🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Khi Lỗi Thuộc Về Những Vì Sao - John Green
Ebooks
Nhóm Zalo
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG MỘT
CHƯƠNG HAI
CHƯƠNG BA
CHƯƠNG BỐN
CHƯƠNG NĂM
CHƯƠNG SÁU
CHƯƠNG BẢY
CHƯƠNG TÁM
CHƯƠNG CHÍN
CHƯƠNG MƯỜI
CHƯƠNG MƯỜI MỘT
CHƯƠNG MƯỜI HAI
CHƯƠNG MƯỜI BA
CHƯƠNG MƯỜI BỐN
CHƯƠNG MƯỜI LĂM
CHƯƠNG MƯƠI SÁU
CHƯƠNG MƯỜI BẢY
CHƯƠNG MƯỜI TÁM
CHƯƠNG MƯỜI CHÍN
CHƯƠNG HAI MƯƠI
CHƯƠNG HAI MƯƠI MỐT CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI
CHƯƠNG HAI MƯƠI BA
CHƯƠNG HAI MƯƠI BỐN CHƯƠNG HAI MƯƠI LĂM LỜI CẢM ƠN
Khi thủy triều dâng, Chú Tulip Hà Lan nhìn chăm chắm ra biển:
“Kết hợp cũng đây - hàn gắn cũng đây - hủy hoại cũng đây - che đậy cũng đây - mà phát hiện cũng đây. Nhìn mà xem, lên đó rồi xuống đó, cuốn theo mọi thứ.”
“Cái gì hả chú?” tôi thắc mắc.
“Nước đó,” chú Hà Lan trả lời. “Chà, còn thời gian nữa.” - PETER VAN HOUTEN, Nỗi đau tột cùng
CHƯƠNG MỘT
The Fault in Our Stars
Vào cuối mùa đông năm tôi mười bảy tuổi, Mẹ quả quyết rằng
tôi sống thật đáng chán, có lẽ vì tôi hiếm khi ra khỏi nhà, cứ nằm bẹp gí trên giường, nhai đi nhai lại một cuốn sách, ăn uống thất thường, và dành khá nhiều thời gian rảnh rỗi của mình để nghĩ về cái chết.
Bất cứ khi nào bạn đọc một cuốn sổ tay, trang web hoặc bất cứ điều gì về ung thư, người ta luôn liệt kê trầm cảm là một trong những tác dụng phụ của căn bệnh này. Nhưng trên thực tế, trầm cảm không phải là tác dụng phụ của ung thư. Trầm cảm là tác dụng phụ của việc chờ chết. (Ung thư cũng là một tác dụng phụ của cái sự chờ chết này. Hầu như tất cả mọi thứ đều vậy, thật đó!) Nhưng Mẹ tin rằng tôi cần được điều trị nên bà đưa tôi đến gặp ông Jim, ông bác sĩ quen của tôi. Bác sĩ Jim cũng đồng tình là tôi quả thực đang bơi trong một bể trầm cảm làm tê liệt mọi hoạt động và khiến tôi thờ ơ với mọi sự xung quanh. Vì thế cần phải điều chỉnh liệu trình chữa bệnh của tôi. Lời khuyên đưa ra là hằng tuần tôi nên đến tham gia Hội Tương Trợ.
Hội Tương Trợ là một sân khấu gồm nhiều diễn viên trẻ mắc đủ loại bệnh ung bướu khác nhau thi nhau luân diễn cùng một vai. Tại sao lại luân diễn vai đó? Tôi nói rồi, là tác dụng phụ của sự chờ chết ấy mà!
Dĩ nhiên Hội Tương Trợ này chán òm như chui vô hòm. Chúng tôi gặp nhau vào thứ Tư hằng tuần dưới tầng hầm của một nhà thờ Tân giáo được xây bằng đá và có hình dạng của cây thập tự. Cả nhóm ngồi tụ thành vòng tròn ở giữa cây thập tự này, nơi hai đoạn thập tự giá giao nhau, ngay chỗ trái tim của Chúa Giêsu.
Tôi nhận thấy điều này bởi vì anh Patrick, Hội Trưởng Hội Tương Trợ và là người duy nhất trên mười tám tuổi trong bọn, cứ huyên thuyên về chuyện trái tim của Chúa Giêsu vào mỗi buổi họp, về tất
tần tật những chuyện làm thế nào mà chúng tôi, những bệnh nhân ung thư trẻ tuổi còn sống, đang ngồi ngay giữa trái tim rất thiêng liêng của Ngài và bất cứ chuyện nhăng nhít nào khác.
Sau đây là những gì đã diễn ra chỗ trái tim của Chúa: Khoảng sáu hoặc bảy hoặc mười người trong chúng tôi đi/ đẩy xe lăn đến, lướt mắt qua hàng bánh quy và nước chanh nghèo nàn, ngồi xếp thành một Vòng tròn Tin tưởng, và lắng nghe anh Patrick kể lại câu chuyện lần thứ một ngàn về cuộc đời khốn khổ và nhạt nhẽo của anh - rằng anh bị ung thư tinh hoàn và mọi người cứ đinh ninh rằng anh sẽ chết, nhưng anh đã không chết. Giờ anh ở đây, dưới tầng hầm nhà thờ tại thành phố xinh đẹp hạng thứ 137 của Mỹ. Và anh là một người đàn ông trưởng thành, đã ly dị vợ, nghiện chơi điện tử và hầu như không có bạn bè. Nghề tay trái giúp anh cải thiện cuộc sống đạm bạc hằng ngày là khai thác triệt để bi kịch chống chọi với căn bệnh ung thư trong quá khứ và tìm cách học dần lên thạc sĩ, vốn sẽ chẳng giúp mấy cho tương lai sự nghiệp của anh. Và anh cũng chờ đợi, như cả bọn đang mòn mỏi đợi thanh gươm Damocles đến giải thoát cho mình, một kết thúc mà anh đã may mắn thoát khỏi từ nhiều năm trước, khi căn bệnh ung thư quái ác tước mất của anh cả hai hòn bi. Nhưng cũng còn may là chừa cho anh mạng sống, như những người nhân ái vẫn thường chép miệng an ủi.
VÀ BIẾT ĐÂU CÁC BẠN CŨNG SẼ MAY MẮN NHƯ THẾ!
Sau đó, chúng tôi lần lượt giới thiệu bản thân: Tên, tuổi, chẩn đoán của bác sĩ, và tình trạng sức khỏe ngày hôm nay. Đến phiên mình, tôi nói như thuộc lòng: “Mình là Hazel. Mười sáu tuổi. Mới đầu chỉ là ung thư tuyến giáp nhưng nào ngờ đã có hẳn một binh đoàn hoành tráng di căn từ lâu vào trong phổi của mình. Và mình vẫn ổn.”
Mỗi khi chúng tôi giới thiệu hết một lượt, anh Patrick luôn hỏi xem có ai muốn chia sẻ thêm không. Và sau đó lại bắt đầu một vòng tròn tương trợ: cả bọn thi nhau kể lể nào là tranh đấu, chiến đấu và chiến thắng, nào là khối u bị thu hẹp và phải chụp cắt lớp kiểm tra. Để công bằng, anh Patrick cũng cho phép chúng tôi nói về việc chờ chết. Nhưng hầu hết chúng tôi sẽ không sớm gặp tử thần. Đa số sẽ sống đến khi trưởng thành, như anh Patrick vậy.
(Điều này đồng nghĩa với việc sẽ gây ra nhiều cuộc đua tranh trong nhóm, khi mỗi bạn không chỉ muốn đánh bại căn bệnh ung thư mà còn mong hạ gục mấy bạn còn lại. Cũng giống như, tôi thấy điều này thật khó giải thích cho suôn sẻ, chẳng hạn như khi họ nói rằng bạn chỉ có 20 phần trăm cơ hội để sống thêm năm năm nữa thì ngay lập tức bạn nhẩm tính và ra kết quả một phần năm... Rồi bạn nhìn quanh và thầm nghĩ giống như cách một người khỏe mạnh hay nghĩ, là mình phải sống lâu hơn bốn bạn khác trong nhóm.)
Điểm duy nhất gỡ gạc cho Hội Tương Trợ là một anh chàng tên Isaac, với dáng người mảnh khảnh, khuôn mặt dài, mái tóc thẳng màu vàng che khuất một bên mắt.
Và đôi mắt của anh này mới là vấn đề. Anh mắc chứng ung thư mắt, một căn bệnh gần như không thể xảy ra trên đời này. Các bác sĩ đã lấy đi một con mắt khi anh hãy còn là một đứa trẻ. Và bây giờ anh đeo cặp kính dày cộp, làm đôi mắt của anh (cả thật lẫn giả) đều trông siêu to. Giống như nguyên cái đầu chỉ có con mắt giả và con mắt thật luôn nhìn chăm chăm vào bạn. Từ những gì tôi có thể nhớ được trong mấy dịp hiếm hoi khi anh Isaac chia sẻ với nhóm, thì một lần bệnh tái phát đã khiến cho con mắt còn lại của anh cũng trong tình thế ‘ngàn cân treo sợi tóc’.
Anh Isaac và tôi giao tiếp gần như chỉ thông qua tiếng thở dài. Mỗi khi ai đó thảo luận về chế độ ăn kiêng chống ung thư, hít bột vây cá mập hoặc bất cứ liệu pháp gì, anh đều nhìn về phía tôi và thở dài thật khẽ. Tôi lắc đầu rất khẽ và cũng thở dài đáp lại.
***
Vậy là ý tưởng tham gia Hội Tương Trợ xem như hỏng bét. Và sau một vài tuần, tôi thấy đã đến lúc phải la hét, đấm đá phản đối vụ này. Thật ra, vào đúng ngày thứ Tư tôi quen với Augustus Waters, tôi đã đấu tranh kịch liệt với hy vọng sẽ được giải phóng khỏi Hội Tương Trợ, khi đang ngồi trên ghế sa-lông xem tập ba của cuộc
tranh tài dài mười hai tiếng trong chương trình Siêu mẫu Mỹ mùa giải trước, mà phải thú thật rằng tuy đã xem rồi nhưng tôi vẫn rất thích xem lại.
Tôi: “Mẹ ơi, con không muốn tham gia Hội Tương Trợ nữa đâu.”
Mẹ: “Một trong các triệu chứng của trầm cảm là không hứng thú tham gia vào các hoạt động.”
Tôi: “Mẹ cứ cho con xem Siêu mẫu Mỹ đi. Đó cũng là một hoạt động vậy.”
Mẹ: “Xem ti-vi là một hoạt động thụ động.”
Tôi: “Ui, con xin Mẹ!”
Mẹ: “Hazel, con đã lớn thành thiếu nữ rồi chứ không còn là trẻ con nữa. Con cần phải kết bạn, ra khỏi nhà, và sống cuộc sống của riêng con.”
Tôi: “Nếu Mẹ muốn con là thiếu nữ thì đừng đưa con đến Hội Tương Trợ nữa. Mẹ hãy mua cho con một CMND giả để con có thể lượn lờ ở mấy câu lạc bộ, uống vodka, và phê cần sa.”
Mẹ: “Mới tập tành hút thì không phê được đâu.”
Tôi: “Thấy chưa, ít ra thì con sẽ biết được điều đó nếu Mẹ chịu mua cho con một CMND giả.”
Mẹ: “Con phải tham gia Hội Tương Trợ.”
Tôi: “Khôngggggg.”
Mẹ: “Hazel này, con xứng đáng được tận hưởng cuộc sống.”
Câu này khiến tôi im bặt, mặc dù tôi cũng không hiểu việc tham gia Hội Tương Trợ thì liên quan gì đến khái niệm cuộc sống. Nhưng tôi vẫn đồng ý đi, sau khi đàm phán thành công quyền ghi lại một tập rưỡi chương trình Siêu mẫu Mỹ mà tôi bị lỡ không xem được.
Thế là tôi đến gặp Hội Tương Trợ để làm vui lòng Ba Mẹ. Cũng cùng lý do như lần tôi để mặc mấy chị y tá chỉ mới học điều dưỡng lõm bõm chừng mười tám tháng đầu độc mình với các loại hóa chất
có đủ tên gọi phức tạp. Vì trên đời này có một chuyện còn đau nhức nhối hơn việc bạn bị căn bệnh ung thư hoành hành ở tuổi mười sáu, đó là có một đứa con bị mắc bệnh ung thư.
***
Mẹ rẽ vào con đường vòng phía sau nhà thờ lúc 4:56. Lúc ấy tôi đang vờ nghịch chiếc bình ô-xy của mình để giết thời gian. “Con có muốn Mẹ đeo nó vào giúp không?”
“Không, con làm được mà!” Tôi nhanh nhảu đáp. Bình xy-lanh màu lục này chỉ nặng khoảng một ký mấy và có thêm một giá thép nhỏ có chân bánh xe sẽ được cài vào lưng tôi khi di chuyển. Chiếc bình cung cấp hai lít ô-xy cho tôi mỗi phút bằng một ống thông trong suốt, nối từ bình đến dưới cổ tôi thì chia thành hai tuyến chạy bọc sau hai vành tai rồi cuối cùng chập lại trong mũi tôi. Thiết bị quái đản này rất tiện dụng vì hai lá phổi của tôi chẳng còn làm nên trò trống gì nữa.
Mẹ nói khi tôi bước ra khỏi xe: “Mẹ yêu con.”
“Con cũng yêu Mẹ. Sáu giờ mẹ nhớ đón con nha!”
“Con nhớ kết bạn nhé!” Mẹ nói với qua khung cửa kính đang mở vào lúc tôi quay lưng bước đi.
Tôi không muốn đi thang máy vì đại loại ta chỉ đi thang máy vào Những Ngày Cuối Cùng tham dự Hội Tương Trợ, thế nên tôi leo thang bộ. Tôi chộp lấy một chiếc bánh quy và đổ một ít nước chanh vào chiếc tách Dixie rồi nhìn quanh.
Một anh chàng đang nhìn tôi chằm chặp.
Tôi khá chắc chắn là mình chưa bao giờ thấy tên này trước đây. Con trai gì mà tứ chi lẻo khoẻo, hắn khiến chiếc ghế nhựa dành cho cấp tiểu học đang ngồi đã nhỏ trông càng nhỏ hơn. Tóc hắn màu gụ đỏ, ngắn và thẳng. Hắn trạc tuổi tôi, có thể lớn hơn tôi một hai tuổi. Hắn ngồi tì vào ghế, tư thế khá tù túng, với một tay đút hờ trong túi quần jean sậm màu.
Tôi quay mặt đi, đột nhiên ý thức về vẻ ngoài tuềnh toàng của mình. Tôi đang mặc một chiếc quần jean cũ rích, hồi xưa cũng ôm khít nhưng giờ đã bị giãn ở những vị trí kỳ quặc, cùng một chiếc áo thun màu vàng quảng cáo cho một ban nhạc mà thậm chí tôi đã không còn hâm mộ nữa. Rồi đến tóc tai: Tôi để tóc ngắn cũn cỡn kiểu con trai, và thậm chí cũng chả buồn, ừm, đại loại như chải tóc cho tươm tất. Hơn nữa hai má tôi, do tác dụng phụ của quá trình điều trị, cứ núng nính béo phệ đến buồn cười. Tôi nhìn giống như một người bình thường cân đối với cái đầu tròn vo như một quả bóng. Đó là chưa kể đến tình trạng hai cổ chân cũng bị sưng phù. Tuy nhiên tôi khẽ liếc trộm hắn, và mắt hắn vẫn dán chặt vào tôi.
Tôi chợt hiểu tại sao người ta gọi đó là giao tiếp qua ánh mắt.
Tôi bước vào vòng tròn và ngồi xuống bên cạnh anh Isaac, cách hắn hai ghế. Tôi liếc nhìn lần nữa. Hắn vẫn đang nhìn tôi.
Thôi được, tôi phải thú nhận rằng: Hắn rất bảnh. Nếu một anh chàng chẳng có gì là bảnh cứ nhìn chằm chằm vào bạn không ngừng thì trường hợp tốt nhất được xem như một ánh nhìn vụng về, còn trường hợp tệ nhất là một hình thức tấn công. Nhưng nếu là một anh chàng bảnh bao thì... bạn biết đấy!
Tôi lấy điện thoại ra và bấm bàn phím để xem giờ - 4:59. Vòng tròn dần lấp đầy với những bạn từ mười hai đến mười tám tuổi kém may mắn như tôi và sau đó anh Patrick bắt đầu với nghi thức cầu nguyện: Đức Chúa Trời, xin Ngài hãy ban cho con sự thanh thản để chấp nhận những điều con không thể thay đổi, lòng can đảm để đổi thay những điều con có thể thay đổi, và sự khôn ngoan để nhận biết sự khác biệt. Hắn vẫn nhìn tôi chằm chặp. Tôi thấy hơi thẹn thùng.
Cuối cùng, tôi quyết định rằng chiến lược đúng đắn nhất là hãy nhìn lại. Không phải chỉ con trai mới được quyền Nhìn Chòng Chọc như thế. Vì vậy, tôi nhìn hắn một lượt trong khi anh Patrick huyên thuyên lần thứ một ngàn về câu chuyện bị cắt tinh hoàn của anh, vân vân. Và thế là cuộc thi nhìn không chớp mắt bắt đầu. Sau một lúc, hắn mỉm cười và cuối cùng đôi mắt xanh biếc ấy cũng chịu nhìn
đi chỗ khác. Khi hắn quay lại, tôi khẽ nhướng mày như nói “Một - không”.
Hắn nhún vai. Anh Patrick tiếp tục kể lể và cuối cùng cũng đến đoạn cả nhóm tự giới thiệu. “Isaac, có lẽ hôm nay cậu muốn phát biểu đầu tiên. Anh biết cậu đang trải qua một giai đoạn đẩy thử thách.”
“Vâng.” Anh Isaac đáp. “Tôi tên Isaac, mười bảy tuổi. Rất có thể tôi sẽ phải phẫu thuật trong một vài tuần nữa và sau đó mù hẳn. Tôi không phàn nàn hay gì gì bởi vì tôi biết rất nhiều người trong chúng ta còn bị bệnh nặng hơn. Ừ, nhưng đúng là bị mù thì xui xẻo thật. Cũng may là tôi có bạn gái bên cạnh ủng hộ về mặt tinh thần. Và những người bạn như Augustus.” Anh gật đầu và nhìn về phía hắn, kẻ bây giờ đã có tên. “Vậy nên,” anh Isaac trầm giọng, mặt cúi gằm nhìn xuống hai bàn tay đang để áp vào nhau tạo hình chóp lều, “chúng ta không thể làm gì hơn nữa.”
“Chúng tôi ở đây ủng hộ cậu, Isaac.” Anh Patrick nói. “Nào các bạn, hãy để Isaac nghe thấy điều đó.” Thế là tất cả chúng tôi đồng thanh: “Chúng tôi ở đây ủng hộ cậu, Isaac.”
Tiếp theo là Michael. Em mới mười hai tuổi và mắc bệnh bạch cầu. Em luôn bảo em bị bệnh bạch cầu. Em vẫn ổn. (Là em nói thế. Em phải đi thang máy.)
Lida mười sáu tuổi và khá dễ thương, đủ để lọt vào mắt xanh của anh chàng bảnh trai kia. Bạn ấy bị một ca nhẹ, vì căn bệnh ung thư ruột thừa đã thuyên giảm từ lâu (mà đến giờ tôi mới biết trên đời này có bệnh ung thư ruột thừa). Suốt mấy buổi tôi tham gia Hội Tương Trợ, buổi nào bạn ấy cũng bảo mình đang khỏe lên, tôi có cảm tưởng như bạn ấy đang khoe khoang vậy, cảm giác nhột nhạt cứ như đang bị hai đầu phun ô-xy cù vào lỗ mũi.
Thêm năm người khác phát biểu rồi đến tên đó. Hắn khẽ mỉm cười khi đến lượt mình. Giọng hắn trầm, hơi khàn và quyến rũ chết người. “Tên tôi là Augustus Waters.” Hắn lên tiếng. “Tôi mười bảy tuổi. Cách đây một năm rưỡi tôi bị u xương ác tính, cũng xoàng thôi, hôm nay tôi đến đây theo yêu cầu của Isaac.”
“Và giờ cậu thấy thế nào?” Anh Patrick hỏi.
“Ồ, khỏe như vâm.” Augustus Waters cười nhếch miệng. “Tôi đang ngồi trên một chiếc tàu lượn siêu tốc mà chỉ thẳng hướng đi lên, ông anh à.”
