🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kết Thúc Vòng Thiêng Ebooks Nhóm Zalo ebook©vctvegroup 11-06-2018 Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Mục lục LỜI GIỚI THIỆU TỰA PHẦN MỞ ĐẦU 1. Hai anh em 2. Mười năm sau Chương I: CUỘC CHẠY TRỐN Chương II: NHỮNG KẺ CƯỚP LĂNG MỘ HOÀNG ĐẾ Chương III: THỬ THÁCH Chương IV: HỘI ĐỒNG TƯ TẾ Chương V: CUỘC DẠO CHƠI VỚI THẦY Chương VI: CUỘC GẶP GỠ Chương VII: TRỪNG PHẠT NACAHON Chương VIII: ĐÊM TRĂNG Chương IX: NHỮNG TÙ NHÂN CỦA ĐẠI DƯƠNG Chương X: HAI CUỘC GẶP BÊN SUỐI Chương XI: CUOCU, TÌM ĐI! Chương XII: NGÀY PASUNG Chương XIII: CƠN BÃO Chương XIV: NHỮNG NGƯỜI TỪ ĐẠI DƯƠNG ĐẾN Chương XV: VÒNG TAY CỦA MIỀN ĐẤT ĐỎ Chương XVI: CHẬU THẦN Chương XVII: TÁC PHẨM CUỐI CÙNG CỦA AH-SHOOCH Chương XVIII: CÁI CHẾT CỦA TRACHIL Chương XIX: CỐ GẮNG CUỐI CÙNG Chương XX: NHỮNG ĐỈNH NÚI TRÊN ĐẢO USOKITOC PETENG Chương XXI: NHIỆM VỤ MỚI CỦA TUG-ANSENG Chương XXII: TUYỂN LEM-HOOLOM Chương XXIII: ĐOÀN DIỄU HÀNH Chương XXIV: CUỘC GẶP MẶT Chương XXV: CUỘC HÀNH TRÌNH XA XÔI Chương XXVI: CHƠI BÓNG Chương XXVII: LỄ XUỐNG HẠT THIÊNG Chương XXVIII: NHỮNG CÁNH TAY CỌ Chương XXIX: KẾT THÚC VÒNG THIÊNG Lời Kết THEO DẤU NHỮNG ĐỨA CON CỦA BÁO, HAY TẠI SAO XUẤT HIỆN CUỐN SÁCH NÀY NHỮNG NHÂN VẬT CHÍNH LỜI GIỚI THIỆU Cho đến ngày nay nền văn minh Olmec cổ ít được người biết đến, nhất là ở Việt Nam. Trong cuốn tiểu thuyết lịch sử “Kết thúc vòng thiêng” giáo sư dân tộc học người Nga R. Kinjalov đã vẽ lại bức tranh cổ xưa sinh động của người Olmec huyền bí, một dân tộc da đỏ đã sống ở Mexico cách đây hơn 3.200 năm. Dựa vào những chứng cứ lịch sử-khảo cổ, Kinjalov giới thiệu với chúng ta cuộc sống của một dân tộc vào loại cổ xưa nhất của hành tinh. Trong cuốn sách này bạn đọc sẽ thấy được sinh hoạt của người Olmec cổ: điều kiện thiên nhiên, tổ chức xã hội, tình yêu, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, quyền lực và tham vọng của những người cầm quyền. Sức mạnh của thiên nhiên huyền bí luôn làm người Olmec kinh sợ, họ thờ đủ các thần: thần Độc cước – vị thần của bão tố; Thần Tâm đất – chủ nhân khủng khiếp của Âm phủ, động đất và núi lửa; Thần Cóc Vĩ đại – Đức Mẹ của các vị thần; Thần Mặt trời; Thần Nước; Thần Ngô trẻ – người cung cấp lương thực cho dân tộc Olmec v.v… Cũng như nhiều dân tộc da đỏ khác ở châu Mỹ, dân tộc Olmec dùng người sống để tế thần, một phong tục dã man mà chúng ta ngày nay không thể tưởng tượng nổi. Trong cuốn tiểu thuyết “Kết thúc vòng thiêng” chúng ta thấy hệ thống xã hội của người Olmec cổ phân cấp khá chặt chẽ với những đẳng cấp rõ ràng. Bên cạnh hệ thống chính quyền (Vua, các quan lại…) còn có hệ thống tín ngưỡng (các thầy Tư tế) giữ vị trí hết sức quan trọng trong cuộc sống của dân tộc. Theo quan niệm của người Olmec cổ, thế giới tồn tại theo chu kỳ 104 năm, gọi là vòng thiêng. Hết 104 năm các vị thần sẽ phán quyết hủy diệt hay kéo dài sự tồn tại của thế giới, và bắt đầu một vòng thiêng mới. Đồng thời tác giả cũng đưa bạn đọc vào cuộc hải hành hư cấu của một vị quan Ai Cập cổ đến vùng đất đỏ xa xôi bên kia đại dương để so sánh sự phát triển không đồng đều giữa các nền văn minh lúc bấy giờ, trong khi Ai Cập đang ở thời kỳ đồ đồng và đã chuyển sang thời kỳ đồ sắt thì dân tộc Olmec ở Mexico đang ở thời kỳ đồ đá. Với những chứng cứ khoa học xác thực, từ đầu đến cuối cuốn tiểu thuyết, tác giả dẫn bạn đọc đi hết cuộc phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác, để dần dần giải mã những bí ẩn của dân tộc Olmec cổ huyền bí. Nhà Xuất bản Trẻ hân hạnh giới thiệu cùng bạn đọc cuốn tiểu thuyết đầu tiên nói về dân tộc Olmec ở đất nước Mexico xinh đẹp, để các bạn có điều kiện tìm hiểu thêm về một nền văn minh cổ xưa. TỰA Hơn một trăm năm trước, trong rừng rậm nhiệt đới Mexico, người ta tình cờ phát hiện một bức tượng đá khổng lồ nặng đến vài tấn, đó là chiếc đầu người với cái mũ cầu kỳ. Sau đó những chiếc đầu đá khác cùng kiểu như vậy cũng đã được tìm thấy. Trong những thành phố đổ nát, do tay bọn kẻ cướp Tây Ban Nha phá hủy, người ta đã tìm thấy nhiều bức tượng và phù điêu là dấu tích của một nền văn hóa cao của người Aztec – kinh đô Tenochtitlan của họ nằm ngay vị trí của Mexico city ngày nay – và của nền văn hóa của bộ lạc Maya. Bộ lạc này sống ở miền đông Mexico. Nhưng những chiếc đầu đá này không làm họ để ý. Nhiều năm trôi qua, những di tích mà người Tây Ban Nha đã từng thấy hầu như bị lãng quên, cho đến khi những nhà khảo cổ bắt tay vào nghiên cứu các nền văn hóa cổ của Mêhicô, lúc ấy bí mật của những chiếc đầu đá huyền bí kia mới được sáng tỏ. Chúng thuộc nền văn hóa của người Olmec – những bộ lạc sống vào thế kỷ 14-15 TCN. Nhà nhân chủng học nổi tiếng R. Kinjalov, người nghiên cứu nền văn hóa Trung Mỹ, đã chọn thời kỳ lịch sử cổ này của châu Mỹ làm đề tài cho cuốn tiểu thuyết của mình. Nghiên cứu khảo cổ nền văn hóa này được kể trong phần cuối của cuốn sách “Theo vết những người con của báo thần”. Phải thấy rằng, chức năng của các đầu bằng đá tảng trong tín ngưỡng của dân Olmec đã được tác giả cuốn sách xác nhận một cách khoa học. Những công trình khảo cổ cho thấy người Olmec có một xã hội phát triển, họ đã sáng tạo những công trình đồ sộ về kiến trúc, điêu khắc và bích họa. Những di tích nghệ thuật nổi tiếng còn truyền lại đến ngày nay, nhưng công cụ lao động của người Olmec lại được làm bằng đá và cây, bởi vì lúc đó chưa có kim loại. Những khái niệm tín ngưỡng phức tạp của bộ lạc này bắt nguồn từ thiên nhiên huyền bí. Ý nghĩa đặc biệt trong thờ cúng là cây ngô – thực phẩm chủ yếu, và loài báo được coi là giống vật thờ và là tổ tiên của người Olmec. Văn hóa Olmec được phát triển trên một lãnh thổ rộng – Mexico, Goatemala, Costa-Rica, Salvador và Nicaragua. Tiểu thuyết lịch sử “Kết thúc vòng thiêng” của R. Kinjalov kể về những phong tục độc đáo của bộ lạc đã biến mất này. Hơn nữa, cơ sở của câu chuyện là những phát hiện các tác phẩm độc nhất vô nhị của nghệ thuật Olmec – những chiếc đầu đá đồ sộ, ý nghĩa thờ phụng của chúng đã được tác giả lập luận một cách khoa học. Xác định rằng, người Olmec chọn một thanh niên mà ngay từ lúc chọn đã được thần Ngô nhập hồn vào, và trong vòng một năm, tuyển nhân được hưởng tất cả những đặc quyền của vị thánh sống, sau đó đem làm vật tế. Tục tế người được phổ biến trong tất cả các nền văn hóa của Mexico cổ. Đầu người bằng đá liên quan đến thờ cúng và được đặt ở khu đất thiêng, theo phong tục của người Olmec như vậy sẽ đảm bảo được mùa ngô. Theo quan điểm của người da đỏ cổ Mexico, thế giới phát triển theo chu kỳ 104 năm. Để ngăn cản tai họa thế giới, khi hết “vòng thiêng” này cần phải hoàn thành nhiều nghi lễ phức tạp như đã được mô tả trong cuốn tiểu thuyết “Kết thúc vòng thiêng” của R. Kinjalov. Với sự chính xác về nhân chủng học, tác giả đã kể về cuộc sống của người Olmec, tín ngưỡng của họ, những hình thức tư tưởng chủ yếu và những đau khổ đã đem đến cho dân tộc họ. R. Kinjalov, một nhà bác học lớn có nhiều tác phẩm nổi tiếng trong giới khoa học, một nhà truyền bá, tác giả của tác phẩm văn học trong đó cho thấy thế giới tàn nhẫn của các bộ lạc cổ ở châu Mỹ. Năm 1976 cuốn tiểu thuyết “Chiến binh Kirigua” của ông ra đời, mô tả cuộc sống của dân tộc Maya ở thế kỷ thứ 8. Cuốn tiểu thuyết lập tức hấp dẫn bạn đọc. Cần nhấn mạnh rằng, cuốn sách mới của R. Kinjalov (ở trong nước và cả ở nước ngoài) là tác phẩm văn học đầu tiên về người Olmec bí ẩn. Trong cuốn tiểu thuyết “Kết thúc vòng thiêng”, bên cạnh câu chuyện bi thảm về mối tình của cô gái và chàng trai, tác giả còn đưa ra chủ đề thứ hai – câu chuyện về một người quý tộc Ai Cập. Ông đã trốn khỏi quê hương do cơn thịnh nộ của pharaon để rồi gia nhập vào nhóm thương nhân đi biển Phynic. Trong một cuộc hải hành ông đã được cơn bão đưa vào bờ biển Mexico. Câu chuyện này nhắc lại lập luận của nhà hải hành nổi tiếng Tur Haerdal, người cho rằng những chuyến hải hành xa như vậy là thực tế lịch sử, đồng thời, Tur Haerdal đã nối kết nền văn hóa Olmec với Ai Cập. R. Kinjalov đưa vào cuốn sách những tài liệu của Ai Cập cổ cuối thế kỷ thứ 12 TCN, tương ứng với một trong những thời kỳ lịch sử của Olmec. Tài liệu nói về những vụ cướp mộ các hoàng đế và hoàng hậu ở Fiva. Đó là những biên bản hỏi cung bọn cướp, tội chứng của chúng và những phán quyết của tòa, trong đó nhắc đến rất nhiều tên nhân vật. Tác giả đưa một quý tộc Ai Cập là trợ lý của tổng đốc thành Fiva vào cuộc du hành miễn cưỡng từ Ai Cập đến bờ biển Mexico. Ông đã bạo gan khuấy động sự yên tĩnh của các hoàng đế Ai Cập ở lăng mộ Fiva. Hoàn cảnh hư cấu này làm cho cuốn tiểu thuyết sinh động và nối kết câu chuyện về những người Olmec cổ với nền văn hóa cổ của Ai Cập cuối triều đại thứ 20. Câu chuyện về một người Ai Cập chạy trốn cơn thịnh nộ của hoàng đế, mô tả đích xác những vụ cướp lăng mộ các hoàng đế, nó gần giống với nguyên bản của tiểu thuyết cổ Ai Cập về Sinuhet tìm chỗ ẩn thân ở Syria, miền đất bên ngoài Ai Cập. Mối liên quan văn hóa của Ai Cập cổ với người Olmec là thủ pháp thành công của tác giả, đưa nền văn hóa Mexico cổ ít được biết đến gần với nền văn hóa cổ Ai Cập được nhiều người biết. Tiếc thay, nền văn hóa cổ của Trung Mỹ không được nhiều học sinh biết đến. Vì vậy, cuốn tiểu thuyết lịch sử của R. Kinjalov sẽ giúp bạn đọc tìm hiểu nền văn hóa của một trong những chiếc nôi văn minh của nhân loại. • Viện sĩ B.B. Piotrovsky PHẦN MỞ ĐẦU 1 Hai anh em Làng Hoctung gần Sao-Lorenso. Mexico. Trưa nóng. Mặc dù chỉ mờ nhạt trên bức màn xám trải kín bầu trời, nhưng mặt trời tỏa hơi nóng ngột ngạt. Đất nóng bỏng, nứt nẻ, lá cây rủ xuống. Khó thở. Đã ba ngày rồi không có một cơn gió nhẹ. Dân chúng kinh thành Nivannaa-Tracbolai thuộc vương quốc Olmec, và nông dân các làng lân cận nóng lòng chờ mưa mang đến sự mát mẻ, ẩm hơi và hồi sinh của thiên nhiên. Những địa phận đáng kể và quan trọng nhất của thành phố nằm trên một khu đất cao nhưng bằng phẳng mênh mông, có hình dạng kỳ lạ và chung quanh thành có vách dựng đứng. Trên đó là các đền thờ thần, những bãi rộng để tổ chức thờ cúng, cung điện và nhà của những lãnh chúa quí tộc – các quan đại thần. Phía dưới, xung quanh là những ngôi làng nhỏ ẩn mình trong những cánh rừng nguyên sinh, rừng già mênh mông. Những nông dân hiền lành trong làng chăm chỉ khai phá đất đai, gieo hạt và thu hoạch mùa màng bằng sức lao động của mình và cung cấp những thứ cần thiết cho cư dân thành phố. Làng Hoctung nằm cách Nivannaa-Tracbolai không xa. Buổi trưa oi nồng làng hoàn toàn yên tĩnh. Mọi người đều đã ẩn vào nhà và nghỉ ngơi, chờ cho qua cơn nóng. Chỉ trong một hẻm nhỏ lại vang lên tiếng đùa giỡn của trẻ con. Hai đứa bé đang ngồi chơi dưới bóng cây seiba khổng lồ bên cạnh ngôi nhà một nông dân. Thoáng nhìn chúng không giống nhau, nhưng chúng có những đường nét chung gì đó rất khó giải thích. Đứa lớn khoảng mười tuổi, đứa thứ hai nhỏ hơn khoảng hai, ba tuổi. Thằng anh đang nặn đất sét thành hình cái đầu của đứa em, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn em. – Quay qua trái một chút, Shang! – Nhà nặn tượng tí hon ra lệnh. – Ngồi yên em mệt lắm, Tug-Anseng, cho em nghỉ đi. – đứa em năn nỉ. – Em muốn chạy chơi! Em muốn thấy cái anh đã làm được, xem có giống em không? – Một chút nữa thôi em à, chỉ chút xíu thôi… Anh xong ngay bây giờ và em sẽ thấy! – Tug-Anseng trả lời nhát gừng. Những ngón tay của nó nhanh nhẹn nắn cục đất mềm. Mải nói chuyện hai đứa trẻ không nhận thấy người đàn ông đang nhẹ nhàng bước trên cỏ mềm, dừng lại cách chúng không xa. Họ chăm chú quan sát chúng. Người lớn tuổi hơn, khoảng 28-30, nói với người cùng đi: – Đó là Lem-Hoolom tương lai! Ta nói về thằng em. Còn thằng anh sẽ là nhà tạc tượng! Người thứ hai, mặt như chim quắt nhỏ, kính cẩn trả lời: – Ông luôn sáng suốt đến ngạc nhiên, thưa Anaib-Ungir. Những dự đoán của ông nhất định sẽ đúng. Họ đến gần bọn trẻ. Anaib-Ungir cố lấy giọng dịu dàng nói: – Các cháu tên gì? Bọn trẻ đứng dậy như bị gai đâm và quay lại. Thấy những người lạ quần áo sang trọng, chúng cúi đầu lễ phép: – Thưa ông, cháu tên Tug-Anseng, – đứa lớn trả lời giọng run run, – còn em của cháu tên Shang. – Những cái tên đẹp quá, – Anaib-Ungir nói giọng dịu dàng nhưng mắt ông vẫn lạnh lùng như cũ. – Cháu sẽ khỏe mạnh như gấu, còn em của cháu sẽ cân đối như cây cọ! Các cháu có những cái tên đẹp! Và tương lai của các cháu cũng sẽ đẹp tuyệt vời! Khuôn mặt của bọn trẻ đỏ lên vì bối rối và vui sướng. Không chỉ được người lớn mà còn là một đức ông không quen biết khen ngợi, quả là vinh dự! – Ba mẹ của các cháu là ai? – Chúng cháu từ tộc họ Caab, – Tug-Anseng trả lời, – mẹ của chúng cháu tên Osh-Tro, còn ba của chúng cháu tên Sanic là nông dân ở vùng này. – Quả là hạnh phúc! – Anaib-Ungir thốt lên, ông quay về phía người cùng đi. – Ngay cả những cái tên cũng tạo nên may mắn! – Vâng, đây là dấu hiệu vĩ đại! – Ông trả lời, kính cẩn cúi đầu. – Chúc các cháu khỏe và may mắn, Tug-Anseng và Shang! Chúng ta sẽ còn gặp nhau, giờ thì tạm biệt! – AnaibUngir nói. – Tạm biệt ông! – Hãy lập tức báo cho ba mẹ các cháu biết là hôm nay các cháu được trò chuyện với thầy Trưởng tế của thần Tóc xanh vĩ đại, và thầy rất hài lòng vì ba mẹ các cháu có những đứa con ngoan, – người đi cùng với Anaib-Ungir nói thêm. Tug-Anseng và Shang quì xuống, chúng lo sợ và kính cẩn nhìn những người lớn. Chúng sợ hãi vì vinh dự chưa từng có bỗng nhiên đến với chúng. – Đi chơi đi các cháu, đi đi! – Thầy Trưởng tế khoát tay. Vui mừng vì được phép, bọn trẻ đứng lên và biến mất vào cánh rừng bên cạnh, ở đó chúng lại thì thầm trò chuyện với nhau về những gì đã xảy ra. Chiếc đầu bằng đất sét nặn nằm trơ trên