn tin về:
“Này, bác Bácbơranh, bác giai vẫn được mạnh khỏe đấy! Bác ấy nhờ tôi tin cho bác biết là công việc làm ăn khá lắm và bác ấy gửi cho bác số tiền này đây. Bác đếm đi chứ!”.
Chỉ có thế thôi. Chừng ấy tin tức, má Bácbơranh cũng cho là đủ rồi: ông chồng mạnh khỏe; ông làm ra tiền, kiếm ăn được, còn gì nữa! Đừng tưởng ông Bácbơranh ở Pari lâu thế là vì có điều bất hòa với vợ. Không hề có chuyện như thế. Ồng ta ở lại Pari là do công việc làm ăn bắt buộc, thế thôi. Lúc già, ông sẽ trở về ở với vợ. Với số tiền dành dụm được, đến ngày tuổi già sức yếu, vợ chồng không lo lâm vào cảnh cơ hàn.
Một chiều tháng mười một, có một người lạ mặt dừng lại trước cổng vườn nhà. Tôi đang bẻ củi chà là ở bục cửa. Người ấy không mở cổng mà chỉ nghểnh đầu nhòm vào, nhìn tôi mà hỏi có phải nhà bà Bácbơranh ở đây không.
Tôi mời ông ta vào. Ông ta đẩy cửa, làm cho sợi dây buộc kêu cót két, rồi bước chậm rãi qua sân.
Tôi chưa bao giờ thấy ai lấm bùn bê bết như ông này. Những mảng bùn, mảng còn ướt, mảng đã khô, trát khắp người từ đầu tới chân. Chỉ nhìn những cũng đủ biết ông ta đã đi rất lâu trên những
con đường lầy lội. Nghe tiếng chúng tôi, má Bácbơranh chạy ra. Khi khách bước qua bậc cửa thì má cũng vừa tới, hai người gặp nhau. Khách nói: -Tôi đem tin từ Pari về đây!
Đó là những lời giản dị tai chúng tôi nghe đã quen. Nhưng mà giọng nói lần này không giống như mọi bận, không giống như những khi người khách nói: “Bác giai bình yên. Công việc làm ăn tốt”. Má Bácbơranh chập hai tay vào nhau, kêu: -Ôi trời ơi! Chắc có tai họa gì xảy đến cho ông Giêrôm nhà tôi rồi!
- Vâng, quả có thế. Nhưng bà cũng không nên quá hoảng hốt! Ông nhà bị thương, đúng đấy, nhưng ông ấy không chết. Có điều chắc chắn sẽ bị què. Hiện giờ ông ấy còn nằm ở bệnh viện. Tôi nằm giường bên cạnh, nên nhân tôi về quê, ông ấy nhờ tôi tạt qua đưa tin cho bà biết. Tôi không dừng lại đây lâu vì còn phải đi ba dặm đường nữa, mà trời sắp tối rồi.
Má Bácbơranh muốn biết tường tận hơn, nên mời khách ở lại ăn cơm tối. Má nói đường xấu lắm và người ta đồn ở trong rừng có chó sói, chi bằng để sáng mai hãy đi.
Khách ngồi vào bên cạnh bếp lò, vừa ăn vừa kể cho chúng tôi nghe tai nạn xảy ra như thế nào: ông Bácbơranh bị một giàn giáo đổ xuống đè suýt bẹp người. Người chủ thầu viện lẽ ông ta không có nhiệm vụ gì phải đứng ở chỗ ấy, nên không trả cho ông ta một khoản bồi thường nào cả. Ông khách nói: -Thật không may cho ông Bácbơranh, tội nghiệp ông ấy! Thật không may! Có những tên láu cá, nhân cơ hội tương tự đã vớ được một khoản thực lợi đồng niên[3]. Còn ông nhà thì chẳng được gì sất!
Ông khách vừa hơ đôi ống quần cứng cồm cộp bùn khô, vừa luôn mồm nhắc đi nhắc lại mấy tiếng “thật không may” với một vẻ thương cảm chân thành. Sự xuýt xoa của ông chứng tỏ ông sẵn lòng chịu tàn tật để vớ được một món thực lợi. Ông kết thúc câu chuyện: -Tuy thế, tôi cũng khuyên ông nhà cứ đệ đơn kiện lão chủ thầu.
- Kiện tụng thì tốn kém chết đi!
- Tốn đấy, nhưng được kiện thì cũng bõ chứ!
Má Bácbơranh muốn đi Pari nhưng chuyện đó đâu có phải dễ: đường sá xa xôi tốn kém quá.
Sáng sớm hôm sau má con tôi xuống làng dưới tìm cha xứ để hỏi ý kiến. Cha xứ chưa muốn để cho má đi, trước khi biết chắc đi như thế có giúp ích gì cho chồng không. Cha viết thư cho ông giáo sĩ ở bệnh viện nơi ông Bácbơranh đương nằm điều trị. Vài ngày sau, có thư trả lời nói rằng má Bácbơranh không cần đi, chỉ cần gửi một số tiền lên Pari để cho chồng kiện người chủ thầu.
Ngày tháng trôi qua. Thỉnh thoảng lại có thư về, thư nào cũng thúc giục gửi thêm tiền lên. Bức thư cuối cùng thúc bách hơn cả, nhắn rằng nếu hết tiền thì bán con bò sữa đi mà gửi.
Những ai đã sống ở nông thôn cùng với bà con nông dân đều hiểu nỗi đau khổ hãi hùng chứa trong mấy tiếng: bán con bò sữa. Đối với nhà sinh vật học, con bò là một con vật thuộc loài nhai lại. Dưới con mắt của khách du ngoạn, nó là con vật làm cho phong cảnh tăng thêm vẻ đẹp khi trên thảm cỏ nó ngẩng cái mõm đen nhánh đẫm hơi sương của nó lên. Với trẻ em thành thị, đó là nguồn cung cấp cà phê sữa và phó mát đánh kem. Nhưng đối với người nông dân, nó còn quí báu hơn nhiều. Dù cho nghèo xác nghèo xơ, dù gia đình con cái có đông đến đâu, có một con bò sữa trong chuồng cũng không sợ đói. Chỉ một cái thừng hay một sợi dây quấn trên sừng thôi cũng đủ để cho một em bé chăn dắt nó ăn dọc các con đường phủ đầy cỏ, ở những nơi không thuộc về ai. Và thế là chiều đến, cả nhà có bơ nấu xúp, có sữa để ăn với khoai tây. Bố mẹ, con cái, lớn nhỏ đều sống nhờ vào con bò sữa.
Cũng nhờ có con bò sữa mà má con tôi sống đầy đủ đến nỗi hầu như không cần ăn thịt. Không những nó là vú nuôi của chúng tôi, nó còn là bầu bạn, là chỗ chân tình.
Thật vậy, đừng tưởng bò là một con vật ngu ngốc. Trái lại, nó rất thông minh, nó có những đức tính mà biết cách rèn luyện thì còn phát triển nhiều. Chúng tôi vỗ về nó, nói chuyện với nó và nó hiểu chúng tôi. Về phần nó, với đôi mắt to, tròn, hiền dịu, nó biết cách làm cho chúng tôi hiểu nó muốn gì, nó cảm thấy thế nào. Nói tóm lại, chúng tôi rất yêu thương nó và nó cũng yêu thương chúng tôi.
Ấy thế mà phải lìa bỏ nó đấy! Vì rằng chỉ có cách “bán con bò sữa đi” thì mới làm cho ông Bácbơranh thỏa dạ.
Một bác lái tới nhà chúng tôi. Bác ta xem xét con Rútxét rất kỹ, sờ nắn nó mãi, vừa sờ vừa lắc đầu ra vẻ không ưng ý. Bác ta nhắc
đi nhắc lại hàng trăm lần rằng con bò không vừa ý bác ta chút nào. Bác chê nó là bò nhà nghèo, khó bán lại lắm. Không có sữa, bơ lại kém chất. Chê nhún chán, rút cục bác cũng đồng ý mua, nhưng bảo mua là vì lòng tốt, muốn giúp má Bácbơranh thôi, và cũng vì thấy má là người trung hậu.
Tội nghiệp cho con Rútxét. Hình như nó hiểu cả nên nó nhất định không chịu ra khỏi chuồng và kêu rống lên. Bác lái đưa chiếc roi da quấn ở cổ bác cho tôi và bảo: -Này chú bé, luồn ra phía sau mà đuổi nó ra.
- Ấy chớ, cái đó không được.
Má Bácbơranh nói thế rồi cầm lấy chiếc dây dắt và dịu dàng dỗ nó: “Nào cô gái, đi đây, đi đây nào!”. Thế là con Rútxét nghe theo không cưỡng lại nữa. Ra tới đường, bác lái cột nó vào sau xe. Nó đành phải bước líu ríu theo con ngựa. Chúng tôi trở vào nhà rồi, nhưng mãi một lúc lâu vẫn còn nghe thấy tiếng nó rống.
Thế là chẳng còn sữa, chẳng còn bơ nữa. Buổi sáng một mẩu bánh mì suông, buổi chiều khoai tây chấm muối.
Bán con Rútxét được ít hôm thì tới ngày thứ ba ngả mặn sau tuần chay[4]. Năm trước, nhân dịp này má Bácbơranh đã thết tôi một bữa bánh kẹp và bánh rán ra trò. Tôi ăn nhiều, rất nhiều, khiến má hết sức vui thích. Nhưng mà hồi đó còn con Rútxét nên còn sữa để nhào bột và có bơ để rán. Bây giờ không còn con Rútxét thì cũng chẳng có sữa, chẳng có bơ, chẳng có ngày thứ ba ngả mặn nữa rồi! Tôi buồn rầu nghĩ bụng thế. Nhưng má Bácbơranh đã dành cho tôi một sự bất ngờ. Xưa nay má vốn không quen vay mượn, nhưng lần này má cũng cố vay của bà hàng xóm này một chén sữa, của bà kia một miếng bơ. Vì thế, đến trưa tôi về nhà thì thấy má đang trút bột vào một nồi đất lớn.
- Ơ này, bột mì!
Tôi vừa nói thế, vừa lại gần má. Má mỉm cười trả lời: -Phải rồi, đúng là bột mì ấy, Rêmi ạ! Bột mì trắng hảo hạng. Này con xem, mùi thơm phức!
Tôi không có gan hỏi má lấy bột ra làm gì. Chính vì tôi nóng lòng muốn biết quá nên tôi lại càng không dám hỏi. Vả lại tôi đã định giả
vờ như không biết hôm nay là ngày thứ ba ăn mặn để khỏi tủi lòng má. Má nhìn tôi, hỏi: -Người ta dùng bột mì làm gì nào? - Làm bánh mì.
- Còn làm gì nữa?
- Khuấy cháo.
- Rồi còn làm gì nữa?
- Chà! Con không biết.
- Có, con biết đấy. Nhưng con là một đứa trẻ ngoan, nên con không nói ra đấy thôi. Con biết hôm nay là ngày thứ ba ăn mặn, tức là ngày bánh kẹp, bánh rán. Nhưng con thấy nhà không có sữa, có bơ nên con không nỡ nhắc đến, có phải không con?
- Ôi, má ơi!
- Má đã đoán trước nên má xoay xở để cho ngày thứ ba ăn mặn của con không đến nỗi xám ngắt. Này con nhìn vào trong cái thùng gỗ kia mà xem.
Tôi nhanh nhảu mở nắp thùng lên thì quả thấy nào bơ, nào sữa, nào trứng, có cả ba quả táo nữa. Má nói: -Đưa trứng đây cho má. Trong lúc má đập trứng, con gọt táo đi.
Tôi cắt táo ra từng khoanh. Má đập trứng vào bột và đánh lên, thỉnh thoảng lại đổ vào một thìa sữa. Khi bột đã khuấy đều, má Bácbơranh vần cái nồi lên trên tro nóng. Thế là chỉ còn đợi đến chiều thôi, vì đến buổi tối chúng tôi mới ăn bánh kẹp và bánh rán.
Thú thật, cái ngày hôm đó, tôi thấy nó dài làm sao và đã đôi ba lần tôi chạy đến nhấc chiếc khăn phủ trên nồi bột để dòm thử. Má bảo: -Con làm thế lạnh bột mất, rồi nó không dậy men tốt đâu!
Nhưng bột dậy rất tốt. Trên mặt bột, có những bong bóng phồng lên, vỡ lỗ chỗ. Từ cái nồi bột lên men ấy tỏa ra một mùi trứng và sữa ngon lành. Má bảo: -Con bẻ cho má một mớ củi vụn. Phải đốt lửa cho đượm, đừng có khói.
Rồi má thắp nến lên: -Con cho thêm củi vào lò đi.
Tôi làm ngay không đợi nói hai lần, và ngay sau đó, một ngọn lửa cao bốc cháy trong lò, ánh sáng ấy chập chờn tỏa ra khắp bếp. Má Bácbơranh lấy cái chảo treo ở tường đặt lên bếp lò. - Đưa bơ đây cho má!
Má lấy mũi dao xén một cục bơ bằng quả hồ đào cho vào chảo. Bơ chảy ra, reo xèo xèo. Ôi! Cái mùi thơm làm nhỏ dãi, cái mùi thơm
vì đã vắng lâu ngày nên càng kích thích miệng lưỡi ta! Ôi! Khúc nhạc vui vẻ của chảo bơ liu diu tí tách trên lò!
Tôi chăm chú theo dõi bản nhạc ấy, nhưng vẫn nghe như ở ngoài sân có tiếng chân người. Ai đến ám chúng tôi giờ này nhỉ? Hẳn lại là một bà hàng xóm sang xin lửa đây.
Tôi không thèm chú ý, vì má Bácbơranh vừa vục môi vào trong nồi đất, múc đổ vào lòng chảo một mẻ bột trắng tinh. Quả không phải là lúc nghĩ vơ vẩn đến chuyện khác!
Nhưng chính vào lúc bấy giờ thì có tiếng gậy lạch cạch trên bục cửa, rồi cánh cửa thình lình mở toang. Không ngoảnh cổ ra, má Bácbơranh hỏi: -Ai đấy?
Một người đàn ông bước vào. Dưới ánh lửa chiếu táp vào người ông ta, tôi thấy ông mặc áo bờlu trắng, tay cầm cái gậy lớn. Ông nói, giọng cục cằn: -Ở đây người ta tiệc tùng gì đấy à? Xin cứ tự nhiên.
Má Bácbơranh vội vàng đặt chảo xuống đất kêu lên: -Chao, trời ơi! Ông Giêrôm đấy ư?
Rồi má cầm tay tôi, đẩy tôi ra trước mặt người đó. Ông ta vẫn đứng ở bục cửa. Má nói: -Ba con đấy!
2. NGƯỜI BỐ NUÔI
Tôi tiến lại gần ông ta, định ôm ông ta, nhưng ông ta lấy đầu gậy cản tôi lại: -Cái thằng này là thằng nào?
- Thằng Rêmi đấy!
- Má nó có nói với tôi là…
- Ờ… vâng, nhưng mà… không phải, bởi vì rằng…
- À, không phải, không phải!…
Ông ta giơ cao chiếc gậy, đi lại chỗ tôi. Tự nhiên tôi lùi lại. Nào tôi đã làm gì sai trái? Tôi có tội tình gì? Tại sao lại đối xử với tôi như thế khi tôi chạy đến định ôm hôn ông? Tôi chưa kịp suy nghĩ về những câu hỏi như vậy đang dồn dập trong đầu óc rối beng của tôi thì đã nghe ông ta nói: -Các người đang chuẩn bị ăn mặn ngày thứ ba đây. Thật là đúng lúc vì tớ đang đói ngấu. Ăn tối có gì? - Tôi đang làm bánh kẹp.
- Tôi biết. Nhưng mà má nó định cho một người mang mười dặm đường trên đôi chân ăn bánh kẹp à?
- Nhà chẳng còn gì cả: tôi có biết ông về đâu?
- Sao? Không còn gì à? Không có gì ăn tối à?
Ông ta đưa mắt nhìn quanh nhà: -Có bơ đây này.
Ông lại đưa mắt lên trần nhà nhìn vào chỗ xưa kia vẫn treo mỡ lợn. Nhưng đã từ lâu các nóc treo trống trơ không có gì cả, chỉ có mấy túm hành và tỏi lủng lẳng ở xà nhà. Ông ta lấy gậy chọc cho một túm hành rơi xuống và nói: -Hành đây! Bốn năm củ hành, một miếng bơ, thế là có một nồi xúp ngon. Má nó hãy bỏ bánh kẹp ra và cho hành vào chảo phi đi.
Bỏ bánh kẹp ở chảo ra! Má Bácbơranh không cãi lại. Chẳng những thế, bà còn vội vã làm theo lời chồng trong lúc ông ta ngồi trên chiếc ghế dài ở cạnh lò sưởi.
Tôi không dám rời khỏi chỗ mà cái gậy của ông ta đã đẩy tôi lùi đến. Tôi đứng tựa vào chiếc bàn, để ý ngắm con người ông. Ông ta tuổi độ năm mươi, vẻ mặt cục mịch, dáng người nghiệt ngã. Thương tích đã làm cho đầu ông lệch về bên phải và cái tật đó càng khiến cho người ta thấy chờn chợn khi nhìn thấy ông. Má tôi lại bắc chảo
lên bếp. Ông Bácbơranh nói: -Thế má nó định nấu xúp với chút xíu bơ thế kia à.
Rồi tự tay ông cầm đĩa bơ chút sạch vào chảo.
Thế là đi đời bơ, và cố nhiên cũng đi đời bánh kẹp!
Giá như vào lúc khác thì chắc chắn cái tai họa ấy đã làm cho tôi xúc động lắm. Nhưng khi đó tôi chẳng còn bụng dạ nào mà nghĩ đến bánh kẹp và bánh rán nữa. Tôi chỉ còn băn khoăn về mỗi một việc: chính cái con người nghiệt ngã ấy lại là ba tôi.
“Ba tôi! Ba tôi!”. Đó là mấy tiếng mà tự nhiên tôi lắp đi lắp lại như cái máy.
Chưa bao giờ tôi hình dung rõ rệt như thế nào là một người cha. Tôi tưởng tượng lờ mờ rằng người cha chẳng qua chỉ là một người mẹ có giọng nói ồ ồ mà thôi.
Đến nay, khi nhìn thấy người cha ở đâu trên trời rơi xuống cho tôi đó, tôi cảm thấy đau đớn hãi hùng. Vừa rồi tôi muốn ôm hôn cha tôi, nhưng cha tôi đã lấy đầu gậy đẩy tôi ra. Tại sao vậy? Khi tôi hôn má Bácbơranh chẳng bao giờ má đẩy tôi ra cả, trái lại má còn bế xốc tôi lên, ôm chặt tôi vào lòng.
Ông ta bảo tôi: -Đừng cứ sừng sững như trời trồng ấy, mau mà dọn bát đĩa ra bàn đi chứ!
Tôi vội vàng tuân lệnh. Xúp đã chín, má Bácbơranh múc ra đĩa. Thế là từ bên lò sưởi, ông ta đứng dậy đi lại bàn ngồi xuống và bắt đầu ăn. Thỉnh thoảng ông chỉ ngừng lại để nhìn tôi. Tôi không tài nào nuốt được, vì bối rối, lo ngại. Tôi cũng nhìn ông ta nhưng chỉ đám nhìn trộm. Khi gặp đôi mắt ông ta thì tôi lại cúi mặt xuống. Đột nhiên ông cầm thìa chỉ vào tôi: -Thường ngày thằng này nó ăn có khỏe hơn bữa nay không?
- Ồ, nó ăn được lắm chứ!
- Mặc xác nó! Ít ăn, ít uống thì còn được!
Tất nhiên là tôi chẳng muốn nói gì và cả má Bácbơranh cũng không muốn bắt chuyện. Má đi đi lại lại quanh bàn, chăm chú phục dịch ông chồng. Ông ta lại hỏi tôi: -Mày không đói à? - Không.
- Thế thì đi ngủ đi, và cố ngủ ngay nhé, không thì tao nổi giận lên đấy!
Má Bácbơranh đưa mắt nhìn tôi, ý muốn bảo tôi vâng lời đi, đừng có cãi lại. Nhưng lời dặn dò đó cũng thừa vì tôi không hề có ý chống đối.
Như ở phần lớn nhà nông dân, nhà bếp của chúng tôi cũng dùng làm buồng ngủ. Cái bàn, cái thùng gỗ, cái tủ đựng bát đĩa, nói chung những đồ đạc được dùng cho việc dọn ăn đều kê cạnh lò sưởi. Ở phía bên kia là giường ngủ. Giường của tôi ở xung quanh có chăng diềm vải đỏ.
Tôi vội vàng cởi áo lên nằm. Nhưng không sao ngủ được. Người ta không ngủ theo mệnh lệnh. Người ta chỉ ngủ khi buồn ngủ và khi trong lòng yên tĩnh. Vậy mà tôi lại không buồn ngủ và trong lòng tôi cũng không yên tĩnh. Trái lại tôi rất băn khoăn, hơn nữa còn đau khổ.
Cái người ấy mà là cha mình ư? Là cha thì tại sao ông ta lại đối xử với mình tàn nhẫn thế?
Úp mặt vào tường, tôi cố gắng xua đuổi những ý nghĩ ấy và mong ngủ thiếp đi theo lệnh của ông ta. Nhưng không tài nào nhắm mắt được. Giấc ngủ không đến và chưa bao giờ tôi lại thấy tỉnh táo như lần này.
Một lúc sau, không biết chừng bao nhiêu lâu, tôi nghe thấy có người lại gần giường tôi. Nghe bước chân đó chậm chạp, nặng nề, kéo lê chân, tôi biết ngay không phải là má Bácbơranh. Một hơi thở nóng hổi bay qua trên tóc tôi. Có tiếng thầm thì hỏi: -Mày ngủ chưa?
Tôi nhất định không trả lời vì mấy tiếng: “tao nổi giận lên” vẫn còn văng vẳng bên tai tôi.
- Nó ngủ rồi đấy! – Má Bácbơranh nói – Hễ nằm xuống là ngủ ngay, nó quen thế rồi. Ông cứ nói, không sợ nó nghe thấy đâu. Đáng lẽ tôi phải nói tôi chưa ngủ, nhưng tôi không dám. Người ta đã ra lệnh cho tôi ngủ, tôi không ngủ là có lỗi.
Má Bácbơranh hỏi: -Việc kiện tụng của ông đến đâu rồi? - Thua rồi! Quan tòa xử tôi bị nạn là lỗi tại tôi tự dưng đứng dưới giàn giáo, chủ thầu không phải đền đồng nào cả.
Đến đấy, ông ta đấm bàn đánh thình một cái rồi lầu bầu chửi rủa, không nói được một câu tử tế. Ngay sau đó, ông ta lại tiếp: -Thua kiện, tiền mất, tật mang, nghèo đói, thế đấy! Thế mà còn chưa đủ đâu! Bước chân về đến nhà lại còn thấy người ta cưu mang một
đứa trẻ. Má nó hãy nói rõ tôi nghe tại sao má nó không làm theo lời tôi dặn?