Khi đến lượt mình, tôi nói ngắn gọn: “Tên tôi là Hazel. Tôi mười sáu tuổi. Bị ung thư tuyến giáp di căn vô phổi, Tôi ổn.”
Một giờ trôi qua nhanh chóng: Những cuộc đấu tranh chống chọi với cơn bạo bệnh được kể lại; niềm vui chiến thắng giữa những cuộc chiến cầm chắc thất bại; tiếp tục bấu víu vào niềm hy vọng mong manh; gia đình hết ăn mừng lại nghe thông báo ‘vô phương cứu chữa’; bạn bè cùng lứa chẳng bao giờ hiểu thấu nỗi đau; những giọt nước mắt đã rơi và những lời an ủi cũng được nói ra. Cả Augustus Waters và tôi đều không nói gì đến khi anh Patrick động viên: “Augustus, có lẽ cậu muốn chia sẻ với nhóm về nỗi sợ hãi của cậu.”
“Nỗi sợ hãi của tôi?”
“Ừ.”
“Tôi sợ bị chìm vào quên lãng.” Hắn đáp không đắn đo. “Tôi sợ điều đó giống như một người mù sợ bóng tối vậy.”
“Còn quá sớm để kết luận.” Anh Isaac mỉm cười nói.
“Bộ nói vậy động chạm đến mày à?” Augustus hỏi. “Đấy, đôi khi tao cũng mù tịt về cảm giác của người khác.”
Anh Isaac bật cười thành tiếng nhưng anh Patrick đưa ngón tay ra dấu trật tự và bảo: “Này Augustus, đề nghị cậu quay lại chủ đề chính là cậu và cuộc chiến của cậu nhé. Cậu nói là cậu sợ bị chìm vào quên lãng ư?”
“Vâng.” Augustus đáp.
Anh Patrick tỏ ra bối rối: “Có, ừm, có bạn nào muốn chia sẻ thêm về nỗi sợ này không?”
Tôi đã không đi học đàng hoàng ở trường suốt ba năm nay. Ba Mẹ tôi là hai người bạn thân nhất luôn ở bên tôi. Người bạn tốt thứ
ba của tôi là một tác giả thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của tôi. Tôi là một người khá nhút nhát, không phải týp người hay giơ tay phát biểu ý kiến.
Tuy nhiên, lần này tôi quyết định lên tiếng. Tôi ngập ngừng giơ tay và anh Patrick vui mừng ra mặt, ngay lập tức gọi: “Hazel!” Chắc anh ấy nghĩ rằng tôi đang cởi mở hơn. Đang Trở Thành Một Thành Viên Thực Thụ Của Hội.
Tôi đưa mắt về phía Augustus Waters, hắn cũng đang nhìn tôi. Đôi mắt xanh biếc như thể soi thấu tầm hồn hắn. Tôi cất tiếng: “Sẽ đến một thời điểm mà tất cả chúng ta đều chết hết. Tất cả chúng ta. Sẽ đến một thời điểm mà không có người nào còn sống và nhớ xem ai đã từng hiện diện trên cõi đời này hay nhớ xem loài người chúng ta đã từng làm được những gì. Sẽ không còn ai sống để mà nhớ đến Aristotle hay Cleopatra, huống chi là nhớ đến bạn. Những gì chúng ta đã làm, gầy dựng nên, viết, suy nghĩ hay phát hiện được đều sẽ bị lãng quên và tất cả mọi thứ,” tôi huơ tay một vòng, “đều sẽ trở thành con số không tròn trĩnh. Có thể thời điểm đó sẽ đến sớm hoặc cũng có thể là hàng triệu năm nữa, nhưng cho dù chúng ta có may mắn sống sót qua ngày mặt trời giãy chết, chúng ta cũng sẽ không sống mãi được. Đã từng có thời kỳ con người thậm chí không có ý thức hệ như ngày nay. Và nếu cái việc không thể tránh khỏi như bị lãng quên khiến bạn lo lắng thì tôi khuyên bạn chân thành là hãy quên nó đi. Chúa biết rồi sẽ như vậy mà!”
Tôi học được điều này từ người bạn tốt thứ ba nói trên, Peter Van Houten, tác giả ẩn dật của cuốn Nỗi đau tột cùng, cuốn sách tôi sùng bái như thể quyển Kinh Thánh. Peter Van Houten là người duy nhất tôi tình cờ biết được rằng dường như (a) hiểu chết dần chết mòn là như thế nào, và (b) vẫn chưa chết.
Sau khi tôi dứt lời, bầu không khí trở nên im ắng cho đến chừng tôi ghi nhận được một nụ cười nở rộng trên khuôn mặt của Augustus - không phải cái cười nhếch mép của chàng trai cố tỏ ra quyến rũ khi nhìn chằm chặp vào tôi lúc nãy, mà là nụ cười thực sự của hắn, quá lớn so với khuôn mặt xương xương. “Chúa ơi,” Augustus khẽ thốt lên. “Em này là thánh sống à?!”
Không một ai trong chúng tôi nói gì thêm trong suốt khoảng thời gian còn lại của buổi họp mặt. Cuối cùng, tất cả đều chắp tay khấn nguyện theo lời anh Patrick: “Lạy Chúa Giêsu, chúng con, những đứa con may mắn thoát chết khỏi căn bệnh ung thư, hôm nay tụ họp ở đây trong trái tim của Ngài, theo đúng nghĩa đen là ngay trong trái tim của Ngài. Ngài và chỉ có Ngài mới biết rõ chúng con như chính chúng con biết về bản thân mình. Xin Ngài hãy dẫn đường cho chúng con và soi rọi Ánh sáng cho chúng con vượt qua giai đoạn thử thách này. Chúng con thành tâm cầu nguyện cho đôi mắt của Isaac, cho máu của Michael và Jamie, cho xương của Augustus, cho phổi của Hazel, cho cổ họng của James, chúng con cầu xin Ngài hãy chữa lành cho chúng con và cho chúng con cảm nhận được tình yêu chứa chan và bình an của Ngài, vốn nằm ngoài sự hiểu biết của nhân loại. Và chúng con xin ghi nhớ trong tim những người bạn mà chúng con hết lòng yêu mến, những người bạn đã trở về bên Ngài, đó là Maria, Kade, Joseph, Haley, Abigail, Angelina, Taylor, Gabriel,...”
Danh sách còn dài dằng dặc như thể thế giới này toàn người chết. Và trong khi giọng anh Patrick đều đều xướng danh từng người từ danh sách viết sẵn trên giấy vì nó quá dài không thể nhớ hết, tôi nhắm mắt lại và cố tập trung cầu nguyện. Nhưng rốt cuộc tôi chỉ hình dung được mỗi cái ngày khi tên mình lọt vào danh sách, nằm tít tắp ở dòng cuối, khi mà tất cả mọi người chẳng buồn nghe nữa.
Sau khi anh Patrick đọc hết danh sách, chúng tôi cùng hô to một khẩu hiệu ngớ ngẩn - HÃY SỐNG THẬT TỐT CHO NGÀY HÔM NAY - và thế là buổi họp mặt kết thúc. Augustus Waters rời khỏi ghế và bước về phía tôi. Dáng đi của hắn cũng xiêu vẹo giống như nụ cười nửa miệng của hắn. Hắn đứng phủ bóng lên người tôi, nhưng giữ một khoảng cách vừa phải nên tôi không phải nghển cổ để nhìn vào mắt hắn. Hắn hỏi: “Em tên gì?”
“Hazel.”
“Không, tên đầy đủ cơ.”
“Ừm, thì Hazel Grace Lancaster.” Hắn định nói gì đó nhưng anh Isaac đã bước tới. “Em chờ chút,” Augustus vừa nói vừa giơ ngón trỏ ra hiệu đợi, rồi quay sang anh Isaac. “Thật chẳng hay ho gì khi mày thú nhận điều đó.”
“Tao đã nói là tình hình rất u ám mà.”
“Sao mày cứ phải bận tâm chuyện đó nhỉ?”
“Tao không biết. Có lẽ tao cần được giải tỏa bớt?”
Augustus ghé tai anh Isaac như không muốn tôi nghe thấy điều hắn hỏi: “Em này là ma cũ?” Tôi không thể nghe thấy câu trả lời của anh Isaac, ngoại trừ phản ứng của Augustus : “Trúng phóc!” Hắn siết chặt hai vai anh Isaac và lùi lại nửa bước, động viên: “Hãy kể cho em Hazel nghe về bệnh tình của mày đi.”
Anh Isaac chống một tay vào chiếc bàn bày bánh và hướng con mắt khổng lồ về phía tôi. “Được thôi, số là sáng nay anh đi khám bệnh và anh đã nói với bác sĩ phẫu thuật rằng anh thà bị điếc còn hơn bị mù. Ông ấy bảo rằng ‘Mọi chuyện không theo hướng đó,’ anh đã đáp đại loại là ‘Vâng, cháu biết mọi chuyện không theo hướng đó, cháu chỉ muốn nói thà cháu bị điếc còn hơn bị mù nếu cháu được lựa chọn, mà rõ ràng là cháu không còn lựa chọn nào khác,’ ông ấy nói rằng, ‘Ừ, tin mừng là cháu sẽ không bị điếc,’ thế là anh bùng nổ, ‘Cảm ơn bác sĩ đã giải thích cho cháu hiểu rằng bệnh ung thư mắt của cháu sẽ không làm cháu bị điếc. Thật may mắn cho cháu khi sẽ được một người đại uyên bác như bác sĩ đây mổ cho.”’
“Nghe có vẻ như ông bác sĩ đã thắng thế.” Tôi nói. “Em phải cố gắng bị ung thư mắt để làm quen với ông bác sĩ đó mới được.”
“Chúc em may mắn với cái trò làm quen ấy nhé! Thôi, anh đi đây, Monica đang chờ. Anh phải tranh thủ ngắm nàng thật nhiều khi còn có thể.”
“Ngày mai sẽ chơi game chống phiến loạn chứ?” Augustus hỏi với theo.
“Chắc chắn rồi.” Isaac vừa chạy lên cầu thang vừa ngoái đầu đáp.
Augustus Waters quay sang tôi và bảo : “Theo đúng nghĩa đen.” “Đúng nghĩa đen gì?” Tôi hỏi.
“Thì tụi mình đang ở trong trái tim của Chúa Giêsu, theo đúng nghĩa đen,” hắn nói. “Anh cứ tưởng mọi người họp dưới tầng hầm nhà thờ thôi, ai dè đúng là tụi mình đang ở trong trái tim Chúa.”
“Ai đó nên mách lại với Chúa,” tôi lém lỉnh. “Tôi muốn nói là thật nguy hiểm khi dung chứa một đám trẻ mắc bệnh ung thư ngay trong trái tim mình.”
“Đích thân anh sẽ nói với Ngài,” Augustus đáp, “Nhưng tiếc là anh đang mắc kẹt bên trong trái tim của Ngài, nên Ngài sẽ không thể nghe thấu lời anh.” Tôi bật cười. Hắn lắc đầu, nhìn tôi trân trối.
“Sao vậy?” Tôi hỏi.
“Không có gì!” Hắn đáp.
“Sao anh cứ nhìn tôi như thế?”
Augustus thoáng cười. “Bởi vì em đẹp. Anh thích nhìn người đẹp, và cách đây một giây anh quyết định sẽ không chối từ thú vui trần tục đó.” Một bầu không khí im lặng bao trùm và Augustus phá tan khoảnh khắc khó xử ấy: “Ý anh là, nhất là khi em đã chỉ ra rằng, tất cả những điều này sẽ kết thúc trong quên lãng.”
Tôi phần thì mắc nghẹn, phần thì thở dài và phần thì hắt ra một tiếng ho yếu ớt, nói: “Tôi không đẹp—”
“Em giống y đúc ngôi sao Natalie Portman. Natalie Portman trong phim V for Vendetta.”
“Chưa bao giờ xem phim đó,” tôi nói.
“Thật không?” hắn hỏi lại. “Một cô gái tuyệt đẹp với mái tóc thiên thần không thích chính quyền độc tài và không thể ngăn mình yêu một chàng trai mà cô biết là rắc rối to. Mô tả về em đấy, theo như anh quan sát nãy giờ.”
Từng lời hắn nói đầy vẻ tán tỉnh. Thành thật mà nói hắn cũng khiến tôi bị kích thích. Tôi thậm chí không biết rằng, trên thực tế, con
trai có thể kích thích được tôi.
Một cô gái trẻ đi ngang qua chúng tôi. “Khỏe ha, Alisa?” hắn hỏi. Cô nàng mỉm cười và thì thào, “Chào anh Augustus.”
“Bệnh nhân của Memorial,” hắn giải thích với tôi. Memorial là một bệnh viện lớn chuyên về nghiên cứu lâm sàng. “Em chữa bệnh ở đâu?”
“Bệnh viện Nhi đồng,” tôi đáp lí nhí, giọng nhỏ hơn mức cần thiết. Hắn gật đầu như biết bệnh viện ấy. Và cuộc đối thoại dường như chấm dứt. “Vậy,” tôi nói, khẽ hất đầu về phía các bậc thang dẫn ra khỏi Trái Tim của Chúa. Tôi cài giá ô-xy vào bánh xe và rảo bước. Hắn đi khập khiễng bên cạnh tôi. “Vậy hẹn anh buổi sau nhé, anh có đi không?” Tôi đánh bạo hỏi.
“Em nên xem nó,” hắn nói. “Phim V for Vendetta ấy.” “Được rồi,” tôi đáp. “Để tôi lùng phim đó.”
“Không. Với anh kìa. Tại nhà của anh,” hắn giải thích. “Bây giờ nè!”
Tôi đứng phắt lại. “Tôi có biết gì về anh đâu, Augustus Waters. Biết đâu anh là kẻ chuyên giết người bằng rìu.”
Anh gật gù. “Em nói chí phải, Hazel Grace.” Hắn bước ngang qua tôi, dáng thẳng, đôi vai vừa khít với chiếc áo polo màu lục, bước đi của hắn hơi nghiêng về bên phải khi hắn sải bước một cách vững chãi và tự tin trên một bên chân giả - tôi khẳng định thế. U xương ác tính đôi khi tước mất một chân của bạn và sau đó, nếu nó thích, nó sẽ tước luôn cái chân còn lại.
Tôi theo hắn lên cầu thang, mỗi lúc mỗi rớt lại phía sau khi phải lê từng bước một, leo cầu thang không phải là hoạt động phù hợp cho hai lá phổi của tôi.
Và khi chúng tôi rời khỏi trái tim Chúa ra đến bãi đậu xe, tiết trời mùa xuân se lạnh, ráng chiều rực rỡ nhuộm đỏ buổi hoàng hôn.
Mẹ chưa đến, thật khác với mọi khi vì hầu như buổi nào Mẹ cũng tới sớm chờ tôi. Tôi nhìn xung quanh chợt thấy một cô nàng dong
dỏng cao, có thân hình quyến rũ với làn da bánh mật đang hôn anh Isaac khá nồng nhiệt, lưng áp chặt vào bức tường đá của nhà thờ. Họ đứng gần tôi đến nỗi tôi nghe rõ mồn một những âm thanh kỳ lạ phát ra từ miệng họ, và tôi có thể nghe anh Isaac nói, “Luôn luôn!” và cô nàng đáp lại, “Luôn luôn!”
Đột nhiên đứng bên cạnh tôi, Augustus thì thầm, “Hai người này thích phô trương tình cảm nơi công cộng nhỉ!”
‘“Luôn luôn!’ là gì vậy?” - Tiếng họ hôn nhau thật lộ liễu.
‘“Luôn luôn’ là mật mã tình yêu của hai người ấy, nghĩa là anh chàng và cô nàng sẽ luôn luôn yêu nhau, kiểu như vậy. Theo anh đoán, dám chừng họ đã nhắn tin cho nhau từ luôn luôn ít nhất cũng bốn triệu lần trong năm qua.”
Thêm một vài chiếc ô-tô chạy vào rước Michael và Alisa về. Giờ chỉ còn mỗi Augustus và tôi, đứng nhìn anh Isaac và Monica hôn nhau càng lúc càng mãnh liệt hơn, chẳng màng đây là chốn tôn giáo linh thiêng. Anh Isaac áp tay lên ngực cô người yêu bên ngoài lần áo sơ-mi và mân mê, bàn tay anh như thâu lấy tất cả, các ngón tay không ngừng chuyển động khắp xung quanh. Không biết chuyện đó có gì thích thú không. Nhìn thì có vẻ như chẳng hứng thú gì, nhưng tôi quyết định bỏ qua cho anh Isaac vì anh ấy sắp bị mù vĩnh viễn. Dù sao, các giác quan cũng cần được thỏa mãn đến cùng khi người ta vẫn còn khát khao khám phá.
“Hãy tưởng tượng là anh đang lái xe đến bệnh viện,” tôi lặng lẽ nói. “Đó là lần cuối cùng anh được cầm lái.”
Không thèm nhìn tôi, Augustus đáp, “Em đang giết chết sự rung cảm trong anh đấy, Hazel Grace. Anh đang cố quan sát vẻ lúng túng rất dễ thương trong tình yêu mới chớm của cặp này mà.”
“Nhìn anh Isaac giống đang tra tấn ngực của chị Monica thì có.” Tôi bảo.
“Ừ, thì cũng khó xác định là anh chàng đang cố gắng khuấy động cảm xúc hay đang tiến hành khám ngực của cô nàng.” Sau đó,
Augustus Waters thò tay vào túi và rút ra một gói thuốc lá. Hắn lấy một điếu kẹp vào giữa môi.
“Anh đùa à?” Tôi gặng hỏi. “Anh nghĩ hút thuốc hay ho lắm sao? Ôi trời ơi, anh vừa hủy hoại toàn bộ câu chuyện.”
“Toàn bộ chuyện gì?” hắn quay sang tôi hỏi. Điếu thuốc chưa châm lửa giắt vào một bên khóe miệng hắn.
“Toàn bộ câu chuyện về một anh chàng không hẳn là kém hấp dẫn, kém thông minh hay gần như không thể chấp nhận được khi cứ nhìn tôi chằm chặp, rồi chỉ ra cách dùng từ không chính xác theo y nghĩa đen, rồi so sánh tôi với mấy nữ diễn viên nổi tiếng, lại còn mời tôi đến xem phim tại nhà của mình. Lẽ dĩ nhiên người ta hay có cố tật và cố tật của anh là nghiện thuốc lá. Ôi, Chúa ơi, mặc dù anh đang mang trong người CĂN BỆNH UNG THƯ CHẾT TIỆT nhưng anh vẫn cúng tiền vào một công ty để đổi lấy cơ hội rước THÊM UNG THƯ vào người. Ôi, Chúa ơi. Tôi xin cam đoan với anh là tôi không thể thở nổi! CHẾT TIỆT. Hình tượng sụp đổ hoàn toàn. Hoàn toàn.”
“Cố tật à?” hắn hỏi, vẫn ngậm điếu thuốc trên môi, hai hàm răng khép chặt. Khổ nỗi hắn có một quai hàm quá nam tính.
“Một thói xấu tai hại,” tôi giải thích xong quay lưng bước ra phía lề đường, bỏ mặc Augustus Waters phía sau. Và tôi nghe tiếng một chiếc ô-tô chạy đến. Đó là Mẹ. Hóa ra bà chờ cho tôi kết bạn hoặc ‘líu lo’ thêm một chốc.
Đó là một cảm giác pha trộn kỳ lạ giữa thất vọng và giận dữ dâng trào trong lòng. Thật ra, tôi thậm chí không biết gọi tên những cảm giác ấy là gì, chỉ biết là nó dâng trào mãnh liệt. Tôi chỉ muốn quay lại đập cho Augustus Waters một phát hay thay mới phổi mình bằng những lá phổi có thể hoạt động bình thường. Tôi đang đứng mấp mé mép vỉa hè trên đôi giày đế mềm hiệu Chuck Taylor, bình ô-xy nằm gọn trong giá thép bên cạnh, và ngay khi Mẹ tôi rẽ xe vào, tôi thấy tay mình đang bị giữ chặt.
Tôi kéo mạnh tay để vùng ra nhưng rốt cuộc lại chới với xoay một vòng và đối diện với hắn.
“Thuốc lá sẽ không giết được ai trừ khi người đó châm thuốc hút,” hắn nói rành rọt khi Mẹ vừa trờ xe đến. “Và anh chưa bao giờ châm điếu nào hết. Đó là một phép ẩn dụ, xem này: Ta đặt cái thứ giết người này ngay giữa hai hàm răng mà không cho nó sức mạnh để giết ai cả.”
“Đó là một phép ẩn dụ à!” tôi nghi ngờ. Mẹ dừng xe nhưng vẫn để máy nổ.