thảm cỏ. Thầy Tư tế lặng lẽ nhìn theo bọn trẻ mất hút vào rừng. Sau đó thầy trợ tế Mishpitiacuc cúi xuống nhặt chiếc đầu đất sét lên. – Giống lắm, – ông nhận xét, – thằng anh có năng khiếu nặn tượng. – Còn một điều nữa, – Anaib-Ungir nói, – đôi tay cùng huyết thống sẽ dễ làm hơn! Thầy Trưởng tế bước tiếp trên con đường làng, Mishpitiacuc quăng chiếc đầu đất sét và bước theo. Buổi tối, bọn trẻ lo lắng và tranh nhau kể cho cha mẹ của chúng nghe về cuộc gặp gỡ bất ngờ. Những giọt nước mắt vui sướng lăn trên gò má của Osh-Tro. – Có thể các con sẽ được hạnh phúc hơn mình. – Osh-Tro nói với niềm hy vọng mong manh. – Nếu thầy Trưởng tế của thần Tóc Xanh quan tâm đến chúng. – Tất cả đều có thể, – Sanic trầm ngâm trả lời, – nhưng hiện nay bọn trẻ cần phải quên những gì đã xảy ra. Đó là điều nguy hiểm! Đừng nhắc lại những gì đã xảy ra hôm nay, chúng sẽ nhanh quên thôi. Còn nếu sẽ xảy ra thì đó là ý trời! Các thầy Tư tế tiếp tục cuộc dạo chơi. Rời khỏi Hoctung, họ đi khá lâu theo con đường mòn quanh co giữa những cánh đồng đã gieo hạt, sau đó đi qua làng khác. Họ đi ngang qua một ngôi nhà đơn giản nhưng sạch sẽ. Một bé gái khoảng bốn tuổi đang chơi trước nhà, thấy Anaib-Ungir, bé vội vàng lao về phía người mẹ đang bận rộn bên bàn mài củ. Có lẽ bé sợ vẻ mặt và cách phục sức không bình thường của những người lạ. Áp sát vào chiếc lưng đang cúi xuống của mẹ, bé gái khóc nấc lên. – Khẽ chứ, khẽ chứ Tiang! – Người mẹ vừa nói vừa âu yếm con. – Sao con khóc? Sao con gái yêu của mẹ lại sợ? Tiang chỉ nín khóc và hết hoảng hốt khi hình dáng cao lớn của thầy Trưởng tế đã khuất. Đêm đó Anaib-Ungir thấy giấc mơ kỳ lạ: một bé gái nhỏ ngồi trên ngực ông, cổ ông bị đôi tay bé nhỏ của em bóp chặt đến mức ông bắt đầu thở khò khè và thấy ngợp. Anaib-Ungir thức dậy, uống nước, đi lại một lát trong phòng rồi nằm xuống, ông nhanh chóng thiếp đi. Hôm sau ông hoàn toàn quên cơn ác mộng kỳ lạ. 2 Mười năm sau Các vùng ngoại vi Sao-Lorenso. Mexico. Thời gian gần như là điều quan trọng nhất trong những gì mà con người có được. Thời gian trôi vùn vụt như vô cùng hối hả và không chút xót thương. Con người bất lực khi muốn dừng bước thời gian dù chỉ trong giây lát. Nhưng con người cũng có quyền lực tối thượng đối với thời gian, đó là lấp đầy nó bằng sức lao động của mình. Vì mọi hình thức lao động sáng tạo chính là chiến thắng sự lãng quên và cũng là chiến thắng đối với vực thẳm thời gian. Bản thảo, tranh, tượng, âm nhạc, nhà cửa, bản vẽ, máy móc – đó là sự cô đọng của ý nghĩ và cảm xúc, đó là một phần của dấu ấn thời gian, là sự khắc phục dòng thời gian khó hiểu. Đối với con người, thời gian chuyển động không đều. Có những giây phút mà ta cảm thấy thời gian trôi chậm chạp và đông lại như thỏi nhựa thông đặc. Có những lúc, thời gian trôi nhanh như khói bay theo gió, tan biến như hơi thở trong băng giá. Thời gian trôi nhanh khi ta hạnh phúc nhưng lại lê lết khi ta bất hạnh. Nhận thức của loài người về khái niệm thời gian là thành quả của trí tuệ vĩ đại. Lúc đầu nhận thức đó rời rạc, dè dặt – ngày rồi đêm, đêm rồi lại ngày, – thông qua những mốc, những hiện tượng có chu kỳ, bắt đầu từ mùa và kết thúc là vũ trụ. Hiện tượng này làm loài người nhận thức được những vấn đề mấu chốt, từ sự phát triển của cá nhân con người đến toàn bộ vũ trụ mênh mông. Học thuyết về sự thay đổi cần thiết của hình thái xã hội và giả thuyết về vũ trụ giãn nở hoàn toàn xa lạ đối với những người ở thời kỳ đồ đá cũ, họ là những người đầu tiên suy nghĩ về khái niệm thời gian. Nhưng con đường tri thức lắm chông gai đó, con người đã mắc không ít sai lầm. Chúng ta sẽ thấy điều này trong câu chuyện sau. Thời gian vô hình bay qua kinh thành NivannaaTracbolai. Ngày đêm và bốn mùa đều đặn tiếp nối nhau. Cây nở hoa, kết trái, dâng hạt cho mặt đất đầy khát vọng, rồi chìm vào tĩnh lặng và lại nở đầy hoa. Người nông dân lao động trên đồng ruộng, thợ thủ công trong các xưởng, các lãnh chúa quản lý nông dân và dự yến tiệc trong cung điện, các thầy Tư tế cầu khấn thần linh và theo dõi việc thực hiện những nghi lễ cần thiết… Sự việc luôn diễn ra như vậy và mãi mãi sẽ như vậy… Đôi khi những bất hạnh bất ngờ xảy đến cắt đứt sự đều đặn của cuộc sống, nhưng điều này lại càng khẳng định thêm sự vô thường của cuộc sống. Cùng với thời gian, mỗi ngày, mỗi đêm lại có những biến đổi nhỏ bé, vô hình. Chúng tích tụ và dần dần lộ ra. Người già mất đi, nhưng họ không tin và không hiểu là mình đã già. Trẻ con được sinh ra và lớn lên, trưởng thành. Mười năm qua đã có nhiều thay đổi trong cuộc sống của Shang, Tug-Anseng và Tiang. Sanic mất đi mà vẫn chưa được nhìn thấy con mình hạnh phúc. Hai năm sau cái chết bất ngờ của Sanic, lời tiên đoán của thầy Trưởng tế đền thờ thần Tóc xanh bắt đầu thành sự thật. Thầy trưởng quản điêu khắc của kinh thành tự tìm đến nhà Tug-Anseng và nói rằng, theo lệnh bề trên cậu bé sẽ được học nghệ thuật điêu khắc. Từ đó về sau Osh-Tro và Shang ít được gặp TugAnseng: cậu bé sống trong khu vực khác của thành phố rộng lớn và ít khi được về thăm gia đình. Shang tròn 18 tuổi, chàng đã nhận lãnh những phép thánh cần thiết nhưng đơn giản để trở thành người nông dân, và làm việc trên đồng ruộng như cha chàng. Cuộc sống của Anaib-Ungir có nhiều biến đổi: ông trở thành Thượng tế của kinh thành Nivannaa-Tracbolai, chức sắc tôn giáo cao nhất vương quốc. Ông béo ra và ánh mắt càng lạnh lùng hơn, tàn nhẫn hơn. Giờ đây ông hầu như không ra khỏi thành Thượng, mặc dù biết rõ mọi việc ở khắp nơi. Nếu phải ra khỏi thành, ông ngồi trên chiếc kiệu lộng lẫy do những nô lệ khiêng. Anaib-Ungir thấy hạnh phúc vì mọi người sợ ông. Mishpitiacuc vẫn là người thân cận nhất của Anaib-Ungir. Những lãnh chúa mới, Tư tế mới, thay vào chỗ những người đã mất. Tumeh-Sahing được chọn làm trưởng tế của thần Tâm đất – vị thần ghê sợ của âm phủ, động đất và núi lửa. Ông nổi tiếng là người sùng tín, khắc nghiệt và nghiêm túc trong việc thực hiện các lễ nghi. Kinh thành Nivannaa-Tracbolai phát triển. Những cung điện tráng lệ nguy nga, kiêu hãnh vượt lên trên những nền nhà cũ mà Quốc vương đã khuyến khích xây dựng. Được mùa liên tục. Thuế nộp cho các lãnh chúa đầy đủ, kho lẫm đầy ắp. Thương mại sầm uất. Những đoàn thồ hàng từ kinh thành tỏa đi các nước xa xôi. Một, hai năm sau họ trở về, mang theo những loại hàng quí hiếm: đá quí, hương liệu và quả tiên cacao, loại quả làm ra thứ nước uống thần diệu tăng lực cho các lãnh chúa. Tiang gần như là cô gái trưởng thành, nàng 15 tuổi. Giống như cái tên của mình, Tiang lớn lên mảnh mai như cây thông non. Trong thời gian này, do bị bệnh đường ruột cấp tính nên ba mẹ nàng và cả đứa em trai mới chập chững biết đi đều qua đời. Một người bà con xa đưa Tiang về nuôi. Đó là chú Maash, một người đàn ông góa vợ suốt đời cau có và là cha của hai đứa trẻ. Tiang bận rộn suốt ngày, cuộc sống của nàng không có niềm vui. Nhưng đã đến lúc chúng ta tạm biệt vương quốc Olmec, hoặc như người Olmec gọi đó là vùng Đất Đỏ. Chúng ta vượt Đại Tây dương và Địa Trung hải, đến đất nước Ai Cập cổ – Kemt, có nghĩa là Đất Đen. Những sợi chỉ ngẫu nhiên kỳ lạ, mà cũng có thể là định mệnh, đã một lần liên kết cuộc sống của cư dân vùng đất Kemt – cư dân của lưu vực sông Nil, với vùng đất Olmec xa xôi. Khác với đất nước Olmec non trẻ, thời đó Ai Cập là một quốc gia thống nhất đã hơn 2.000 năm. Trong suốt quá trình lịch sử lâu dài, vùng đất Kemt đã trải qua những giai đoạn thăng tiến, những thời kỳ sụp đổ, những cuộc bạo loạn của giới quí tộc, những cuộc khởi nghĩa của nhân dân bị đàn áp dã man. Lúc đó, Ai Cập bị chia thành hai đế quốc độc lập: Ai Cập Thượng có kinh đô ở thành Fiva cổ và Ai Cập Hạ do pharaon Nesubanebjed cai trị ở thành Tanis. Chương I CUỘC CHẠY TRỐN Fiva. Chúng ta đi khỏi đây. Chúng ta đi xa… Ai Cập. • “Popole-Vuh” “CHIM ƯNG ĐÃ CẤT CÁNH!” Mặc dù người báo tin đã rời khỏi phòng từ lâu, nhưng những lời nói khủng khiếp vẫn tiếp tục vang bên tai của Suembahamon. Mọi việc đã không còn bí mật nữa! Chỉ còn là thời gian… Họ sẽ đến bắt ông sau vài giờ hoặc vài ngày nữa, đằng nào cũng vậy thôi! Thoạt đầu là sự nhục nhã vì những lời đàm tiếu, cơn thịnh nộ của pharaon và thầy Tư tế toàn quyền Amon – chủ nhân thực sự của đất nước, sự tra tấn từ từ của pháp viện, mà thành viên có thể là thuộc cấp trước kia của ông, và tiếp đến là cọc nhọn! Chiếc cọc gỗ đâm nát ruột gan, đau đớn hành hạ không chịu nổi, cơn khát giày vò và cái chết nhục nhã không được chôn cất, không toàn thây và không mồ mả! Tại sao, tại sao ông lại mò vào kho xác của các lãnh chúa Hapi đã chết từ lâu. Rõ ràng đây là sự trả thù cho việc xâm phạm cõi yên lặng vĩnh hằng của họ, trả thù cho số phận khủng khiếp, mà số phận đó đang chờ đợi mọi người dân Ai Cập bị tước quyền được chôn cất xứng đáng. Nhưng tại sao ông lại nghĩ đến pháp viện? Tại sao ông lại đánh mất lý trí của mình? Chẳng lẽ ông đã không dự tính đến tình huống này sao? Không, ông – Suembahamon – luôn cẩn thận suy nghĩ tất cả những điều đã làm. Ông cũng đã tính đến trường hợp việc làm bí mật của ông vô tình bị phát hiện. Chỉ cần làm theo kế hoạch đã định. Chẳng lẽ trên sông Nil không sẵn có một chiếc thuyền đã chuẩn bị cho cuộc chạy trốn đó sao? Chỉ cần nhanh lên, không được để mất những giây phút quí báu! Giờ đây sự bình tĩnh thường ngày hình như đã quay về với vị phó tổng đốc thành Fiva vĩ đại. Chậm rãi, oai vệ như mọi khi, ông rời ghế bành, bước đến cửa sổ và khẽ vỗ tay. – Thắng con Tốc độ và Tráng lệ, chuẩn bị ra khỏi vườn! Nhanh lên! – Ông ra lệnh cho người hầu trẻ vừa chạy vào. Điều gì sẽ xảy ra với vợ và các con của ông? Ông sẽ nghĩ đến điều này trên đường đi. Giờ đây chỉ quan trọng có một điều: lên tàu thật nhanh! Rời khỏi đây thật nhanh! Suembahamon đứng lại vài giây trước bức tượng cha mẹ đã mất. Cha đứng sát mẹ bình thản và hiền từ nhìn thẳng về phía trước, miệng mỉm cười. Người con cúi xuống thật thấp để chào bức tượng cha mẹ mình và lặng lẽ bước ra khỏi phòng. Ông cảm thấy chân mày của cha như nhíu lại, như người nhận thấy được việc đã xảy ra… Khi đi qua vườn cây mát lạnh sương sớm, quan đại thần đau khổ kìm mình bước đi chậm rãi như mọi ngày. Không để cho ai đoán là ông đang vội đi đâu đó; sau này bọn chó săn sẽ đào bới đến từng chi tiết, không được để lại dấu vết! Tiếc một điều là ông không thể tạm biệt mấy đứa con… Bởi vì ông không bao giờ có thể gặp lại chúng được nữa! Một cái gì đó như bóp nghẹt cổ họng Suembahamon. Nhưng tất cả những gì ông làm là vì chúng nó! Người quản gia Nuri đứng kính cẩn ở cổng sau, chờ tiễn chủ nhân của mình. Thôi kệ, mặc cho hắn biết là ta đã ra đi vào lúc hừng đông. – Ta muốn tắm trong lòng Hapi thiêng liêng. Cứ để bà ăn sáng vắng ta! Không hề biểu lộ sự ngạc nhiên của mình trước tính khí kỳ lạ của ông chủ, người quản gia cúi gập mình xuống: – Vâng, thưa ngài! – và ngập ngừng nói thêm, – Bà Rennefert sẽ rất buồn… Không trả lời, quan đại thần bước lên chiếc xe ngựa nhẹ được trang trí sặc sỡ, nhận dây cương từ tay tên nô lệ. Ông nhanh nhẹn cho xe chạy nước kiệu. Đường phố kinh đô hầu như còn trống vắng. Thi thoảng thấp thoáng bóng những người gánh nước sớm và những tiểu thương chở hàng bằng lừa. Họ hoảng hốt vì tiếng động của chiếc xe ngựa. Những bức tường cao, dài, bao bọc lâu đài cùng vườn cây, dần dần nhường chỗ cho những ngôi nhà khiêm tốn hơn của các quan lại, sau đó là những túp lều nghèo, tường đất và mái cói thấp lè tè. Không khí mát lạnh: nước sông Nil bị ngăn cách bởi nhà cửa, lâu đài trong thành phố, giờ đây mặc sức mơn man khách lữ hành bằng hơi thở ban mai của mình. Đường đã đông hơn, nhưng phó tổng đốc vẫn quất ngựa không thương xót. Dù có ai trông thấy ông trên con đường này thì ông cũng không để cho bọn mật thám moi được gì mới. Việc tìm kiếm sẽ trở nên khó khăn! Phóng như điên cuồng được một lúc, Suembahamon bắt đầu ghìm ngựa lại. Đây là chỗ ông chọn trước để hành động trong trường hợp bất hạnh. Vội vã bước ra khỏi xe, ông buộc ngựa vào cây cọ cao và bước xuống mé nước. Nếu sứ giả của quan tể tướng không xuất hiện trong nhà ông trong vòng hai giờ nữa thì báo động đầu tiên sẽ là người nhà của ông. Phải nhanh chóng rời khỏi nơi đây! Suembahamon cởi quần áo, xếp gọn cẩn thận. Tất cả những việc này sẽ được xem xét, kiểm tra không chỉ một lần. Chỉ một khác biệt nhỏ so với thói quen hàng ngày sẽ tạo nên những nghi ngờ mới. Như vậy, được rồi! Tất nhiên người ta sẽ ngạc nhiên: sao quan đại thần lại tắm một mình ở một nơi hoang vắng mà không có người hầu, trong khi ở nhà có một hồ tắm tuyệt vời! Nhưng Rennefert và cả những người hầu sẽ xác nhận là gần đây đôi khi ông vẫn làm như vậy. Đúng ra là họ sẽ thêu dệt thói cầu kỳ bình thường, còn cái chết của ông sẽ được cho là một sự ngẫu nhiên nào đó. Những điều này sẽ kéo dài thêm thời gian và sẽ làm mất dấu vết. Giờ đây phải bận quần áo khác. Từ dưới một tảng đá ở bờ sông, quan đại thần lấy ra bộ quần áo thợ. Nó hơi cũ, nhưng càng tốt… Chỉ cần lúc này đừng gặp phải một cảnh binh nào đó: hắn sẽ tò mò và có thể nghi ngờ. Nhanh lên, nhanh hơn nữa! Bây giờ phải bôi bùn lên tay và mặt… Ánh mắt của quan phó tổng đốc rơi vào những chiếc nhẫn khối đeo trên tay. Phải bảo quản những thứ này, ông không muốn xa chúng. Tháo ra khó quá! Nhét chúng vào đây, nhét vào khố. Nhanh lên, nhanh nữa lên! Hai phút sau quan đại thần đã cải trang thành người hoàn toàn khác lạ. Đưa mắt lo ngại nhìn quanh, ông vội vàng rời khỏi vị trí nguy hiểm. Con Tráng lệ – một trong hai con ngựa đực bỗng nhiên ngẩng đầu hí dài, dường như tạm biệt ông chủ. Suembahamon đi dọc bờ sông giống như quay trở lại Fiva. Điều này cũng đã được tính trước: nếu mọi người tin