🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kẻ Tầm Xương - Jeffery Deaver
Ebooks
Nhóm Zalo
“Xương là cốt lõi tối thượng của con người. Nó không thay đổi, không lừa dối, không đầu hàng. Một khi bề ngoài da thịt, những thiếu sót của những chủng tộc hạ đẳng, giới tính yếu ớt, bị đốt cháy hay nấu chín, thì
chúng ta – tất cả chúng ta – còn lại là xương cốt cao quý. Xương cốt không dối trá. Nó là vĩnh cửu.”
Thực tại ở New York
quá hùng mạnh khiến cho quá khứ phải biến mất. JOHN JAY CHAPMAN
MỘT
10:30 PM thứ Sáu
đến 3:30 PM thứ Bảy
Cô chỉ muốn ngủ.
Máy bay hạ cánh chậm hai tiếng và hành khách xếp hàng dài dằng dặc để đợi lấy hành lý. Xe phục vụ đưa đón họ đã về được một tiếng. Còn bây giờ họ đang đợi taxi.
Cô đứng trong hàng người, thân hình mảnh dẻ nghiêng đi dưới sức nặng của chiếc máy tính xách tay. John đang huyên thuyên về lãi suất và những cách thức điều chỉnh hợp đồng, nhưng tất cả những gì cô có thể nghĩ tới là 10:30 thứ Sáu, mình muốn ráo mồ hôi và ăn uống gì đấy.
Nhìn vào dòng chảy vô tận của những chiếc Yellow Cab. Có điều gì đó ở màu sắc và sự giống nhau của những chiếc xe gợi cho cô nhớ tới bọn côn trùng. Cô rùng mình vì cảm giác bò trườn ghê sợ mà cô vẫn nhớ từ hồi còn bé ở trên núi, khi cô và anh trai nhìn thấy một con lửng gan dạ bị giết hay đang cố kháng cự lại tổ kiến lửa đỏ, cô đã nhìn chằm chằm vào một khối chân cẳng và thân thể ẩm ướt, quằn quại.
T.J. Colfax lê chân về phía trước khi chiếc taxi tạt vào lề đường và phanh kít lại.
Người lái xe mở cốp nhưng vẫn ngồi trong xe. Họ phải tự xếp đồ, việc đó làm John khó chịu. Anh đã quen được người khác làm cho mọi thứ. Tammie Jean không quan tâm; đôi khi cô vẫn ngạc nhiên vì thấy mình có thư ký đánh máy và lập hồ sơ giúp. Cô ném vali vào cốp xe, đóng lại và trèo vào trong xe.
John vào sau cô, sập cửa, nhăn bộ mặt béo phị vào cái đầu hói của anh ta, cứ như nỗ lực cho cái túi đựng bộ vét của anh ta vào cốp xe đã làm anh ta kiệt sức.
“Đến Bảy mươi hai Đông trước”, John lầm bầm qua lớp kính chắn.
“Sau đó đến Upper West Side[1]”, T.J. nói thêm. Lớp kính chắn Plexi giữa hàng ghế đầu và hàng ghế sau xước xát đến mức cô gần như không thấy người tài xế.
Chiếc taxi lao bắn khỏi vỉa hè và nhanh chóng chạy trên đường cao tốc hướng về phía Manhattan.
“Xem kìa”, John nói, “kia là lý do tại sao lại đông người đến thế”. Anh chỉ vào một bảng quảng cáo chào mừng các đoàn đại biểu đến dự hội nghị hoà bình của Liên Hiệp Quốc. Sẽ có khoảng mười nghìn khách đến thành phố. T.J. ngước nhìn tấm bảng – những người da đen, da trắng và châu Á, vẫy tay và tươi cười. Tuy vậy vẫn có điều gì đó không ổn trong bức tranh. Tỷ lệ và màu sắc đã bị phai. Các khuôn mặt trông có vẻ nhợt nhạt. T.J. nói thầm: “Bọn ba bị.”
Họ chạy trên con đường cao tốc rộng rãi, trông bóng loáng và có màu vàng không dễ chịu dưới ánh sáng đèn đường. Chạy qua khu Cảng Hải quân cũ, qua những chiếc cầu cảng của Brooklyn.
Cuối cùng John cũng ngừng nói, lôi chiếc Texas Instruments ra và bắt đầu gõ. T.J. dựa lưng vào ghế, nhìn sang vỉa hè bốc khói và những khuôn mặt buồn thảm của những người ngồi trên các bậu cửa đá nâu trông ra đường. Họ hình như đã bị hôn mê trong cái nóng.
Trong xe nóng bức nên T.J. thò tay bấm nút mở cửa sổ. Cô không ngạc nhiên khi thấy cửa kính xe không mở được. Cô vươn qua người John. Cửa sổ bên anh cũng hỏng. Và đó là lúc cô nhận thấy xe không có khoá cửa. Cả tay nắm cửa cũng không có.
Tay cô lần tìm nút tay nắm cửa. Chẳng có gì – cứ như ai đó đã cắt nó đi bằng cưa máy.
“Gì vậy?” John hỏi.
“À, cánh cửa… Ta mở cửa thế nào bây giờ?”
John nhìn từng cánh cửa khi biển hiệu Đường hầm Midtown xuất hiện rồi biến mất.
“Này!” John gõ vào tấm kính chắn. “Ông lỡ mất chỗ rẽ rồi. Chúng ta đang đi đâu thế này?”
“Có lẽ ông ta định qua Queensboro”, T.J. nói. Qua cầu đường sẽ dài hơn nhưng không phải trả phí qua hầm. Cô ngồi dịch lên và gõ nhẫn vào tấm
kính Plexi.
“Ông định qua cầu đấy à?”
Người lái xe lờ đi.
“Này!”
Ngay sau đó họ qua chỗ rẽ Queensboro.
“Chết tiệt”, John hét lên. “Ông định đưa chúng tôi đi đâu? Harlem. Tôi cá là hắn ta định đưa chúng ta đến Harlem.”
T.J. nhìn ra ngoài cửa sổ. Một chiếc xe đang chạy song song với họ và chậm rãi vượt lên. Cô đập thật mạnh vào cửa sổ.
“Cứu!” Cô gào to. “Làm ơn đi…”
Người lái xe liếc cô một lần, rồi lần nữa, vẻ không bằng lòng. Anh ta giảm tốc độ và lùi lại sau họ nhưng chiếc taxi đã đột ngột quặt vào đường nhánh xuống Queens, vòng vào một con phố và chạy dọc theo một khu nhà kho trống trải. Có lẽ họ đã phải chạy với tốc độ hơn sáu mươi dặm[2] một giờ.
“Ông đang làm cái trò gì thế?”
T.J. đập vào tấm kính chắn. “Chạy chậm lại. Chúng ta đang ở đâu?” “Ôi, trời ơi, không”, John thì thầm. “Nhìn kìa.”
Người tài xế đã đeo một chiếc mặt nạ trượt tuyết.
“Ông muốn gì?” T.J. hét lên.
“Tiền à? Chúng tôi sẽ đưa tiền cho ông.”
Nhưng phía trước xe vẫn im lặng.
T.J. mở tung chiếc túi hiệu Targus của cô và lôi chiếc máy tính xách tay màu đen ra. Cô ngả người về phía sau và phang góc máy tính vào cửa sổ. Kính vẫn còn nguyên vẹn mặc dù tiếng đập có vẻ đã làm người tài xế hết hồn. Chiếc taxi đổi hướng và suýt đâm vào bức tường của toà nhà họ vừa chạy qua.
“Tiền? Bao nhiêu? Tôi sẽ đưa cho ông rất nhiều tiền!” John lắp bắp, nước mắt rơi lã chã xuống hai cái má béo phị của anh ta.
T.J phang máy tính vào cửa sổ thêm một lần nữa. Cú phang mạnh đến nỗi màn hình bắn ra nhưng cửa sổ vẫn y nguyên.
Cô thử lại lần nữa, thân máy tính mở tung và rơi khỏi tay cô.
“Mẹ kiếp…”
Cả hai lao mạnh về phía trước khi chiếc xe trượt bánh trên đường và dừng lại trên một ngõ cụt tăm tối, bẩn thỉu.
Người lái xe chui ra khỏi xe, trong tay hắn là một khẩu súng lục nhỏ. “Đừng, xin ông”, cô van xin.
Hắn ta đi ra phía sau xe và cúi người xuống, nhìn qua lớp kính bị trầy xước. Hắn đứng đó khá lâu trong khi cô và John lùi lại phía sau, dựa vào cánh cửa đối diện, thân thể đầm mồ hôi của họ dán vào nhau. Người tài xế khum tay che ánh đèn đường và nhìn họ thật gần.
Bất ngờ có tiếng nổ vang rền trong không trung. T.J. co rúm người. John thét lên một tiếng.
Phía xa, đằng sau người lái xe, bầu trời tràn ngập những chấm lửa xanh đỏ. Lại có thêm những tiếng nổ và tiếng rít. Hắn ta quay lại và nhìn lên trong khi một con nhện khổng lồ màu da cam đang trải mình phía bên trên thành phố.
Pháo hoa, T.J. nhớ lại tờ Thời báo: Món quà của Thị trưởng và Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc cho các đoàn đại biểu, chào mừng họ tới thành phố vĩ đại nhất thế giới.
Người lái xe quay lại chiếc taxi. Hắn ta kéo tay nắm cửa với một tiếng động lớn và từ từ mở cửa.
* * *
Một cuộc gọi nặc danh. Như mọi khi
Như thế thì chẳng có cách gì kiểm tra xem người báo tin có định nói về khu đất hoang nào. Trung tâm gọi đến: “Anh ta nói Ba mươi bảy gần Mười một. Chỉ có thế thôi.”
Những người báo tin thường không biết rõ hướng tới hiện tượng vụ án. Đã toát mồ hôi mặc dù lúc này mới có chín giờ sáng, Amelia Sachs đẩy một bệ cỏ cao. Cô đang tìm theo vạch – cách gọi của những người làm việc
tại hiện trường vụ án – một sơ đồ hình chữ S. Chẳng có gì. Cô nghiêng đầu nói vào cái mic kẹp trên ve bộ đồng phục màu xanh hải quân của cô. “5885. Không tìm thấy gì, thưa Trung tâm. Các anh có yêu cầu gì thêm không?”
Người trực tổng đài nói qua tiếng lẹt xẹt tĩnh điện: “Không cần gì tại đó nữa, 5885. Nhưng có một điều… người báo tin nói anh ta hi vọng nạn nhân đã chết. Nghe rõ.”
“Trung tâm, xin nhắc lại.”
“Người báo tin này nói anh ta hi vọng nạn nhân đã chết. Vì lợi ích của chính nạn nhân. Nghe rõ.”
“Nghe rõ.”
Hy vọng nạn nhân đã chết?
Sachs leo qua một dây xích rũ xuống và tìm một khoảng trống khác. Không có gì.
Cô muốn bỏ cuộc. Gọi đến 10-90, báo cáo vô căn cứ, và quay trở lại với Deuce, khu tuần tra thường xuyên của cô. Đầu gối cô bị đau và cô đang nóng như bị hầm trong cái thời tiết tháng Tám tệ hại này. Cô muốn lẻn vào Ban quản lí Cảng, nói chuyện với các chàng trai và uống một hộp trà đá Arizona. Sau đó, lúc 11:30 – chỉ cách đó một, hai giờ đồng hồ – cô có thể đã dọn dẹp tủ đồ đạc của mình ở Nam Midtown[3] và chuẩn bị đi tập.
Nhưng cô không, không thể thì đúng hơn, bỏ qua cuộc gọi này. Cô tiếp tục đi: dọc theo vỉa hè nóng bức, qua khoảng trống giữa hai khu đất hoang và một khu vườn nhiều cây cối khác.
Ngón tay trỏ rất dài của cô thọc vào chiếc mũ đồng phục đỉnh phẳng, qua những lớp tóc đỏ dày được búi cao trên đầu. Cô gãi mạnh khi chạm đến phía dưới chiếc mũ, rồi gãi thêm một lúc nữa. Mồ hôi chảy dọc trán cô buồn buồn và cô gãi lông mày.
Suy nghĩ: Hai giờ cuối cùng của mình ngoài phố. Mình chịu được. Khi Sachs đi sâu hơn vào bụi cây, cô cảm thấy sự bất ổn đầu tiên trong buổi sáng hôm nay.
Ai đó đang nhìn mình.
Gió nóng thổi xào xạc trên những bụi cây khô, xe hơi và xe tải ầm ĩ qua lại Đường hầm Lincoln. Cô nghĩ tới điều mà một sĩ quan tuần tra thường
làm: thành phố này quá ầm ĩ đến mức ai đó có thể lẻn tới sau mình, trong tầm dao, mà mình không hề hay biết.
Hoặc phóng ra những tia nhìn thép chiếu vào lưng mình… Cô quay lại thật nhanh.
Chẳng có gì ngoài những chiếc lá, những cỗ máy rì rầm và rác rưởi. Trèo lên một đống đá, mặt mũi cau có. Amelia Sachs – ba mươi mốt tuổi – gần được ba mươi mốt, mẹ cô chắc sẽ nói thế – đã bị viêm khớp. Cô được thừa kế chứng bệnh đó từ ông ngoại, cũng rõ ràng như cô đã nhận được thân hình mảnh dẻ từ mẹ, vẻ ngoài xinh đẹp cũng như sự nghiệp từ cha (màu tóc đỏ thì tuỳ theo suy đoán của mọi người). Lại thêm một cơn đau nhói khi cô đi qua một bức rèm được tạo thành từ các bụi cây chết khô cao ngất. Cô may mắn dừng lại khi chỉ cách cái vách sâu ba mươi feet[4] đúng một bước chân.
Phía dưới cô là một cái khe tối tăm – cắt sâu xuống nền đá của West Side. Chạy qua đó là đường sắt Amtrak cho những đoàn tàu đi lên phía bắc. Cô hé mắt, liếc nhìn đáy khe cách không xa nền đường sắt. Cái gì thế?
Một vòng tròn đất mới lật, một nhánh cây nhỏ cắm bên trên? Trông nó giống như…
Ôi! Lạy chúa!
Một cảnh tượng làm cô rùng mình. Cảm thấy cơn buồn nôn dâng lên, châm vào da của cô như một làn sóng lửa. Cô kìm nén được cái phần nhỏ nhoi trong cô, cô muốn quay đi chỗ khác và làm ra vẻ như mình chưa hề trông thấy gì.
Anh ta hi vọng nạn nhân đã chết. Vì chính nạn nhân.
Cô chạy theo chiếc cầu thang sắt dẫn tới vỉa hè xuống phía dưới nền đường. Cô vươn tay và định bám vào tay vịn cầu thang nhưng cô đã kịp dừng lại. Khốn kiếp. Thủ phạm có thể tẩu thoát theo đường này. Nếu chạm vào đó, cô có thể xoá mất dấu tay hắn để lại. Được, ta làm cách khó vậy. Thở thật sâu để nén cơn đau khớp, cô bắt đầu trèo xuống theo mặt đá, cố lùa đôi giày mới của cô – đôi giày được đánh bóng như gương cho ngày đầu tiên nhận nhiệm vụ mới – vào những khe đá nứt. Cô nhảy từ độ cao bốn feet xuống nền đường và chạy tới nấm mồ.
“Ôi, trời…”
Đó không phải là một nhánh cây nhô lên khỏi mặt đất mà là một cánh tay. Thân thể bị chôn đứng và đất được đắp lên tới cánh tay, cổ tay và bàn tay thò ra ngoài. Cô nhìn chằm chằm vào ngón đeo nhẫn; tất cả thịt đã bị bóc sạch và một chiếc nhẫn kim cương của phụ nữ có hình ly cocktail được lồng vào đoạn xương máu me, trần trụi.
Sachs quỳ xuống và bắt đầu đào.
Cô đào bới làm cho đất bắn tung toé, cô nhận thấy những ngón tay chưa bị cắt trông xiên xẹo và kéo dãn ngoài mức có thể uốn cong. Điều đó nói với cô rằng nạn nhân vẫn còn sống khi bị những xẻng đất cuối cùng hất vào mặt.
Và có thể vẫn còn sống.
Sachs giận dữ đào chỗ đất còn tơi, cắt tay vào mảnh chai, máu đen của cô trộn lẫn với màu đất còn đen hơn. Sau đó, cô đào đến tóc và vầng trán phía dưới, vầng trán đã xanh xám lại vì thiếu oxy. Tiếp tục đào cho tới khi cô có thể nhìn thấy hai con mắt mờ đục và cái miệng đã bị vặn xoắn thành vẻ mặt kinh hoàng khi nạn nhân cố gắng trong một vài giây cuối cùng để ngoi lên khỏi đợt thuỷ triều đất đen.
Không phải là một phụ nữ. Dù tay đeo chiếc nhẫn. Đó là một người đàn ông trên năm mươi tuổi, đậm người. Chết khi đất vùi kín anh ta. Lùi lại phía sau, cô không thể rời mắt khỏi cái xác chết và suýt vấp phải đường tàu. Cô không thể nghĩ được điều gì khác trong gần một phút. Ngoài việc nếu bị chết như thế thì sẽ ra sao.
Sau đó: Nào, em yêu. Em đã tự dẫn mình đến hiện trường vụ án và em là sĩ quan đầu tiên có mặt tại hiện trường.
Em biết phải làm gì chứ:
ADAPT
A là Arrest: bắt kẻ tình nghi.
D là Detain: thẩm tra nhân chứng và vật chứng.
A là Assess: đánh giá hiện trường vụ án.
P là….
P là gì nhỉ?
Cô nghiêng đầu nói vào mic. “5885 gọi Trung tâm. Báo cáo tiếp. Tôi gặp 10-29 trên đường tàu hoả ở Đại lộ Ba mươi tám và Mười một. Giết người, nghe rõ. Cần thám tử, CS[5], xe bus, và bác sĩ pháp y. Nghe rõ.” “Đã rõ, 5885. Nghi phạm đã bị bắt chưa, nghe rõ?”
“Không có nghi phạm.”
“Năm-tám-tám-năm, nghe rõ”
Sachs nhìn chằm chằm vào ngón tay, ngón tay bị lóc thịt đến tận xương. Một chiếc nhẫn không phù hợp. Hai con mắt. Và vẻ mặt nhăn nhúm… Ôi, cái vẻ mặt nhăn nhúm kinh dị này. Cơn rùng mình chạy dọc cơ thể cô. Amelia Sachs đã từng bơi với rắn trong những con sông khi đi nghỉ hè và đã từng huênh hoang một cách chân thực rằng, cô không có vẫn đề gì khi chơi bungee-jumping[6] từ cây cầu cao một trăm feet. Nhưng cứ để cô nghĩ về sự giam cầm… nghĩ tới việc bị rơi vào bẫy, hoàn toàn bất động thì cơn hoảng loạn sẽ tóm lấy cô như bị sốc điện. Đó là lí do vì sao Sachs đi nhanh và lái xe như chớp.
Khi ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta…
Cô nghe thấy một tiếng động và ngẩng đầu.
Tiếng ầm ầm, sâu và ngày càng lớn hơn.
Những mẩu giấy vụn bay tung trên đường ray. Những đám bụi bay quanh cô như những con ma giận dữ.
Sau đó là tiếng rền rĩ nhỏ…
Sĩ quan tuần tra Amelia Sachs, chỉ cao một feet chín, thấy mình đang đối diện với một chiếc đầu máy xe lửa nặng ba mươi tấn của Amtrak, một khối sắt đỏ, trắng và xanh đang lao tới với tốc độ mười dặm một giờ. “Dừng lại ngay!” Cô hét lên.
Người kỹ sư lờ cô đi.
Sachs nhảy vào, đứng ngay giữa đường ray, giạng chân, vẫy tay ra hiệu cho anh ta dừng lại. Chiếc đầu máy kêu rít lên rồi dừng lại. Người kĩ sư thò đầu ra ngoài cửa sổ.
“Anh không đi qua đây được”, cô nói với anh ta.
Anh ta hỏi ý cô là gì. Cô nghĩ anh ta trông quá trẻ để có thể lái đoàn tàu lớn như vậy.
“Đây là hiện trường vụ án. Vui lòng tắt động cơ.”
“Thưa quý cô, tôi không hề nhìn thấy hiện trường vụ án nào cả.” Nhưng Sachs không nghe. Cô đang nhìn lên khoảng trống trong chuỗi xích bên phía tây của cây cầu tàu phía trên, gần Đại lộ Mười một. Chỉ có thể có một cách để đưa xác chết đến đây mà không bị phát hiện – đỗ xe ở Đại lộ Mười một và kéo xác qua một con đường hẹp dẫn đến vách đá. Còn trên Đại lộ Ba mươi bảy, chỗ giao lộ, hắn ta có thể bị phát hiện từ hai tá cửa sổ của các căn hộ.
“Đoàn tàu này, thưa ngài. Xin cứ để nó đấy.”
“Tôi không thể để nó ở đây được.”
“Vui lòng tắt động cơ.”
“Chúng tôi không tắt động cơ của những con tàu kiểu này. Lúc nào chúng cũng chạy.”
“Và hãy gọi điện cho điều phối viên. Hay ai đó. Yêu cầu họ dừng cả các đoàn tàu đi về phía nam.”
“Chúng tôi không được làm thế.”
“Ngay bây giờ. Tôi có thể lấy số của chiếc xe đó, được không?” “Chiếc xe?”
“Tôi khuyên anh nên làm ngay”, Sachs quát.
“Cô định làm gì, thưa quý cô? Gắn phiếu phạt tôi chắc?”
Nhưng Amelia Sachs đã lại trèo lên trên bức tường đá, các khớp xương đáng thương của cô kêu cót két, môi cô cảm thấy vị bụi đá vôi, đất sét và mồ hôi của chính mình. Cô chạy về phía con đường cô vừa nhìn thấy từ dưới kia, sau đó quay lại, nghiên cứu Đại lộ Mười một và Trung tâm Javits ở bên kia đường. Gian đại sảnh đầy người – những người đến xem và báo chí. Một biểu ngữ khổng lồ tuyên bố Chào mừng các đại biểu Liên Hiệp Quốc! Nhưng sáng hôm nay, khi con phố vắng người, tên tội phạm có thể dễ dàng tìm thấy một nơi đỗ xe ở đây là kéo cái xác đến đường ray mà không bị phát hiện. Sachs chạy tới Đại lộ Mười một, nghiên cứu đại lộ sáu làn xe đang tắc nghẽn.
Làm thôi!
Cô khó nhọc vượt qua một biển xe hơi, xe tải và chặn làn đường đi lên phía bắc. Mấy người lái xe cố chạy vớt, cô đã phải xé hai phiếu phạt và sau
cùng cô kéo thùng rác ra giữa phố như một chiến lũy để đảm bảo những người dân lương thiện thực hiện nghĩa vụ công dân của họ. Cuối cùng thì Sachs cũng đã nhớ ra quy tắc tiếp theo trong các quy tắc ADAPT của sĩ quan đầu tiên có mặt tại hiện trường vụ án. P là Protect: bảo vệ hiện trường vụ án.
Âm thanh của những chiếc còi xe giận dữ bắt đầu tràn ngập bầu trời buổi sáng mờ sương, sau đó được thay thế bằng những tiếng thét giận dữ hơn của các tài xế. Một lúc sau, cô nghe tiếng còi hụ tham gia ầm ĩ khi những chiếc xe khẩn cấp đầu tiên lao tới.
Bốn mươi phút sau, nơi này tràn ngập cảnh phục và các điều tra viên, có đến vài chục người – đông hơn vụ diễn ra tại Hell’s Kitchen rất nhiều, bất kể là nguyên nhân cái chết có khinh khủng hơn đến mấy. Nhưng Sachs đã học được từ những cảnh sát khác, đây là một vụ nóng, một vụ thu hút báo giới – nạn nhân có thể là một trong những hành khách đến sân bay JFK[7] đêm trước, bắt taxi vào thành phố. Họ có thể không bao giờ về được đến nhà.