- Vì tôi không làm được!
- Không mang nó đi trại trẻ rơi nổi à?
- Một đứa bé nuôi bằng sữa mình và mình thương yêu thì sao đành lòng vứt bỏ đi như thế được?
- Có phải con đẻ của má nó đâu!
- Ấy, tôi cũng muốn làm theo lời ông bảo nhưng chính lúc đó nó lại ốm.
- Ốm à?
- Phải, nó ốm, mang nó đến trại trẻ rơi như thế là không phải lúc, phải không ông? Mang đến thì cũng bằng giết nó đi ấy. - Thế khi nó đã khỏi ốm rồi thì sao?
- Nào nó có khỏi ngay cho đâu! Hết trận ốm này lại đến trận ốm khác: nó ho, tội nghiệp thằng bé, nó ho nghe mà xót ruột. Ấy thằng Nicôla nhà ta mất đi cũng vì thế. Tôi cảm thấy đưa thằng này ra tỉnh thì nó cũng đến chết như thằng bé ấy thôi.
- Thế còn sau đó?
- Ngày tháng qua đi. Tôi đã cố công lần nữa đến lúc đó thì tôi tưởng tốn ít nữa chẳng sao.
- Hiện giờ nó bao nhiêu tuổi rồi?
- Lên tám.
- Thế thì năm nay lên tám, nó sẽ về cái chỗ mà đáng lẽ xưa kia nó phải về, và như thế nó lại càng cảm thấy khó chịu hơn. Ấy làm như bà ngày trước chỉ tổ hại nó thôi.
- Ôi, ông Giêrôm ơi, ông đừng làm thế!
- Đừng làm thế! Ai cấm đoán tôi? Má nó tưởng nhà ta giữ nó mãi được đấy à?
Một lúc im lặng, Từ nãy tôi xúc động quá, cứ thấy nghẹn tắc ở cổ, bây giờ mới thở được. Giây lát sau má Bácbơranh nói tiếp: - Chao ôi! Thành phố Pari đã làm cho tính tình ông thay đổi đi nhiều quá! Trước kia chưa lên Pari ông không ăn nói như thế.
- Cũng có lẽ. Có điều này chắc chắn: Pari có làm cho tôi đổi tính thì nó cũng làm cho tôi què quặt nữa. Bây giờ làm thế nào nuôi được miệng bà, miệng tôi? Hết sạch cả tiền! Con bò sữa bán mất
rồi. Mình đã chẳng có cái gì bỏ vào mồm, lại còn đi nuôi báo cô một thằng bé không phải là con mình nữa hay sao?
- Nó là con tôi!
- Chẳng phải là con bà mà cũng không phải là con tôi. Nó không phải cái hạng con nông dân. Trong lúc ăn tối tôi ngắm nó mãi: nó là một thằng bé ẻo lả, gầy còm, tay chân lẻo khẻo.
- Nó xinh nhất vùng đấy!
Tôi có nói chuyện xấu đẹp đâu! Xinh mà làm quái gì! Chỉ cần khỏe thôi! Người ta có bẻ cái xinh ra mà ăn đâu! Cứ nhìn đôi vai nó mà xem, có phải là con nhà lao động không? Nó là con nhà thành thị, ở đây chúng ta không cần cái ngữ ấy.
- Tôi cam đoan với ông nó là một đứa trẻ ngoan, nó tinh khôn như một con mèo, và lại tốt bụng nữa. Nó sẽ làm lụng cho mình. - Trong lúc chờ đợi nó làm cho mình thì mình hãy làm cho nó đã! Mà tôi thì tôi không làm được nữa.
- Thế đến khi bố mẹ nó đòi nó về thì ông nói sao?
- Bố mẹ nó à! Nó có bố mẹ không đã chứ? Nếu có thì từ tám năm nay, tất bố mẹ nó đã đi tìm nó và gặp nó rồi! Ôi chao! Tôi thật là ngu xuẩn, cứ tin chắc là nó có bố mẹ, một ngày kia bố mẹ nó sẽ đến xin nó và đền công bấy lâu mình nuôi nấng nó. Chẳng qua mình là một thằng ngây, một thằng ngốc. Đừng tưởng rằng tã nó sang, có viền ren, thì tất bố mẹ nó sẽ đi tìm nó… Có lẽ bố mẹ nó chết cả rồi cũng nên.
- Nếu bố mẹ nó chưa chết, và một ngày kia họ đến hỏi chúng ta thì thế nào? Tôi thì tôi tin chắc là họ sẽ đến.
- Đàn bà thật là khó nói, đã muốn cái gì thì cứ giữ khư khư! - Nhưng mà nếu họ đến thì thế nào cơ chứ?
- Thì mình bảo họ lại trại trẻ rơi mà hỏi. Thôi nói thế đủ rồi. Câu chuyện này làm tôi bực mình lắm. Ngày mai tôi sẽ dẫn nó đến ông xã trưởng. Bây giờ tôi lại thăm bác Phơrăngxoa một chút, chừng một tiếng tôi về.
Cánh cửa mở ra rồi đóng lại. Ông ta đi rồi. Tôi vùng dậy và gọi má Bácbơranh: -Ôi! Má ơi!
Má chạy đến bên giường tôi.
- Má không để con đi trại trẻ rơi, phải không hả má? - Không Rêmi của má ạ, không đâu!
Và má ôm chặt tôi vào lòng, hôn tôi âu yếm. Sự vuốt ve của má làm tôi hởi dạ, nước mắt ngừng chảy. Má dịu ngọt hỏi: -Thế con không ngủ à?
- Nào phải tại con!
- Má không mắng con đâu. Thế ông Giêrôm nói gì, con nghe hết cả chứ?
- Vâng, con nghe nói má không phải là mẹ đẻ của con, mà ông ấy cũng không phải là cha đẻ của con.
Tôi nói câu ấy với hai giọng khác nhau: tôi đau buồn nhận thấy má không phải là mẹ đẻ tôi, nhưng tôi lại thấy sung sướng, gần như tự hào vì ông ta không phải là cha tôi. Hai tình cảm trái ngược nhau bộc lộ qua giọng nói. Nhưng má Bácbơranh hình như không chú ý gì đến cái đó. Má nói: -Đáng lẽ ra má phải nói thật với con từ trước kia. Nhưng con ăn ở với má, con đẻ cũng không bằng, cho nên má không đành lòng bỗng dưng nói cho con biết má không phải là mẹ đẻ của con! Con ơi! Con đã nghe thấy đấy, không ai biết mẹ đẻ của con cả. Bà ấy còn sống hay đã chết rồi, nào ai hay? Vào một buổi sáng Pari, ông Giêrôm đi làm, qua một phố rộng rãi có trồng cây, phố Bơrơtơi, thì bỗng nghe có tiếng trẻ con khóc. Tiếng khóc hình như từ trong hốc cổng khu vườn vọng ra. Hôm đó vào tháng hai, lúc trời tang tảng sáng. Ông bèn đi lại gần cửa và trông thấy một đứa trẻ nhỏ nằm ở trên bục cửa. Ông nhìn ra chung quanh xem có ai không để gọi thì chợt thấy một người đàn ông ở đằng sau một gốc cây to chạy ra rồi biến mất. Chắc hẳn là người đó đã giấu đứa trẻ ở khung cửa và đứng rình xem có ai nhặt nó không. Thế là ông Giêrôm đâm ra lúng túng vì đứa nhỏ la hét ầm lên. Hình như nó hiểu là có người đến cứu nó, nên nó không muốn bỏ lỡ dịp này. Trong lúc ông Giêrôm còn chưa biết xử trí ra sao thì nhiều người thợ khác cũng vừa đến và mọi người bàn là phải đem đến trình ông cảnh sát trưởng. Thằng bé thì vẫn cứ la hét. Người ta tưởng nó rét. Nhưng khi vào phòng giấy của ông cảnh sát trưởng, phòng nóng ấm thế mà nó vẫn cứ kêu, thì người ta đoán là nó đói. Người ta chạy đi tìm một bà hàng xóm cho nó bú. Nó vồ ngay lấy vú. Quả là nó đang đói ngấu. Rồi người ta đem nó đến trước lò sưởi cởi áo nó ra. Nó là một đứa bé trai độ năm sáu tháng, nước da hồng, to béo, thật kháu khỉnh. Cứ nhìn những tã đùm bọc nó cũng đủ biết nó là con nhà
giàu. Chắc nó là một đứa trẻ người ta đánh cắp rồi đem vứt bỏ. Đó là lời giải thích của ông cảnh sát trưởng. Thế bây giờ đem nó đi đâu? Sau khi chép lời khai của ông Giêrôm và ghi vào giấy hình dạng đứa trẻ cùng với mấy cái tã không có dấu hiệu, ông cảnh sát trưởng tuyên bố sẽ đưa nó lại trại trẻ rơi, nếu trong số người có mặt không có ai nhận nó mang về nuôi. Đứa trẻ trông xinh xắn lành mạnh, chắc là bố mẹ nó sẽ tìm ra và sẽ trọng thưởng người nuôi nấng nó. Thế là ông Giêrôm tiến lên và nhận nuôi đứa trẻ và người ta giao nó cho ông ta. Hồi đó chính má cũng có một đứa con cùng lứa tuổi với nó. Đối với má thì nuôi cả hai đứa má cũng chẳng ngại! Do đó má đã trở thành mẹ của con vậy.
- Ôi má! Má ơi!
- Được ba tháng thì má bỏ mất đứa con của má, do đó má lại càng quý con hơn nữa. Má quên hẳn con không phải là con đẻ. Nhưng khốn thay, ông Giêrôm thì ông ấy lại không quên. Sau ba năm không thấy bố mẹ con đi tìm kiếm con – hoặc là có tìm mà không gặp – thì ông ấy định cho con vào trại trẻ rơi. Vừa rồi, con đã nghe rõ tại sao má không vâng theo lời ông ấy.
Tối bíu chặt lấy má, kêu lên: -Chao ôi! Con không đi trại đâu! Má Bácbơranh ơi, con van má, má đừng đưa con đi trại trẻ rơi. - Không đâu, con của má ạ, con không phải đi trại đâu. Má sẽ thu xếp xong. Ông Giêrôm không phải là người độc ác, để rồi xem. Chỉ vì buồn phiền, vì sợ lâm vào cảnh cùng quẫn nên ông ấy gắt gỏng. Ông ấy và má sẽ lo làm ăn và con cũng vậy.
- Vâng, muốn gì con cũng xin vâng, nhưng đừng có đi trại. - Con không phải đi trại, nhưng với điều kiện là con phải ngủ ngay đi. Không được để cho ông ấy khi về vẫn thấy con còn thức. Sau khi hôn tôi, má nâng đầu tôi lên, cho quay mặt vào tường. Tôi muốn ngủ ngay, nhưng lòng xao xuyến và xúc động quá, khó mà ngủ được. Vậy ra má Bácbơranh, má tốt với tôi thế, âu yếm tôi thế, mà lại không phải là mẹ thật của tôi! Thế thì một người mẹ thật sẽ như thế nào nhỉ? Ồ! Không, không thể có như thế được. Nhưng mà theo tôi hiểu và cảm thấy rõ ràng, thì một người cha đẻ tất không khắc nghiệt như ông Giêrôm và không đời nào lại giơ gậy lên và nhìn tôi bằng con mắt lạnh lùng như thế. Ông ta muốn đưa tôi vào
trại trẻ rơi, liệu má Bácbơranh có giữ nổi không? Trại trẻ rơi là cái gì?
Ở trong làng có hai đứa trẻ người ta thường gọi là “trẻ trại”. Mỗi đứa đeo ở cổ một cái thẻ bằng chì có khắc chữ số. Chúng nó dơ bẩn và ăn mặc lôi thôi. Người ta chế nhạo chúng, có khi đánh đập nữa. Những trẻ khác thường hay nghịch ác, đuổi chúng như đuổi chó chạy lạc để chơi, vì một con chó lạc thì không ai bênh vực. Chao ôi! Tôi không muốn như những đứa trẻ con ấy một tí nào cả. Tôi không muốn người ta đuổi theo tôi mà la ó: “Đi về trại đi! Đi về trại!”. Chỉ nghĩ đến bấy nhiêu thôi cũng đủ làm cho tôi lạnh toát cả người, hai hàm răng đập vào nhau lập cập.
Tôi vẫn chưa ngủ được. Mà ông Bácbơranh thì sắp về rồi. May thay ông ta không về sớm như ông ta đã báo trước và tôi đã ngủ thiếp đi trước khi ông ấy về.
3. GÁNH XIẾC CỦA ÔNG CỤ VITALI
Chắc chắn là suốt đêm tôi đã ngủ chập chờn trong nỗi ưu phiền và sợ hãi, cho nên sáng dậy, cử động đầu tiên của tôi là sờ cái giường và nhìn xung quanh để yên trí là người ta chưa đem tôi đi chỗ khác.
Suốt buổi sáng ông Bácbơranh không nói gì với tôi cả. Tôi những tưởng người ta đã bỏ cái dự định đem gửi tôi vào trại trẻ rơi rồi. Hẳn là má Bácbơranh đã khuyên nhủ ông ấy cho nên ông ấy giữ tôi lại. Nhưng khi nghe thấy tiếng đồng hồ báo mười hai giờ trưa, ông Bácbơranh bảo tôi đội mũ cát két đi theo ông ta. Sợ quá, tôi đưa mắt nhìn má Bácbơranh để cầu cứu, nhưng má kín đáo ra hiệu bảo tôi phải tuân theo. Đồng thời má khoa tay như để bảo tôi cứ yên lòng: không có việc gì đâu mà sợ hãi. Thế là không một lời cãi lại, tôi đi theo ông Bácbơranh.
Từ nhà chúng tôi đi tới xã, đường khá xa, đi phải mất ngót một tiếng đồng hồ. Trong lúc đi đường, ông Bácbơranh không nói với tôi nửa lời. Ông đi trước, chân bước nhè nhẹ, khập khà khập khiễng, đầu không nhúc nhích. Thỉnh thoảng ông quay cả người lại để xem tôi có đi theo ông không.
Không biết ông ấy định đưa mình đi đâu thế này?
Câu hỏi đó làm tôi lo ngại, mặc dù má Bácbơranh đã ra hiệu cho tôi vững dạ. Tôi có cảm giác sẽ có tai họa gì đến với tôi đây, nên tôi định trốn đi cho xong. Do đó, tôi cố đi chậm lại sau, định rằng khi đã cách xa ông ta khá xa tôi sẽ nhảy ngay vào cái hào bên đường. Hẳn ông ta khó lòng mà đuổi kịp.
Ban đầu ông ta chỉ bảo tôi theo sau gót ông thôi. Nhưng rồi chừng như đoán được ý định của tôi, ông nắm lấy cổ tay tôi kéo đi. Thế là đành phải tuân theo ông ta. Chúng tôi cứ thế đi trong làng. Đi đến đâu ai cũng ngoảnh cổ lại nhìn vì tôi có vẻ một con chó cắn càn bị người ta nắm xích lôi đi.
Khi chúng tôi đi qua quán cà phê, một người đứng ở bục cửa gọi ông Bácbơranh và mời ông ta vào. Ông ta kéo tay tôi, đẩy tôi vào trước, tự mình theo sau rồi đóng cửa lại. Trong lúc ông Bácbơranh
ngồi vào một cái bàn cùng với lão chủ quán đã mời ông ta, thì tôi đến bên gần lò sưởi, đưa mắt nhìn chung quanh.
Ở góc đối diện với góc tôi có một cụ già cao lớn, râu tóc bạc, mặc bộ quần áo kỳ quặc tôi chưa từng thấy bao giờ. Một chiếc mũ cao bằng dạ có cắm lông chim xanh đỏ chụp trên mớ tóc lòa xòa từng món dài phủ vai ông cụ. Một tấm áo da cừu bó chặt người ông cụ, mặt có lông quay vào trong. Tấm áo da đó không có ống tay. Nó chỉ có hai cái lỗ khoét trên vai, từ đó thò ra hai cánh tay mặc áo nhung, thứ nhung trước kia có lẽ màu xanh lơ. Chân ông cụ đi đôi ủng bằng len cao đến tận đầu gối; quanh ủng có những dây bàng đỏ quấn chéo chằng chịt.
Ông cụ ngồi duỗi dài trên ghế, cằm tì vào lòng bàn tay phải, một chân co lại, khuỷu tay đặt trên đầu gối. Tôi chưa bao giờ trông thấy một người có dáng ngồi bình tĩnh như thế. Ông cụ giống hệt một tượng thánh bằng gỗ ở nhà thờ làng.
Gần ông cụ có ba con chó rúc dưới ghế. Chúng mải mê sưởi lửa, không động đậy. Một con chó xù trắng, một con chó cụp tai lông đen, một con chó cái lông xám vẻ khôn ngoan và hiền lành. Con chó xù lông trắng đội một chiếc mũ lính cũ có dây da quàng xuống dưới cổ.
Trong lúc tôi đang tò mò và kinh sợ ngắm nhìn ông cụ thì ông Bácbơranh và lão chủ quán nói chuyện với nhau. Tôi nghe thấy họ nói chuyện về tôi. Ông Bácbơranh nói rằng ông đưa tôi tới xã để gặp ông xã trưởng can thiệp với trại trẻ rơi hàng tháng cấp cho ông ta một khoản tiền để nuôi tôi. Hóa ra má Bácbơranh đã nói cho ông ta chịu nhận cách giải quyết đó. Tôi hiểu ngay là nếu ông Bácbơranh thấy giữ tôi lại mà có lợi thì tôi chẳng có gì đáng lo ngại cả.
Cụ già vẫn theo dõi câu chuyện; tuy không có vẻ để ý. Bỗng ông cụ giơ tay về phía tôi và hỏi ông Bácbơranh với giọng lơ lớ của người ngoại quốc: -Ông lúng túng vì chú bé này đấy à? - Chính nó đấy!
- Thế ông tưởng rằng ban quản trị trại tế bần hàng tháng sẽ cấp cho ông một khoản tiền vú em để nuôi nó à.
- Hẳn chứ, nó không có bố mẹ mà tôi nuôi nó thì cũng phải có người bỏ tiền ra cho nó chứ! Tôi tưởng cái đó công bằng.
- Nào tôi có bảo là không đâu! Nhưng anh tưởng ở đời này cái gì công bằng thì đều thực hiện được cả hay sao?
- Ồ, cái đó tất nhiên là không rồi.
- Này, tôi chắc rằng chẳng bao giờ ông xin được tiều trợ cấp hàng tháng cho nó đâu!
- Thế thì vào trại trẻ rơi vậy, chẳng có luật pháp nào bắt buộc tôi phải nuôi nó ở nhà tôi, nếu tôi không muốn chứa nó. - Trước kia ông đã bằng lòng nhận nó đem về nhà nuôi, thế có nghĩa là ông đã cam kết giữ nó.
- Tôi sẽ không giữ nó nữa! Ví dù phải đuổi nó ra ngoài đường thì tôi cũng sẽ tống cổ nó ra, không ngần ngại!
Sau một lúc suy nghĩ, cụ già nói tiếp.
- Cũng có cách tống cổ nó ngay bây giờ được; hơn thế, tống đi mà còn kiếm được chút ít nữa kia!
- Nếu cụ bảo cho tôi cách ấy, tôi sẽ đãi cụ một chai rượu, đãi một cách vui lòng.
- Ông hãy gọi rượu đi rồi việc của ông xong ngay cho mà coi. - Chắc không?
- Chắc!
Ông cụ rời chiếc ghế, lại ngồi trước mặt ông Bácbơranh. Thật lạ lùng, tôi không hiểu tại sao khi ông cụ đứng dậy thì ở dưới tấm da cừu có một chỗ động đậy và nhô lên. Hình như ông cụ có kẹp một con chó ở dưới cánh tay trái thì phải.
Ông cụ sắp nói gì? Việc gì sắp xảy ra đây? Tôi nhìn theo ông cụ mà lòng thắt lại.
- Điều ông mong muốn là thằng bé này đừng có ăn bám vào ông nữa, hoặc giả nó cứ tiếp tục ăn thì phải có người chịu cho ông, có phải thế không?
- Đúng thế, bởi vì rằng…
- Ồ, lý do vì sao tôi không cần biết, cái đó không can gì đến tôi. Tôi chỉ cần biết ông không muốn nuôi nó nữa. Nếu quả như vậy thì ông cho quách tôi, tôi sẽ gánh vác đỡ ông.
- Cho cụ!
- Chà! chà! Thế không phải ông muốn tống cổ nó đi là gì? - Một đứa trẻ như thằng bé này mà đem cho đi à? Một thằng bé xinh xắn thế! Quả là nó xinh, cụ thử nhìn nó mà xem.
- Tôi đã nhìn nó rồi!
- Rêmi lại đây.
Tôi run lẩy bẩy đi lại gần bàn. Ông cụ nói: -Nào nào! Đừng sợ, cháu.
- Cụ nhìn nó xem, – ông Bácbơranh nói tiếp.
- Nào tôi có bảo nó là một thằng bé xấu xí đâu! Nếu thằng bé xấu xí, tôi đã chả thèm. Những của quái thai thì việc gì mà tôi chuốc lấy! - Ôi chao! Giá nó là một con quái hai đầu, hoặc chỉ là một thằng lùn thôi, thì…
- Thì ông đã chẳng nói đến chuyện cho nó vào trại! Chắc ông cũng thừa biết là một con quái lại rất có giá trị, vì người ta có thể dùng nó để kiếm tiền bằng cách cho thuê hoặc chính mình kinh doanh. Nhưng mà cái thằng bé này nó lại chẳng phải là một thằng lùn, mà cũng không phải là một con quái. Nó bình thường như mọi người khác, chẳng được tích sự gì!
- Được chứ, nó làm được!
- Trông nó yếu lắm.
- Nó mà yếu à? Thôi xin cụ! Nó khỏe như người lớn ấy, và rắn chắc, không có bệnh tật gì. Này cụ hãy thử nhìn bộ giò mà coi, cụ đã thấy bộ giò nào thẳng như thế chưa?
Ông Bácbơranh vén quần tôi lên. Ông già nói: -Mảnh khảnh quá! Ông Bácbơranh nói tiếp: -Lại còn tay nó!
- Tay nó cũng như chân thôi. Tàm tạm dùng được, nhưng mà chẳng chịu nổi mệt nhọc và nghèo khổ đâu!
- Nó mà không chịu đựng được à? Cụ cứ thử nắn đi xem nào! Ông cụ đưa bàn tay gầy guộc sờ nắn chân tôi, lắc đầu và bĩu môi. Tôi đã được chứng kiến một cảnh giống như thế khi lái đến mua con bò của chúng tôi. Lão lái cũng lắc đầu, cũng bĩu môi, chê con bò cái không tốt, không bán lại được. Thế nhưng rồi lão cũng mua và dắt bò đi. Ông cụ này có mua tôi không? Ôi má Bácbơranh ơi! Má Bácbơranh ơi!
Khốn thay, má không có ở đây để che chở cho tôi!