rằng ông bị chết đuối khi tắm sông, họ sẽ tìm xác ông ở hạ lưu. Nếu bọn chó săn cảnh binh truy tìm kẻ tội phạm, tất nhiên chúng sẽ xét những người ra khỏi thành phố chứ không xét người đi vào thành phố. Trong ngày hôm đó thành công vẫn phù hộ Suembahamon. Không thấy bóng dáng một cảnh binh nào dò xét khách trên đường, cũng không thấy người hầu của ông bơi thuyền trên sông. Xung quanh yên tĩnh bình thường. Nửa giờ sau ông gặp được người mà ông mong đợi, không dám hy vọng lắm, bởi vì đó là khâu yếu nhất trong kế hoạch của ông – lão già đánh cá. Lão ngồi trên thuyền, buồn rầu nhìn mẻ lưới nghèo nàn của mình. – Bố, cho con qua bờ Tây, – ông đề nghị, – con cần qua gấp và sẽ trả công hậu! Lúc đầu lão già nhìn một cách ngờ vực, nhưng sau khi nhận trước hai chiếc nhẫn đồng, lão yên tâm và vui mừng vì khoản phụ thu bất ngờ. Lát sau chiếc thuyền nan đã cắt dòng sông Nil lao đi. Lão đánh cá không hỏi Suembahamon điều gì, có lẽ lão cho rằng ông là phu của nghĩa trang đi chơi đêm qua. Quan đại thần bước lên bờ, lão đánh cá nói theo: – Nhớ nhé, chiếc gậy của bọn giám thị thích ghè trên lưng bọn say xỉn lắm đó! Suembahamon cố làm ra vẻ có lỗi và nhanh chóng rời khỏi bến sông. Nhưng khi lão già vừa quay đi, ông lộn trở lại và vài phút sau Suembahamon đã đến cạnh chiếc tàu của mình. Đây là chiếc tàu nhỏ, tốc độ cao, được dùng cho những chuyến dạo chơi trên sông Nil, bên ngoài tàu không có vẻ gì đặc biệt. Đội tàu gồm hai nô lệ đặc biệt tin cậy, ba thủy thủ và tài công. Trong hai chiếc rương nhỏ giấu kín trên mạn tàu là tất cả tài sản của kẻ đào tẩu. Tài công Irinefer, hình như hoàn toàn không ngạc nhiên vì sự xuất hiện của ông chủ trong bộ y phục kỳ lạ như thế này. Ông yên lặng cúi chào Suembahamon, vẻ mặt của tài công nói rằng ông đang đợi lệnh. – Lập tức lên đường, hướng về Delta! – Phó tổng đốc nói ngắt quãng. – Ta nghỉ trong phòng. Tàu lên đường. Kẻ trốn chạy nằm trên giường và cố ngủ, nhưng giấc ngủ không đến: sự kích động vẫn còn quá mạnh. Suembahamon không hề hay biết là cuộc trốn chạy của ông hoàn toàn vô ích. Cuộc điều tra cướp lăng mộ hoàng đế chỉ bắt đầu sau đó một tháng, khi tất cả những ầm ĩ về cái chết bất ngờ của ông trên sông Nil đã dịu đi. Những người không biết Suembahamon, khi bị thẩm vấn đều không nhắc đến tên ông. Còn những người biết ông thì do địa vị cao và những món quà hào phóng của ông, họ né tránh cuộc truy xét. Ông không biết rằng vợ và các con của ông đã được pharaon an ủi sau cái chết bất ngờ và vô nghĩa của người chủ gia đình. Suembahamon không bao giờ biết rằng cuộc đào tẩu của ông là vô ích. Chương II NHỮNG KẺ CƯỚP LĂNG MỘ HOÀNG ĐẾ Sông Nil. Ai Cập. Amenpanefer được đưa đến. Đó là con trai của Inhernehet, mẹ của hắn là Meri thuộc họ tộc Kush, thợ chẻ đá của đền thờ Amon, do thầy Tư tế Amon cai quản đầu tiên. Hắn bị hỏi cung, tra tấn và bẻ gãy chân tay. Hắn nói: “Tôi đến các lăng mộ ở Tây Thành với bọn trộm đã quen biết trước đây. Chúng tôi lấy lúc thì bạc, lúc thì vàng được tìm thấy trong các lăng mộ và trong các bình tế ở đó. Chúng tôi cạy các lăng mộ đá bằng những chiếc đục đồng. Chúng tôi mang đi những cỗ quan tài bằng gỗ bên trong, trong đó có vàng. Chúng tôi đập quan tài ra; và đốt chúng tại lăng mộ vào ban đêm. Chúng tôi lấy lúc thì vàng, lúc thì bạc mà chúng tôi tìm thấy ở đó; rồi chúng tôi chia nhau”. • (Trích từ Biên bản hỏi cung những kẻ bị buộc tội cướp lăng mộ. Năm thứ 16 triều Ramses IX). Nằm trong phòng, Suembahamon xét lại tất cả các khâu của chuỗi xích các sự kiện bất hạnh, bắt đầu từ sự vô tội… Sự việc bắt đầu từ Paveraa quyền uy, tổng quản phía tây thành Fiva, tổng vệ binh của lăng mộ hoàng đế. Một lần Paveraa cho ông xem chiếc chữ thập bằng vàng khối gắn trên sợi xích nặng trịch được trang trí tao nhã. Cả hai vật đều bằng vàng có sắc hồng tuyệt đẹp mà từ trước đến giờ Suembahamon chưa từng thấy. Không như một số đại thần khác, phó tổng đốc chưa phải là người say mê hoặc uyên thâm về đồ cổ, nhưng ông vô tình nhận thấy tính cổ của đồ vật, kiểu cách hiếm, mạnh và thô của tác phẩm. Màu sắc kỳ lạ của kim loại đặc biệt hấp dẫn ông. Suembahamon đã giấu được sự say mê và thèm khát thực sự trong đời ông là vàng. Ánh lấp lánh và sức nặng hấp dẫn của thứ kim loại này đã mê hoặc ông, ông có thể ngồi hàng giờ lật đi lật lại trong lòng bàn tay mình miếng vàng nặng, cảm nhận sự thống trị của nó, ngắm ánh lấp lánh trên bề mặt nhẵn bóng của nó. Những màu sắc hiếm – vàng lục, vàng hồng, vàng trắng, làm Suembahamon vui thích vô bờ. Say đắm màu sắc của vàng, ông hỏi Paveraa kiếm những thứ này ở đâu, tổng vệ binh của lăng mộ trả lời lấp lửng là quà của người này, người kia mà ông ta không thể nhớ được. Cuối buổi trò chuyện thân mật kéo dài suốt gần hai giờ, tổng vệ binh bỗng nói: “Hình như ngài thích chiếc chữ thập. Hãy nhận món quà này của tôi. Tôi sẽ rất vui nếu ngài đồng ý. Chỉ đề nghị một điều: đừng đeo nó trong những dịp lễ hội!” “Lúc đó ta nên cảnh giác điều bất thường ấy, – giờ đây Suembahamon buồn bã suy nghĩ. – Nếu lúc đó ta từ chối món quà hào phóng và bất ngờ đó thì mọi việc đã khác. Nhưng than ôi, ta như con khỉ tham lam vồ lấy quả chà là, bây giờ ta phải nhận cây thập tự!” Ô! Những món đồ cổ ấy của cuộc sống chỉ là miếng mồi, còn mi như con cá ngu ngốc đã nuốt và mắc câu. Giờ đây ngư ông từng trải chỉ cần kéo con mồi từ từ trước khi nhấc nó khỏi mặt nước. Paveraa là tay đi câu những tâm hồn yếu đuối! Một tháng sau trong kinh thành đồn rằng, một bọn cướp đã đập và cướp lăng mộ công chúa Tahorduenist, Suembahamon hoảng sợ thật sự. Giờ đây ông đã hiểu chiếc thập tự từ đâu mà có. Ông giấu báu vật vào một góc vắng của vườn cây và run sợ chờ nỗi bất hạnh. Tuy nhiên không có điều gì xảy ra. Những đồn đại về vụ cướp lắng dần, nhưng sau đó toàn vùng Fiva lại kháo ầm lên về cuộc cãi cọ giữa tổng quản lăng mộ Paveraa và tổng đốc thành Nebmaatranaht. Không ai rõ nguyên nhân, nhưng những người hóm hỉnh của kinh đô trổ tài dự đoán với nhiều cách tinh tế nhất. Chính ngài tổng đốc đã tin cậy nói với Suembahamon là ông ta nghi ngờ Paveraa đã làm những việc ghê tởm. Gần một tháng nữa trôi qua, một chàng trai cao lớn, vai rộng, có khuôn mặt khó coi, cố xin được gặp quan phó tổng đốc, chàng nói rằng có tin khẩn và mật. Khi viên thư lại đã lui ra theo lệnh của Suembahamon, tín sứ đặt xuống chân quan đại thần một gói nhỏ và nói thầm: “Ông Paveraa gửi cho ngài những hạt sen vĩnh cửu”, rồi biến mất. Khó khăn lắm Suembahamon mới đem được gói quà về nhà. Ông đã đoán được thứ gì trong đó. Giam mình trong phòng ngủ và tự nhủ không được hồi hộp, vị đại thần mở gói quà bất ngờ. Sau vài lớp vải quấn chặt là mười viên gạch bằng vàng. Tất cả đều là loại rất tốt: rõ là vàng được nấu lại, còn vàng lấy từ những lăng mộ cổ phải có dấu hiệu riêng. Suembahamon vui gấp hai lần. Thứ nhất – ông đã tăng thêm kho báu của mình. Quan đại thần nhẹ nhàng xếp các viên gạch vào chiếc rương lớn bằng gỗ bá hương đặt cạnh giường của ông. Thứ hai – mặc dù trên thỏi vàng không có dấu hiệu “Nefer” (tốt) – chứng tỏ vàng đã được qua kiểm tra tại kho báu quốc gia, nhưng đây vẫn là kim loại quý. Do đó, vị phó tổng đốc suy luận, không thể vạch tội ông dựa vào số vàng này. Tối đó ông đặc biệt dịu dàng với người nhà. Hai ngày sau Suembahamon được mời đến nhà của Maannahtuf – quan tổng quản kho của pharaon. Gia chủ lịch sự mời vị đại thần đi xem vườn cây, đưa ông vào chòi nghỉ. Paveraa đang ngồi ở đó. Maannahtuf xin lỗi và lui ra. Lúc này quan phó tổng đốc mới hiểu mọi việc. Lần này Paveraa không nói nhiều. “Honsuemheb mang vàng đến, ngài đã nhận được chưa?”. Tổng quản lăng mộ vào đề ngay, bỏ qua những lời chào hỏi bình thường. “Vâng!” – Suembahamon bối rối trả lời, giờ thì ông mới biết chàng trai hôm trước là Honsuemheb. “Tốt! Hàng tháng anh ấy sẽ đem đến nhà ngài số lượng đúng như vậy – 10 deben vàng. Ngài xem sẽ gặp anh ấy ở đâu và như thế nào? Tôi đánh giá cao tình bạn của chúng ta. Nhưng không ai được biết đến nó, điều đó không có lợi gì. À, ngài vẫn thường gặp Nebmaatranaht chứ, các ngài có thường nói về tôi không?”. Bị bất ngờ, Suembahamon ngắt ngứ kể cho Paveraa nghe về cuộc đàm thoại của mình với ngài tổng đốc. “Ồ, không có gì mới, – tổng quản lăng mộ lạnh lùng nói, – nhưng ngài Suembahamon đáng kính, nếu biết được điều gì đó quan trọng đối với tôi, ngài sẽ báo cho tôi biết như một người bạn chứ? – Và sau đó, cúi sát gần như chạm vào mặt Suembahamon, Paveraa thì thầm: – Đừng sợ! Không ai và không bao giờ có thể biết tại sao ngài có số vàng đó! Nếu bỗng nhiên có nguy hiểm, tôi sẽ cử lính báo tin đến chỗ ngài với mật khẩu: “Chim ưng đã cất cánh!”. Đây sẽ là tín hiệu nguy hiểm. Ngài nhớ rồi chứ? – “Chim ưng đã cất cánh”. Bây giờ thì tạm biệt! Không được để người ta thấy hai chúng ta ở một chỗ! Tổng quản lăng mộ biến mất không một tiếng động sau hàng nho che phủ chòi nghỉ. Suembahamon vẫn còn ngồi lâu trên ghế, bối rối, hồi hộp. Ông đã bị biến thành một tên gián điệp được trả tiền. Ông, một trong những đại thần của hoàng triều pharaon, người có vợ là ca sĩ của đền thờ thần Amon vĩ đại, ông đã trở thành gián điệp của một tên ăn cướp, một kẻ đê tiện xúc phạm đến lăng mộ của các hoàng đế! Có thể mai đây bọn kẻ cướp sẽ xâm nhập vào cả lăng mộ của tổ tiên ông! Không, dĩ nhiên bọn chúng sẽ không làm điều này. Paveraa sẽ không làm điều này! Chắc hắn biết phải ăn cướp mộ ai, và hắn không muốn chọc tức Suembahamon. Không phải ngẫu nhiên mà hắn đã hào phóng ban thưởng cho sự im lặng của ông. Vâng, chỉ nhờ sự im lặng của ông thôi, bởi vì ông không làm lợi gì cho hắn, thậm chí không có thông tin gì mới… Dần dần hai má của quan đại thần hồng trở lại. Ông hít sâu vào, bẻ một bông hoa, lơ đãng ngửi. Tinh thần trở nên bình thản hơn. Ồ, xúc phạm lăng mộ là việc làm khủng khiếp, hành vi đó đê tiện đối với trời, đất. Có thể gọi Paveraa là kẻ đầu tiên cả gan làm việc này hay không? Suembahamon nhớ lại câu chuyện của ông cố mình, lúc còn trẻ cụ đã thực hiện lệnh của Usermaat-Rasetepenra Ramessu-Meriamon – Vị pharaon vĩ đại nhất. Theo lệnh của vị Thần thiện[1], ông cố đã tổ chức khai thác đá ở kim tự tháp của pharaon Snofru thành phố Jed-Snofru và chở các phiến đá về cho công trường của hoàng đế ở Nen-Nesut. Như vậy, ngay cả hoàng đế vĩ đại của Ai Cập cũng đã trở thành kẻ xúc phạm sự yên tĩnh của các hoàng đế cổ. Ông tự an ủi mình, đối với các vị thần thì mọi sự đê tiện đều như nhau: đánh cắp vàng hay đá của người chết cũng như nhau. Còn ông, Suembahamon, tự tay mình chưa bao giờ và sẽ không bao giờ đụng vào hài cốt của người lạ. Những người khác làm việc này, gánh nặng tội lỗi sẽ đè nặng lên vai, lên đầu họ. Vàng lọt vào tay ông không rõ nguồn gốc như thế nào. Có thể Paveraa đưa vàng của mình cho ông, đó là đồ thừa kế của hắn. Sau khi đã hoàn toàn trấn tĩnh, Suembahamon rời khỏi chòi nghỉ. Với nụ cười lịch sự, ông đi tìm Maannahtuf. Trong bữa tiệc, ông vui và nói nhiều, không ai nhận ra rằng Suembahamon uống rượu nhiều hơn bình thường. Dù sao đi nữa, câu chuyện với tổng quản lăng mộ không thoát ra khỏi tâm trí của quan đại thần hèn nhát và láu cá. Suembahamon bắt đầu lập kế hoạch cứu mình khi câu chuyện nhục nhã này bại lộ và tên tuổi của ông sẽ bị đạp xuống bùn nhơ. Vì thế, ông thấy tốt nhất là nên bí mật chạy trốn về Delta, dưới sự cai trị của Nesubanebjed. Hiện nay tình hình có vẻ thuận lợi cho ông. Sau nhiều lần nhận quà và sự phục vụ của ông, chủ nhân của Ai Cập Hạ – Nesubanebjed – pharaon vĩ đại của Delta từ hai năm nay đã tự nhận mình là bạn của vị phó tổng đốc Fiva, ngài thường cử tín sứ đưa thư mời ông đến chơi. Tuy nhiên Suembahamon không vội vàng gì mà phải từ giã thành phố thân yêu này. Lý do không chỉ vì thời gian đã làm tan dần nỗi sợ hãi của ông, mà vì những thỏi vàng thường xuyên làm nặng thêm chiếc rương của ông. Phó tổng đốc hai lần biết được là Nebmaatranaht cử mật vụ đến khu lăng mộ, ông đã báo tin này cho Paveraa. Và bọn chó săn biến mất không để lại dấu vết. Tổng đốc kinh đô không hiểu tại sao kế hoạch bị vỡ, ông nổi điên lên nhưng không thể nghi ngờ viên trợ lý của mình. Nhưng dù sao đi nữa thì chuyện bí mật cũng bị lộ! Vì sao? Suembahamon lo lắng trằn trọc trên giường… Nhưng điều này giờ đây có ý nghĩa gì? Giờ đây chỉ có một điều quan trọng: nhanh chóng đến được lãnh thổ của Nesubanebjed, chỉ ở đó ông mới được an toàn. Ai sẽ là quan tòa khi điều tra vụ cướp lăng mộ? Tất nhiên chính Nebmaatranaht, sau đó là đại quản lý Inis của pharaon, sau nữa là một người nào đó trong số thư lại của hoàng đế… Suembahamon nhớ lại lời thề mà ai cũng phải tuyên thệ khi ra trước pháp viện. Những lời nói long trọng và hà khắc vang lên trong tai ông: “Như thần Amon đang tồn tại, như hoàng đế đang tồn tại, chúc ngài sống, khỏe mạnh và trường tồn! Nếu phát hiện thấy tôi có quan hệ với một trong số bọn cướp, tôi sẽ bị què quặt…” Mồ hôi lạnh thấm ướt người Suembahamon. Giấc mơ thấy pháp viện làm ông kinh hoảng. Ngài tổng đốc sẽ điên lên – trợ lý của ngài lại là kẻ phản bội! Không thể hà tiện cực hình được. Kẻ đào tẩu cảm thấy con tàu chạy chậm quá. Nhanh lên, hãy thoát nhanh khỏi ranh giới của đế quốc Ai Cập! Tên nô lệ Penniut thò đầu vào cửa buồng: – Thưa ông chủ, dùng cơm trưa được chưa? Sau cái gật đầu im lặng của Suembahamon, tên nô lệ biến mất và sau đó quay lại với chiếc mâm. Trên những chiếc đĩa dẹt là hai con vịt quay đã nguội, rau, trái cây, một bình rượu ngọt và một bình nước lạnh. Sau cốc rượu đầu và muỗng củ cải cay ngâm mật, quan đại thần cảm thấy đói mềm và nhớ rằng cả ngày chưa ăn gì. Ông thấy các món ăn ngon kỳ lạ và thức ăn nhanh chóng biến mất. No căng vì thức ăn và