“CNN[8] đang theo dõi.” Một người mặc cảnh phục thầm thì. Vì thế Amelia Sachs không ngạc nhiên khi thấy Vince Peretti tóc vàng, giám đốc IRD[9], bộ phận theo dõi đơn vị hiện trường vụ án, trèo qua hàng rào và dừng lại lúc anh ta phủi bộ vét trị giá cả nghìn đô la của mình. Cô ngạc nhiên khi thấy anh nhận ra cô và ra hiệu cho cô, một nụ cười giả tạo xuất hiện trên khuôn mặt sắc nét của anh ta. Cô nhận ra rằng cô sẽ nhận được một cái gật đầu cảm ơn về hành động Cliffhanger[10] vừa rồi. Bảo vệ dấu tay trên cái cầu thang đó, các chàng trai. Có thể sẽ có cả khen ngợi. Trong giờ tuần tra cuối cùng của ngày làm việc cuối cùng ở Đội Tuần tra. Ra đi với ánh hào quang của sự vẻ vang.
Anh ta nhìn cô từ trên xuống dưới. “Sĩ quan tuần tra, cô không phải là lính mới, đúng không? Giả định của tôi đúng chứ?”
“Tôi xin lỗi, thưa ngài?”
“Cô chắc không phải lính mới, tôi giả định thế.”
Cô không phải lính mới, không tuân theo quy tắc, mặc dù cô mới có ba năm phục vụ, khác với hầu hết các sĩ quan tuần tra khác ở độ tuổi cô; họ đã
có chín hay mười năm phục vụ. Sachs bị lỡ mất mấy năm trước khi vào học viện. “Tôi không biết ngài định hỏi gì.”
Anh ta trông bực tức, nụ cười biến mất khỏi khuôn mặt. “Cô là sĩ quan đầu tiên có mặt tại hiện trường, đúng vậy không?”
“Vâng, thưa ngài”
“Vì sao cô lại chặn Đại lộ Mười một? Cô nghĩ gì vậy?”
Cô nhìn dọc theo con phố rộng vẫn đang bị cái thùng rác chiến lũy của cô chặn lại. Cô đã quen với tiếng còi nhưng giờ mới nhận ra là nó rất ồn, dòng xe kéo dài tới vài dặm.
“Thưa ngaì, nhiệm vụ đầu tiên của một sĩ quan là bắt nghi phạm, thẩm vấn mọi nhân chứng, bảo vệ…”
“Tôi biết quy tắc ADAPT, sĩ quan ạ. Cô chặn phố để bảo vệ hiện trường vụ án à?”
“Vâng thưa ngài. Tôi không nghĩ rằng nghi phạm sẽ đỗ xe tại giao lộ. Hắn ta có thể dễ dàng bị trông thấy từ các căn hộ trên kia. Ngài nhìn thấy chứ, trên kia? Đại lộ Mười một có thể là lựa chọn tốt hơn.”
“Được. Nhưng đó là một sự lựa chọn sai lầm. Không có dấu chân ở phía bên kia đường ray, và có hai loạt dấu chân đi lên cầu thang tới Đai lộ Ba mươi bảy.”
“Tôi đã chặn cả Đại lộ Ba mươi bảy nữa.”
“Đó là ý tôi. Đó là tất cả những gì cần chặn. Còn đoàn tàu?” Anh ta hỏi. “Vì sao cô lại chặn đoàn tàu?”
“Vâng thưa ngài. Tôi nghĩ rằng một đoàn tàu đi qua hiện trường có thể làm ảnh hưởng đến chứng cứ. Hay cái gì đó.”
“Hay cái gì đó, sĩ quan?”
“Tôi diễn đạt ý mình không được tốt lắm, thưa ngài. Ý tôi là…” “Còn sân bay Newark thì sao?”
“Vâng thưa ngài.” Cô nhìn quanh tìm sự giúp đỡ. Có mấy sĩ quan ở gần đó, nhưng họ đang bận phớt lờ người bị quở trách. “Chính xác thì Newark là thế nào?”
“Sao cô không đóng cửa nó luôn đi?”
Ồ, tuyệt vời. Một bài học. Đôi môi Julia Roberts của cô căng lên nhưng cô nói vừa phải. “Thưa ngài, theo nhận định của tôi, có thể là…”
“Xuyên lộ New York cũng có thể là lựa chọn tốt. Jersey Pike và Xxa lộ Long Island. I-70 và các con đường đến St.Louis. Đó cũng có thể là phương cách trốn chạy.”
Cô hơi cúi đầu và nhìn lại Peretti. Hai người cao bằng nhau dù đế giày của anh ta cao hơn.
“Tôi có điện thoại từ ngài chánh thanh tra.” Anh ta tiếp tục. “Từ giám đốc của Ban quản lý Cảng, văn phòng Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, giám đốc triển lãm..” Anh ta hất đầu về phía Trung tâm Javits. “Chúng ta đã phá hỏng lịch trình hội nghị, bài phát biểu của một thượng nghị sĩ Mỹ và toàn bộ giao thông bên West Side. Đường ray cách nạn nhân mười lăm feet còn con phố mà cô chặn lại cách chỗ đó một trăm feet và trên đó ba mươi feet. Ý tôi là ngay cả Bão Eve cũng không ảnh hưởng như vậy tới Hành lang Đông Tây của Amtrak.”
“Tôi chỉ nghĩ rằng…”
Peretti cười. Vì Sachs là một phụ nữ đẹp – trong những năm tháng “chìm đắm” của cô trước khi gia nhập Học viện Cảnh sát, có thời gian cô đã làm việc thường xuyên cho Công ty Người mẫu Chantelle – nên viên cảnh sát lựa chọn tha thứ cho cô.
“Tuần tra viên Sachs” – anh ta liếc nhìn bảng tên trên ngực cô, được dán một cách đơn giản trên chiếc áo chống đạn hiệu American Body Armor – “một bài học. Nhiệm vụ tại hiện trường vụ án là một việc đòi hỏi sự cân bằng. Sẽ rất tốt nếu chúng ta có thể rào cả thành phố sau mỗi vụ giết người và thẩm vấn ba triệu người. Nhưng chúng ta không thể làm điều đó. Tôi nói điều này là có tính xây dựng. Để khai sáng cho cô”.
“Trên thực tế, thưa ngài”, cô nói cộc cằn. “Tôi sắp chuyển khỏi Đội Tuần tra. Điều đó có hiệu lực từ trưa hôm nay.”
Anh ta gật đầu, cười vui vẻ. “Thế thì nói đủ rồi. Nhưng để biết thôi, có phải cô quyết định dừng đoàn tàu và phong tỏa đường phố?” “Đúng vậy, thưa ngài”, cô nói một cách dứt khoát. “Không có sai lầm nào trong việc đó cả.”
Anh ta viết điều này vào cuốn sổ theo dõi màu đen của mình với nét bút mạnh mẽ bằng chiếc bút máy dính đầy mồ hôi.
Ôi, làm ơn đi…
“Còn bây giờ, chuyển những thùng rác ấy đi. Cô sẽ điều khiển giao thông đến khi đường thông. Cô có nghe rõ tôi nói không?” Không “vâng, thưa ngài”, hay “không, thưa ngài”, hay bất kỳ sự khẳng định nào khác, cô đi ra Đại lộ Mười một và bắt đầu chậm chạp di chuyển những chiếc thùng rác. Người lái xe nào đi ngang cô cũng cau có hoặc lẩm bẩm điều gì đó. Sachs nhìn đồng hồ.
Còn một tiếng nữa.
Mình chịu được.
HAI
Với một cú vẫy cánh ngắn, con chim ưng đỗ xuống rìa cửa sổ. Ánh sáng bên ngoài, vào giữa buổi sáng, thật rực rỡ và không khí có vẻ nóng dữ dội. “Mày đây rồi”, người đàn ông thầm thì. Sau đó anh ta ngẩng đầu khi nghe tiếng chuông cửa ở tầng dưới.
“Có phải ông ta không?” Anh hét về phía cầu thang. “Phải không?” Lincoln Rhyme không nghe thấy tiếng trả lời và quay lại cửa sổ. Con chim xoay đầu, một động tác nhanh, dữ dằn nhưng đối với loài chim ưng nó lại thật lịch thiệp. Rhyme thấy móng nó dính máu. Một miếng thịt đang đung đưa dưới cái mỏ khoằm hình vỏ quả hạch màu đen bị vỡ. Nó vươn cái cổ ngắn và thả lỏng mình trong tổ những cử động khiến ta nhớ tới loài rắn chứ không phải loài chim. Con chim ưng thả miếng thịt vào cái miệng đang ngửa lên của một con chim non màu xanh lông lá. Ta đang nhìn, Rhyme nghĩ, vào một tạo vật sống duy nhất ở New York mà không có thú săn bắt. Có lẽ ngoại trừ chính Chúa Trời.
Anh nghe thấy tiếng chân bước chậm chạp lên cầu thang.
“Có phải ông ta không?”Anh hỏi Thom.
Người thanh niên trả lời: “Không.”
“Ai đó? Chuông cửa vừa kêu, đúng không?”
Ánh mắt Thorn hướng về cửa sổ. “Con chim đã quay lại rồi. Nhìn này, có vết máu trên bậu cửa sổ của anh. Anh thấy không?”
Con chim ưng cái dần xuất hiện trong tầm nhìn. Xanh xám như một con cá, óng ánh ngũ sắc. Đầu nó ngẩng lên nhìn bầu trời.
“Chúng luôn đi cùng nhau. Chúng có kết bạn cả đời không nhỉ?” Thom tự hỏi thành tiếng. “Như ngỗng trời ấy?”
Ánh mắt Rhyme quay lại nhìn Thom, anh chàng này đang cúi cái eo lưng trẻ trung, gọn gàng của mình ngắm nhìn cái tổ qua cánh cửa sổ vấy bẩn.
“Ai thế?” Rhyme nhắc lại. Chàng thanh niên đang bị kẹt, điều này làm Rhyme khó chịu.
“Một người khách.”
“Một người khách? Ha.” Rhyme khịt mũi. Anh cố nhớ lại người khách cuối cùng đã ở đây. Chắc phải đến ba tháng trước. Đó là ai nhỉ? Một phóng viên, có thể, hay một người họ hàng xa. À, Peter Taylor, một trong những chuyên gia cột sống của Rhyme. Và Blaine cũng đến vài lần. Nhưng cô ấy tất nhiên không phải là người-khách.
“Lạnh quá”, Thom than phiền. Phản ứng của anh ta là mở cửa sổ. Sự thỏa mãn tức thì. Tuổi trẻ.
“Đừng mở cửa sổ”, Rhyme hạ lệnh. “Và nói cho tôi biết đấy là ai.” “Lạnh quá.’
“Cậu đang làm phiền con chim đấy. Cậu có thể giảm điều hòa nhiệt độ. Tôi sẽ giảm điều hòa.”
“Chúng ta ở đây trước”, Thom nói, nâng tiếp cánh cửa sổ to tướng lên. “Con chim chuyển đến khi đã biết rất rõ về anh.” Con chim ưng nhìn về phía tiếng ồn, giận dữ. Nhưng chúng luôn luôn nhìn giận dữ như thế. Chúng vẫn đậu trên thành cửa sổ, làm chủ khoảng đất của mình trên những ngọn cây bạch quả xanh xao và những người đỗ xe bên kia phố.
Rhyme nhắc lại. “Ai vậy?”
“Lon Sellitto”.
“Lon?”
Hắn ta làm gì ở đây thế?
Thom nhìn căn phòng. “Chỗ này thật lộn xộn."
Rhyme không thích phải bận bịu dọn dẹp. Anh không thích sự hối hả, không thích tiếng ồn của máy hút bụi – thứ mà anh cảm thấy thực sự khó chịu. Anh thấy thoải mái ở đây, thực sự như vậy. Căn phòng này, anh gọi là văn phòng của anh, nằm trên tầng hai của ngôi nhà theo phong cách gothic ở Upper West Side của thành phố, nhìn ra Công viên Trung tâm. Căn phòng rộng, hai mươi nhân hai mươi, và gần như từng foot vuông của nó đều có đồ. Đôi khi anh nhắm mắt, chơi một trò chơi cố gắng phân biệt mùi của những đồ vật khác nhau trong phòng. Hàng nghìn cuốn sách và tạp chí, xếp thành từng chồng nghiêng như Tháp Pisa, những cái bóng bán dẫn nóng rực
trong ti vi. Cái bóng đèn phủ bụi, một cái bảng ghim giấy. Mùi của nhựa vinyl, nước oxy già, nhựa mủ và vải bọc ghế.
Ba loại whisky Scotch dòng thuần mạch nha khác nhau.
Con chim ưng kia.
“Tôi không muốn gặp hắn ta. Nói với hắn ta tôi bận.”
“Và một cậu cảnh sát trẻ tuổi. Ernie Banks. Không, anh ta là một cầu thủ bóng chày, đúng không? Thực sự anh phải để tôi dọn dẹp. Anh không bao giờ nhận ra một chỗ có thể bẩn thỉu đến thế nào cho tới khi có người nói cho anh hay.”
“Nói cho anh hay? Trời, nghe có vẻ hoài cổ. Thời Victoria. Điều này nghe thế nào? Bảo với họ biến khỏi đây. Thế nghe có đạo đức hơn không?” Lộn xộn…
Thom đang nói về căn phòng nhưng Rhyme lại cho rằng anh ta ám chỉ cả sếp của mình.
Tóc Rhyme đen và dày như tóc một thanh niên mới hai mươi tuổi – mặc dù anh gấp đôi – nhưng những lọn tóc lại lộn xộn và bờm xờm, cần được cắt gội. Mặt anh lởm chởm râu ba ngày chưa cạo, trông bẩn thỉu, và anh có thể thức giấc với cảm giác buồn buồn ngứa ngáy không ngừng trong tai, có nghĩa là lông ở đó cũng cần phải được cắt tỉa. Móng Rhyme dài, cả ở chân lẫn tay, và anh mặc bộ quần áo suốt một tuần – một bộ pyjama sọc, xấu kinh khủng. Mắt anh hẹp, nâu đậm và nằm trên một khuôn mặt mà như Blaine thỉnh thoảng nói với anh, trông giàu tình cảm và có thể coi là đẹp trai.
“Họ muốn nói chuyện với anh”, Thom tiếp tục. “Họ nói đó là việc rất quan trọng.”
“Ừ, hoan hô họ.”
“Anh không gặp Lon cả năm nay rồi.”
“Vì sao điều đó lại có nghĩa tôi phải gặp hắn ta lúc này? Cậu có làm cho con chim sợ không? Tôi sẽ rất bực nếu cậu làm nó sợ.”
“Quan trọng đấy, Lincoln.”
“Rất quan trọng. Tôi nhớ cậu đã nói thế. Bác sĩ đâu nhỉ? Ông ta có thể đã gọi điện đến. Lúc nãy tôi ngủ gật. Còn cậu đang ở ngoài.” “Anh tỉnh dậy từ lúc sáu giờ sáng.”
“Không”. Rhyme dừng lại. “Tôi có dậy, đúng. Nhưng sau đó tôi lại ngủ gật. Giọng tôi nghe buồn ngủ lắm. Cậu đã kiểm tra tin nhắn chưa?” Thom nói: “Rồi. Chẳng có gì của ông ta.”
“Ông ta nói ông ta sẽ đến vào tầm giữa buổi sáng."
“Bây giờ là mười một giờ hơn. Có lẽ chúng ta cũng chưa nên gọi tìm kiếm cứu nạn vội. Anh thấy thế nào?”
“Cậu có dùng điện thoại không?” Rhyme hỏi bất ngờ. “Có thể ông ta đã gọi đến khi cậu đang nghe máy.”
“Tôi có nói chuyện với…”
“Tôi có nói gì không?” Rhyme hỏi. “Giờ thì cậu tức giận rồi. Và tôi có nói là cậu không được dùng điện thoại không? Cậu được dùng chứ. Cậu luôn luôn được dùng. Ý của tôi chỉ là ông ta có thể gọi điện đến khi cậu đang nghe điện thoại.”
“Không, ý anh là sáng hôm nay phải thật tệ hại.”
“Lại nữa rồi. Cậu biết không, người ta có một thứ – gọi là chờ cuộc gọi. Cậu có thể nhận hai cuộc điện thoại một lúc. Tôi mong là chúng ta có dịch vụ này. Ông bạn cũ, Lon của tôi muốn gì thế nhỉ? Và bạn của hắn ta nữa, anh chàng cầu thủ bóng chày ấy mà.”
“Hỏi họ xem.”
“Tôi đang hỏi cậu.”
“Họ muốn gặp anh. Tôi chỉ biết thế thôi.”
“Có điều gì đó r… ất quan… trọng.”
“Lincoln.” Thom thở dài. Cậu thanh niên đẹp trai vò mớ tóc vàng của mình. Cậu ta đang mặc quần nâu và áo sơ mi trắng, đeo chiếc ca vát hoa xanh, thắt đẹp không chê vào đâu được. Khi thuê Thom một năm trước, Rhyme đã nói cậu ta có thể mặc áo phông và quần bò nếu cậu ta muốn. Nhưng hằng ngày cậu ta vẫn ăn mặc chỉnh tề, kể từ hồi đó. Rhyme không biết vì sao điều đó lại góp phần cho quyết định để cậu ta ở lại, nhưng đúng là có thế thật. Không một người nào trước Thom làm được quá sáu tuần. Số người tự bỏ việc đúng bằng số người bị đuổi.
“Được rồi, họ nói với cậu những gì?”
“Tôi nói với họ cho tôi mấy phút để bảo đảm anh ăn mặc tươm tất khi họ lên. Ngắn gọn thế thôi.”
“Cậu đã nói thế. Không hỏi ý kiến tôi. Cám ơn rất nhiều.” Thom lùi mấy bước và gọi vọng xuống cầu thang dưới tầng một. “Lên thôi, thưa các quí ông.”
“Họ nói gì đó với cậu, đúng thế không?” Rhyme nói. “Cậu giấu tôi.” Thom không trả lời còn Rhyme nhìn hai người đang lại gần. Khi họ vào phòng, Rhyme nói trước. Anh nói với Thom. “Hạ rèm xuống. Cậu đã chọc giận con chim quá mức rồi đấy.”
Nhưng điều đó thực ra có nghĩa là anh đã thấy quá đủ ánh nắng mặt trời.
* * *
Câm lặng.
Miếng băng dính hôi hám dán trên miệng làm cô không thể nói được, nó làm cô cảm thấy bất lực còn hơn chiếc còng đang bó chặt cổ tay cô. Hơn cả những ngón tay ngắn ngủn, mạnh mẽ của hắn đang bóp chặt bắp tay cô.
Người lái taxi, vẫn đeo mặt nạ trượt tuyết, dẫn cô đi theo một hành lang ẩm ướt, bụi bặm, dọc theo những hàng ống nước và ống cáp. Họ đang ở trong tầng hầm của một tòa nhà văn phòng. Cô chẳng biết là ở đâu. Nếu mình có thể nói chuyện với hắn…
T.J. Colfax là một tay chơi. Một kẻ gớm ghiếc trên tầng ba của Morgan Stanley[11]. Một nhà đàm phán.
Tiền? Mày cần tiền? Tao sẽ đưa mày tiền, rất nhiều tiền. Hàng đống tiền. Cô đã nghĩ tới điều đó hàng chục lần, cố gắng bắt ánh mắt hắn ta, tựa như cô có thể thực sự đẩy ngôn ngữ vào đầu óc hắn.
Làm ơn đi, cô thầm van xin và bắt đầu nghĩ đến cách lấy tiền từ quỹ hưu trí của mình để đưa cho hắn. Ôi, làm ơn đi…
Cô nhớ lại đêm qua: Người đàn ông quay lại không nhìn pháo hoa, lôi họ ra khỏi taxi, còng tay họ. Hắn ném họ vào cốp và lái xe đi. Đầu tiên qua đoạn đường sỏi mấp mô và đoạn đường trải nhựa đầy ổ gà, sau đó là một đoạn đường êm, rồi lại xóc. Cô nghe thấy tiếng vèo vèo khi xe qua cầu. Lại cua, lại đoạn đường xóc. Cuối cùng, chiếc taxi dừng lại và người tài xế ra
khỏi xe, hình như hắn ta mở một cánh cổng hay mấy cánh cửa. Hắn cho xe vào ga ra, cô nghĩ thế. Toàn bộ âm thanh của thành phố bị gián đoạn và tiếng ống xả xe hơi ngày càng lớn hơn, dội lại từ những bức tường xung quanh.
Rồi cốp xe bật mở và người đàn ông kéo cô ra. Hắn giật chiếc nhẫn kim cương từ ngón tay cô và đút vào túi. Sau đó, hắn dẫn cô đi qua những bức tường có những khuôn mặt ma quái, hình vẽ những con mắt đã phai nhạt nhìn cô chằm chằm, một tên đồ tể, một con yêu tinh, ba đứa trẻ đáng thương – được vẽ trên lớp vữa nát vụn. Kéo cô xuống tầng hầm tối và ném cô xuống sàn. Hắn đi lộp cộp lên gác, bỏ cô lại trong bóng tối, bao quanh là một mùi ghê đến phát ốm – mùi thịt thối, rác rưởi. Cô nằm ở đây hàng giờ, có ngủ được một chút, và khóc lóc rất nhiều. Cô bất ngờ tỉnh dậy khi nghe một tiếng động lớn. Một tiếng nổ sắc nhọn. Ngay gần. Rồi lại là giấc ngủ bất an.
Nửa giờ trước hắn lại đến chỗ cô. Dẫn cô ra cốp xe và lái đi khoảng hai mươi phút. Tới đây. Dù cô chẳng biết đây là chỗ nào.
Giờ thì họ đang bước trong một căn phòng mờ tối dưới tầng hầm. Ở giữa phòng là một cái cổng đen dày; hắn còng tay cô vào đấy, sau đó tóm chân cô kéo thẳng ra trước, đẩy cô ngồi dậy. Hắn quỳ xuống và trói chân cô bằng một sợi dây mảnh – việc này mất đến vài phút; hắn đeo đôi găng da. Sau đó hắn đứng lên, nhìn cô rất lâu, cúi xuống và phanh áo cô. Hắn vòng ra sau cô, và rồi cô thở gấp, cảm thấy bàn tay hắn trên vai cô, dò dẫm, bóp chặt xương bả vai.
Khóc lóc, van xin qua lớp băng dính.
Biết được điều gì sẽ xảy đến.
Hai bàn tay đi xuống dưới cánh tay cô, sau đó vòng xuống dưới và vòng qua phía trước thân người cô. Nhưng hắn không chạm vào ngực cô. Không, khi hai bàn tay đan lưới trên làn da cô. Hắn chọc và vuốt ve xương sườn cô. T.J rùng mình cố thoát ra. Hắn tóm lấy cô chặt hơn và săn sóc thêm chút nữa, ấn mạnh, cảm nhận sự đàn hồi của xương.
Hắn đứng dậy. Cô nghe thấy tiếng chân xa dần. Im lặng một lúc lâu, chẳng có gì ngoài tiếng rên rỉ của những chiếc máy điều hòa và thang máy. Rồi cô thốt ra một tiếng làu bàu kinh sợ vì một tiếng động ngay phía sau cô. Tiếng ồn lặp lại. Xoẹt. Xoẹt. Nghe rất quen, nhưng cô chẳng thể nhận ra. Cô
cố quay lại xem hắn định làm gì nhưng không được. Cái gì thế nhỉ? Lắng nghe một âm thanh nhịp nhàng, lặp đi lặp lại. Âm thanh ấy đưa cô trở lại nhà mẹ cô.
Xoẹt. Xoẹt.
Sáng thứ Bảy, trong một căn nhà nhỏ ở Bedford, Tennessee. Đó là ngày duy nhất mẹ cô không đi làm và bà dành toàn bộ thời gian để dọn nhà. T.J. sẽ thức dậy khi mặt trời đã chiếu nắng nóng và chạy xuống nhà để giúp mẹ. Xoẹt. Cô khóc khi chợt nhớ tới kỷ niệm này, khi cô nghe âm thanh đó và tự hỏi vì sao hắn lại quét nhà cẩn thận với những nhát chổi chính xác và cẩn thận đến vậy.