“Một phép ẩn dụ,” hắn khẳng định.
“Và người ta sẽ lựa chọn hành vi của mình dựa trên phép ẩn dụ mà anh muốn truyền đạt,” tôi đoán chừng.
“Ừ, đúng rồi.” Hắn mỉm cười. Nụ cười thực sự, toe toét và ngờ nghệch. “Anh là một tín đồ của phép ẩn dụ, Hazel Grace.”
Tôi quay lại xe, gõ tay lên cửa kính. Mẹ hạ kính xe xuống. “Con sẽ đi xem phim với Augustus Waters,” tôi xin phép, “Mẹ nhớ ghi lại các tập tiếp theo của cuộc thi Siêu mẫu Mỹ hộ con nhé.”
CHƯƠNG HAI
The Fault in Our Stars
Augustus Waters lái xe thật kinh dị. Dù là cài thắng hay vô số
thì lúc nào cũng bằng một cú XÓC giật nảy người. Tôi cứ lao lên phía trước và bị sợi dây an toàn của chiếc Toyota SUV níu chặt mỗi khi hắn đạp phanh, và đầu tôi cứ đập về phía sau ghế mỗi khi hắn nhấn ga. Lẽ ra tôi phải lo lắng đến việc đang ngồi trong xe ô
tô của một anh chàng lạ huơ lạ hoắc và đang trên đường về nhà hắn, nhận thức sâu sắc rằng hai lá phổi vô dụng của mình đang nỗ lực tối đa sau những lời phỉnh phờ ỡm ờ, nhưng khả năng lái xe của hắn tệ bất ngờ đến độ tôi không thể có suy nghĩ gì khác.
Chúng tôi đi khoảng một dặm trong im lặng trước khi Augustus thú nhận: “Anh thi lấy bằng rớt ba lần rồi đó.”
“Anh không cần nói đâu.”
Hắn cười, gật đầu: “Ừ, anh không hề thấy áp lực trong chiếc Prosty cũ, và anh cũng không thể học lái xe bằng chân trái. Bác sĩ bảo hầu hết những người tàn tật có thể lái xe mà không gặp trở ngại gì nhưng riêng anh thì... Dù sao thì anh đã thi bằng lái lần thứ tư, và anh vẫn lái y như vầy.” Cách nửa dặm trước mặt chúng tôi, đèn đường chuyển sang màu đỏ. Augustus đạp mạnh phanh, hất tôi văng ra phía trước đến nỗi dây an toàn tạo thành một góc tam giác. “Xin lỗi em. Anh xin thề trước Chúa là anh đang rất cố gắng lái xe nhẹ nhàng. À, trở lại câu chuyện thi bằng lái, đến cuối buổi thi anh cứ đinh ninh là mình lại rớt lần nữa. Nhưng không ngờ ông hướng dẫn lại nói: ‘Tuy ngồi xe em lái chẳng dễ chịu tí nào, nhưng về mặt kỹ thuật thì không đến nỗi thiếu an toàn.’”
“Tôi không đồng ý lắm,” tôi thản nhiên nói. “Tôi nghi ngờ đó là Đặc Quyền dành cho Bệnh Nhân Ung Thư.” Đặc Quyền dành cho Bệnh Nhân Ung Thư là những quyền hạn nho nhỏ mà trẻ ung thư được nhận trong khi trẻ bình thường sẽ không có, chẳng hạn như được tặng mấy quả bóng rổ có chữ ký của các ngôi sao thể thao,
được nộp bài tập về nhà muộn mà không bị quở phạt, hay thậm chí không thi mà vẫn được cấp giấy phép lái xe, v.v.
“Ừ, có lẽ thế.” hắn đáp. Đèn chuyển sang màu xanh. Tôi ghì người xuống ghế, chuẩn bị tinh thần. Augustus nhấn ga.
“Anh có biết đến cần điều khiển bằng tay dành cho những người không thể sử dụng chân không?” Tôi mách nước.
“Ừ, anh biết.” Hắn đáp. “Chắc một ngày nào đó anh sẽ thử.” Hắn thở dài, khiến tôi tự hỏi liệu hắn có tự tin về một ngày nào đó không. Tôi biết u xương ác tính có khả năng chữa trị rất cao, nhưng biết đâu đấy.
Có một số cách để biết được xem người ta sẽ sống thêm khoảng bao lâu mà không cần hỏi thẳng. Tôi dùng cách cổ điển: “Vậy anh vẫn đi học chứ?” Nói chung, các bậc phụ huynh sẽ rút học bạ của bạn vào lúc họ không còn hy vọng bạn sẽ sống lâu nữa.
“Ừ, anh còn đi học.” Hắn đáp. “Ở trường North Central. Dù trễ một năm, anh đang học năm hai. Còn em?”
Tôi nghĩ đến chuyện nói dối. chẳng ai thích chơi với một người sắp chết cả. Nhưng cuối cùng tôi nói sự thật: “Không, Ba Mẹ cho tôi nghỉ học cách đây ba năm.”
“Ba năm á?” Hắn hỏi lại, vẻ kinh ngạc.
Tôi bèn kể sơ cho Augustus nghe về phép màu của đời tôi: năm mười ba tuổi tôi được chẩn đoán bị ung thư tuyến giáp giai đoạn bốn. (Tôi đã không kể với hắn là kết quả chẩn đoán đến sau khi tôi bắt đầu có kinh lần đầu ba tháng. Giống như: Xin chúc mừng, bạn đã trở thành phụ nữ. Giờ thì, đi chết đi!) Và bệnh của tôi, theo lời các bác sĩ, là không chữa được.
Tôi đã trải qua một phẫu thuật có tên nạo hạch cổ tận gốc, cũng dễ chịu không kém gì tên gọi của nó. Tiếp theo là đến xạ trị. Sau đó, họ đã thử một số trị liệu hóa học cho các khối u phổi của tôi. Các khối u co lại, sau đó phát triển thêm. Lúc đó, tôi mười bốn tuổi. Phổi của tôi bắt đầu bị tràn dịch. Nhìn tôi lúc đó giống sắp chết - tay chân sưng phù; da dẻ nứt nẻ; đôi môi lúc nào cũng tím xanh. Có một loại
thuốc giúp bạn bớt sợ hãi về thực tế là bạn không hít thở bình thường, và tôi được tiêm rất nhiều loại thuốc này thông qua một ống thông nội tĩnh mạch PICC, và còn thêm hơn một chục loại thuốc khác. Nhưng ngay cả như vậy, thật khó chịu khi dịch tràn khắp phổi, nhất là cứ vài tháng tôi lại có cảm giác như phổi mình sắp chết đuối tới nơi. Cuối cùng tôi phải vào Phòng chăm sóc đặc biệt ICU vì chứng viêm phổi. Khi đó, Mẹ tôi quỳ xuống bên giường, âu yếm hỏi: “Con sẵn sàng chưa, con yêu?” và tôi nói là mình đã sẵn sàng, còn Ba tôi thì lặp đi lặp lại hoài một câu “Ba thương con gái lắm!” bằng chất giọng không thể nghẹn ngào hơn, và tôi trấn an ông rằng tôi cũng thương ông nhiều lắm. Tất cả mọi người siết tay nhau, và tôi bắt đầu thở hổn hển, hai lá phổi của tôi co thắt trong tuyệt vọng, cố kéo tôi ra khỏi giường như muốn tiếp thêm không khí, và tôi vừa bối rối trước sự tuyệt vọng của hai lá phổi vừa kinh tởm sao chúng không đầu hàng số phận cho rồi, tôi nhớ Mẹ động viên tôi là mọi chuyện vẫn ổn, tôi vẫn ổn, tôi sẽ không sao, và Ba tôi đã cố kềm tiếng nức nở (nhưng một khi ông sụt sịt khóc thì cứ như cơn động đất, mà ông cũng hay khóc lắm). Và tôi nhớ là mình chỉ muốn nhắm mắt lại ngủ.
Mọi người cứ tưởng tôi xong đời rồi, nhưng Bác sĩ điều trị Maria đã cố hút dịch tràn trong phổi tôi ra và chẳng bao lâu sau thuốc kháng sinh điều trị viêm phổi mà họ tiêm cho tôi bắt đầu phát huy tác dụng.
Tôi tỉnh lại và sớm chuyển sang liệu trình thử nghiệm, vốn nổi tiếng Vô Tác Dụng ở Vương Quốc Ung Thư. Loại thuốc này mang tên Phalanxifor, một phân tử hóa học được thiết kế để tự bám vào các tế bào ung thư và làm chậm quá trình phát triển của chúng. Thuốc này không có hiệu quả với 70 phần trăm số người dùng, nhưng nó hợp với tôi - khối u co lại.
Các khối u bị thu hẹp. Hoan hô Phalanxifor! Trong suốt mười tám tháng qua, các tế bào ung thư di căn trong phổi tôi hầu như không phát triển thêm. Và tuy chúng để lại di chứng là phổi tôi không hoạt động bình thường được nhưng ít ra, như bạn thấy đấy, tôi vẫn sống
sót (không biết đến bao giờ!?) với sự hỗ trợ đắc lực của bình phun ô-xy và thuốc Phalanxifor mỗi ngày.
Phải thừa nhận rằng Phép màu Ung thư của tôi thực chất chỉ kéo dài thêm một chút thời gian, (và tôi không biết một chút là bao lâu). Nhưng khi tôi kể cho Augustus Waters nghe, tôi đã vẽ một bức tranh màu hồng tươi sáng nhất trong khả năng của mình, khai thác những khía cạnh kỳ diệu tuyệt vời của phép màu đã xảy đến với mình.
“Vậy giờ em có trở lại trường học không?” Hắn hỏi thăm.
“Thực sự là không thể,” tôi giải thích, “bởi vì tôi đã lấy bằng Giáo dục đại cương GED rồi. Nên giờ tôi đang học ở trường MCC.” Đó là trường đại học cộng đồng của bang chúng tôi.
“Một nữ sinh viên.” Hắn gục gặc đầu. “Điều này giải thích cho lối nói chuyện cắc cớ của em.” Hắn nở nụ cười dương dương tự đắc cho cái phát hiện ấy. Tôi huých tay hắn, và cảm nhận được cơ bắp chắc nịch ngay dưới lớp da, săn chắc và nam tính cực kỳ.
Hắn đánh một cú cua gấp đến rít lốp xe vào một khu nhà có những bức tường cao khoảng hai thước rưỡi. Nhà hắn nằm ngay đầu dãy bên trái. Đó là một căn nhà thuộc địa cao hai tầng. Chiếc xe xóc một cú trước khi dừng ngay giữa lối vào nhà.
Tôi theo chân hắn vào nhà. Một tấm bảng gỗ treo trước cổng có khắc dòng chữ ‘Mái ấm là nơi trái tim ta luôn hướng về’, với nét chữ bay bướm. Và trong nhà cũng tràn ngập những câu cách ngôn. Câu ‘Bạn tốt khó tìm và cũng khó quên’ được ghi trên giá móc áo. Câu ‘Gian nan mới biết bạn hiền’ được thêu cầu kỳ trên chiếc gối kê lưng trong gian phòng khách được bày trí theo kiểu cổ điển. Augustus thấy tôi đang chăm chú đọc khắp nơi, bèn giải thích: “Ba mẹ anh gọi đó là Lời động viên tinh thần, và họ ghi chúng khắp nhà.”
***
Ba mẹ hắn gọi hắn là Gus. Họ đang làm món bánh ngô cuộn thịt, rau và nước xốt trong bếp, và tôi đọc thấy câu ‘Gia đình là mãi mãi’
được khắc tròn trịa trên một mảnh kính màu cạnh bồn rửa chén. Mẹ hắn đang gắp thịt gà bỏ vào bánh ngô còn ba hắn sẽ cuốn lại và đặt vào một chảo thủy tinh. Họ có vẻ không mấy ngạc nhiên trước sự hiện diện của tôi, cũng dễ hiểu thôi: Việc Augustus khiến tôi cảm thấy đặc biệt không có nghĩa là bản thân tôi đặc biệt. Biết đâu mỗi đêm hắn dẫn một cô về nhà cùng xem phim và giở trò với cô ấy.
“Đây là bạn Hazel Grace.” Hắn lên tiếng giới thiệu.
“Gọi cháu là ‘Hazel’ được rồi ạ.” Tôi nói.
“Cháu khỏe không, Hazel?” Ba của Gus hỏi thăm. Ông cao gần bằng Gus và gầy hơn so với những phụ huynh ở độ tuổi của ông.
“Dạ cháu cũng ổn, thưa bác,” tôi đáp.
“Hội Tương Trợ của Isaac vui không con?”
“Cũng là lạ.” Gus trả lời.
“Con chỉ giỏi nói xấu thôi,” mẹ hắn nói, “Hazel, cháu thích hội đó chứ?”
Tôi ngẩn ngừ một giây, cố nghĩ xem câu trả lời của mình nên làm vui lòng Augustus hay ba mẹ của hắn. Cuối cùng tôi nói chung chung: “Đa số mọi người trong nhóm rất dễ thương.”
“Đó cũng chính là cảm nhận của hai bác về mấy gia đình trong bệnh viện Memorial vào khoảng thời gian hai bác căng thẳng nhất với bệnh tình của Gus,” ba hắn nói. “Mọi người đều rất tử tế. Mạnh mẽ nữa. Trong những ngày đen tối nhất, Chúa sẽ mang đến cho ta những người bạn chân thành nhất.”
“Ồ, ba mau đưa con một cái gối cũ cùng mấy cuộn chỉ để con thêu câu này làm Lời động viên nào.” Augustus trêu, và ba của hắn có vẻ hơi khó chịu, nhưng Gus đã đến ôm cổ ba mình và nói: “Con chỉ đùa thôi mà ba. Con rất thích mấy Lời động viên đó, thật mà. Con chỉ không thích thừa nhận điều đó bởi giờ con là thiếu niên rồi.” Ba hắn trợn tròn mắt.
“Cháu ở lại ăn tối với nhà bác chứ?” mẹ hắn khấp khởi hỏi. Dáng bà nhỏ nhắn, da ngăm ngăm và có phần rụt rè.
“Dạ, chắc được ạ.” Tôi đáp. “Miễn sao cháu về nhà trước mười giờ. Và cháu..., ừm, cháu không ăn được thịt.”
“Không sao, hai bác sẽ cuốn một số cuốn chay cho cháu.” Bà nói.
“Động vật quá dễ thương nên em không nỡ ăn à?” Gus tò mò hỏi.
“Tôi muốn giảm thiểu số lượng nạn nhân phải hy sinh vì tôi.” Tôi đáp.
Gus mở miệng định nói gì đấy, nhưng tự dưng im bặt.
Mẹ hắn phá tan sự im lặng. “Ồ, bác nghĩ ý tưởng đó rất hay đấy cháu!”
Họ nói chuyện với tôi thêm một chốc, kể đủ chuyện như món Bánh Ngô Trứ Danh của Nhà Waters ngon như thế nào và thật Không Nên Bỏ Lỡ, hay chuyện giờ giới nghiêm của Gus cũng là mười giờ tối, và họ tự nhiên thấy không tin cậy những bậc phụ huynh đặt lệnh giới nghiêm cho con mình sau mười giờ, hay như hỏi tôi vẫn đi học chứ - “Hazel là sinh viên đại học đó,” Augustus xen vào - hay chuyện thời tiết tháng Ba đặc biệt đẹp và dễ chịu, hay chuyện vạn vật thay áo mới vào mùa xuân, nhưng họ tuyệt nhiên chẳng đả động đến chiếc bình ô-xy hay bệnh tình của tôi. Điều này tuy kỳ lạ nhưng thật tuyệt vời. Và sau đó Augustus xin phép : “Hazel và con sẽ xem phim V for Vendetta để bạn con có thể nhìn thấy hình bóng mình trong đó, trong số hàng ngàn cô nàng Natalie Portman.”
“Ừ, các con cứ tự nhiên dùng ti-vi ở phòng khách.” Ba hắn vui vẻ nói.
“Con định sẽ xem phim ở dưới tầng hầm.”
Ba hắn bật cười. “Có cố gắng đấy, nhưng phòng khách thôi.”
“Nhưng con muốn chỉ Hazel Grace xem tầng hầm.” Augustus khăng khăng.
“Cứ gọi là Hazel được rồi,” tôi nhắc.
“Vậy chỉ cho Hazel Được Rồi xem tầng hầm trước đi,” ba hắn nói tỉnh bơ. “Xong trở lên và xem phim ở phòng khách nhé.”
Augustus phồng má, đứng thẳng dậy, xoay hông và nhấc cái chân giả lên trước. “Được thôi,” hắn lẩm bẩm.
Tôi theo hắn xuống cầu thang trải thảm, và cả tầng hầm là một phòng ngủ rộng thênh thang. Một kệ gỗ cao ngang tầm mắt tôi bao quanh phòng, bên trên trưng bày vô số kỷ niệm chương bóng rổ : hàng chục chiếc cúp nhựa vàng thể hiện các vận động viên ở nhiều tư thế như đang nhảy lên đánh bóng, đang lừa bóng hay đang lên rổ ném bóng vào một bảng rổ vô hình. Còn có rất nhiều quả bóng rổ và giày thể thao có chữ ký các ngôi sao bóng rổ trên đó.
“Hồi đó anh có chơi bóng rổ,” hắn giải thích.
“Chắc anh chơi hay lắm.”
“Cũng không tồi, nhưng tất cả mấy đôi giày và bóng lưu niệm là Đặc Quyền dành cho Bệnh Nhân Ung Thư đấy.” Hắn đi về phía ti-vi, nơi có một chồng đĩa DVD và trò chơi điện tử chất lên nhau thành hình một kim tự tháp, đoạn cúi xuống và chộp lấy đĩa V for Vendetta. “Anh giống một đứa trẻ da trắng chính hiệu sinh trưởng tại Indiana vậy,” hắn nói. “Kiểu như anh làm sống lại nghệ thuật nhảy ném tầm xa. Nhưng một ngày nọ khi đang tập ném bóng tự do - khi đang đứng ở vạch biên trên sân North Central tập ném bóng, đột nhiên anh tự hỏi sao mình có thể máy móc ném một vật hình cầu xuyên qua một vật hình xuyến trên bảng rổ. Đó thật là chuyện ngớ ngẩn nhất anh từng làm.
“Tự nhiên anh liên tưởng đến mấy đứa con nít hay xỏ cái cọc hình trụ qua một lỗ tròn, và cứ nghịch đi nghịch lại trò đó hàng tháng liền cho đến khi thành thục, và bóng rổ thực chất chỉ là một phiên bản thể thao hơn của cái trò con nít ấy. Dù sao anh vẫn tiếp tục tập ném tự do trong một thời gian dài, kỷ lục của anh là ném lọt rổ tám mươi lần liên tục. Nhưng càng tập, anh càng thấy mình giống con nít hai tuổi. Và rồi vì một vài lý do khác, anh bắt đầu nghĩ đến các vận động viên chạy vượt rào. Em không sao chứ?”
Tôi đã ngồi xuống một góc trên chiếc giường lộn xộn của hắn. Không phải tôi đang gợi ý hay gì; chỉ đơn giản là tôi thường thấy mệt khi phải đứng nhiều. Tôi đã đứng ở trong phòng khách nhà hắn, rồi xuống cầu thang, rồi lại đứng tiếp dưới tầng hầm, tôi đã đứng khá nhiều và tôi không muốn mình ngã lăn ra xỉu. Tôi hơi giống týp phụ nữ thời Victoria - hay bị ngất xỉu. “Ổn rồi,” tôi nói. “Tôi vẫn đang nghe mà. Các vận động viên chạy vượt rào sao?”
“À, các vận động viên chạy vượt rào. Anh cũng không hiểu sao anh bắt đầu suy nghĩ về việc họ chạy đua và cứ phải nhảy qua các chướng ngại vật được đặt rất tùy hứng trên đường đua. Và anh tự hỏi liệu mấy tay vận động viên đó có bao giờ nghĩ, kiểu như là ‘Mình sẽ chạy nhanh hơn nếu tháo bỏ mấy cái chướng ngại vật cản đường này!’”
“Đấy là trước khi anh phát hiện ra bệnh tình của mình phải không?” Tôi hỏi.
“Ừ, cũng gần như thế.” Hắn lại cười nửa miệng. “Cái ngày anh quá ngán ngẩm với trò ném tự do cũng chính là ngày cuối cùng anh còn đủ hai chân. Anh có một ngày cuối tuần từ khi họ lên lịch giải phẫu đến khi ca mổ thực sự diễn ra. Anh chỉ có ý niệm lờ mờ như thế về những gì Isaac đang trải nghiệm.”