Nếu tôi không sợ thì tôi đã nói toạc ngay ra rằng vừa mới hôm qua ông Bácbơranh chê tôi là ẻo lả, chân tay gầy còm. Nhưng tôi biết rằng có ngắt lời ông ta cũng không đi đến đâu, mà chắc chắn là ăn đòn, nên tôi cứ ngồi im. Cụ già nói: -Nó là một đứa trẻ bình
thường như vô số đứa trẻ con khác, sự thực là thế. Nhưng mà nó là một đứa trẻ thành thị. Do đó mà về công việc đồng áng chắc chắn là nó không làm được gì đâu! Hãy thử để cho nó đánh bò cho người ta cày rồi xem nó làm như vậy được bao lâu!
- Mười năm!
- Chả được một tháng!
- Nhưng mà cụ hãy cứ nhìn nó xem đã!
- Ông cứ nhìn lấy!
Tôi đứng ở đầu bàn, giữa ông Bácbơranh và ông cụ già, hết bị ông này đẩy qua rồi bị ông kia xô lại.
- Thôi được! – Ông cụ nói – Mặc dầu nó thế nào tôi cũng cứ nhận. Nhưng mà tất nhiên tôi không mua nó đâu, tôi chỉ mướn nó thôi. Tôi trả ông hai mươi phờrăng một năm.
- Hai mươi phờrăng! Hừ!
- Thế là được giá đấy! Tôi lại trả tiền trước! Ông đã được bốn đồng bạc năm đồng, mà còn đẩy được thằng bé đi nữa. - Nhưng mà nếu tôi giữ nó lại thì trại trẻ rơi sẽ trả cho tôi mỗi tháng những trên mười phờrăng cơ!
- Ta hãy nói là bảy hoặc tám thì đúng hơn, tôi biết rõ giá cả mà! Bảy, tám đồng nhưng ông phải nuôi nó.
- Nó sẽ làm việc chứ!
- Nếu ông tin là nó làm lụng được thì ông đã chẳng muốn tống cổ nó đi. Người ta nhận trẻ con ở trại về nuôi không phải là để trông vào số tiền trợ cấp hàng tháng về nó, mà để nó làm cho mình. Người ta dùng nó làm đầy tớ, một thứ đầy tớ có trả tiền ăn cho mình mà mình khỏi phải trả công. Một lần nữa: có phải nếu thằng bé này nó giúp ích được gì cho ông thì ông đã giữ nó lại, phải không nào?
- Gì đi nữa tôi vẫn cứ được mười phờrăng…
- Nếu trái lại, trại trẻ rơi không giao nó cho ông mà giao cho người khác thì ông chẳng được hưởng xơ múi gì. Với tôi thì không có gì bấp bênh cả. Ông chỉ việc chìa tay ra là có tiền ngay.
Cụ già móc áo lấy ra một cái túi đựng bạc bằng da, moi bốn đồng xỉa lên bàn kêu loong coong. Ông Bácbơranh kêu to: -Cụ cứ tin rằng rồi tất có ngày thằng bé này tìm thấy bố mẹ nó.
- Cái đó ích gì?
- Sao lại không? Người nào nuôi nó sẽ có lợi chứ! Nếu tôi không tính toán về khoản đó thì tôi đã chẳng rước nó về làm gì. Câu nói của ông Bácbơranh “nếu tôi không tính toán về khoản đó thì tôi đã chẳng rước nó về làm gì” làm cho tôi ghét ông ta thêm chút nữa. Con người mới xấu xa làm sao! Cụ già nói: -Và bây giờ chính vì ông chẳng còn trông mong gì vào bố mẹ nó nữa cho nên ông mới đuổi cổ nó đi. Giả thử một ngày kia bố mẹ nó đến thì sẽ hỏi ai? Tất nhiên là hỏi ông thôi, chứ không hỏi tôi, vì họ có biết tôi đâu, có phải thế không ông?
- Thế còn nếu chính cụ tìm thấy bố mẹ nó?
- Vậy thì chúng ta hãy thỏa thuận với nhau thế này: nếu một ngày kia bố mẹ nó đến thì chúng ta sẽ chia nhau mối lợi. Đồng ý thế thì tôi đưa giá lên ba mươi phờrăng đấy!
- Hãy nâng lên bốn mươi đi!
- Không được. Cứ cái công việc nó sẽ làm cho tôi thì không thể tính giá ấy được.
- Thế cái công việc ấy là việc gì mới được chứ? Nói là chân phải khỏe thì đúng là chân nó khỏe. Nói là tay phải khỏe thì đúng là tay nó khỏe. Ý kiến tôi vẫn như cũ. Nhưng mà theo cụ, cụ cho rằng nó làm công việc gì thì thích hợp?
Ông cụ nhìn bố nuôi tôi một cách giễu cợt, nhấp từng ngụm nhỏ rượu, và nói: -Để nó cùng đi với tôi cho có bầu có bạn! Tôi già rồi. Đôi khi đêm đến, sau một ngày làm việc mệt mỏi, những hôm xấu trời, tôi thấy trong lòng buồn bã, thì nó sẽ giải muộn cho tôi.
- Ừ, ừ, dùng vào việc ấy thì chắc bộ giò nó không thừa ra đấy! - Chẳng khỏe lắm đâu, vì phải múa phải nhảy, phải đi, rồi sau khi đi lại phải nhảy nữa. Tóm lại là nó sẽ nhập vào gánh xiếc của cụ Vitali.
- Thế gánh xiếc của cụ Vitali đâu?
- Cụ Vitali là tôi đây, như ông đã đoán. Còn gánh xiếc ông muốn biết, tôi sẽ giới thiệu với ông.
Nói xong, ông cụ mở tấm da cừu lấy tay lôi ra một con vật kỳ lạ mà cụ đang kẹp dưới cánh tay trái.
À, thế ra chính con vật này đã mấy lần đội tấm da cừu lên! Có lúc tôi đã đoán dưới đó có một con chó con, nhưng con này không phải
là con chó như tôi đoán. Nó là con vật gì vậy? Mà có chắc nó là một con vật gì không chứ?
Mới trông thấy con vật kỳ quái ấy lần đầu, tôi kinh ngạc ngắm nó, không biết nó là con gì đây. Nó mặc một chiếc áo bờlu màu đỏ viền chỉ vàng óng ả, nhưng chân tay thì để trần. Phải, đúng là chân tay chứ không phải là cẳng đâu. Chỉ có cái là da chân và da tay đen chứ không trắng mà cũng không hồng.
Đầu nó cũng đen và to gần bằng nắm tay tôi. Mặt nó rộng và ngắn, mũi hếch, cánh mũi giạng ra, đôi môi vàng vàng. Nhưng mà cái làm tôi chú ý nhất là đôi mắt nó rất gần nhau, hết sức linh hoạt, lóng lánh như gương.
Ông Bácbơranh kêu: -Ôi! cái con khỉ gớm chết!
Câu nói đó làm cho tôi hết sức kinh ngạc. Tuy tôi chưa trông thấy giống khỉ bao giờ, nhưng mà ít ra tôi cũng đã nghe nói đến. Thì ra trước mắt tôi không phải là một đứa con nít da đen mà chỉ là một con khỉ. Cụ già Vitali nói: -Đây là kép nhất của gánh chúng tôi, Giôlicơ. Này anh bạn Giôlicơ, hãy chào khán giả đi.
Giôlicơ khép bàn tay đưa lên môi và gửi đến tất cả mọi người một cái hôn. Giơ tay về phía con chó xù trắng, ông cụ nói tiếp: -Bây giờ đến lượt các tài tử khác. Ngài Capi sẽ hân hạnh giới thiệu các bạn của ngài với chư vị khán giả có mặt ở đây.
Nghe lệnh đó, con chó xù trắng đang nằm yên không nhúc nhích bỗng vùng dậy, đứng thẳng mình lên trên hai chân sau, khoanh hai chân trước lên ngực rồi cúi rạp xuống chào chủ nó, cúi đến nỗi chiếc mũ lính của nó chấm sát đất. Làm xong nghi thức ấy, nó ngoảnh về phía các bạn nó, một chân vẫn tì lên ngực, chân kia thì ra hiệu cho chúng lại gần. Hai con chó kia từ nãy vẫn nhìn bạn chăm chú. Thấy hiệu lệnh, chúng ưỡn người đứng phắt lên và mỗi con chìa một chân cho nhau, y hệt như người ta cắp tay nhau ở xã hội thượng lưu. Chúng trịnh trọng cùng bước lên sáu bước rồi lùi lại ba bước và nghiêng mình chào mọi người. Cụ Vitali nói tiếp: -Anh này tôi gọi là Capi, tiếng Ý là Capitanô, là đầu lĩnh bọn chó. Anh ta thông minh nhất, có nhiệm vụ truyền lệnh của tôi xuống. Cậu công tử có bộ lông đen này là chàng Décbinô có nghĩa là gã điển trai; cái tên thật xứng với anh ta. Còn cái cô có vẻ thùy mị kia là tiểu thư Đônxơ, một cô Ănglê duyên dáng, mà cái tên có nghĩa là dịu dàng thì hợp với cô ta.
Với bọn đàn em tài hoa, mỗi người một vẻ đó, tôi đi chu du thiên hạ để sinh nhai. Sinh kế chúng tôi có lúc phất, có lúc eo, tùy vận đỏ đen. Capi!
Con chó xù trắng khoanh hai chân lại.
- Này Capi, anh bạn anh lại đây! Anh hãy ngoan ngoãn nhé! Đây là những người lịch sự, đối với họ tôi luôn luôn nói năng lễ độ. Anh có thấy chú bé đang nhìn anh với đôi mắt tròn xoe như hòn bi kia không? Anh hãy báo cáo cho chúng ta biết bây giờ là mấy giờ.
Con Capi bỏ chân xuống, lại gần chủ, vạch tấm áo da cừu ra, lục trong túi gilê. Nó rút ra một chiếc đồng hồ quả quýt to bằng bạc, nhìn mặt đồng hồ rồi sủa lên hai tiếng thật phân minh. Sau khi sủa hai tiếng to và rõ ấy, nó lại sủa ba tiếng nhỏ hơn. Đúng là hai giờ ba khắc[5].
- Tốt lắm! – Cụ Vitali nói. – Cám ơn anh Capi. Bây giờ phiền anh mời cô Đônxơ nhảy dây cho chúng tôi xem với nào.
Capi bèn lại túi áo chủ lấy ra một đoạn dây thừng. Nó ra hiệu cho con Décbinô. Con này chạy ngay lại đứng trước mặt nó. Capi tung cho bạn một đầu dây thừng và cả hai con nghiêm chỉnh quay chiếc thừng. Khi dây thừng quay đã đều rồi thì con Đônxơ lao mình vào nhảy, nó nhảy nhẹ nhàng, đôi mắt đẹp và âu yếm ngước nhìn chủ.
- Đấy, ông xem! – Cụ già nói. – Những đứa học trò của tôi đều thông minh cả. Nhưng mà phải có sự so sánh thì mới biết chúng thông minh đến chừng nào. Vì vậy tôi mượn thêm chú bé này vào gánh. Chú ta sẽ đóng một vai đần độn để cho người ta thưởng thức bội phần tài nghệ của bọn môn đồ của tôi!
- Ồ! Để đóng vai ngu xuẩn. – Ông Bácbơranh ngắt lời. - Thì cần phải có trí thông minh. – Ông già nói tiếp. – Và tôi chắc rằng chú bé này cũng thừa trí thông minh khi đã được học tập vài bài. Rồi chúng ta sẽ thấu rõ thôi. Ngay bây giờ cũng có thể xét nghiệm được. Nếu chú bé thông minh thì chú sẽ hiểu ngay rằng theo ông cụ Vitali chú sẽ có cái may mắn được chu du trên đất nước Pháp và trên mười nước khác nữa. Chú bé sẽ sống một cuộc đời tự do, chứ không phải lẽo đẽo sau đuôi bò, ngày nào cũng như ngày nào, từ sáng chí tối giẫm đi giẫm lại loanh quanh mỗi một cánh đồng. Nếu chú không thông minh thì chú sẽ kêu gào khóc lóc. Ông
già Vitali vốn không ưa những đứa trẻ hư nên ông sẽ không đem chú đi với ông nữa. Thế là đứa trẻ hư phải vào trại trẻ rơi, ở đó trẻ con phải làm việc nhiều, mà ăn thì chả được bao nhiêu.
Tôi cũng đủ sức thông minh để hiểu những lời nói ấy. Nhưng mà từ chỗ thấu hiểu cho đến chỗ làm được còn phải vượt qua một quãng đường dài lạ lùng. Bọn học trò của cụ Vitali ngộ nghĩnh và buồn cười đáo để. Rồi luôn luôn được đi dạo chơi cũng thích. Nhưng đi theo họ, dạo chơi với họ thì phải xa má Bácbơranh; hẳn là tôi phải vào trại trẻ rơi thôi.
Tôi đang bối rối, nước mắt lưng tròng thì ông cụ Vitali lấy đầu ngón tay vỗ khẽ lên má tôi, nói: -Này, chú bé hiểu rồi đấy vì chú không kêu la! Con người bé bỏng này rồi sẽ biết điều đấy và ngày mai…
Tôi kêu lên: -Chao ôi! Thưa ông, cháu van ông, xin ông hãy để cháu ở lại với má Bácbơranh.
Tôi vừa nói tới đó thì một tiếng sủa lớn của con Capi ngắt lời tôi. Cùng lúc ấy nó nhảy xổ lại bàn Giôlicơ ngồi. Thì ra chú khỉ đã thừa lúc mọi người quay về phía tôi để nhẹ nhàng vớ lấy cái cốc rượu đầy của chủ mà uống, Nhưng con Capi vốn luôn luôn có ý thức phòng gian, nó đế ý thấy trò bợm của chú khỉ. Thế là nó ngăn chặn ngay vì nó là một đầy tớ trung thành.
Với giọng nghiêm khắc, ông cụ Vitali nói: -Ông Giôlicơ ạ, ông là một tên tham ăn và là một thằng ăn cắp. Mời ông ra chỗ xó kia, đứng quay mặt vào tường. Anh Décbinô, anh hãy đứng canh nó, hễ nó động đậy thì cho nó một cái tát nên thân. Còn anh Capi anh là một con chó khôn đấy, anh hãy đưa chân ra cho tôi bắt mừng anh nào.
Trong lúc con khỉ vừa thi hành lệnh phạt vừa kêu lí nhí trong cổ thì con chó sung sướng và kiêu hãnh giơ chân ra cho chủ bắt. Ông cụ Vitali nói tiếp: -Bây giờ chúng ta trở lại câu chuyện của chúng ta đi. Tôi trả ông ba mươi phờrăng đấy!
- Không, bốn mươi mới được!
Cuộc mặc cả diễn ra, nhưng được một lát thì cụ già ngừng lại nói: -Chú bé đứng đây mãi chắc cũng buồn. Cho chú chạy ra ngoài sân chơi đi.
Cụ vừa nói vừa ra hiệu cho ông Bácbơranh. Ông này bèn bảo tôi: -Phải đấy, thằng này ra sân chơi đi, khi nào tao gọi hãy vào. Đừng vào trước mà tao nổi nóng lên đấy.
Chỉ có cách nghe theo thôi. Tôi đi ra ngoài sân nhưng chẳng còn bụng dạ nào mà chơi đùa được. Tôi ngồi xuống hòn đá và trầm ngâm nghĩ ngợi. Số phận tôi đang được định đoạt trong giờ phút này. Chẳng biết nó ra sao. Vừa rét lại vừa hồi hộp lo âu nên người tôi run cầm cập.
Cụ Vitali và ông Bácbơranh bàn cãi với nhau khá lâu. Mãi hơn một tiếng đồng hồ sau vẫn chưa thấy ông này ra sân. Nhưng rồi ông Bácbơranh cũng đi ra. Ông đi có một mình. Ông ấy tìm tôi để trao cho cụ Vitali chăng? Ông ta nói: -Ta đi thôi. Về nhà! Về nhà! Tôi khỏi phải xa lìa má Bácbơranh ư? Tôi muốn hỏi ông ta nhưng không dám, vì ông ta có vẻ cáu kỉnh lắm. Trên đường về nhà chẳng ai nói gì cả. Nhưng độ mười phút trước khi đến nhà, ông Bácbơranh đang đi trước bỗng dừng lại. Ông ta xách tai tôi và nói: - Này thằng kia, dù mày chỉ kể lại một câu về những điều mày nghe thấy hôm nay thì mày cũng sẽ biết tay tao. Liệu hồn đấy.
4. NHÀ MẸ
Chúng tôi về đến nhà thì má Bácbơranh hỏi: -Nào! Ông xã trưởng nói thế nào?
- Tôi không gặp ông ấy.
- Thế nào? Ông không gặp ông ấy à?
- Không. Tôi gặp mấy ông bạn già ở quán cà phê Đức Bà, khi ra thì muộn quá. Ngày mai tôi sẽ đến tòa xã trưởng.
Như thế hẳn là ông Bácbơranh đã dứt khoát cắt đứt việc mua bán với ông cụ làm xiếc chó rồi.
Trên đường về tôi lởn vởn nghĩ ông Bácbơranh mà dắt tôi trở về nhà như thế này là có âm mưu gì đây. Nhưng câu trả lời cuối cùng của ông Bácbơranh với má tôi đã đánh tan mọi ngờ vực. Dĩ nhiên là ông Bácbơranh đã từ chối những điều kiện của ông cụ Vitali cho nên mới định đến gặp xã trưởng vào ngày hôm sau chứ!
Tuy thế, mặc những lời ông ta đe dọa, tôi cũng đã nói điều nghi ngờ của tôi với má nếu có được giây lát ngồi một mình vời má. Nhưng suốt buổi tối, ông Bácbơranh không ra khỏi nhà, và cho đến lúc đi ngủ, tôi vẫn không có dịp nói chuyện với má. Lên giường nằm tôi tự nhủ đến mai vậy.
Hôm sau, thức dậy, tôi không tìm thấy má Bácbơranh: -Má con đâu?
- Má mày xuống làng trưa mới về.
- Không hiểu sao sự vắng mặt của má khiến tôi đâm lo ngại. Tối hôm qua má không hề nói má xuống làng kia mà! Quá trưa chúng tôi cũng xuống làng, cớ sao má không đợi để cùng đi một thể? Má có về kịp trước khi chúng tôi ra đi hay không?
Lòng tôi se lại vì một nỗi lo mơ hồ. Sợ gì tôi không biết rõ, nhưng tôi cảm thấy có một mối nguy hiểm sắp xảy đến với tôi. Ông Bácbơranh nhìn tôi một cách kỳ quái, cái nhìn đó làm tôi chả yên tâm tí nào.
Tôi chạy ra vườn để tránh con mắt ông ta.
Cái vườn không lớn lắm, nhưng đối với chúng tôi rất quý, vì nó nuôi sống chúng tôi. Trừ bột mì không kể, còn thì những thức ăn
trong nhà này hầu hết do nó cung cấp: khoai, đậu, bắp cải, cả cải, cà rốt. Vì vậy không có tấc đất nào bỏ trống. Tuy thế má Bácbơranh cũng cho tôi một góc để tôi trồng đủ thứ cây, cỏ, rêu. Hễ cứ buổi sáng đi chăn bò, tôi nhặt được thứ gì ở biên rừng hay chân rào là buổi chiều tôi trồng lại trong góc vườn, lẫn lộn, hú họa, thứ nọ cạnh thứ kia.
Chắc chắn đây không phải là một khu vườn đẹp đẽ, có những con đường rải cát và những bồn hoa giăng dây trồng toàn hoa quý. Khách qua đường không nghển cổ nhòm vào qua cái hàng rào gai tươi xén bằng kéo. Nó chỉ có vậy thôi, nhưng được cái nó là của tôi, nó đáng yêu cũng chỉ vì nó là của tôi. Nó là của cải, là giang sơn, là sự nghiệp của tôi. Tôi xếp đặt nó tùy ý tôi, tùy thích thú mỗi lúc. Khi nói về nó, mỗi ngày tôi nhắc tới nó dễ đến vài mươi lần, tôi gọi nó là “cái vườn của tôi”.
Tôi thu thập và trồng những cây cỏ ấy mùa hè trước, thế thì đến mùa xuân nó phải mọc lên. Những giống sớm không cần đợi đến hết đông đã mọc, còn các giống khác thì lần lượt nối tiếp nhau. Chính vì vậy mà lúc bấy giờ, tính tò mò của tôi được kích thích tột độ.
Các cây trường thọ bây giờ đã ra nụ, mỗi nụ nhú lên một chấm vàng ở bên trên. Cây tử đinh hương đâm những chồi lốm đốm tím và giữa mấy lá anh thảo nhăn nhíu, trồi lên những lộc sẵn sàng nở xòe ra.
Các thứ này sẽ ra hoa như thế nào đây? Đó là điều mà ngày ngày tôi tọc mạch chờ xem.
Nhưng có một nơi khác trong mảnh vườn, tôi theo dõi một cách hồi hộp chứ không phải chỉ tò mò.
Ở khoảng ấy, tôi trồng một thứ rau củ người ta cho tôi, một thứ rau củ mà hầu như cả làng không ai biết. Đó là củ cúc vu. Người ta bảo củ cúc vu ngon hơn củ khoai tây nhiều vì nó có cái vị của áctisô, vừa có cái vị của củ cải, và nhiều thứ rau củ khác nữa. Những điều báo trước tốt đẹp kia gợi cho tôi ý định dành một sự bất ngờ cho má Bácbơranh. Tôi không nói gì với má về giống cây người ta cho, tôi cứ việc trồng các củ ấy trong vườn tôi. Khi nó mọc lên, tôi cứ để cho má tưởng rằng đó là một loại hoa. Rồi một ngày nào đó, khi cúc vu đã già, tôi lợi dụng một buổi vắng mặt của má để bới củ, rồi tự tay
tôi nấu nướng. Nấu thế nào đây, tôi không biết! Nhưng trí tưởng tượng của con người ta khi bốc lên có đâu vướng vấp về một chi tiết nhỏ mọn như thế! Và khi má về ăn tối, tôi dọn cái món của tôi ra. Ai ngạc nhiên đây? Má Bácbơranh.
Ai lấy làm thú vị đây? Cũng là má.
Bởi vì má con tôi đã có một món ăn mới thay thế cho món khoai tây trường kỳ và má Bácbơranh cũng không thấy khổ sở lắm nữa vì nỗi đã bán con bò Rútxét tội nghiệp. Cái người phát minh ra món ăn mới đó là tôi, phải chính tôi: Rêmi, như vậy tôi là người có ích trong gia đình.
Biết tôi có cái chương trình ấy, tất hiểu vì sao tôi chăm chú mong đợi những củ cúc vu mọc lên đến thế! Ngày nào tôi cũng ra nhìn khoảnh đất trồng cúc vu. Sốt ruột quá, tôi cứ nghĩ rằng không đời nào kiếp nào các củ ấy mọc mầm cả.