* * *
Anh thấy sự ngạc nhiên và không thoải mái trên khuôn mặt họ. Điều mà ta không thường xuyên thấy ở những viên cảnh sát điều tra án mạng của Thành phố New York.
Lon Sellito và anh chàng trẻ tuổi Banks (Jerry, không phải Ernie) ngồi xuống chỗ mà Ryhme vừa dùng cái đầu tổ quạ của anh ra hiệu cho họ ngồi: chiếc ghế mây bẩn thỉu, không thoải mái.
Ryhme đã thay đổi rất nhiều từ lần cuối cùng Sellitto đến đây và viên thám tử không giấu được cú sốc của mình. Banks thì không có tiêu chí nào để so sánh với những gì anh ta nhìn thấy, nhưng anh ta vẫn bị sốc như thường. Căn phòng nhếch nhác, một kẻ du mục đang nghi ngờ nhìn họ. Mùi thì quá chắc chắn – mùi nội tạng đang bao quanh một tạo vật được gọi là Linconl Ryhme.
Anh lấy làm tiếc là đã để họ lên.
“Sao anh không gọi điện trước hả, Lon?”
“Anh sẽ bảo chúng tôi đừng đến.”
Đúng thật.
Thom trèo lên cầu thang. Ryhme chặn trước.
“Không, Thom, chúng tôi sẽ không cần đến cậu.” Anh chợt nhớ là chàng thanh niên này luôn hỏi xem khách có muốn ăn uống gì không. Đồ Martha Stewart[12] chết tiệt.
Im lặng một lúc. Sellitto to lớn, nhăn nhúm – một cựu chiến binh hai mươi năm – nhìn vào một cái hộp cạnh giường và bắt đầu nói. Điều anh ta định nói lập tức bị chặn lại khi anh ta nhìn thấy những cái bỉm dành cho người lớn.
Jerry Banks nói: “Tôi có đọc sách của ngài, thưa ngài.” Chàng cảnh sát trẻ tuổi này cạo râu thật kém, rất nhiều vết đứt. Còn vết bò liếm trên tóc anh ta trông thật duyên dáng! Lạy Chúa tôi, anh ta không thể quá mười hai tuổi được. Thế giới càng mệt mỏi, cư dân ở đó trông càng trẻ trung, Rhyme nghĩ.
“Cuốn nào vậy?”
“À, hướng dẫn về hiện trường vụ án, tất nhiên rồi ạ. Nhưng ý tôi là cuốn sách ảnh. Cuốn sách khoảng hai năm trước.”
“Trong đó cũng có cả chữ nữa. Thực ra, chủ yếu là chữ. Cậu có đọc nó không?”
“Ồ, tất nhiên rồi”, Banks nói nhanh.
Một chồng cao ngất các cuốn sách The Scenes of the Crime[13] còn lại đang dựa vào một bức tường trong phòng.
“Tôi không biết anh và Lon là bạn bè”, Banks nói thêm.
“À, Lon không cho cậu xem cuốn kỷ yếu sao? Cho cậu xem mấy bức ảnh? Xắn tay áo và chìa mấy cái sẹo rồi nói với cậu rằng những vết thương này tôi đã bị cùng Lincoln Rhyme?”
Sellitto không cười. Được thôi, mình có thể cho hắn ta ít thứ để cười hơn nếu hắn ta muốn. Viên thám tử có thâm niên đang lục lọi trong chiếc cặp của anh ta. Hắn ta có cái gì trong ấy nhỉ?
“Các anh đã cộng tác bao lâu rồi?” Banks hỏi, tìm cách nói chuyện. “Có một động từ cho cậu đấy”, Rhyme nói và nhìn đồng hồ. “Chúng tôi không phải cộng sự của nhau”, Sellito nói. “Tôi làm ở Ban Án mạng, anh ta là giám đốc IRD.”
“Ồ”. Bank mói, tỏ ra bị ấn tượng hơn nữa. Lãnh đạo IRD là một trong những công việc uy tín nhất trong sở.
“Ừ”, Rhyme nói trong khi nhìn ra ngoài cửa sổ, tựa hồ bác sĩ của anh sẽ tới qua con chim ưng. “Hai người lính ngự lâm”.
Bằng một giọng kiên nhẫn nhưng lại làm cho Rhyme khó chịu. Sellito nói: “Bảy năm liên tục, chúng tôi làm việc cùng nhau.’
“Những năm tháng tốt đẹp”, Rhyme nhấn nhá.
Thom cau có, nhưng Sellitto không nhận thấy sự mỉa mai này. Mà đúng hơn là lờ đi. Anh ta nói: “Chúng tôi có vấn đề, Lincoln. Chúng tôi cần giúp đỡ.”
Soạt. Chồng giấy đổ xuống cái bàn đầu giường.
“Giúp đỡ?” Tràng cười nổ ran từ chiếc mũi mà Blaine luôn ngờ rằng đó là sản phẩm của phẫu thuật thẩm mỹ, mặc dù không phải như vậy. Cô cũng luôn nghĩ rằng đôi môi của anh quá hoàn hảo (nếu thêm một vết sẹo, có lần cô đã đùa như vậy khi họ suýt cãi nhau). Mà tại sao hôm nay sự hiện diện đầy nhục cảm của cô lại cứ dâng mãi lên như vậy nhỉ, anh tự hỏi. Buổi sáng anh thức dậy với ý nghĩ về người vợ cũ của mình và tự nhiên muốn viết cho cô một lá thư, lá thư đó vẫn còn ở trên màn hình máy tính vào lúc này. Anh đang lưu nó vào đĩa. Sự im lặng tràn ngập cả căn phòng khi anh nhập lệnh vào máy tính bằng một ngón tay.
“Lincoln?” Sellitto hỏi.
“Vâng, thưa ngài. Sự giúp đỡ. Của tôi. Tôi nghe thấy.”
Banks vẫn giữ nụ cười không đúng chỗ trên mặt anh ta khi anh ta ngọ nguậy đầy khó chịu trên ghế.
“Tôi sắp có một cuộc hẹn, ngay bây giờ”, Rhyme nói.
“Một cuộc hẹn.”
“Một bác sĩ.”
“Thật không?” Banks hỏi, chỉ để cố gắng phá tan sự im lặng lại vừa tràn ngập căn phòng.
Không chắc lắm là cuộc nói chuyện đang đi đến đâu, Sellitto hỏi: “Anh thế nào?”
Banks và Sellitto không hỏi tới sức khỏe của anh khi họ tới. Đó là câu hỏi mọi người thường tránh khi họ gặp Lincoln Rhyme. Câu trả lời có thể sẽ rất phức tạp, và gần như chắc chắn là sẽ khó chịu.
Anh nói đơn giản: “Tôi ổn, cám ơn. Còn anh? Betty?”
“Chúng tôi đã li dị”, Sellitto nói nhanh.
“Thế à?”
“Cô ta được ngôi nhà còn tôi thì một nửa đứa con.” Viên cảnh sát lùn, đậm người với một giọng vui vẻ giả tạo, cứ như anh ta đa nói điều này trước đó, và Rhyme nói rằng có một chuyện đau đớn đằng sau cuộc chia tay. Câu chuyện mà anh chẳng hề muốn nghe. Tuy vậy, anh cũng chẳng ngạc nhiên khi thấy cuộc hôn nhân này thất bại. Sellitto là một con ngựa thồ. Anh ta là một trong khoảng một trăm thám tử hạng nhất trong lực lượng và đã từng giữ vị trí này nhiều năm – anh ta lên hạng vì có công trạng thực sự chứ không phải chỉ vì thâm niên. Anh ta làm việc tới tám mươi giờ một tuần. Rhyme không hề biết anh ta đã lấy vợ trong mấy tháng đầu tiên họ cùng làm việc.
“Giờ anh đang sống ở đâu?” Rhyme hỏi, hy vọng rằng một cuộc nói chuyện xã giao sẽ làm họ kiệt sức và biến đi.
“Brooklyn. Tại Heights. Đôi khi tôi đi bộ đi làm. Anh biết chế độ ăn kiêng định kỳ của tôi rồi chứ nhỉ? Vấn đề không phải ăn kiêng. Mà là tập luyện.”
Anh ta trông không béo hơn hay gầy hơn so với Lon Sellitto ba năm rưỡi trước đây. Hoặc Sellitto cách đây mười lăm năm.
Banks nói: “Vậy, anh nói đó là một bác sĩ. Để cho…”
“Một dạng điều trị mới à?” Rhyme hoàn thành câu hỏi. “Chính xác.” “Chúc may mắn.”
“Cám ơn cậu rất nhiều”
Giờ là 11:36. Đã quá nửa buổi sáng từ lâu. Chậm trễ là điều không thể tha thứ đối với người làm trong ngành y.
Anh nhìn thấy Banks ngó chân anh hai lần. Anh tóm được cậu bé lần thứ hai và không ngạc nhiên khi thấy viên thám tử đỏ mặt. Rhyme nói: “Tôi sợ rằng tôi không có thời gian để giúp đỡ các anh.’ “Nhưng bác sĩ vẫn chưa đến, đúng không?” Lon Sellitto hỏi bằng một giọng cứng rắn mà anh ta thường dùng để xuyên thủng các câu chuyện bịa đặt của những nghi phạm giết người.
Thom xuất hiện ở cửa với một ấm cà phê.
“Đồ ngốc”, Rhyme buột miệng.
“Lincoln quên mời các quý vị mấy thứ.”
“Thom đối xử với tôi như một đứa trẻ.”
“Nếu đúng thế”, anh chàng trợ lý trả miếng.
“Được rồi”, Rhyme thủng thẳng. “Mời dùng cà phê. Tôi sẽ uống ít sữa mẹ.”
“Quá sớm, quán vẫn chưa mở cửa.” Thom nói. Và anh ta cũng khiến mặt Rhyme ửng đỏ.
Ánh mắt Banks lại quét một lần nữa trên cơ thể Rhyme. Có thể cậu ta nghĩ chỉ toàn da bọc xương. Nhưng hiện tượng teo cơ đã chấm dứt không lâu sau tai nạn và những nhân viên vật lý trị liệu đầu tiên của anh đã làm anh kiệt sức với các bài tập. Thom cũng là một nhân viên vật lý trị liệu tốt, mặc dù đôi khi cậu ta giống như một thằng ngốc, nhưng những lần khác lại tỏ ra như một con gà mái già. Hằng ngày, cậu ta bắt Rhyme thực hiện các bài tập ROM[14] thụ động. Kỹ càng ghi lại các chỉ số đo góc – thang đo dùng để đo mức độ chuyển động được anh ta áp dụng vào từng khớp xương trong cơ thể Rhyme. Kiểm tra cẩn thận mức độ suy căng cơ khi cậu ta tập cho chân tay anh bằng những chu kỳ dang khép cố định. Bài tập ROM không phải phép màu nhưng nó tạo ra một chút rắn chắc cho cơ bắp, giảm những cơn co cứng làm ta đuối sức và giữ cho máu lưu thông. Với một người mà hoạt động cơ bắp chỉ giới hạn ở vai, đầu và ngón đeo nhẫn bên tay trái trong ba năm rưỡi thì tình trạng của Lincoln Rhyme không phải là tệ.
Viên thám tử trẻ rời mắt khỏi bảng điều khiển ECU[15] màu đen, rắc rối, nằm cạnh ngón tay Rhyme, được nối với những bộ điều khiển khác, những ống dẫn và dây cáp loằng ngoằng, được nối với một chiếc máy tính và một màn hình treo trên tường.
Cuộc đời của anh chàng đã bị trói buộc, trước đó rất lâu, một nhân viên trị liệu đã nói với Rhyme như thế. Ít nhất, đó là những anh chàng giàu có. Những anh chàng may mắn.
Sellitto nói: “Sáng nay có một vụ giết người ở West Side.” “Chúng tôi nhận được báo cáo về một số người đàn ông, phụ nữ vô gia cư mất tích trong mấy tháng qua”, Banks nói. “Đầu tiên chúng tôi nghĩ có thể là một trong số họ. Nhưng không phải vậy”, cậu ta nói thêm đầy kịch tính. “Nạn nhân là một trong những người đêm qua.”
Rhyme tỏ vẻ trống rỗng trước khuôn mặt lấm chấm của chàng trai. “Những người?”
“Anh ta không xem thời sự”, Thom nói. “Nếu cậu nói về vụ bắt cóc thì anh ta chưa nghe đến.”
“Anh không xem thời sự?” Sellitto cười phá. “Ở SOB[16] anh đọc bốn tờ báo một ngày và ghi lại bản tin địa phương để xem khi đi làm về. Blaine nói với tôi một đêm anh gọi cô ấy là Katie Couric[17] trong khi làm tình.”
“Giờ tôi chỉ đọc văn học”, Rhyme nói một cách khoa trương, giả dối. Thom nói thêm: “Văn học luôn là tin mới.”
Rhyme lờ cậu ta đi.
Sellitto nói: “Một người đàn ông và một phụ nữ đi công tác từ Bờ Biển về. Lên một chiếc Yellow Cab tại sân bay JFK. Không bao giờ về đến nhà.” “Có báo cáo lúc khoảng mười một giờ ba mươi. Chiếc taxi chạy theo hướng BQE[18] tại khu Queens. Hành khách nam và nữ da trắng ngồi ghế sau. Có vẻ họ đã thử đập cửa sổ. Đập kính. Không người nào có thẻ ghi hay đeo hình trái tim có lồng ảnh.”
“Nhân chứng – người nhìn thấy chiếc taxi ấy có nhìn rõ tay tài xế không?”
“Không”.
“Hành khách nữ?”
“Không có dấu hiệu gì của cô ta.”
11:41. Rhyme đang điên tiết vì bác sĩ William Berger. “Làm ăn chán chết”, anh lầm bầm một cách trống rỗng.
Sellitto thở dài não nề.
“Tiếp đi, tiếp đi”, Rhyme nói.
“Anh ta đeo chiếc nhẫn của cô ta”, Banks nói.
“Ai đeo cái gì?”
“Nạn nhân. Người ta vừa tìm thấy anh ta sáng nay. Tay anh ta đeo chiếc nhẫn của người phụ nữ. Người hành khách kia.”
“Cậu chắc đấy là nhẫn của cô ta chứ?”
“Có tên viết tắt của cô ta ở mặt trong chiếc nhẫn.”
“Thế là anh có một đối tượng”, Rhyme tiếp tục, “kẻ muốn anh biết hắn ta đã bắt được người phụ nữ và cô ta vẫn còn sống”.
“Đối tượng gì?” Thom hỏi.
Sellitto nói khi Rhyme lại lờ cậu ta đi: “Đối tượng chưa biết.” “Nhưng anh biết hắn làm thế nào để đeo vừa nó vào ngón tau nạn nhân không?” Banks hỏi, hơi nhướn mắt để thêm ấn tượng với Ryhme. “Cái nhẫn của cô ta ấy mà?”
“Tôi chịu.”
“Lóc hết da trên ngón tay anh ta. Hết sạch. Đến tận xương.’ Rhyme nặn ra nụ cười nhợt nhạt. “Hắn ta thông minh đấy chứ?” “Vì sao lại là thông minh?”
“Để đảm bảo là không ai dám đến lấy chiếc nhẫn đi. Nó đầy máu, đúng không?”
“Kinh lắm.”
“Đầu tiên là rất khó nhận ra chiếc nhẫn. Rồi thì AIDS, viêm gan. Kể cả nếu ai đó nhận ra, nhiều người cũng sẽ bỏ qua món chiến lợi phẩm đó. Tên cô ta là gì, Lon?”
Viên thám tử lớn tuổi gật đầu ra hiệu với đồng nghiệp, anh này mở cuốn sổ ghi chép của mình.
“Tammine Jean Colfax. Cô ta hay dùng cách gọi T.J. Hai mươi tám tuổi. Làm việc cho Morgan Stanley.”
Rhyme nhận thấy Banks cũng đeo nhẫn. Một dạng nhẫn biểu tượng của trường học. Cậu chàng này bóng bẩy quá mức, chỉ đơn thuần là tốt nghiệp trung học hay Học viện Cảnh sát. Không có tí mùi quân đội nào ở cậu ta. Sẽ không ngạc nhiên nếu viên đá quý kia có tên là Yale[19]. Một thám tử điều tra án mạng ư? Thế giới này đang đi về đâu?
Viên cảnh sát trẻ ôm cốc cà phê bằng hai bàn tay đang run lẩy bẩy. Bằng một động tác nhỏ, Rhyme rê ngón tay đeo nhẫn trên bảng điều khiển ECU của công ty Everest & Jennings[20] được kẹp ở bàn tay trái của anh và bấm vào hệ thống phục vụ cá nhân một lệnh chỉnh giảm điều hòa nhiệt độ. Anh thường không mất công kiểm soát những thứ như lò sưởi và điều hòa mà dành sức cho những thứ cần thiết hơn như ánh sáng, máy tính và cái khung
lật trang của anh. Nhưng khi phòng quá lạnh thì anh bị sổ mũi. Và đó là sự tra tấn thực sự đối với một anh chàng như anh.
“Không có thư đòi tiền chuộc à?” Rhyme hỏi.
“Chẳng có gì.”
“Anh là sĩ quan điều tra vụ này?” Rhyme hỏi Sellitto.
“Dưới quyền Jim Polling. Đúng thế. Và chúng tôi muốn anh nghiên cứu báo cáo hiện trường vụ án.”
Một tiếng cười nữa. “Tôi? Đã ba năm rồi tôi chưa đọc báo cáo hiện trường vụ án nào cả. Liệu tôi có thể nói gì với anh?”
“Anh có thể nói cho chúng tôi rất nhiều thứ, Linc.’
“Bây giờ ai là giám đốc IRD?”
“Vince Peretti.”
“Con trai của thượng nghị sĩ”, Rhyme nhớ lại. “Cứ để anh ta đọc đi.” Một khoảnh khắc ngại ngùng. “Chúng tôi vẫn muốn anh.” “Chúng tôi là ai?”
“Sếp trưởng. Và người bạn trung thành của anh.”
“Thế còn, Đại úy Peretti sẽ cảm thấy ra sao với lá phiếu không tín nhiệm này?” Rhyme hỏi, cười như một cô bé.
Sellitto đứng dậy và bước qua phòng, nhìn xuống những chồng tạp chí. Tạp chí Khoa học Điều tra Pháp y. Catalog sản phẩm của Công ty thiết bị khoa học Harding & Boyle. Niên kỷ Điều tra Pháp lý New Scotland Yard. Tạp chí của Đại học Giám định Pháp y Mỹ. Báo cáo của Hiệp hội Các giám đốc Phòng thí nghiệm Tội phạm Mỹ. Giám định Pháp y của CRC Press[21]. Tạp chí của Viện Khoa học Pháp y Quốc tế.
“Nhìn chúng này”, Rhyme nói. “Đăng ký hết hạn từ lâu rồi. Còn chúng thì phủ đầy bụi.”
“Mọi thứ ở đây đều bụi bặm kinh tởm, Linc. Sao anh không ngồi dậy mà dọn dẹp cái chuồng lợn này đi?”
Banks trông đầy sợ hãi. Rhyme xổ ra một tràng cười mà chính bản thân anh cũng cảm thấy xa lạ. Người canh gác của anh đã trượt chân và sự khó chịu biến thành ngạc nhiên. Ngay tức khắc anh cảm thấy tiếc vì anh và Sellitto đã rời xa nhau. Sau đó anh dập tắt ngay cái cảm giác đó. Anh càu nhàu: “Tôi không giúp anh được. Xin lỗi.”
“Chúng ta có một hội nghị về hòa bình bắt đầu vào thứ Hai. Chúng tôi…”
“Hội nghị nào?”
“Tại trụ sở Liên Hiệp Quốc. Các đại sứ, nguyên thủ quốc gia. Sẽ có hàng nghìn nhân vật đáng kính đến thành phố. Anh có nghe về việc vừa diễn ra ở London hai ngày trước không?”
“Việc?” Rhyme cay độc nhắc lại.
“Có kẻ đã cố gắng đánh bom khách sạn nơi UNESCO họp. Thị trưởng lo hết hồn nếu có kẻ nào lại tiếp tục làm thế với hội nghị ở đây. Ông ta không muốn có một tiêu đề kinh khủng nào đó trên tờ Bưu điện.”
“Có một vấn đề nhỏ”, Rhyme nói nghiêm khắc. “Đó là cô Tammie Jean sẽ không còn thích thú với chuyện về nhà của mình nữa.” “Jerry, nói cho anh ta thêm một vài chi tiết. Kích thích khẩu vị của anh ta đi nào.”
Banks đã chuyển sự chú ý từ chân Rhyme sang chiếc giường của anh, thứ mà – như chính Rhyme đã phải công nhận – thú vị hơn nhiều. Đặc biệt là bảng điều khiển. Trông nó giống như thứ gì đó lấy từ tàu con thoi và cũng đắt tiền đúng như thế. “Mười tiếng sau khi họ bị bắt, chúng tôi tìm thấy hành khách nam – John Ulbrecht – bị bắn và chôn sống trên đường tàu Amtrak gần Đại lộ Ba mươi bảy và Mười một. Đúng ra là chúng tôi tìm thấy anh ta đã chết. Anh ta đã bị chôn sống. Viên đạn cỡ .32.” Banks nhìn lên và nói thêm. “Honda Accord của các loại đạn dược.”
Có nghĩa là không có suy luận ác ý nào về thứ vũ khí không rõ ràng. Anh chàng Banks này có vẻ thông minh, Rhyme nghĩ, và tất cả những gì anh ta phải chịu đựng là tuổi trẻ, tuổi trẻ mà anh ta có thể trưởng thành để thoát khỏi nó, hoặc là không. Lincoln Rhyme tin rằng bản thân anh chưa bao giờ trẻ cả.
“Đạn có rãnh xẻ không?” Rhyme hỏi.
“Sáu đường gân và đường xẻ, xoáy trái.”
“Vì thế hắn tìm cho mình một khẩu Colt”, Rhyme nói và liếc nhìn sơ đồ hiện trường vụ án một lần nữa.
“Anh nói hắn”, viên thám tử trẻ tuổi tiếp tục. “Nhưng thực ra đó là chúng.”
“Cái gì?”
“Đối tượng. Có hai tên. Có hai nhóm dấu chân giữa ngôi mộ và chân chiếc cầu thang sắt dẫn lên phố”, Banks nói, chỉ vào sơ đồ hiện trường vụ án.
“Có dấu chân nào trên cầu thang không?”
“Không có gì. Nó đã bị lau đi. Chúng đã làm rất tốt. Dấu chân đi ra huyệt và quay lại cầu thang. Nói chung là phải có hai tên mới có thể kéo được nạn nhân. Anh ta nặng hơn một trăm pound[22]. Một người không thể làm được việc đó.”
“Tiếp đi.”
“Chúng kéo anh ta tới huyệt, vứt anh ta xuống, bắn và chôn anh ta, sau đó quay lại cầu thang, trèo lên và biến mất.”
“Bắn anh ta dưới huyệt?” Rhyme hỏi.
“Đúng thế. Không hề có vết máu quanh cầu thang và trên đường đến huyệt.”
Rhyme thấy mình có vẻ hơi quan tâm. Nhưng anh nói: “Các anh cần tôi làm gì?”
Sellitto cười, nhe hàm răng vàng lởm chởm. “Chúng tôi vớ được một điều huyền bí, Linc. Một mớ vật chứng chẳng có ý nghĩa chết tiệt gì.” “Thì sao?” Đây là một hiện trường vụ án hiếm có, ở đó mọi chứng cứ vật lý đều có ý nghĩa.
“Đúng hơn là điều đó thực sự kỳ dị. Đọc báo cáo mà xem. Làm ơn đi. Tôi sẽ để nó ở đây. Cái này làm việc thế nào nhỉ?” Sellitto nhìn Thom đang gắn tập báo cáo vào khung lật trang.
“Tôi không có thời gian đâu, Lon”, Rhyme phản đối.