Tôi gật đầu. Tôi thích Augustus Waters. Tôi thực sự, thực sự, thực sự thích anh ấy. Tôi thích anh vì anh kết thúc câu chuyện của mình bằng cách đề cập đến một người khác. Tôi thích anh vì chất giọng trầm ấm. Tôi thích anh vì anh tập trò ném bóng tự do đầy ngán ngẩm. Tôi thích anh vì anh là một giáo sư thực thụ trong Bộ môn Cười Nhếch Miệng, ngoài ra còn kiêm thêm Bộ môn Sở Hữu Giọng Nói Khiến Da Tôi Có Cảm Giác Hơn. Và tôi thích anh vì anh có hai tên gọi. Tôi luôn thích những người có hai tên gọi vì khi đó ta phải quyết định xem ta nên gọi họ bằng tên gì: anh Gus hay anh Augustus? Tôi thì lúc nào cũng chỉ được gọi là Hazel, độc nhất một tên Hazel.
“Anh có anh chị em gì không?” Tôi hỏi.
“Hả?” Anh đáp, có vẻ hơi phân tâm.
“Tại anh kể về chuyện ngắm mấy đứa nhóc chơi với nhau.”
“Ồ, à không. Anh có mấy cháu trai, con của mấy người chị cùng cha khác mẹ. Nhưng họ lớn tuổi hơn. Họ khoảng — BA ƠI, CHỊ JULIE VÀ CHỊ MARTHA BAO NHIÊU TUỔI VẬY?”
“Hai mươi tám!”
“Họ khoảng hai mươi tám tuổi. Sống ở Chicago. Cả hai đều đã kết hôn, với mấy tay luật sư hay nhân viên ngân hàng sành điệu, anh cũng không nhớ lắm. Thế em có anh chị em không?”
Tôi lắc đầu không có. “Vậy còn chuyện của em?” anh vừa hỏi vừa ngồi xuống bên cạnh, giữ một khoảng cách an toàn. “Tôi kể rồi mà, tôi được chẩn đoán khi —”
“Không, không phải chuyện ung thư. Câu chuyện của chính em cơ, như sở thích, thú vui, đam mê, hay điều mê tín kỳ quặc nào đó, vân vân và vân vân.”
“Ừm,” tôi ậm ờ.
“Đừng nói với anh em thuộc nhóm đã trở thành nạn nhân của chính căn bệnh của mình nha. Anh biết rất nhiều người như thế, sống rất nhụt chí. Kiểu như bệnh ung thư là một ngành kinh doanh có tốc độ tăng trưởng chóng mặt, mà là ngành kinh doanh của thần chết. Nhưng chắc chắn em đã không đầu hàng quá sớm.”
Tôi thấy có lẽ mình cũng như thế thật. Tôi loay hoay tìm cách ‘xây dựng hình tượng’ trước Augustus Waters, lựa chọn những sở thích nhằm gây ấn tượng, và sau một khoảng im lặng, tôi nhận ra mình chẳng có gì thú vị cả. “Tôi chẳng có gì đặc biệt.”
“Anh phản đối ngay. Hãy nghĩ về việc em thích làm, việc đầu tiên hiện lên trong đầu em ấy.”
“Ừm. Đọc sách?”
“Em đọc những gì?”
“Tất cả mọi thứ. Từ tiểu thuyết lãng mạn ba xu đến siêu phẩm trứ danh, rồi cả thơ ca. Đủ mọi thể loại.”
“Thế em cũng làm thơ chứ?”
“Không. Tôi không làm thơ.”
“Đó, thấy chưa!” Augustus gần như hét lên. “Hazel Grace, em là thiếu nữ duy nhất ở nước Mỹ này thích đọc thơ hơn là làm thơ. Điều này cho anh biết thêm nhiều về em đấy. Có phải em đọc rất nhiều cuốn siêu phẩm với chữ S viết hoa không?”
“Chắc vậy!”
“Cuốn sách yêu thích của em là gì?”
“Ừm,” tôi băn khoăn.
Cuốn sách yêu thích của tôi, xét trên diện rộng, là cuốn Nỗi đau tột cùng, nhưng tôi không muốn nói với ai về nó. Đôi khi, bạn đọc một cuốn sách và nó truyền một nguồn cảm hứng nhiệt thành mạnh mẽ đến mức bạn bị thuyết phục rằng thế giới đang bị chia cắt này sẽ không bao giờ hòa hợp được với nhau trừ khi và chỉ khi toàn thể nhân loại đều đọc cuốn sách đó. Và cũng có những cuốn sách như Nỗi đau tột cùng, những cuốn sách rất đặc biệt, rất hiếm hoi và rất riêng đến mức nếu giới thiệu nó và chia sẻ cảm giác yêu thích của mình cho người khác thì chẳng khác gì phản bội cả.
Nó thậm chí không hẳn là một cuốn sách quá hay; chỉ là tác giả của nó, nhà văn Peter Van Houten, dường như thấu hiểu tôi một cách kỳ lạ và không tưởng. Nỗi đau tột cùng là cuốn sách của riêng tôi, giống như cơ thể của tôi là cơ thể của riêng tôi và suy nghĩ của tôi là suy nghĩ của riêng tôi vậy.
Mặc dù vậy, tôi vẫn nói với Augustus. “Cuốn sách yêu thích của tôi có lẽ là cuốn Nỗi đau tột cùng,” tôi đáp.
“Nó có viết về xác sống không?” anh hỏi.
“Không,” tôi trả lời.
“Hay xung kích quân?”
Tôi lắc đầu, “Nó không phải thể loại đó.”
Anh mỉm cười. “Anh sẽ đọc cuốn sách kinh khủng có tiêu đề chán ngắt mà lại không viết về xung kích quân này,” anh hứa, và ngay lập tức tôi cảm thấy mình không nên kể với anh về cuốn sách đó. Augustus xoay người về phía chồng sách bên dưới chiếc bàn cạnh giường. Anh chộp lấy một cuốn sách và một cây bút. Vừa viết nguệch ngoạc lên trang bìa của cuốn sách, anh vừa nói, “Đổi lại anh chỉ yêu cầu em một điều thôi - hãy đọc phiên bản tiểu thuyết xuất sắc và đầy ám ảnh của trò chơi điện tử yêu thích của anh.” Anh chìa quyển truyện về phía tôi, tựa nó là Cái giá của Bình minh. Tôi cười và cầm lấy. Tay chúng tôi hơi chạm nhau và sau đó anh nắm lấy tay tôi. “Lạnh vậy,” anh thốt lên, ấn một ngón tay lên cổ tay xanh xao của tôi.
“Không lạnh như khi bị suy hô hấp,” tôi bảo.
“Anh thích khi em dùng ngôn ngữ y học với anh,” anh nói rồi đứng dậy, kéo tôi lên theo và không thả tay tôi cho đến khi chúng tôi ra đến cầu thang.
***
Chúng tôi ngồi cách nhau chừng một gang trên ghế xô-pha và cùng xem phim. Tôi đã hành động như nữ sinh trung học, đó là đặt hờ tay mình ở giữa hai chúng tôi, để anh biết có thể nắm tay tôi, nhưng anh chẳng buồn để ý. Xem độ một giờ thì ba mẹ của Augustus mang món bánh ngô ra. Chúng tôi ăn ngay trên ghế xô pha và mấy cuốn bánh khá ngon.
Bộ phim kể về một người anh hùng đeo mặt nạ đã hy sinh anh dũng cho Natalie Portman, một cô nàng sống phóng khoáng, khá nóng bỏng và không có bất cứ vẻ gì gọi là hao hao với khuôn mặt sưng húp vì thuốc của tôi cả.
Khi phim đang chiếu, anh hỏi, “Phim hay, đúng không?”
“Cũng hay,” tôi đồng tình. Mặc dù thực sự thì nó chẳng hay tẹo nào. Đó là một bộ phim dành cho con trai. Tôi không biết tại sao con trai lại hy vọng con gái chúng tôi thích xem phim của con trai, chúng
tôi chẳng bao giờ mong họ thích phim của con gái cả. “Tôi nên về nhà. Sáng mai tôi có lớp,” tôi nói.
Tôi ngồi trên ghế xô-pha trong lúc Augustus lục tìm chìa khóa xe. Mẹ anh ngồi xuống bên cạnh tôi và bảo: “Bác rất thích câu này, cháu thích không?” Tôi đoán do mình đã nhìn về phía Lời Động Viên đính trên ti-vi, trên đó có hình một thiên thần cùng với câu ‘Nếu không có nỗi đau, làm sao chúng ta cảm thụ được niềm vui?’
(Đây là một lập luận cũ rích trong lĩnh vực Suy Ngẫm Về Sự Đau Khổ. Và sự ngớ ngẩn cũng như thiếu tinh tế của nó có thể còn được soi xét trong nhiều thế kỷ nữa, nhưng chỉ cần nói rằng sự tồn tại của bông cải xanh không thể nào ảnh hưởng đến hương vị của sô-cô-la là đủ rồi). “Vâng ạ,” tôi đáp. “Một câu rất hay.”
Tôi lái xe Augustus về nhà, và anh ngồi bên cạnh nghịch máy móc. Anh bật vài bài hát yêu thích của một ban nhạc mang tên The Hectic Glow. Nhạc khá hay, nhưng vì chưa từng nghe qua nên với tôi chúng không hay như anh nói. Thỉnh thoảng tôi liếc nhìn chân anh, đúng hơn là nhìn khúc chân giả và tự hỏi mang chân giả thì như thế nào. Tôi không muốn quan tâm đến chuyện giả - thật, nhưng quả thật tôi khá băn khoăn. Có thể anh cũng quan tâm đến bình ô-xy của tôi. Hội chứng của bệnh tật. Tôi vỡ ra điều này từ lâu, và tôi nghi Augustus cũng thế.
Khi tôi dừng xe phía ngoài nhà mình, Augustus tắt nhạc. Không khí trong xe tự nhiên đặc quánh. Có thể anh đang nghĩ đến việc hôn tôi, và tôi hiển nhiên đang nghĩ đến việc hôn anh. Chợt tự hỏi liệu tôi có thực sự muốn vậy không. Tôi từng được hôn nhưng chuyện cũng lâu rồi, từ trước khi Phép màu xảy ra.
Tôi đưa xe vào bãi đậu và nhìn qua anh. Anh thật xinh đẹp. Tôi biết không ai dành lời khen xinh đẹp cho phái khỏe cả, nhưng anh thì khác.
“Hazel Grace,” anh cất lời, tên tôi nghe thật lạ và hay làm sao qua chất giọng trầm của anh. “Thật sự anh rất vui khi quen em.”
“Tôi cũng vậy, ngài Waters ạ,” tôi đáp, ngại ngùng tránh nhìn vào mắt anh. Tôi không thể đối diện với tia nhìn mãnh liệt từ đôi mắt
xanh biếc ấy.
“Anh có thể gặp em nữa không?” anh hỏi. Có một sự căng thẳng đáng yêu trong giọng nói của anh.
Tôi mỉm cười. “Được mà.”
“Ngày mai nhé?” anh hỏi ướm.
“Kiên nhẫn đi nào, anh chàng bộp chộp,” tôi khuyên. “Hẳn anh không muốn mình có vẻ quá háo hức đấy chứ!”
“Phải, đó là lý do tại sao anh hẹn ngày mai,” anh đáp tỉnh bơ. “Anh muốn gặp em lần nữa ngay tối nay kìa. Nhưng anh sẵn sàng chờ đợi suốt đêm nay và cả ngày mai” Tôi trợn tròn mắt. “Anh nói nghiêm túc đó,” anh bảo.
“Anh thậm chí không biết tôi,” tôi nói. Tôi chộp lấy quyển truyện và lí lắc hỏi: “Hay tôi sẽ gọi anh khi đọc hết quyển này nhé?”
“Nhưng em còn chưa có số điện thoại của anh mà,” anh đáp. “Tôi tin là anh đã viết nó trong quyển truyện này rồi.”
Anh nở một nụ cười ngớ ngẩn. “Vậy mà em bảo là chúng ta không biết nhau.”
CHƯƠNG BA
The Fault in Our Stars
Đêm đó tôi thức khá trễ vì mải mê đọc cuốn Cái giá của Bình
minh.(Cảnh báo ẩn: Cái giá của Bình minh là máu.) Đây không phải truyện Nỗi đau tột cùng, nhưng nhân vật chính, Trung sĩ Max Mayhem, cũng hơi bị đáng yêu mặc dù đã ‘xử đẹp’, theo tôi đếm, ít nhất 118 người trong 284 trang truyện.
Thế nên tôi dậy muộn vào sáng hôm sau, thứ Năm. Chủ trương của Mẹ là không bao giờ đánh thức tôi, bởi vì một trong những yêu cầu công việc của Bệnh Nhân Chuyên Nghiệp là phải ngủ thật nhiều. Nên tôi hơi bối rối khi giật mình thức dậy và thấy Mẹ đang lay vai tôi.
“Gần mười giờ rồi con,” bà âu yếm nói.
“Ngủ giúp chữa lành ung thư mà Mẹ,” tôi trả lời, giọng còn ngái ngủ. “Tối qua con thức khuya đọc sách.”
“Thì sách truyện chứ gì!” Mẹ nói khi bà quỳ bên cạnh giường và loay hoay tháo giúp tôi cái máy tạo ô-xy cá nhân hình chữ nhật, mà tôi gọi là Philip, bởi vì nó trông vạm vỡ y như chàng Philip huyền thoại.
Mẹ móc cho tôi một chiếc bình ô-xy di động rồi nhắc tôi có lớp học sáng nay. “Anh chàng tối qua cho con cái này à?” Mẹ hỏi vu vơ.
“Cái này ý Mẹ là mấy nốt mụn giộp hả?”
“Con suy nghĩ linh tinh quá,” Mẹ kêu lên. “Là cuốn truyện, Hazel. Ý Mẹ hỏi cuốn truyện ấy.”
“Dạ, anh ấy đưa cho con cuốn truyện này.”
“Mẹ thấy con thích anh chàng này,” Mẹ vừa nói vừa nhướng mày, như thể sự quan sát này đòi hỏi bản năng đặc biệt của người mẹ. Tôi nhún vai. “Mẹ đã nói với con là Hội Tương Trợ này cũng đáng tham gia mà.”
“Bộ Mẹ đứng ngoài chờ con suốt buổi hay sao mà Mẹ biết?”
“Ừ. Mẹ có mang theo một số tài liệu để đọc. Mà thôi, đã đến lúc bắt đầu ngày mới rồi thưa quý cô.”
“Mẹ à! Ngủ. Ung thư. chữa bệnh.”
“Mẹ biết rồi, con cưng, nhưng còn lớp học sáng nay. Và hôm nay là ngày...” Giọng Mẹ không giấu được vẻ hân hoan.
“Thứ Năm?”
“Con không nhớ ngày thật à?”
“Hì, chắc vậy.”
“Hôm nay là thứ Năm, ngày hai mươi chín tháng Ba!” Mẹ gần như hét lên, một nụ cười rạng rỡ bừng sáng trên khuôn mặt bà.
“Mẹ thật sự rất phấn khích về vụ ngày tháng nhỉ!” Tôi cũng hô to.
“HAZEL. HÔM NAY LÀ SINH NHẬT LẦN THỨ BA MƯƠI BA CHIA ĐÔI CỦA CON ĐÓ!”
“Ồ,” tôi ngạc nhiên đáp. Mẹ tôi thực sự là chuyên gia siêu giỏi trong việc tìm mọi lý do để tăng số ngày lễ kỷ niệm trong năm. HÔM NAY LÀ NGÀY CÂY XANH! NÀO, CHÚNG TA HÃY CÙNG ÔM CÂY VÀ ĂN BÁNH! COLUMBUS MANG BỆNH ĐẦU MÙA ĐẾN CHO NGƯỜI DÂN BẢN ĐỊA; CHÚNG TA NÊN TƯỞNG NIỆM SỰ KIỆN NÀY BẰNG MỘT BUỔI PICNIC DÃ NGOẠI!, v.v. “Chà, xin Chúc mừng Sinh nhật Lần thứ Ba mươi ba chia đôi của con,” tôi hùa theo.
“Con muốn làm gì vào ngày rất đặc biệt này của mình?”
“Về nhà sau khi tan học và lập kỷ lục thế giới về số tập chương trình Vua bếp mà con được xem liền tù tì, Mẹ thấy sao?”
Mẹ với tay lên chiếc kệ trên đầu giường của tôi và chộp lấy Bluie, chú gấu bông màu xanh mà tôi được tặng từ hồi tôi mới khoảng một tuổi - cái thời mình còn được phép đặt tên bạn bè theo màu sắc của họ.
“Thế con không muốn đi xem phim với Kaitlyn, Matt hay bạn nào đó sao?” những người này là bạn tôi.
Đó là một ý hay. “Dĩ nhiên rồi!” tôi hồ hởi đáp. “Để con nhắn tin cho Kaitlyn xem nhỏ có muốn đi mua sắm hay làm gì đó sau giờ học không.”
Mẹ cười, ôm chú gấu vào lòng. “Liệu đi mua sắm có còn là điều tuyệt vời không ta?” bà hỏi.
“Con rất tự hào về chuyện không phân biệt được cái gì là tuyệt vời đó nha Mẹ,” tôi đáp tỉnh bơ.
***
Tôi nhắn tin cho Kaitlyn, tắm táp, thay đồ, và sau đó Mẹ chở tôi đến trường. Hôm nay có lớp Văn học Mỹ. Cô giảng về Frederick Douglass trong một hội trường gần như vắng teo, và thật vô cùng khó khăn để không phải ngủ gật trong lớp. Vào phút thứ bốn mươi của tiết học dài chín mươi phút, Kaitlyn nhắn tin lại.
Tuyệt cú mèo. Chúc mừng sinh nhật chia đôi nhé.
Ở Castleton lúc 3:32 nha?
Kaitlyn có một cuộc sống xã hội bận rộn đến mức lịch trình sinh hoạt được tính đến từng phút. Tôi nhắn trả lời:
Nghe hay đó. Hẹn gặp ở khu ẩm thực nhé!
Từ trường, Mẹ lái xe đưa tôi đến thẳng hiệu sách nối liền với khu trung tâm mua sắm. Ở đó tôi mua cả hai cuốn Bình minh lúc nửa đêm và Cầu siêu cho Mayhem, hai tập đầu của cuốn Cái giá của Bình minh. Rồi tôi băng ngang khu ẩm thực rộng thênh thang và mua một lon Coca Diet. Lúc đó đã là 3:21.
Tôi ngồi đọc truyện, thỉnh thoảng ngước nhìn những đứa trẻ đang nô đùa trong khu vui chơi mô hình tàu cướp biển. Có hai đứa trẻ cứ bò tới bò lui trong một đường hầm và dường như chúng
không lúc nào biết mệt, khiến tôi lại miên man suy nghĩ đến Augustus Waters và trò ném bóng dở hơi.
Mẹ cũng vào khu ẩm thực, một mình, ngồi trong một góc mà bà nghĩ là tôi không thể nhìn thấy, thong thả ăn bánh sandwich kẹp bít tết và phô mai. Vừa ăn bà vừa đọc một số giấy tờ. Có lẽ là tài liệu y tế. Thủ tục y tế là vô tận.
Đúng boong 3:32, tôi thấy Kaitlyn sải bước tự tin qua tòa nhà Wok House. Nhỏ nhìn thấy tôi ngay khi tôi vừa giơ tay vẫy, và không quên cười nhe hàm răng mới chỉnh trắng tinh, đi thẳng đến chỗ tôi.
Nhỏ mặc một chiếc áo khoác màu xám than dài đến gối, ôm vừa khít người và mang một cặp kính mát to đùng che gần hết khuôn mặt. Nhỏ đẩy kính lên trên đầu khi cúi xuống ôm tôi.
“Bồ khỏe không?” nhỏ hỏi, lơ lớ giọng Anh. Sẽ không ai thấy chất giọng này lạ hay khó chịu cả. Kaitlyn chỉ vô tình là một cô nàng quý tộc Anh hai mươi lăm tuổi cực kỳ sành điệu bị mắc kẹt trong một cơ thể thiếu nữ mười sáu tuổi ở thành phố Indianapolis này. Ai cũng sẽ chấp nhận sự thật đó.
“Mình khỏe. Còn bồ?”
“Mình cũng không biết nữa. Đó là Coca Diet hả?” Tôi gật đầu và đưa lon nước cho nhỏ, nhỏ cầm lấy hút vài ngụm. “Mình ước gì bồ còn đi học chung. Mấy chàng trai giờ nhìn ngon lành hết sảy.”