Tôi đang quì gối, chống tay xuống đất, gí mũi nhìn trong đám cúc vu thì bỗng nghe có tiếng ai gọi tôi giật giọng. Đó là tiếng ông Bácbơranh.
Ông ta muốn gì đây?
Tôi vội vã trở vào nhà. Tôi rất đỗi ngạc nhiên khi nhìn thấy ông cụ Vitali và bầy chó của ông cụ đứng trước lò sưởi! Tôi đoán được ngay ông Bácbơranh gọi tôi làm gì. Ông cụ Vitali đến để đem tôi đi. Không để cho má nuôi tôi bênh vực tôi, sáng nay lão Bácbơranh đã bảo má đi sang bên làng. Tôi cảm thấy không thể trông mong lão Bácbơranh kia đoái hoài thương xót. Tôi chạy đến ông già Vitali: -Ôi! Cụ ơi! Cháu van cụ! Xin cụ đừng đem cháu đi.
Thế rồi tôi khóc oà. Ông cụ dịu giọng trả lời: -Này cháu ơi! Cháu đi với ông sẽ không khổ đâu. Ông không đánh đập trẻ con bao giờ cả! Cháu lại được làm bạn với lũ học trò của ông nữa. Chúng nó ngộ lắm kia. Cháu còn luyến tiếc cái gì?
- Má Bácbơranh! Má Bácbơranh!
- Dù sao mày cũng không được ở lại đây nữa mà! – Lão Bácbơranh vừa nói vừa kéo mạnh tai tôi – Hoặc là ông cụ đây, hoặc là trại trẻ rơi, mày chọn đi.
- Không, má Bácbơranh kia!
Lão Bácbơranh nổi cơn thịnh nộ, thét: -À, cái quân này, mày làm rầy tao quá! Phải đến lấy gậy mà đuổi mày ra khỏi nhà chắc? Tao
làm ngay tức khắc đây!
Ông Vitali nói: -Thằng bé này nó quyến luyến má Bácbơranh của nó. Không nên vì thế mà đánh nó. Nó có tình có nghĩa, đó là dấu hiệu tốt.
- Nếu cụ tỏ ý thương hại nó, thì nó gào lên cho mà xem! - Thôi, ta tính toán đi!
Nói xong ông già Vitali xỉa lên trên bàn tám đồng năm phờrăng. Lão Bácbơranh vội vã vơ lấy chỗ tiền, cất biến vào trong túi. Cụ Vitali hỏi: -Thế gói quần áo đâu?
- Đây kia. – Lão Bácbơranh đáp và trỏ một chiếc khăn tay băng vải xanh buộc túm bốn góc.
Cụ Vitali cởi nút khăn ra để xem có những gì. Chỉ có hai chiếc sơ mi và một cái quần vải.
- Theo chúng ta giao hẹn với nhau thì không phải như thế này! Chúng ta đã nói rằng ông phải trao quần áo nó cho tôi mà ở đây tôi chỉ thấy mấy thứ rách mướp này thôi!
- Nó không còn thứ gì khác cả.
- Nếu tôi hỏi thằng bé thì chắc nó sẽ bảo ông nói không đúng. Nhưng thôi, tôi cũng chẳng muốn cãi vã với ông làm gì. Tôi không có thì giờ. Tôi phải đi ngay bây giờ. Thôi ta đi đi, cháu ơi. Tên nó là gì nhỉ?
- Rêmi.
- Nào, Rêmi, cầm lấy khăn gói và đi lên trước đi, còn Capi nào, tiến lên! Tiến!
Tôi giơ hai tay về phía ông cụ, tôi lao về phía lão Bácbơranh để van xin, nhưng mà cả hai người đều ngoảnh mặt. Cụ Vitali nắm cổ tay tôi.
Đành phải đi thôi.
Chao ôi! Cái nhà thân yêu của ta ơi! Khi ta bước chân qua ngưỡng cửa để xa mày, ta thấy hình như rứt ruột để lại. Tôi nhìn nhanh quanh tôi. Đôi mắt mờ lệ của tôi chẳng trông thấy ai hòng cầu cứu. Không một bóng người trên đường cái, không một bóng người trên những cánh đồng cỏ xung quanh. Tôi bèn gọi: -Má ơi! Má Bácbơranh ơi!
Nhưng không ai đáp lại tiếng gọi của tôi cả, nó vang lên rồi tự tắt dần trong tiếng nức nở. Cụ Vitali vẫn không buông tay tôi ra, tôi
đành phải bước theo ông cụ. Lão Bácbơranh nói: -Chúc cụ đi đường mạnh giỏi!
Xong lão quay gót vào nhà.
Ôi thôi, thế là xong!
- Này, Rêmi, con ơi, chúng ta đi lên đi nào!
Cụ Vitali vừa nói vừa kéo cánh tay tôi. Tôi bước đi bên cụ. Cũng may mà cụ không rảo bước đi nhanh, trái lại hình như ông cụ còn đi chậm lại theo nhịp bước của tôi.
Con đường chúng tôi đi là con đường dốc chữ chi dọc theo sườn núi. Cứ đến mỗi chỗ ngoặt, tôi lại nhìn thấy ngôi nhà của má Bácbơranh bé dần, bé dần đi. Tôi đã đi con đường này nhiều lần rồi. Tôi biết rằng khi đến chỗ ngoặt cuối cùng tôi sẽ trông thấy ngôi nhà một lần chót, rồi đi vài bước nữa thì chẳng còn trông thấy gì. Trước mắt tôi sẽ là quê xa xứ lạ. Đằng sau tôi là ngôi nhà mà tôi đã sống thật sung sướng từ bé tới nay và có lẽ rồi đây không bao giờ tôi thấy lại nữa.
Cũng may là đường dốc khá dài. Thế nhưng cứ đi mãi chúng tôi cũng lên tới đỉnh cao. Ông cụ Vitali vẫn không buông cổ tay tôi ra. - Cụ có thể cho cháu nghỉ chân một lát không? – tôi hỏi. - Được lắm, con ạ!
Lần đầu tiên ông buông tay ra nhưng đồng thời đưa mắt nhìn con Capi ra hiệu cho nó. Nó hiểu ý ngay. Như một con chó chăn cừu, nó đang đi đầu đoàn tức khắc chạy lại đứng sau tôi. Cách sắp xếp đó làm cho tôi càng hiểu rõ ám hiệu khi nãy: con Capi là người canh giữ tôi đây! Nếu tôi rục rịch chạy trốn nó sẽ nhảy xổ vào cắn chân lôi lại.
Tôi lại ngồi trên lũy cỏ xanh rì. Con Capi theo tôi từng bước. Ngồi trên lũy, tôi đưa mắt mờ lệ tìm kiếm ngôi nhà của má Bácbơranh. Dưới chân chúng tôi, cái thung lũng chúng tôi vừa trèo qua thoai thoải, chặng này là rừng, chặng kia là đồng cỏ. Đến dưới cùng, cái nơi tôi sống tuổi thơ và lớn lên, cái ngôi nhà lẻ loi cô quạnh của má tôi hiện ra.
Ngôi nhà rất dễ nhận thấy giữa đám cây cối, nhất là giờ đây vì không có gió, một cột khói nhỏ vàng vàng từ ống khói tuôn lên thẳng tắp, lên đến ngang tầm cao của chóp núi chúng tôi ngồi nghỉ. Tôi ngửi thấy mùi thơm của lá sồi khô khi bốc cháy, những chiếc lá còn
dính quanh mấy cành củi vụn mà má con chúng tôi lượm để sưởi trong suốt mùa đông.
Là thực hay là ảo tưởng đây? Có phải ngọn khói kia đã đưa mùi thơm ấy lên cho tôi không? Tôi tưởng như đang ngồi bên bếp, trên chiếc ghế dài nhỏ, chân dẫm lên tro, những lúc có cơn gió lùa vào lò sưởi, làm tạt khói vào mặt chúng tôi.
Mặc dù ở xa và cao, tôi thấy mọi vật vẫn giữ nguyên hình dạng của nó, rõ ràng, minh bạch, chỉ có cái là thu nhỏ lại thôi. Trên đống phân bón, con gà mái cuối cùng của má con chúng tôi đi lại tung tăng đây đó. Nhưng nó không có cái vóc bình thường của nó nữa. Nếu tôi không biết nó quá rõ, thì tôi đã nhầm là một con bồ câu con. Tôi trông thấy rõ cây lê ở đầu hồi, với thân cây cong cong đã bao nhiêu năm tôi dùng làm ngựa cưỡi. Bên cạnh con suối đương vạch một vệt trắng trên đám cỏ xanh, tôi nửa nhìn thấy nửa đoán ra con mương dẫn nước mà tôi đã hì hục đào để chạy chiếc bánh xe nước tự tay tôi làm ra. Than ôi! Cái bánh xe ấy chẳng bao giờ quay được, mặc dầu tôi bỏ vào đó bao nhiêu công sức! Mọi vật vẫn ở nguyên chỗ thường ngày. Kìa chiếc xe cút kít, kìa cái cày làm bằng một cành cây vẹo, kìa cái chuồng tôi nuôi thỏ khi nhà còn thỏ và kia là vườn tôi, cái vườn thân yêu của tôi! Những bông hoa đáng thương của tôi, ai sẽ ngắm nhìn nó nỏ. Ai sẽ chăm sóc những cây cúc vu của tôi? Chắc là lão Bácbơranh, cái lão Bácbơranh độc ác ấy!
Chỉ giơ chân đi một bước nữa thôi là tất cả mọi thứ đó sẽ vĩnh viễn tan biến.
Bỗng nhiên trên con đường từ dưới làng đi lên nhà tôi, xa xa tôi trông thấy một cái khăn trùm đầu trắng. Cái khăn khuất sau một khóm cây thoắt lại hiện ra. Khoảng cách quá xa, nên tôi chỉ nhận thấy màu trắng của cái khăn chập chờn như một con bươm bướm xuân cánh nhạt đang bay lượn giữa những cành cây.
Có những lúc trái tim tôi thấy rõ hơn và xa hơn những con mắt tinh anh nhất: tôi nhận ra ngay đó là má Bácbơranh. Đúng là má! Tôi tin chắc là như vậy. Tôi tin chắc là như vậy. Tôi cảm thấy như vậy. - Thế nào? cụ Vitali hỏi – Chúng ta lên đường chứ?
- Ôi cụ ơi, cháu xin cụ…
- Thế ra họ nói sai à? Chân cháu chẳng khỏe tí nào, mới đi được một quãng ngắn mà đã mỏi rồi. Đi như thế thì một ngày đường có được là bao!
Tôi không trả lời, chỉ nhìn ra xa.
Đúng là má Bácbơranh rồi, đúng là cái khăn trùm của má, đúng là cái váy xanh của má. Đúng là má rồi.
Má bước những bước dài như hối hả muốn về nhà cho chóng. Đi tới trước tấm cửa ngõ, má đẩy cửa băng qua sân thật nhanh. Tức khắc tôi vùng đứng lên trên bờ lũy, không nghĩ gì đến con Capi nhảy chồm chồm bên tôi.
Má Bácbơranh vào nhà không lâu lại ra ngay và chạy khắp chỗ trong sân, hai tay dang rộng ra. Má đang tìm tôi.
Tôi chồm người ra phía trước, dùng hết sức hét to lên: -Má ơi, má ơi!
Nhưng tiếng tôi không bay xuống tới chỗ má, cũng không thể át tiếng rì rầm của con suối. Nó bay mất trong khoảng không. Cụ Vitali hỏi: -Cháu làm sao thế? Cháu điên à?
Tôi không trả lời, mắt chỉ đăm đăm nhìn xuống má Bácbơranh. Nhưng má không biết rằng tôi ở gần má đến thế nên má đâu có ngẩng đầu lên. Má đi qua sân rồi lại đi ra ngoài đường nhìn khắp mọi phía. Tôi gọi to lần nữa, nhưng cũng như lần trước, vô ích thôi!
Bấy giờ cụ Vitali đã hơi đoán biết. Cụ trèo lên bờ lũy. Chỉ trong giây lát cụ đã nhìn thấy chiếc khăn trùm đầu trắng. Cụ khẽ than: -Tội nghiệp thằng bé!
Nghe tiếng kêu thương hại ấy, tôi được thể, van xin: -Chao ôi! Cháu van cụ, cụ cho cháu trở về.
Nhưng ông cụ nắm cổ tay tôi dắt xuống đường. Cụ nói: -Cháu ơi, cháu đã nghỉ ngơi rồi, bây giờ chúng ta đi thôi!
Tôi muốn giằng ra nhưng ông cụ giữ tôi rất chặt. Ông gọi: -Capi! Décbinô!
Hai con chó liền vây quanh tôi: con Capi đi sau, con Décbinô đi trước. Đành phải đi theo ông cụ Vita li vậy.
Đi được ít bước, tôi ngoảnh đầu lại.
Đoàn chúng tôi đã vượt qua đỉnh núi và tôi không nhìn thấy thung lũng xưa, ngôi nhà cũ của tôi đâu nữa. Tít tận đằng xa chỉ
thấy những ngọn đồi xanh xanh dàn ra tăm tắp như muốn lên tận chân mây, tầm mắt tôi mất hút đi trong khoảng không gian vô tận.
5. LÊN ĐƯỜNG
Cái người bỏ ra bốn chục phờrăng để mua trẻ con cũng không nhất thiết phải là một con yêu tinh dự trữ thịt tươi để ăn dần. Ông cụ Vitali không định ăn thịt tôi, và cái này hiếm có đối với người mua trẻ, là ông cụ không ác. Điều này tôi sắp được biết.
Chỗ ông cụ lại cầm tay tôi dắt đi là chỗ đỉnh núi phân cách lưu vực sông Loa và sông Đoócđônhơ. Cũng ngay khi ấy chúng tôi bắt đầu đi xuống triền núi phương Nam.
Đi được chừng mười năm phút, ông cụ lại bỏ tay tôi ra. Ông cụ nói: -Bây giờ cháu cứ việc đi thong thả bên ông. Nhưng mà cháu đừng có quên rằng nếu cháu định chạy trốn thì con Capi và con Décbinô sẽ đuổi kịp cháu ngay và răng chúng nó nhọn lắm đấy.
Chạy trốn thì bây giờ không thể được nữa rồi, do đó có mưu toan cũng vô ích.
Tôi thở dài.
- Cháu buồn lòng lắm đấy nhỉ? – Ông cụ nói tiếp – Ông biết lắm và không giận cháu đâu! Nếu cháu muốn khóc thì tùy ý, cháu cứ việc khóc đi. Nhưng mà cháu nên biết rằng ông mang cháu đi không phải để làm khổ cháu đâu! Cứ ở đấy thì rồi cháu sẽ ra như thế nào nhỉ? Chắc chắn là cháu phải vào trại trẻ rơi. Những người đã nuôi cháu không phải là bố mẹ đẻ của cháu. Má cháu, như cháu gọi, thật là tốt đối với cháu và cháu thương yêu má cháu, cháu đau lòng vì phải xa má cháu, đó là điều tốt. Tuy vậy, cháu cũng cần phải suy nghĩ lại, má cháu không thể giữ cháu trái ý với chồng được. Còn người chồng bà thì ông ta không đến nỗi khắc nghiệt như cháu tưởng đâu! Ông ta không có gì để mà sống. Què quặt, không lao động được nữa, không lẽ người ta chịu chết đói để nuôi cháu. Cháu ơi, giờ đây cháu nên hiểu rằng trên đời này không phải là cứ muốn gì thì làm được nấy đâu!
Hẳn đó là những lời nói của một người sáng suốt, hay ít ra cũng là lời của một người từng trải. Nhưng mà nỗi niềm ly biệt đau đớn trong lòng tôi lúc ấy làm cho tôi không thể nghe lọt những lời hay, lẽ phải.
Tôi sẽ không bao giờ gặp lại người đã nuôi dưỡng tôi, đã âu yếm tôi, người mà tôi thương yêu nhất đời là má tôi.
Ý nghĩ ấy cứ nghẹn ở cổ tôi làm tôi nghẹt thở. Tuy nhiên tôi vẫn đi gần cụ Vitali và cố sức đem những điều cụ vừa nói để tự bảo mình.
Cụ Vitali nói chắc là đúng, ông Bácbơranh không phải là bố đẻ ra tôi, không lý do gì bắt buộc ông phải chịu đói khổ vì tôi. Trước kia ông đã nhận tôi về để nuôi. Bây giờ ông ta phải đuổi tôi đi là vì ông không thể giữ tôi lại được nữa. Nghĩ tới ông ta, tôi không nên nghĩ đến cái ngày hôm nay, mà phải nhớ lại những năm tôi đã sống ở nhà ông ta kia!
Chốc chốc cụ Vitali lại nhắc: -Cháu ơi, cháu hãy suy nghĩ về những điều ông nói với cháu! Ở với ông, cháu sẽ không khổ sở đâu! Xuống khỏi một cái dốc, chúng tôi tới một cánh đồng hoang phẳng lì, buồn tẻ, rộng mênh mông. Không có nhà cửa, không có cây cối. Một cao nguyên mọc đầy thạch thảo hung hung và đó đây từng đám kim tước chi cằn cỗi chập chờn trước gió như sóng gợn. Cụ Vitali đưa tay trên bãi đồng hoang, bảo tôi: -Cháu nom đấy, có định trốn cũng vô ích thôi! Con Capi và con Décbinô sẽ bắt được cháu ngay!
Chạy trốn! Tôi không nghĩ tôi việc trốn nữa. Trốn ở đâu bây giờ kia chứ? Trốn rồi về nhà ai?
Suy cho cùng thì cái ông già râu tóc bạc phơ, cao lớn và đẹp lão ấy không đến nỗi dễ sợ lắm, như tôi nghĩ trước đây. Nếu ông ta làm chủ tôi thì có lẽ cũng không phải là một ông chủ tàn ác.
Chúng tôi đi mải miết giữa nhiều cảnh quạnh hiu buồn rứt. Hết các bãi hoang lại đến những cánh đồng cây lúp xúp. Phóng tầm con mắt nhìn tận xa tít, tôi chỉ thấy mấy ngọn đồi trọc chóp tròn. Trước kia tôi hình dung các cuộc hành trình khác hẳn. Mỗi khi tôi để cho tâm hồn ngao du trên cảnh mộng, vượt khỏi cổng làng, thì tức khắc nó đi đến những xứ sở hoàn toàn khác lạ với cảnh thực bày ra trước mắt tôi hôm nay.
Lần này là lần đầu tiên tôi đi một đoạn đường dài đến như vậy một mạch, không nghỉ. Bước chân của cụ chủ tôi dài và đều đặn. Cụ để con Giôlicơ trên vai, cũng có khi cho ngồi trên xắc. Mấy con chó chạy lon ton bên cạnh không rời cụ.
Thỉnh thoảng cụ Vitali nói với chúng tôi vài lời âu yếm, khi thì bằng tiếng Pháp, khi thì bằng một thứ tiếng gì tôi không hiểu. Ông cụ và bầy chó không có vẻ gì mệt mỏi. Tôi thì không thể. Tôi mệt lả đi rồi. Sự mệt mỏi của cơ thể thêm vào sự xúc động về tinh thần làm cho tôi kiệt sức.
Tôi kéo lê chân và phải vất vả mới theo kịp chủ tôi. Tuy thế tôi cũng không dám xin phép dừng lại.
- Tại đôi guốc của cháu nó làm cháu mỏi đấy! – Cụ nói. – Đến Útxen ông sẽ mua giày cho.
Câu nói đó làm cho tôi gắng sức lên.
Thật vậy, xưa nay tôi vẫn khao khát có một đôi giày. Con ông xã trưởng và con ông chủ quán mới có giày. Ngày chủ nhật, đi lễ, chúng nó lướt êm ru trên nền gạch nhậy âm vang, còn bọn con nông dân chúng tôi thì khua guốc đinh tai nhức óc.
- Útxen còn xa lắm phải không cụ?
- Đó là một câu từ đáy lòng phát ra. – Ông cụ già vừa cười, vừa nói. – Thế là cháu rất thích có một đôi giày phải không? Được rồi, ông hứa sẽ cho cháu một đôi, một đôi dưới đế còn đóng đanh nữa cơ! Và ông còn hứa cho cháu một cái quần nhung, một cái áo vét và một cái mũ nữa. Cái đó chắc sẽ làm cho cháu ráo nước mắt, ông mong thế, và cháu sẽ khỏe ra để đi nốt sáu dặm đường nữa.
Giày dưới đế có đóng đanh! Tôi thấy choáng lên. Được một đôi giày đã là phi thường. Khi thấy nói đế có đóng đanh thì nỗi phiền muộn của tôi bỗng chốc tiêu tan đi mất.
Không, chắc chắn chủ tôi không phải là một người độc ác. Một người độc ác có thể nào mà nhận thấy đôi guốc làm cho tôi mệt nhọc được.
Đôi giày, đôi giày có đanh! Cái quần nhung! Rồi lại cái áo vét! Cả cái mũ nữa!
Chà! Má Bácbơranh mà trông thấy tôi hẳn là má sung sướng lắm. Và má sẽ tự hào biết bao nhiêu về cái thằng này. Ấy thế mà Útxen hãy còn xa lắc lơ mới cực chứ!
Mặc dù sẽ có đôi giày và chiếc quần nhung, ở cuối quãng đường sáu dặm này, tôi thấy chừng như tôi cũng không còn sức đi xa như vậy được nữa.
May thay thời tiết đến giúp tôi.
Bầu trời vẫn xanh ngắt từ lúc chúng tôi ra đi, dần dần kéo đầy mây xám. Chẳng mấy chốc một cơn mưa nhỏ đổ xuống và cứ kéo dài mãi, không ngớt.
Có tấm áo da cừu, cụ Vitali không bị ướt và còn che cho con Giôlicơ được. Cái con khỉ ranh mãnh này mới thấy mấy giọt mưa đầu tiên rơi xuống đã nhanh nhẹn chui vào chỗ trú ẩn của nó. Nhưng mà bầy chó và tôi, chúng tôi không có cái gì để che mưa cả. Thế là chẳng bao lâu chứng tôi bị ướt sũng đến tận da. Bầy chó thỉnh thoảng rùng mình rũ lông được, còn tôi thì tạo hóa không cho phép làm thế, tôi phải mang những quần áo nặng chịch nước mưa mà đi và thấy lạnh buốt đến xương.
- Cháu có dễ bị cảm không? – Chủ tôi hỏi.
- Cháu không biết. Cháu không nhớ có lần nào bị cảm. - Thế thì tốt lắm, tốt lắm. Ừ! Cháu cũng có mặt cứng đấy. Nhưng ông cũng không muốn để cháu xông pha làm gì vô ích. Hôm nay, chúng ta hãy đi chừng này thôi. Có thôn xóm đằng kia chúng ta hãy vào ngủ trọ ở đấy.
Nhưng trong làng không có quán trọ. Chẳng ai muốn chứa cái ông già trông như người hành khất, lại lẽo đẽo dắt theo một thằng bé con và ba con chó, người và vật đều lấm bùn be bét. Người ta bảo: “Ở đây không chứa trọ”.