“Cái này thực kỳ lạ”, Banks phát biểu, nhìn vào cái khung. Rhyme không trả lời. Anh đang nhìn vào trang đầu tiên và đọc chăm chú. Di chuyển ngón đeo nhẫn sang trái đúng một mm. Một chiếc đũa thần bằng cao su lật trang giấy.
Đọc. Suy nghĩ. Ừ, đúng là quái lạ.
“Ai chịu trách nhiệm về hiện trường?”
“Chính Peretti. Khi anh ta biết rằng nạn nhân là một trong những hành khách taxi, anh ta đến đó và tiếp nhận vụ này.”
Rhyme tiếp tục đọc. Trong khoảng một phút, những từ ngữ thiếu sáng tạo trong bản báo cáo của cảnh sát làm anh quan tâm. Rồi chuông cửa reo và trái tim anh nhảy lên vì một cơn rùng mình. Ánh mắt anh hướng đến Thom. Chúng lạnh lùng và cho thấy rõ ràng là thời gian đùa bỡn đã chấm dứt. Thom gật đầu và ngay lập tức đi xuống cầu thang.
Tất cả mọi ý nghĩ về những người lái taxi, về vật chứng và những nhân viên ngân hàng bị bắt có biến khỏi đầu óc Lincoln Rhyme. “Đấy là bác sĩ Berger”, Thom nói qua máy đàm thoại nội bộ. Cuối cùng. Sau bao nhiêu lâu.
“Được rồi, tôi xin lỗi, Lon. Tôi sẽ phải đề nghị các anh ra về. Thật vui khi gặp lại anh.” Một nụ cười. “Một vụ rất thú vị, vụ này ấy mà.” Sellitto ngần ngừ rồi đứng dậy. “Nhưng anh sẽ đọc qua báo cáo chứ, Lincoln? Nói cho chúng tôi những gì anh nghĩ chứ?”
Rhyme nói: “Chắc rồi”, sau đó ngả đầu xuống gối. Những người bệnh như Rhyme, có khả năng chuyển động được đầu và cổ, có thể kích hoạt cả chục chức năng điều khiển chỉ nhờ chuyển động đầu ba chiếu. Nhưng Rhyme đã tránh xa các thiết bị đeo trên đầu. Giờ đây, khi chỉ còn rất ít sự sung sướng nhờ các giác quan còn lại, anh không muốn tước đi sự thoải mái khi được dựa đầu vào chiếc gối hai trăm đô la của mình. Những người khách đã làm anh mệt. Không chỉ buổi trưa, mà lúc nào anh cũng buồn ngủ. Cơ cổ anh run rẩy vì đau đớn.
Khi Sellitto và Banks đã ra đến cửa, Rhyme nói: “Lon, đợi đã.” Viên thám tử quay lại.
“Có một điều anh nên biết. Anh mới chỉ tìm thấy một nửa hiện trường vụ án. Hiện trường quan trọng chính là nửa còn lại – hiện trường chính. Nhà hắn ta. Đó là nơi hắn sẽ đến. Và sẽ rất khó tìm.”
“Sao anh lại nghĩ rằng còn một hiện trường khác?”
“Vì hắn ta không bắn nạn nhân dưới huyệt. Hắn bắn anh ta ở chỗ kia – tại hiện trường chính. Và đấy có thể là nơi hắn giữ người phụ nữ. Đó sẽ là một tầng hầm hay một nơi rất vắng vẻ trong thành phố. Hoặc cả hai. Vì… Banks ạ…” – Rhyme đoán trước câu hỏi của viên thám tử trẻ – “hắn ta không muốn có rủi ro khi phải bắn ai đó và bị bắt nếu đó không phải là một nơi yên tĩnh và riêng tư.”
“Có thể hắn dùng ống giảm thanh.”
“Không có dấu màng ngăn cao su hay bông trên viên đạn”, Rhyme ngắt lời.
“Nhưng làm thế nào mà người đàn ông bị bắn ở đó được?” Banks phản đối. “Ý tôi là, không hề có máu vương ở hiện trường.”
“Tôi giả định là nạn nhân bị bắn vào mặt”, Rhyme tuyên bố. “À, vâng”, Banks trả lời, nở một nụ cười ngu ngốc. “Làm sao mà anh biết?”
“Rất đau đớn, rất hiệu quả, rất ít máu với một viên đạn cỡ .32. Ít khi chết người nếu không trúng não. Với một nạn nhân cỡ như vậy, đối tượng có thể dẫn anh ta đi bất cứ đâu hắn muốn. Tôi nói đối tượng, số ít vì chỉ có một đối tượng thôi.”
Im lặng. “Nhưng… có hai nhóm dấu chân”, Banks gần như thì thầm, như thể anh ta đang gỡ mìn.
Rhyme thở dài. “Đế giày là một. Chúng do một người đi hai vòng để lại. Để lừa chúng ta. Và những dấu chân đi về phía bắc có cùng độ sâu như những dấu chân đi về phía nam. Như thế là hắn ta không vác một khối lượng hai trăm pound đi theo đường này và không vác khi đi đường kia. Nạn nhân có phải đi chân đất không?”
Banks lật nhanh ghi chép của mình. “Đi tất.”
“Được rồi, thế thì thủ phạm đi giày của nạn nhân trong chuyến đi dạo thông minh của hắn tới cầu thang và ngược lại.”
“Nếu hắn không đi xuống cầu thang thì làm thế nào hắn tới được huyệt?”
“Hắn tự kéo người đó theo đường ray xe lửa. Có thể từ phía bắc.” “Nhưng không có cầu thang nào xuống đường tàu từ cả hai phía.” “Nhưng có những đường hầm chạy song song với đường ray”, Rhyme
tiếp. “Chúng nối với tầng hầm của một vài nhà kho cũ dọc Đại lộ Mười một. Một kẻ gangster tên là Owney Madden đã cho đào chúng trong thời kỳ cấm rượu để hắn có thể chuyển rượu whisky lậu lên các đoàn tàu từ nhà ga Trung tâm New York đi Albany hay Bridgeport.”
“Thế tại sao không chôn nạn nhân gần đường hầm? Sao lại mạo hiểm vì có thể bị nhìn thấy khi kéo anh chàng đi qua gầm cầu?”
Đã hết kiên nhẫn. “Anh biết hắn đang nói gì với chúng ta đúng không?”
Banks định nói, nhưng sau đó lắc đầu.
“Hắn phải để xác ở nơi có thể được tìm thấy”, Rhyme nói. “Hắn cần ai đó tìm thấy nó. Đó là lý do tại sao hắn để tay nạn nhân trên không. Hắn đang vẫy chúng ta. Để được chúng ta chú ý. Xin lỗi, các anh có thể có một đối tượng nhưng hắn lại quá thông minh để có thể là hai. Có một cánh cửa ra vào đường hầm ở gần đâu đó. Hãy đến đó và thử tìm dấu tay. Sẽ không có gì đâu. Nhưng các anh phải làm đúng như thế. Báo chí, các anh biết rồi đấy. Khi câu chuyện bắt đầu xuất hiện… Được rồi, chúc may mắn, thưa các quý ngài. Giờ thì cho tôi xin lỗi chứ, Lon?”
“Có?”
“Đừng quên hiện trường chính. Bất kể điều gì xảy ra, anh phải tìm bằng được nó. Và nhanh lên.”
“Cảm ơn, Linc. Đọc báo cáo nhé.”
Rhyme nói tất nhiên anh sẽ đọc và thấy họ tin vào điều nói dối đó. Hoàn toàn tin.
BA
Ông ta có cách hành xử bên giường bệnh tốt nhất mà Rhyme từng biết. Và nếu ai đó có kinh nghiệm về cách hành xử bên giường bệnh thì đó chính là Lincoln Rhyme. Anh đã thử tính một lần và thấy anh từng gặp bảy mươi tám bác sĩ có bằng cấp trong vòng ba năm rưỡi qua.
“Cảnh đẹp đấy chứ”, Berger nói, nhìn ra cửa sổ.
“Đúng không? Đẹp thật.”
Mặc dù do chiều cao của cái giường mà Rhyme chẳng hề nhìn thấy gì ngoài bầu trời mù sương phía trên Công viên Trung tâm. Nó – và những con chim – về cơ bản là những gì anh nhìn thấy từ khi chuyển từ bệnh viện phục hồi chức năng cuối cùng về đây khoảng hai năm rưỡi trước. Phần lớn thời gian anh buông rèm cửa.
Thom đang bận lật ông chủ của mình – công việc này giúp giữ sạch phổi – sau đó thông bàng quang cho Rhyme, điều này cần phải làm cách sáu, bảy giờ một lần. Sau chấn thương cột sống, cơ thắt có thể bị kẹt trong trạng thái mở hay trạng thái đóng. Rhyme may mắn vì cơ thắt của anh bị kẹt đóng – may mắn, với điều kiện có ai đó ở bên để mở chiếc ống nhỏ thiếu cộng tác đó bằng một cái que thông và kem K-Y bốn lần trong ngày.
Bác sĩ Berger quan sát quy trình này một cách chuyên nghiệp về phương diện lâm sàng và Rhyme không hề để ý tới vấn đề thiếu riêng tư. Một trong những việc làm đầu tiên mà một kẻ tàn phế cần phải vượt qua là sự e ngại. Khi mà việc che cơ thể lúc tắm rửa, di chuyển hay khám nghiệm được thực hiện với những nỗ lực nửa vời thì những kẻ tàn phế nghiêm trọng, thực sự tàn phế, rất tàn phế không quan tâm. Tại trung tâm phục hồi chức năng đầu tiên của Rhyme, sau khi một bệnh nhân đi dự tiệc hay đi hò hẹn đêm trước về, tất cả những người cùng phòng sẽ lăn xe tới giường anh ta để kiểm tra nước giải, đó là phong vũ biểu chỉ mức độ thành công của cuộc đi chơi. Một lần Rhyme đã chiếm được sự kính trọng mãi mãi của
những người tàn tật ở cùng bệnh viện khi anh cho ra đến một nghìn bốn trăm ba mươi cc.
Anh nói với Berger: “Bác sĩ hãy nhìn rìa cửa mà xem. Tôi có thiên thần hộ mệnh của riêng mình.”
“Ồ, diều hâu à?”
“Chim ưng. Thường thì chúng làm tổ cao hơn. Tôi không hiểu vì sao chúng lại chọn sống cùng với tôi.”
Berger liếc nhìn những con chim rồi rời khỏi cửa sổ, lại hạ rèm xuống. Chim chóc không làm ông ta quan tâm. Ông ta không to lớn nhưng trông gọn gàng, một người tập chạy, Rhyme đoán thế. Ông ta trông khoảng gần năm mươi nhưng mái tóc đen chưa hề có sợi bạc và đẹp trai như một phát thanh viên truyền hình.
“Đúng là một cái giường.”
“Ông thích nó chứ?”
Cái giường của hãng Clinitron, một hình chữ nhật to tướng. Đó là một cái giường có đệm không khí – chất lỏng và có gần một tấn hạt bọc silicon. Không khí nén được thổi qua các hạt này và chúng đỡ cơ thể Rhyme. Nếu anh có thể có cảm giác, anh sẽ cảm thấy như mình đang trôi nổi.
Berger đang uống cà phê do Rhyme ra lệnh cho Thom đem đến. Anh ta đem nó lên, đảo mắt thì thầm trước khi mời: “Có phải chúng ta đang quá xã giao không vậy?”
Người bác sĩ hỏi Rhyme: “Anh đã từng là cảnh sát, có đúng anh nói với tôi thế không?”
“Đúng. Tôi là giám đốc giám định pháp y của NYPD[23].” “Anh bị bắn à?”
“Không. Tìm kiếm trên hiện trường vụ án. Mấy người công nhân tìm thấy một xác chết tại công trường xây dựng ga tàu điện ngầm. Đấy là một cảnh sát tuần tra trẻ tuổi, bị mất tích sáu tháng trước – chúng tôi có một kẻ giết người hàng loạt chuyên bắn cảnh sát. Tôi được yêu cầu xử lý riêng vụ này và khi tôi đang tìm kiếm ở đó thì một thanh rầm sập xuống. Tôi bị vùi trong bốn giờ.”
“Thực sự là có ai đó lang thang tìm giết cảnh sát à?”
“Giết ba người và làm bị thương một người. Thủ phạm cũng là một cảnh sát. Dan Sherperd. Một trung úy trong Đội Tuần tra.” Berger liếc nhìn vết sẹo hồng trên cổ Rhyme. Một dấu hiệu tiêu biểu của chứng liệt tứ chi – một vết cắt mờ đế đưa ống thông khí vào cổ họng và giữ ở đó vài tháng sau tai nạn. Đôi khi là vài năm, đôi khi là mãi mãi. Nhưng Rhyme – với bản chất ương bướng cùng với những nỗ lực hết mình của các bác sĩ trị liệu – đã có thể dứt bỏ được ống thông khí. Giờ thì anh có hai lá phổi mà anh cá là có thể giúp anh lặn dưới nước đến năm phút. “Như vậy là chấn thương cổ.”
“C4.”
“À, vâng.”
C4 là khu phi quân sự của chấn thương cột sống. Một SCI[24] phía trên đốt sống cổ thứ tư có thể đã giết anh. Dưới đốt sống cổ thứ tư thì anh có thể hồi phục một phần bàn tay và cánh tay, nếu không nói là chân. Chấn thương đốt sống cổ thứ tư không mấy nổi tiếng giúp anh sống nhưng bị liệt hẳn tứ chi. Anh hoàn toàn không còn sử dụng được tay chân. Cơ ổ bụng và cơ liên sườn gần như mất hết khả năng và anh chủ yếu thở bằng cơ hoành. Anh có thể cử động đầu và cổ, nhúc nhích vai một chút. Sự may mắn duy nhất là chiếc rầm gỗ sồi rơi xuống đã bỏ qua một sợi thần kinh vận động độc nhất, nhỏ xíu. Điều đó cho phép anh động đậy ngón đeo nhẫn bên tay trái.
Rhyme đã không kể cho bác sĩ nghe về vở diễn của cuộc đời anh trong năm tiếp sau tai nạn đó. Một tháng nứt sọ: những chiếc kẹp kẹp những cái lỗ khoan vào đầu anh để kéo cột sống anh thẳng lại. Mười hai tuần dùng một thiết bị bao quanh đầu như vầng hào quang – một cái tạp dề nhựa và một giàn giáo thép bọc quanh đầu giữ cho cổ bất động. Để giúp phổi anh tiếp tục bơm không khí, một ống thông khí lớn được dùng trong suốt một năm, sau đó là một bộ kích thích dây thần kinh cơ hoành. Que thông. Phẫu thuật. Tắc ruột do liệt, những chỗ loét nội tạng, quá căng thẳng và làm giảm nhịp tim, nằm nhiều biến chứng thảnh lở nằm, co cứng cơ vì mô bắt đầu co lại và đe dọa lấy mất khả năng cử động quý báu của ngón tay, những cơn đau ảo khiến ta điên dại – cảm giác bỏng và đau ở đầu các chi vốn không còn cảm giác.
Tuy vậy anh đã nói với Berger về tiến triển mới nhất. “Mất phản xạ tự phát.”
Gần đây vấn đề này xảy ra ngày càng thường xuyên hơn. Tim đập mạnh, huyết áp quá cao, những cơn đau đầu dữ dội. Những thứ này có thể xuất hiện chỉ vì một nguyên nhân đơn giản như táo bón.
Chuyên gia SCI của Rhyme, bác sĩ Peter Taylor trở nên lo lắng về tần suất của những lần đột quỵ. Lần cuối cùng – khoảng một tháng trước – nguy hiểm tới mức Taylor đã phải hướng dẫn Thom xử lý tình huống mà không đợi cấp cứu đến và bắt người trợ lý phải nạp số điện thoại của bác sĩ vào danh mục quay số nhanh. Taylor đã cảnh báo rằng, điều đó đủ nguy hiểm và có thể dẫn đến trụy tim hay đột quỵ.
Berger lắng nghe với một chút thông cảm, sau đó nói: “Trước khi chuyển sang công việc này, tôi chuyên về tình hình lão khoa. Chủ yếu là công việc thay khớp và hông. Tôi không biết nhiều về thần kinh. Cơ hội hồi phục ra sao?”
“Bằng không, tình trạng này là vĩnh viễn”, Rhyme nói, có vẻ hơi vội vàng. Anh nói thêm: “Bác sĩ hiểu vấn đề của tôi, đúng không?” “Tôi nghĩ vậy. Nhưng tôi muốn nghe anh nói điều đó.”
Lắc đầu để tự dọn dẹp mấy sợi tóc nổi loạn, Rhyme nói: “Ai cũng có quyền tự sát.”
Berger đáp: “Tôi nghĩ tôi không đồng ý với điều này. Trong hầu hết các xã hội, có thể anh có quyền lực nhưng không có quyền. Khác nhau đấy.” Rhyme cười cay đắng. “Tôi chẳng phải là nhà triết học. Nhưng tôi thậm chí cũng chẳng có quyền lực. Chính vì thế mà tôi cần đến bác sĩ.” Lincoln Rhyme đã đề nghị bốn bác sĩ giết anh. Tất cả đều từ chối. Anh nói, cũng được, anh sẽ tự làm và đơn giản là không ăn nữa. Nhưng quá trình tự loại bỏ mình cho đến chết trở thành sự tra tấn thuần túy. Nó làm cho dạ dày anh đau dữ dội và tạo ra những cơn đau đầu khủng khiếp. Anh không thể ngủ được. Vậy là anh bỏ ý định và sau đó trong một cuộc nói chuyện kinh khủng, anh đã yêu cầu Thom giết mình. Chàng thanh niên gần phát khóc – lần đầu tiên cậu ta thể hiện nhiều tình cảm đến thế – và nói cậu ta ước gì mình có thể làm được. Cậu ta có thể ngồi nhìn Rhyme chết, cậu ta có thể từ chối không cứu sống anh. Nhưng cậu ta không thể giết anh được. Thế rồi có một phép màu. Nếu có thể gọi như vậy.
Sau khi cuốn The Scenes of the Crime được xuất bản, phóng viên bắt đầu xuất hiện để phỏng vấn anh. Một bài báo – trên Thời báo New York – có
đoạn trích dẫn cay độc dưới đây của tác giả Rhyme:
“Không, tôi không có dự định viết thêm cuốn sách nào nữa. Thực tế, dự án lớn tiếp theo của tôi sẽ là tìm cách tự sát. Đây thực sự là một thách thức. Tôi đã cố gắng tìm ai đó có thể giúp được tôi trong suốt sáu tháng qua.”
Dòng chữ chấn động này đã thu hút sự chú ý của dịch vụ tư vấn của NYPD và một số người trước đây đã biết Rhyme, nhất là Blaine (người đã nói với anh rằng anh là đồ điên khi tính đến điều đó, anh phải ngừng việc chỉ nghĩ về bản thân anh đi – giống như khi họ còn ở với nhau – và bây giờ, khi mà cô đã đến, cô nghĩ cô cần nói rằng, cô sắp tái hôn).
Trích dẫn này cũng thu hút sự chú ý của William Berger, người một đêm đột ngột gọi điện cho anh từ Seattle. Sau một vài phút trao đổi xã giao,Berger nói ông ta đã đọc bài báo về Rhyme. Sau một khoảng lặng trống rỗng, ông hỏi: “Anh đã bao giờ nghe nói đến Hội Bến mê chưa?”
Rhyme đã được nghe. Đó là một nhóm ủng hộ chết tự nguyện không đau đớn mà anh đã cố gắng theo đuổi trong nhiều tháng. Hội này nguy hiểm hơn rất nhiều so với Con đường An lạc hay Hội Độc cần[25]. “Những người tình nguyện của chúng tôi bị truy nã để thẩm vấn về hàng chục vụ tự tử có trợ giúp trên toàn quốc”, Berger giải thích. “Chúng tôi phải cố giữ bí mật.”
Ông ta nói ông ta muốn xem xét yêu cầu của Rhyme. Berger không đồng ý hành động nhanh chóng và họ đã có một vài cuộc trao đổi trong bảy hoặc tám tháng qua. Hôm nay là buổi gặp mặt đầu tiên của họ.
“Vậy là anh không có cách nào để tự mình vượt qua, phải không?” Vượt qua…
“Nếu như kiểu của Gen Harrod thì không. Và cũng có phần không được chắc chắn lắm.”
Harrod là một thanh niên sống ở Boston, một người tàn tật, anh ta muốn tự tử. Không tìm được người giúp đỡ, cuối cùng anh ta quyết định tự làm bằng cách duy nhất mà anh ta có thể. Với một chút khả năng kiểm soát mà anh ta có, anh ta đốt căn hộ của mình, khi căn hộ cháy anh ta lái chiếc xe lăn vào trong đám cháy và tự thiêu. Anh ta chết vì bỏng độ ba.
Vụ này thường được những người ủng hộ quyền được chết đưa ra như ví dụ về thảm kịch mà luật chống quyền được chết không đau đớn có thể gây ra.
Berger cũng biết vụ này và lắc đầu thông cảm. “Không, như thế thì không ai muốn chết.” Ông ta phân tích cơ thể Rhyme, đám dây dẫn và bảng điều khiển. “Kỹ năng cơ học của anh ra sao?”
Rhyme giải thích về ECU – Bộ điều khiển E&J do ngón tay đeo nhẫn của anh vận hành, bộ điều khiển bằng cách hút và thổi cho miệng anh, những cái cần điều khiển bằng cằm, một máy tính đọc chính tả có thể đưa ra màn hình các từ anh đọc.
“Nhưng mọi thứ phải được người khác thiết lập cho anh, đúng không?” Berger hỏi. “Ví như ai đó phải đến cửa hàng, mua khẩu súng, giương lên, lên cò và nối nó vào bộ điều khiển của anh.”
“Đúng thế.”
Làm cho người đó cảm thấy có tội âm mưu giết người, cũng như ngộ sát.
“Thiết bị của anh thế nào?” Rhyme hỏi. “Hiệu quả không?” “Thiết bị nào?”
“Anh dùng gì? Hừm, để làm việc đó ấy mà?”
“Rất hiệu quả. Tôi chưa bị bệnh nhân nào than phiền cả.” Rhyme nháy mắt và Berger cười. Rhyme cười với ông ta. Nếu anh không thể cười vì cái chết thì anh còn cười vì điều gì được nữa?” “Anh xem đi.”
“Anh đem nó theo à?” Hy vọng bừng lên trong tim Rhyme. Lần đầu tiên sau nhiều năm anh cảm nhận được cảm giác ấm áp đó.
Bác sĩ mở chiếc ca táp của ông ta ra – lấy ra một chai rượu mạnh, hành động của ông ta hơi mang vẻ nghi lễ. Một lọ thuốc nhỏ. Một chiếc túi nhựa và một băng cao su.
“Thuốc gì vậy?”
“Seconal. Không còn ai kê nữa. Ngày xưa tự tử dễ dàng hơn nhiều. Những em bé này chắc chắn sẽ làm tốt, không cần thắc mắc. Giờ đây thì không thể nào tự giết mình được với những thứ thuốc an thần hiện đại. Halcion, Librium, Dalmane, Xanax… Anh có thể sẽ ngủ rất lâu nhưng rồi cuối cùng thì anh cũng sẽ tỉnh lại.”
“Còn cái túi?”
“À, cái túi.” Berger nhặt nó lên. “Đây là biểu tượng của Hội Bến mê. Tất nhiên là phi chính thức – không giống như logo của chúng ta. Nếu thuốc và rượu mạnh chưa đủ, chúng ta sẽ dùng đến cái túi. Trùm lên đầu, buộc sợi dây cao su quanh cổ. Chúng tôi cho vào đó một ít đá vì sau mấy phút nó sẽ khá nóng.”
Rhyme không thể rời mắt khỏi bộ ba dụng cụ. Cái túi, sợi dây cao su dày như tấm tạp dề của thợ sơn. Chai rượu rẻ tiền và lọ thuốc là loại thông thường, anh nghĩ.
“Thật là một ngôi nhà đẹp”, Berger nhình quanh và nói. “Phía tây Công viên Trung tâm…. Anh có nhận trợ cấp tàn tật không?”