rượu, Suembahamon lên giường và thiếp đi. Quan đại thần ngủ rất lâu. Khi ông thức giấc, trong phòng đã tối. Suembahamon ì ạch bước lên boong. Con tàu tiếp tục cuộc chạy trốn không mệt mỏi về hướng bắc. Tài công khẽ lẩm bẩm hát một bài ca đơn điệu. Xung quanh tĩnh mịch và thanh bình. Những cánh rừng đen trên bờ chậm chạp trôi về phía sau. Trong đêm thỉnh thoảng lóe lên ánh lửa cô đơn. Hằng nga tròn trĩnh, yên lặng tỏa sáng trên bầu trời. Dòng Hapi lấp lánh bạc dưới ánh trăng. Bỗng dưng nỗi buồn sâu sắc bóp nghẹt trái tim Suembahamon, nỗi buồn cảm nhận được như cơn đau. Bởi vì sau vài ngày nữa ông sẽ vĩnh viễn chia tay với thế giới quen thuộc này, nơi ông sinh ra, lớn lên và hy vọng sẽ được nằm xuống đó! Mãi mãi không bao giờ ông còn được nhìn thấy dòng Hapi, không được uống thỏa thuê dòng nước ngọt của nó. Phó tổng đốc không tin vào may mắn mà kẻ đào tẩu Sinuhet ngày xưa đã gặp. Những hành động này không thể được tha thứ! Suembahamon quay ngoắt lại và bước vào phòng. Lần đầu tiên ông cảm thấy những giọt nước mắt cay đắng của kẻ bị xua đuổi. Chương III THỬ THÁCH Sao-Lorenso. Mexico. Họ là những người thổi sáo, ca sĩ, những mũi tên bay ra từ ống thổi, họa sĩ, nhà điêu khắc, thợ cắt đá, thợ kim hoàn. • “Popole-Vuh” Tug-Anseng lo lắng. Chàng không để ý gì đến cái mát lạnh ban mai, không để ý gì đến làn gió nhẹ vuốt ve hai má nóng bừng của chàng. Hôm nay là ngày rất quan trọng đối với Tug-Anseng: chàng sẽ được giao một tác phẩm, sau đó chàng sẽ được công nhận là thợ chứ không còn là học việc nữa. Công việc quan trọng quá! Chàng làm nổi không? Nếu thất bại thì sao? Sau buổi trưa Tug-Anseng được gọi đến nhà thầy tổng quản điêu khắc. Năm người thợ cả già đáng kính nhất ngồi trên chiếc chiếu lớn trong bóng mát của ngôi nhà, trong đó có Ah-Shooch – thầy của Tug-Anseng. Nét mặt bình thản một cách lạ thường cho thấy ông là người lo lắng nhất. Cuộc thử thách như thế này chỉ có một lần trong đời, người thầy được đánh giá qua tác phẩm của học trò. Bởi vì tạo được tác phẩm nghệ thuật là một việc, còn dạy được điều này, lại hoàn toàn là việc khác. Ah-Shacan, tổng quản điêu khắc của thành NivannaaTracbolai, chăm chú nhìn Tug-Anseng đang cúi gập người, ông chậm rãi nói: – Những năm học của con sắp kết thúc, chàng trai à! Bảy năm trời con tiếp thu kiến thức do thầy của con truyền dạy. Giờ đây đã đến lúc con chứng tỏ cho mọi người thấy những năm học của con không vô ích và con đã nắm vững những gì thầy con đã truyền dạy. Cát hút nước nhanh, nhưng nước cũng thoát nhanh ra khỏi cát. Khó làm cho đất sét no nước, nhưng sét giữ nước bền, đặc biệt khi đã nung chín. Giờ đây chúng ta sẽ thấy trời tạo ra con từ loại vật liệu nào… Ông quay lại nhìn những người thợ cả. Các ông già gật đầu xác định. Chỉ có Ah-Shooch vẫn bất động, khuôn mặt ông cứng lại như đá. Ngừng một lúc Ah-Shacan tiếp tục: – Giờ đây ta giao cho con một sản phẩm tuyệt vời của những người thợ đá. Nhiều ngày qua mọi người đã cắt, mài và đánh nhẵn cục đá vĩ đại này. Giờ đến lượt con. Con phải trang trí nó bằng hình vẽ của con, khắc nó một cách tự tin và thận trọng. Con cần thể hiện trên đó một thần đồng. Thời hạn làm việc cho con không nhiều – một tuần trăng rưỡi. Sau khoảng thời gian này, chúng ta sẽ lại họp mặt ở đây để nhận tác phẩm con đã hoàn thành… Trong khi làm việc con cần luôn nhớ rằng, chiếc rìu – đó là ba trong một. Nó là công cụ trong tay của thần mưa, do đó nó là vật mang nước đến, nhờ nó mà chúng ta mới có được hạt ngô đầu tiên – thực phẩm cho con người. Nhưng chiếc rìu cũng là công cụ của tử thần. Đá nefrit cũng là ba trong một. Nó là tượng trưng của nước, của cây xanh và cũng là của máu! Hãy nhớ điều này mãi mãi! Ah-Shacan mở miếng vải trắng đặt nằm trên đùi của ông, lấy ra một vật và đưa cho chàng trai. Đó là chiếc rìu thon làm bằng loại đá tuyệt hảo màu xanh lục dương. Quả thật những người thợ đá đã chế tác nó đến độ hoàn hảo. Đầu nhọn uốn cong đều, chạm vào thấy ớn lạnh. Chiếc rìu nhẵn bóng đến nỗi như được bọc trong một lớp nước. Mặt chàng trai đỏ lên. Chàng được giao làm một vật như vậy! Tug-Anseng biết rằng, nếu chàng làm hỏng chiếc rìu thì dù có lao động suốt đời chàng cũng không thể trả nổi. Một thợ cả chồm người về phía trước thì thầm vào tai Ah Shacan. Ông nói thêm: – Đây là vật thiêng, nó chỉ được dùng cho những lễ nghi bí mật và vĩ đại nhất. Vì vậy, để khỏi xúc phạm đến nó, con phải qua tẩy rửa. Suốt thời gian làm việc, con ở trong rừng, không ai được thấy con cũng như tác phẩm của con. Thức ăn sẽ được mang đến ngưỡng cửa vào ban đêm. Khi hết thời hạn sẽ có người đến tìm con. Tạm biệt con, Tug-Anseng. Chúng ta chúc con lao động kiên trì và thành công! Chàng trai cẩn thận gói báu vật vào miếng vải, cúi chào và đi khuất. Các thợ cả im lặng nhìn theo. – Nó làm được, – cuối cùng một cụ già nói, – chắc chắn nó sẽ hoàn thành nhiệm vụ. Ah-Shacan lắc đầu. Hình như nỗi ngờ vực đã thắng ông, nhưng ông không nói thành lời: trong giây phút trọng đại này, lời nói không cẩn thận có thể mang thất bại đến cho người được thử thách. Chiều hôm đó bốn thầy trợ tế đưa Tug-Anseng vào sâu trong rừng, ở đó đã dựng một ngôi nhà tạm, thực ra, nó chỉ là một túp lều. Sau buổi lễ tẩy rửa, chàng được xông khói cỏ thuốc và rảy nước thánh. Họ để chàng ở lại một mình. Nền lều làm bằng cát thô màu hồng, được quét sạch sẽ. Những dụng cụ cần thiết bày la liệt trên chiếu: mũi đục, các tay khoan bằng tre. Chiếc giường đơn giản làm bằng cành cây tươi, phủ tấm vải thô, cạnh đó là thức ăn cho một ngày. Bên ngoài bốn chiếc lư hương đặt ở bốn góc lều đang nhả khói, khói thơm sẽ đuổi đi những linh hồn độc ác. Đêm đầu và nửa ngày sau Tug-Anseng không làm được gì. Chàng hoàn toàn thất vọng, thậm chí không nhìn đến chiếc rìu nằm ở góc trong lều. Chàng cảm thấy không thể làm được gì, tất cả kiến thức, kinh nghiệm và trí tưởng tượng của chàng dường như biến mất hết. Trưa hôm sau, sau giấc ngủ nửa giờ ngắn ngủi dưới mặt trời, cuối cùng chàng quyết định cầm rìu. Và một lần nữa màu sắc hoàn mỹ của đá, hình dạng hoàn hảo của chiếc rìu lại làm TugAnseng thất vọng. Cổ nghẹn đắng, chàng không đủ can đảm chạm trổ dù một lần lên mặt phẳng tráng lệ như vậy! Chàng sẽ lập tức làm hỏng nó mất thôi! Cảm thấy hoàn toàn bất lực và vô vọng, chàng trai nằm vật ra giữa lều. Chàng ngẩn ngơ ngắm nhìn những ngôi sao lấp lánh qua kẽ lá đan phủ trên mái thay cho tranh lợp, rồi chàng thiếp đi. Tug-Anseng ngủ rất lâu. Chàng tỉnh giấc trước bình minh. Rừng tràn ngập tiếng chim. Thỉnh thoảng vọng lại tiếng khỉ hú. Chàng thấy có ba quả bầu đựng thức ăn. Trong một quả bầu cháo ngô vẫn còn nóng, mùi cháo thơm nứt mũi. Chàng học việc điêu khắc lập tức nhớ rằng, từ sáng hôm qua đến giờ chàng chưa ăn gì hết. Thanh toán xong món cháo, Tug-Anseng ăn hết thức ăn có trong lều, chàng hơi đỏ mặt vì cảm thấy đói. Sau đó chàng nằm xuống chiếu… Sau một hồi trăn trở, Tug-Anseng nhổm dậy và mở cục đá ra. Chàng nhìn rất lâu vào mặt đá, những đường vân tỏa sâu vào phiến đá trong suốt không mách bảo chàng điều gì. Nhưng chàng lại phải dùng chúng cho các hình vẽ của mình. Người thợ giỏi phải nhìn thấy tất cả những đặc điểm của đá, phải biết phát hiện ra chúng chứ không được bỏ qua. Còn vòng tròn này gần như nằm giữa chiếc rìu – làm gì bây giờ? Tug-Anseng đặt báu vật qua một bên và thẫn thờ bước ra khoảng rừng xuân xanh rực sáng, y như thể chàng đang đợi điều gì. Từng phút trôi qua nhưng chàng trai vẫn bất động nhìn vào một điểm. Và bỗng nhiên – ôi diệu kỳ! Trước ánh mắt mơ màng của chàng xuất hiện một hình vẽ kỳ lạ, giống như được xếp lại từ cành lá và dây leo đan chéo vào nhau. Đó là KjaaholBolai – tổ tiên của dân tộc Olmec, một tiên đồng nửa báo nửa người. Nhưng lần này Tug Anseng thấy thần đang tức giận, mặc dù từ trên đầu của thần mọc ra một cây ngô dài – biểu tượng lòng tốt của thần. Không, Kjaahol Bolai đang giận dữ, miệng thần như đang phát ra tiếng rên không vừa lòng. Chiếc vòng hoa văn trên đá chỉ là chiếc khuyên lớn trên tai thần! Tug-Anseng nhắm mắt trong giây lát như để nhớ lại giấc mơ, sau đó chàng lao vào chiếc chiếu để đồ nghề. Ở đây có sẵn một tấm ván bào nhẵn và vài cục than mềm. Trong đầu chàng trai lóe lên ý nghĩ biết ơn người thầy đã lo lắng cho chàng: thầy đã dự tính tất cả! Nhưng ý nghĩ đó nhanh chóng biến mất, bởi vì trong đầu nhà điêu khắc trẻ đang sáng rực lên vẻ mặt của thần đồng. Cánh tay chàng lướt như bay trên tấm ván, cố gắng khắc họa lại hình ảnh vừa cảm nhận được thành hình vẽ. Chàng xóa đi rồi vẽ lại, ấn những cục than thật mạnh, nôn nóng bẻ chúng ra rồi vội vàng chụp lấy cục khác. Thực ra Kjaahol-Bolai được vẽ hoàn toàn khác những bức họa mà các thợ cả của chàng đã vẽ. Chiếc đầu quay nghiêng, do đó thể hiện được thần đang nhe răng bất bình và giận dữ, cánh mũi run lên vì tức giận. Thân của thần không thấy rõ, Tug-Anseng chỉ vẽ cánh tay phải đeo chiếc vòng áp sát vào ngực… Từ chiếc đầu xuất hiện thân cây ngô mập – biểu tượng bình thường của thần đồng. Lập tức trong ý thức của chàng hình thành bố cục ở mặt trái: cần thể hiện cuộc chiến đấu giữa hai thế lực – những thần thiện trợ lý của Đức mẹ vĩ đại của các thần và đối thủ của họ – những đày tớ của Thần Tâm đất đáng sợ. Họ cầm giáo, cuồng nộ chiến đấu. Nhưng đoạn kết của cuộc chiến đã được thấy trước: mặc tất cả, Kjaahol-Bolai xuất hiện và mang nhiều thức ăn đến cho mọi người… Từ giờ phút đó, chàng thợ điêu khắc trẻ không để ý gì hết ngoài công việc. Sự say mê sáng tạo đã chiếm hết tâm trí chàng. Tug Anseng ăn như máy, người mệt mỏi, ngủ chỉ vài giờ, tay luôn nắm chặt chiếc rìu. Hình vẽ từ mặt gỗ đã được chuyển lên mặt đá nhờ nhựa cây trộn với màu đỏ. Chàng sử dụng dao khắc, khoan bằng ống tre thay cho mũi khoan, đánh bóng bằng đá nhám mềm và lông mịn của hưu con mới sinh. Chàng quên tất cả, kể cả tính ngày tháng… Tác phẩm đã làm xong. Tug-Anseng xem lướt qua nó và gói chiếc rìu vào miếng vải, đặt báu vật cạnh mấy chiếc bát rỗng trên ngưỡng cửa nhà. Một cảm giác lãnh đạm kỳ lạ và sự trống trải xâm chiếm lòng chàng trai. Giờ đây chàng thấy rõ những thiếu sót trong tác phẩm của mình, nhưng không thể chạm vào nó dù chỉ thêm một lần. Nhà điêu khắc trẻ khoan khoái tắm trong dòng suối nhỏ cạnh lều và nằm ngủ. Lần đầu tiên, sau khi nhận việc, chàng ngủ say và bình thản. Người phục vụ, thường đem đồ ăn cho Tug-Anseng vào ban đêm, làm Ah-Shacan ngạc nhiên không ít khi đặt trước mặt ông chiếc túi đựng rìu. Thời gian mới hết 20 ngày, công việc không thể nào xong được. “Nghĩa là, – ông trưởng quản điêu khắc suy luận và mặt ông nhăn lại, – chàng trai không gánh vác nổi nhiệm vụ và trả lại đồ, từ chối tất cả mọi kỳ vọng. Không phải ngẫu nhiên mà ta lập tức không thích Tug-Anseng…”. Bỗng nhiên mồ hôi lạnh xuất hiện trên trán Ah-Shacan. Chàng trai có làm bể chiếc rìu không? Khi khoan và khắc mạnh thì điều này có thể xảy ra lắm… Ông biết ăn nói thế nào với thầy Thượng tế? Thầy trưởng quản điêu khắc rủa thầm Tug-Anseng và cả Ah Shooch vì đã thuyết phục ông giao một công việc quan trọng như thế này cho một đứa học trò mặc dù là có khả năng. Không! không bao giờ ông liều như vậy nữa! “Thật ra, – Ah-Shacan nhớ lại, – Chính thầy Thượng tế trước đây đã đề nghị nhận đứa bé này vào học nghề. Tức là Anaib-Ungir phải chịu trách nhiệm cao nhất”. Ý nghĩ này hơi an ủi thầy trưởng quản điêu khắc. Dù sao thì cũng còn khối việc phải lo! Ah-Shacan ngồi rất lâu, không đụng đến chiếc rìu nằm trước mặt ông. Cuối cùng ông cũng phải mở túi ra. Vừa nhìn vào chiếc rìu, Ah-Shacan sững sờ cả người. Đứa học trò này, đứa bé này là một nghệ nhân tuyệt vời! Nó đã vượt qua thử thách, và vượt qua một cách xuất sắc! Với nét mặt vui vẻ, Ah-Shacan ra lệnh cho người hầu gọi Ah Shooch đến. Ông đậy vật báu lại và tưởng tượng những điều thú vị mà thầy Thượng tế dành cho ông vì tác phẩm tráng lệ và vì nó được làm xong quá nhanh chóng này. Ah-Shooch lập tức xuất hiện. Vẻ mặt ông cho thấy là ông không chờ đợi một sự tốt đẹp nào trong lần triệu tập bất thường này. Ah Shacan vui thích được lặp lại cùng AhShooch cái cảm giác mà ông vừa trải qua. Trước hết ông thông báo cho thầy của Tug-Anseng biết là chàng trai đã trả lưỡi rìu lại. Trả lời câu hỏi: “Rìu còn nguyên vẹn chứ?” – ông trưởng quản điêu khắc thỏa mãn nhận xét là rìu hoàn toàn nguyên vẹn. Ông làm như chưa xem tác phẩm mà còn chờ Ah-Shooch. Được phép của Ah-Shacan, với những ngón tay run run, Ah-Shooch mở gói ra. Nỗi lo lắng trên mặt ông được thay bằng sự thích thú sống động, sự ngạc nhiên và sau đó – sự hài lòng sâu sắc. Cả hai nhà điêu khắc xem kỹ chiếc rìu nằm trên đất. Cuối cùng Ah-Shooch cầm chiếc rìu lên và cẩn thận xem tất cả các mặt. – Tôi cảm thấy rằng nó đã qua được cuộc thử thách, – AhShooch nói với giọng tự nhiên đầy kiềm chế, – rõ ràng thời hạn làm việc một tuần trăng là phù hợp… Giờ đây Ah-Shacan không thể giấu được tình cảm của mình. Vẻ nghiêm túc và long trọng từ trong người ông thể hiện ra. Trước mặt Ah-Shooch xuất hiện một nghệ nhân tài năng và là người đánh giá cái đẹp một cách tinh tế. – Chỉ vượt qua thôi ư? – Ông hỏi lại giọng tức tối.