Và người ta đóng sập cửa lại. Đi hết nhà này đến nhà khác, chẳng ai mở cửa cho chúng tôi vào.
Có lẽ phải đi nốt một mạch bốn dặm đường cho đến Útxen chăng? Tối đến nơi rồi, mà người thì thấm nước mưa lạnh buốt. Riêng tôi, tôi thấy hai chân cứng đờ như hai khúc gỗ.
Chao ôi! Nào đâu cái nhà ấm cúng của má Bácbơranh! Sau cùng có một bác nông dân tốt bụng vui lòng mở cửa vựa chứa rơm cho chúng tôi vào. Nhưng trước khi cho vào, bác ta ra điều kiện không được thắp đèn đốt lửa gì cả.
Bác ta nói với cụ Vitali: -Ông cụ đưa diêm đây. Sáng mai cụ đi, tôi sẽ trả lại.
Dẫu sao chúng tôi cũng có được một mái nhà để ẩn náu và mưa không trút lên người chúng tôi nữa.
Cụ Vitali là một người biết phòng xa, khi đi đường không bao giờ quên mang lương thực. Trong cái xắc lính ông đeo trên vai, có một
cái bánh mì lớn. Cụ cắt bánh ra làm bốn phần.
Bây giờ tôi mới thấy ông cụ duy trì kỷ luật và sự phục tùng trong gánh hát của cụ như thế nào.
Lúc nãy, trong khi chúng tôi còn đi lò dò hết nhà này đến nhà khác để tìm chỗ trú, thì con Décbinô đã có lúc lẩn vào một nhà nào đó rồi chạy ra ngay, mõm tha một mẩu bánh mì. Cụ Vitali chỉ nói có một câu: -Décbinô! Tối nay rồi mày xem!
Tôi cũng chẳng nghĩ gì đến cái việc đánh cắp ấy nữa, cho đến khi ông cụ chủ cắt bánh mì, tôi bỗng thấy con Décbinô có vẻ tiu nghỉu.
Cụ Vitali và tôi ngồi cạnh nhau trên hai bó phượng vĩ. Con Giôlicơ ngồi ở giữa. Ba con chó ngồi xếp hàng trước mặt chúng tôi, con Capi và Đônxơ đăm đăm nhìn mắt ông chủ. Còn con Décbinô thì cúi mặt, hai tai cụp xuống. Cụ Vitali ra lệnh: -Đứa ăn cắp hãy đi ra ngoài hàng ngũ, chui vào xó kia mà nằm. Tối nay nó phải ngủ đói.
Thế là con Décbinô rời khỏi chỗ nó tức khắc và vừa đi vừa lết, nó len lén đến cái xó mà ông chủ chỉ. Nó chui gọn vào đống lá phượng vĩ. Chúng tôi không nhìn thấy nó nữa, chỉ nghe thấy nó vừa thở vừa rên và khe khẽ kêu mấy tiếng nghẹn ngào.
Trừng phạt con Décbinô xong, cụ Vitali đưa phần bánh mì cho tôi. Ông cụ thì vừa ăn vừa bẻ phần bánh của Giôlicơ, Capi và Đônxơ ra từng miếng nhỏ để phân phát cho chúng.
Những tháng cuối cùng ở với má Bácbơranh cũng chẳng có gì gọi là sướng, nhưng giờ đây phải sống kham khổ thế này, tôi thấy sự đổi thay quá ác liệt.
Chà! Nồi xúp má Bácbơranh nấu mỗi tối, giờ đây giá có, thì dù thiếu bơ đi nữa tôi cũng sẽ thấy ngon!
Giá lại được ngồi bên lò sưởi nữa thì dễ chịu biết bao! Và sẽ được hạnh phúc biết mấy nếu được luồn mình trong vải nệm kéo chăn lên tận cằm!
Nhưng than ôi! Làm gì có vải nệm, làm gì có chăn! Có được một ổ lá phượng vĩ thế này là phúc lắm rồi.
Người mệt nhừ, chân trầy da vì đôi guốc, tôi rét quá, run bần bật trong bộ quần áo ướt sũng.
Trời tối hẳn rồi nhưng tôi vẫn chưa ngủ.
- Sao răng cháu đập cầm cập thế Rêmi! – Cụ Vitali hỏi. – Cháu rét à?
- Rét tý thôi!
Tôi nghe thấy ông cụ mở xắc.
- Quần áo của ông cũng chẳng nhiều nhặn gì đâu! – Ông cụ nói. – Nhưng mà đây, một chiếc sơ mi khô và một cái gilê! Cháu hãy cởi hết quần áo và khoác những thứ này vào. Rồi cháu chui xuống dưới đống phượng vĩ, cháu sẽ thấy người ấm lên và cháu sẽ ngủ được ngay.
Tôi làm theo lời cụ, tuy thế cũng không thấy ấm người lên mau chóng như cụ tưởng. Tôi cứ trăn trở mãi trên lớp lá phượng vĩ, đau đớn và khổ sở quá, ngủ ở nhà chứa rơm, rét run lên, bữa tối chỉ có mẩu bánh trơ trụi, chẳng có ai tỏ lòng thương xót. Chẳng có ai để yêu thương, không có má Bácbơranh!
Tôi đang nghĩ ngợi lan man, lòng buồn rười rượi, nước mắt giàn giụa, thì bỗng thấy thoảng qua trên mặt tôi một hơi thở âm ấm. Tôi đưa tay ra phía trước và sờ thấy bộ lông dày như len của con Capi. Nó đã rón rén đi trên lá phượng vĩ, nhẹ nhàng đến bên tôi. Nó ngửi tôi, hít khe khẽ. Hơi nó lướt nhẹ trên mặt tôi, trên tóc tôi. Nó định làm gì nhỉ?
Giây phút sau nó nằm lên đống lá phượng vĩ, áp mình vào người tôi và dịu dàng, êm ái, nó liếm tay tôi.
Vô cùng cảm động trước cử chỉ âu yếm đó, tôi nhỏm dậy ôm luôn vào cái mũi lạnh ngắt của nó.
Nó kêu một tiếng khe khẽ, rồi nhanh nhảu đặt cẳng vào trong tay tôi và nằm im.
Thế là tôi quên hết cả nỗi mệt nhọc, buồn phiền, cổ họng tôi như bị bóp nghẹt, nay thấy được nới ra. Tôi thở phào. Tôi không cô đơn nữa. Tôi đã có một người bạn.
6. BƯỚC ĐẦU TRONG NGHỀ
Hôm sau chúng tôi lên đường sớm.
Mưa tạnh rồi. Trời xanh biếc. Nhờ có trận gió hanh đêm qua, đường se bùn, chim ca rộn rã trong mấy bụi cây bên đường. Đàn chó chạy tung tăng bên chúng tôi. Thỉnh thoảng con Capi lại đứng thẳng trên hai chân sau và sủa vào mặt tôi hai ba tiếng. Tôi hiểu ý nghĩa của tiếng sủa ấy là thế nào. Nó muốn nói: -“Gắng lên! Gắng lên!”
Thật là một con chó thông minh. Nó hiểu hết và luôn luôn biết cách làm cho người ta hiểu nó. Đã nhiều lần tôi nghe người ta bảo rằng nó chỉ thiếu có cái không biết nói thôi. Riêng tôi không nghĩ như vậy. Chỉ cái đuôi của con vật ấy cũng đã thông minh và hùng biện hơn mắt và miệng lưỡi của khối người. Dù sao đi nữa thì giữa nó và tôi cũng chả cần đến lời nói. Chúng tôi đã hiểu nhau ngay từ ngày đầu.
Tôi chưa bao giờ ra khỏi cổng làng, cho nên ao ước được nom thấy một thành phố. Nhưng phải thú thật thị trấn Útxen không làm cho tôi choáng mắt chút nào cả, những ngôi nhà cổ có tháp ở đây hẳn khiến cho các nhà khảo cổ thích thú, nhưng đối với tôi thì có ý nghĩa gì đâu. Phải nói rằng tôi không tìm ở các ngôi nhà ấy cái vẻ đẹp, cái vẻ nên tranh của nó, tôi tìm cái khác kia.
Một ý niệm choán cả đầu óc tôi, làm quáng mắt tôi, hay ít nhất cũng chỉ cho phép tôi nhìn thấy một thứ: Đó là cửa hiệu giày. Đôi giày của tôi, đôi giày cụ Vitali hứa hẹn, giờ đây là lúc tôi sắp được xỏ chân vào.
Chẳng biết cái cửa hàng có diễm phúc bán giày cho tôi ở vào đâu đây nhỉ? Tôi chỉ tìm kiếm nó thôi, ngoài ra mái tháp, vòm cuốn, cột trụ mỹ thuật, không gì đáng cho tôi lưu ý
Cho nên cái điều duy nhất tôi còn nhớ về thị trấn Útxen là một ngôi làng tối tăm, ám khói ở gần chợ. Ở mặt trước của cửa hàng bày la liệt nhiều súng cũ, một cái áo viền kim tuyến ở các đường may và có ngù vai bằng bạc, rất nhiều đèn và những cái sọt có vô số là sắt vụn, nhất là ổ khóa và chìa khóa han gỉ. Phải xuống ba bậc để
đi vào một căn phòng rộng. Chắc hẳn là từ ngày căn nhà lợp mái xong, ánh sáng mặt trời chưa chiếu vào đây bao giờ. Không biết tại sao một vật đẹp đẽ như đôi giày lại có thể bày bán ở một nơi ghê tởm như thế này được nhỉ?
Tuy vậy bước chân vào cửa hàng này, cụ Vitali đã có ý định của cụ rồi. Chẳng mấy chốc, tôi được cái phúc lớn xỏ chân vào đôi giày đóng đanh sắt dễ gấp mười lần đôi guốc của tôi.
Sự hào phóng của ông chủ tôi không phải đến đây là hết. Sau khi mua giày rồi, ông cụ lại mua cho tôi một chiếc áo vét nhung xanh, một cái quần len và một cái mũ dạ, nghĩa là mọi thứ ông cụ đã hứa với tôi. Mua hàng nhung cho tôi, cho một đứa bé xưa nay chỉ mặc vải! Rồi lại giày! Và còn chiếc mũ dạ nữa cho thằng bé xưa nay chỉ lấy tóc che đầu. Rõ ràng ông cụ là người tốt nhất trần đời, con người hào phóng nhất và cũng là giầu có nhất. Thực ra thì nhung đã nhàu, len cũng đã sờn rồi, và cái mũ dạ bị mưa dầm bụi dãi, khó mà biết xưa kia màu gì. Nhưng tôi choáng mắt vì những thứ lộng lẫy ấy, nên không hề động lòng về các thiếu sót ẩn dưới vẻ hào nhoáng kia.
Tôi mong chóng được mặc những thứ quần áo đẹp đẽ ấy. Nhưng về nhà trọ, trước khi đưa cho tôi, ông cụ đem thay hình đổi dạng nó đi, làm cho tôi vừa ngạc nhiên vừa xót của.
Ông cụ lấy kéo trong xắc ra cắt phăng hai ống quần đến ngang gối: tôi giương mắt kinh hãi nhìn ông cụ. Ông cụ nói: -Làm thế này cốt để cho cháu đừng giống mọi người. Chúng ta đang ở Pháp, ông mặc quần áo cho cháu theo kiểu Italia. Bao giờ chúng ta sang Italia – có thể chúng ta sẽ sang Italia đấy – ông lại cho cháu mặc theo kiểu Pháp.
Tôi chưa hết ngạc nhiên thì ông cụ nói tiếp: -Chúng ta là gì nào? Là nghệ sĩ có phải không? Là những diễn viên thì chỉ riêng hình dáng bên ngoài thôi cũng phải khơi gợi được tính tò mò của người ta. Ăn mặc như bất cứ kẻ chợ hay người nhà quê, cháu tưởng rằng chúng ta có thể khiến thiên hạ đứng nhìn chúng ta và vây quanh chúng ta hay sao? Tất nhiên là không, có phải không cháu? Cháu nên học lấy điều này, là ở đời một đôi khi cái bề ngoài cũng cần thiết đấy. Việc đó đáng buồn nhưng biết làm sao được!
Ấy, buổi sáng tôi là người Pháp, đến chiều thành người Ý như thế đấy.
Quần tôi cụt tới đầu gối, cụ Vitali lấy dây băng đỏ quấn chéo trên bít tất, dọc theo ống chân, trên mũ dạ của tôi, ông cụ cũng quấn ngang dọc nhiều băng khác và cài lên một chùm hoa bằng len.
Tôi không hiểu người khác nhìn tôi sẽ nghĩ như thế nào, chứ tôi thành thực mà nói, tôi là tôi oai lắm, sộp lắm. Bằng chứng là con Capi, sau khi nhìn ngắm tôi chán chê, bèn chìa chân ra cho tôi bắt, vẻ rất vừa lòng. Sự tán thưởng của con Capi càng làm tôi thích thú bởi vì trong khi tôi khoác vào người bộ quần áo mới, chú Giôlicơ ngang nhiên đứng trước mặt tôi, nhại theo từng điệu bộ của tôi và cường điệu lên. Tôi đóng bộ xong, thì chú chống hai tay vào sườn, ngửa người ra sau cười khanh khách và lí nhí những tiếng chế nhạo.
Tôi nghe người ta nói tìm hiểu xem giống khỉ có cười không là một vấn đề khoa học lý thú. Tôi cho rằng những người đặt ra câu hỏi ấy là những nhà khoa học phòng giấy, không chịu khó quan sát trực tiếp con vật. Riêng tôi là người đã sống gần gũi với con Giôlicơ trong bao nhiêu lâu, tôi nói quả quyết là nó cười thực sự, không những cười mà còn biết cười chế nhạo tôi nữa. Có lẽ cái cười của nó không giống hệt cái cười của chúng ta. Nhưng rõ ràng là mỗi khi có điều gì thích thì mép nó kéo sệch ra mang tai, mắt híp lại, hàm rung lia lịa và đôi mắt đen láy nảy ra những tia lấp lánh, như những cục than hồng nho nhỏ được thổi rực lên.
Vả chăng, tôi đã có dịp quan sát nó ở những dấu hiệu đặc biệt của cái cười trong một trường hợp mà cái nhục về phần tôi. Khi tôi đội mũ vào thì cụ Vitali bảo tôi:
Thế là cháu mặc xong quần áo rồi đấy! Chúng ta bắt đầu làm việc đi để ngày mai là phiên chợ, có thể tổ chức một buổi biểu diễn lớn được. Trong buổi đó, cháu sẽ lên sân khấu lần đầu.
Tôi hỏi ông cụ lên sân khấu lần đầu là như thế nào? Ông cụ giảng giải cho tôi biết lên sân khấu lần đầu là lần đầu tiên đóng trò trước công chúng. Cụ nói: -Ngày mai gánh xiếc chúng ta sẽ ra mắt khán giả. Một buổi diễn đầu tiên trong đó có cháu đóng. Vậy ông phải cho cháu dượt vai trò ông dành cho cháu.
Đôi mắt ngạc nhiên của tôi làm cho cụ biết là tôi không hiểu gì cả.
- Vai có nghĩa là công việc cháu phải làm trong buổi diễn kịch. Ông đem cháu đi với ông không phải để cháu đi dạo chơi cho thỏa thích. Ông không giầu có gì mà làm như vậy được. Mang cháu đi là để cháu làm việc. Mà công việc của cháu là đóng kịch với đàn chó của ông và chú khỉ Giôlicơ.
Tôi đâm hoảng, kêu lên: -Nhưng cháu đâu có biết đóng kịch! - Chính vì thế mà ông phải dậy cháu. Cháu phải hiểu rằng không phải tự nhiên mà con Capi biết đi trên hai chân một cách duyên dáng như thế. Và không phải con Đônxơ nhảy dây vì sở thích của nó. Con Capi đã tập đứng trên hai chân sau và con Đônxơ đã tập nhẩy dây. Chúng nó đã phải học tập mất nhiều công phu và thì giờ mới có được những biệt tài ấy và cả tài nghệ cần thiết cho một diễn viên ưu tú. Cháu cũng vậy, cháu cần tập những vai cháu sẽ phải đóng với chúng nó. Thôi, chúng ta bắt tay vào việc đi. Hồi đó tôi có những quan điểm thật là cổ lỗ về lao động. Tôi cứ tưởng hễ lao động là phải cuốc đất, xẻ gỗ, chặt cây hoặc đẽo đá chứ không hề nghĩ đến cái gì khác.
-Vở kịch chúng ta sắp diễn, – ông cụ Vitali nói tiếp – nhan đề là "Người đầy tớ của ông Giôlicơ" hay là "Kẻ đần độn nhất không phải là kẻ mà người ta tưởng". Câu chuyện như thế này: Cho tới nay, ông Giôlicơ có một người đầy tớ rất vừa ý ông, đó là Capi. Nhưng Capi già rồi, mặt khác ông Giôlicơ cũng muốn mướn một người đầy tớ mới. Capi nhận tìm cho ông một người. Nhưng mà nó không tìm được một con chó khác để kế nghiệp nó, nó tìm một thằng bé con tên là Rêmi.
- Như cháu ấy à?
- Không, không phải như cháu, mà chính là cháu đấy thôi. Cháu ở quê lên để giúp việc cho ông Giôlicơ.
- Khỉ thì làm gì có người giúp việc!
Nhưng trong hài kịch thì có đấy. Vậy cháu ở nhà quê lên và ông Giôlicơ nhận thấy cháu có vẻ đần độn.
- Cái đó chả thú vị gì.
- Việc gì đến cháu, vì chỉ để cười thôi mà! Vả lại cháu cứ tưởng tượng như là cháu thực sự đến ở cho một ông chủ và ông chủ bảo
cháu bày bàn ăn chẳng hạn. Vừa đúng đây lại có một cái bàn để dùng cho buổi biểu diễn của chúng ta. Cháu đến xếp bát đĩa đi. Trên bàn có mấy cái đĩa, một cái cốc, một con dao, một cái nĩa và những khăn ăn trắng tinh.
Phải bầy biện như thế nào đây? Tôi loay hoay với câu hỏi ấy và đứng sững, hai tay giơ ra, người chồm tới trước, mồm há hốc, không biết nên bắt đầu làm gì. Ông cụ vỗ tay cười phá lên. Ông nói: -Hay lắm! Hay lắm, cái vẻ mặt của cháu thật tuyệt! Trước đây đã có một thằng bé làm với ông. Vẻ mặt nó ranh mãnh và dáng điệu nó nói lên một cách quá rõ ràng: “Để xem, tôi mà làm một thằng ngốc thì phải biết là cừ!”. Còn cháu thì cháu không nói gì cả. Cháu đích thị là thằng ngốc. Vẻ ngây ngô của cháu thật không chê được!
- Cháu chả biết cháu cần làm gì!
- Chính vì thế mà cháu “tuyệt”. Đến mai đây hoặc năm ba hôm nữa cháu sẽ rất thông thạo những việc cháu phải làm. Lúc đó cháu phải nhớ lại cái vẻ lúng túng hiện nay của cháu. Lúc đó cháu phải giả vờ lúng túng nữa. Nếu cháu diễn được cái vẻ mặt và điệu bộ hôm nay thì ông dám nói trước là cháu sẽ được hoan hô đặc biệt. Nhân vật mà cháu đóng trong vở hài kịch của ông như thế nào? Là một chú bé ở quê ra, chưa trông thấy gì và chưa hiểu gì cả. Chú bé tới nhà một con khỉ và tỏ ra dốt nát vụng về hơn nó. Do đó ông mới lấy một đề phụ cho vở kịch là “Kẻ đần độn nhất không phải là kẻ mà người ta tưởng”. Ngu hơn chú khỉ Giôlicơ đó là vai trò của cháu. Để thủ vai một cách tuyệt diệu, giá có thể thì cháu chỉ cần giữ cái vẻ hiện nay của cháu. Nhưng mà việc đó không thể được, cho nên sau này cháu phải nhớ lại hiện giờ cháu đã làm như thế nào và lúc đó, nhờ sự cố gắng nghệ thuật, cháu sẽ trở lên ngu ngốc trong khi cháu không thể ngu một cách tự nhiên được nữa.
“Người đầy tớ của ông Giôlicơ” là một vở hài kịch nhỏ diễn trong hai mươi phút đồng hồ. Nhưng tập thì phải mất ngót ba tiếng, cụ Vitali bắt chúng tôi làm đi làm lại mỗi việc hai ba lần, có khi đến mười lần. Lũ chó cũng phải làm đi làm lại như tôi.
Thật vậy, mấy con chó đã quên mất vài phần trong vai trò của chúng nên phải dạy lại chúng. Nhờ vậy tôi được dịp nhìn thấy tính kiên nhẫn và sự ôn hòa dịu ngọt vô hạn của thầy chúng tôi, và rất lấy làm ngạc nhiên. Ở làng tôi, người ta không đối đãi với súc vật
như thế bao giờ. Phương pháp dạy súc vật duy nhất ở làng tôi là chửi rủa và roi vọt.
Đối với ông cụ thì việc tập tành có kéo dài bao nhiêu đi nữa ông cụ cũng không nổi nóng bao giờ và cũng chưa bao giờ ông buông một tiếng nguyền rủa. Mỗi khi ông không hài lòng về kết quả tập dượt thì ông nghiêm nghị nói: -Này, này, làm lại đi Capi, anh như thế không tốt. Còn anh Giôlicơ, anh không chịu chú ý. Anh sẽ bị trách mắng cho mà xem!
Chỉ có thế thôi, nhưng vẫn là đủ. Sau buổi tập, ông cụ hỏi tôi: - Thế nào, liệu rồi cháu diễn trò có quen đi không?
- Cháu không biết.
- Cháu có thấy chán không?
- Không, cháu thấy vui vui.
- Thế thì được, mọi việc đã ổn cả. Cháu khá thông minh và có điều này còn quý hơn nữa là cháu có ý chí. Chăm chỉ và dễ bảo thì rồi cái gì cũng làm được. Cháu thử nhìn đàn chó mà xem và so sánh chúng với con Giôlicơ. Con khỉ có lẽ nhanh nhẩu và thông minh hơn nhưng nó khó bảo. Dạy nó cái gì là nó học được ngay nhưng rồi nó lại quên trong chốc lát. Mà khi bảo nó làm cái gì chẳng bao giờ nó vui lòng làm đâu! Nó phản kháng rất dễ dàng và luôn luôn muốn làm nghịch ý ta. Thiên tính của nó là thế nên ông cũng chẳng giận nó làm gì. Khác với chó, khỉ không có ý thức nghĩa vụ và do đó nó kém chó xa. Cháu có hiểu không?
- Có lẽ cháu hiểu.
- Cháu ơi, cháu cần có ý chí và ngoan ngoãn phục tùng. Phải làm cái gì thì cháu cố làm cho hết sức. Ở đời tất cả mọi thành công là ở đó!