“Có một ít. Tôi còn tư vấn cho cảnh sát và FBI[26]. Sau tai nạn, công ty xây dựng đền bù cho tôi ba triệu đô la. Họ thề rằng họ không có trách nhiệm gì nhưng rõ ràng có một quy tắc luật pháp quy định rằng một người liệt toàn thân động thắng trong bất kỳ vụ kiện nào chống lại các công ty xây dựng, bất kể đó là lỗi của ai. Ít nhất nếu nguyên đơn đến tòa để bày trò.”
“Rồi anh viết cuốn sách đó, đúng không?”
“Tôi nhận được một ít tiền từ đó. Không nhiều. Đó là một cuốn ‘bán khá chạy’. Chưa phải là cuốn bán chạy nhất.”
Berger nhặt một cuốn The Scene of the Crime, lật qua. “The Scene of the Crime nổi tiếng. Nhìn này.” Ông ta cười. “Ở đây có đến bốn mươi, năm mươi hiện trường?”
“Năm mươi mốt.”
Rhyme nhớ lại – trong trí nhớ và trí tưởng tượng của anh, vì anh đã viết cuốn sách sau vụ tai nạn – tất cả các hiện trường vụ án xưa cũ của Thành phố New York mà anh có thể nhớ được. Một số vụ được giải quyết, một số không. Anh viết về Nhà máy Bia Cũ, một căn phòng khét tiếng tại Five Points, nơi mười ba vụ giết người không liên quan đến nhau đã xảy ra trong một đêm vào năm 1839. Viết về Charles Aubridge Deacon, người đã giết mẹ mình vào ngày Mười ba tháng Sáu năm 1863, trong một cuộc nổi loại chống quân dịch thời kỳ Nội chiến. Hắn đổ cho những người cựu nô lệ đã giết bà và gây ra một cơn thịnh nộ chống lại người da đen. Viết về vụ giết người vì cuộc tình tay ba của kiến trúc sư Stanford White bên trên Khu vườn Quảng trường Madison và về sự mất tích của Thẩm pháp Crater. Về
George Metesky, kẻ đánh bom mất trí trong những năm 1950 và Murph Lướt sóng, kẻ ăn trộm viên kim cương Ngôi sao Ấn Độ.
“Vật liệu xây dựng thế kỷ XIX, những dòng chảy ngầm, trường đào tạo quản gia”, Berger trích dẫn, lật qua các trang sách, “nhà tắm đồng tính, nhà thổ khu Chinatown[27], nhà thờ Chính thống giáo Nga… Làm thế nào anh biết được tất cả những điều đó về thành phố?”
Rhyme nhún vai. Trong những năm lãnh đạo IRD, anh đã nghiên cứu rất nhiều về thành phố, nhiều như anh từng nghiên cứu về ngành pháp y. Lịch sử, chính trị, xã hội học, cơ sở hạ tầng của thành phố. Anh nói: “Các nhà hình sự học không tồn tại trong chân không. Anh càng biết nhiều về môi trường, anh càng ứng dụng tốt hơn…”
Vừa nghe thấy âm hưởng nhiệt tình trong giọng nói của mình, anh đột ngột dừng lại.
Tự giận dữ với bản thân vì đã bị mắc bẫy dễ như vậy.
“Làm hay lắm, bác sĩ Berger”, Rhyme nói đầy căng thẳng. “Nào. Hãy gọi tôi là Bill. Làm ơn đi.”
Rhyme không có ý định trệch đường ray lần nữa. “Tôi nghe điều này nhiều lần rồi. Hãy lấy một tờ giấy thật to, sạch sẽ, nhẵn nhụi và viết ra tất cả những lý do vì sao tôi nên tự tử. Sau đó, lại lấy một tờ giấy thật to, sạch sẽ, nhẵn nhụi khác và viết ra tất cả lý do vì sao tôi không nên. Những từ như kiểu năng suất, hữu ích, thú vị, thách thức sẽ hiện trong đầu. Những từ đao to búa lớn. Những từ đáng giá cả mười đô la. Chúng chẳng có ý nghĩa chết tiệt gì với tôi cả. Ngoài ra, tôi cũng chẳng thể cầm được một cái bút chì của nợ lên để mà cứu rỗi tâm hồn mình.”
“Lincoln”, Berger mềm mỏng nói tiếp. “Tôi cần đảm bảo anh là ứng cử viên phù hợp cho chương trình.”
“Ứng cử viên? Chương trình? À, sự độc tài của học thuyết quyền được chết không đau đớn”, Rhyme cay đắng nói. “Này bác sĩ, tôi đã quyết định rồi. Tôi muốn làm việc này ngay hôm nay. Thực sự là ngay bây giờ.” “Vì sao lại là hôm nay?”
Ánh mắt Rhyme trở lại với đám chai lọ và cái túi. Anh thì thầm: “Sao lại không? Hôm nay là ngày nào? Hai mươi ba tháng Tám? Cũng là một ngày tốt để chết như những ngày khác thôi mà.”
Ông bác sĩ mấp máy đôi môi mỏng. “Tôi phải có thời gian nói chuyện với anh, Lincoln. Nếu tôi được thuyết phục là anh thực sự quyết tâm tiến hành…”
“Tôi muốn”, Rhyme nói. Như mọi lần, anh nhận ra rằng ngôn từ của chúng ta yếu ớt đến đâu khi không có điệu bộ cơ thể hỗ trợ. Anh thực sự muốn đặt tay mình lên tay Berger hay nhấc bàn tay mình lên cầu xin.
Không cần xin phép, Berger lấy trong túi ra một gói Marlboros và cái bật lửa. Ông ta lấy chiếc gạt tàn kim loại gấp trong túi và mở nó ra. Bắt tréo đôi chân gầy guộc. Ông ta trông giống như một chàng công tử bột trong phòng hút thuốc của một trường đại học hàng đầu. “Lincoln, anh hiểu vấn đề của chúng ta ở đây, đúng không nào?”
Chắc chắn rồi, anh hiểu. Đó chính là lý do vì sao Berger đến đây và vì sao một trong những bác sĩ của Rhyme chưa “làm nhiệm vụ”. Đem một cái chết không thể tránh khỏi đến ngay lập tức là một chuyện; gần một phần ba số bác sĩ hành nghề điều trị cho những bệnh nhân không thể qua khỏi đã kê hoặc cho kê những đơn thuốc quá liều. Phần lớn các công tố viên làm ngơ trước điều đó, trừ khi chính bác sĩ tiết lộ – như trường hợp của Kevorkian.
Nhưng còn một người liệt tứ chi? Người bán thân bất toại? Người liệt toàn thân? Người tàn tật? Ồ, đó lại là chuyện khác. Lincoln Rhyme năm nay bốn mươi tuổi. Anh không còn phải dùng máy thở, nếu không vì một số gen ẩn nào đó trong dòng họ Rhyme thì không có lý do y học nào khiến anh không thể sống đến tám mươi tuổi.
Berger nói thêm: “Tôi xin phép được thô lỗ một chút, Lincoln. Tôi cần đảm bảo rằng đây không phải là một cái bẫy.”
“Một cái bẫy?”
“Các công tố viên. Trước đây tôi cũng đã từng mắc bẫy.”
Rhyme cười. “Chưởng lý New York là một người bận bịu. Ông ta sẽ không mất công nghe trộm một người tàn tật đang tìm cho mình một người ủng hộ quyền được chết không đau đớn đâu.”
Liếc nhìn bản báo cáo hiện trường vụ án.
… cách nạn nhân khoảng mười feet về phía tây nam, tìm thấy vài thứ trên một đống cát trắng: một cuộn sợi đường kính khoảng sáu cm, bắt đầu phai màu. Sợi đã được phân tích trong máy X-quang tán xạ năng lượng và cho thấy có chứa A2 B5 (Si, Al)8 O22 (OH)2. Không tìm thấy nguồn, không
phân biệt được sợi. Mẫu đã đuợc gửi tới văn phòng PERT[28] của FBI để phân tích.
“Tôi phải thận trọng”, Berger nói tiếp. “Việc này là cả sự nghiệp của tôi. Tôi đã hoàn toàn từ bỏ ngành lão khoa. Nói chung, đó không chỉ là công việc. Tôi quyết định dành cuộc đời mình để giúp người khác chấm dứt cuộc đời họ.”
Bên cạnh cuộn sợi còn tìm thấy hai mẩu giấy cách đó khoảng ba inch[29]. Một mẩu là loại giấy báo bình thường, trên đó có mấy từ “3:00 PM” in với phông chữ Times Roman bằng loại mực in báo thương mại thông thường. Mẩu giấy kia có vẻ như là góc của một trang sách trên đó có in số trang “823”. Phông chữ Garamond và được ghi ngày. Phân tích ALS[30] và phân tích ninhydrin[31] tiếp theo không cho thấy dấu vết in hằn trên mặt giấy. Không thể phân loại được.
* * *
Có vài điều hối thúc Rhyme. Thứ nhất là cuộn sợi. Vì sao Peretti lại không biết được ngay đó là gì nhỉ? Cái đó thật rõ ràng. Và vì sao những vật chứng này – những mẩu giấy và cuộn sợi – lại nằm cạnh nhau? Ở đây có gì đó không ổn.
“Lincoln?”
“Tôi xin lỗi.”
“Tôi đang nói là… Anh không phải nạn nhân bỏng đang chịu cơn đau không thể chịu đựng nổi. Anh không phải là người vô gia cư. Anh có tiền, anh có tài năng. Việc tư vấn cho cảnh sát của anh… việc đó giúp được rất nhiều người. Nếu anh muốn, anh có thể có… một cuộc sống hữu ích phía trước. Một cuộc đời dài.”
“Dài, đúng. Thế mới là vấn đề. Một cuộc đời dài.” Anh cảm thấy mệt vì phải tỏ ra có thái độ cư xử tốt. Anh nói: “Nhưng tôi không muốn một cuộc đời dài. Đơn giản thế thôi.”
Berger chậm rãi nói: “Nếu có bất kỳ một cơ hội nhỏ nhất nào mà anh lại tiếc nuối về quyết định của mình, thì, xem nào, tôi là người phải sống với
nó. Không phải anh.”
“Ai mà có thể chắc chắn về một điều gì đó tương tự được?” Ánh mắt anh lại quay về với bản báo cáo.
Tìm thấy được một con ốc kim loại bên trên các mẩu giấy. Đó là một con ốc hình lục lăng, trên đầu có đóng các chữ “CE”. Dài hai inch, xoắn theo chiều kim đồng hồ, đường kính 15/16 inch.
* * *
“Mấy ngày tới tôi bận”, Berger nhìn đồng hồ nói. Đó là một chiếc Rolex. Hừm, cái chết luôn sinh lời. “Giờ thì chúng ta có khoảng một tiếng. Hãy nói chuyện một lúc, sau đó anh có một ngày nghỉ ngơi và tôi sẽ quay lại.”
Điều gì đó hối thúc Rhyme. Một cơn ngứa điên người – lời nguyền của tất cả những người liệt tứ chi – mặc dù trường hợp này là một cơn ngứa trí tuệ. Kiểu ngứa ngáy ám ảnh cả cuộc đời anh.
“Này bác sĩ, làm ơn giúp tôi một chút, được không? Bản báo cáo ở kia. Anh có thể lật qua nó, được không? Tìm cho tôi bức hình của một con ốc.” Berger ngần ngại. “Một bức hình?”
“Một bức hình Palaroid chụp lấy ngay. Nó phải được gắn đâu đó ở cuối. Cái khung lật trang này chậm quá.’
Berger nhấc bản báo cáo ra khỏi cái khung và lật trang giúp Rhyme. “Ở đó. Dừng.”
Anh nhìn vào bức hình và một cảm giác khẩn cấp khó chịu chiếm lấy anh. Ôi, không phải ở đây, không phải lúc này. Làm ơn đi, không. “Tôi xin lỗi, anh có thể lật lại trang lúc nãy được không?” Berger lật lại.
Rhyme không nói gì, chăm chú đọc.
Những mẩu giấy…
3:00 PM… trang 823
Tim Rhyme đập mạnh, đổ mồ hôi trán. Anh nghe tiếng ù ù trong tai.
Đây là một tiêu đề bài báo trong một tờ báo khổ nhỏ. MỘT NGƯỜI CHẾT KHI NÓI CHUYỆN VỚI BÁC SĨ TỬ THẦN…
Berger chớp mắt. “Lincoln? Anh ổn chứ?” Đôi mắt từng trải của người đàn ông quan sát Rhyme thật kỹ lưỡng.
Cố gắng tỏ ra bình thường nhất có thể, Rhyme nói: “Tôi hiểu, bác sĩ, tôi xin lỗi. Nhưng tôi cần làm mấy việc.”
Berger chậm rãi gật đầu, không chắc chắn lắm. “Cuối cùng thì vụ này không được ổn lắm, phải không?”
Cười. Lãnh đạm. “Tôi băn khoăn không biết có thể yêu cầu ông quay lại đây sau vài giờ nữa đươc không?”
Cẩn thận. Nếu ông ta cảm nhận được mục đích, ông ta sẽ coi anh là loại không muốn tự sát, lấy lại đám chai lọ và cái túi nhựa của ông ta rồi bay về xứ Starbucks.
Mở cuốn sổ hẹn ra, Berger nói: “Ngày hôm nay không được. Ngày mai… Không. Tôi sợ rằng sớm nhất là thứ Hai. Ngày kia.” Rhyme ngần ngừ. Chúa ơi… Sự mong chờ cuối cùng đã gần như nằm trong tay anh, điều mà anh mơ tới hằng ngày trong mấy năm qua. Có hay không?
Quyết định.
Cuối cùng, Rhyme nghe thấy mình nói: “Được. Thứ hai.” Cố nặn ra một nụ cười vô vọng.
“Chính xác thì vấn đề là gì?”
“Một người cùng làm với tôi trước kia. Anh ta muốn có lời khuyên của tôi. Tôi chưa thực sự quan tâm tới điều đó, như tôi cần phải làm. Tôi phải gọi cho anh ta.”
Không, đó chẳng phải là liệt phản xạ, đó là một cơn lo lắng. Lincoln Rhyme cảm thấy điều gì đó mà lâu lắm anh chưa hề cảm thấy. Anh đang cực kỳ vội vàng.
“Ông có thể gọi Thom lên đây được không? Tôi nghĩ cậu ta ở dưới nhà, trong bếp.”
“Vâng, tất nhiên rồi. Rất vui lòng.”
Rhyme có thể nhìn thấy điều gì đó khác thường trong mắt Berger. Cái gì vậy? Có thể. Gần như là sự thất vọng. Khi tiếng chân người bác sĩ nhỏ dần
dưới cầu thang, Rhyme hét lên với chất giọng trầm như bom nổ: “Thom? Thom!”
“Gì vậy?” Giọng người thanh niên trả lời.
“Gọi cho Lon. Bảo anh ta quay lại đây. Ngay bây giờ.”
Rhyme liếc nhìn đồng hồ. Đã quá trưa. Họ chỉ còn chưa đầy ba giờ nữa.
BỐN
“Hiện trường vụ án bị dàn cảnh”, Lincoln Rhyme nói.
Lon Sellitto phanh áo khoác, để lộ một chiếc áo sơ mi nhàu nhĩ. Anh ta đang ngửa lưng về phía sau, khoanh tay, dựa vào một cái bàn đầy sách báo. Jerry Banks cũng đã quay lại, đôi mắt xanh nhợt của anh ta đang nhìn vào mắt Rhyme; cái giường và bảng điều khiển không còn làm anh ta quan tâm nữa.
Sellitto nghiêm nghị. “Vậy đối tượng định nói gì với chúng ta?” Trên hiện trường vụ án, đặc biệt là những vụ giết người, đối tượng thường chơi đùa với PE[32] hòng lừa điều tra viên. Một số tên khá thông minh, nhưng phần lớn không như vậy. Chẳng hạn một người chồng đánh vợ mình đến chết rồi tạo hiện trường như vụ cướp – mặc dù anh ta chỉ nghĩ tới việc ăn trộm đồ nữ trang của cô ta – mà vẫn để lại chiếc vòng cổ vàng và chiếc nhẫn kim cương hồng của mình trong ngăn kéo.
“Điều thú vị”, Rhyme nói tiếp. “Không phải là điều đã xảy ra, Lon. Mà là điều sẽ xảy ra.”
Sellitto nghi ngờ hỏi: “Điều gì khiến anh nghĩ vậy?”
“Những mẩu giấy. Chúng có nghĩa là ba giờ chiều nay.”
“Hôm nay?”
“Nhìn này!” Hất đầu về phía bản báo cáo, một cái hất đầu thiếu kiên nhẫn.
“Mẩu giấy đó nói ba giờ chiều”, Banks chỉ ra. “Nhưng mẩu kia chỉ có số trang. Tại sao anh nghĩ như thế có nghĩa là hôm nay?”
“Đấy không phải là số trang.” Rhyme nhướn mày. Họ vẫn chưa hiểu. “Logic! Lý do duy nhất khi bỏ lại dấu vết là để nói gì đó với chúng ta. Nếu đúng như vậy thì 823 phải có ý nghĩa gì khác hơn là số trang, vì chẳng có dấu hiệu gì để chỉ ra nó được lấy từ cuốn sách nào. Và nếu đó không phải là số trang thì sẽ là gì được?”
Im lặng.
Điên tiết. Rhyme quát lên: “Đấy là ngày tháng. Tám hai mươi ba. Ngày Hai mươi ba tháng Tám. Điều gì đó sẽ xảy ra lúc ba giờ chiều nay. Còn bây giờ, một cuộn sợi? Đấy là abestos[33].”
“Abestos?” Sellitto hỏi.
“Trong bản báo cáo? Công thức? Đó là hornblende[34]. Silicon dioxide. Đó là abestos. Vì sao Peretti lại gửi nó cho FBI thì tôi không hiểu. Như vậy thì sao. Chúng ta có abestos trên lòng đường ray, nơi mà không thể có được. Và chúng ta có một con ốc sắt với phần đầu hoen gỉ nhưng phía dưới thì không. Điều đó có nghĩa là con ốc này đã được vặn ở đâu đó rất lâu và mới được tháo ra.”
“Có thể nó được moi từ dưới đất lên”, Banks đề xuất. “Khi hắn ta đào huyệt?”
Rhyme nói: “Không. Ở Midtown nền đá rất gần với mặt đất, điều đó có nghĩa là tầng ngậm nước cũng vậy. Tất cả đất từ Phố Ba mươi tư lên tới khu Harlem chứa đủ nước để làm oxy hóa sắt trong vòng vài ngày. Nếu bị chôn, nó sẽ phải gỉ hoàn toàn chứ không chỉ phần đầu. Không phải, nó đã được tháo ra ở đâu đó, được đem tới hiện trường và được bỏ lại đó. Còn cát… Nào, cát trắng làm gì trên đường tàu ở Midtown Manhattan? Thành phần đất ở đây là đất mùn, phù sa, đá vôi, nền cứng và đất sét mềm.”
Banks bắt đầu nói nhưng Rhyme đột ngột cắt lời anh ta. “Và tất cả những thứ đó được tập hợp lại để làm gì? Ồ, nghi phạm của chúng ta, hắn định nói điều gì đó với chúng ta. Chắc chắn là thế. Banks, còn cánh cửa để vào thì sao?”
“Anh đã đúng”, người thanh niên nói. “Họ tìm thấy một cánh cửa cách huyệt khoảng một trăm feet về phía bắc. Bị phá từ bên trong. Anh cũng đúng về dấu tay. Chẳng có gì. Cũng chẳng có vết lốp xe hay dấu vết nào.” Một cuộn abestos bẩn, một con ốc, một tờ báo rách…
“Hiện trường?” Rhyme hỏi. “Vẫn nguyên trạng chứ?”
“Đã giải phóng rồi.”
Lincoln Rhyme, một kẻ tàn tật với lá phổi của tên sát nhân, ầm ĩ thở hắt ra, đầy kinh tởm. “Ai mắc sai lầm này?”
“Tôi không biết”, Sellitto nói, vẻ không thuyết phục. “Có thể là người chỉ huy giám sát.”
Đó là Peretti, Rhyme hiểu. “Giờ thì các anh kẹt với những gì các anh có.”
Bất kỳ dấu vết nào để chỉ ra kẻ bắt cóc là ai và hắn đang mưu tính điều gì hoặc đã nằm trong báo cáo, hoặc đã vĩnh viễn biến mất; đã bị chân của cảnh sát, người đến xem và nhân viên đường sắt giẫm lên. Đào bới – hỏi han dân cư xung quanh hiện trường vụ án, phỏng vấn nhân chứng, thu thập chứng cứ, những công việc truyền thống của thám tử – được tiến hành một cách nhàn nhã. Nhưng hiện trường vụ án phải được khảo nghiệm “như sét đánh”, Rhyme thường hạ lệnh cho sĩ quan của mình ở IRD. Anh đã đuổi việc vài kỹ thuật viên CSU[35], những người di chuyển không được nhanh như anh yêu cầu.
“Có phải Peretti tự xử lý hiện trường không?” Anh hỏi.
“Peretti và toàn thể bộ sậu.”
“Toàn thể bộ sậu?” Rhyme hỏi chế giễu. “Toàn thể bộ sậu là cái gì?” Sellitto nhìn Banks, người trả lời: “Bốn kỹ thuật viên ảnh, bốn người lấy dấu. Tám nhân viên tìm kiếm. Bác sĩ khám nghiệm ME.”
“Tám nhân viên tìm kiếm hiện trường vụ án?”
Trong khám nghiệm hiện trường vụ án, có một đường cong dạng chuông. Hai sĩ quan được xem là hiệu quả nhất khi khám nghiệm hiện trường giết người. Một mình, anh có thể bỏ qua vài thứ, ba người trở lên anh còn đánh mất nhiều thứ hơn. Lincoln Rhyme luôn khám nghiệm hiện trường một mình. Anh để nhân viên lấy dấu vân tay, dấn chân, chụp ảnh, quay phim. Còn anh luôn tự mình đan lưới.
Peretti. Khoảng sáu, bảy năm trước Rhyme đã thuê người thanh niên này, con trai một chính trị gia giàu có và anh ta đã chứng tỏ được mình là một thám tử hiện trường tốt, rất sách vở. Đơn vị khám nghiệm hiện trường luôn được coi là một nơi béo bở và thường phải xếp hàng khá dài để vào được đơn vị. Rhyme luôn thích thú khi được rút ngắn hàng người đợi này bằng cách cho họ xem album ảnh gia đình – một bộ sưu tập những bức ảnh hiện trường vụ án kinh khủng nhất. Một số sĩ quan tái mặt, một số khác cười khẩy. Một vài người trả lại cuốn album, nhướn lông mày như muốn
hỏi, Thì sao? Và đó lại là những người mà Lincoln Rhyme sẽ thuê. Peretti là một người như vậy.
Sellitto hỏi một câu. Rhyme thấy người thám tử này đang nhìn anh. Sellitto nhắc lại: “Anh sẽ cùng chúng tôi làm vụ này chứ, Lincoln?” “Làm việc với anh?” Lincoln vừa ho vừa cười. “Không được đâu, Lon. Không. Tôi chỉ đưa ra cho các anh vài ý tưởng thôi. Anh có chúng rồi đấy. Dùng chúng đi. Thom, gọi Berger cho tôi.” Anh đang nuối tiếc việc lùi cuộc gặp mặt đối mặt với bác sĩ tử thần. Có thể vẫn chưa quá muộn. Anh không thể chịu đựng nổi ý nghĩ phải chờ thêm một, hai ngày nữa cho sự ra đi của mình. Và thứ Hai… Anh không muốn chết vào thứ Hai. Điều này xem ra quá tầm thường.
“Hãy nói làm ơn đi.”
“Thom!”
“Được rồi”,. người trợ lý trẻ tuổi nói, giơ hai tay đầu hàng. Rhyme liếc nhìn vào một điểm trên chiếc bàn đầu giường của anh, cái lọ, những viên thuốc và cái túi nhựa đã được đặt ở đó – quá gần, nhưng lại giống với tất cả những thứ khác trong cuộc đời này, hoàn toàn nằm ngoài tầm với của Lincoln Rhyme.