- AhShooch, hãy công nhận đi, ông là một nghệ nhân đầy kinh nghiệm, nhưng ông không thể làm tốt hơn được! Còn tôi – trưởng quản điêu khắc hạ giọng xuống một cách không tự nhiên, – có lẽ còn tệ hơn. Ông xem đây, trí tưởng tượng của nó như thế nào, bố cục kỳ lạ, mạnh dạn, tất cả được thể hiện bằng những đường nét tự tin. Và đừng quên là nhiệm vụ được thực hiện chưa đầy một nửa thời hạn! TugAnseng giờ đây là một thợ cả xuất sắc, còn sau này – theo tôi – nó sẽ vượt xa chúng ta. Các vị thần đã hào phóng, rất hào phóng phú cho nó… – Chứ sao nữa, – Ah-Shooch đồng ý, – có lẽ ông đúng. Chàng trai này có năng khiếu làm những đồ vật lớn. Làm đá nefrit không phải là công việc của nó. Nhưng dù sao thì nó cũng xứng đáng một cách xuất sắc. Tôi đề nghị ông bàn với nó về công việc và khi nào có điều kiện thì giao cho nó tác phẩm lớn. – Được! – Ông trưởng quản điêu khắc trả lời ngắn gọn. – Còn ngày mai chúng ta họp các trưởng lão để họ xác nhận lại ý kiến của chúng ta. Sáng hôm sau Tug-Anseng được đánh thức bằng một cái vỗ âu yếm vào vai. Từ khi tin chắc là chiếc rìu đã được chấp nhận, chàng trai trở nên bình thản và có phần vui vẻ hơn. Có thể do chàng thoát khỏi những trăn trở về sáng tạo và căng thẳng của những ngày qua. Chàng không muốn suy nghĩ xem tác phẩm của mình được đánh giá như thế nào và điều gì sẽ đợi chàng trong tương lai. – Thầy! – Tug-Anseng bối rối thốt lên, chàng nhanh chóng nhổm dậy. – Con không ngờ… là thầy! – Không còn là thầy nữa mà là bạn đồng nghiệp lớn tuổi, – Ah Shooch nghiêm túc nói. – Chào con – thợ cả điêu khắc, người tạc tượng trẻ nhất thành Nivannaa-Tracbolai! Ông ôm chặt chàng trai đang luống cuống, nói tiếp: – Hãy bình tĩnh lại và chúng ta đến hội đồng trưởng lão. Con đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, ta hãnh diện vì con! Ta tin chắc rằng, hôm nay mọi người sẽ thống nhất phong danh hiệu này cho con. Con đã chứng minh rằng con xứng đáng! Hai ngày nữa ta muốn cho con xem một thứ gì đó và sẽ bàn bạc nghiêm túc. Còn lúc này con nghỉ ngơi đi, tránh việc làm và tránh cả vinh dự của ngày hôm nay. Đừng quên là con sẽ gặp ta sau hai ngày nữa ở nhà của ta. Còn giờ thì chuẩn bị đi! Hội nghị nghệ nhân đã đánh giá cao tác phẩm của TugAnseng, mọi người thống nhất phong danh hiệu thợ cả cho chàng. Chàng trai nghe nhiều lời chúc tụng. Tiếp theo là buổi lễ dài đầy hồi hộp, phong danh hiệu thợ cả cho học sinh. Sau cùng là bữa tiệc ở nhà của Ah-Shacan. Chiều tối Tug-Anseng mới về được đến nhà mẹ chàng. Sau một ngày dài lo lắng, giờ đây người mẹ và đứa em trai lắng nghe câu chuyện của chàng trai với trái tim thực sự vui sướng. Khác với lệ thường, họ ngồi đến quá nửa đêm, cả ba đều cảm thấy hạnh phúc phi thường. Chương IV HỘI ĐỒNG TƯ TẾ Sao-Lorenso. Mexico. Và lúc đó tất cả các đức ông đến hội đồng… • “Popole-Vuh” Ngày hôm sau Anaib-Ungir triệu tập hội đồng Tư tế của thành Nivannaa-Tracbolai vĩ đại. Oai vệ và trịnh trọng, họ bước vào ngôi đền thờ lớn. Như lệ thường, Mishpitiacuc xuất hiện đầu tiên. Ông mập ra trong mười năm qua, ông có dáng vẻ rất đường bệ, nhưng trước Anaib-Ungir ông vẫn xum xoe như xưa. Tiếp theo là tu sĩ Ah-Mash, vừa đi ông vừa lẩm bẩm điều gì đó trong miệng, và cũng như mọi khi, ông chìm ngập trong những phép tính lịch của mình. Niang-Hinah, đại Tư tế của thần Ishim trẻ, trang trọng lăn thân thể phục phịch vào. Người ông tỏa sáng: ngày lễ tế thần chính của ông đang đến gần. Cao và gầy, Tumeh-Sahing – thầy Tư tế của vị thần khủng khiếp xứ âm phủ và động đất – luôn xuất hiện một cách lặng lẽ, hình như ông bước ra từ không khí. Ngay cả các thầy Tư tế cũng tránh ông và luôn giữ thái độ kính trọng ông. Bị vây giữa đám học trò, Beleng-Hish ồn ào bước vào phòng, ông là người trẻ và nổi bật nhất trong số những người tụ họp nơi đây. Anaib-Ungir đón Beleng-Hish một cách lịch sự và tế nhị, nhưng sau đó thấy rõ là họ không quí mến gì nhau – điều vẫn thường xảy ra giữa các địch thủ. Nữ Thượng tế của đền thờ Đức mẹ các vị thần TecaimaPoia – Ish- Can-Leosh – chậm chạp bước vào, và có vẻ miễn cưỡng: rõ là những câu chuyện ồn ào không làm bà vừa lòng. Beleng-Hish lập tức bước về phía bà. Họ lánh vào một góc xa nhất cách Anaib Ungir và thì thầm trò chuyện. Những đệ tử và bề tôi của thần Mặt trời kính cẩn đứng ra xa, tạo thành bức màn sống ngăn cách những người đang trò chuyện với thầy Thượng tế. Người xuất hiện cuối cùng trong phòng là chủ nhân của thành Nivannaa-Tracbolai, một người trung niên có khuôn mặt gầy và lo âu. Vết xăm phức tạp phủ kín hai má ngài. Đáp lại những lời chào tôn kính của mọi người, ngài bước đến chỗ Anaib-Ungir. Sau vài lời chào hỏi, ngài ngồi lên chiếc ghế duy nhất trong phòng. Chủ nhân của vương quốc mặc chiếc áo choàng trắng giản dị, không hề có một món trang sức nào. Không một quan đại thần nào theo hầu ngài: do tính chất tối quan trọng, trong buổi mạn đàm hôm nay chỉ những tu sĩ bậc cao mới được có mặt. Khi những người được mời đã đến đủ, Anaib-Ungir bắt đầu phát biểu bằng giọng nhỏ nhẹ: – Chúng ta họp mặt ở đây để quyết định vài việc rất quan trọng, – ông nói. – Thời hạn chọn Lem-Hoolom thường kỳ đã đến. Vụ xuống hạt thuận lợi sẽ đến sau ba năm nữa, kể từ hôm nay, nhưng phải lo tìm tảng đá và người xứng đáng. Cuộc thi đấu thiêng sẽ được tổ chức sau hai năm nữa. Tôi tính không sai chứ, Ah-Mash thông thái? – ông quay về phía thầy quản lịch. – Không sai! – Thầy quản lịch lơ đãng trả lời, mắt không rời khỏi tập bản thảo trên tay. – Cảm ơn ông! Như vậy, thời hạn đã rõ. Như mọi lần, lễ xuống hạt sẽ được tiến hành ở cánh đồng thiêng. Ông trưởng quản điêu khắc Ah-Shacan đã giao cho chúng ta chiếc rìu mới do một học sinh vừa hoàn thành. Nếu hội đồng tán thành thì có thể bắt tay vào lễ tế. Nó ở trong tay ông phải không Mishpitiacuc? Hãy cho những tín đồ sùng kính xem đi! Mishpitiacuc vâng lệnh thầy Thượng tế. Chiếc rìu được chuyển từ tay người này qua tay người khác, cùng với tiếng ồn ào khen ngợi. – Đá nefrit tráng lệ, màu của nó rất phù hợp cho công việc thiêng liêng! – Niang-Hinah mừng rỡ thốt lên. – AnaibUngir thông thái, ngài tìm được nó ở đâu vậy? – Cục đá này được bảo quản trong kho của chúng ta đã lâu rồi, – thầy Thượng tế trả lời, – nhưng nó bị coi là tồi, lớp ngoài mờ đục. Tôi giao nó cho một thợ đá khéo tay và ông ấy phát hiện rằng tâm đá hoàn toàn tinh khiết. Vẫn chưa muốn chuyển chiếc rìu cho người bên cạnh, Niang Hinah trầm ngâm cân nó trên tay. – Nó nặng, phù hợp cho nghi lễ vĩ đại, hình vẽ thật tuyệt! – Cuối cùng ông tuyên bố. – Tôi cho rằng, chúng ta có thể nhận và làm phép cho nó! Ý kiến của thầy Tư tế của thần Ngô trẻ được những người khác chấp nhận, không ai phản đối. Chỉ có TumehSahing chớp mắt giận dữ và mím chặt đôi môi mỏng, nhưng không thốt ra lời nào. Bắt đầu làm phép. Một chiếc bát lớn chứa đầy nước thánh được đem lại, các lư hương được đốt lên. Trong âm vang của bài thánh ca mà tất cả đều hát, Anaib-Ungir lầm rầm khấn vái, ba lần nhúng rìu vào bát, sau đó đưa qua khói lư hương. Đến lượt Tumeh-Sahing, ông cũng làm như vậy. TumehSahing đọc lời khấn một cách nhiệt tình và lưu loát. Thánh ca kết thúc. Tất cả im lặng và hồi hộp theo dõi những người tế lễ. Một sai sót nhỏ trong nghi lễ sẽ làm cho vật báu trở nên vô ích. Lúc đó chiếc rìu này chỉ còn dùng để chặt cây… Niang-Hinah thực hiện ba lần cuối cùng, nhưng chỉ khấn thầm. Cuối cùng chiếc rìu được đặt trên một miếng vải rộng màu lục và đem đến cho quốc vương, ngài dùng tay phải chạm vào rìu. Lễ thánh kết thúc. Thầy Thượng tế chuyển vật báu cho Niang-Hinah, ông sẽ bảo quản chiếc rìu trong đền của mình cho đến thời điểm cần đến. – Ai sẽ được chọn? – Beleng-Hish bỗng nhiên hỏi, giọng ông chứa đựng sự mỉa mai kín đáo. – Ông luôn quan tâm đến điều này, đúng không, thưa Anaib-Ungir? Trước sự ngạc nhiên của mọi người, ngài Thượng tế trả lời ngắn gọn và bình thản là không cần lo lắng đến việc này, các thầy Tư tế của thần Ishim sẽ tiến hành tìm kiếm theo qui định. Niang-Hinah rạng rỡ vì thỏa mãn, Mishpitiacuc mặc dù đã biết điều gì đó nhiều hơn, nhưng nét mặt ông không hề động đậy khi Anaib-Ungir bất ngờ tuyên bố. Chỉ có Beleng-Hish là không hài lòng vì câu trả lời dè dặt của thầy Thượng tế. Hình như Beleng-Hish tìm cách gây chuyện. Nhưng lần này ông im lặng. Bất ngờ Ish-Can-Leosh ủng hộ thầy Tư tế của thần Mặt trời. Thực ra về bên ngoài, lời của bà không có gì chung với lời của Beleng-Hish. – Những tục lệ cũ đang bị lãng quên! – Bà tức tối tuyên bố. – Tại sao ngài Anaib-Ungir không nghĩ và không quan tâm đến Lem-Hoolom mới? Ông – Thượng tế, và nếu NiangHinah không làm việc này, thì ông, chính ông cần bắt thầy Tư tế chểnh mảng phải thực hiện nhiệm vụ của mình. Tôi không nói là Đại Đức mẹ của các thần đã bị lãng quên từ lâu. Cống vật mang đến đền thờ của bà ngày càng ít đi. Tín ngưỡng trong nhân dân đã bị mất. Bảy năm nay người ta không dâng vật tế lớn cho vị thần Bốn mặt. Ông là thầy Thượng tế, chẳng lẽ ông không tìm được một cô gái đẹp cho nữ thần? Ba tháng nữa là ngày lễ Mùa thu của TecaimaPoia. Đừng chậm trễ. Ông Anaib-Ungir, hãy nghĩ đến điều đó đi! Lời nói của bà Tư tế được Beleng-Hish đỡ liền, ông tuyên bố rằng những thiếu sót như vậy là không thể được. Trong lời phát biểu nhẹ nhàng và hoa mỹ, ông nhắc khéo hội đồng có thể bầu một tu sĩ cao cấp khác nếu Anaib-Ungir không đủ năng lực làm việc. Các thầy Tư tế bối rối nhìn nhau. Sự tấn công công khai của Beleng-Hish và Ish-Can-Leosh vào ngài Thượng tế làm họ lo lắng: nghĩa là phải có quyết định nghiêm túc. Ngoài ra trước khi phát biểu, cần biết rõ là Thánh sống – đức vua thành Nivannaa Tracbolai đứng về phía nào. Nhưng hiện giờ ngài chỉ nghe và im lặng. Anaib-Ungir phá vỡ sự im lặng nặng nề. Bằng giọng nói bình tĩnh, nhẹ nhàng, y như nói với đứa trẻ nhũng nhiễu, thầy Thượng tế tuyên bố: – Ish-Can-Leosh thông thái hoàn toàn đúng! Lẽ nào chúng ta có thể quên Đại Đức mẹ của các thần trước ngày lễ của con trai yêu quí của người! Tất nhiên vật tế sẽ được mang đến. Nhưng không cần tìm kiếm. Ô, hỡi những người thông thái nhất, kẻ bề tôi của các người đã lo điều này, nhưng chưa nói ra là vì cho rằng, điều này được thông báo vào cuối buổi họp sẽ hợp lý hơn. Nhưng ý nguyện của bà Tư tế của thần Bốn mặt là mệnh lệnh đối với tôi. Nếu bà muốn biết tên của vật tế được chọn thì bà sẽ được nghe. Nghệ nhân điêu khắc Ah-Shooch đáng kính và nhân hậu có người con gái tên Nam-Suc, đây là cô gái đẹp và đức hạnh. Nàng xứng đáng làm vật tế cho nữ thần vào lễ hội mùa thu. Anaib-Ungir không nhắc đến lời nói của Beleng-Hish. Luống cuống vì yêu cầu của mình được mau chóng thực hiện, Ish-Can Leosh nhìn thăm dò thầy Tư tế đền thờ thần Mặt trời. Beleng Hish thấy đa số người dự không ủng hộ mình nên im luôn. Bỗng giọng của Tumeh-Sahing bất ngờ vang lên: – Có ai nghĩ đến vật tế cho Thần Tâm đất – chủ nhân của tôi hay không? – Giọng ông cay đắng, bực bội. – Hay tự thần sẽ kiếm vật tế cho mình? – Những lời nói này làm mọi người giật mình, họ biết rõ những lễ nghi khủng khiếp của vị thần này và cả tính tàn nhẫn của Tumeh-Sahing. Trong lòng mọi người, kể cả Beleng-Hish, đều thấy mừng vì họ không phải là Thượng tế, và trả lời câu hỏi này là Anaib-Ungir. Nhưng Anaib-Ungir tỏ ra xứng đáng với chức sắc cao của mình. Không vội vã, Anaib-Ungir bình tĩnh trả lời: – Lễ nghi đặc biệt cần có vật tế đặc biệt. Ô, TumehSahing! Cần sao cho vật tế xứng đáng với vị thần của ông. Ở đây không có chàng trai nào xứng đáng cả, chúng ta sẽ cầu xin Thần Tâm đất chờ đợi vật tế của mình. Giờ đây tôi muốn hỏi ông một điều. Thưa các vị thông thái, – ông nói với mọi người, – các vị có biết là trong làng Tahcum-Tracang, ngay cạnh kinh thành, có một nông dân trẻ hầu như ngày nào cũng làm điều tội lỗi không? Tiếng bàn tán ngạc nhiên vang lên khắp phòng. Tất cả đều quay lại. Có lẽ ngày tận thế đã đến gần nếu có những kẻ vô đạo đến vậy. Không nghe! – Y đánh vợ và say trên đường! – Mishpitiacuc nói thêm. – Khủng khiếp quá, khủng khiếp quá! – Tiếng la lối phản đối của các thầy Tư tế vang lên. – Các ông nghĩ xem, điều này có thể dẫn đến cái gì? – Trừng phạt! Trừng phạt! – Phải trừng phạt y một cách xứng đáng ngay lập tức. Tumeh-Sahing nóng nảy nói. – Đó là điều tôi muốn hỏi ông, vị tu sĩ thông thái của Thần Tâm đất. – Anaib-Ungir nói. – Ông sẽ giáo dục kẻ vô đạo chứ? Tumeh-Sahing mừng rỡ đồng ý và hứa sẽ tiến hành buổi lễ trong những ngày tới. Ông rất hài lòng. Một lần nữa mọi người lại khâm phục sự sáng suốt của thầy Thượng tế. Hội nghị kết thúc, tất cả chuẩn bị chia tay. Bỗng giọng than vãn của thầy quản lịch vang lên: – Ô, Anaib-Ungir, khi nào chúng ta sẽ thảo luận lịch mới mà tôi đã đề nghị? Ah-Mash quay về phía quốc vương: – Thưa ngài! Không thể sống trong những năm tháng thiếu hoàn hảo này. Ngài nghĩ xem, cứ mỗi 104 năm thì sẽ lặp lại… Đức vua hờ hững đưa mắt nhìn thầy Tư tế và không trả lời. Anaib-Ungir vội vàng can thiệp: – Tôi hứa với ông, Ah-Mash thông thái à, lần họp sau chúng ta sẽ bàn cụ thể lịch mới của ông. Đề tài này quá lớn, không thể vội được. Ông viết các cách tính ra… Thầy quản lịch ngoan ngoãn vâng lời ngài Thượng tế. Ông quay lại, lưng còng hơn, bước ra cửa. Nhưng BelengHish đuổi kịp ông. – Ông nghĩ sao, Ah-Mash thông thái, kết hợp vòng thiêng với chu kỳ lớn? – Beleng-Hish hỏi. – Tôi rất quan tâm đến điều này. Ông có thể giải thích ngắn gọn cho tôi hiểu… – Ý tưởng chính của tôi như sau, – thầy Tư tế già mừng rỡ nói. – Bản chất của thời gian không phải vòng tròn, không phải chu kỳ như chúng ta tưởng. Nói cách khác, thời gian không phải vòng tròn khép kín mà là một dải vô cực, kéo dài từ quá khứ đến tương lai vô cùng… – Ý tưởng vô cùng sâu sắc, – Beleng-Hish trang trọng nói, – mặc dù vẻ mặt của ông cho thấy là ông không hiểu gì hết. Thầy quản lịch vui mừng nắm chặt tay thầy Tư tế đền thờ Mặt Trời, vừa đi vừa nhiệt tình giải thích điều gì đó. Đôi bạn kỳ lạ bước ra, Anaib-Ungir nhìn theo không rời mắt. Chương V CUỘC DẠO CHƠI VỚI THẦY Sao-Lorenso. Mexico. Đá tường, những bức tượng câm bằng ngọc bích lặng lẽ trên quảng trường. • R.Obregon Morales. “Sự tĩnh lặng lừng lẫy.” Dè dặt và miễn cưỡng, Tug-Anseng bước đến nhà thầy dạy của mình. Trước kia chàng đã đến đây nhiều lần, nhưng