Trong khi trò chuyện như vậy, tôi đánh bạo nói với ông cụ rằng điều làm tôi ngạc nhiên nhất là sự kiên trì vô hạn của ông cụ đối với con khỉ Giôlicơ với đàn chó cũng như đối với tôi. Thế là ông cụ nở một nụ cười dịu dàng: -Người ta thấy rõ là từ xưa tới nay cháu chỉ sống với những người dân quê quen tàn nhẫn với súc vật. Họ tưởng với chúng nhất thiết phải dùng roi vọt.
- Má Bácbơranh rất dịu dàng với con bò sữa Rútxét của nhà cháu.
- Bà ấy làm đúng đấy! Cháu làm cho ông có cảm tưởng tốt về má Bácbơranh. Bà ta hiểu điều mà thường thường những người dân quê chưa biết. Đó là: thô bạo đem lại ít kết quả, trái lại ngọt ngào thì được rất nhiều nếu không muốn nói là tất cả. Riêng phần ông, vì ông không bao giờ nóng nẩy với con vật của ông nên ông mới làm cho chúng trở thành như thế đấy. Nếu ông đánh đập chúng nó, chúng nó sẽ sợ sệt, mà sự sợ hãi làm tê liệt óc thông minh đi. Vả chăng nếu ông cứ cáu gắt với chúng, thì ông đã là khác chứ không được như thế này đâu. Ông đã luyện được lòng kiên nhẫn bất chấp mọi thử thách, và chính nó đã làm cho cháu tin ông. Ấy, khi mình dạy kẻ khác thì cũng là tự dạy cho mình. Ông dạy những con chó kia bao nhiêu bài học thì chúng nó dạy lại ông bấy nhiêu bài. Ông đã mở trí thông minh cho chúng nó, thì chúng nó rèn luyện tính khí cho ông.
Điều đó kì dị quá khiến tôi bật cười.
- Cháu lấy làm lạ sao chó có thể dạy được người, có phải không? Ấy thế mà đúng như thế đấy, không có gì đúng bằng. Cháu thử suy nghĩ mà xem. Cháu có thừa nhận là con chó chịu ảnh hưởng của chủ nó không?
- Ôi! Cái đó đúng quá.
- Thế thì cháu sẽ hiểu rằng ông thầy bắt buộc phải giữ mình khi luyện tập cho chó. Giả thử khi dạy con Capi, ông lại nổi lên cáu kỉnh và giận dữ! Con Capi nó sẽ làm gì? Nó cũng sẽ tập thói quen giận dữ và cáu kỉnh, nghĩa là dập theo khuôn của ông và trở nên hư hỏng. Chó hầu như bao giờ cũng là hình ảnh của chủ. Nhìn thấy chó biết ngay chủ là người thế nào.
Anh hãy cho tôi xem con chó của anh, tôi sẽ nói anh biết anh là người như thế nào cho mà coi. Chó của tên côn đồ là chó vô lại. Chó của đứa ăn sương là chó trộm cắp. Người cộc cằn thì chó thô lỗ. Người nhã nhặn thì chó dễ yêu.
Những bạn tôi, đàn chó và con khỉ, hơn tôi ở chỗ đã quen ra mắt công chúng, cho nên chúng nó chờ đón ngày mai tới không chút gì sợ hãi. Đối với chúng nó, chỉ cần làm lại những việc chúng đã làm hàng trăm lần, có dễ hàng nghìn lần rồi cũng nên.
Nhưng mà đối với tôi, tôi không thể bình tâm vững dạ như chúng nó. Nếu tôi đóng kém thì cụ Vitali sẽ nói sao đây. Khán giả sẽ bàn
tán thế nào? Cái điều băn khoăn ấy làm tôi khó ngủ. Đến khi thiếp đi thì tôi mơ thấy bao nhiêu người ôm bụng cười lăn lộn, cười văng vào mặt tôi để chế giễu tôi.
Hôm sau tôi rất xúc động khi đoàn chúng tôi từ quán trọ ra đi để đến chỗ công cộng biểu diễn.
Cụ Vitali đi trước, đầu ngẩng cao, ưỡn ngực, chân bước đều, tay văng theo nhịp bước, vừa đi vừa thổi van[6] bằng một ống tiêu kim loại. Sau ông cụ đến con Capi, trên lưng nó có ông Giôlicơ ngự khoái trá. Ông mặc quân phục hàm tướng nước Anh: quần đỏ, áo đỏ có thêu kim tuyến, mũ cài một chùm lông xòe ra. Giữ một khoảng cách đúng phép, con Décbinô và con Đônxơ song song đi theo sau. Cuối cùng, đi đoạn hậu là tôi. Nhờ có những khoảng cách do ông cụ xếp đặt nên đoàn chúng tôi có vẻ khá dềnh dàng trên phố.
Đoàn kéo đi rầm rộ, long trọng. Nhưng làm cho người ta chú ý hơn là tiếng tiêu rắn rỏi của ông cụ. Nó vọng vào trong tận cùng mọi nhà, khơi gợi tính tò mò của dân cư thị trấn Útxen. Người ta đổ xô ra cửa để xem chúng tôi diễu qua. Người ta vén vội những màn cửa sổ lên. Dăm ba đứa trẻ theo chân chúng tôi. Có mấy bác nông dân thấy lạ mắt cũng nhập bọn với chúng tôi. Khi chúng tôi tới chỗ công cộng thì ở sau chúng tôi, quanh chúng tôi như một đám rước.
Chúng tôi dựng rạp rất nhanh. Rạp đây là một cái thừng buộc vào bốn gốc cây để vây lấy một khoảng đất trống dài, ở giữa chúng tôi.
Phần đầu của buổi biểu diễn gồm có mấy trò do lũ chó làm. Những trò gì tôi không nói được vì tôi đang bận nhẩm vai của tôi và mải băn khoăn lo ngại. Tôi chỉ nhớ là cụ Vitali đã cất ống tiêu đi và lấy viôlông ra kéo để đệm những tiết mục của mấy con chó. Lúc thì ông cụ kéo những nhịp vũ, lúc thì kéo những bản nhạc du dương êm ái.
Công chúng dồn lại rất nhanh, xô vào dây thừng của chúng tôi. Khi chúng tôi nhìn xung quanh – tự nhiên mà nhìn chứ chẳng định tìm gì – thì thôi thấy trăm ngàn con mắt tập trung vào chúng tôi dường như nhảy ra những tia sáng.
Khi đã diễn xong vở thứ nhất, con Capi lấy mõm ngậm một cái âu gỗ, đứng kiễng trên chân sau và bắt đầu đi vòng quanh “chư vị
khán giả” một lượt. Khi có một khách xem không chịu ném tiền vào âu thì nó đứng lại đặt âu vào trong vòng dây, ngoài tầm tay của khán giả, đoạn để hai chân trước lên người ông khách cứng cổ, sủa hai ba tiếng và đập đập khe khẽ vào túi khách như muốn mở túi ra. Thế là trong đám người xem, tiếng la ó, chuyên vui đùa, lời giễu cợt dậy lên: -Cái con chó này láu thật, nó biết ai là người nặng túi đấy!
- Thôi thò tay vào túi cho rồi.
- Hắn sắp chi tiền kìa.
- Hắn chẳng cho đâu.
- Cho đi! Có gia tài của ông chú bù lại mà!
Thế là cuối cùng, những đồng xu giấu ở dưới đáy túi cũng phải vọt ra. Ông cụ Vitali thì không nói gì cả. Cụ kéo đàn viôlông, dạo những bài vui, lúc giơ cao, lúc hạ thấp cây đàn tùy theo nhịp, mắt không rời khỏi cái bát. Chẳng mấy chốc con Capi đã chở về chỗ chủ nó, kiêu hãnh mang theo cái âu gỗ đầy tiền.
Bây giờ đến lượt Giôlicơ và tôi ra trò. Một tay cầm đàn, một tay cầm mã vĩ khoa lên, ông cụ Vitali nói: -Thưa quý ông, thưa quý bà, chúng tôi sẽ tiếp tục diễn hầu quý ông quý bà một vở hài kịch lý thú nhan đề là: “Người đầy tớ của ông Giôlicơ” hay là “Kẻ đần độn nhất không phải là kẻ mà người ta tưởng”. Một người như tôi không bao giờ hạ mình đề cao diễn viên và vở kịch trình diễn. Tôi xin nói với các ngài một điều: mời các ngài mở to mắt mà nhìn, lắng tai mà nghe và chuẩn bị mà vỗ tay.
- Cái mà ông cụ gọi là vở hài kịch lý thú, thực ra chỉ là một tấn trò câm, nghĩa là một tấn trò diễn bằng điệu bộ chứ không có lời. Tất nhiên là phải như thế, vì hai vai chính, Giôlicơ và Capi đều không biết nói và vai thứ ba là tôi cũng khó mà nói nổi hai câu. Tuy nhiên muốn cho khán giả hiểu và dễ theo dõi các diễn viên, ông cụ Vitali phải nói thêm vài lời để giới thiệu và giải thích các tình huống trong vở.
Chính vì vậy mà ông cụ chơi một bản nhạc nhà binh trầm trầm, báo trước cho khán giả là ông Giôlicơ sắp ra. Ông Giôlicơ là một vị tướng người Anh đã đạt quân hàm cao và làm giầu lớn trong chiến tranh Ấn Độ[7]. Từ trước tới giờ ông muốn kẻ hầu hạ cho ông phải là một con người, vì ông giàu, ông có điều kiện để hưởng thụ cái thú
xa hoa ấy. Trong khi chờ đợi người đầy tớ ấy đến, ông Giôlicơ đi bách bộ trong phòng, vừa đi vừa hút xì gà.
Ôi chà, phải nhìn ông ta phả khói vào mặt người xem thì mới biết! Ông tướng sốt ruột và ông bắt đầu trợn mắt tròn xoe, y hệt một người sắp sửa nổi giận. Ông mắm môi mắm lợi giậm chân xuống đất thình thịch.
Đến cái giậm chân thứ ba thì Capi phải dắt tôi ra trò. Giả thử tôi có quên thì con chó nó cũng nhắc cho tôi. Khi đã đến lúc ra trò, Capi đưa chân ra đỡ lấy tay tôi và đưa tôi ra mắt vị tướng.
Trông thấy tôi, ông tướng đưa hai tay lên, vẻ thất vọng. Thế nào! Cái tên đầy tớ người ta giới thiệu đấy à? Ông đến sát người tôi, nhìn tận mặt tôi, rồi thì ông vừa đi đi lại lại quanh tôi vừa nhún vai. Vẻ mặt của ông ngộ nghĩnh quá khiến mọi người phá lên cười. Người ta hiểu ngay rằng quan tướng coi tôi là thằng ngu ngốc, hoàn toàn ngu ngốc và chính khán giả cũng có cảm tưởng như thế.
Tất nhiên là vở kịch được xây dựng thế nào để phơi bầy cái vẻ ngu đần ấy dưới mọi hình dạng. Qua mỗi lớp tôi phải đưa thêm ra một cái ngốc nghếch mới. Còn Giôlicơ thì ngược lại phải lợi dụng những dịp ấy để phô trương trí khôn và tài khéo của mình.
Sau khi nhìn tôi, nhìn đi ngắm lại hồi lâu, quan tướng động lòng thương hại, bảo dọn bữa sáng cho tôi ăn. Ông cụ Vitali thuyết minh: -Quan tướng nghĩ rằng khi thằng bé này ăn uống no nê thì nó sẽ bớt thộn. Chúng ta sẽ xem sao.
- Tôi ngồi trước một cái bàn con trên bàn bày sẵn thìa đĩa, trên đĩa có một chiếc khăn ăn.
Khăn để làm gì nhỉ? Con Capi ra hiệu tôi phải dùng khăn. Nhưng mà dùng như thế nào chứ? Tôi loay hoay suy nghĩ một hồi rồi đưa khăn lên hỉ mũi vào đó.
Thế là quan tướng cười lăn lộn, còn con Capi ngã vật ngửa ra, chổng bốn vó lên trời, vì sự đần độn của tôi.
Biết là nhầm, tôi lại ngắm cái khăn tự hỏi xem nên dùng nó thế nào. Sau cùng tôi nảy ra một ý định: tôi cuốn khăn lại và thắt thành một cái ca vát trên cổ. Quan tướng lại cười ngất, con Capi lại ngã lăn ra. Cứ như thế mãi cho đến lúc ông tướng điên ruột lên, đẩy tôi ra khỏi ghế, ngồi vào chỗ tôi và chén quách bữa ăn dọn cho tôi.
Chà! Quan tướng sử dụng khăn ăn mới khéo làm sao! Điệu bộ rất mực phong lưu, ông cài khăn vào khuyết áo và trải lên đùi ông! Lại còn xem ông bẻ bánh, ông bưng cốc rượu uống, duyên dáng làm sao! Những cử chỉ quý phái của quan tướng đều làm cho khán giả vui thích cả, nhưng đến lúc ăn xong, quan đòi đưa một cái tăm và xỉa lia lịa vào răng, thế là người ta mới thật là không có cách nào nhịn cười.
Bấy giờ tiếng vỗ tay dậy ran tứ phía và buổi biểu diễn kết thúc trong vinh quang.
“Con khỉ thật khôn! Mà anh đầy tớ thật ngu độn!”. Về đến nhà trọ, ông cụ Vitali khen tôi như vậy, và tôi quả có máu nghệ sĩ trong người cho nên rất đỗi tự hào với lời khen ấy.
7. TÔI TẬP ĐỌC
Những diễn viên trong gánh xiếc của cụ Vitali, tôi muốn nói với mấy con chó và con khỉ – quả là tài hoa xuất chúng, nhưng mà tài hoa của họ không trổ ra nhiều vẻ. Khi họ đã diễn ba bốn buổi rồi thì người ta biết hết cả các tiết mục. Lúc ấy họ chỉ còn diễn lại những trò cũ. Do đó, chúng tôi không thể ở lâu trong một đô thị. Ở Útxen được ba ngày thì chúng tôi không phải lên đường. Tôi đã quen cụ ông nên tôi đánh bạo hỏi: -Chúng ta đi đâu đây, thưa cụ?
Ông già nhìn tôi và hỏi lại: -Cháu biết vùng này à?
- Không.
- Thế sao cháu hỏi chúng ta đi đâu?
- Để cho biết.
- Biết cái gì kia?
Tôi đứng ngây người ra không biết nói gì, mắt nhìn con đường trắng xóa chạy dài trước mặt, trong lòng một thung lũng nhỏ có nhiều cây cối. Ông cụ tiếp: -Nếu ông bảo cháu là chúng ta đi đến Oriắc để rồi lại đi Boócđô, đi tới dãy núi Pirênê thì phỏng cháu biết được cái gì chứ?
- Thế cụ biết rõ vùng này à?
- Ông chưa đến đây bao giờ cả.
- Vậy sao cụ biết chúng ta đi đâu?
Ông cụ lại nhìn tôi rất lâu dường như định tìm kiếm cái gì ở tôi. Xong cụ hỏi: -Cháu không biết đọc phải không?
- Vâng.
- Thế cháu có biết quyển sách là cái gì không?
- Có. Người ta mang sách đi lễ nhà thờ để đọc kinh khi người ta không thuộc lòng bài kinh lần tràng hạt. Cháu đã trông thấy nhiều sách lắm, sách đẹp, ở trong có tranh vẽ, ngoài bọc da.
- Tốt lắm. Thế là cháu biết rằng người ta có thể viết kinh vào một quyển sách, có phải không?
- Vâng.
- Người ta có thể viết cái khác vào sách cũng được. Khi cháu đọc thuộc bài kinh lần tràng hạt là cháu đọc thuộc lòng những câu
má cháu rót vào tai cháu. Những câu đó từ tai cháu đã dồn vào trong óc cháu để trở ra trên đầu lưỡi khi cháu cần đến nó. Thế nhưng những người đọc kinh bằng sách thì không phải họ lấy những câu kinh từ trí nhớ, mà họ lấy những câu đó ở trong sách ra, lấy bằng mắt, nghĩa là họ đọc.
- Cháu đã được trông thấy người ra đọc rồi – tôi reo lên, vẻ đắc thắng như một người không những không đần độn mà trái lại hiểu rất rõ những điều người ta nói với mình.
- Với những bài kinh người ta làm thế nào thì với những thứ khác người ta cũng làm thế. Lúc nào nghỉ lại ông sẽ đưa cho cháu xem một quyển sách trong đó có tên và lịch sử các vùng chúng ta đi qua. Có những người đã ở hoặc đi khắp miền này, họ viết vào trong sách những điều mà họ trông thấy hoặc nghe biết. Nhờ vậy ông chỉ việc mở quyển sách ra đọc là biết rõ. Ông trông thấy những vùng đất ấy như là chính mắt ông nhìn thấy! Ông học lịch sử các vùng ấy như là nghe lời người ta kể vậy.
Từ nhỏ đến giờ, tôi đã lớn lên như một chú bé man rợ, không có mảy may ý thức về đời sống văn minh. Những lời nói của ông cụ làm cho tôi bừng tỉnh, trước còn lờ mờ sau sáng tỏ dần. Thực ra thì mẹ nuôi tôi cũng đã cho tôi đi học. Nhưng mà chỉ đi học có một tháng, và trong cái tháng ấy tôi chẳng được sờ đến quyển sách nào. Người ta cũng chẳng nói đến việc tập đọc tập viết, chẳng dạy cho tôi một bài nào, dù là bài gì.
Không nên căn cứ vào tình hình trường lớp hiện nay để nhận xét rằng lời tôi nói trên là vô lý. Hồi đó ở nước Pháp có vô số xã không có trường học. Ở những xã có trường thì lại có những trường mà thầy giáo phụ trách vì lý do này hay lý do khác chẳng dạy dỗ gì cho những con em người ra gửi gắm cho các thầy. Các thầy không dạy vì các thầy dốt đặc, hoặc là vì các thầy mải làm công việc khác. Các thầy chỉ biết trông trẻ, tưởng rằng đó là công việc chính.
Đó là trường hợp thầy giáo trường làng chúng tôi. Thầy giáo có biết chữ nghĩa gì không? Có thể là biết đấy, nhưng không muốn gán ẩu cho thầy cái danh hiệu mít đặc. Nhưng mà thực sự thì khi tôi đến nhà thầy, thầy chẳng dạy cho tôi chữ nào cả. Đối với các bạn tôi cũng vậy. Vốn là thợ guốc, thầy vùi đầu vào làm guốc. Từ sáng đến tối chỉ thấy thầy tung ra quanh thầy bao nhiều là vỏ bào gỗ dẻ và gỗ
hồ đào. Ngoài những câu qua lại về bố mẹ chúng tôi, về thời tiết mưa rét, thầy chẳng nói gì khác. Chẳng đả động gì đến tập đọc, làm tính. Về việc này thì thầy ủy thác cho cô con gái thầy. Cô ấy có nhiệm vụ thay thế thầy, dạy chúng tôi học. Nhưng mà cô này vốn là thợ may cho nên cô cũng lại như ông bố thôi: trong khi ông bố thoải mái sử dụng cái bào, cái đục thì cô múa cây kim thoăn thoắt.
Cần phải sống chứ! Bọn học trò chúng tôi là mười hai đứa, hàng tháng phải trả mỗi đứa năm hào, cộng cả thảy là sáu phờrăng. Sáu phờrăng thì làm sao đủ nuôi miệng hai người trong vòng ba mươi ngày! Dạy học không đủ sống thì phải làm guốc và khâu vá bù vào. Có tiền mới có cái ăn cái mặc chứ! Thế là tôi chẳng học được cái gì ở trường cả, ngay cả đến những chữ cái cũng vậy.
Tôi vừa đi vừa suy nghĩ một lúc rồi hỏi cụ Vitali: -Thưa ông, tập đọc có khó không?
- Khó đối với những người tối dạ, càng khó hơn nữa đối với những đứa không quyết tâm. Cháu có tối dạ không? - Cái đó cháu không biết, nhưng nếu ông vui lòng dạy cháu đọc được sách thì cái gì chứ quyết tâm có lẽ cháu không thiếu đâu. - Thế thì để rồi xem, chúng ta còn chán thì giờ!
Còn chán thì giờ! Tại sao lại không làm ngay nhỉ? Tôi chưa lượng biết tập đọc khó khăn đến dường nào. Tôi cứ tưởng rằng hễ tập đọc là mở ngay quyển sách và nhìn thấy tức khắc những cái gì chứa đựng trong đấy.
Ngày hôm sau, trong khi đi đường, ông cụ chủ tôi cúi xuống nhặt một mảnh ván nửa lấp trong bụi đường. Ông cụ nói: -Đấy là quyển sách để cháu tập đọc.
Cái mảnh ván này là quyển sách à! Tôi nhìn ông cụ xem ông có chế giễu tôi không. Thấy ông nghiêm trang thì tôi lại ngắm kỹ cái vật ông vừa bắt được. Đúng là một mảnh ván gỗ dẻ, bằng cánh tay, rộng bằng hai bàn tay, nhẵn thín. Trên ván không ghi chép hoặc vẽ hình gì cả. Làm sao mà đọc được trên mảnh ván ấy? Vả lại có cái gì mà đọc kia chứ?
Ông cụ vừa cười vừa nói: -Óc cháu đang suy nghĩ.
- Ông chế giễu cháu đấy à?
- Không bao giờ đâu, cháu ạ? Chế giễu cũng có cái hay, như khi cần sửa chữa một tật hư nết xấu. Nhưng chế giễu người ngu dốt thì
lại là ngu dại. Hãy đợi khi ta đến chỗ cây đằng kia, ta nghỉ chân và cháu sẽ thấy ông dạy cháu tập đọc trên mảnh gỗ như thế nào. Chẳng mấy chốc đã tới lùm cây. Đặt xắc xuống, chúng tôi ngồi trên thảm cỏ đang bắt đầu xanh lại, lốm đốm đó đây vài bông xuyên tuyết[8]. Con Giôlicơ cởi xích ra, nhảy tót lên cây, rung hết cành này đến cành khác như để làm rụng những trái hồ đào. Mấy con chó trầm tĩnh và cũng mệt nhọc hơn, nằm vây quanh chúng tôi. Ông Vitali rút ở trong túi áo ra một con dao, lấy lưỡi dao tách ở tấm ván ra một mảnh gỗ thật mỏng. Làm thế xong, ông cụ cạo thật nhẵn hai mảnh gỗ và cắt nó thành từng miếng vuông nhỏ. Được cả thảy mười hai miếng dèn dẹt bằng nhau.
Tôi chăm chú xem ông cụ làm. Nhưng phải thú thật rằng mặc dù hết sức, tôi vẫn chưa hiểu ông cụ làm thế nào dùng mấy miếng gỗ tí tẹo ấy mà làm thành một quyển sách được. Vì rằng có dốt nát đến đâu chăng nữa, tôi cũng biết rằng một quyển sách gồm có một số tờ giấy trên đó vạch dấu đen. Mà ở đây thì nào có những tờ giấy ấy, nào có thấy những dấu đen kia! Ông cụ nói: -Trên mỗi mặt miếng gỗ nhỏ ấy, ngày mai ông sẽ lấy mũi dao khác một chữ cái. Cháu sẽ học hình dạng chữ và khi cháu thuộc lòng không nhầm lẫn nữa, thoáng trông đã biết, thì cháu sẽ ghép những chữ ấy lại với nhau thành từng tiếng. Cứ như thế cho đến khi cháu ghép được những tiếng ông bảo là cháu có thể đọc trong sách được rồi.