“Ồ, vậy hả? Như chàng nào?” Tôi hỏi. Nhỏ hăm hở kể tên năm anh chàng từng học chung thời tiểu học và trung học với chúng tôi, nhưng tôi không thể hình dung được bất kỳ ai trong số đó.
“Dạo này mình đang hẹn hò với Derek Wellington,” nhỏ nói, “nhưng mình nghĩ cũng chẳng lâu dài đâu, hắn còn trẻ con quá. Mà thôi, nói về mình thế đủ rồi. Bồ có gì mới trong thế giới của Hazel không nào?”
“Thật ra cũng chẳng có gì,” tôi đáp.
“Thế sức khỏe bồ tốt không?”
“Cũng vậy à!”
“Phalanxifor!” nhỏ cười toe toét. “Nhờ vậy mà giờ bồ có thể sống mãi mãi, phải không?”
“Có thể không được mãi mãi đâu,” tôi trả lời.
“Nhưng cơ bản là vậy,” nhỏ liến thoắng. “Còn tin gì mới nữa nào?”
Tôi định sẽ kể cho nhỏ nghe rằng tôi cũng đang qua lại với một anh chàng, hay chí ít là tôi đã cùng xem phim với một người khác giới. Bởi tôi biết tin đó sẽ khiến nhỏ bất ngờ và thích thú vì một đứa con gái ăn mặc lôi thôi, gầy nhom và vụng về như tôi có thể nhanh chóng chiếm được cảm tình của một chàng trai. Nhưng tôi cũng không thực sự có gì nhiều nhặn để khoe khoang, nên tôi chỉ nhún vai.
“Đây là gì vậy trời?” Kaitlyn chỉ cuốn truyện và hỏi.
“Ồ, truyện khoa học viễn tưởng ấy mà. Mình đang ghiền đọc loạt truyện này.”
“Bồ làm mình hơi cảnh giác đó. Thế giờ tụi mình đi mua giày nhé?”
***
Hai đứa cùng đến cửa hàng giày. Trong lúc đang chọn mua, Kaitlyn cứ liên tục đưa mấy kiểu giày bệt hở mũi cho tôi và khen tới tấp, “Đôi này trông dễ thương với bồ nè!” nhắc tôi nhớ rằng Kaitlyn không bao giờ mang giày hở mũi bởi nhỏ ghét ngón chân của mình. Nhỏ cứ bị ám ảnh là ngón chân trỏ quá dài, như thể ngón chân trỏ là cửa sổ tâm hồn hay đại loại thế. Nên khi tôi chỉ một đôi dép rất tiệp với màu da của nhỏ, nhỏ ngần ngừ: “Ừ thì cũng đẹp, nhưng...” Nhưng ở đây có nghĩa là nhưng nó sẽ làm lộ ngón chân trỏ gớm ghiếc của mình cho bàn dân thiên hạ xem. Tôi thốt lên: “Kaitlyn, bồ
là người duy nhất mình biết bị bệnh mặc cảm ngón chân đó,” và nhỏ ngơ ngác hỏi: “Bồ nói gì thế?”
“Thì giống như khi bồ soi gương, bồ thấy khiếm khuyết khiến bồ mặc cảm cứ lồ lộ ra, nhưng thật sự thì chẳng đến nỗi nào đâu.”
“À, à, mình hiểu rồi,” nhỏ gật gù. “Thế bồ thích đôi này không?” Nhỏ giơ ra một đôi giày Mary Janes xinh xắn nhưng không mấy đặc sắc. Tôi gật đầu và thế là nhỏ tìm cỡ chân mình, xỏ vào thử và cứ bước tới bước lui, vừa đi vừa ngắm nhìn chân mình qua chiếc gương cao đến đầu gối. Sau đó, nhỏ lại chộp lấy một đôi giày xăng đan cao gót và nói: “Mình có thể đi đôi này không nhỉ? Ý mình là, chắc mình sẽ chết—” và chợt im bặt, ngại ngần nhìn tôi như muốn nói mình xin lỗi, như thể đó là một trọng tội khi nhắc đến cái chết với người đang sắp chết vậy. “Bồ nên thử đôi này,” Kaitlyn mở lời, cố gắng xua tan cảm giác ngượng ngùng.
“Mình sẽ chết sớm,” tôi bảo.
Cuối cùng tôi chỉ chọn một vài đôi dép kẹp để có cái mà mua. Xong tôi ngồi phịch xuống một băng ghế đối diện với kệ trưng bày giày và ngó Kaitlyn lượn lờ xem giày, với một sự tập trung cao độ thường thấy ở mấy kiện tướng cờ vua chuyên nghiệp. Tôi muốn lấy cuốn Bình minh lúc nửa đêm ra đọc một chốc nhưng làm vậy có phần khiếm nhã nên tôi chỉ ngồi nhìn Kaitlyn. Thỉnh thoảng nhỏ vòng lại chỗ tôi, tay nắm chặt một số mẫu giày bít mũi và hỏi: “Đôi này nha?” Tôi cố gắng tìm một lời bình luận thông minh, và cuối cùng nhỏ mua những ba đôi còn tôi mua mớ dép kẹp đã chọn. Và khi cả hai vừa ra khỏi cửa hàng, nhỏ hỏi: “Qua bên Anthropologie không?”
“Mình nên về nhà,” tôi đáp. “Mình thấy hơi mệt trong người.”
“Ừ, phải rồi!” nhỏ nói. “Mình phải thường xuyên gặp bồ hơn.” Nhỏ quàng tay lên vai tôi, hôn lên hai má rồi quay lưng đi, cái hông nhỏ lắc lư theo nhịp bước.
Nhưng tôi không về nhà. Tôi đã dặn Mẹ đến đón lúc sáu giờ chiều, và khi thấy bà không có trong khu mua sắm hay dưới bãi đậu xe, tôi muốn dành hai giờ còn lại cho bản thân.
Tôi thương Mẹ, nhưng sự có mặt thường xuyên của bà đôi khi khiến tôi thấy khó chịu một cách kỳ lạ. Cũng như tôi quý Kaitlyn. Tôi thực sự rất quý nhỏ. Nhưng ba năm đằng đẵng không gặp gỡ bạn bè thường xuyên như hồi học chính quy, tôi cảm thấy có một khoảng cách nhất định khó lấp giữa chúng tôi. Tôi nghĩ các bạn cũng muốn giúp tôi vượt qua căn bệnh ung thư này, nhưng cuối cùng họ thấy bất lực. Bởi vì căn bệnh này không thể vượt qua.
Nên tôi thường viện cớ mệt và đau mỗi khi gặp Kaitlyn hay bất kỳ bạn nào khác trong mấy năm qua. Thật ra thì tôi luôn luôn thấy đau. Đau khi không thở được như một người bình thường, khi phải không ngừng nhắc nhở lá phổi phải làm nhiệm vụ của nó, khi buộc phải chấp nhận không thể cắt được cơn đau xé người của chứng suy hô hấp. Vậy thật ra tôi đâu nói dối, tôi chỉ lựa chọn giữa nhiều sự thật mà thôi.
Tôi tìm thấy một băng ghế nằm giữa các cửa hàng Quà tặng Ireland, Viết máy Emporium, và một cửa hàng bán mũ bóng chày — một góc của khu trung tâm mà thậm chí Kaitlyn sẽ không bao giờ ghé qua mua sắm. Thế là tôi bắt đầu đọc cuốn Bình minh lúc nửa đêm.
Truyện gần như cứ một câu là có một người chết và tôi say sưa đọc mà không buồn nhìn lên. Tôi thích Trung sĩ Max Mayhem, mặc dù ông không hẳn là giỏi chuyên môn, chủ yếu tôi thích những cuộc phiêu lưu của ông cứ tiếp diễn liên tục. Lúc nào cũng có nhiều kẻ xấu để tiêu diệt và nhiều người tốt để bảo vệ. Ông bắt đầu cuộc chiến mới cả trước khi chiến thắng cuộc chiến cũ. Thật sự tôi chưa hề đọc một loạt truyện như vầy kể từ khi tôi lớn, và giờ thật thú vị khi sống lại trong thế giới hư cấu vô tận này.
Hai mươi trang cuối truyện, tình hình trở nên bi kịch với Mayhem, khi ông bị bắn mười bảy lần trong một nỗ lực giải cứu con tin (là gái Mỹ, tóc vàng) từ Kẻ thù. Tuy nhiên, từ góc độ người đọc, tôi không thấy thất vọng. Nỗ lực chiến đấu sẽ trường tồn dù không còn Mayhem. Có thể — và thật sự là thế — phần tiếp theo sẽ có sự tham gia của đội quân của ông: chuyên gia Manny Loco và Thám tử tư Jasper Jacks cùng những đồng đội khác.
Khi tôi sắp đọc hết truyện thì có một cô bé tóc tết bím xuất hiện trước mặt tôi, hỏi: “Cái gì trong mũi của chị vậy?”
Tôi đáp: “Ừm, nó gọi là ống thông. Cái ống này cung cấp ô-xy cho chị, giúp chị hít thở.” Mẹ cô bé chạy đến và nói vẻ không hài lòng, “Jackie!” Tôi vội trấn an, “Không, không sao đâu cô,” vì thật ra cũng chẳng có gì nghiêm trọng. Sau đó Jackie lại hỏi: “Thế nó có giúp em hít thở được không?”
“Chị cũng không rõ. Hay chúng ta thử nhé.” Nói đoạn tôi rút ống ra và cho Jackie gắn ống thông vào trong mũi của cô bé và thở. “Nhột quá!” cô bé thốt lên.
“Chị biết mà!”
“Em nghĩ em thở tốt hơn,” cô bé nói.
“Vậy à?”
“Dạ.”
“Ừ,” tôi đáp, “ước gì chị có thể tặng em chiếc ống này nhưng chị thực sự cần nó để trợ thở.” Tôi bắt đầu thấy hụt ô-xy. Tôi ráng tập trung hít thở khi Jackie trả ống lại cho tôi. Tôi nhanh chóng luồn dây vào trong áo thun, móc vòng ra sau vành tai và đặt các đầu ống vào vị trí cũ.
“Cảm ơn chị đã cho em thử nó,” cô bé nói.
“Không có gì đâu bé!”
“Jackie,” mẹ cô bé lại kêu, và lần này tôi để cô bé đi theo mẹ.
Tôi quay trở lại với cuốn truyện, tới đoạn Trung sĩ Max Mayhem thấy ray rứt vì ông chỉ có một mạng sống để cống hiến cho Tổ quốc. Nhưng tôi cứ miên man nghĩ về cô bé tóc bím, tôi thích cô bé biết nhường nào.
Còn một điều nữa về Kaitlyn, theo tôi, là không bao giờ tôi cảm thấy tự nhiên khi nói chuyện với nhỏ nữa. Bất kỳ nỗ lực xã giao bình thường nào cũng chỉ tổ làm tăng thêm thất vọng. Bởi vì rõ rành rành là tất cả mọi người tôi tiếp xúc trong suốt quãng đời còn lại sẽ luôn
thấy khó xử và lúc nào cũng ý thức về căn bệnh của tôi, ngoại trừ trẻ em như Jackie vốn chẳng biết gì mấy.
Dù sao, tôi thực sự thích được ở một mình. Tôi thích ở một mình đơn độc với vị Trung sĩ Max Mayhem đáng thương, người mà — ồ, không phải chứ, đừng nói ông ta vẫn tiếp tục sống sót sau mười bảy vết đạn này nha!
(Cảnh báo ẩn: Ông vẫn sống.)
CHƯƠNG BỐN
The Fault in Our Stars
Tôi hôm đó tôi lên giường sớm hơn thường lệ. Sau khi thay áo
thun và quần cộc, tôi quấn mình trong chăn, kê đầu lên gối trên chiếc giường cỡ vừa - một trong những chốn yêu thích của tôi. Rồi tôi bắt đầu đọc cuốn Nỗi đau tột cùng lần thứ một triệu.
NĐTC kể về một cô bạn tên là Anna (cũng là người dẫn truyện) và người mẹ một mắt của bạn ấy - một thợ làm vườn chuyên nghiệp bị ám ảnh bởi hoa tulip. Họ có một cuộc sống bình dị của tầng lớp hạ lưu trong một thị trấn nhỏ ở miền trung California cho đến khi Anna mắc chứng ung thư máu hiếm gặp.
Tuy nhiên đây không phải là một cuốn truyện ung thư. Truyện ung thư thường chán phèo, kiểu như bệnh nhân ung thư trong đó sẽ thành lập một tổ chức từ thiện gây quỹ chống lại bệnh ung thư, đúng không? Và sứ mệnh từ thiện này nhắc nhở bệnh nhân ung thư về bản chất tốt đẹp trong mỗi con người, khiến cho anh chàng/ cô nàng thấy mình được yêu thương và được khích lệ bởi vì anh chàng/ cô nàng sẽ để lại một nguồn kinh phí chữa ung thư. Nhưng trong NĐTC, Anna cho rằng là một người bị ung thư mà bắt đầu một tổ chức từ thiện chống ung thư là hơi tự kỷ. Thế nên bạn ấy thành lập một tổ chức từ thiện có tên là Quỹ Anna dành cho Bệnh nhân Ung thư Muốn chữa Dịch tả.
Ngoài ra, Anna cũng rất thành thật về tất cả mọi chuyện mà không phải ai cũng chịu thừa nhận: Trong suốt cuốn truyện, bạn ấy nói về mình như là tác dụng phụ của căn bệnh ung thư, mà điều đó hoàn toàn đúng. Trái đất này nhờ những đột biến mới có được sự đa dạng sinh học, và bệnh nhi ung thư thực chất là tác dụng phụ của quá trình đột biến không ngừng đó. Câu chuyện cứ thế tiếp diễn, bạn Anna ngày càng bệnh nặng hơn, các liệu pháp điều trị lẫn căn bệnh thi nhau cướp lấy sinh mệnh bạn ấy. Còn mẹ bạn thì đem lòng yêu một thương nhân buôn hoa tulip Hà Lan mà Anna gọi là chú
Tulip Hà Lan. Chú Tulip Hà Lan có rất nhiều tiền cùng những ý tưởng rất lập dị về phương pháp điều trị ung thư. Anna nghĩ rằng ông chú này có thể là một tay lừa bịp và thậm chí có khả năng không phải là người Hà Lan. Thế rồi vào lúc ông chú Hà Lan và mẹ bạn sắp kết hôn, còn Anna bắt đầu thử nghiệm phác đồ điều trị mới khá điên rồ bằng các dược liệu như cỏ lúa mì và một ít thạch tín, thì cuốn truyện đột ngột kết thúc ngay giữa.
Tôi biết đó là một quyết định rất văn học về mọi việc trong truyện. Cái kết lưng chừng này có lẽ là một phần lý do tôi yêu thích tác phẩm đến vậy. Nhưng cần có gì đó cho biết là câu chuyện đã kết thúc. Và nếu nó không thể kết thúc thì ít ra là nên tiếp tục kéo dài liên tu bất tận như cuộc phiêu lưu của trung đội Trung sĩ Max Mayhem.
Tôi hiểu câu chuyện kết thúc bởi vì Anna đã chết hoặc sức khỏe quá yếu, không cho phép bạn tiếp tục viết. Tôi cũng tin rằng việc bỏ lửng câu thế này sẽ phản ánh chân thực rằng cuộc sống thường kết thúc đột ngột như thế. Nhưng ngoài Anna còn có nhiều nhân vật khác trong câu chuyện, và thật không công bằng khi tôi không bao giờ biết những gì xảy ra với họ sau đó. Tôi đã viết, thông qua địa chỉ nhà xuất bản, hơn chục lá thư cho tác giả Peter Van Houten. Mỗi lá thư đều nhằm tìm kiếm câu trả lời về những gì xảy ra sau khi câu chuyện kết thúc: liệu chú Tulip Hà Lan có phải là kẻ bịp bợm, liệu mẹ Anna cuối cùng cũng kết hôn với ông, chuyện gì xảy ra với chú chuột hamster ngu ngốc của Anna (thú cưng mà mẹ bạn cực ghét), các bạn của Anna có tốt nghiệp trung học không - tất tần tật mọi chi tiết. Thế nhưng tác giả chưa bao giờ trả lời cho bất kỳ lá thư nào của tôi.
NĐTC là cuốn sách đầu tay và duy nhất của Peter Van Houten. Người ta chỉ biết mông lung rằng ông đã rời Mỹ về lại Hà Lan sau khi cuốn sách ra đời và sống một cuộc đời ẩn dật. Tôi tưởng tượng rằng ông đang viết phần tiếp theo lấy bối cảnh là Hà Lan - có thể mẹ Anna và chú Tulip Hà Lan cuối cùng đã chuyển đến đây và cố gắng bắt đầu một cuộc sống mới. Nhưng đã mười năm trôi qua kể từ khi cuốn Nỗi đau tột cùng được phát hành, Van Houten đã chẳng công
bố gì thêm, đến một bài blog cũng không. Tôi không thể chờ đợi mãi được.
Khi đọc lại truyện đêm đó, tôi cứ liên tục bị phân tâm khi tưởng tượng lan man là Augustus Waters cũng đang đọc những dòng tương tự. Tôi tự hỏi liệu anh có thích nó không, hay lại gạt sang một bên không đọc vì nghĩ tôi làm màu. Rồi tôi chợt nhớ lời hứa sẽ gọi cho anh sau khi đọc xong Cái giá của Bình minh. Thế là tôi tìm số di động của anh ở trang đầu tiên và nhắn tin cho anh.
Nhận xét về Cái giá của Bình minh: Đầy rẫy người chết. Không đủ vốn từ miêu tả. Còn NĐTC thì sao?
Một phút sau anh nhắn lại:
Theo anh nhớ thì em hứa sẽ GỌI sau khi đọc hết truyện, chứ không phải nhắn tin.
Thế là tôi gọi.
“Hazel Grace,” giọng anh hồ hởi khi vừa bắt máy.
“Vậy anh đã đọc chưa?”
“Có, nhưng chưa xong. Truyện dày đến sáu trăm năm mươi trang mà anh chỉ có hai mươi bốn tiếng đồng hồ.”
“Vậy anh đọc đến đâu rồi?”
“Trang bốn trăm năm mươi ba.”
“Và?”
“Anh sẽ không nhận xét gì cho đến khi đọc xong truyện. Tuy nhiên, anh xin nói rằng anh cảm thấy hơi xấu hổ khi đã đưa cho em cuốn Cái giá của Bình minh.”
“Anh không cần phải xấu hổ đâu. Tôi đã đọc sang cuốn Cầu siêu cho Mayhem rồi.”
“Một phần bổ sung sáng giá cho loạt truyện. Được rồi, thế tay buôn tulip có phải kẻ bịp không? Anh có linh cảm không hay về tay này.”
“Biết trước mất hay!” Tôi đáp.
“Nếu tay ấy không phải là một quý ông đàng hoàng thì anh sẽ moi mắt hắn ra.”
“Xem ra anh kết truyện này nhỉ.”
“Khoan kết luận vội! Khi nào anh có thể gặp em đây?”
“Dĩ nhiên là sau khi anh đọc xong Nỗi đau tột cùng rồi.” Tôi thích đẩy đưa thêm một chút.
“Thế thì anh nên bỏ máy xuống và tiếp tục đọc.”
“Anh nên làm thế,” tôi bảo. Và anh tắt máy ngay mà không nói thêm một lời.
Trò tán tỉnh này quả thật mới mẻ nhưng tôi thích chơi trò này. ***
Sáng hôm sau tôi có lớp Thơ Mỹ Thế kỷ Hai mươi tại trường MCC. Bà giảng viên bộ môn đứng tuổi cứ thao thao bất tuyệt về một bài giảng dài chín mươi phút về Sylvia Plath mà không một lần trích thơ của Sylvia Plath.
Khi tôi ra khỏi lớp, Mẹ đã chờ sẵn ở lề đường trước khu tôi học.
“Bộ Mẹ ở đây đợi con suốt buổi học à?” tôi hỏi khi bà vội vã vòng ra sau lưng để giúp tôi chuyển giá đỡ và bình ô-xy của tôi vào trong xe.
“Không, Mẹ có đi lấy đồ giặt ủi và ghé bưu điện.”
“Và sau đó?”
“Mẹ đã đọc một cuốn sách trong lúc chờ đợi,” bà đáp.
“Và con là người cần tận hưởng cuộc sống.” Tôi cười, bà cũng cố gắng mỉm cười theo, nụ cười pha chút ngượng ngập. Sau một giây, tôi quyết định chuyển đề tài. “Mẹ có muốn đi xem phim không?”