giờ đây, ngượng nghịu với danh hiệu mới và cuộc nói chuyện, chàng cảm thấy rất lúng túng. Nam-Suc, con gái của Ah-Shooch, đón chàng trai ở cạnh nhà, nàng e thẹn chúc mừng thành công của chàng. Đã từ lâu Tug Anseng thích cô gái mảnh mai này. Nàng dũng cảm đảm đang việc nhà khi Ah-Shooch trở thành góa vợ. Những lần trước đến thăm thầy, chàng không bao giờ nói chuyện lâu với nàng. Có lẽ do danh hiệu thợ cả mới được nhận vô tình tác động đến chàng, hoặc do niềm vui sáng rực trong mắt của Nam-Suc thúc đẩy, lần này câu chuyện của đôi nam nữ kéo dài. Tug-Anseng chưa nói chuyện với ai cởi mở như vậy, ngay cả với mẹ và em trai. Chàng kể cho cô gái nghe những ngày đầu thất vọng và thiếu tin tưởng của chàng ở trong rừng, kể về niềm vui và sự rạo rực của linh cảm bất ngờ. Những tiếng thở phào và reo vui thông cảm của Nam-Suc động viên chàng. Họ say mê nói chuyện đến mức, khi giọng nói của Ah Shooch từ trong nhà vọng ra hỏi nàng nói chuyện với ai, họ mới sực nhớ việc phải làm. Chàng trai lúng túng vội chia tay với con gái của thầy và bước vào nhà. Tuy nhiên Ah-Shooch không tỏ ra bực bội. Ông âu yếm chào Tug-Anseng, mời chàng ngồi xuống chiếu. Sau vài lời thăm hỏi bình thường, ông trang trọng và nghiêm túc nói: – Mỗi nghệ nhân không thể không có giới hạn trong sáng tạo của mình, nếu không chàng ta sẽ không đạt được gì hết. Nhà điêu khắc trẻ càng sớm nhận thức được năng khiếu thực tế của mình thì càng tốt, công việc của chàng ta càng đạt được kết quả. Tug Anseng à, trước mắt con là con đường rộng, giờ đây con phải chọn đi hướng nào! Công việc của chúng ta có thể suốt đời phải gọt cắt đá nefrit, obxidian, serpentin, ametis, chansedon và các loại đá tuyệt diệu khác. Từ các loại vật liệu này có thể làm ra tượng các vị thần, công cụ mầu nhiệm của các thầy Tư tế và các loại bùa. Ta đặc biệt say mê công việc này. Lần thử thách vừa qua cho thấy con có khả năng làm công việc này. Nhưng còn có những việc khác… Nhiều nghệ nhân say mê những tác phẩm qui mô lớn: bia tượng, bàn thờ… – Thầy ơi, – Tug-Anseng sốt sắng thốt ra, – từ lâu con đã nghĩ đến điều này! Không phải ngẫu nhiên mà con đã bối rối khi được giao công việc trang trí chiếc rìu… – Từ từ nào, Tug-Anseng. – Ah-Shooch cắt lời chàng.- Đừng vội trả lời. Trước hết hãy xem vài tác phẩm đá nefrit của ta, sau đó chúng ta đi dạo xem các đền. Lúc đó con sẽ trả lời câu hỏi của ta. Được chứ? Cổ họng khô lại vì hồi hộp, chàng trai chỉ biết gật đầu. – Tuyệt lắm! – Ah-Shooch nói. – Chúng ta sẽ làm như vậy. Trước hết hãy xem cái này! Ông lấy ra ba vật nhỏ từ chiếc giỏ để bên cạnh và bày ra trước mặt chàng trai. Tug-Anseng ngắm chúng rất lâu, không dám sờ vào chúng. Cuối cùng chàng cẩn thận cầm một bức tượng nhỏ bằng lòng bàn tay – đó là bức tượng Kjaahol-Bolai. Nét mặt của vị thần đồng không bình thường: không có đặc tính thống nhất và tượng trưng của thần. Ngược lại, tất cả đều nói lên tính cách giản dị của con người trần tục. Một đứa bé chân tay mũm mĩm, đi chưa vững trên mặt đất, đang bước về phía mẹ. Đôi tay nhỏ của nó vươn ra trước, tìm sự bình yên và bảo vệ trong vòng tay tin cậy của người mẹ, những giọt nước mắt lăn xuống từ đôi mắt mở to, miệng hé ra như đang trách móc. Cảm xúc của tâm hồn bé nhỏ, được mô tả hết sức sinh động, làm rung động nhà tạc tượng trẻ. Ngắm bức tượng, Tug-Anseng ngạc nhiên vì tính sáng tạo táo bạo của Ah-Shooch. Thầm so sánh bức tượng với tác phẩm của mình, chàng trai cảm nhận rằng còn lâu chàng mới đạt được sự hoàn hảo nghệ thuật như thế này. Cảm giác này còn tăng lên gấp bội khi Tug-Anseng cẩn thận đặt bức tượng Kjaahol-Bolai qua một bên và cầm lên vật thứ hai – chiếc rìu. Trên rìu khắc vài hình tượng có tính chất tượng trưng: ở đây bắp ngô được cách điệu hóa, nở ra ba bông hoa và chiếc giáo trận, đôi tay bắt chéo và ba mũi đá obxidian nhọn, có cả những biểu tượng khác phức tạp hơn… Việc chạm khắc được thực hiện một cách mỹ mãn. Sự phân bố các dấu hiệu là một sự hoàn hảo. Ah-Shooch quan sát sự phản ứng trên khuôn mặt của học trò. Ông nói nhỏ: – Chiếc rìu này ta được đức vua đặt làm, cầu chúc cho danh ngài sáng mãi! Trên đó mô tả những sự kiện của triều đình. Ta vẫn không hiểu hết những việc ở đây, ý nghĩa của các dấu hiệu này chỉ được hiểu là sự dâng tế. Thầy Thượng tế vẽ những biểu tượng này trên giấy, ta chỉ tập hợp lại và đưa lên đá. Xem càng lâu chiếc rìu của quốc vương, Tug-Anseng càng thấy rõ là chàng được sinh ra không phải để làm thợ điêu khắc đá nefrit. Để an ủi mình, Tug-Anseng cầm vật cuối cùng lên. Đó là chiếc thuyền nhỏ đáy bằng được tạc bằng đá nefrit. Mạn thuyền màu xanh trong suốt vô tình gợi lại dòng nước mà thuyền trôi trên đó; còn những vết trắng nhạt ở hai đầu đá, hình như do nghệ nhân khảm lên, chứ không phải tự nhiên, để phân biệt mũi và lái, được trang trí bằng những nét chạm khắc tinh tế. Những đường nét mô tả gương mặt của bà chúa thủy với những nét khắc góc cạnh đặc trưng trên trán. Mới nhìn, toàn bộ chiếc thuyền có vẻ đơn giản, nhưng thực ra đó là một kiệt tác từ chủ ý đến cách thực hiện. Khi Tug-Anseng vô ý thở hắt ra, đặt chiếc thuyền xuống, Ah Shooch rất hài lòng. Ông nói: – Vật thứ nhất – tượng thần đồng – ta làm cho mình. Nhiều năm ta phải từ chối tất cả để kiếm được tảng đá nefrit lớn và hoàn hảo như thế này. Ta không nhường nó cho ai hết, ngay cả Anaib Ungir đáng kính, có lần ngài vô tình thấy bức tượng và hứa hẹn cho ta phần thưởng lớn không tưởng được. Ta muốn rằng tác phẩm này được giữ lại trong gia đình ngay cả sau khi ta mất, nó sẽ là kỷ niệm của ta. Thật ra, – nói đến đây khuôn mặt của Ah-Shooch tối lại, – ta không biết ai sẽ là chồng của con gái ta. Vì tiền, một số người sẵn sàng làm tất cả… Sau đó, dường như để thay đổi đề tài của câu chuyện đã để lộ mối quan tâm thường xuyên và sâu sắc của mình, Ah-Shooch cầm lấy chiếc rìu và tiếp tục: – Vậy này thì con đã biết. Ta cố giữ nó thêm ít hôm để cho con thấy. Con thuyền do các thầy Tư tế đặt cho điện thờ trên đảo Usokitoc-Peteng, mấy ngày nữa ta sẽ gửi nó đi… Nhà điêu khắc già im lặng nhìn Tug-Anseng như mời chàng nói. Khó nhọc liếm đôi môi khô vì hồi hộp, chàng trai ấp úng: – Thưa thầy, giờ đây con mới hiểu tài năng vĩ đại của thầy và con tự thấy bất tài như thế nào. Không bao giờ con có thể đạt được đến đỉnh cao này, dù cố gắng mấy đi nữa. Con không thể nào hiểu được đá nefrit như thầy! – Đừng vội, Tug-Anseng. Không một ai, kể cả con, có thể nói là sẽ đạt được cái gì vào cuối đời mình. Ta không gọi con đến để xem những tác phẩm của người khác rồi mất tinh thần. Ngược lại, hôm nay con cần lựa chọn con đường thực sự cho mình. Vì vậy, con hãy vững tin. Giờ đây chúng ta đến khu đất thờ. Ở đó con sẽ thấy những tác phẩm nghệ thuật cao thượng thật sự của chúng ta! Ah-Shooch cẩn thận xếp những bức tượng vào giỏ lót bông, đứng lên và ra hiệu mời chàng trai đi theo mình. Nam-Suc quì cạnh bếp lò, nàng đang bận việc. Thấy TugAnseng đi cạnh cha, mặt cô gái đỏ lên. Khi Ah-Shooch nói là sẽ đi, Nam-Suc luống cuống bảo là nàng đã chuẩn bị mời cha và khách ăn bánh ngô mới nướng. – Để lần khác, con. – Ah-Shooch nói, và khi nhìn thấy nỗi thất vọng hiện trên khuôn mặt con gái, ông lại nói: – Cha hy vọng là Tug-Anseng sẽ còn nhiều lần đến thăm chúng ta! Bối rối không kém gì Nam-Suc, chàng trai lúng búng là “cũng hy vọng như vậy”. Tug-Anseng nhìn cô gái đã quay lưng lại và vội vã bước theo thầy. Khu thánh địa, một cánh đồng mênh mông gần những đền thờ chính, nằm trên cao nguyên. Lão nghệ nhân và chàng trai đến chân dốc, họ bắt đầu leo lên. Ah-Shooch thở hổn hển, dừng lại. Ông lấy hơi, nói với Tug-Anseng: – Lao động là điều quan trọng nhất trong cuộc sống của chúng ta. Con nên luôn nhớ: lao động phải liên tục. Hãy làm việc của mình hàng ngày, dù không nhiều, nhưng nhất định phải làm hàng ngày! Ta đã thấy những nghệ nhân tuyệt diệu, nhưng họ ỷ lại tài năng của mình, không làm việc cả tháng trời, sau đó lại muốn thực hiện ý tưởng của mình trong vòng vài ngày. Lúc đó thì sao? Mặc dù nỗ lực hết sức, nhưng tác phẩm của họ luôn thua tượng của những người kém tài năng hơn nhưng luôn miệt mài lao động! Hơn nữa, – ông giậm chân xuống đất, – tấm gương này sẽ nói với con nhiều hơn lời của ta! – Sao ở đây lại có núi? – Tug-Anseng ngạc nhiên. – Nó liên quan gì đến nghệ thuật tạc tượng? – Con không biết lịch sử của bình sơn nguyên này à? Người học trò lắc đầu. – Con nghe đây. Ngày xưa tại nơi đây là đồng lầy mênh mông. Tổ tiên của chúng ta bắt đầu mang đất đến. Hàng ngày mỗi người Olmec đem đến đây hai giỏ đất vào buổi sáng và chiều. Cao nguyên mênh mông xuất hiện. Đó là kết quả của lao động liên tục và kiên trì vô bờ bến! Tug-Anseng nhìn quanh. Chàng không thể tưởng tượng được rằng khối lượng công việc khổng lồ như thế này lại do bàn tay con người làm nên. Chàng luôn cho rằng, cao nguyên là sự sáng tạo của thần Đất hùng mạnh. – Xây dựng ngọn núi này để làm gì hả thầy? – Cuối cùng chàng trai rụt rè hỏi. – Thứ nhất, tổ tiên của chúng ta từ miền núi đến vùng bình nguyên này. Họ muốn thấy trước mắt mình hình ảnh của quê hương xa xăm. Thứ nhì, con còn quá trẻ và trong đời mình con chưa bao giờ thấy đại hồng thủy. Khi thần linh nổi giận, họ trút nước xuống mặt đất của chúng ta. Lúc đó, ngoài ngọn núi này, tất cả đều bị ngập. Chỉ ở đây mới có thể thoát lụt được. Nhưng ta đi thôi, muộn rồi! Sau khoảng mười phút leo dốc, Ah-Shooch và TugAnseng lên đến đỉnh cao nguyên. Mặt trời đã hạ thấp xuống đường chân trời. Vùng thánh địa hoàn toàn trống trải, không có cây lớn, chỉ có lớp cỏ thấp, dày che phủ. Đây đó những bức tượng khổng lồ đứng hoàn toàn mất trật tự. Nắng xiên khoai vẫn còn chiếu sáng cao nguyên. Hai thầy trò bước đến bức tượng đầu tiên – một bàn thờ lớn được đục từ tảng đá bazan khổng lồ. Hốc đá ở mặt trước bàn thờ trông giống miệng con báo đang há ra. Từ cái miệng đó nhô ra một bức tượng hoành tráng. “Người ban tặng cuộc sống và sự tồn tại” y như bước ra từ lòng đất. Ngài ẵm một đứa trẻ đang ngủ yên lành trên đôi tay vươn dài. Gương mặt của thần bình thản và đầy thiện cảm. Khuôn mặt của thần như nói với những người đang bước đến: “Giờ thì các ngươi, con của ta, sẽ sống không phải lo âu. Đây là món quà quí ta tặng cho các ngươi – hạt ngô thần. Khó khăn và nguy hiểm lắm ta mới đoạt được nó từ lòng đất!”. Hai bên bàn thờ chạm nổi hình các thầy Tư tế sùng kính ngắm phép mầu đang được thực hiện trước mắt họ. Hồi hộp lại ngự trị Tug-Anseng. Nghệ nhân tạo nên di tích này đã bỏ ra biết bao công sức vĩ đại! Chàng hiểu rằng nguy hiểm của việc tính toán không đúng. Chàng nhớ lại cảm giác mà mình đã sợ khi cầm chiếc rìu, đã phải chú tâm trên từng nét chạm. Chỉ cần sai một điểm thì toàn bộ tượng đá sẽ hỏng, không thể nào sửa được. Lỗi này rất dễ phạm: chỉ cần vài nhát đục không đúng! Chàng trai nhớ lại, biết bao nhiêu con người phải nỗ lực phi thường để đưa tảng đá từ mỏ đến đây. Mỏ đá nằm cách xa Nivannaa-Tracbolai trên sườn núi lửa đã tắt. Phải đưa đá từ sườn núi xuống sông, đặt lên một chiếc bè chắc chắn. Sau đó kéo đá ngược dòng sông về kinh thành. Không! Không có một mẩu đá nefrit nào có thể so sánh được với giá trị của khối đá này! Bất giác Tug-Anseng thấy lúng túng. Chàng cảm thầy chính công việc chinh phục khối đá khổng lồ bướng bỉnh, buộc nó phải theo ý chí của người sáng tạo, hấp dẫn chàng hơn sự kiều diễm và tỉ mỉ chính xác trong các tác phẩm của AhShooch. So với đá nefrit, mọi cái ở đây đều thô, nhưng đồ sộ và hoành tráng. Ở đây, nghệ nhân chiến đấu với khối đá bất động, nỗ lực chiến thắng nó chứ không sử dụng tính chất biến đổi như nước của đá nefrit. Tug-Anseng đi quanh bàn thờ vài lần, xem xét bức tượng từ nhiều vị trí. Chàng luôn phải kiềm tiếng kêu thán phục bất giác muốn bay ra khỏi miệng của mình. Tác phẩm mới tuyệt làm sao! Và nghệ nhân tài ba biết chừng nào! Ông ta tìm được những cách giải quyết giản dị và hiệu quả tuyệt vời! Giá mà được làm học trò của ông ấy! Ah-Shooch chăm chú theo dõi chàng trai, ông nhỏ nhẹ hỏi chàng có thích bức tượng này không. – Vâng, – nhà tạc tượng trẻ nhiệt tình trả lời. – Con rất thích. Ai đã tạo ra cái bàn thờ này hả thầy? – Tugrutah, ông ấy mất cách đây vài năm. Chúng ta đi tiếp, còn nhiều bức tượng để con khâm phục! Hai thầy trò đi qua một đầm cạn. Vô số cóc đang nhảy trong đầm. Trả lời cho sự ngạc nhiên của Tug-Anseng, lão nghệ nhân nói: – Đây là thức ăn thiêng của các thầy Tư tế. Đó là bí mật! Vật thứ hai mà Ah-Shooch đưa học trò đến xem không gợi cho chàng trai cảm giác đặc biệt nào, mà nếu có, thì chỉ là sự thờ ơ. Đó là bức tượng lớn của quốc vương. Ông ngồi xếp bằng trên đồi cao và lơ đãng nhìn qua đầu họ về phía xa. Hai tay ông buông trên gối, cầm vương trượng ngắn thể hiện quyền lực vô biên của mình. Mặc dù bức tượng đức vua ngồi có tính nghệ thuật cao, đường nét sắc sảo, nhưng bức tượng hoành tráng này không gợi cho Tug-Anseng một rung động nào. Ah-Shooch không hỏi nhà điêu khắc trẻ một lời nào và đưa chàng đi tiếp. Họ đi qua một hồ nước nhỏ, quanh hồ lau sậy mọc um tùm. Chàng trai thấy ba di tích nằm gần như cạnh nhau. Từ trước đến giờ chàng chưa nhìn thấy vật gì như vậy. Ba bức tượng đầu người khổng lồ, đội mũ chơi bóng, đứng trầm mặc trên nền đất đỏ lợt. Ba chiếc đầu thanh niên, hình như những chiếc đầu này là của ba người khổng lồ đang yên nghỉ đâu đó trong lòng đất, họ nhô đầu lên để quan sát. Các chàng trai mỉm cười, nét mặt của họ bình thản, nhân hậu. – Cái gì thế này? – Tug-Anseng bất giác thì thầm, chàng bị sự quyến rũ kỳ lạ của các bức tượng làm say mê, – cái gì thế này hả thầy? Ah-Shooch cũng chìm vào suy tư, ông chậm rãi trả lời: – Trước hết con cần xem chúng đã. Nên biết