Sellitto gọi một cuộc điện thoại, nghiêng đầu khi cuộc gọi thông. Anh ta tự giới thiệu. Chiếc đồng hồ trên tường chỉ 12:30.
“Vâng, thưa ngài.” Giọng viên thám tử trầm xuống thành tiếng thì thầm kính trọng. Thị trưởng, Rhyme đoán. “Về vụ bắt cóc ở sân bay Kennedy. Tôi đã nói chuyện với Lincoln Rhyme… Vâng, thưa ngài, anh ta đã có một vài ý tưởng về việc này.” Viên thám tử bước về phía cửa sổ, nhìn chằm chằm con chim ưng một cách trống rỗng và đang cố gắng giải thích một điều không thể giải thích cho người đàn ông đang điều hành thành phố bí ẩn nhất thế giới này. Anh ta dập máy và quay lại phía Rhyme.
“Ông ta và cả sếp muốn có anh, Linc. Họ đòi riêng anh. Chính Wilson.” Rhyme cười. “Lon. Nhìn quanh phòng xem. Nhìn tôi đây! Có giống như là tôi đang làm vụ này không?”
“Không phải một vụ bình thường, không. Nhưng đây là một vụ không bình thường lắm, phải không nào?”
“Tôi xin lỗi. Tôi không có thời gian. Người bác sĩ lúc nãy. Việc điều trị. Thom, cậu đã gọi ông ta chưa?”
“Vẫn chưa. Sẽ gọi ngay bây giờ đây.”
Thom nhìn Sellitto. Đi về phía cửa, bước ra ngoài. Rhyme biết cậu ta sẽ không gọi. Thế giới này thật tệ hại.
Banks chạm tay vào một vết sẹo cạo râu hình chấm và ngắt lời: “Hãy nói cho chúng tôi một vài suy nghĩ của anh. Làm ơn đi. Kẻ nghi phạm đó, hắn…”
Sellitto xua tay để cậu ta im lặng. Anh ta vẫn nhìn Rhyme. Ôi, đồ đê tiện, Rhyme nghĩ. Sự lặng im ngày xưa cũ. Chúng ta thường ghét nó đến đâu và luôn vội vàng để lấp đầy nó. Biết bao nhiêu nhân chứng và nghi phạm đã ẩn nấp dưới những sự im lặng nóng bỏng, dày đặc như thế này. Đúng, anh và Sellitto đã từng làm việc với nhau rất ăn ý. Rhyme hiểu chứng cứ còn Sellitto hiểu con người.
Hai người lính ngự lâm. Và nếu có người thứ ba, thì đó là Sellitto im lặng tinh khiết đầy nghiêm nghị.
Ánh mắt của viên thám tử chìm sâu vào bản báo cáo hiện trường vụ án. “Lincoln, theo anh nghĩ điều gì sẽ diễn ra lúc ba giờ chiều nay?” “Tôi không có ý tưởng gì”, Rhyme tuyên bố.
“Không phải thế chứ?”
“Rẻ tiền quá, Lon. Tôi sẽ trị anh đấy.”
Cuối cùng, Rhyme nói. “Hắn ta sẽ giết cô ấy – người phụ nữ trên chiếc taxi. Và giết một cách rất tệ hại, tôi đảm bảo với các anh đấy. Một kiểu có thể sánh ngang với chôn sống.”
“Chúa ơi”, Thom thì thầm phía ngoài cửa.
Vì sao họ lại không để anh yên? Liệu có tốt hơn không khi anh nói cho họ biết về cơn đau anh đang cảm thấy ở cổ và trên vai? Hay là những cơn đau ma quái – yếu hơn nhiều và khó chịu hơn nhiều – đang lang thang khắp cơ thể xa lạ của anh? Về sự kiệt sức mà anh phải chịu đựng hằng ngày khi cố gắng để làm mọi thứ, sự thực là thế. Về sự vô vọng lớn nhất – việc phải trông cậy hoàn toàn vào người khác?
Có thể anh sẽ nói với họ về con muỗi bay vào phòng tối qua và châm chích đầu anh suốt một tiếng đồng hồ; Rhyme chóng cả mặt khi cứ phải gật đầu để xua nó đi cho tới khi con côn trùng đáp xuống tai anh, chỗ mà anh
chấp nhận cho nó đốt, vì đó là chỗ mà anh có thể dụi xuống gối cho đỡ ngứa.
Sellitto nhướn mày.
“Hôm nay”, Rhyme thở dài. “Một ngày. Thế thôi.”
“Cảm ơn, Linc. Chúng tôi nợ anh.” Sellitto kéo chiếc ghế lại gần giường. Ra hiệu cho Banks làm theo. “Còn bây giờ. Cho tôi biết suy nghĩ của anh. Trò chơi của thằng khốn này là gì?”
Rhyme nói: “Đừng nhanh quá như thế. Tôi không làm việc một mình.” “Một kỹ thuật viên của IRD. Người giỏi nhất trong phòng thí nghiệm. Tôi muốn anh ta ở đây với những thiết bị cơ bản. Và chúng ta hãy sẵn sàng với đội chiến thuật. Cấp cứu. Và tôi muốn có vài số điện thoại.” Rhyme hạ lệnh, liếc nhìn chai Scotch trên ngăn kéo của mình. Anh nhớ lại chai rượu mạnh Berger có trong bộ đồ nghề của ông ta. Không đời nào anh lại ra đi bằng cái thứ rác rưởi rẻ tiền đó. Buổi Ra đi Cuối cùng của anh ít nhất sẽ phải là loại Lagavulin mười sáu năm hay Macallan được để vài chục năm. Hoặc – mà sao lại không nhỉ? – cả hai.
Banks rút điện thoại di động. “Số loại nào? Chỉ cần…”
“Số cố định.”
“Ở đây?”
“Tất nhiên là không phải rồi”, Rhyme quát lên.
Sellitto nói: “Ý anh ta là anh muốn người khác gọi điện thoại. Từ Đại Bản Doanh[36].”
“Ồ.”
“Gọi vào thành phố”, Sellitto ra lệnh. “Bảo họ cho ta ba đến bốn điều phối viên.”
“Lon”, Rhyme hỏi. “Ai là người khám nghiệm tử thi ngày hôm nay?” Banks nuốt vào một nụ cười. “Những Chàng trai Dũng cảm.” Một cái liếc mắt của Rhyme tước bỏ nụ cười khỏi khuôn mặt anh ta.
“Thám tử Bedding và Saul, thưa ngài”, chàng thanh niên vội nói. Nhưng sau đó ngay cả Sellitto cũng nhăn mặt. “Những Chàng trai Dũng cảm. Mọi người đều gọi họ thế cả. Anh không biết họ đâu, Linc. Họ làm trong Nhóm Đặc nhiệm Điều tra Trọng án của thành phố.”
“Thứ nhất là họ trông hơi giống nhau”, Banks giải thích. “Thứ hai là kết quả của họ cũng hơi buồn cười.”
“Tôi không muốn bọn diễn viên hề.”
“Không, họ giỏi đấy”, Sellitto nói. “Những điều tra viên hiện trường tốt nhất của chúng tôi. Anh có biết con quái vật đã bắt cóc cô bé tám tuổi ở Queens năm ngoái không? Bedding và Saul đã điều tra đấy. Họ thẩm vấn toàn bộ vùng lân cận – thu được hai nghìn hai trăm lời khai. Điều đó giúp chúng tôi cứu được cô bé. Khi chúng tôi được biết nạn nhân sáng nay là hành khách từ sân bay JFK, sếp Wilson đã phái họ đi.
“Giờ họ đang làm gì?”
“Chủ yếu là nhân chứng. Quanh đường ray. Và đánh hơi xung quanh tìm người lái xe và chiếc taxi.”
Rhyme quát Thom ở phía cuối hành lang: “Cậu đã gọi cho Berger chưa? Không, tất nhiên là cậu chưa gọi. Cậu có hiểu từ ‘bất tuân thượng lệnh’ không? Ít nhất hãy tỏ ra có ích một chút. Hãy đưa cái báo cáo hiện trường vụ án lại gần hơn và lật trang đi.” Anh hất đầu về phía cái khung lật trang. “Cái của nợ này là của Edsel đấy.”
“Chẳng phải hôm nay chúng ta đang có tâm trạng vui vẻ hay sao?” Người trợ lý đối đáp.
“Nâng nó cao lên. Tôi bị lác đến nơi rồi.”
Anh đọc khoảng một phút, rồi nhìn lên.
Sellitto đang nói điện thoại, nhưng Rhyme ngắt lời anh ta. “Bất kể là điều gì sẽ diễn ra lúc ba giờ chiều nay, nếu chúng ta có thể tìm được nơi hắt ta đang nói tới thì đó cũng sẽ là một hiện trường vụ án. Tôi cần ai đó khám nghiệm chỗ này.”
“Tốt”, Sellitto nói. “Tôi sẽ gọi Peretti. Ném cho anh ta một cái xương. Tôi biết là mũi anh ta sẽ vểnh lên vì chúng ta đang đi rón rén quanh anh ta.” Rhyme gầm gừ. “Tôi có càn đến Peretti đâu?”
“Nhưng anh ta là chàng trai vàng của IRD”, Banks nói.
“Tôi không muốn anh ta”, Rhyme cằn nhắn. “Sẽ có ai đó khác mà tôi muốn.”
Sellitto và Banks nhìn nhau. Viên thám tử lớn tuổi hơn cười, xoa tay một cách vô nghĩa vào chiếc áo sơ mi nhàu nát của anh ta. “Bất cứ người
nào anh muốn, Linc, anh sẽ có người đó. Hãy nhớ rằng hôm nay anh là vua.”
* * *
Nhìn chằm chằm vào con mắt mờ đục.
T.J. Colfax, kẻ trốn chạy có mái tóc đen từ vùng đồi Đông Tennessee, tốt nghiệp Trường Quản trị Kinh doanh, Đại học New York, một người buôn bán tiền tệ nhanh như chớp, vừa bơi ra khỏi giấc mộng sâu. Mái tóc rối bù của cô vướng vào gò má, mồ hôi chảy thành dòng trên mặt, cổ và ngực.
Cô thấy mình đang nhìn vào một con mắt đen – một cái lỗ trong một ống hoen gỉ, đường kính khoảng sáu inch, một cái đĩa truy cập nhỏ đã được lấy ra từ đó.
Cô hít thứ không khí mốc meo vào mũi. Miệng cô vẫn đang bị dán chặt, có vị nhựa, chất hồ dán cay. Đắng.
Còn John? Cô băn khoăn. Anh ta đâu rồi? Từ chối không nghĩ tới tiếng nổ lớn trong tầng hầm đêm qua. Cô lớn lên ở Đông Tennessee và cô biết tiếng súng nghe như thế nào.
Làm ơn đi, cô cầu nguyện cho sếp. Hãy để anh ta bình an. Bình tĩnh nào, cô nổi giận với chính mình. Mày lại sắp khóc rồi đấy, mày nhớ điều gì đã xảy ra mà. Trong tầng hầm, sau tiếng súng nổ, cô đã mất phương hướng hoàn tàn, suy sụp, thổn thức trong cơn hoảng loạn và gần như bị chết ngạt.
Đúng rồi. Bình tĩnh.
Nhìn vào con mắt đen trên cái ống. Tưởng như nó đang nháy mắt với mày. Con mắt của thiên thần hộ mệnh.
T.J. ngồi trên sàn, bị hàng trăm đường ống, những đường ống dẫn, những đường cáp điện ngoằn ngoèo như rắn bao quanh. Nóng hơn cả bữa ăn tối tại nhà anh cô, nóng hơn cả cái ghế sau chiếc Nova của Jule Whelan mười năm trước. Nước nhỏ xuống, stalactite[37] rơi xuống từ những cái xà nhà trên đầu cô. Khoảng nửa tá bóng đèn màu vàng nhỏ xíu là nguồn chiếu
sáng duy nhất. Trên đầu cô – ngay trên đỉnh đầu – là một cái biển báo. Cô không thể đọc được nó một cách rõ ràng, dù cô có thể nhìn thấy đường viền đỏ. Phía sau cái thông điệp gì đó có một dấu chấm than to tướng.
Cô cố thử lại một lần nữa, nhưng cái còng giữ cô chặt quá, chọc cả vào xương. Từ cổ họng cô dâng lên một tiếng hét tuyệt vọng, tiếng kêu thét của thú vật. Nhưng miếng băng dính dày trên miệng cô và tiếng ồn ào không nghỉ của máy móc đã nuốt mất âm thanh đó; không ai có thể nghe thấy tiếng của cô.
Con mắt đen tiếp tục nhìn chằm chằm. Mày sẽ cứu tao, đúng không? Cô nghĩ.
Bất ngờ, sự im lặng bị phá vỡ bởi một tiếng lanh lảnh, một cái chuông sắt, ở rất xa. Như cánh cửa của một con tàu bị sập lại. Tiếng động đến từ cái lỗ trên miệng ống. Từ con mắt thân thiện của cô.
Cô thúc còng vào cái ống và cố đứng dậy. Nhưng cô không thể di chuyển được quá vài inch.
Được rồi, không hoảng loạn. Thư giãn. Mày sẽ ổn thôi.
Đó chính là lúc cô nhìn thấy cái biển báo trên đầu. Trong khi cố thả lỏng, cô đã đứng thẳng lên được một chút và nghiêng đầu sang một bên. Điều đó khiến cô có thể nhìn thấy rõ hơn các từ.
Ôi không, Chúa trong tim con…
Và nước mắt lại rơi.
Cô hình dung ra mẹ cô, tóc buộc ngược phía sau, khuôn mặt tròn, mặc bộ đồ ở nhà màu xanh – vàng râu ngô, thì thầm: Ổn thôi, con yêu. Đừng lo lắng gì.”
Nhưng cô không tin những lời đó.
Cô tin vào điều mà biển báo đó nói.
Rất nguy hiểm! Hơi siêu nóng dưới áp suất cao. Không nhấc đĩa ra khỏi ống. Gọi Edison Hợp nhất để truy cập. Rất nguy hiểm.
* * *
Con mắt đen mở nhìn cô, con mắt mở vào trái tim của đường ống dẫn hơi nước. Nó nhìn thẳng vào phần thịt màu hồng trên ngực cô. Từ đâu đó tít ở sâu trong cái ống xuất hiện một tiếng kim loại đập vào kim loại, những người công nhân đang đập búa, vặn chặt lại những mối nối cũ.
Trong khi Tammie Jean Colfax khóc lóc, cô nghe thấy một tiếng va đập nữa. Sau đó là một tiếng rên từ xa, rất nhẹ. Và qua hàng lệ, cô thấy hình như cuối cùng con mắt đen đã nhấp nháy.
NĂM
“Tình hình là như thế này”, Lincoln Rhyme tuyên bố. “Chúng ta có một nạn nhân bị bắt cóc và thời điểm là ba giờ chiều nay.”
“Không có việc đòi hỏi tiền chuộc”, Sellitto thêm vào phần tóm tắt của Rhyme, sau đó anh ta quay đi để trả lời cuộc điện thoại gọi đến. “Jerry”, Rhyme nói với Banks, “tóm tắt cho họ biết về hiện trường vụ án sáng nay”.
Trong căn phòng tối tăm của Lincoln Rhyme đang có nhiều người lượn lờ hơn lúc nào hết. Ồ, sau tai nạn, thỉnh thoảng bạn bè cũng đến mà không báo trước (tất nhiên khả năng Rhyme ở nhà là rất cao), nhưng anh đã không ủng hộ việc này. Và anh cũng không trả lời điện thoại, ngày càng ẩn dật hơn, trôi dần vào sự cô đơn. Anh dành nhiều thời gian cho việc viết sách và khi không còn cảm hứng để viết thêm cuốn nào nữa, thì anh đọc. Khi chán đọc đã có phim thuê, truyền hình trả tiền và âm nhạc. Rồi sau đó anh bỏ cả ti vi và dàn âm thanh, chuyển sang ngắm nghía hàng giờ liền các phiên bản in nghệ thuật mà người trợ lý đã treo lên bức tường đối diện chiếc giường nằm. Cuối cùng, những bức tranh này cũng được hạ xuống.
Cô độc.
Đó là tất cả những gì anh cầu xin, và bây giờ thì anh nhớ nó biết bao. Jim Polling đang đi lại, trông có vẻ căng thẳng. Lon Sellitto là sĩ quan phụ trách vụ án, nhưng những sự kiện như thế này cần có một đại úy chỉ huy và Polling đã tình nguyện làm việc đó. Vụ này là một quả bom hẹn giờ và có thể phá tung sự nghiệp trong nháy mắt, do đó sếp và đội truyền thông của sở sẵn sàng để anh ta đứng ra chắn đạn. Họ sẽ thực hành môn nghệ thuật tạo khoảng cách và khi máy quay phim hoạt động, những cuộc họp báo của họ sẽ được rắc đầy những từ như kiểu ủy quyền, chỉ định và nhận lời khuyên của… Họ sẽ nhanh chóng liếc sang Polling khi có những câu hỏi khó khăn. Rhyme chẳng thể hình dung được tại sao bất kỳ cảnh sát nào trên thế giới cũng có thể tình nguyện làm công việc đó trong một vụ như thế này.
Polling là một người kỳ lạ. Một con người nhỏ bé đã tự khai phá đường đi cho mình qua khu vực Bắc Midtown như một trong những thám tử điều tra các vụ giết người thành công và nổi tiếng nhất thành phố. Nổi tiếng nóng tính, anh ta đã gặp rắc rối nghiêm trọng khi giết chết một nghi phạm không có vũ khí. Nhưng thật kỳ lạ là anh ta lại có thể khôi phục sự nghiệp của mình bằng cách kết thúc thành công vụ Shepherd – vụ giết cảnh sát hàng loạt, vụ mà Rhyme bị thương. Được thăng cấp đại úy sau lần bắt bớ rất công khai này, Polling trải qua một trong những thay đổi khó khăn nhất của cuộc đời – từ bỏ chiếc quần jeans xanh và những bộ vét Sears[38] để đổi lấy những bộ vét sang trọng của Brooks Brothers (hôm nay anh ta mặc một bộ Calvin Klein màu xanh hải quân) – và bắt đầu cuộc leo trèo lì lợm của mình lên một góc văn phòng xa hoa ở One Police Plaza.
Một sĩ quan khác đang dựa vào cái bàn gần đó. Tóc húi cua, vóc dáng cao chắc chắn, Bo Haumann là một đại úy và chỉ huy ESU[39]. Đội đặc nhiệm SWAT[40] của NYPD.
Banks kết thúc phần giới thiệu tóm tắt của mình đúng lúc Sellitto kết thúc cuộc điện đàm của anh ta. “Những Chàng trai Dũng cảm.” “Có thêm thông tin gì về chiếc taxi không?” Polling hỏi.
“Không có gì. Họ vẫn đang đập bụi.”
“Có bất kỳ dấu hiệu gì chứng tỏ cô ta ngủ với ai đó mà cô ta không nên hay không?” Polling hỏi. “Có thể là một thằng bạn trai thần kinh?” “Không. Không có bạn trai. Chỉ hẹn hò bình thường với mấy anh chàng. Trông có vẻ như không có ai theo đuổi.”
“Không có ai gọi điện đòi tiền chuộc?” Rhyme hỏi.
“Không.”
Chuông cửa reo. Thom ra mở cửa.
Rhyme nhìn về phía những giọng nói đang lại gần.
Một khoảnh khắc sau đó, người trợ lý dẫn một sĩ quan cảnh sát mặc cảnh phục lên cầu thang. Từ xa trông cô ta có vẻ rất trẻ, nhưng khi lại gần anh áng chừng cô ta khoảng ba mươi tuổi. Cô ta cao và có vẻ đẹp “vênh váo” của những người đàn bà trên trang bìa của các tạp chí thời trang.
Chúng ta nhìn người khác theo cách tự nhìn chính mình, vì thế sau tai nạn, Lincoln Rhyme rất ít khi nghĩ về mọi người từ phương diện cơ thể của
họ. Anh quan sát chiều cao của cô, cái hông gọn gàng, mái tóc đỏ rực. Người khác có thể nhìn những đặc điểm này và nghĩ, đẹp quá. Nhưng với Lincoln Rhyme, ý nghĩ này không đến. Điều làm anh ấn tượng là cái nhìn trong mắt cô.
Không có sự ngạc nhiên – rõ ràng rồi, chắc ai đó đã báo trước anh là người tàn tật – nhưng là cái gì đó khác. Một biểu hiện mà trước đó anh chưa hề nhìn thấy. Tựa như hoàn cảnh của anh lại làm cô thấy thoải mái. Hoàn toàn trái ngược so với phản ứng của mọi người. Như thể cô đi vào phòng và cô đang thư giãn.
“Sĩ quan Sachs?” Rhyme nói.
“Vâng thưa ngài”, cô nói, tự ngăn được mình trước khi chìa tay ra. “Thám tử Rhyme.”
Sellitto giới thiệu cô với Polling và Haumann. Cô cũng đã biết hai người này, ít nhất qua uy tín của họ nếu không phải vì điều gì khác nữa, giờ thì ánh mắt cô lại càng tỏ ra thận trọng.
Cô quan sát căn phòng, bụi bặm, tăm tối. Liếc nhìn một trong những bức ảnh nghệ thuật. Nó bị mở ra lưng chừng, nằm dưới gầm bàn. Nighthawks[41], tác giả Edward Hopper. Những người cô đơn ngồi bên bàn ăn lúc tối muộn. Một trong những bức tranh cuối cùng bị dỡ xuống.
Rhyme giải thích ngắn gọn về thời hạn ba giờ chiều. Sellitto gật đầu bình thản nhưng Rhyme có thể nhìn thấy một thoáng gì đó trong ánh mắt cô, cái gì nhỉ? Sự sợ hãi? Ghê tởm?
Jerry Banks, những ngón tay đang lúng túng với cái nhẫn học sinh chứ chẳng phải một cái đai đám cưới, ngay lập tức bị vẻ đẹp của cô hấp dẫn và nở một nụ cười tươi hơn bình thường. Nhưng cái liếc mắt đáp lời duy nhất của Sellitto đã cho thấy rõ ở đây không hề có việc mối mai nào cả. Và có lẽ sẽ không bao giờ có.
Polling nói: “Có thể đây là một cái bẫy. Chúng ta tìm thấy chỗ hắn muốn dẫn ta đến, bước vào và ở trong là một quả bom.”
“Tôi nghi ngờ điều đó”, Sellitto nhún vai nói. “Vì sao lại tạo ra tất cả những rắc rối đó? Nếu anh muốn giết một tên cớm thì anh chỉ việc đi tìm lấy một tên và bắn hắn chết toi.”
Một khắc im lặng lúng túng khi Polling nhìn thoáng từ Sellitto sang Rhyme. Suy nghĩ đó tập hợp được từ vụ Shepherd; chính trong vụ đó
Rhyme bị thương.
Nhưng sự lỡ lời này chẳng có nghĩa lý gì với Rhyme, anh tiếp tục: “Tôi đồng ý với Lon. Nhưng tôi sẽ nói với tất cả nhóm S&S[42] và nhóm HRT[43] phải đề phòng mai phục. Anh chàng của chúng ta có vẻ đang viết ra quy tắc riêng cho mình.”
Sachs nhìn bức tranh của Hopper một lần nữa. Rhyme dõi theo ánh mắt cô. Có thể những người trong bữa ăn tối không thực sự cô đơn, anh ngẫm nghĩ, thì trông họ đều rất hài lòng.
“Ở đây ta có hai loại vật chứng”, Rhyme nói tiếp. “Vật chứng chuẩn. Những thứ mà nghi phạm không muốn bỏ lại. Tóc, lông, sợi, vân tay, có thể là máu, dấu giày. Nếu ta có thể tìm đủ vật chứng loại này – và nếu ta may mắn – chúng có thể dẫn ta đến hiện trường thứ nhất. Đây là nơi hắn ta sống.”