“Có chứ. Con muốn xem phim gì?”
“Mẹ con mình cứ đến rạp và có phim nào sắp chiếu thì xem phim đó.” Mẹ đóng cửa xe cho tôi và đi vòng qua bên cửa lái chính, chúng tôi lái xe đến nhà hát Castleton và xem một bộ phim 3D về loài chuột biết nói. Bộ phim thực sự khá buồn cười.
***
Khi tôi xem xong phim và ra khỏi rạp, tôi thấy có bốn tin nhắn từ Augustus.
Hãy nói bản truyện em đưa anh bị thiếu mất hai mươi trang cuối hoặc viện một lý do gì khác.
Hazel Grace, hãy nói với anh rằng anh chưa đọc đến kết truyện đi!
TRỜI ƠI LIỆU HỌ CÓ KẾT HÔN KHÔNG ÔI TRỜI TRUYỆN GÌ THẾ NÀY
Anh đoán là Anna chết và truyện đơn giản kết thúc ngay đó? TÀN NHẪN. Hãy gọi cho anh ngay nhé. Hy vọng mọi chuyện vẫn ổn.
***
Ngay khi về đến nhà, tôi đi thẳng ra sau vườn và đến ngồi trên
chiếc ghế lưới hóng mát đang hoen gỉ và gọi cho anh ấy. Hôm nay trời vần vũ mây, kiểu thời tiết đặc trưng của bang Indiana, không khí đặc quánh như sắp đóng hộp ta vậy. Nổi bật trên mảnh sân nhỏ sau nhà là bộ đánh đu thời thơ bé của tôi, giờ nhìn ướt nhèm nhẹp thật thảm thương.
Augustus bắt máy khi chuông reo hồi thứ ba. “Hazel Grace,” anh chào.
“Chào mừng anh đến với sự tra tấn ngọt ngào khi đọc Nỗi đau—” Tôi chợt ngừng lại khi nghe tiếng sụt sịt rõ to ở đầu dây bên kia. “Anh có sao không?” Tôi vội hỏi.
“Anh khỏe,” Augustus trả lời. “Tuy nhiên anh đang ở bên cạnh anh Isaac, anh ấy đang bị suy sụp tinh thần trầm trọng.” Tiếng khóc rền rĩ hơn. Giống như tiếng rú thảm thiết trước khi chết của một con thú bị thương. Gus chuyển sự chú ý sang Isaac. “Này, này thằng quỷ, sự có mặt của Hazel Hội Tương Trợ liệu có làm mày thấy khá hơn không, hay còn tồi tệ hơn? Isaac. Nghe. Tao. Nè.” Sau một phút, Gus nói với tôi. “Em có thể đến gặp tụi anh ở nhà anh không? Khoảng hai mươi phút nữa.”
“Được,” tôi đáp và tắt máy.
***
Nếu có thể lái xe trên một đường thẳng thì thật ra chỉ mất độ năm phút để đi từ nhà tôi đến nhà anh Augustus, nhưng chúng ta không thể lái xe trên một đường thẳng vì Công viên Holliday nằm chắn ngay chính giữa hai nhà.
Mặc dù đó là sự bất tiện về mặt địa lý nhưng tôi thực sự thích Công viên Holliday. Hồi còn bé, tôi thường bơi lội tung tăng trên Sông Trắng với Ba. Tuyệt nhất là khi ông ném tôi lên không trung, kiểu như tung tôi ra khỏi tay, và tôi sẽ dang hai tay ra như thể đang bay và ông sẽ đưa tay đón lấy tôi. Chợt cả hai cha con thấy là cha
không thể bắt được con mà cũng không có ai đỡ tôi ở bên dưới. Cảm giác sợ hãi đó khiến hai cha con thất kinh hồn vía. Thế rồi cả người tôi rơi tõm xuống sông. Và khi tôi ngoi lên mặt nước mà không bị hề hấn gì, sóng lại đẩy tôi về phía Ba. Rồi tôi lại năn nỉ: Nữa đi. Ba ơi, nữa đi.
Tôi rẽ sang đường vào nhà Augustus, đậu xe cạnh một chiếc Toyota cũ màu đen mà tôi đoán là của anh Isaac. Xóc lại bình ô-xy phía sau lưng, tôi bước đến gõ cửa. Ba của Gus ra mở cửa.
“Hazel Được Rồi,” ông lên tiếng. “Rất vui được gặp lại cháu.” “Anh Augustus kêu cháu ghé qua.”
“Ừ, nó và Isaac đang ở dưới tầng hầm.” Đúng lúc đó có tiếng khóc vọng lên từ dưới hầm. “Hẳn đó là Isaac,” ba của Gus nói và khẽ lắc đầu. “Bác Cindy đã phải lái xe ra ngoài, cái tiếng khóc đó...” ông bỏ lửng câu. “Mà thôi, cháu xuống hầm đi. Có cần bác đỡ giúp cháu cái, ơ, cái bình này không?” Ông hỏi.
“Dạ không cần đâu bác, cháu tự xoay xở được. Cảm ơn bác nhé, bác Waters.”
“Cứ gọi bác là Mark,” ông bảo.
Tôi hơi sờ sợ khi đi xuống hầm. Nghe người ta khóc than rên rỉ không phải là trò giải trí yêu thích của tôi. Nhưng tôi vẫn bước xuống.
“Hazel Grace,” Augustus nói khi anh nghe tiếng bước chân của tôi. “Isaac, Hazel của Hội Tương Trợ đang xuống kìa. Hazel, anh cảnh báo em trước là anh Isaac đang trong giai đoạn khủng hoảng tinh thần đó nha.”
Augustus và Isaac đang ngồi ngả lưng trên ghế lười có hình dạng chữ L và chơi game, mắt nhìn chăm chăm lên màn hình ti-vi khổng lồ. Màn hình được chia hai, phần bên trái của Isaac, và bên phải của Augustus. Họ là những người lính chiến đấu trong một thành phố hiện đại đang bị giội bom. Tôi nhận ra cảnh tượng giống trong cuốn Cái giá của Bình minh. Khi bước tới, tôi vẫn chưa thấy có
gì bất thường: chỉ là hai anh chàng đang ngồi trong quầng sáng chiếu ra từ chiếc ti-vi khổng lồ, đóng vai chiến sĩ bắn giết kẻ thù.
Chỉ đến khi đứng song song với họ, tôi mới nhìn thấy mặt của anh Isaac. Nước mắt ràn rụa cứ chảy thành dòng qua hai gò má đỏ ửng của anh, khuôn mặt anh rúm ró đầy đau khổ. Anh vẫn nhìn chằm chằm vào màn hình, thậm chí không buồn liếc nhìn lên tôi, và rống lên, trong khi tay vẫn bấm lia lịa vào bộ điều khiển của mình. “Em khỏe không, Hazel?” Augustus hỏi.
“Tôi khỏe,” tôi đáp. “Còn anh, Isaac?” Không một câu trả lời. Thậm chí chẳng có dấu hiệu nhỏ nào cho thấy anh biết đến sự hiện diện của tôi. Chỉ có những giọt nước mắt ngắn dài chảy ướt chiếc áo thun đen của anh.
Augustus thoáng liếc nhìn ra khỏi màn hình. “Hôm nay em xinh thật,” anh khen. Tôi đang mặc cái đầm chỉ-vừa-chấm-gối mà tôi có từ hồi xưa lơ xưa lắc. “Con gái nghĩ rằng họ chỉ được phép diện đầm vào những dịp trang trọng. Nhưng anh thích týp phụ nữ kiểu như, ồ, tôi sắp đi gặp một anh chàng đang suy sụp tinh thần cùng một anh chàng chẳng dây mơ rễ má gì và nhìn đây, tôi sẽ mặc đầm đến đó.”
“Tuy nhiên,” tôi nói, “anh Isaac chẳng buồn liếc nhìn tôi. Chắc tại quá yêu Monica, tôi đoán vậy,” và nhận ngay kết quả là một tiếng nấc tức tưởi.
“Chủ đề nhạy cảm đấy!” Augustus nhắc. “Isaac, tao không biết mày thấy không nhưng tao có linh cảm mơ hồ rằng tụi mình đang bị đánh chọc sườn.” Và sau đó quay sang nói với tôi, “Isaac và Monica không còn cặp nhau nữa, nhưng anh Isaac không muốn nói về cô nàng đó. Anh ấy chỉ muốn khóc lóc và chơi game chống phiến loạn 2 trong Cái giá của Bình minh thôi.”
“Được thôi,” tôi đáp.
“Isaac, tao thấy ngày càng lo về vị trí chiến đấu của tụi mình. Nếu mày đồng ý thì cứ chạy đến trạm điện, tao sẽ yểm trợ cho.” Anh Isaac chạy về phía một tòa nhà không rõ là nhà gì trong khi
Augustus vừa lia một khẩu súng máy bắn liên thanh dữ dội vừa chạy theo phía sau.
“Dù sao,” Augustus nói với tôi, “cứ nói chuyện với anh ấy đi, không sao đâu. Nếu bậc cao nhân con gái như em có lời khuyên hay ho nào thì xin chỉ giáo.”
“Tôi thấy phản ứng đó của ảnh cũng hợp tình hợp lý mà,” tôi nói trong tràng súng đùng đoàng của anh Isaac, giết chết tươi một tên vừa ló đầu ra khỏi phía sau một chiếc xe tải nhỏ đã cháy rụi.
Augustus vẫn nhìn chăm chú vào màn hình, gật đầu. “Nỗi đau cần được cảm nhận,” anh nói, đó là một câu trong cuốn Nỗi đau tột cùng. “Mày có chắc không còn thằng nào đằng sau tụi mình chứ?” anh hỏi Isaac. Một lúc sau, đạn lửa bắt đầu rít lên phía trên đầu họ. “Ôi, chết tiệt, Isaac,” Augustus thốt lên. “Tao không có ý chỉ trích mày trong thời điểm mày yếu đuối nhất. Nhưng mày để tụi mình bị đánh chọc sườn rồi. Bây giờ thì không còn gì chắn giữa đám khủng bố và trường học.” Nhân vật trong game của Isaac chạy ngoắt ngoéo trong một con hẻm hẹp về phía ngọn lửa.
“Anh có thể đi qua cầu rồi vòng lại,” tôi nhắc, một chiến thuật tôi biết nhờ đọc Cái giá của Bình minh.
Augustus thở dài. “Tiếc là do chiến thuật của vị đồng đội đang tuyệt vọng của anh có vấn đề mà cây cầu đã bị phe nổi dậy kiểm soát rồi.”
“Tao á?” Isaac thì thầm. “Tao hả?! Mày là đứa đề nghị chạy đến núp trong cái trạm điện chết bầm này mà.”
Gus quay sang từ màn hình trong tích tắc và nhếch mép cười. “Tao biết mày có thể nói chuyện mà!” Anh nói. “Nào, giờ chúng ta hãy tiến lên cứu giúp mấy em học sinh nào.”
Họ cùng nhau chạy dọc con hẻm, vừa nổ súng vừa tìm chỗ ẩn nấp cho đến khi gặp ngôi trường chỉ có duy nhất một phòng học. Họ thu mình phía sau một bức tường trên phố và bắn tỉa từng kẻ thù một.
“Tại sao quân nổi dậy muốn vào trường?” Tôi hỏi.
“Chúng muốn bắt học sinh làm con tin,” Augustus trả lời. Bờ vai anh che khuất bộ điều khiển, tay không ngừng bấm nút, cả cánh tay căng lên lộ rõ gân máu. Isaac nghiêng người về phía màn hình, các ngón tay thanh mảnh nhảy múa trên bộ điều khiển của anh. “Chết này! Chết này! Chết này!” Augustus phấn khích. Làn sóng quân khủng bố vẫn tiếp tục túa ra, và họ giết sạch bọn chúng. Hai anh ngắm bắn chuẩn xác đến đáng kinh ngạc, lẽ dĩ nhiên phải thế vì cả hai sợ sẽ bắn nhầm vào trường học.
“Lựu đạn! Lựu đạn!” Augustus hét lên thất thanh khi có một vật bay véo thành hình vòng cung xẹt ngang màn hình, lăn về phía cổng trường rồi va vào cửa.
Isaac buông bộ điều khiển trong sự thất vọng não nề. “Nếu bọn chúng không bắt được con tin, chúng sẽ giết mấy em học sinh rồi vu khống cho chúng ta.”
“Yểm trợ cho tao!” Augustus nói khi anh nhảy ra từ phía sau bức tường và chạy về phía cổng trường. Isaac lúng túng chộp lấy bộ điều khiển và bắt đầu bắn lia lịa trong khi đạn của kẻ thù trút như mưa xuống Augustus, anh đã bị bắn trúng một phát rồi đến hai phát nhưng vẫn chạy. Augustus hét vang: “ CHÚNG BAY KHÔNG GIẾT ĐƯỢC MAX MAYHEM ĐÂU!” Và với một loạt lượt bấm cuối cùng, anh lao mình lên quả lựu đạn. Nó phát nổ dưới người anh. Cơ thể anh bị nổ tan, các mảnh xác vụn bắn lên tung tóe như một mạch nước phun trào. Rồi cả màn hình chuyển sang màu đỏ. Một giọng nói khàn khàn cất lên, “NHIỆM VỤ THẤT BẠI.” Nhưng dường như Augustus nghĩ khác, bởi lẽ anh mỉm cười trước những tàn tích của mình trên màn hình. Anh thò tay vào túi, lấy ra một điếu thuốc, và nhét nó vào giữa hai hàm răng của mình, thong thả nói, “Bọn trẻ đã được cứu!”
“Tạm thời thôi!” Tôi chỉnh lời anh.
“Mọi sự cứu rỗi đều mang tính tạm thời,” Augustus đáp lại. “Anh kéo dài được một phút cho bọn trẻ. Có lẽ đó là phút giúp chúng sống thêm một giờ, và một giờ đó giúp chúng sống thêm một năm. Sẽ không ai kéo dài thời khắc mãi mãi được cho bọn trẻ, Hazel Grace
à. Nhưng mạng sống của anh kéo dài thêm một phút cho chúng. Và điều đó không hẳn là vô nghĩa.”
“Oaaa, thôi được rồi,” tôi nói. “Chúng ta chỉ đang nói về trò chơi điện tử.”
Anh nhún vai, như thể anh tin rằng trò chơi có thể biến thành sự thực. Isaac lại bắt đầu khóc lóc. Augustus hất đầu về phía anh Isaac. “Chơi lại nhiệm vụ này không, chiến hữu?”
Isaac lắc đầu. Anh nhoài người qua Augustus, nhìn tôi và trầm giọng bảo, “Rốt cuộc thì chị Monica không muốn tiếp tục nữa.”
“Chị ấy không muốn chia tay một người bị mù,” tôi nói. Anh gục gặc đầu, nước mắt không còn là từng giọt nữa, mà giờ rơi như một cái máy gõ nhịp — đều đặn và liên tục không ngừng.
“Chị ấy nói là không thể đối mặt,” anh rền rĩ. “Anh sắp mất thị lực và chị Monica không đối mặt được với chuyện đó.”
Tôi suy nghĩ về từ đối mặt, tất cả những điều không thể đối mặt cuối cùng vẫn được giải quyết. “Em rất tiếc,” tôi nói.
Anh quệt tay áo, lau khuôn mặt đầm đìa nước mắt. Phía sau gọng kính, đôi mắt của anh Isaac dường như lớn hơn, lấn át mọi chi tiết khác trên khuôn mặt. Cặp mắt quái gở ấy lồi ra, nhìn chòng chọc vào tôi — một con mắt thật, một con mắt giả. “Thật không thể chấp nhận được,” anh nói với tôi. “Hoàn toàn không chấp nhận được.”
“Thật ra, công bằng mà nói,” tôi giải thích, “có thể chị ấy không thể đối mặt được. Anh cũng vậy, nhưng chị ấy không nhất thiết phải đối mặt với chuyện này. Còn anh thì bắt buộc phải vậy.”
“Hôm nay anh không ngừng nói ‘luôn luôn’ với chị ấy, ‘luôn luôn luôn luôn luôn luôn’ còn chị chỉ lo biện bạch này nọ mà không hề đáp lại mật mã. Cứ như thể anh đã ra đi rồi, em hiểu không? ‘Luôn luôn’ là một lời hứa! Làm sao chị ấy có thể phá vỡ lời hứa kia chứ?”
“Đôi khi người ta không ý thức được những lời họ hứa khi họ đang hứa,” tôi nói.
Isaac bắn một tia nhìn qua tôi, “Phải, cứ cho là vậy đi. Nhưng ta phải giữ lời hứa chứ. Đó mới là tình yêu. Tình yêu là giữ lời hứa dù trong hoàn cảnh nào. Em không tin vào tình yêu đích thực ư?”
Tôi không trả lời. Tôi không có câu trả lời. Nhưng tôi nghĩ rằng nếu tình yêu đích thực có tồn tại thì lời anh Isaac là một định nghĩa khá hay về tình yêu.
“Chậc, anh thì tin vào tình yêu đích thực,” Isaac nói. “Và anh yêu chị. Chị đã hứa. Chị ấy đã hứa sẽ luôn luôn yêu anh.” Anh đứng lên và bước về phía tôi. Tôi cũng đẩy người đứng dậy, đinh ninh là anh muốn ôm tôi hay gì đó, nhưng anh chỉ đơn giản quay nhìn xung quanh, giống như anh cũng không nhớ vì sao lúc đầu mình lại đứng dậy. Và rồi cả Augustus và tôi đều thấy cơn thịnh nộ dồn lên mặt anh.
“Isaac,” Gus kêu.
“Cái gì?”
“Mày trông hơi... Xin lỗi nếu câu này mang hai nghĩa nha mày, nhưng tao thấy ánh mắt mày có vẻ ức chế.”
Đột nhiên anh Isaac đá chiếc ghế chơi game của mình, khiến nó ngã nhào về phía giường của Gus. “Bộc phát đi mày!” Augustus hào hứng. Isaac đuổi theo chiếc ghế và đá nó một lần nữa. “Đúng rồi!” Augustus khuyến khích. “Hãy đá nó đi, đá bay cái ghế đi!” Anh Isaac đá thêm mấy phát, cho đến khi nó lăn trở lại giường của Gus, và sau đó anh nắm lấy một chiếc gối và bắt đầu đập ầm ầm vào khoảng tường trống giữa chiếc giường và kệ trưng cúp phía trên.
Augustus nhìn qua tôi, điếu thuốc lá vẫn còn trên miệng anh, và khẽ mỉm cười. “Anh không ngừng nghĩ về cuốn truyện đó.”
“Tôi biết mà.”
“Tác giả chưa bao giờ bật mí những gì xảy ra với các nhân vật khác sao?”
“Phải,” tôi đáp lời anh. Anh Isaac vẫn đang hành hạ các bức tường bằng gối. “Ông đã chuyển đến Amsterdam, khiến tôi nghĩ
rằng có thể ông đang viết phần tiếp theo về chú Tulip Hà Lan. Nhưng ông chẳng công bố thêm gì và cũng chưa bao giờ trả lời phỏng vấn. Ông dường như không lên mạng. Tôi đã viết hàng loạt thư cho ông hỏi về những chuyện xảy ra với tất cả mọi người, nhưng ông không bao giờ trả lời. Cho nên... ừm.” Tôi ngừng nói vì dường như Augustus không lắng nghe. Thay vào đó, anh đang liếc mắt nhìn Isaac.
“Chờ anh chút,” anh thì thầm với tôi. Nói đoạn anh bước tới chỗ Isaac và nắm lấy vai anh ấy. “Thằng quỷ, gối vô hại. Mày thử cái gì có thể bể được coi!”
Isaac chộp lấy chiếc cúp bóng rổ từ kệ và giữ nó trên đầu như thể chờ anh cho phép. “Ném đi!” Augustus hô. “Ném!” Chiếc cúp đập chát xuống sàn nhà, cánh tay bằng nhựa của chàng cầu thủ bóng rổ long ra nhưng vẫn nắm chặt quả bóng. Isaac dẫm lên chiếc cúp. “Ừ!” Augustus nói. “Đạp bể đi!”