rằng mỗi bức tượng cách nhau 13 năm. Bức thứ nhất – gần đây nhất – do ông trưởng quản điêu khắc làm cách đây 10 năm. Tất nhiên là về việc thực hiện, chỉ việc thực hiện thôi chứ không phải ý tưởng. Ông ta cũng được các nghệ nhân khác giúp đỡ. Những công trình này thường là phải làm gấp! Tug-Anseng bắt đầu xem xét bức tượng cũ nhất ở bên trái. Chàng nhanh chóng tính ra là nó được làm cách đây 36 năm, trước khi chàng ra đời rất lâu. Đi một vòng quanh tượng, Tug-Anseng nhận thấy là mặt sau của tượng hầu như không được gọt đẽo: mép dưới của chiếc mũ được đánh dấu bằng vài rãnh sâu và những lọn tóc lộ ra ở phía dưới. Nghĩa là tượng đài chỉ để xem từ phía trước. Tai và con ngươi của mắt được tạo theo truyền thống cũ, chúng không làm chàng vừa lòng, bởi vì các thầy của chàng đã dạy chàng theo những thành tựu mới. Về mặt này, chiếc đầu giữa có khá hơn. Nhưng vài đường nét không tự nhiên, kiểu tạo khác thường của chiếc đầu cho thấy tượng đài được làm cách đây hơn 20 năm. Chiếc đầu do Ah-Shacan thực hiện làm chàng kinh ngạc hơn tất cả. Tug-Anseng có cảm giác biết chàng trai này, đã gặp chàng ta trong thành phố. Chiếc mũi bự, ngắn, cánh mũi rộng, cái miệng đầy sức mạnh với đôi môi mím chặt, chiếc cằm cương nghị, cặp chân hình bán nguyệt đều đặn, đôi mắt mở to – tất cả những điều này tạo nên vẻ sinh động, độc đáo. Ngay cả trong các chi tiết trang trí của chiếc mũ cũng nói lên óc thẩm mỹ hoàn hảo và nghiêm khắc của nhà tạc tượng. Tug-Anseng nói với Ah-Shooch: – Con thích nhất chiếc đầu do thầy trưởng quản điêu khắc làm, – chàng thật thà công nhận, – mặc dù hai chiếc đầu kia cũng là tác phẩm của những nghệ nhân xuất sắc. Nhưng thầy ơi! Tại sao tất cả chỉ có một ý tưởng kỳ lạ: chỉ mô tả đầu không có thân, mà lại to lớn khác thường như vậy? – Chẳng lẽ con chưa bao giờ nghe về Lem-Hoolom? Ah-Shooch hỏi lại. – Chưa bao giờ! Nhà điêu khắc già bỗng nhìn quanh, mặc dù chung quanh họ không có ai, ông bắt đầu kể bằng giọng nhỏ lại: – Đây là cánh đồng thiêng. Tất cả tượng đài ở đây đều dâng tế cho các vị thần hoặc cho những hiện thân của họ trên mặt đất. Đồng thiêng có ý nghĩa huyền bí sâu sắc. Những chiếc đầu này cũng vậy. Chúng được thể hiện qua cách các chàng trai đã được nhập hồn thần Ishim – thần lương thực trẻ tuổi linh thiêng. Con người sẽ không tồn tại được nếu thiếu lương thực. Con còn quá trẻ và không nhớ được ngày lễ kỷ niệm vị thần này lần trước, ngày lễ mà mười ba năm mới có một lần. Các thầy Tư tế, vâng theo ý thần, sẽ chọn một chàng trai hoàn hảo dựa theo những dấu hiệu huyền bí mà chỉ họ mới biết. Suốt năm chàng trai sẽ là vị thần Ishim sống. Trong suốt mười hai tháng người ta dựng hình tượng của chàng trai, hình tượng đó có phép mầu đảm bảo cho chúng ta được mùa trong mười ba năm tiếp theo. Đây là ngày lễ long trọng và vĩ đại. Con đợi không lâu đâu, chỉ hai năm nữa thôi, con sẽ thấy tất cả những nghi lễ bằng chính mắt mình, bởi vì giờ đây con đã trưởng thành và là thành viên đủ quyền hạn của cộng đồng. Nhưng vẫn chưa hết. Mười ba năm – đó là một phần tư của vòng thiêng năm mươi hai năm. Khi vòng này kết thúc thì các năm sẽ được tính lại từ đầu. Nếu các thầy Tư tế cho biết là sự chuyển tiếp qua vòng mới được kết thúc thuận lợi (cuối mỗi vòng có thể là ngày tận thế và tất cả mọi sinh vật sẽ chết) thì tất cả sẽ được thay đổi: quần áo, dụng cụ gia đình, các ngôi đền được sơn lại, những hình tượng cũ thể hiện hồn của Ishim sẽ bị phá hủy. Nếu trời đất cho phép, con sẽ sống đến các ngày vĩ đại đó, nó sẽ đến sau 15 năm nữa! Ah-Shooch im bặt, lấy lại hơi vì đã nói dài. Tug-Anseng bị xúc động: nhiều điều quá quan trọng mà chàng không biết… Sớm mất cha là như vậy! – Nhưng tại sao chỉ thể hiện có chiếc đầu của thần? – Cuối cùng chàng hỏi. – Điều này có ẩn ý gì? – Rất quan trọng, – người thầy trả lời. – Cái đầu – đó là tượng trưng, mẫu mực thiêng liêng của thực phẩm quí báu, tất cả mùa màng tương lai sẽ sinh sôi nảy nở từ đó. Còn thân thể là cái không đáng kể, nó chẳng khác gì một cùi ngô chỉ để giữ hạt ngô! – Tại sao lại đội mũ hả thầy? – Chàng trai lại hỏi. – Điều này tự con sẽ hiểu khi chứng kiến cảnh hành lễ! Trên cánh đồng xuất hiện ba thầy Tư tế, họ khiêng những chiếc lư hương đang bốc khói. Nhìn thấy họ, nhà điêu khắc già vội vã nói: – Đi thôi, Tug-Anseng, – ông nói, – mặc dù chúng ta được thầy Thượng tế cho phép đến đây, nhưng dù sao chúng ta cũng không được cản trở công việc của những người phụng sự thần thánh! Con đã lớn đủ để quyết định: việc nào lôi cuốn con hơn, tạc những bức tượng đồ sộ hay những bức tượng nhỏ! Giờ đây ta đợi câu trả lời! – Thầy tha lỗi cho con, – Tug-Anseng trả lời ngay lập tức, – những bức tượng này, – chàng chỉ những chiếc đầu khổng lồ, – đã quyết định số phận của con. Con muốn được tạc bức tượng đồ sộ. Con xin thầy tha lỗi cho con vì quyết định này. Ah-Shooch có thái độ bình thản đối với quyết định của Tug Anseng. Chàng trai vô cùng ngạc nhiên. – Ta đã cảm giác điều này từ lâu, – ông nói, – và đã đề nghị Ah Shacan nhận con làm trợ lý. Con là một học trò tốt. Ta còn mong con sẽ tỏ ra là một thợ cả tốt hơn nữa. Tug-Anseng cảm động cảm ơn Ah-Shooch, nhưng người thầy không quan tâm và bước nhanh xuống dốc. Trên đường về thầy và trò hoàn toàn im lặng. Chỉ trước khi chia tay tại ngã ba đường, Ah-Shooch nói, mắt không nhìn chàng trai: – Con đã là thợ cả, theo tục lệ cổ truyền, đã đến lúc con mang bó củi đến một nhà nào đó. Con đã mang chưa? Tug-Anseng đỏ bừng mặt. Theo phong tục, khi muốn cưới cô gái, chàng trai phải mang bó củi đến nhà cha mẹ vợ tương lai, sau đó cha mẹ hai bên sẽ giải quyết vấn đề này. Nhưng Tug-Anseng không có cha. – Thưa thầy, con vẫn chưa nghĩ đến điều này, – chàng trai trả lời ấp úng. – Này, nếu con vừa lòng ai, ta rất vui được thay cha con trong lễ cưới. – Ah-Shooch hứa. Khi nghe những lời này, trong ý thức của chàng trai bừng sáng lên khuôn mặt đáng yêu của Nam-Suc. TugAnseng run lên. – Con cảm ơn thầy, – chàng vui sướng nói, – con cảm ơn thầy vì tất cả! – Con hãy nhớ rằng, bất cứ người nào trong thành phố chúng ta cũng rất vui sướng được gọi con là rể, – Ah-Shooch âu yếm nói. – Và hãy nhận lời khuyên cuối cùng của ta: hãy lấy vợ nhanh lên. Còn sáng sớm mai con đến nhà thầy AhShacan xin được ông ấy giúp đỡ! Không thèm nghe thêm những lời cảm ơn lúng túng của chàng trai, Ah-Shooch đi về phía nhà mình. Tug-Anseng đứng hồi lâu ở ngã ba đường trong nỗi suy tư sâu lắng. Hồi sinh sau cái nóng ban ngày, cỏ bốc mùi tươi mát. Dơi lên đường ăn đêm, đây đó vọng lại tiếng kêu chít chít. Đường mòn mờ mờ trong ánh rực rỡ của sao đêm. Chàng trai không ngủ suốt đêm. Sáng hôm sau TugAnseng bàn với mẹ và đeo bó củi đến nhà của Ah-Shooch. Những người đi đường thấy bó củi hỏi cưới, họ thông cảm mỉm cười với chàng trai. Đợi cho Nam-Suc ra khỏi nhà, Tug-Anseng trang trọng đặt bó củi cạnh bếp lò. Cô gái reo lên khe khẽ, mặt và cổ nàng ửng đỏ. Lấy tay che mặt, Nam-Suc lao vội vào nhà. Bừng sáng nụ cười hạnh phúc, Tug-Anseng quay ra, đi nhanh đến nhà thầy trưởng quản điêu khắc. Chương VI CUỘC GẶP GỠ Sao-Lorenso. Mexico. Em rơi vào trái tim anh sao lâu quá! • R.Obregon Morales. Những dòng của huyền thoại cổ. Đám cưới của Tug-Anseng và Nam-Suc diễn ra rất vui. Ah Shooch vui mừng nhận lời cầu hôn của chàng điêu khắc trẻ. Không giấu nổi sự phấn khởi, Osh-Tro khóc lên vì vui sướng, bà nhớ lại đám cưới ngày xưa của mình. Khuôn mặt của cô dâu, chú rể ngời sáng. Trong đám cưới của anh trai, lần đầu tiên Shang thấy Tiang – bạn gái của Nam-Suc. Từ ngày đó Shang bắt đầu mơ ước được gặp Tiang, chàng luôn mơ thấy đôi mắt to hoang dã của nàng. Ngày tháng của chàng nông dân Shang cũng như của Tiang, cô gái bị cuộc đời bắt buộc trở thành chủ của ngôi nhà mồ côi, ngập đầy công việc. Thời gian trôi qua, cho đến khi chàng trai tình cờ gặp lại cô gái. Làng Tahcum-Tracang của Tiang và Hoctung của Shang nằm kề nhau. Nhưng giữa chúng là những cánh rừng nhỏ và những cánh đồng đã gieo hạt. Một lần già làng Hoctung cử Shang mang một bình lớn mật ong tươi đến cho thầy Tư tế già Trachil ở làng bên. Tin rằng thầy Tư tế đang đợi, chàng trai miễn cưỡng lên đường. Quá đỗi kinh ngạc, khi đến Tahcum-Tracang và sau khi hỏi thăm đường đến được nhà của Trachil, chàng thấy Tiang đứng cạnh đó. Cô gái trấn tĩnh trước, nàng lập tức nhận ra Shang, nhưng làm như không biết. – Chàng cần gì ở đây? – Đây là nhà của thầy Tư tế, tôi cần gặp ông ta có chút việc! – Vâng, đúng là nhà của thầy Tư tế, nhưng ông ấy đang ở điện thờ. Chàng cần gì? – Đây là bình mật ong mà trưởng làng Hoctung gửi cho thầy Tư tế. – Chàng trai đưa bình cho Tiang. – Để ở đây! – Nàng ra lệnh và nói tiếp bằng giọng nhẹ nhàng. – Có lẽ chàng đã mệt, đường từ Hoctung đến đây không gần. Ngồi nghỉ chút đi! Mừng rỡ, Shang vội vàng ngồi xuống cạnh lối vào. Ý nghĩ phải về sớm thôi thúc chàng, nhưng chàng vẫn chưa kịp làm quen với cô gái mà chàng ưa thích. – Nàng là con gái của thầy Tư tế? – Shang hỏi. Tiang làm như nhận ra chàng trai. – Em gặp chàng ở đâu rồi đó, – cô gái trầm ngâm nói, – nhưng không thể nào nhớ được. – Nàng là bạn của cô dâu trong lễ cưới của anh TugAnseng. – Shang nhắc nàng. – Tôi nhận ra nàng ngay! – Vâng, vâng. Giờ thì em nhớ rồi! – Tug-Anseng rất hạnh phúc! – Shang nói. – Nam-Suc rất hạnh phúc! – Cô gái bác lại. – Bởi vì chị ấy đã yêu anh của chàng từ lâu! – Vậy sao? – Chàng trai chân thành ngạc nhiên. – Ông trời sắp đặt mới đẹp làm sao! – Làm sao mà Tug-Anseng trở thành thợ điêu khắc được? – Các chàng là nông dân mà, chàng ấy cũng phải như chàng chứ? Shang không nhận thấy rằng cô gái vô tình đã để ý đến mình. Chàng lắc đầu và chậm rãi trả lời: – Đây là câu chuyện kỳ lạ! Khi chúng tôi còn nhỏ, TugAnseng lúc nào cũng nặn đồ chơi bằng đất sét. Một lần thầy Thượng tế gặp chúng tôi đang chơi, ngài tiên đoán rằng tương lai rực rỡ đang chờ chúng tôi, rằng Tug-Anseng sẽ trở thành thợ điêu khắc. Cha mẹ chúng tôi rất mừng vì những lời này. Mười năm sau ngài cho thợ cả Ah-Shooch đến nhà tôi, xem những đồ chơi của Tug-Anseng và nhận anh ấy làm học trò. Tug-Anseng trở thành thợ điêu khắc như vậy đó. Giờ đây anh ấy là thợ cả và là con rể của nghệ nhân. Chính thầy trưởng quản điêu khắc Ah-Shacan đã chọn riêng anh ấy. Đây là vinh dự vĩ đại đối với con trai của một người nông dân bình thường. – Còn tương lai của chàng? – Cô gái bỗng nhiên hỏi. Sau đó, hiểu rằng câu hỏi này có thể làm Shang buồn, Tiang hơi bối rối. Chàng trai không nhận ra điều này. Chàng vẫn nhìn Tiang với cặp mắt vui sướng. Shang nói: – Hạnh phúc của anh Tug-Anseng đủ cả cho tôi. Tôi hạnh phúc vì điều này. – Chàng có trái tim nhân hậu, Shang à. Vì vậy, chàng sẽ được yêu mến. – Cô gái tin tưởng đặt tay lên vai Shang. – Cũng như mọi người đều yêu mến Trachil. Ông ấy già nhưng rất tốt. Em giúp ông làm việc nhà, bởi vì ông hoàn toàn cô đơn. Em tên là Tiang và sống ở cạnh đây với ông chú Maash. Shang hiểu câu cuối là dấu hiệu chia tay, chàng đứng dậy, lúng túng nói: – Tôi về… Nhưng tôi… muốn được gặp lại nàng. Có được không? Đôi mắt Tiang bỗng sáng long lanh, chàng trai bất giác hồi hộp. – Chàng chưa gặp được Trachil, vì vậy ngày mai chàng phải đến đây. – Cô gái dịu dàng nói. – Có lẽ thầy Tư tế muốn cảm ơn già làng của chàng. Có thể sáng mai em sẽ ở đây. Em thường đến đây lắm. Thôi, tạm biệt! Nàng quay người lại, lai váy dài của nàng xoay nhanh. Tiang biến vào nhà. Chàng trai không nhớ mình về đến làng như thế nào, chàng luôn thấy cặp mắt long lanh của cô gái, dáng người mảnh mai, mềm mại của nàng. Trong tai của chàng lúc nào cũng vang lên giọng nói trong trẻo của Tiang. Sao Hôm lấp lánh trên đỉnh ngọn cây. Mắt Shang hướng về phía vị thần. “Hỡi vị thần nhân hậu và tráng lệ, hãy cho con phép mầu để cô gái này sẽ là vợ của con! Con xin người, cho con niềm hạnh phúc này! Tất cả những vật tế của con sẽ thuộc về người – hãy để Tiang trở thành vợ của con, chỉ cô ấy chứ đừng là người khác!”. Đốm lửa sao nhấp nháy mọc cao lên trên trời chiều, cú rúc vang lên. Mọi vật đều trở nên hạnh phúc và hứa hẹn kết quả tốt đẹp. Hình như sự ưu ái của nữ thần đã thành hiện thực. Trưởng làng không nghiêm khắc với Shang như chàng vẫn lo. Nghe xong câu chuyện mật ong đã được đưa đến, nhưng vẫn chưa gặp được thầy Tư tế, già làng Hoctung nhắc: “Sáng mai con lại đến đó và phải đợi gặp cho được thầy Tư tế! Nói là mật do ta biếu và gửi lời thăm hỏi của ta đến thầy. Cũng có những người khác biếu quà, cần để Trachil thông thái biết đây là quà của ta!”