“Hay là hang ổ lẩn trốn của hắn”, Sellitto gợi ý. “Một chỗ ở tạm.” “Một nơi ẩn nấp an toàn?” Rhyme gật đầu đăm chiêu. “Chắc là anh đúng đấy, Lon. Hắn cần một nơi để hành động.” Anh tiếp tục: “Sau đó là những vật chứng được cố ý để lại. Ngoài hai mẩu giấy – nói với chúng ta ngày tháng – chúng ta có một con ốc, một cuộn asbestos và cát.” “Một cuộc săn tìm kho báu chết tiệt”, Haumann gầm gừ, vuốt mớ tóc cắt ngắn của mình. Anh ta trông vẫn giống anh chàng trung sĩ tập sự mà Rhyme còn nhớ.
“Điều đó đồng nghĩa với việc tôi có thể báo cáo lên cấp trên là ta có khả năng tìm được nạn nhân đúng lúc?” Polling hỏi.
“Tôi nghĩ thế, có thể.”
Viên đại úy gọi điện thoại và đi về phía góc phòng để nói chuyện. Khi dập máy anh ta càu nhàu: “Thị trưởng. Sếp đang ngồi với ông ấy. Sẽ có một cuộc họp báo sau một tiếng nữa và tôi sẽ phải đến đó để đảm bảo cái của quý của họ vẫn còn trong quần và được kéo khóa. Tôi còn có gì để nói thêm với họ nữa không?”
Sellitto liếc nhìn Rhyme, anh lắc đầu.
“Chưa có gì đâu”, viên thám tử nói.
Polling cho Sellitto số di động của anh ta và đi ra, đúng hơn là chạy ra khỏi cửa.
Một khắc sau, một người đàn ông khoảng ba mươi tuổi, hói, gầy guộc thư thả đi lên gác. Mel Cooper là một người mà lúc nào cũng có vẻ ngớ ngẩn, một nhân vật hàng xóm luộm thuộm trong một vở hài kịch tình thế. Đi sau anh ta là hai cảnh sát trẻ khênh cái rương nồi hấp và hai chiếc va li trông có vẻ nặng cả nghìn pound. Hai viên sĩ quan đặt món hàng nặng nề của mình xuống và ra về.
“Mel.”
“Thám tử.” Cooper đi tới chỗ Rhyme và siết chặt cánh tay vô dụng của anh. Sự tiếp xúc vật lý duy nhất trong ngày với những người khách của anh, Rhyme ghi nhận. Anh và Cooper đã từng làm việc cùng nhau trong nhiều năm. Có bằng hóa hữu cơ, toán và vật lý, Cooper là chuyên gia cả trong lĩnh vực nhận dạng – lấy dấu tay, DNA, tái tạo pháp lý – và phân tích vật chứng.
“Nhà hình sự học hàng đầu thế giới hôm nay thấy thế nào?” Cooper hỏi anh.
Rhyme cảm thấy một sự giễu cợt thiện ý. Danh xưng này được báo chí gắn cho anh mấy năm trước, sau khi một bản tin gây ngạc nhiên về việc FBI đã chọn anh – một cảnh sát thành phố – làm tư vấn cho việc thành lập PERT của họ. Không thỏa mãn với “nhà pháp y hàng đầu”, các phóng viên đã gọi Rhyme là “nhà hình sự học”.
Thuật ngữ này thực ra đã tồn tại nhiều năm, đầu tiên được dùng tại Mỹ cho Paul Leland Kirk[44] huyền thoại, người điều hành Trường Hình sự học của Đại học California ở UC Berkeley. Ngôi trường được sếp August Vollmer huyền thoại hơn thành lập và là ngôi trường đầu tiên thuộc loại này ở nước Mỹ. Gần đây tên gọi đó trở thành mốt, và khi các kỹ thuật viên trên toàn quốc rụt rè làm quen với các cô gái tóc vàng tại những buổi tiệc cocktail, họ giới thiệu mình là các nhà hình sự học thay vì là những nhà khoa học pháp y.
“Ác mộng của mọi người”, Cooper nói, “anh vào taxi nhưng hóa ra lại có một thằng khùng đang lái xe. Cả thế giới đang quan sát Quả Táo Lớn[45] vì cái hội nghị đó. Tôi sẽ lấy làm lạ nếu họ không lôi anh ra khỏi chỗ nghỉ hưu vì việc này.”
“Mẹ anh thế nào?” Rhyme hỏi.
“Vẫn than phiền về mọi cơn đau nhức. Vẫn khỏe hơn tôi.”
Cooper sống với người phụ nữ lớn tuổi đó trong một ngôi nhà ở Queens, nơi anh ta sinh ra. Niềm đam mê của anh ta là khiêu vũ dạ hội – tango là hàng độc của anh ta. Cớm thường đàm tiếu trong IRD về xu hướng giới tính của anh ta. Rhyme không quan tâm đến cuộc sống cá nhân của các nhân viên của mình nhưng cũng đã ngạc nhiên như những người khác khi gặp Greta, bạn gái lâu năm của Cooper, một phụ nữ Bắc Âu lộng lẫy dạy toán tại Columbia.
Cooper mở cái rương lớn lót nhung. Anh ta lấy ra các bộ phận của ba cái kính hiển vi lớn và bắt đầu lắp ráp.
“Ồ, điện trong nhà.” Anh ta thất vọng liếc nhìn ổ cắm, đẩy cái kính gọng kim loại cao hơn lên mũi.
“Vì đây là một ngôi nhà mà, Mel.”
“Tôi đã giả định rằng anh sống trong một cái phòng thí nghiệm. Liệu điều đó có quá ngạc nhiên không?”
Rhyme nhìn chăm chăm các thiết bị, màu đen và màu xám, bầm dập. Giống như những thiết bị anh đã từng ở cùng trong hơn mười lăm năm. Một cái kính hiển vi tiêu chuẩn và một cái dùng ánh sáng phân cực. Cooper mở những cái va li, trong đó có nhiều loại chai lọ, bình và thiết bị thí nghiệm của một Thầy Phù thủy. Trong một thoáng, ngôn từ trở lại với Rhyme, những ngôn từ đã từng là một phần trong vốn từ vựng hằng ngày của anh. Những cái ống lấy máu chân không EDTA[46], acetic acid, orthotolidine, thuốc thử luminol, Magna-Brush, hiện tượng màu tím Ruhemann…
Người đàn ông gầy gò nhìn quanh phòng. “Giống hệt như văn phòng trước kia của anh. Làm thế nào mà anh có thể tìm thấy bất cứ thứ gì ở đây? Ví dụ, tôi muốn có một ít không gian ở đây.”
“Thom.” Rhyme hướng đầu về phía cái bàn ít bừa bộn nhất.. Họ bỏ sang bên các loại báo, tạp chí, sách và để lộ ra cái mặt bàn mà Rhyme đã không nhìn thấy nhiều năm qua.
Sellitto nhìn bản báo cáo hiện trường vụ án. “Chúng ta gọi đối tượng là gì nhỉ? Ta vẫn chưa có số cho vụ này.”
Rhyme liếc nhìn Banks. “Chọn một số đi. Số nào cũng được.” Banks đề nghị: “Số trang. Ừ, ý tôi là ngày tháng.”
“Đối tượng 823. Tốt như bất kỳ số nào khác.”
Sellitto viết con số này vào bản báo cáo.
“Vâng, cho tôi xin lỗi? Thám tử Rhyme?”
Đó là giọng của nữ cảnh sát tuần tra. Rhyme quay về phía cô. “Tôi phải quay lại Đại Bản Doanh vào buổi trưa.”
“Sĩ quan Sachs…”, anh đã ngay lập tức quên mất cô. “Cô là sĩ quan đầu tiên đến hiện trường sáng nay à? Chỗ vụ giết người gần đường ray.” “Đúng thế. Tôi đã nhận cuộc gọi.” Cô nói với Thom.
“Tôi ở đây, thưa sĩ quan.” Rhyme lạnh lùng nhắc cô, cố gắng kiểm soát cơn nóng giận. “Đằng này.” Khi người ta nói với anh qua người khác, qua những người khỏe mạnh, anh tức giận.
Cô xoay đầu lại rất nhanh và anh biết bài học đã được tiếp thu. “Vâng, thưa ngài”, cô nói. Trong giọng cô có sự mềm mại, nhưng trong mắt cô là băng giá.
“Tôi đã giải ngũ. Cứ gọi tôi là Lincoln.”
“Liệu anh có thể làm ơn chấm dứt chuyện này, được không?” “Thế nghĩa là sao?” Anh hỏi.
“Lý do anh đưa tôi đến đây. Tôi xin lỗi. Tôi đã không suy nghĩ. Nếu anh muốn xin lỗi bằng văn bản, tôi sẽ viết. Có điều là tôi đã bị muộn cho nhiệm vụ mới và tôi không có cơ hội gọi điện cho chỉ huy của tôi.” “Xin lỗi?” Rhyme hỏi.
“Vấn đề là tôi không hề có kinh nghiệm thực tế về hiện trường vụ án. Tôi chỉ là dân nghiệp dư.”
“Cô đang nói gì thế?”
“Chặn đoàn tàu và phong tỏa Đại lộ Mười một. Chính vì lỗi của tôi mà ngài thượng nghị sĩ đã không kịp phát biểu ở New Jersey và một vài quan chức cao cấp Liên Hiệp Quốc không đến kịp cuộc họp từ sân bay Newark.” Rhyme chặc lưỡi. “Cô có biết tôi là ai không?”
“À. Tôi cũng có nghe về anh. Tôi nghĩ là anh đã…”
“Đã chết?” Rhyme hỏi.
“Không, ý tôi không phải như vậy.” Dù ý cô đúng là như vậy. Cô nhanh chóng nói tiếp: “Tất cả chúng tôi đều dùng sách của anh trong học viện. Nhưng chúng tôi không nghe nhiều về anh. Ý tôi là về chuyện cá nhân…”
Cô nhìn lên bức tường và căng thẳng nói: “Theo suy nghĩ của tôi, như một sĩ quan đầu tiên đến hiện trường, tốt nhất là phải chặn đoàn tàu và phong tỏa đường phố để bảo vệ hiện trường. Và đó chính là điều tôi làm, thưa ngài…”
“Gọi tôi là Lincoln. Và cô là…”
“Tôi…”
“Tên cô?”
“Amelia.”
“Amelia. Từ gốc là nữ phi công à?”
“Không. Một cái họ.”
“Amelia, tôi không muốn một lời xin lỗi. Cô đúng và Vince Peretti đã sai.”
Sellitto nhúc nhích khi thấy sự vô ý đó, nhưng Lincoln Rhyme không quan tâm. Cuối cùng thì anh là một trong số vài người trên thế giới có thể vẫn cứ nằm ườn ra ngay cả khi tổng thống Mỹ bước vào phòng. Anh tiếp tục: “Peretti khám nghiệm hiện trường như thể Thị trưởng đang nhòm qua vai anh ta, và đó là cách thức số một để làm hỏng việc. Anh ta có quá nhiều người, anh ta hoàn toàn sai lầm khi cho đoàn tàu và các phương tiện giao thông chuyển động; anh ta không bao giờ được giải phóng hiện trường sớm như anh ta đã làm. Nếu chúng ta giữ được đường ray, biết đâu chúng ta lại chẳng tìm thấy một hóa đơn thẻ tín dụng với một cái tên ở đó. Hay là một dấu vân tay thật đẹp.”
“Có thể”, Sellitto tế nhị nói. “Nhưng giữ điều đó cho chúng ta thôi.” Khi ra mệnh lệnh im lặng, ánh mắt anh ta quay về phía Sachs, Cooper và Jerry Banks trẻ tuổi.
Rhyme phì ra một nụ cười bất kính. Sau đó quay lại phía Sachs, anh bắt gặp cô đang nhìn chân và cơ thể anh dưới tấm chăn màu vàng mơ, như Jerry Banks sáng nay. Anh nói với cô: “Tôi gọi cô đến đây để xử lý hiện trường tiếp theo cho chúng tôi.”
“Cái gì?” Lần này thì không phải nói qua người phiên dịch. “Làm việc cho chúng tôi”, anh nói ngắn gọn. “Hiện trường vụ án tiếp theo.”
“Nhưng…” Cô cười. “Tôi đâu có phải là IRD. Tôi thuộc Đội Tuần tra. Tôi chưa bao giờ làm công việc xử lý hiện trường.”
“Đây là một vụ bất thường. Như chính thám tử Sellitto đã nói với cô. Nó thực sự là kỳ quặc. Đúng không, Lon? Đúng, nếu đó là một vụ cổ điển, chúng tôi không cần cô. Nhưng trong vụ này chúng tôi cần một cặp mắt mới.”
Cô liếc nhìn Sellitto, anh ta chẳng nói gì. “Tôi chỉ… Tôi hoàn toàn không giỏi việc này. Tôi chắc đấy.”
“Được rồi”, Rhyme kiên nhẫn nói. “Sự thật nhé?”
Cô gật đầu.
“Tôi cần ai đó có gan dừng cả đoàn tàu trên đường ray để bảo vệ hiện trường và chịu đựng được rắc rối sau đó.”
“Cảm ơn vì đã cho tôi cơ hội, thưa ngài, Lincoln. Nhưng…” Rhyme nói ngắn gọn. “Lon.”
“Sĩ quan”, viên thám tử càu nhàu với Sachs, “cô không có lựa chọn nào ở đây. Cô đã được phân công vào vụ này để trợ giúp tại hiện trường vụ án.” “Thưa ngài, tôi phải phản đối. Tôi đã chuyển khỏi Đội Tuần tra. Ngày hôm nay. Tôi được chuyển vì lý do sức khỏe. Quyết định đó có hiệu lực cách đây một giờ.”
“Lý do sức khỏe?” Rhyme hỏi.
Cô ta chần chừ, rồi lại miễn cưỡng nhìn chân anh.
“Tôi bị viêm khớp.”
“Đúng thế à?” Rhyme hỏi.
“Viêm khớp mãn tính.”
“Tôi rất tiếc.”
Cô nhanh chóng tiếp tục: “Tôi nhận cuộc gọi sáng nay vì ai đó bị ốm phải nằm ở nhà. Tôi không định làm việc đó.”
“Đúng thế, được rồi. Tôi cũng có chương trình khác”, Lincoln Rhyme nói. “Giờ thì ta hãy nghiên cứu một số bằng chứng.”
SÁU
“Con ốc.”
Nhớ lại nguyên tắc nghiên cứu hiện trường vụ án cổ điển: Phân tích bằng chứng bất thường nhất đầu tiên.
Thom liên tục xoay xoay cái túi nhựa trên tay khi Rhyme nghiên cứu cái đinh vít, nửa gì nửa không. Cùn. Mòn.
“Anh chắc về dấu vân tay chứ? Anh đã dùng, chất thử vi hạt chưa? Đó là loại tốt nhất cho các vật chứng bị tiếp xúc với các nguyên tố.” “Đúng”, Mel Cooper khẳng định.
“Thom”, Rhyme hạ lệnh, “bỏ cái tóc này khỏi mắt tôi! Trả nó lại chỗ cũ. Tôi đã nói với cậu chải lại nó sáng nay rồi”.
Người trợ lý thở dài và chải mớ tóc đen rối bù. “Cẩn thận”, anh ta thầm thì oán giận với ông chủ của mình và Rhyme lại hất đầu một cách thô bạo, làm cho tóc càng rối hơn. Amelia Sachs sưng sỉa ngồi ở góc phòng. Chân cô đặt dưới ghế trong tư thế xuất phát của vận động viên chạy nước rút, và chắc chắn là cô ta trông như thể đang chờ tiếng súng xuất phát.
Rhyme quay lại với con ốc.
Khi còn lãnh đạo IRD, Rhyme bắt đầu xây dựng cơ sở dữ liệu. Ví dụ như chỉ mục sơn xe hơi liên bang hay hồ sơ thuốc lá BATF[47]. Anh thiết lập hồ sơ tiêu chuẩn đạn, sợi, vải, lốp xe, giày, công cụ, dầu xe, dầu hộp số. Anh dành hàng trăm giờ biên soạn các danh mục, đặt chỉ mục và tham chiếu chéo.
Dù vậy, ngay cả trong thời kỳ cầm quyền mê đắm của Rhyme, IRD cũng chưa bao giờ lập catalog cho dụng cụ. Anh băn khoăn tại sao lại không làm như vậy, anh tự giận mình vì không dành thời gian để làm, và còn tức giận Peretti hơn nữa vì anh ta cũng không nghĩ tới điều đó.
“Ta phải gọi cho tất cả các nhà sản xuất và buôn bán ốc vít khu Đông Bắc. Không, cả nước. Hỏi xem họ có làm loại ốc nào như thế này không và
họ bán nó cho ai. Hãy gửi fax các bản miêu tả và ảnh của con ốc cho nhân viên điều phối của chúng ta ở Phòng Truyền thông.”
“Quỷ thật, có thể phải là hàng triệu”, Banks nói. “Từng cửa hàng Ace Hardware và siêu thị Sears trên toàn quốc.”
“Tôi không nghĩ vậy”, Rhyme trả lời. “Đó phải là một dấu tích có ý nghĩa. Hắn sẽ không để nó lại nếu nó vô dụng. Nguồn cung cấp những con ốc này chắc cũng có hạn thôi. Tôi cá với anh đấy.”
Sellitto gọi điện và ngẩng lên sau vài phút. “Tôi đã có điện thoại viên cho anh rồi đây, Lincoln. Bốn người. Chúng tôi lấy danh sách các nhà sản xuất ở đâu?”
“Cho nhân viên tuần tra đến Phố Bốn mươi hai.” Rhyme trả lời. Thư viện công cộng. Ở đó họ có danh bạ điện thoại của các công ty. Trước khi lấy được nó, hãy để điện thoại viên của chúng ta dùng Những Trang Vàng Kinh Doanh.”
Sellitto nhắc lại vào điện thoại.
Rhyme nhìn đồng hồ. Một giờ ba mươi.
“Còn bây giờ là sợi abestos.”
Trong một khoảnh khắc, từ này rực sáng trong đầu anh. Anh cảm thấy choáng váng – nơi mà không thể cảm thấy choáng váng được. Abestos thì có gì quen thuộc nhỉ? Điều gì đó mà anh vừa mới đọc hay nghe được – mới đây thôi, mặc dù Lincoln Rhyme không còn tin tưởng vào cảm nhận thời gian của mình nữa. Khi ta nằm đông cứng một chỗ từ tháng này qua tháng khác, thời gian trôi đi chậm chạp gần như chết. Anh có thể nghĩ tới một số thứ mà anh đã đọc được cách đây hai năm.
“Ta biết gì về abestos?” Anh đăm chiêu. Không ai trả lời câu hỏi này, nhưng không quan trọng; anh sẽ tự trả lời. Như anh vẫn thường thích làm. Abestos là một phân tử phức hợp, polime sillic. Nó không cháy, vì giống như kính, nó đã bị oxy hóa hoàn toàn.
Khi anh khám nghiệm hiện trường vụ án của những vụ giết người ngày trước – làm việc với các nhà pháp y học, nhân chủng học và các bác sĩ nha khoa – Rhyme thường thấy mình ở trong các tòa nhà được bao bọc abestos. Anh nhớ cái vị đặc biệt của những chiếc mặt nạ họ phải đeo trong khi dọn dẹp abestos ở ga tàu điện ngầm City Hall ba năm rưỡi trước, tại đó nhân viên tìm thấy xác của một trong những cảnh sát bị Dan Shepherd giết và vứt
vào phòng máy nổ. Khi Rhyme chậm chạp cúi xuống để nhặt sợi từ chiếc áo khoác màu xanh dương nhạt của viên sĩ quan, anh nghe thấy tiếng gãy và tiếng rắc của thanh xà gỗ sồi. Chiếc mặt nạ có thể đã cứu anh không bị ngạt thở đến chết trong đám bụi bặm và bùn đất xung quanh.
“Có thể hắn đưa cô ta đến một công trường phá dỡ”, Sellitto nói. “Có thể”, Rhyme đồng ý.
Sellitto ra lệnh cho người trợ lý trẻ tuổi của mình. “Gọi EPA[48] và Sở Môi trường Thành phố. Tìm xem có công trường phá dỡ nào đang được tiến hành ngay lúc này không.”
Viên thám tử gọi điện.
“Bo”, Rhyme gọi Haumann, “đội của cậu đã sẵn sàng triển khai chưa?” “Sẵn sàng chiến đấu.” Viên đội trưởng ESU khẳng định. “Dù vậy tôi vẫn phải nói rằng chúng tôi chỉ có một nửa lực lượng vì phải phục vụ cho hội nghị của Liên Hiệp Quốc. Họ bị Ủy ban Mật vụ và An ninh của Liên Hiệp Quốc mượn.”
“Tôi đã có vài thông tin về EPA ở đây.” Banks ra hiệu cho Haumann và họ đi ra góc phòng. Họ dẹp sang bên một vài chồng sách. Khi Haumann trải một trong những tấm bản đồ chiến thuật New York của ESU lên bàn, có thứ gì đó rơi xuống nền nhà.
Banks nhảy dựng lên. “Chúa ơi.”
Từ góc nhìn nơi anh đang nằm, Rhyme không thể thấy cái gì vừa bị rơi. Haumann chần chừ một giây, sau đó cúi xuống để nhặt lên một đoạn xương sống đã bạc màu và đặt nó lên mặt bàn.
Rhyme cảm thấy ánh mắt vài người nhìn anh nhưng anh không nói gì về khúc xương. Haumann cúi người nhìn tấm bản đồ, Banks cũng vậy, đang nghe điện thoại và cung cấp cho Haumann thông tin về các công trường thu dọn abestos. Viên chỉ huy đánh dấu chúng bằng bút sáp. Có vẻ như có rất nhiều công trường, tản mát ở khắp năm quận của thành phố. Tình hình không mấy khả quan.
“Ta phải tiếp tục khoanh vùng gọn hơn. Xem nào, cát”, Rhyme nói với Cooper. “Phóng đại lên xem. Nói cho tôi biết anh nghĩ gì.” Sellitto chuyển cái phong bì đựng vật chứng cho kỹ thuật viên, anh này đổ những thứ bên trong vào một cái khay khám nghiệm tráng men. Chất bột
lóng lánh để lại một đám mây bụi nhỏ. Ở giữa có một hòn đá, đã bị bào mòn, nó lăn vào giữa đống cát.
Cổ họng Lincoln Rhyme nghẹn lại. Không phải vì những gì anh thấy – anh vẫn chưa biết anh đang nhìn vào cái gì – nhưng vì một xung thần kinh đứt đoạn phóng ra từ não anh và tắt ngấm nửa đường khi đến cánh tay phải vô dụng, thúc bách cầm lấy một cái bút chì và thử. Lần đầu tiên trong thời gian khoảng một năm, anh cảm thấy sự thúc bách đó. Điều này suýt làm anh phát khóc và niềm an ủi duy nhất của anh là ký ức về cái lọ nhỏ đựng Seconal, cái túi nhựa mà bác sĩ Berger mang theo, những hình ảnh bay lượn trong phòng như thiên thần hộ mệnh.
Anh hắng giọng. “Lấy thử dấu tay đi.”
“Cái gì?” Cooper hỏi lại.
“Hòn đá.”
Sellitto nhìn anh dò hỏi.
“Hòn đá ở đó không hợp”, Rhyme nói. “Táo và cam. Tôi muốn biết vì sao. Lấy dấu đi.”
Sử dụng một cái kẹp có đầu bằng sứ, Cooper nhấc hòn đá lên và nghiên cứu nó. Anh ta đeo kính, dùng chiếc đèn PoliLight chiếu vào hòn đá – bộ đèn có ắc quy lớn như ắc quy xe hơi với một cây đũa thần gắn ở đó. “Chẳng có gì”, Cooper nói.
“VMD?”