Rồi quay lại với tôi, “Anh đã cố tìm cách nói với ba rằng thật ra anh ghét chơi bóng rổ. Và anh nghĩ rằng chúng ta vừa tìm được một cách.” Các chiếc cúp lần lượt bị lôi xuống. Anh Isaac vừa la hét vừa dẫm đạp lên chúng, trong khi Augustus và tôi đứng cách một quãng, chứng kiến sự điên cuồng của tình yêu tan vỡ. Những mảnh vỡ của các cầu thủ bóng rổ đáng thương, sứt sẹo nằm vương vãi khắp nền thảm: đây là một bàn tay bị vỡ đang ôm bóng, kia là đôi chân gãy rụng đang nhảy lên lưng chừng. Isaac liên tục tấn công đám cúp, nhảy thình thịch lên chúng bằng cả hai chân, la hét, thở dốc, vã mồ hôi. Cho đến khi anh ngồi sụp trên đống đổ nát của những chiếc cúp gãy vỡ lởm chởm.
Augustus bước về phía anh và nhìn xuống hỏi, “Thấy đỡ hơn chưa mày?”
“Chưa,” Isaac lẩm bẩm, lồng ngực phập phồng.
“Đó chính là nỗi đau,” Augustus thốt lên, và sau đó quay qua nhìn tôi. “Nỗi đau cần được cảm nhận.”
CHƯƠNG NĂM
The Fault in Our Stars
Tôi đã không liên lạc với Augustus trong khoảng một tuần. Lần
sau cùng tôi gọi điện thoại cho anh là vào Buổi Tối Đập Phá Cúp, theo lệ thường thì đến lượt anh gọi cho tôi. Nhưng anh chẳng gọi. Và tôi cũng không phải kiểu con gái suốt ngày ôm khư khư điện thoại trong bàn tay ướt đẫm mồ hôi, mắt nhìn chăm chăm vào đèn báo hiệu có cuộc gọi đến trong khi diện chiếc Đầm Vàng Đặc Biệt, kiên nhẫn chờ chàng trai trong mộng - người luôn sống xứng đáng với ‘thanh danh’ của chàng - sẽ gọi điện cho mình vào một ngày đẹp trời nào đó. Thay vì vậy, tôi tiếp tục thói quen sinh hoạt thường ngày của mình: một buổi chiều tôi hẹn đi cà phê với Kaitlyn và bạn trai của nhỏ (trông dễ thương thật nhưng không có ‘chất Augustinô’); mỗi ngày tôi dùng đủ liều Phalanxifor theo chỉ định; tôi đi học vào ba buổi sáng trong tuần tại MCC; và mỗi đêm tôi đều ăn tối cùng Ba Mẹ.
Vào tối chủ nhật, nhà tôi ăn pizza với ớt chuông và bông cải xanh. Khi cả nhà đang quây quần bên chiếc bàn tròn trong bếp thì nhạc chuông điện thoại của tôi bắt đầu réo vang. Nhưng tôi không được phép bắt máy vì ở nhà có một quy định nghiêm ngặt là không nghe-điện-thoại-trong-lúc-ăn.
Tôi ngồi nhấm nháp một chút trong khi Ba Mẹ nói về trận động đất vừa xảy ra ở Papua New Guinea. Ngày xưa, hai người gặp nhau tại Peace Corps ở Papua New Guinea. Nên khi có bất cứ chuyện gì xảy ra, thậm chí là tin xấu, họ bỗng không còn là những người lớn đã ổn định cuộc sống gia đình nữa mà như đột nhiên quay trở lại với thời thanh niên của mình, trẻ trung, tràn đầy lý tưởng, sống tự lập và gặp nhiều gian truân. Và Ba Mẹ phấn khích đến độ chẳng buồn để ý là tôi đang ăn nhanh hơn thường ngày, không ngừng chuyển thức ăn trên đĩa vào miệng với tốc độ tên lửa khiến tôi gần như nghẹn thở. Dĩ nhiên tôi cũng lo lắng nhỡ đâu lại bị tràn dịch màng phổi lần nữa. Tôi cố xua tan ý nghĩ này. Theo lịch, tôi sẽ chụp cắt lớp PET
trong vài tuần nữa. Nếu có chuyện chẳng lành thì tôi sẽ sớm biết thôi. Từ giờ đến đó có lo lắng cũng chẳng ích gì.
Nhưng tôi vẫn lo lắng. Tôi yêu cuộc sống này và tôi không muốn từ bỏ nó sớm. Tuy nhiên, lo lắng cũng là tác dụng phụ của việc chờ chết.
Cuối cùng cũng ăn xong. Tôi hớn hở thông báo, “Con ăn xong rồi!” trong khi Ba và Mẹ vẫn say sưa thảo luận về ưu - khuyết của cơ sở hạ tầng ở Guinea. Tôi chộp lấy chiếc ví đặt trên quầy bếp, rút điện thoại ra và kiểm tra các cuộc gọi nhỡ vừa rồi. Là Augustus Waters.
Tôi bước ra cửa sau. Trời chạng vạng tối và tôi có thể thấy chiếc đu. Tôi nghĩ đến việc ra đó ngồi, vừa đong đưa vừa tán chuyện với anh, nhưng khoảng cách dường như khá xa đối với cái bụng đang óc ách của tôi.
Thay vào đó, tôi nằm bệt xuống bãi cỏ bên cạnh chiếc ghế hóng mát, ngước nhìn chòm sao Thợ săn, chòm sao duy nhất tôi có thể nhận diện, và gọi cho anh.
“Hazel Grace,” anh chào.
“Chào,” tôi nói. “Anh khỏe không?”
“Khỏe như vâm,” anh đáp. “Anh đã muốn gọi cho em từng phút một nhưng anh ráng chờ đến khi suy nghĩ mạch lạc hơn đối với truyện Nỗi đau tột cùng” (Anh dùng từ mạch lạc. Anh ấy thực sự nói thế, cái anh chàng đó.)
“Và?” Tôi hỏi.
“Anh nghĩ rằng nó như... Đọc nó, anh cứ có cảm giác giống như, giống như...”
“Giống như gì?” Tôi hỏi vẻ trêu chọc.
“Giống như một món quà á?” Anh ướm lời như dò xét. “Giống như em đã trao cho anh một cái gì đó quan trọng.”
“Ồ,” tôi khẽ thốt lên.
“Xin lỗi, nghe có vẻ khách sáo quá.”
“Không, anh không cần xin lỗi đâu.”
“Nhưng nó thiếu đoạn kết.”
“Ừ!” Tôi đồng tình.
“Thật là một sự tra tấn. Anh có thể đoán được là cô bé đã chết hay bị gì đó.”
“Ừ, tôi cũng đoán vậy,” tôi nói.
“Ừ, okay, thôi được. Nhưng có một thỏa thuận bất thành văn giữa tác giả và người đọc và anh nghĩ rằng không viết đoạn kết cho truyện cũng là vi phạm một phần thỏa thuận đó.”
“Tôi không biết,” tôi đáp, trong lòng thấy muốn bênh vực cho Peter Van Houten. Nói một cách nào đó thì phần kết là một trong những lý do khiến tôi thích cuốn sách này. Nó miêu tả chân thực cái chết. Ta lăn ra chết ở giữa chừng xuân, ngay chính giữa một câu. Nhưng tôi cũng — Chúa ơi, tôi cũng thật sự muốn biết chuyện gì xảy ra sau đó đối với tất cả nhân vật khác. Đó là những gì tôi hỏi ông ấy trong thư của mình. Nhưng ông ấy, hây da, ông không bao giờ hồi âm.
“Đúng rồi, em nói ông là một người sống ẩn dật phải không?” “Dạ phải.”
“Không thể tìm được tung tích.”
“Dạ phải.”
“Hoàn toàn không thể liên lạc,” Augustus nói tiếp.
“Đáng tiếc là đúng vậy đó,” tôi xác nhận.
“‘Thưa anh Waters,’” giọng anh thủng thẳng. ‘“Tôi viết thư này để cảm ơn về bức email của anh đã gửi thông qua cô Vliegenthart vào ngày sáu tháng Tư, từ nước Mỹ xa xôi tới mức có thể nói khoảng cách địa lý đã được xóa nhòa trong thời đại số hóa tiên tiến của chúng ta.’”
“Augustus, anh đang đọc cái quái gì thế?”
“Ông ấy có một trợ lý,” Augustus giải thích. “Lidewij Vliegenthart. Anh tìm ra chị này và đã gửi email cho chị. Chị chuyển email cho ông và ông trả lời thông qua tài khoản email của chị ấy.”
“Được rồi, được rồi. Anh mau đọc tiếp đi.”
‘“Thư phúc đáp của tôi được viết tay bằng bút mực trên giấy theo truyền thống vẻ vang của tổ tiên chúng ta và sau đó được cô Vliegenthart chuyển thành một loạt các ký tự 1 và 0 chạy ngoằn ngoèo trong một mạng lưới tẻ nhạt, mà gần đây đã mê hoặc được loài người chúng ta. Thế nên tôi thành thật xin lỗi cho bất kỳ lỗi chính tả hay thiếu sót nào có thể xảy ra.
“‘Với nhiều thú vui chơi giải trí náo nhiệt sẵn sàng phục vụ các thanh niên cô cậu của thế hệ anh, tôi thật vô vàn cảm kích trước bất cứ người nào ở bất cứ nơi đâu đã dành ra vài giờ hiếm hoi để đọc cuốn sách hèn mọn của tôi. Nhưng tôi đặc biệt mang ơn anh, thưa anh, không chỉ vì những lời ca tụng tốt đẹp của anh về cuốn Nỗi đau tột cùng mà còn vì anh đã nhín chút thời giờ để cho tôi biết rằng cuốn sách của tôi, ở đây tôi xin trích nguyên văn lời anh, “có ý nghĩa to lớn” với anh.
‘“Nhận xét này, tuy nhiên, khiến tôi tự hỏi: Ý anh là gì khi dùng cụm từ có ý nghĩa? Với cuộc đấu tranh sinh tồn mà kết cục sẽ là cửa tử dành cho tất cả chúng ta, liệu tính phù du thoáng qua của ý nghĩa sống mà nghệ thuật đem lại cho chúng ta có giá trị không? Hay sống chỉ mang giá trị đơn thuần là từng ngày trôi qua sao cho thoải mái nhất? Câu chuyện nên phát triển theo chiều hướng nào đây, anh Augustus? Một hồi chuông cảnh tỉnh? Một lệnh tổng động viên? Một liều thuốc giảm đau? Tất nhiên, như tất cả mọi câu hỏi chất vấn khác trên vũ trụ này, thắc mắc này rõ ràng đưa chúng ta đến câu hỏi sống kiếp người có ý nghĩa gì và phải chăng — xin mượn lời của bọn choai choai mười sáu tuổi với ngổn ngang tâm sự lo lắng cho thế giới hỗn độn này, những tâm sự mà chắc chắn khi nghe anh sẽ cười vào mũi chúng — cuộc sống này có ý nghĩa.
‘“Tôi e rằng không, anh bạn của tôi. Và tôi không khuyến khích anh cật vấn thêm về văn phong viết lách của tôi. Nhưng để tôi trả lời thẳng thắn câu hỏi của anh: Không, tôi đã không viết thêm gì khác, cũng chẳng định viết nữa. Tôi không thấy việc tiếp tục chia sẻ suy nghĩ của mình với các bạn độc giả sẽ mang lại lợi ích cho họ hoặc cho tôi. Cảm ơn anh một lần nữa về bức email với những lời khen tặng hào phóng ấy.
“‘Trân trọng kính chào, Peter Van Houten, thông qua Lidewij Vliegenthart.’”
“Oaaa,” tôi thốt lên. “Anh không bịa đấy chứ?”
“Hazel Grace, liệu anh có thể, với trí tuệ kém cỏi của mình, bịa ra một lá thư từ Peter Van Houten với mấy cụm từ bay bướm như ‘thời đại số hóa tiên tiến của chúng ta’ hay không?”
“Anh không thể đâu,” tôi đồng ý. “Vậy tôi có thể nào... có thể xin địa chỉ email được không?”
“Dĩ nhiên là được rồi,” Augustus nói, cứ như thể đó không phải là món quà ý nghĩa nhất mà tôi từng nhận được.
***
Tôi mày mò suốt hai giờ để viết một email cho Peter Van Houten. Dường như tôi càng viết, thư càng ẹ hơn, nhưng tôi quá phấn khích đến độ không thể ngăn mình ngừng viết được.
***
Kính thưa ông Peter Van Houten (nhờ chị Lidewij Vliegenthart chuyển giúp),
Tôi tên là Hazel Grace Lancaster. Bạn tôi, anh Augustus Waters, người đã đọc cuốn Nỗi đau tột cùng theo lời tôi giới
thiệu, vừa nhận được một email của ông theo địa chỉ này. Tôi hy vọng ông sẽ không phiền khi anh Augustus đã chia sẻ nội dung email đó với tôi. Ông Van Houten, theo tôi hiểu từ email ông viết cho anh bạn Augustus là ông không định xuất bản sách nữa. Nói một cách nào đó, tôi vừa thất vọng, vừa nhẹ nhõm: Tôi không phải lăn tăn chuyện cuốn sách tiếp theo của ông liệu có đạt đến mức hoàn hảo tuyệt vời như cuốn đầu tay không. Là một bệnh nhi đã sống sót qua năm thứ ba của căn bệnh ung thư giai đoạn IV, tôi có thể xác nhận rằng ông đã viết rất đúng trong cuốn Nỗi đau tột cùng. Hoặc ít nhất ông viết đúng về bệnh nhi ung thư như tôi. Cuốn sách của ông như đã báo cho tôi biết trước những gì mình sẽ trải qua trước khi tôi thật sự cảm nhận được và tôi đã đọc đi đọc lại hàng chục lần.
Tuy nhiên, tôi tự hỏi không biết ông có thể giải đáp một vài câu hỏi tôi còn băn khoăn về những gì xảy ra sau khi kết thúc truyện không. Tôi hiểu là cuốn tiểu thuyết kết thúc bởi vì Anna đã chết hoặc sức khỏe quá yếu không thể tiếp tục viết lách. Nhưng tôi thực sự muốn biết những gì xảy ra sau đó với mẹ của Anna —liệu cô ấy có kết hôn với chú Tulip Hà Lan không, cô ấy có sinh thêm em bé không, và cô ấy vẫn cư ngụ ở số 917 W. Temple chứ, v.v. Ngoài ra, có phải chú Tulip Hà Lan là kẻ gian không, hay chú thực sự yêu thương mẹ con họ? Và còn các bạn của Anna — đặc biệt là Claire và Jake, họ còn kết mô-đen với nhau không? Và cuối cùng — tôi nghĩ đây là loại câu hỏi sâu sắc và chín chắn mà ông luôn hy vọng độc giả của mình sẽ hỏi — chuyện gì sẽ xảy đến với chú chuột
hamster Sisyphus? Những câu hỏi này đã ám ảnh tôi trong nhiều năm — và tôi không biết mình còn sống bao lâu để tìm ra câu trả lời cho chúng.
Tôi hiểu đây không phải là câu hỏi quan trọng mang tính văn chương trong khi cuốn sách của ông tràn ngập các câu hỏi văn chương quan trọng hơn, nhưng tôi thực sự rất muốn biết. Và tất nhiên, bất cứ khi nào ông quyết định cầm bút lần nữa, ngay cả khi ông không muốn xuất bản thì tôi vẫn rất mong mỏi được đọc nó. Thậm chí tôi sẵn sàng đọc danh sách mua hàng tạp hóa của ông.
Một độc giả hâm mộ cuồng nhiệt,
Hazel Grace Lancaster
(16 tuổi)
***
Sau khi gửi thư, tôi gọi lại cho Augustus và chúng tôi say sưa nói về Nỗi đau tột cùng đến khuya lơ khuya lắc. Tôi đọc cho anh nghe bài thơ của Emily Dickinson mà Van Houten đã dùng làm tiêu đề. Anh khen nức nở tôi có giọng đọc hay, ngắt nghỉ đúng nhịp chứ không dừng quá lâu. Sau đó anh bảo tập thứ sáu trong bộ Cái giá của Bình minh, cuốn Nợ máu phải trả bằng máu cũng bắt đầu bằng cách trích thơ. Phải mất một lúc để anh lục tìm cuốn sách và cuối cùng anh cũng đọc được đoạn trích cho tôi nghe: ‘“Hãy thừa nhận đi nào, đời em đang lao dốc. Nụ hôn cuối em trao/ đã từ năm nảo năm nao.’”
“Cũng hay,” tôi nói. “Hơi màu mè. Tôi tin rằng Max Mayhem sẽ gọi đó là ‘một mớ ẻo lả.’”
“Ừ, với hàm răng nghiến chặt, anh cá luôn, Chúa ơi, Mayhem nghiến răng rất nhiều lần trong bộ tiểu thuyết này. Nếu sống sót qua cả cuộc chiến, chắc ông ấy sẽ bị sái quai hàm mất.” Và sau một giây im lặng, Gus hỏi, “Nụ hôn cuối cùng của em là khi nào?”
Tôi nhớ lại. Mọi nụ hôn của tôi — tất cả đều từ trước khi phát hiện bệnh — đều qua loa và chẳng thoải mái tí nào. Hơi giống con nít đang chơi trò người lớn. Nhưng tất nhiên chuyện cũng lâu rồi. “Cách đây nhiều năm rồi!” Cuối cùng tôi đáp. “Còn anh?”
“Anh đã có một vài nụ hôn nồng cháy với bạn gái cũ, Caroline Mathers.”
“Cũng cách đây nhiều năm ư?”
“Lần cuối cùng là chưa đầy một năm trước.”
“Chuyện gì đã xảy ra?”
“Trong khi hôn á?”
“Không, với anh và Caroline kìa.”
“À,” anh ngập ngừng. Lại im lặng một giây, “Caroline không còn bị nỗi thống khổ của kiếp người hành hạ nữa.”
“Ồ,” tôi ngỡ ngàng.
“Ừ,” anh đáp.
“Tôi xin lỗi,” tôi nói. Tuy tôi biết rất nhiều người nay đã ‘về nơi chín suối’ nhưng tôi chưa bao giờ hẹn hò với ai trong số đó. Thậm chí tôi còn không tưởng tượng được viễn cảnh đó.
“Không phải lỗi của em, Hazel Grace à. Tất cả chúng ta chỉ là tác dụng phụ, phải không nào?”
‘“Như những con hàu bám chặt con tàu ý thức,’” tôi nói, trích trong NĐTC.
“Okay,” anh kêu. “Anh phải đi ngủ đây. Gần một giờ rồi.”
“Okay,” tôi đáp.
“Okay,” anh nhại lại.
Tôi cười khúc khích và nói, “Okay.” Sau đó đầu dây bên kia im lặng nhưng chưa cúp máy. Tôi gần như cảm thấy anh đang hiện diện trong phòng với tôi. Nhưng theo một cách hay hơn: giống như tôi đã không ở trong phòng của tôi và anh cũng chẳng ở trong phòng của anh mà thay vào đó, chúng tôi ở cùng nhau trong một không gian thứ ba vô hình, mong manh và chỉ tồn tại trên điện thoại.
“Okay,” anh nói sau một hồi lâu. “Có lẽ nên đặt okay là mật mã luôn luôn của chúng ta.”
“Okay,” tôi đáp.
Và Augustus là người tắt máy sau cùng.
***
Peter Van Houten trả lời email của Augustus chỉ bốn giờ sau khi anh gửi nó. Vậy mà đã hai ngày trôi qua, Van Houten vẫn không trả lời tôi. Augustus an ủi tôi là vì email của tôi viết hay hơn và đòi hỏi phải động não nhiều hơn khi phúc đáp, rằng Van Houten đang bận viết câu trả lời cho tôi, và rằng những áng văn xuất sắc luôn cần đầu tư nhiều thời gian. Nhưng tôi vẫn lo lắng.
Vào thứ Tư, tôi nhận được tin nhắn từ Augustus trong tiết học Văn chương Mỹ dành cho Học sinh Không chuyên 101:
Isaac ra khỏi phòng mổ rồi. Phẫu thuật thành công.
Hắn cũng chính thức được xác nhận là NEC.
NEC có nghĩa là “không có dấu hiệu của ung thư.” Vài giây sau lại có thêm tin nhắn thứ hai.
Ý anh là, hắn bị mù. Nên thật bất hạnh.
Chiều hôm đó, Mẹ đồng ý cho mượn xe để tôi tự lái đến bệnh viện Memorial thăm anh Isaac.
Tôi tìm đến phòng của anh trên tầng năm, lịch sự gõ cửa phòng dù nó đang mở. Giọng một phụ nữ vọng ra, “Vào đi!” Đó là một y tá đang thao tác gì đó trên miếng băng gạc che kín đôi mắt của anh Isaac. “Hây, chào anh Isaac,” tôi nói.
Anh hấp tấp hỏi, “Monica hả em?”