. Shang không giấu được nỗi vui mừng. Mọi việc đã được xếp đặt mới tuyệt làm sao! Chàng sợ già làng quở trách vì đã ở lâu. Khi trưởng làng đã nổi giận thì khó mà qua được làng bên. Nhưng sự việc đã ngược lại: chính già làng lại cử chàng đi Tahcum-Tracang lần nữa. Đây không phải là do chàng cầu xin ư! Chàng trai biết ơn nhìn ngôi sao Hôm. Hầu như suốt đêm Shang không ngủ. Vừa chợp mắt trong giấc ngủ ngắn, chàng thấy xuất hiện khuôn mặt tươi cười của Tiang. Lạ một điều là trong buổi gặp hôm qua, cô gái không cười lấy một lần. Còn trong giấc mơ thì anh thấy nàng vui vẻ, dịu dàng. Chàng trai vùng dậy, uống nước và thở dài. Chàng lại nằm xuống: đêm dài quá! Chừng nào mới bình minh! Trời rạng sáng. Shang vội vàng rửa mặt, ăn điểm tâm và lập tức lên đường. Sáng nay mặt trời rực rỡ quá! Chim hót líu lo, gió nhẹ ban mai đầy hương thơm tươi mát. Con đường đến TahcumTracang quá ngắn đối với chàng trai lòng tràn ngập niềm vui đang vội vã đến gặp người yêu. Nhưng những bất hạnh và bất ngờ đang ẩn náu phía trước, phía sau và quanh ta! Bước vào nhà của thầy Tư tế, Shang nhìn thấy một ông già khô quắt, nhỏ thó ở cửa. Trachil ngồi trên ghế băng và sưởi nắng. Thấy chàng trai, ông niềm nở chào và hỏi có phải chàng đã đem mật đến hôm qua. Khi Shang nhiệt tình chuyển lời chúc của già làng, Trachil nhờ chàng chuyển lại lời cảm ơn. Nhìn thấy vẻ mặt buồn hiu của vị sứ giả đang chuẩn bị ra về, già Trachil cười: – Bé Tiang đâu, – ông gọi và nhìn vào nhà, – con không ra chào khách của chúng ta sao? Tiang đỏ mặt, bối rối xuất hiện. Ngờ nghệch như Shang cũng hiểu là cô gái đang đợi chàng. Nàng mặc chiếc váy mới, cổ đeo vòng hạt carin thơm phức. Tiang bẽn lẽn chào chàng trai. – Ngồi xuống đi, sứ giả của trưởng làng! – Ông lão tiếp tục. – Giờ đây Tiang sẽ mời chúng ta bánh ngô nóng với mật ong của con. Hãy dằn bụng trước khi về! Shang cảm thấy những chiếc bánh ngô nướng vội của Tiang ngon một cách kỳ lạ. Mật ong đặc, thơm, ăn với bánh thật là tuyệt! Cả ba ăn rất ít. Thầy Tư tế già dẫn dắt câu chuyện là chính. Shang kính cẩn và trả lời ngắn gọn những câu hỏi của ông. Tiang hầu như im lặng, thi thoảng nàng ngước nhìn chàng trai, và mỗi lần như vậy chàng trai thấy nóng bừng cả người. Khi bữa ăn kết thúc và Shang chuẩn bị chia tay, Trachil giữ chàng lại, ông giao cho chàng một chiếc lọ đất nhỏ. – Con đưa chiếc lọ của ta cho già làng. – Ông nói. – Nói với già làng hãy xoa chân bằng loại dầu này vào ban đêm, lúc đó chỗ xương gãy sẽ không đau. Shang cẩn thận cất lọ dầu vào khố, cảm ơn ông già và quay đi. Chàng nghe tiếng Trachil: – Tiang à, hôm nay con quên đem nước cho ta. Con đi lấy nước đi! Cùng đường với vị khách của chúng ta, chàng sẽ giúp con. Trống ngực đập thình thình, Shang cúi chào ông lão tốt bụng lần nữa và im lặng sánh đôi cùng cô gái. Khi đến suối, họ bắt đầu trò chuyện. Ôi, những buổi trò chuyện triền miên bên suối! Cả ngàn đời mọi người tình đều cảm ơn tiếng róc rách của suối, vì đã hứa hẹn những buổi gặp mãn nguyện. Ngày hôm ấy Trachil phải đợi nước khá lâu… Nhiều lần chàng trai tiễn cô gái gần như đến tận nhà thầy Tư tế, nhưng nước cứ như trêu người, đến phút chót lại bị đổ chỉ còn nửa bình, không thể đem về cho thầy Tư tế được. Rốt cuộc, khi cặp uyên ương thống nhất là cách nhật, vào buổi chiều họ sẽ gặp nhau bên suối, lúc đó bình nước mới được đưa vào nhà. Đặt bình nước xuống, Tiang ôm cổ già Trachil và áp nhanh má đầy đặn của mình vào khuôn mặt nhăn nheo của ông. – Ông tốt quá và hiểu thấu lòng con! – Nàng sôi nổi nói thầm. – Có thể, – thầy Tư tế già trả lời với nỗi đau xót bất ngờ, – nhưng lòng tốt sẽ chết cùng con người, không còn lại gì hết. – Vẫn còn sự tưởng nhớ đến lòng tốt. – Cô gái suy tư trả lời. – Theo con, đó là điều tốt nhất có thể còn lại của con người… Xúc động hiện lên khuôn mặt ông lão, Trachil quay đi và nói nhỏ: – Con phải trở về nhà từ lâu rồi, chú con đi làm sắp về rồi đó! Sau bữa cơm tối, khi ông chú và lũ trẻ đã đi ngủ, Tiang quì rất lâu trước bức tượng nhỏ Đức mẹ của các thần, nàng thầm khấn đến điên cuồng: “Hỡi Đức mẹ toàn năng, hãy cho chàng trai này làm chồng của con, chỉ của con mà thôi! Hãy dành Shang cho con, mãi mãi là của con!”. Gương mặt của Đức mẹ các vị thần, với nụ cười cứng đờ trên môi, rộng lượng nhìn người cầu nguyện. *** Sáng hôm sau già làng Hoctung nhận được chỉ thị chọn hai mươi người để chuyển tảng đá khổng lồ lên khu thờ, tảng đá này đã được đưa đến ranh giới kinh đô trên một chiếc bè lớn. Trong số người đó có Shang. Ba trăm người, được lùa từ các làng lân cận tới, suốt 12 ngày đêm cật lực kéo tảng đá bất trị từ bè lên bờ. Sau đó theo một con đường đặc biệt chuyển tảng đá lên cao nguyên Giữa. Trong khi đưa lên, hai lần đá lăn xuống dưới, sáu người bị chết và gấp đôi số người đó bị tàn tật. Thầy Tư tế Mishpitiacuc chỉ huy toàn bộ công việc. Ông không biết nghỉ ngơi là gì và cũng không cho người khác nghỉ. Khi khối đá đã được đưa lên cao nguyên và đặt gần những chiếc đầu khổng lồ, Anaib-Ungir xuất hiện trên khu thờ, ông im lặng quan sát người làm. Một lần Shang cảm thấy thầy Thượng tế nhìn mình với ánh mắt kỳ lạ. “Không lẽ ông ấy còn nhớ mình?” – Chàng ngạc nhiên nghĩ. Nhưng sau khi suy nghĩ, chàng cho rằng mình nhầm. Đã mười năm, không lẽ thầy Thượng tế nhớ hết từng đứa bé mà ngài đã gặp trên đường! Chương VII TRỪNG PHẠT NACAHON Sao-Lorenso. Mexico. Họ trừng phạt những người này như vậy đó. • “Popole-Vuh” Đá được chở về trong ánh đuốc chiều tối. Cùng với mọi người Shang lê bước về nhà. Quá căng thẳng vì tiêu hao sức lực và thiếu ngủ thường xuyên, chàng trai mệt mỏi tắm rửa rồi đi nằm. Giấc ngủ nặng nề lập tức nuốt chửng chàng. Giấc ngủ đầy âu lo, chàng luôn thấy Tiang tuột khỏi tay mình, vẻ mặt nàng buồn rầu. Shang cố gắng đuổi theo nàng, nhưng đôi chân bất lực không theo ý chàng, chàng luôn vấp ngã. Giọng oang oang của mõ làng kéo chàng thoát khỏi cơn ác mộng: – Hỡi dân làng Hoctung, hãy đến bãi làng TahcumTracang! Hãy đến Tahcum-Tracang! Đó là mệnh lệnh của chủ nhân chúng ta! Hỡi dân làng Hoctung, hãy nhanh chân đến Tahcum-Tracang! Sáng sớm. Những người vừa tỉnh giấc nhìn ra từ các căn nhà, họ gọi nhau, hỏi xem điều gì đã xảy ra. Nhưng mõ làng đã đi khỏi và không ai hiểu được điều gì. Lửa bếp nổ lách tách đó đây. Những người mẹ và vợ chăm chỉ vội vã nấu ăn trước lúc lên đường. Shang nuốt vội vài miếng bánh ngô và chạy đến TahcumTracang. Dân làng Hoctung cũng chuẩn bị đến đó, chàng nghĩ rằng sẽ gặp được Tiang. Dù đã vội hết sức, nhưng khi đến làng Tahcum-Tracang, Shang thấy bãi đã chật người. Ngoài dân địa phương, ở đây còn có dân các làng khác. Tất cả đều hướng về khoảng trống giữa bãi, họ nói chuyện rì rầm. Từ những câu nghe được, Shang hiểu rằng chẳng ai biết gì cả. Chen lấn trong đám đông, chàng trai đưa mắt tìm Tiang. Shang đã gặp may. Chàng thấy cô gái, nàng đứng cạnh một người đàn ông lớn tuổi, có lẽ là chú của nàng cùng hai đứa bé trai và gái. Cố gắng len lỏi, Shang đến được sau lưng Tiang và chàng cũng nhìn vào bãi trống ở giữa. Giờ đây trước mắt chàng là mớ tóc dày xõa đầy vai của Tiang. Shang rất muốn sờ vào những lọn tóc đó, nhưng lý trí giữ chàng lại. Ông chú nói nhỏ điều gì đó với Tiang, nàng quay đầu về phía ông. Lúc này Shang nhận thấy rằng nàng xanh xao, hốc hác, hai má lõm vào. Sự lo lắng thay vào chỗ của cảm giác vui sướng. Nàng bị bệnh chăng? Mớ tóc tuyệt diệu được chải một cách cẩu thả, chiếc váy cũ… Sao vậy? Nhưng chàng không dám hỏi khi có mặt ông chú. Như cảm nhận được nguyện vọng thầm kín của chàng trai, Maash bắt đầu lấn về phía trước. Ông tách khỏi cháu gái. Tiang và bọn trẻ vẫn đứng chỗ cũ. Shang tranh thủ dịp tốt. – Tiang! – Chàng gọi nhỏ. – Chào nàng! Cô gái không nhúc nhích, hai tai nàng ửng đỏ, có nghĩa là nàng đã nghe thấy lời chàng. Nàng không quay lại và im lặng y như không nghe thấy gì. – Nàng có sao không, Tiang? – Chàng trai thất vọng hỏi, không để ý gì đến những người xung quanh. Bọn trẻ quay lại, bé trai ngạc nhiên nói: – Tiang, người ta nói với chị đó! Chị không nghe sao? Cô gái quay lại và ném cho Shang cái nhìn hờn dỗi. – À, chàng đó à! – Tiang lạnh lùng nói. – Chàng biến đi đâu vậy? Hình như mười ngày trước chính chàng đã muốn đến nơi đây? Tiang tội nghiệp không nhận ra rằng đã để lộ bí mật: nàng buồn nhớ, vắng chàng nàng tính từng ngày! Nhưng Shang hiểu rõ và niềm vui tràn ngập trái tim chàng. – Tôi không có lỗi, Tiang à! – Chàng nhiệt tình nói. – Trưởng làng cử tôi đi tìm tảng đá vĩ đại. Tôi không thể từ chối được, – Shang hạ thấp giọng, – lúc nào tôi cũng nhớ đến Trachil và nàng! Tôi luôn muốn được gặp nàng! – Em lo cho chàng quá, có trời biết em nghĩ gì, – nàng cũng sôi nổi nói, – em nhớ quá… Giọng trầm khàn khàn của những chiếc kèn gỗ nặng nề át những lời cuối của cô gái. Đoàn Tư tế của Thần Tâm đất bước ra bãi trống, đi đầu là Tumeh-Sahing. Trước họ là năm tay kèn và ba tay trống. Dân làng dồn lại, nhường lối cho đám rước. Trong giây phút im lặng, Tiang nói nhỏ với chàng trai: – Chúng ta sẽ nói sau, chàng đừng về nhé! Shang dùng vai đẩy người bên cạnh, lấn lên trước và đứng cạnh Tiang. Các thầy Tư tế xếp hàng thành hình bán nguyệt. Sau họ là những già làng của Tahcum-Tracang, Hoctung, Solohtren và các làng khác. Họ vận lễ phục và người nào cũng cầm chiếc giáo nặng đầu bịt mũi đá obxidian nhọn. Tiếng kèn nổi lên, máu như đông lại. Tiếng trống khô, rõ, nổ tung ra. Âm điệu lo lắng của chúng như bóp nghẹt trái tim, báo trước một điều gì đó khác thường, ghê rợn. Tumeh-Sahing bước ra khỏi đám Tư tế, đứng giữa bãi trống và giơ tay lên. Tiếng trống ngừng bặt. – Hãy nghe đây, hỡi các thần dân của NivannaaTracbolai! – Thầy Tư tế trịnh trọng tuyên bố. – Hãy tuân theo ý nguyện của vị thần vĩ đại! Thần Tâm đất nói bằng miệng của ta và miệng của các ngươi. Trong chúng ta có một kẻ tà giáo, hắn đã vi phạm luật lệ của Tổ tiên. Hắn sẽ bị trừng phạt! Tumeh-Sahing ngừng nói và đưa mắt lướt qua hàng người đứng trước. Ánh mắt nặng nề của ông làm mọi người tái mặt và khòm xuống. Nỗi kinh hoàng như có thể sờ được và đè nặng hai vai. Sau đó bằng giọng nói ngắt quãng, thầy Tư tế ra lệnh: – Đưa tội nhân ra đây! Các già làng giãn ra, hai chiến binh xuất hiện, họ xốc nách một người đàn ông. Đến trước Tumeh-Sahing, họ đẩy tội nhân quì xuống trước mặt thầy Tư tế. Một thầy Tư tế khác tách khỏi đám đông, đến cạnh Tumeh-Sahing. Ông ra lệnh cho người mới đến: – Hãy đọc luật! – “Không ai được uống rượu caetre khi chưa đủ 52 tuổi. – Thầy Tư tế trẻ đọc thuộc lòng bằng giọng oang oang. – Và người già đó chỉ có thể được uống một cốc theo quyết định của thầy Tư tế, nhưng không được say…”. Tumeh-Sahing ngắt lời người đọc: – Nacahon, ngươi bao nhiêu tuổi? – Ba mươi mốt. – Tội nhân trả lời giọng khàn khàn. Thầy Tư tế gật đầu, ra hiệu đọc tiếp. – “Say rượu – đó là cội nguồn và nguyên nhân của mọi tội ác và tử vong. Caetre và say rượu – nguyên nhân của mọi xung đột và chia rẽ, của mọi cơn tức giận và buồn chán ở thành thị lẫn thôn quê. Say rượu như một cơn lốc xoáy, nó phá hủy và xé nát tất cả. Nó như cơn bão nguy hại, chỉ mang đến cái ác. Sau khi say là sự cưỡng bức, ăn cắp, cướp giật, chửi rủa, đánh cãi nhau. Tất cả những điều này là hậu quả của say rượu”. Thầy Tư tế ngừng đọc, hít một hơi dài và tiếp tục: – Nếu con người chìm trong say xỉn, say trên đường, nếu hắn bị phát hiện trên đường lúc đang say, bước chân xiêu vẹo, ca hát ầm ĩ, thì dù đi một mình hay cùng người khác, hắn cũng sẽ bị trừng phạt… – Xin tha tội! – Tội nhân gào khóc. – Xin ông tha tội cho con! Nacahon lê gối đến trước Tumeh-Sahing. Thầy Tư tế ghê tởm bước lùi lại. – Ngươi có thể được thương xót nếu uống rượu trong nhà của ngươi và không có ai biết đến. – Tumeh-Sahing giận dữ thốt lên.- Lúc đó ngươi sẽ được chết yên ổn! Nhưng ngươi lại say trên đường, xúc phạm dân làng bằng những lời chửi rủa đê tiện! Không, ngươi sẽ không được thương xót! Quay về phía các trưởng làng đã bước ra, đứng trước hàng Tư tế, Tumeh-Sahing ra lệnh: – Hãy cho tội nhân được chết! Già làng Tahcum-Tracang đứng gần đó nhất, ông đập giáo lên vai tội nhân. Tiếng xương gãy khô khốc. Già làng lui bước, ông thốt lên: – Vì mọi người của làng Tahcum-Tracang! Tội nhân rú lên. Hết già làng này đến già làng khác đọc tên làng của mình, lần lượt đập giáo nặng lên người nạn nhân. Tiếng rú của Nacahon được thay bằng tiếng rên, sau đó tắt hẳn. Nacahon đã bất động, nhưng hình phạt vẫn tiếp tục. Mọi người đứng nhìn sự việc diễn ra với sự đồng tình khắc nghiệt. Cuộc hành hình không làm ai kinh hãi hoặc sợ sệt, kể cả những người còn trẻ. Không ai né nhìn qua chỗ khác. Đối với mọi người thời đó, say rượu là một trong những tội ác khủng khiếp nhất, và người uống rượu bất hợp pháp biết rõ việc gì sẽ đợi họ. Cuối cùng thầy Tư tế trưởng của Thần Tâm đất đưa tay lên. Những già làng đã mệt mỏi lùi ra sau các Tư tế đang đứng bất động. Tumeh-Sahing tuyên bố: – Tội nhân đã bị trừng phạt! Nhưng hắn bị tước quyền được chôn cất! Vứt xác hắn cho chó rừng ăn! Các vệ binh khiêng xác Nacahon đưa vào thung lũng. Mọi người chậm rãi ra về, tiếng trò chuyện vang lên. Các trưởng làng và các thầy Tư tế, dưới sự chỉ huy của TumehSahing, cũng rời khỏi pháp trường. Tiang quay lại với Shang. – Chàng bận thật à? – Nàng dịu dàng hỏi. – Còn chúng em rất lo cho chàng! – Nàng muốn không, ta sẽ đưa nàng đến chỗ tảng đá? – Chàng trai trả lời. – Tất nhiên, muốn chứ! – Chiều mai ta sẽ đón nàng ở chỗ suối lấy nước, không thể sớm hơn được. Nàng đến được chứ? – Được, em sẽ đợi! Chàng trai vui sướng vội vã theo người làng. Tiang nhìn theo chàng rất lâu. Mắt nàng long lanh những giọt nước mắt hạnh phúc: Cuối cùng người mà nàng yêu cũng đã đến với nàng. Chương VIII ĐÊM TRĂNG Sao-Lorenso. Mexico. Buổi sáng chúng ta quay về thành phố! • R.Obregon Morales. “Những dòng tình yêu.” Lòng đầy hồi hộp và âu yếm, Shang chờ Tiang tại nơi hẹn bên suối. Trời tối từ lâu. Trăng ló ra khỏi các ngọn cây trên bầu trời trong vắt, cao hơn nữa là sao Hôm đang lấp lánh. Làng đã ngủ yên, không một tiếng động, bình yên bao phủ xung quanh. Suối róc rách hiền hòa. Đây là một đêm kỳ diệu – đêm hẹn hò đầu tiên của họ! Ánh trăng lấp lánh trên dòng suối và trên lá đa bóng loáng. Trong rừng đom đóm bay thành những vòng tròn, những đốm sáng đỏ-vàng xanh. Ve kêu râm ran, xa xa chim chích nhại say mê hót. Hoa đêm tỏa mùi thơm ngây ngất. Cô gái lặng lẽ xuất hiện. Nàng cũng hồi hộp chờ đợi cuộc hẹn này. Tóc của Tiang được chải cẩn thận, chảy xuống đôi vai gầy. Những nét vẽ mới in trên da còn rất rõ. Chiếc váy xanh đậm mới, thắt lưng lớn bằng da nai và chuỗi hạt thơm tạo cho nàng bộ lễ phục hấp dẫn. Tiang xuất hiện và bắt đầu nói nhanh để vượt qua sự bối rối và rụt rè, bởi vì đây là cuộc hẹn đầu tiên trong đời nàng! – Nào, chàng cho em xem tảng đá của chàng chứ? Có thật nó bự lắm không?