Chẳng bao lâu trong túi tôi bỏ đầy những miếng gỗ nhỏ và dần dần thuộc hết các chữ cái. Nhưng mà biết đọc lại là chuyện khác. Mọi sự không đi nhanh như thế đâu và đã có lúc tôi thấy hối là mình đã trót dại, muốn biết đọc.
Muốn cho công minh thì tôi phải nói rằng không phải vì lười mà đã có lần tôi đã hối tiếc như vậy. Tôi hối tiếc chỉ vì tự ái thôi. Khi dạy tôi những chữ cái cụ Vitali nghĩ rằng có thể dạy luôn cho con Capi được. Con chó đã nhớ những con số chỉ giờ thì tại sao nó không nhớ chữ cái được?
Thế là chúng tôi học chung bài vở. Tôi trở thành người bạn học của con chó, hay con chó là bạn học của tôi, nói thế nào cũng được. Tất nhiên là con Capi không đọc được những chữ nó nhìn thấy vì nó
không biết nói. Nhưng mà khi mấy miếng gỗ đã được trải ra trên mặt cỏ thì hễ cụ đọc chữ nào, nó phải lấy chân kéo chữ ấy ra.
Thoạt tiên thì tôi học mau hơn nó. Nhưng trí thông minh của tôi nhạy hơn thì trí nhớ của nó lại bền hơn. Cái gì nó học được là nó nhớ mãi mãi, không bao giờ quên. Vì nó không đãng trí cho nên không bao giờ nó ngập ngừng hoặc nhầm lẫn. Thế cho nên khi tôi nhầm lẫn thì cụ chủ lại bảo: -Rồi con Capi sẽ biết đọc trước Rêmi cho coi!
Và con chó hình như cũng hiểu nên nó vẫy đuôi đắc thắng. Cụ Vitali nói: -Ngu hơn một con vật, ở trên sân khấu thì hay đấy, nhưng ở ngoài đời mà như thế thì thật xấu hổ.
Điều đó kích thích tôi và làm cho tôi dốc lòng học tập. Tội nghiệp thay con chó trong khi nó giẫm chân tại chỗ ở cái bài chọn chữ cái để ráp tên, thì tôi đã xem được sách.
Cụ Vitali bảo: -Bây giờ cháu biết đọc chữ rồi, cháu có muốn học đọc nhạc không?
- Thế thì cháu biết âm nhạc rồi thì cháu có thể hát như ông được không?
- Cháu muốn hát như ông à?
- Ồ! Không phải hát như ông, cháu biết cái ấy không thể được. Cháu chỉ muốn hát được mà thôi.
- Nghe ông hát, cháu thích thú lắm sao?
- Đó là điều làm cháu vui thích nhất. Con chim oanh hót đã hay nhưng mà cháu tưởng ông hát còn hay hơn nhiều. Vả lại không phải lúc nào cũng giống nhau. Khi ông hát thì cháu hoàn toàn tùy quyền ông, ông bắt buồn thì cháu khóc, ông cho vui thì cháu cười. Cháu còn muốn nói với ông một điều mà có lẽ ông cho là ngu xuẩn: khi ông hát một điệu êm ái hay một điệu buồn thì điệu hát đó đưa cháu trở về với má Bácbơranh. Cháu nghĩ đến má cháu, cháu trông thấy má cháu ở trong nhà cháu, ấy thế mà nào cháu có hiểu những lời ông hát đâu, ông hát bằng tiếng Ý kia mà!
Tôi vừa nói vừa nhìn ông cụ và tôi thấy hình như ông cụ ứa nước mắt. Tôi bèn ngừng lại và hỏi xem có làm phiền lòng cụ không? Ông cụ cảm động trả lời: -Không đâu, cháu ạ. Cháu không làm ông buồn đâu. Trái lại, cháu làm ông nhớ lại tuổi trai trẻ, thời tươi đẹp của ông. Cháu cứ yên tâm, ông sẽ dạy cháu hát. Cháu là một đứa trẻ giàu tình cảm cho nên cháu cũng sẽ làm cho người ta khóc và cháu sẽ được người ta vỗ tay hoan hô. Rồi cháu xem…
Bỗng dưng ông cụ dừng lại, và tôi hiểu rằng ông cụ không muốn kể lể nhiều về câu chuyện này nữa. Nhưng mà lý do làm ông cụ không nói thì tôi không đoán được. Mãi về sau, lâu lắm về sau này, tôi mới hiểu rõ, biết trong trường hợp thật đau đớn, thật khủng khiếp với tôi. Khi nào câu chuyện của tôi tới đoạn ấy, tôi sẽ kể.
Ngay ngày hôm sau ông cụ dạy nhạc cho tôi cũng làm như cách dạy chữ. Nghĩa là ông cụ lại cắt những miếng gỗ vuông nhỏ và lấy dao khắc vào đó. Nhưng lần này việc ông cụ làm tốn công nhiều hơn vì rằng những dấu hiệu khác nhau để ghi nốt nhạc rắc rối hơn chữ cái nhiều.
Để cho túi nhẹ bớt, ông cụ dùng cả hai mặt gỗ. Sau khi rạch năm dòng tức là những dòng để viết nhạc, mặt bên này ông cụ khác khóa
sol và mặt bên kia là khóa fa. Khi cụ chuẩn bị mọi thứ đâu vào đó rồi thì tôi bắt đầu học. Tôi phải thú thực rằng học nhạc vất vả không kém học chữ. Ông cụ Vitali kiên nhẫn với mấy con chó là thế, mà với tôi thì nhiều lần đã lộn tiết lên. Cụ hét: -Với một con vật, người ta nhịn được bởi vì người ta biết nó là một con vật. Còn cháu thì cháu làm ông đến chết mất thôi!
Thế là ông cụ giơ tay lên trời như đóng kịch và thình lình bỏ rơi xuống đánh đét vào đùi. Con Giôlicơ vốn thấy có cái gì buồn cười thì thường nhại lại, nay thấy ông cụ làm thế là nó bắt chước ngay. Hầu như lúc nào tôi học bài nó cũng ngồi xem, cho nên khi tôi ngập ngừng lúng túng thì thấy y như rằng nó đưa tay lên trời rồi thả xuống trên đùi làm tôi bực mình. Còn ông cụ thì kêu: -Ngay đến con Giôlicơ cũng chế nhạo cháu đó.
Nếu tôi bạo mồm bạo miệng thì tôi sẽ cãi lại rằng nó chế nhạo cả thầy nữa chứ không phải trò mà thôi. Nhưng mà phần vì kính nể, phần vì sợ vẩn sợ vơ cho nên may quá, lần nào tôi cũng chặn câu ấy lại được. Tôi chỉ lẩm bẩm câu đó một mình mỗi khi con khỉ vừa nhăn nhó vừa buông tay đánh đét trên đùi. Lẩm bẩm như thế cũng đủ làm cho tôi đỡ xấu hổ phần nào.
Rốt cuộc tôi vượt qua những bước đầu ấy, mặc dù vất vả khi tập hát lần đầu tiên trên một bản ký âm do cụ Vitali viết trên giấy, tôi rất sung sướng. Hôm đó ông cụ không buông tay đánh đét nữa, mà lại vỗ vào hai bên má tôi một cách thân mật. Cụ bảo rằng nếu tôi cứ tiếp tục như vậy thì chắc chắn sẽ trở thành một danh ca.
Tất nhiên là việc học tập của tôi không hoàn thành trong một ngày. Trong hàng tuần, hàng tháng, lúc nào túi tôi cũng đầy những miếng gỗ nhỏ. Vả lại tôi cũng không được theo học đều đặn như các trẻ con khác theo học ở trường. Chỉ lúc nào rảnh, ông cụ mới dạy tôi.
Mỗi ngày chúng tôi phải đi một đoạn đường dài hay ngắn tùy theo các làng mạc cách xa dần. Chúng tôi phải biểu diễn bất cứ ở nơi nào nếu thấy ở nơi ấy có cơ thu tiền được, phải bắt bầy chó và ông Giôlicơ luyện tập, phải tự tay sửa soạn lấy bữa ăn sáng hay bữa ăn chiều. Xong xuôi các công việc đó thì mới nói đến chuyện đọc sách hay là học nhạc.
Thường thường tôi học ở chỗ nghỉ chân, dưới một gốc cây hoặc trên một đống đá, lấy thảm cỏ hoặc đường đi làm bàn để bày những miếng gỗ ra. Cách tập như thế khác hẳn với cách học tập của biết bao trẻ em khác. Những trẻ em này chỉ có mỗi một việc là học, thế mà vẫn cứ kêu ca là không có thì giờ học bài. Tuy nhiên phải thừa nhận rằng trong việc học tập có điều quan trọng hơn là thì giờ: đó là sự chuyên tâm.
Dành nhiều thì giờ để học bài cũng không làm cho bài học in sâu vào tâm trí. Tập trung tư tưởng mới làm cho ta đạt kết quả ấy. May làm sao tôi lại có khả năng tập trung tư tưởng, không để cho những trò chơi xung quanh mình lôi cuốn. Nếu tôi cũng như một số học sinh kia chỉ ngồi ì trong buồng, hai tay nút chặt tai lại mắt dán vào sách mới học được, thì hồ dễ tôi đã học được gì! Chắc là không gì cả. Bởi vì chúng tôi không có buồng để tự giam mình vào đó, và khi đi dọc theo những còn đường thiên lý, tôi phải luôn chú ý nhìn dưới chân không thì có khi ngã sấp mặt.
Rốt cuộc tôi đã học tập được đôi chút. Đồng thời tôi cũng tập đi được những độ đường dài và cái đó bổ ích cho tôi không kém gì những bài học của cụ Vitali. Khi còn ở với má Bácbơranh, tôi là một đứa trẻ khẳng kheo ốm yếu và cái cách người ta nói về tôi chứng tỏ điều đó một cách rõ ràng. Ông Bácbơranh thì bảo: "Nó là một thằng bé thành thị", cụ Vitali thì chế nhạo "chân tay nó mảnh khảnh quá". Sống ở bên cạnh ông chủ tôi, màn trời chiếu đất kham khổ, chân tay tôi rắn lại, ngực nở ra, da tôi dày dặn đi. Nhờ thế tôi chịu đựng được tất cả rét cũng như bức, nắng cũng như mưa.
Thời kỳ tập nghề này là một điều may mắn lớn cho tôi. Nó giúp tôi về sau thắng được những đòn khốc liệt mà số phận giáng xuống đầu mình trong tuổi niên thiếu.
8. VƯỢT NGÀN BĂNG NỘI
Chúng tôi chu du một phần miền Nam nước Pháp qua các tỉnh Ovécnhơ, Vơlê, Lănggơđốc… Cái lối đi của chúng tôi thật đơn giản: cứ việc đi tới phía trước, không suy nghĩ tính toán gì cả. Hễ trông thấy đằng xa có một làng nào không có vẻ quá tiêu điều là chúng tôi sửa soạn tiến vào một cách vinh quang. Tôi trang điểm chải chuốt cho mấy con chó, đội mũ cho con Đônxơ, mặc áo cho con Décbinô, dán một bên mắt cho con Capi để cho nó đóng vai một chiến bình kỳ cựu. Và tôi bắt con Giôlicơ mặc quân phục tướng Anh. Đó là phần việc khó nhọc nhất của tôi, bởi vì con khỉ biết rằng mặc áo là sắp sửa phải làm việc vất vả, nên nó cố sức chống cự. Nó nghĩ ra những ngón rõ ma mãnh để làm cho tôi thất bại. Thế là tôi phải cầu cứu con Capi. Vì con chó tỉnh táo, tinh ý và nhạy cảm cho nên bao giờ nó cũng phá được những trò ranh mãnh của con Giôlicơ.
Đoàn xiếc mặc đại lễ xong, cụ Vitali cầm ống tiêu thổi, và chúng tôi xếp đội ngũ chỉnh tề, diễu hành qua làng.
Nếu những kẻ hiếu kỳ kéo theo sau chúng tôi khá đông thì chúng tôi tổ chức ngay một buổi diễn. Nếu số người quá ít không hy vọng kiếm tiền được thì chúng tôi cứ tiếp tục đi. Chỉ tới những thành thị chúng tôi mới ở lại nhiều ngày, và khi đó thì buổi sớm tôi được tự do đi dạo chơi, muốn đi đâu thì đi, tôi dắt con Capi đi rong vơ vẩn các phố phường, tất nhiên con Capi chó nhà chứ không phải con Capi trong trang phục biểu diễn.
Thông thường cụ Vitali giữ tôi bên nách cụ. Nhưng trong những dịp trên thì cụ buông lỏng cho tôi mặc tình, mặc ý. Cụ bảo: -Ngẫu nhiên mà cháu được đi chu du nước Pháp ở cái lứa tuổi các trẻ con khác đang đi học tiểu học hay trung học, thì cháu hãy mở mắt ra, cố nhìn và gắng học hỏi. Khi cháu lúng túng, khi trông thấy điều gì chưa hiểu, muốn hỏi ông thì cứ việc hỏi, đừng sợ gì. Cũng có cái ông không thể giải thích cho cháu được vì ông không dám tự hào là cái gì cũng biết. Nhưng chắc là một đôi khi ông có thể làm cho tính ham hiểu biết của cháu được thỏa mãn đấy. Trước kia không phải bao giờ ông cũng làm anh bầu một gánh xiếc chó khỉ như thế này đâu!
Cho nên ông cũng đã học tập được nhiều cái khác kia, chứ không phải chỉ cái nghề trình diễn anh Capi hay ngài Giôlicơ với chư vị khán giả.
- Cái khác là những cái gì kia, thưa cụ?
- Để lúc nào rỗi ông sẽ nói chuyện. Bây giờ cháu chỉ biết rằng một người làm xiếc chó cũng có thể đã từng có địa vị trong xã hội, thế là đủ. Đồng thời cũng cần biết rằng hiện nay cháu ở bậc thấp nhất trong các bậc thang xã hội, nhưng nếu cháu muốn thì cháu cũng có thể leo lên bậc cao hơn. Cái đó một phần tùy hoàn cảnh, nhưng phần lớn là ở cháu. Cháu à, cháu hãy chịu khó nghe những bài học của ông, những lời ông khuyên bảo. Sau này lúc cháu lớn khôn, cháu sẽ cảm động và biết ơn ông khi cháu nhớ tới cái lão nhạc sĩ tội nghiệp đã khiến cháu khiếp đảm khi cướp cháu trong tay người mẹ nuôi của cháu. Ông cảm thấy rằng cuộc gặp gỡ giữa ông và cháu sẽ mang lại hạnh phúc cho cháu sau này.
Không biết trước kia ông cụ chủ tôi làm gì mà bây giờ hễ cứ nói đến là giữ gìn ý tứ nhỉ? Tôi cứ tò mò tự hỏi như thế và nghĩ ngợi. Nếu đúng như ông cụ nói, ông cụ đã từng ở một bậc thang cao trong xã hội thì tại sao bây giờ ông cụ lại đang ở bậc thấp? Ông cụ cho rằng nếu tôi muốn thì tôi có thể leo lên bậc cao, thế mà tôi thì chỉ là một đứa trẻ hèn mọn, dốt nát, không gia đình, không ai giúp đỡ. Thế thì tại sao chính ông cụ lại tụt xuống?
Sau khi rời dãy núi tỉnh Ovécnhơ, chúng tôi đến vùng đá vôi tỉnh Kécxi. Đó là những đồng bằng rộng lớn, mặt đất cuộn lên như những làn sóng không đều, trên đó chỉ có đất hoang và rừng cây thưa thớt. Không có miền nào buồn bã, nghèo nàn hơn thế. Đó là cảm tưởng của khách khi qua đây. Cái điều làm cho cảm tưởng này càng thêm rõ rệt là không thấy chỗ nào có nước cả. Không có sông, không có suối, cũng không có ao hồ. Đây đó là một vài lòng suối khô cạn trơ những sỏi đá. Nước thì đã tuồn vào những vực sâu và biến vào trong lòng đất để rồi lại rỉ ra ở nơi xa, tạo thành những dòng sông hay những giếng lộng.
Giữa đồng bằng đang bị khô hạn ấy, có một làng lớn gọi là làng Baxtimuyara. Chúng tôi nghỉ đêm lại đấy, trong vựa cỏ một quán trọ. Buổi tối trước khi ngủ, ông cụ Vitali nói: -Ở trong miền này, và có thể ở chính ngay quán trọ này, đã ra đời một con người từng làm chết
hại hàng ngàn binh lính. Người ấy xuất thân là một anh chàng giữ ngựa mà về sau làm nên vương bá. Ông ta tên là Muyra[9]. Người ta tôn ông ta là anh hùng và lấy tên ông ta đặt cho làng này. Ông có biết ông ấy và đã nhiều lần nói chuyện với ông ấy.
- Thuở ông ta giữ ngựa?
Câu hỏi đó bật ra ngắt lời ông cụ, tôi không kịp giữ lại. Ông cụ cười đáp: -Không, thuở ông ta làm vua. Ông đến làng Baxti lần này là lần đầu, còn ông gặp ông Muyra thì ở Naplơ kia, ở giữa triều đình của ông ta.
- Chao! Ông đã quen thân với một vị vua?
Chắc hẳn tiếng reo của tôi có gì ngộ nghĩnh lắm, vì thấy ông cụ lại phá lên cười, cười khá lâu.
Ông cháu chúng tôi ngồi trên một chiếc ghế dài trước chuồng ngựa, lưng tựa vào tường hãy còn ấm nắng ban ngày. Trên một cây sung lớn vòm lá trùm đầu chúng tôi, lũ ve sầu đang tung khúc nhạc đơn điệu của chúng. Trước mặt chúng tôi lửng lơ trên các mái nhà, vầng trăng tròn vạnh vừa mọc từ từ nhô lên giữa khoảng không. Cái đêm hôm ấy êm ả, đối với chúng tôi lại càng dễ chịu bởi vì ban ngày nóng bức quá chừng.
Cụ Vitali hỏi: -Cháu buồn ngủ chưa? Hay là cháu ưng nghe ông kể chuyện vua Muyra?
- Ồ! Chuyện vua Muyra, thưa ông.
Thế là ông cụ kể câu chuyện từ đầu chí cuối cho tôi nghe. Chúng tôi ngồi hàng mấy giờ đồng hồ liền trên ghế, ông cụ thì kể, tôi thì dán mắt lên gương mặt ông cụ mờ tỏ dưới ánh trăng xanh. Sao? Tất cả những sự việc đó có thể có được ư? Không những có thể có, mà lại có thực nữa chứ!
Cho tới lúc đó, tôi không có một ý niệm gì về lịch sử cả. Ai kể cho tôi nghe kia chứ? Nhất định là không phải má Bácbơranh rồi. Má có biết lịch sử là cái gì? Má sinh ra ở Savanông thì má lại chết ở đấy thôi. Trí óc của má không hề vượt ra quá tầm con mắt của má. Và đối với con mắt của má thì vũ trụ nằm trọn trong cái vành chân trời trông từ trên chóp núi Ôđudơra.
Cụ chủ tôi đã trông nhiều thấy rộng làm sao!
Không biết thời trai trẻ ông cụ là người thế nào nhỉ? Tại sao ông cụ lại trở thành cái người như giờ đây tôi trông thấy trong tuổi già nua? Hẳn ai cũng phải nhận rằng tất cả những điều đó đủ làm cho trí tưởng tượng tỉnh táo, linh hoạt, hiếu kỳ của một đứa trẻ làm việc không ngừng.
9. TÔI GẶP MỘT NGƯỜI KHỔNG LỒ ĐI HÀI BẢY DẶM
Tôi còn nhớ đi khỏi miền đá vôi khô cằn thì chúng tôi lọt vào một thung lũng quanh năm xanh tươi. Đó là thung lũng sông Đoócđônhơ. Chúng tôi đi xuôi chiều thung lũng, đi những chặng ngắn thôi. Đất đai màu mỡ làm cho dân cư giàu có, cho nên chúng tôi biểu diễn được nhiều lần. Tiền thưởng rơi vào cái bát gỗ của con Capi khá dễ.
Một cái cầu lơ lửng trên không như treo trong sương mù bằng những sợi tơ nhện giăng ngang trời, vắt qua một con sông rộng, nước chảy lững lờ. Đó là cầu Cúpdắc và sông Đoócđônhơ.
Một thành phố đổ nát, có hào, có hang động, có vọng lâu, có những tường thành rạn nứt của một tu viện ở giữa, có lũ ve sầu kêu râm ran trên những cây nhỏ rải rác đó đây. Đó là thành phố Êmiliông.
Tất cả những thứ này đều mập mờ hỗn độn trong trí nhớ của tôi. Duy có một cảnh tượng dội khá mạnh vào đầu óc tôi khiến nó ghi nhớ mãi cho đến ngày nay. Mỗi khi tôi hồi tưởng lại thì cảnh tượng ấy lại hiện lên rõ nét như ban đầu.
Chúng tôi ngủ đêm ở một làng khá nghèo khổ và hôm sau chúng tôi lại ra đi khi trời vừa hửng sáng.
Chúng tôi đi đã lâu lắm trên đường cái đầy bụi. Tầm con mắt đang bị thu hẹp vào một con đường nhỏ hai bên trồng nho, bỗng dưng mở rộng ra trên một khoảng mênh mông, dường như có chiếc gậy thần đã đụng vào một bức phông đột nhiên buông xuống trước mặt chúng tôi.
Một con sông chảy uyển chuyển vòng quanh ngọn đồi, chúng tôi vừa bước chân tới. Bên kia sông, những mái nhà và những gác chuông của một thành phố lớn rải rác khắp nơi, tít chân trời mờ dạng. Nhà mới nhiều làm sao! Và biết bao nhiêu là ống khói! Một vài ống khói cao và đẹp hơn, vươn lên như những cây cột, phun từng luồng khói đen cuồn cuộn bay theo chiều gió tạo thành một đám mây mù trên thành phố! Ở giữa dòng sông và dọc theo bến tàu, tàu thủy đậu ngổn ngang chen chúc. Dây lèo, cột buồm, cánh buồm, cờ
muôn màu sắc phất phơ trước gió, tất cả những cái ấy chen nhau chi chít như cây trong rừng. Có những tiếng ầm ầm ì ì, tiếng sắt vụn loảng xoảng, tiếng xoong chảo, tiếng búa dập và trên cả các tiếng đó là tiếng rầm rầm của vô số xe cộ chạy nhộn nhịp trên bến tàu. Cụ Vitali nói: -Thành phố Boócđô đấy.