“Ồ, không phải. Xin lỗi. Không, là em đây, ừm, Hazel, ừm, Hazel ở Hội Tương Trợ đây. Hazel mà anh gặp vào Buổi-Tối-Đập-Phá-Cúp đó?”
“À,” anh đáp. “Ừ, mọi người cứ nói rằng mấy giác quan khác của anh sẽ nhạy hơn để bù đắp cho thị giác đã mất, nhưng RÕ RÀNG LÀ CHƯA TIẾN BỘ GÌ. Chào em, Hazel Hội Tương Trợ. Nào, em đến đây để anh có thể sờ khuôn mặt em bằng hai tay và nhìn sâu thẳm vào tâm hồn em rõ hơn bất cứ một người sáng mắt nào trên đời xem.”
“Cậu ấy đùa đấy,” cô y tá nói.
“Dạ,” tôi nói. “Em biết mà.”
Tôi bước đến giường anh, kéo một chiếc ghế và ngồi xuống, cầm lấy tay anh. “Em nè,” tôi lên tiếng.
“Ừ,” anh nói và sau đó im lặng một lúc lâu.
“Anh thấy trong người sao rồi?” Tôi bắt chuyện.
“Cũng ổn,” anh đáp. “Anh cũng không biết nữa.”
“Anh không biết chuyện gì?” tôi hỏi. Tôi nhìn bàn tay anh bởi vì tôi không muốn nhìn vào khuôn mặt đang bị miếng băng gạc che ngang phần mắt. Anh Isaac đã gặm móng tay. Tôi thậm chí còn thấy vài ngón rịn máu do bị xước khóe.
“Cô ấy thậm chí không thèm đến thăm anh,” anh nói. “Dù sao tụi anh cũng đã cặp kè nhau suốt mười bốn tháng. Mười bốn tháng là một thời gian dài. Chúa ơi, thật đau lòng mà.” Anh Isaac buông tay tôi ra để mò mẫm máy bơm truyền thuốc của anh. Mỗi lần bấm máy, một lượng thuốc mê sẽ được bơm vào cơ thể.
Cô y tá, sau khi đã hoàn tất công tác thay băng, bước lui ra. “Chỉ mới một ngày thôi, Isaac à,” cô nói, có vẻ hơi trịch thượng. “Cậu phải cho mình thời gian để chữa lành vết thương. Và mười bốn tháng không phải dài lắm đâu, nếu so với những chuyện khác. Cậu cũng chỉ mới bắt đầu thôi, rồi cậu sẽ thấy.”
Cô y tá ra khỏi phòng. “Cô ấy đi chưa em?”
Tôi gật đầu, sau đó nhớ ra là anh không thể nhìn thấy cái gật đầu đó, bèn nói. “Rồi anh.”
“Rồi anh sẽ thấy à? Thật ư? Cô ấy thật sự dám nói vậy à?” “Những Phẩm chất của một Y tá Tốt. Bắt đầu nào!” Tôi mở đầu. “1. Không nói kháy về khuyết tật của chúng ta,” anh Isaac nói. “2. Lấy máu ngay từ mũi tiêm đầu tiên,” tôi tiếp lời.
“Nghiêm túc mà nói thì người đạt phẩm chất này rất hiếm nhé! Đây là cánh tay của anh, chứ không phải tấm bia để tập ném phi tiêu ‘kim tiêm’ đâu! 3. Không ra giọng chiếu cố bệnh nhân.”
“Em thấy khỏe chưa cưng?” tôi giả giọng ngọt ngào. “Giờ chị sẽ tiêm cho em một mũi nhé, có thể sẽ hơi đau một tẹo nhé cưng.”
“Cậu bé đáng iu của tui đây à?” anh phụ họa. Một lúc sau, anh nói, “Thật ra hầu hết mấy cô y tá đều tốt bụng. Chỉ là anh muốn mau chóng thoát khỏi chỗ này thôi.”
“Chỗ này, ý anh là bệnh viện hả?”
“Cả chuyện đó nữa,” anh thú nhận, quai hàm bạnh ra. Tôi có thể thấy rõ sự đau đớn trong đó. “Thú thật là anh suy nghĩ rất nhiều về Monica, nhiều hơn cả chuyện đôi mắt của anh. Anh điên quá em ha? Thật điên rồ.”
“Chỉ hơi điên một tí thôi,” tôi công nhận.
“Nhưng em biết không, anh tin vào tình yêu đích thực. Anh không tin tất cả mọi người đều có thể giữ mình sáng mắt hay không đổ bệnh hoặc bất cứ tai ương nào, nhưng mọi người cần có tình yêu đích thực. Và tình yêu đó phải bền bỉ, kéo dài đến tận cuối cuộc đời chúng ta, ít ra phải thế.”
“Đúng,” tôi nói.
“Đôi khi anh ước gì mọi chuyện đừng xảy ra. Cái căn bệnh ung thư quái ác này.” Bài phát biểu hùng hồn của anh đứt quãng dần, thuốc mê đã phát huy tác dụng.
“Em rất tiếc,” tôi nói.
“Trước khi em đến, Gus có ghé thăm. Khi anh tỉnh dậy thì thấy hắn. Hắn cúp học. Hắn...” Anh hơi ngoẹo đầu sang một bên. “Nằm vậy dễ chịu hơn,” anh lẩm bẩm.
“Anh đau à?” tôi hỏi. Anh khẽ gật đầu.
“À,” tôi nói. Một chốc sau, như một nhỏ mê trai, tôi dò hỏi: “Anh đang nói dở về anh Gus.” Nhưng anh Isaac đã chìm vào cơn mê.
Tôi đi xuống lầu, đến một cửa hàng nhỏ bán quà tặng. Thấy một cụ bán hàng tình nguyện hom hem đang ngồi trên chiếc ghế đầu phía sau quầy tính tiền, tôi bèn hỏi mua loại hoa có hương thơm nhất.
“Tất thảy đều tỏa mùi thơm giống nhau vì chúng đã được phun thuốc Siêu Hương Hoa,” bà thành thật nói.
“Ồ, vậy à?”
“Ừ, vừa mới phun hương xong.”
Tôi mở xịch cánh cửa phía bên trái bà cụ, đưa mũi ngửi thử một khóm hồng, rồi cúi người xuống cạnh một bó cẩm chướng. Đúng là cùng một mùi thật, thơm nồng đến ngạt cả mũi. Hoa cẩm chướng rẻ hơn nên tôi mua một chục bông màu vàng, khoảng mười bốn dollar. Tôi quay trở lên phòng; mẹ anh đã đến, cô đang nắm tay con trai mình. Cô còn trẻ và rất đẹp.
“Cháu là bạn nó à?” cô hỏi. Tôi như bị điểm trúng huyệt vì đây là một trong những câu hỏi vu vơ, chung chung nhưng thật khó trả lời.
“Dạ phải,” tôi nói. “Cháu đến từ Hội Tương Trợ. Hoa này cháu mua tặng anh Isaac.”
Cô nhận lấy, đặt bó hoa vào lòng rồi hỏi. “Thế cháu có biết Monica không?”
Tôi lắc đầu không biết.
“Chậc, thằng bé đang ngủ,” cô nói.
“Dạ, lúc nãy cháu đã nói chuyện với ảnh rồi, lúc y tá đang thay băng cho ảnh.”
“Cô chẳng muốn bỏ lại thằng bé một mình những lúc như thế. Nhưng cô phải đến trường đón em Graham,” mẹ anh tâm sự.
“Anh ấy không sao đâu,” tôi an ủi. Cô gật đầu. “Thôi, cháu nên để cho anh ngủ yên giấc.” Cô lại gật đầu lần nữa. Tôi bèn ra về.
***
Sáng hôm sau tôi thức dậy sớm và việc đầu tiên là kiểm tra email. [email protected] cuối cùng đã trả lời tôi.
***
Kính gửi chị Lancaster,
Tôi e rằng niềm tin của chị đã bị đặt nhầm chỗ — nhưng niềm tin thường hay bị thế. Tôi không thể trả lời các câu hỏi của chị, ít nhất là không thể viết thành văn bản. Bởi vì viết ra câu trả lời như vậy sẽ vô tình tạo thành phần tiếp theo của cuốn Nỗi đau tột cùng. Và chị có thể công bố hoặc chia sẻ trên thế giới
mạng, một thế giới đã thay thế bộ não của thế hệ chị. Tôi cũng có thể trả lời qua điện thoại, nhưng chị vẫn có thể ghi âm cuộc trò chuyện. Không phải là tôi không tin tưởng chị, nhưng tất nhiên tôi không có cơ sở gì để tin chị cả. Chao ôi, thưa chị Hazel, tôi không bao giờ có thể trả lời những câu hỏi như vậy, ngoại trừ trường hợp gặp mặt trực tiếp. Nhưng chị ở bên đó, còn tôi đang ở bên này.
Cũng xin thú thật rằng tôi rất vui khi bất ngờ nhận được thư của chị gửi thông qua cô Vliegenthart. Thật kỳ diệu khi biết rằng tôi đã làm một điều gì đó hữu ích cho chị — mặc dù cuốn tiểu thuyết đó với tôi dường như quá khác lạ đến mức tôi cảm giác như một người khác đã viết toàn bộ tác phẩm ấy. (Tác giả của cuốn tiểu thuyết đó rất mảnh khảnh, rất mong manh và hơi bị lạc quan!)
Tuy nhiên, nếu chị có đến Amsterdam, xin vui lòng ghé thăm tôi lúc rỗi rãi. Tôi thường ở nhà suốt. Khi đó thậm chí tôi còn cho chị xem qua danh sách mua đồ tạp hóa của tôi.
Trân trọng,
Peter Van Houten
nhờ cô Lidewij Vliegenthart chuyển giúp
***
“CÁI GÌ?!” Tôi hét toáng lên. “SAO THẾ NÀY?”
Mẹ chạy vào. “Chuyện gì vậy con?”
“Không có gì,” tôi trấn an bà.
Vẫn còn lo lắng, Mẹ quỳ xuống kiểm tra Philip để đảm bảo máy vẫn đang tụ đủ ô-xy cho tôi. Tôi tưởng tượng mình ngồi tại một quán cà phê chan hòa ánh nắng với Peter Van Houten. Ông chống khuỷu tay, hơi chồm người qua bàn và thì thào nói để tránh người khác nghe lỏm sự thật về những gì đã xảy ra với các nhân vật mà tôi đã trăn trở suy tư trong mấy năm qua. Ông đã nói ông không thể cho tôi biết, ngoại trừ gặp trực tiếp. Ông còn mời tôi sang Amsterdam. Tôi kể cho Mẹ nghe rồi tuyên bố, “Con phải đi.”
“Hazel, Mẹ yêu con. Và con biết đấy, Mẹ sẽ làm bất cứ điều gì cho con. Nhưng nhà mình — nhà mình không đủ tiền để đi du lịch nước ngoài, cũng như chi phí vận chuyển các thiết bị trợ thở qua đó — con cưng, việc đó thật sự không—”
“Dạ,” tôi ngắt lời Mẹ. Tôi nhận ra mình thật ngớ ngẩn khi chẳng thèm nghĩ đến chuyện tiền nong. “Mẹ đừng lo lắng về chuyện này.” Nhưng bà trông thật lo lắng.
“Chuyện này thực sự rất quan trọng với con, đúng không nào?” Vừa hỏi bà vừa ngồi xuống, âu yếm đặt một tay lên đùi tôi.
“Thật tuyệt vời,” tôi thành thật đáp, “khi là người duy nhất biết được những gì xảy ra, ngoại trừ chính tác giả.”
“Ừ, cũng tuyệt thật,” bà nói. “Để Mẹ bàn với Ba xem sao.”
“Thôi Mẹ ơi, thôi khỏi đi Mẹ,” tôi từ chối. “Con nói thật đó! Con xin Mẹ, đừng phí tiền vô chuyện này. Con sẽ nghĩ cách khác.”
Tôi chợt ý thức rằng lý do Ba Mẹ tôi không có tiền là vì tôi. Tôi nuốt dần các khoản tiền tiết kiệm của gia đình vì thần dược Phalanxifor, dù đã được bảo hiểm hỗ trợ một phần. Riêng Mẹ không thể tiếp tục đi làm bởi vì bà quyết định bỏ việc để theo đuổi sự nghiệp Lảng Vảng Bên Tôi toàn thời gian. Tôi không muốn đẩy ông bà lún sâu thêm vào nợ nần.
Tôi nói với Mẹ là tôi muốn gọi điện thoại cho Augustus nhằm mời khéo bà ra khỏi phòng. Bởi tôi không thể chịu được vẻ mặt buồn bã tôi-không-thể-biến-giấc-mơ-của-con-gái-yêu-thành-sự-thật của bà.
Đúng tác phong của Augustus Waters, tôi đọc cho anh nghe lá thư thay vì chào anh.
“Oaaa,” anh thốt lên.
“Bất ngờ, đúng không?” Tôi nói. “Làm sao để tôi sang Amsterdam đây?”
“Em có một Điều ước mà?” Anh hỏi, nhắc đến một tổ chức tên là Quỹ Genie, chuyên ban tặng cho các bệnh nhi một điều ước.
“Không được,” tôi nói. “Tôi đã sử dụng Điều Ước trước khi Phép màu xảy ra rồi.”
“Thế em đã làm gì?”
Tôi thở dài đánh sượt rồi nói, “Khi ấy tôi chỉ mới mười ba tuổi.” “Đừng nói là Disney,” anh đoán.
Tôi im lặng.
“Em đã không đến Disney World chứ?”
Tôi vẫn im lặng.
“Hazel GRACE!” anh hét lên. “Em đã không sử dụng Điều Ước duy nhất trước phút lâm chung của mình để đến Disney World cùng với ba mẹ đấy chứ?”
“Còn có Trung tâm Epcot nữa,” tôi lí nhí nói.
“Ôi, Chúa ơi,” Augustus thốt lên. “Anh không thể tin anh đã phải lòng một cô gái với những điều ước rỗng tuếch như vậy.”
“Khi đó tôi mới mười ba,” tôi lặp lại lần nữa, mặc dù trong đầu chỉ ong ong mấy từ phải lòng, phải lòng, phải lòng, phải lòng, phải lòng. Tuy lấy làm khoan khoái trong lòng, nhưng tôi nhanh chóng thay đổi chủ đề. “Không phải anh đang ở trường sao?”
“Anh trốn học để ra chơi với Isaac, nhưng hắn đang ngủ. Nên anh đang ở ngoài sân giải bài hình học.”
“Anh Isaac thế nào rồi?” Tôi hỏi thăm.
“Anh không rõ là phải chăng hắn chưa sẵn sàng để đối mặt với thực tế phũ phàng là mình đã bị mù vĩnh viễn, hay là hắn chỉ chăm chăm nghĩ đến việc bị nàng Monica đá. Nhưng hắn chẳng nói gì khác hơn ngoài chuyện đó.”
“Ừa,” tôi nói. “Ảnh còn nằm viện trong bao lâu vậy?”
“Vài ngày à. Sau đó hắn phải đến trung tâm phục hồi gì đó một thời gian, nhưng hắn được về nhà ngủ, anh nghĩ vậy.”
“Chán nhỉ!” tôi nói.
“Anh thấy mẹ hắn rồi. Anh phải đi đây.”
“Okay,” tôi nói.
“Okay,” anh đáp lời. Tôi có thể nghe thấy nụ cười ranh mãnh của anh.
***
Vào thứ Bảy, cả nhà tôi kéo nhau đi chợ nông sản ở Broad Ripple. Đó là một ngày nắng đẹp, rất hiếm thấy vào tháng Tư ở bang Indiana này. Dù trời nắng oi ả nhưng mọi người ở chợ nông sản đều mặc áo cộc tay. Chúng tôi, những người sinh trưởng tại Indiana, thường rất lạc quan về mùa hè. Mẹ và tôi ngồi cạnh nhau trên một băng ghế đối diện với gian hàng chuyên sản xuất xà phòng từ sữa dê. Phía sau gian hàng, ông chủ tiệm cứ luôn miệng giải thích cho từng vị khách đi qua là xà phòng được làm từ sữa dê do ông nuôi, và không, xà phòng sữa dê không nặng mùi như thịt dê.
Điện thoại của tôi réo rắt. “Ai vậy con?” Mẹ hỏi trước khi tôi kịp kiểm tra.
“Con không biết,” tôi đáp. Và đó là Gus gọi đến.
“Em có đang ở nhà không?” Anh hỏi.
“Ừm, dạ không,” tôi nói.
“Đó là một câu hỏi gài bẫy. Anh biết câu trả lời rồi vì anh đang đứng trước cửa nhà em đây.”
“Ồ, vậy à. Ừ, cả nhà tôi cũng đang trên đường về đây.” “Thế thì hay quá. Lát nữa gặp em nhé!”
***
Augustus Waters đang ngồi trên bậc thềm trước cửa khi chúng tôi quẹo xe vào nhà. Hôm nay anh mặc một chiếc áo thể thao của đội bóng rổ Indiana Pacers, bên ngoài khoác áo lông cừu. Thật là một lựa chọn phối đồ dường như hoàn toàn lạc điệu, mặc dù trông anh vẫn bảnh. Trên tay anh cầm bó tulip màu cam, những nụ hoa vừa hé nở. Anh đẩy mình đứng dậy khỏi thềm cửa, chìa bó tulip tặng tôi và hỏi: “Em có muốn đi dã ngoại với anh không?” Tôi gật đầu, cầm lấy bó hoa.
Ba bước đến sau tôi và bắt tay Gus.
“Áo của Rik Smits à?” Ba tôi hỏi.
“Dạ đúng ạ.”
“Chúa ơi, bác hâm mộ anh này lắm!” Ba tôi thốt lên. Thế là ngay lập tức, cả hai bị cuốn vào câu chuyện bóng rổ. Tôi không thể (và cũng không muốn) tham gia đề tài này, nên tôi mang bó tulip vào nhà.
Mẹ tôi cười thật rạng rỡ khi tôi bước vào. Bà hỏi, “Con có muốn Mẹ cắm hoa vào bình không?”
“Dạ không, được rồi Mẹ,” tôi đáp. Nếu cắm chúng vào bình rồi đặt trong phòng khách thì sẽ là hoa của mọi người. Tôi muốn hoa là của riêng tôi cơ.
Tôi đi về phòng mình nhưng không thay đồ ra. Tôi đánh răng, chải tóc, thoa một chút son bóng và xịt tí ti nước hoa. Tôi vẫn nhìn đăm đắm mấy bông hoa tulip. Sắc cam của chúng thật khiêu khích, quá sặc sỡ để có thể gọi là đẹp. Tôi không có bình cắm hoa trong phòng. Thế nên tôi rút bàn chải đánh răng ra khỏi lọ, đổ một ít nước, cắm hoa tulip vào rồi để trưng trong phòng tắm.
Bước ra khỏi phòng tắm, tôi có thể nghe tiếng mọi người nói chuyện lao xao bên ngoài. Tôi bèn đến ngồi bên mép giường và lắng tai nghe qua khe cửa:
Ba: “Hóa ra cháu gặp Hazel ở Hội Tương Trợ.”
Augustus: “Dạ đúng, thưa bác. Nhà mình trang trí xinh quá. Cháu thích mấy tác phẩm nghệ thuật của hai bác.”
Mẹ: “Cảm ơn cháu, Augustus.”
Ba: “Cháu cũng là bệnh nhân ung thư à?”
Augustus: “Dạ đúng ạ. Cháu chưa cắt đuôi được cái gã ung thư này để tận hưởng niềm vui trọn vẹn mặc dù gã là một chiến lược giảm cân tuyệt vời. chân cẳng thì nặng nề lắm ạ!”
Ba: “Vậy giờ sức khỏe của cháu thế nào rồi?”
Augustus: “Cháu được xác nhận NEC trong mười bốn tháng rồi.”
Mẹ: “Thật tuyệt. Những phương pháp điều trị ngày nay — thực sự đáng nể.”
Augustus: “Cháu biết ạ. Cháu thật may mắn.”
Ba: “Nhưng cháu phải hiểu là Hazel vẫn còn bệnh, Augustus à, trong suốt quãng đời còn lại của con bé. Con bé hẳn muốn theo kịp cháu, nhưng phổi con bé—”
Đúng thời điểm đó, tôi xuất hiện khiến Ba im bặt.
“Thế hai đứa sẽ đi đâu vậy?” Mẹ hỏi. Augustus đứng lên và nghiêng người về phía Mẹ, thì thầm câu trả lời, rồi giơ một ngón tay lên miệng ra hiệu. “Suỵt,” anh nói với bà. “Đó là bí mật.”