VMD, lắng chân không kim loại là kỹ thuật hiển thị vân tay ẩn trên những bề mặt không xốp. Nó làm bay hơi vàng hay kẽm trong một buồng chân không có chứa đối tượng cần kiểm tra; kim loại sẽ phủ lên dấu vân tay ẩn, làm thấy rõ hoa tay và những điểm đỉnh.
Nhưng Cooper không đem theo máy VMD.
“Vậy thì anh có gì?” Rhyme hỏi, vẻ không vui.
“Sudan đen, thuốc tráng phim ổn định, iodine, amido đen, DFO và thuốc nhuộm chữa bỏng, Magna-Brush.”
Anh ta còn đem theo ninhydrin để phát hiện dấu tay trên những bề mặt xốp và khuôn Keo Siêu dính cho những bề mặt nhẵn. Rhyme nhớ lại những tin tức chấm động đã tràn qua cộng đồng giám định vài năm trước: Một kỹ thuật viên làm việc trong phòng thí nghiệm giám định của quân đội Mỹ ở
Nhật bản đã dùng Keo Siêu dính để sửa chiếc máy quay bị vỡ của mình và vô cùng ngạc nhiên khi thấy khói bốc lên từ chất keo dính đã làm hiện ra dấu tay tốt hơn phần lớn các loại hóa chất được tạo ra cho mục đích này.
Đó chính là phương pháp Cooper sử dụng. Dùng một cái kẹp, anh ta đặt hòn đá vào một hộp thủy tinh nhỏ và rỏ một ít keo vào cái đĩa nóng đặt bên trong. Vài phút sau, anh ta lấy hòn đá ra.
“Ta có gì đó rồi đây này”, anh ta phủ một lớp bụi UV bước sóng dài lên hòn đá và dùng đèn PoliLight soi vào nó. Có thể nhìn thấy rõ ràng một dấu vân tay. Đúng trung tâm. Cooper chụp ảnh nó bằng một cái máy Palaroid CU-5, tỷ lệ 1:1. Anh ta đưa bức ảnh cho Rhyme.
“Đưa nó lại gấn hơn tí nữa.” Rhyme liếc mắt khi xem bức ảnh. “Đúng rồi! Hắn ta đã xoay nó.”
Dấu vân tay xoay – xoa ngón tay lên một bề mặt – tạo ra ấn tượng khác so với khi nhặt vật thể đó lên. Đó là một khác biệt rất nhỏ – ở chiều rộng giữa các đường vân tại những điểm khác nhau của sơ đồ vân tay – nhưng là sự khác biệt mà Rhyme có thể nhìn thấy rất rõ.
“Nhìn này, cái gì đây?” Anh đăm chiêu. “Đường kẻ này.” Có một dấu hiệu hình vòng cung mờ nhạt bên trên dấu vân tay.
“Nó trông giống như là…”
“Đúng thế”, Rhyme nói, “móng tay của cô ấy. Thường thì ta sẽ không có dấu hiệu này. Nhưng tôi cá là hắn đặt hòn đá để người ta nhặt nó. Nó để lại một vết hằn nhờn dầu. Giống như vân tay.”
“Vì sao hắn làm thế?” Sachs hỏi.
Lại phật ý vì xem ra chẳng có ai hiểu ra vấn đề nhanh như mình, Rhyme cục cằn giải thích: “Hắn nói với ta hai điều. Thứ nhất, hắn muốn ta biết nạn nhân là phụ nữ. Trong trường hợp ta không liên kết được cô ta với các xác sáng nay.”
“Hắn làm thế để làm gì?” Banks hỏi.
“Trộn đỗ với thóc.” Rhyme nói.”Để làm ta toát thêm ít mồ hôi. Hắn cho ta biết có một người phụ nữ đang gặp nguy hiểm. Hắn đánh giá nạn nhân – như tất cả chúng ta làm – kể cả khi chúng ta nói là chúng ta không làm vậy.” Rhyme tình cờ nhìn vào tay Sachs. Anh ngạc nhiên khi thấy rằng, một người phụ nữ đẹp như Sachs mà các ngón tay lại xấu tệ hại. Bốn đầu ngón tay dán băng Band-Aid và mấy ngón khác bị gặm đến tận thịt. Lớp biểu bì ở
một ngón bị phủ một lớp máu nâu. Anh còn nhận thấy da dưới lông mày cô bị viêm đỏ, do bị kéo, anh đoán. Và một dấu xước cạnh tai cô. Tất cả những thói quen tự hủy hoại. Có hàng triệu cách để phê, ngoài thuốc và rượu Armagnac.
Rhyme nói: “Có một điều nữa hắn nói với chúng ta mà tôi đã cảnh báo trước với các anh. Hắn biết chứng cứ. Hắn đang nói. Đừng quan tâm đến những vật chứng pháp lý thông thường. Tôi cũng sẽ không để lại gì. Tất nhiên đó là điều hắn nghĩ. Nhưng chúng ta sẽ tìm thấy gì đó. Tôi cá là chúng ta sẽ thấy.” Đột nhiên Rhyme nhăn mặt. “Bản đồ! Ta cần bản đồ. Thom!”
Người trợ lý buột miệng: “Bản đồ nào?”
“Cậu biết ý tôi nói cái bản đồ nào mà.”
Thom thở dài. “Tôi chịu, Lincoln.”
Nhìn ra cửa sổ và nói, một nửa là với chính mình, Rhyme đăm chiêu. “Cầu vượt qua đường ray, đường hầm buôn rượu lậu và những cánh cửa ra vào, abestos – đều là những thứ cũ. Hắn thích New York lịch sử. Tôi muốn bản đồ Randel.”
“Ở đâu?”
“Hồ sơ nghiên cứu cho cuốn sách của tôi. Còn ở đâu được nữa hả?” Thom lục lọi trong đống cặp hồ sơ và lấy ra một bản sao của một tấm bản đồ Manhattan dài, nằm ngang. “Cái này à?”
“Cái đó, đúng rồi!”
Đó là Khảo sát của Randel, vẽ năm 1811 cho các ủy viên Hội đồng thành phố quy hoạch mạng lưới phố xá của Manhattan. Tấm bản đồ được in ngang, với Công viên Battery, phía nam, bên trái và Harlem, phía bắc, sang phải. Vẽ theo cách này, hòn đảo tạo thành một con chó đang nhảy lên, cái đầu hẹp của nó ngẩng lên, chuẩn bị tấn công.
“Gắn nó lên đây. Tốt.”
Trong khi viên trợ lý làm, Rhyme nói: “Thom, chúng ta sẽ cử cậu làm đại diện. Đưa cho anh ta một cái phù hiệu bóng loáng hay cái gì đó đi, Lon.”
“Lincoln”, cậu ta lắp bắp.
“Chúng tôi cần cậu. Nào. Chẳng phải là lúc nào cậu cũng muốn trở thành Sam Spade[49] hay Kojak[50] đó sao?”
“Chỉ là Jury Garland[51] thôi.” Người trợ lý đáp lời.
“Thế thì là Jessica Fletcher[52] vậy. Cậu sẽ viết hồ sơ. Làm đi, lấy cái bút Mont Blanc lúc nào cũng dính trong túi áo cậu ra đi.”
Chàng thanh niên đảo mắt khi cậu ta lấy cái bút Parker ra và nhặt một cuốn sổ màu vàng từ chồng sách vở dưới một cái bàn.
“Không, tôi có ý hay hơn”, Rhyme tuyên bố. “Treo một trong những bức tranh kia lên. Những bức tranh nghệ thuật ấy. Xoay ngược nó lại rồi viết ra mặt sau bằng bút đánh dấu. Viết thật to vào. Để tôi còn đọc được.”
Thom chọn bức tranh hoa huệ tây của Monet, dán lên tường. “Trên cùng”, nhà hình sự học nói, “viết ‘Đối tượng 823’ sau đó kẻ bốn cột. ‘Ngoại hình. Nơi ở. Phương tiên đi lại. Khác.’ Đẹp rồi. Giờ thì bắt đầu thôi. Chúng ta biết gì về hắn ta?”
Sellitto nói: “Phương tiện đi lại… Hắn ta có chiếc Yellow Cab.” “Đúng thế. Và trong cột ‘Khác’ cần thêm hắn ta biết quy trình khám nghiệm hiện trường.”
Sellitto nói: “Điều đó có thể có nghĩa là hắn đã từng gặp chuyện rắc rối.”
“Thế nghĩa là gì?” Thom hỏi.
“Có nghĩa là hắn có thể có tiền án.” Viên thám tử giải thích. Banks nói: “Ta có cần thêm là hắn có khẩu Colt cỡ .32 không?” “Mẹ kiếp, có”, sếp của anh ta khẳng định.
Rhyme đóng góp: “Và hắn biết về FRs…”
“Cái gì?” Thom hỏi.
“Vân ma sát – dấu vân tay. Cậu biết đấy, đó là những đường vân trên bàn tay và chân chúng ta để tạo ma sát. Và viết thêm là có thể hắn ta có khả năng hành động từ một nơi ẩn nấp an toàn. Tốt lắm, Thom. Nhìn cậu ta này. Cậu ta quả là một người thực thi pháp luật nhà nòi.”
Thom đỏ mặt, rời khỏi bức tường, phẩy mạng nhện vương trên chiếc áo sơ mi.
“Đây rồi, anh em”, Sellitto nói. “Hình ảnh đầu tiên của chúng ta về Ngài 823.”
Rhyme quay về phía Mel Cooper. “Còn bây giờ là cát. Chúng ta có thể nói gì về nó nhỉ?”
Cooper kéo cái kính lên vầng trán nhợt nhạt của anh ta. Anh ta đổ một mẫu vào thanh trượt, đẩy nó xuống dưới cái kính hiển vi ánh sáng phân cực rồi điều chỉnh núm điều khiển.
“Hừm. Lạ thật. Không thấy có khúc xạ đúp.”
Kính hiển vi phân cực cho thấy khúc xạ đúp của tinh thể hay sợi và một số vật liệu khác. Cát bãi biển có tính khúc xạ đúp lớn.
“Thế thì không phải cát”, Rhyme lẩm bẩm. “Đó là một thứ bị xay nhỏ… Anh có thể nhận dạng cá thể được không?”
Nhận dạng cá thể… Mục tiêu của nhà hình sự học. Phần lớn vật chứng có thể được nhận dạng. Nhưng ngay cả khi ta biết được đó là gì, nó có thể xuất phát từ hàng trăm hay hàng nghìn nguồn. Vật chứng đã được nhận dạng cá thể là một thứ mà chỉ có thể xuất phát từ một nguồn hay một số lượng nguồn rất hạn chế. Một dấu vân tay, một hồ sơ DNA, một mẩu sơn vừa vào chỗ tróc trên xe của nghi phạm giống như một mảnh của một bức tranh đố ghép hình.
“Có thể”, kỹ thuật viên trả lời. “Nếu tôi có thể xác định được đó là cái gì.”
“Bột kính nghiền?” Rhyme gợi ý.
Kính về bản chất là cát bị nung chảy nhưng quá trình chế tạo kính đã thay đổi cấu trúc tinh thể. Bột kính nghiền không khúc xạ đúp. Cooper cẩn thận nghiên cứu mẫu.
“Không, tôi không nghĩ đó là kính. Tôi không biết nó là cái gì. Giá mà tôi có EDX[53] ở đây.”
Một công cụ thông dụng trong phòng thí nghiệm hình sự là kính hiển vi quét điện tử kết hợp với một thiết bị tia X phân tán năng lượng; nó xác định thành phần hóa học của các mẫu dấu vết được tìm thấy tại hiện trường vụ án.
“Tìm cho anh ta một cái”, Rhyme ra lệnh cho Sellitto, sau đó nhìn quanh phòng. “Chúng ta cần thêm thiết bị. Tôi muốn có thêm cả thiết bị lấy
dấu vân tay chân không kim loại. Và GC-MS[54].” Một loại máy sắc ký khí dùng để phân tách các hợp chất thành những nguyên tố thành phần và quang phổ kế ánh sáng để nhận dạng từng nguyên tố. Những thiết bị này cho phép các nhà hình sự học kiểm tra một mẫu chưa biết với khối lượng nhỏ tới một phần triệu g và tìm kiếm nó trong một cơ sở dữ liệu hàng trăm nghìn các hợp chất đã biết, được phân loại theo nhận dạng và tên nhãn hiệu.
Sellitto gọi điện tới phòng thí nghiệm CSU thông báo danh mục thiết bị cần thiết.
“Nhưng ta không thể đợi tới khi có đồ, Mel. Anh phải làm theo cách truyền thống thôi. Nói cho tôi thêm một chút về cái thứ cát rởm của chúng ta nào.”
“Nó lẫn một ít bụi. Có đất mùn, những đốm thạch anh, chất feldspar và mica. Có rất ít mảnh lá cây và thực vật phân rã. Một số đốm có thể là bentonite.”
“Bentonite.” Rhyme thỏa mãn. “Đó là tàn tro núi lửa mà các nhà xây dựng sử dụng trong hồ xi măng khi họ đào móng trong những vùng có nước của thành phố, nơi nền đá ở rất sâu. Dùng chống xói mòn. Vậy chúng ta phải tìm những công trường xây dựng gần nước, có thể ở phía nam Phố Ba mươi tư. Phía Bắc, vùng đó nền đá khá gần mặt đất nên họ không cần dùng hồ xi măng.”
Cooper xê dịch thanh trượt. “Nếu phải đoán, tôi sẽ nói rằng đó chủ yếu là calcium. Đợi chút, ở đây có gì đó dạng sợi.”
Cái núm lại bị xoay và Rhyme sẽ trả mọi thứ để có thể được nhìn vào cái ống ngắm kia. Nhớ lại tất cả những buổi tối anh dán mắt vào cái viền ống ngắm cao su màu xám, quan sát sợi hay những mẩu vỏ bào kim loại trôi ra trôi vào tiêu điểm.
“Ở đây còn mấy thứ nữa. Hạt lớn. Ba lớp. Một giống như cái loa kèn. Sau đó là hai lớp calcium. Màu sắc hơi khác nhau. Những mẩu khác trong suốt.”
“Ba lớp?” Rhyme giận dữ quát lên. “Của nợ, đấy là vỏ sò.” Anh cảm thấy bực tức với bản thân. Anh phải nghĩ tới điều đó chứ.
“Đúng rồi, nó đấy.” Cooper gật đầu. “Tôi nghĩ là con hàu.” Những bãi hàu quanh thành phố chủ yếu nằm ngoài bờ biển Long Island và New Jersey. Rhyme đã hy vọng là nghi phạm hạn chế khu vực địa lý cần
tìm kiếm trong Manhattan – nơi nạn nhân được tìm thấy sáng nay. Anh lẩm bẩm: “Nếu hắn mở rộng ra cả thành phố thì việc tìm kiếm là vô vọng.” Cooper nói: “Tôi đang nhìn thấy một thứ khác. Tôi nghĩ đấy là đá vôi. Rất cổ. Dạng hạt.”
“Có thể là bê tông.” Rhyme gợi ý.
“Có thể. Đúng.”
“Thế thì tôi không hiểu vỏ sò”, Cooper nói thêm, vẻ trầm ngâm. “Những bãi sò quanh New York đầy bùn và thực vật. Thứ này bị trộn lẫn với bê tông và thực sự là không hề có chất gì liên quan đến thực vật.”
Bất thình lình Rhyme quát lên: “Cạnh! Cạnh của cái vỏ sò ấy như thế nào, Mel?”
Nhân viên kỹ thuật nhìn vào ống ngắm: “Đứt đoạn, không bị mòn. Nó bị tán vụn dưới áp lực. Không bị nước bào mòn.”
Ánh mắt Rhyme trượt sang tấm bản đồ Randel, quét từ phải sang trái. Tập trung vào vùng mông con chó đang nhảy.
“Có rồi!” Anh hét lên.
Năm 1913, F.W. Woolworth xây một cấu trúc sáu mươi tầng đến bây giờ vẫn còn mang tên ông, bọc gốm, được bao phủ bởi miệng máng xối và điêu khắc gothic. Trong suốt mười sáu năm, đó là tòa nhà cao nhất thế giới. Vì nền đá ở khu vực này của Manhattan nằm cách Broadway ba mươi mét, những người công nhân đã phải đào đường trục rất sâu để neo tòa nhà. Không lâu sau khi động thổ, những người công nhân đã tìm thấy thi hài của nhà công nghiệp Manhattan, Talbott Soames, người bị bắt cóc năm 1906. Xác của ông ta bị chôn trong một bãi dày, một thứ trông giống như cát nhưng thực ra là vỏ sò bị nghiền nát, một việc mà báo chí lá cải đã làm ầm ĩ, nhắc đến sự đam mê của nhà tư bản đối với đồ ăn ngon. Vỏ sò rất phổ biến dọc theo mũi thấp phía đông Manhattan đến mức chúng được sử dụng để lấn biển. Đó cũng là lý do Phố Pearl[55] lại được đặt tên như vậy.
“Cô ta ở đâu đó trong khu trung tâm.” Rhyme tuyên bố. “Có thể ở phía đông. Cũng có thể gần phố Pearl. Cô ta đang ở dưới lòng đất, sâu khoảng năm đến mười lăm feet. Có thể là một công trường xây dựng, có thể là một tầng hầm. Một tòa nhà cũ hay một đường hầm.”
“Kiểm tra chéo bản đồ của EPA đi Jerry”, Sellitto ra lệnh. “Những chỗ họ dọn dẹp abestos.”
“Trên phố Pearl? Không có gì.” Viên sĩ quan trẻ nâng tấm bản đồ mà anh ta và Haumann đang nghiên cứu lên. “Có khoảng ba tá công trường phá dỡ – ở Midtown, Harlem và Bronx. Nhưng ở trung tâm không có gì.”
“Abestos… abestos…”, Rhyme lại trầm ngâm. Có gì đó rất quen ở đây. Đã là 2:05.
“Bo, ta phải đi thôi. Hãy đưa người của anh tới đó và bắt đầu tìm kiếm. Tất cả các tòa nhà dọc theo Phố Pearl. Cả Phố Water nữa.” “Trời”, viên cảnh sát thở dài, “thế thì rất nhiều.” Anh ta ra đến cửa. Rhyme nói với Sellitto: “Lon, tốt hơn là anh cũng nên đi. Sẽ là cuộc chạy đua sát nút đấy. Họ cần tất cả những nhân viên truy tìm mà họ có thể có. Amelia, tôi muốn cả cô cũng đi.”
“Nhưng này, tôi đang nghĩ xem…”
“Sĩ quan”, Sellitto quát, “đây là mệnh lệnh…”.
Một ánh hồng nhạt đảo qua khuôn mặt xinh đẹp của cô.
Rhyme hỏi Cooper: “Mel, anh đến đây bằng xe bus à?”
“RRV[56]”, anh ta trả lời.
Những chiếc xe bus thành phố dành cho hiện trường vụ án lớn là những chiếc xe tải lớn – chứa đầy thiết bị và vật tư phục vụ cho việc thu nhập chứng cứ, được trang bị tốt hơn phòng thí nghiệm của những thành phố nhỏ. Nhưng khi Rhyme điều hành IRD, anh đã đặt mua những chiếc xe phục vụ hiện trường vụ án nhỏ hơn – những chiếc xe kiểu wagon – với những thiết bị thu nhập và phân tích cơ bản nhất. Những chiếc RRV trông bình thường nhưng Rhyme đã bắt Phòng Vận chuyển gắn cho chúng động cơ turbo của Đội Cảnh sát Cơ động. Chúng thường vượt xe của Đội Tuần tra để đến hiện trường trước; đã có lần sĩ quan đầu tiên đến hiện trường lại là những kỹ thuật viên hiện trường dày dạn. Đó chính là giấc mơ của mọi công tố viên.
“Đưa chìa khóa cho Amelia.”
Cooper đưa chìa khóa cho Sachs, cô lườm anh, sau đó ra khỏi phòng và chạy xuống cầu thang. Ngay cả tiếng bước chân của cô nghe cũng có vẻ giận dữ.
“Được rồi, Lon. Anh nghĩ gì?”
Sellitto nhìn hành lang trống rỗng và lại gần Rhyme. “Anh thực sự muốn có P.D cho vụ này à?”
“P.D?”
“Ý tôi là cô ta. Sachs. P.D là biệt hiệu.”
“Cho cái gì?”
“Đừng nói điều đó với cô ta. Bỏ cô ta đi. Cha cô ta là một cảnh sát tuần tra trong bốn mươi năm. Đó là lý do vì sao cô ta được gọi là P.D (Con gái cớm tuần tra).”
“Anh không nghĩ rằng tôi nên chọn cô ta?”
“Không. Tôi không nghĩ thế. Vì sao anh lại muốn cô ta?”
“Vì cô ta đã trèo xuống một bờ ngăn cao ba mươi feet để bảo vệ hiện trường vụ án. Cô ta phong tỏa đại lộ chính và đường ray của Amtrak. Đó là sáng kiến.”
“Thôi nào, Linc. Tôi biết hàng chục cảnh sát đã làm như thế.” “Được rồi, cô ta là người tôi muốn.” Rhyme ném cho Sellitto một cái nhìn nghiêm nghị, nhắc nhở anh ta, tế nhị không tranh cãi, về những điều khoản trong thỏa thuận của họ.
“Điều tôi muốn nói là”, viên thám tử nói nhỏ, “tôi vừa mới nói chuyện với Polling. Peretti đang cay cú vì bị gạt sang một bên và nếu – không, tôi nói là khi nào – hắn biết ai đó trong Đội Tuần tra đi xử lý hiện trường thì khi đó sẽ rắc rối to.”
“Chắc là vậy”, Rhyme nói nhẹ nhàng, vẫn nhìn vào tấm áp phích hồ sơ, “nhưng tôi có cảm giác đó là ngày ít rắc rối nhất của chúng ta”. Và anh ngửa cái đầu mệt mỏi của mình xuống chiếc gối dày phía dưới.
BẢY
Chiếc xe lao nhanh vào khe núi tăm tối, bẩn thỉu của Phố Wall, trung tâm New York.
Ngón tay Amelia Sachs nhẹ nhàng nhảy múa trên vô lăng khi cô cố gắng hình dung nơi T.J. Colfax có thể bị giam giữ. Việc tìm kiếm cô ta xem ra vô vọng. Quận Tài chính mà cô đang tiến đến gần, chưa bao giờ trông nó lại lớn đến vậy, đầy những ngõ ngách, đầy những miệng cống, đầy những cửa ra vào và những tòa nhà lấm tấm những ô cửa sổ màu đen.
Quá nhiều chỗ để giấu con tin.
Cô nhớ lại cái cảnh mà cô đã nhìn thấy, một bàn tay thò ra từ lỗ huyệt bên cạnh đường ray. Chiếc nhẫn kim cương trên ngón tay máu me, xương xẩu. Sachs nhận ra kiểu nữ trang đó. Cô gọi chúng là những chiếc nhẫn an ủi – kiểu nhẫn mà những cô gái giàu có, cô đơn hay mua cho mình. Kiểu nhẫn mà cô sẽ đeo nếu cô giàu có.
Lao nhanh xuống phía nam, vượt qua những người đưa tin đi xe đạp và những chiếc taxi.
Ngay cả trong buổi chiều chói chang này, dưới ánh mặt trời bực bội, đây vẫn cứ là vùng kinh khủng của thành phố. Những tòa nhà tỏa bóng râm kinh dị và bị bao phủ bởi bóng tối khủng khiếp như máu khô.
Sachs rẽ với tốc độ bốn mươi, trượt bánh xe trên mặt đường nhựa mềm như bọt biển và lại nhấn ga để tăng tốc độ lên sáu mươi.
Động cơ hết ý, cô nghĩ. Và quyết định thử xem chiếc xe sẽ tuyệt như thế nào khi điều khiển với tốc độ bảy mươi.
Nhiều năm trước, trong khi cha cô ngủ – ông thường làm ca từ ba giờ tới mười một giờ – thiếu nữ Amie Sachs thường lấy chìa khóa chiếc Camaro của ông, nói với mẹ là cô đi mua đồ và hỏi xem mẹ có muốn mua gì ở cửa hiệu thịt lợn Fort Halminton hay không. Trước khi mẹ cô kịp trả