Đối với một đứa trẻ như tôi, một đứa trẻ cho tới lúc ấy chỉ trông thấy những thôn xóm nghèo nàn ở miền sông Crơdơ hay một vài đô thị nhỏ tình cờ gặp trên đường đi, thì quang cảnh này quả thực là thần tiên. Không nghĩ ngợi gì cả, chân tôi tự nhiên dừng lại. Tôi đứng yên nhìn về phía trước, nhìn xa, nhìn gần, nhìn xung quanh. Nhưng rồi mắt tôi chăm chú nhìn vào một điểm: con sông và tàu trên sông. Tàu bè ra vào nhộn nhịp làm cho tôi chú ý nhưng tôi chẳng hiểu gì cả, và càng không hiểu lại càng chăm chú.
Có những chiếc tàu buồm giương thẳng cánh, thân nghiêng chênh chếch xuôi theo dòng sông. Có những chiếc khác đi ngược dòng nước. Có chiếc đang quay tròn mà tôi chẳng trông thấy cái gì làm nó quay như vậy. Lại cũng có những chiếc không cột, không buồm nhưng có một ống khói nhả khói lên trời cuồn cuộn. Chúng chạy thật nhanh, xuôi ngược đủ chiều, để lại sau lái những làn bọt trắng trên mặt nước vàng vàng.
Thấy tôi ngạc nhiên, cụ Vitali giải thích, tuy tôi không hỏi: -Đây là giờ thủy triều lên. Có những con tàu từ biển khơi vào sau những cuộc hành trình lâu dài: đó là những tàu trông như han gỉ, màu sơn đã bẩn. Cũng có tàu rời bến. Cháu hãy nhìn những con tàu đang quay ở giữa sông kia kìa, chúng đang trở mũi quanh neo, để cho mũi tàu quay về phía ngọn nước dâng lên. Những tàu chạy trong đám khói mù mịt kia là những tàu kéo đấy.
Chà sao mà lắm tiếng kỳ lạ thế! Sao mà lắm điều mới mẻ thế! Khi chúng tôi đi đến chiếc cầu nối liền Baxti với Boócđô thì cụ Vitali không có đủ thì giờ để trả lời lấy một phần trăm những câu tôi muốn hỏi cụ.
Cho tới lúc đó chúng tôi chưa ở lại lâu trong những đô thị mà chúng tôi đi qua. Yêu cầu biểu diễn bắt buộc chúng tôi ngày nào cũng phải thay đổi nơi diễn để có khán giả mới. Với những diễn viên như trong “gánh xiếc của cụ Vitali trứ danh” thì tiết mục cũng chẳng được phong phú cho lắm. Khi đã diễn những vở: “Người đầy tớ của
ông Giôlicơ”, “Cái chết của vị tướng”, “Sự đắc thắng của người chính trực”, “Con bệnh tẩy ruột” và ba bốn vở khác nữa thì chẳng còn gì, và các diễn viên của chúng tôi cũng đã dốc cạn tài nghệ rồi. Do đó phải đi chỗ khác để diễn lại vở “Con bệnh tẩy ruột” hoặc “Sự đắc thắng của người chính trực” cho những khán giả chưa từng xem.
Nhưng Boócđô là một thành phố lớn. Khán giả đổi mới thường xuyên. Từ khu phố này sang khu phố khác, mỗi ngày chúng tôi có thể diễn ba bốn lần, không sợ người ta la ó như ở tỉnh Caho: “Bao giờ cũng có thể thôi à?”.
Từ Boócđô chúng tôi định đến Pô. Hành trình của chúng tôi phải trải qua một vùng đất hoang rộng lớn chạy dài từ cửa ô Boócđô mãi cho tới dãy núi Pyrênê. Nơi này người ta gọi là vùng Lăngdơ. Tôi bây giờ thì chẳng còn giống hệt con chuột nhắt trong chuyện ngụ ngôn nữa, nó thấy cái gì cũng ngạc nhiên, cũng thán phục hay sợ hãi tuy thế ngay buổi đầu cuộc hành trình này, tôi đã bị một cái nhầm làm chủ tôi phì cười và chế giễu tôi mãi cho tới khi đến thành phố Pô.
Chúng tôi đã rời Boócđô được bảy tám ngày. Trước hết chúng tôi đi dọc theo bờ sông Garon. Chúng tôi rời con sông ở xã Lănggông rồi đi vào con đường núi Mácxăng xuyên sâu vào nội địa. Chẳng còn thấy ruộng nho, đồng cỏ, vườn cây ăn quả đâu nữa. Chỉ thấy toàn là rừng thông và bãi thạch thảo. Rồi nhà cửa cũng thưa thớt và xác xơ hơn. Tiếp đến một vùng đồng lầy trải mênh mông trước mắt với những nếp đất nhấp nhô. Ở đây không trồng trọt cũng không có rừng. Xa xa chỉ có một màu đất xám và ở cạnh, dọc hai bên đường cái phủ rêu mịn như nhung và những cây thạch thảo khô héo và những cây kim tước chi cằn cỗi. Cụ Vitali nói: -Chúng ta đến miền Lăngdơ rồi đấy. Chúng ta còn phải đi giữa cánh đồng hoang vu này độ chừng hai mươi hay hai mươi lăm dặm nữa! Cháu phải vững chân nhé!
Không những là phải vững chân mà còn phải vừng lòng vững chí. Vì đi trên con đường hầu như vô tận, tôi cảm thấy ngập một nỗi buồn không gì khuây khỏa được.
Sau này tôi đã nhiều lần đi biển. Lần nào cũng vậy, cứ ra đến giữa đại dương, không còn thấy bóng cánh buồm nào nữa thì nỗi
buồn vẩn vơ khó tả ấy lại tràn ngập lòng tôi như ở giữa cảnh hiu quạnh này.
Cũng như ở trên đại dương, mắt chúng tôi phóng tới tận chân trời chìm đắm trong hơi thu mà chẳng nhìn thấy cái gì khác ngoài cảnh đồng bằng xám ngắt, phẳng lì và đơn điệu, trải ra trước mặt chúng tôi.
Thầy trò chúng tôi đi mãi. Bất giác nhìn quanh thì tưởng như mình vẫn giẫm chân tại chỗ không tiến được bước nào vì cảnh vật không thay đổi, vẫn những cây thạch thảo, vẫn những cây kim tước chi, vẫn những đám rêu. Rồi đến những cây phượng vĩ, lá mềm mại rung rung dưới gió, lượn lên lượn xuống uyển chuyển như sóng gợn.
Phải vượt những quãng đường dài mới gặp vài khu rừng nhỏ. Thông thường hễ có rừng thì phong cảnh vui tươi lên. Song những khu rừng này thì lại không thế. Rừng trồng những cây thông chặt cành đến tận ngọn. Ở thân cây có các vết đẽo sâu hoắm và ở trên các sẹo màu đỏ ấy nhựa thông chảy ra kết tinh lại thành những giọt trắng. Gió thổi từng cơn qua lá thông tạo nên một bản nhạc bi ai làm cho người ta tưởng như nghe thấy tiếng những thân cây bị chặt than vãn về vết thương của mình.
Cụ Vitali đã bảo rằng tối nay chúng tôi sẽ về đến thôn xóm và sẽ ngủ ở đó. Nhưng trời sắp tối rồi mà chưa thấy cái gì báo trước sẽ đến làng mạc. Không có ruộng đồng trồng trọt, không có súc vật ăn cỏ trên cánh đồng hoang và đằng xa cũng không có cột khói nào báo cho mình biết nơi đó có nhà.
Đi từ sáng sớm, tôi đã mỏi và càng thấy mỏi mệt hơn nữa vì có một sự uể oải ngao ngán đã xâm chiếm toàn thân. Cái làng hạnh phúc kia dễ không bao giờ hiện ra ở đầu con đường vô tận này chắc!
Tôi cố mở thật to mắt nhìn thật xa, vẫn chỉ thấy đồng hoang vô tận mà những bụi cây mỗi lúc càng nhòa đi trong bóng tối dần dần dày đặc.
Lòng mong mỏi sắp đến chỗ nghỉ làm chúng tôi rảo bước đi nhanh. Tuy đã quen đi đường dài, chủ tôi cũng thấy mỏi. Ông cụ muốn dừng chân để nghỉ một lát ở bên đường. Đáng lẽ ra tôi cũng ngồi xuống cạnh ông cụ nhưng tôi lại muốn trèo lên một ngọn đồi
kim tước chi nhỏ gần lối đi, để xem có trong thấy nơi nào có ánh đèn không?
Tôi gọi con Capi tới để nó đi với tôi, nhưng nó cũng mệt nên tảng lờ như không nghe thấy. Đó là cái mánh lới thường lệ của nó, mỗi khi nó không thích làm theo ý tôi. Cụ Vitali hỏi: -Cháu sợ à?
Nghe hỏi như vậy tôi không nài thêm nữa, nhất quyết đi một mình. Tôi thấy không chút gì sợ hãi nên càng không muốn cho chủ tôi chế giễu tôi. Đêm đã đến vào không có trăng nhưng có sao lấp lánh trên trời và ánh sáng xuống bầu không khí đầy những hơi mùn mỏng nhẹ, mắt có thể nhìn qua.
Vừa đi tôi vừa đưa mắt nhìn bên trái. Buổi hoàng hôn đầy sương khói ấy tạo cho mọi vật những hình dạng kỳ dị. Phải suy luận mới nhận ra những bụi cây, những lùm kim tước chi, nhất là mấy cái cây nhỏ thân cong queo, cành vặn vẹo. Từ xa, những bụi bờ, những lùm kim tước chi, những cây cối đó trông chẳng khác gì những sinh vật của một thế giới kỳ quái.
Thật là kỳ lạ! Dường như bóng tối làm cho cánh đồng hoang biến hình và có rất nhiều bóng ma huyền bí xuất hiện.
Tôi không hiểu tại sao tôi chợt nảy ra ý nghĩ là người khác ở vào địa vị tôi có lẽ phải khiếp sợ trước những hình bóng ma quỷ đó. Có thể được lắm, vì cụ Vitali đã chẳng hỏi tôi có sợ không là gì? Tuy vậy tự hỏi lòng, tôi không thấy sợ chút nào.
Tôi càng leo lên sườn đồi thì thấy những thân cây kim tước chi càng chắc hơn, cây thạch thảo và cây phượng vĩ càng cao hơn, ngọn cây thường cao quá đầu và đôi khi tôi phải luồn dưới lá của chúng.
Chẳng bao lâu tôi lên tới đỉnh gò. Tôi cố mở to mắt ra mà cũng chẳng thấy một đốm lửa nhỏ nào cả, tầm mắt tôi mất hút vào trong bóng tối: chỉ có những hình dáng mập mờ, những bóng đen kỳ quái, những cây kim tước chi vươn cành đến tôi như những cánh tay dài mềm dẻo, những bụi cây đang nhảy múa. Không nhìn thấy cái gì báo hiệu cho biết là gần đây có nhà ở. Tôi lắng nghe có tiếng gì không, tiếng bò rống hay tiếng chó sủa chẳng hạn.
Cố lắng tai nghe, nín thở để nghe cho rõ, bỗng tôi thấy rùng mình. Sự yên lặng của đồng hoang đã làm cho tôi đâm hoảng. Tôi sợ. Sợ cái gì chứ? Tôi không biết. Có lẽ sợ sự yên lặng, sợ cảnh cô
quạnh và đêm tối. Dù sao, tôi cảm thấy như sắp gặp điều gì nguy hiểm.
Giữa lúc tôi hoang mang nhìn quanh thì thấy ở xa một bóng đen lớn chuyển động thật nhanh trên những cây kim tước chi. Đồng thời tôi cũng nghe thấy như có tiếng sột soạt của cành lá bị va chạm.
Tôi cố tự nhủ rằng vì sợ nên đã quáng mắt trông lầm và cái bóng đen kia có lẽ chỉ là một cái cây mà thoạt đầu tôi chưa trông thấy. Nhưng còn tiếng động kia là gì vậy? Không có tí gió nào. Những cành cây dù nhẹ đến đâu chăng nữa, tự nó cũng không rung chuyển được. Phải có gió nhẹ đu đưa hay có người lay động nó! Có người chăng? Cái hình thù to lớn đen sẫm đang tiến về phía tôi kia không thể nào là người được! Có lẽ là một con thú mà tôi chưa từng thấy bao giờ, hoặc đúng hơn là một con chim đêm khổng lồ, hoặc một con nhện lớn vô cùng có bốn chân lêu đêu nổi bật lên nền trời xanh nhạt trên những bụi rậm, những lùm cây phượng vĩ. Có điều chắc chắn là cái con vật có bộ cẳng cao lêu nghêu ấy đang tiến về phía tôi bằng những bước nhảy gấp rút. Đích thị là nó đã trông thấy tôi và chạy xổ đến tôi.
Ý nghĩ ấy làm cho đôi chân tôi lại thấy dẻo dang. Tôi xoay người lao xuống dốc để chạy về với cụ Vitali.
Nhưng mà lạ thay! Lúc xuống thì tôi lại đi chậm hơn là đi lên. Tôi lao vào những đám kim tước chi và những đám thạch thảo. Tôi va vấp vào cây, tôi bị móc lại, cứ mỗi bước mỗi dừng.
Vừa mới gỡ thoát bụi gai ra, tôi lé mắt nhìn lại phía sau thì thấy con vật sắp đến gần chỗ tôi rồi.
May thay bãi hoang không còn vướng víu những bụi rậm nữa và tôi chạy được nhanh hơn.
Nhưng dù tôi chạy nhanh bao nhiêu con vật cũng vẫn chạy nhanh hơn. Tôi không ngoảnh cổ lại vẫn cảm thấy nó đến sát sau lưng rồi.
Tôi không thở được nữa. Phần thì lo sợ, phần thì phải chạy cuống cuồng, tôi đứt cả hơi. Nhưng tôi vùng lên, cố gắng hết sức bình sinh một lần nữa, chạy đến ngã khuỵu xuống bên chân cụ chủ tôi. Trong lúc ấy ba con chó thình lình đứng cả dậy và sủa rộ lên. Tôi chỉ lắp đi lắp lại được hai tiếng: -Con vật, con vật!
Bỗng tiếng đàn chó cắn lao nhao, tôi nghe một tiếng cười vang dội. Cũng lúc ấy, cụ chủ tôi đặt tay lên vai tôi, xoay người tôi lại: - Con vật vẫn là cháu! – Ông cụ vừa nói vừa cười – Cháu hãy thử nhìn xem, nếu cháu có gan nhìn.
Tiếng cười của ông cụ, còn hơn cả câu nói, làm cho người tôi tỉnh lại. Tôi mở mắt ra và nhìn theo phía tay cụ chỉ.
Con quái vật hiện hình vừa rồi làm cho tôi hoảng sợ, đã dừng lại: nó đứng im trên đường cái.
Tôi phải thú thực rằng tôi vẫn còn ghê tởm và kinh sợ. Nhưng bây giờ không còn ở giữa cánh đồng hoang nữa. Ông cụ Vitali ngồi đó, bầy chó vây quanh, tôi không bị cảnh vắng lặng quạnh hiu làm cho rối trí. Tôi định thần nhìn kỹ con vật.
Có phải là con vật không? Hay là một con người.
Thân hình, đầu và tay nó thì y như người. Nhưng nó lại có vẻ thú ở chỗ toàn thân phủ một bộ lông dày, chễm chệ trên đôi cẳng dài khẳng kheo, dễ thường cao đến đôi ba thước. Mặc dù bóng tối đã dày hơn, tôi vẫn nhận rõ những chi tiết ấy, vì cái hình dạng to lớn của nó nổi bật lên đen sẫm trên nền trời có ánh sáng nhờ nhờ của vô số vì sao.
Có lẽ tôi vẫn còn loay hoay với câu hỏi của tôi nếu cụ chủ không lên tiếng hỏi con quái vật đó: -Này, anh có thể cho chúng tôi biết ở gần đây có làng mạc gì không?
Đúng là người rồi, vì người ta nói chuyện với nó mà. Đáp lại câu hỏi của cụ chủ, tôi chỉ nghe thấy một tiếng cười cụt lủn giống như tiếng kêu của một con chim.
Thế thì đây rõ là một con vật.
Tuy vậy chủ tôi vẫn tiếp tục hỏi, thế mới lạ chứ. Vì rằng ai cũng biết giống vật đó đôi khi cũng hiểu ta nói gì đấy, nhưng bảo trả lời thì chúng trả lời thế nào được.
Tôi rất đỗi ngạc nhiên khi thấy con vật nói lại rằng quanh vùng này chẳng có nhà ở, chỉ có một trại chăn cừu và nó sẵn lòng đưa chúng tôi đến đó.
Thì ra nó nói được! Thế sao nó có cẳng nhỉ?
Nếu không bạo gan thì tôi đã lại gần nó để xem chân cẳng nó ra thế nào. Nó chẳng có vẻ dữ tợn vậy mà tôi cũng không có cái can đảm ấy. Tôi nhắc xắc lên vai đi theo cụ chủ tôi, không nói không
rằng. Ông cụ vừa đi vừa hỏi: -Cháu đã thấy cái gì làm cho cháu bị một mẻ hết hồn chưa?
- Có, nhưng cháu vẫn không hiểu là thế nào, ở vùng này có những người khổng lồ hay sao?
- Phải, là người khổng lồ khi họ đi trên đôi chân cà kheo! Ông cụ giải thích cho tôi là người xứ Lăngđơ muốn đi ngang qua những khoảng đất đai có nhiều cát hoặc đầm lầy ở bàn đạp. Có như thế mới khỏi thụt lún xuống tận hông.
- Ấy thế là, đối với những đứa trẻ nhát gan, họ trở thành những người khổng lồ đi hài bảy dặm đấy!
10. RA TRƯỚC CÔNG LÝ
Tôi còn giữ một kỷ niệm thật dễ chịu về thành phố Pô. Gió hầu như không bao giờ thổi ở thành phố này. Vì chúng tôi dừng lại ở đó suốt mùa đông, ngày ngày cứ ở trên các đường phố, các nơi công cộng và các nơi người ta đi dạo, cho nên tôi rất thích cái thuận lợi không có gió đó. Chuyện ấy cũng dễ hiểu thôi. Tuy vậy đó cũng không phải là lý do khiến chúng tôi dừng lại lâu dài ở đó, khác với lệ thường. Có một lý do khác có giá trị quyết định đối với chủ tôi, tôi muốn nói khoản thu nhập dồi dào ở đây.
Thật vậy, suốt cả mùa đông, khán giả của chúng tôi là những em nhỏ không bao giờ chán cái chương trình biểu diễn của gánh xiếc. Không bao giờ các em la “Buổi nào cũng chỉ có thế này thôi à?”
Phần đông là những trẻ em Ănglê: những chú bé béo tốt, da thịt hồng hào và những cô gái nhỏ bé xinh xinh có đôi mắt to và hiền từ, đẹp gần như mắt con Đônxơ. Nhờ vậy tôi được biết bánh Anbe, bánh Hônly và nhiều thứ bánh khác. Trước khi đi chơi, các chú đã nhét đầy túi để rồi đem chia cho con khỉ Giôlicơ, mấy con chó và tôi một cách hào phóng.
Đến những ngày ấm áp đầu xuân thì khán giả của chúng tôi cũng bắt đầu thưa thớt dần. Sau buổi biểu diễn, nhiều khi có những trẻ em đến bắt tay con Giôlicơ và con Capi. Đó là các em từ biệt chúng nó. Hôm sau thì chúng tôi không thấy các trẻ em ấy đâu nữa.
Chẳng bao lâu chỉ còn chúng tôi trơ trọi giữa các nơi công cộng. Chúng tôi phải nghĩ đến việc rời bỏ những khu vực ấy. Một buổi sáng chúng tôi lên đường. Đi chẳng mấy chốc đã không nhìn thấy vọng lâu Gátxtông Phêbuýt và Môngtôdê đâu nữa. Chúng tôi lại tiếp tục đời sống lang thang, phiêu dạt trên các ngả đường. Lâu lắm, tôi không nhớ là bao nhiêu ngày, bao nhiêu tuần lễ, chúng tôi cứ đi lên phía trước, dọc theo các thung lũng, trèo qua những trái đồi. Bên phải chúng tôi luôn có các đỉnh núi dãy Pyrênê xanh xanh giống như những đám mây chồng chất lên nhau. Thế rồi một buổi chiều chúng tôi đến một thành phố lớn ở trên bờ sông, giữa một cánh đồng phì nhiêu. Nhà cửa phần lớn xấu xí, bằng
gạch đỏ. Đường phố rải đá cuội làm đau nhói bàn chân những người khách vừa đi hàng chục dặm đường trong ngày. Chủ tôi bảo rằng chúng tôi đã đến tỉnh Tuludơ và có lẽ sẽ ở đây lâu.
Như thường lệ, công việc đầu tiên của chúng tôi ngày hôm sau là đi tìm kiếm những địa điểm thuận lợi để biểu diễn. Chúng tôi đã tìm thấy rất nhiều, vì ở Tuludơ những chỗ đi dạo chơi không thiếu, nhất là ở khu vực cạnh vườn bách thảo. Ở đó có một bãi cỏ đẹp, có cây cao bóng mát, có những đường lớn trồng cây từ các nơi đổ về. Chúng tôi dựng rạp, căng màn, dàn trò ở trên một lối đi như thế. Ngay những buổi biểu diễn đầu tiên chúng tôi đã thu hút đông khán giả.
Nhưng rủi thay, viên cảnh sát trông coi khu vực này có vẻ không bằng lòng khi thấy chúng tôi kéo đến. Hoặc vì không thích chó, hoặc vì việc biểu diễn của chúng tôi làm trở ngại công việc của y, hoặc vì một lý do gì khác, y muốn chúng tôi phải rời đi nơi khác.
Đáng lẽ vào địa vị chúng tôi, chịu lép vế trước là khôn hơn hết. Sự tranh chấp giữa những người làm trò rong khốn khổ như chúng tôi với những người cảnh sát là một sự tranh chấp không ngang sức. Ông cụ chủ tôi vốn là người kiên nhẫn, nhưng lần này ông cụ có một tâm lý khác thường nên không nghĩ như vậy.
Tuy rằng hiện này ông cụ chỉ là một người làm xiếc chó vừa nghèo khổ vừa tuổi tác, nhưng ông cụ có tính tự trọng, hơn nữa ông cụ hiểu biết quyền lợi của mình. Nghĩa là, theo như lời giải thích của ông cụ, ông cụ tin chắc rằng sẽ được bênh vực, nếu không làm điều gì sai trái với pháp luật hay điều lệ cảnh sát.
Do đó ông cụ không chịu theo lệnh viên cảnh sát khi hắn ta muốn đuổi chúng tôi khỏi đại lộ.
Khi chủ tôi muốn dằn cơn nóng của mình xuống thì ông hay thường dùng cái lễ phép của người Italia của mình quá mức. Qua cách thưa gửi của ông cụ người ta tưởng chừng như ông cụ đang bẩm báo với những nhân vật cực kỳ quan trọng.
- Thưa ngài đại diện chính quyền cao quý – ông cụ ngả mũ trả lời viên cảnh sát, – ngài có thể cho chúng tôi xem điều lệ nào của nhà chức trách đã cấm những kẻ làm trò hèn mọn như chúng tôi đem cái nghề tầm thường của họ trình bày ở nơi công cộng này không?