🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kẻ Mạo Danh - Jeffrey Archer Ebooks Nhóm Zalo PHI LỘ “V âng,” Beth nói. Nàng cố tỏ ra ngạc nhiên, nhưng rõ là nàng đã quyết định hai người sẽ kết hôn từ hồi còn ở trung học. Tuy nhiên, nàng thực sự kinh ngạc khi Danny quỳ một chân xuống giữa đám đông, ngay trong nhà hàng. “Vâng,” Beth lặp lại, hi vọng rằng anh sẽ đứng dậy trước khi mọi người trong phòng dừng ăn và quay lại nhìn chằm chằm vào hai người. Nhưng anh không hề nhúc nhích. Danny vẫn quỳ nguyên đó và như một nhà ảo thuật, chẳng biết lôi ở đâu ra chiếc hộp nhỏ. Anh mở nó, để lộ ra một chiếc nhẫn vàng mỏng, đơn giản, có đính viên kim cương lớn hơn nhiều so với mong đợi của Beth - mặc dù anh trai nàng đã nói rằng Danny phải tốn vào đó những hai tháng lương. Cuối cùng thì Danny cũng đứng dậy, nhưng anh lại làm nàng ngạc nhiên thêm lần nữa, bằng cách ngay lập tức nhấn phím điện thoại di động. Beth biết rõ ai đang sẽ ở đầu dây bên kia. “Nàng đã nói vâng!” Danny phấn khích thông báo. Beth mỉm cười khi nàng để hạt kim cương dưới ánh đèn và đưa gần vào mắt. “Sao không đến đây với bọn tôi?” Danny đế thêm trước khi nàng kịp ngăn anh lại. “Rồi, gặp nhau tại quán bar cuối đường Fulham nhé - quán mà năm ngoái mình đến sau trận gặp Chelsea đó. Thế nhé, bạn hiền.” Beth không phản đối, dù sao, Bernie không chỉ là anh trai nàng, mà còn là bạn thân nhất của Danny. Danny cúp máy, kêu người bồi bàn đi ngang tính tiền. Viên quản lý tiến về phía họ. “Hôm nay chúng tôi mời,” ông ta nói, kèm theo một nụ cười thân thiện. Đó là một đêm đầy bất ngờ. * * * Khi Beth và Danny bước vào bar Dunlop Arms, họ đã thấy Bernie ngồi ở bàn trong góc với một chai champagne và ba cái ly. “Tin hấp dẫn quá đi,” anh nói trước khi họ ngồi xuống. “Cảm ơn, bạn hiền,” Danny đáp lời, bắt tay người bạn thân nhất của mình. “Anh đã gọi cho bố mẹ rồi,” Bernie vừa nói vừa bật nút chai champagne và rót ra ly. “Bố mẹ có vẻ không nhạc nhiên lắm, nhưng đây sẽ là điều bí mật khó giữ kín nhất ở khu Bow.” “Đừng nói với em là họ sẽ có mặt ở đây ngay bây giờ nhé,” Beth nói. “Không đâu,” Bernie nói và nâng ly lên, “lần này thì có mỗi anh bên em thôi. Cho đời tươi và cho West Ham sẽ đoạt cúp”. “Tốt, một trong hai thứ khả thi đó”, Danny nói. “Nếu anh cưới được West Ham chắc anh cũng cưới nhỉ”, Beth mỉm cười với anh trai mình. “Cưới quá đi chứ,” Bernie đáp lời. Danny cười phá lên. “Tôi sẽ cưới cả hai suốt phần đời còn lại.” “Ngoại trừ các chiều thứ Bảy,” Bernie nhắc nhở. “Và anh có thể sẽ phải hi sinh một số thứ khi anh chính thức tiếp quản việc kinh doanh của bố,” Beth nói. Danny cau mày. Anh đã gặp bố của Beth trong giờ nghỉ trưa và xin phép được kết hôn với con gái ông - một tập tục đã từ lâu không tồn tại ở Khu Đông[1]. Ông Wilson đã rất vui vẻ về việc Danny trở thành con rể của mình, nhưng ông cũng cho anh biết ông đã thay đổi ý định về những việc anh nghĩ rằng họ đã đồng ý với nhau từ lâu. “Và nếu anh nghĩ rằng tôi sẽ gọi anh là ngài khi tiếp quản công việc từ bố tôi,” Bernie nói, cắt ngang dòng suy nghĩ của anh, “thì anh nên quên điều đó đi.” Danny không phản ứng gì. “Đó có thể là ai nhỉ?” Beth hỏi. Danny chợt nhìn kỹ hơn bốn người đứng ở quầy bar. “Nhất định là hắn ở kia”. “Hắn nào?” Bernie hỏi. “Tay diễn viên đóng bác sĩ Beresford trong phim The Prescription.” (Đơn thuốc). “Lawrence Davenport,” Beth thì thầm. “Anh có thể sang và xin hắn chữ ký,” Bernie nói. “Không cần,” Beth trả lời. “Dù mẹ chưa hề bỏ lỡ một tập nào”. “Anh tưởng em hâm mộ hắn,” Bernie nói khi rót đầy cả ba ly. “Không, em không”. Beth nói to hơn chút xíu, làm một trong bốn người ở quầy bar quay lại. “Trong bất cứ trường hợp nào,” và nàng cười với người chồng tương lai, “Danny trông ngon lành hơn Lawrence Davenport nhiều.” “Ngồi đấy mà mơ,” Bernie nói. “Chỉ vì cậu chàng Danny cạo râu và gội đầu cho một dịp quan trọng thôi, đừng nghĩ điều này sẽ trở thành thói quen, em gái ạ. Không có cơ hội đâu. Nên nhớ rằng công việc tương lại của chồng em là ở Khu Đông, không phải trong trung tâm thành phố đâu.” “Danny muốn thế nào thì anh ấy sẽ trở thành như thế,” Beth đáp lại, và nắm tay anh. “Trong đầu em nghĩ gì thế? Tài phiệt hay kẻ huênh hoang?” Bernie nói và thụi khẽ vào tay Danny. “Danny đã có kế hoạch cho garage và sẽ làm anh…” “Suỵt”, Danny ra dấu và anh rót đầy ly của bạn mình. “Tốt nhất là cậu ta nên có đi, bởi lấy vợ sẽ rất tốn kém đấy,” Bernie nói. “Nhân tiện, hai người định sống ở đâu?” “Có một căn hộ ở tầng trệt, ngay góc đường này đang rao bán,” Danny trả lời. “Nhưng hai người đã chuẩn bị đủ chưa?” Bernie gặng hỏi. “Nhà tầng trệt cũng chẳng rẻ rúng gì đâu, kể cả ở Khu Đông.” “Bọn em đã dành dụm đủ để đặt cọc,” Beth trả lời, “và khi Danny thừa kế từ bố…” “Vì chuyện này, phải uống đã,” Bernie ngắt lời nàng, nhưng chai rượu đã trống không. “Để anh kêu chai nữa.” “Thôi anh,” Beth cương quyết nói. “Sáng mai em phải đi làm đúng giờ, dù anh thì không.” “Kệ chuyện đó đi,” Bernie nói. “Không phải ngày nào em gái tôi cũng đính hôn với bạn thân của tôi. Cho chai nữa!” Bernie hô to. Tay bồi bàn mỉm cười khi lôi chai champagne thứ hai từ tủ lạnh dưới quầy lên. Một trong nhóm bốn người đứng ở quầy bar nhìn vào nhãn rượu. “Pol Roger,” gã nói, rồi vọng thêm một câu: “Toàn thứ bỏ đi.” Bernie nhảy dựng lên, nhưng Danny ngay lập tức kéo anh ngồi xuống. “Kệ chúng,” anh nói, “chúng không đáng ngồi có mặt ở đây.” Tay bồi bàn đi nhanh về phía bàn của ba người. “Đừng sinh sự gì nhé, mấy bạn,” anh ta vừa nói vừa xoay cái mở nút chai. “Hôm nay là sinh nhật của một trong mấy tay đấy và nói thật là họ cũng hơi quá chén rồi.” Beth nhìn kỹ hơn bốn người đàn ông kia trong khi anh phục vụ rót đầy ly cho họ. Một trong số đó cũng đang nhìn chằm chằm vào cô. Gã nháy mắt, mở miệng và thè lưỡi ra liếm một vòng quanh cặp môi. Beth vội quay lại, thấy Danny và anh trai mình đang nói chuyện. “Vậy hai người định đi trăng mật ở đâu?” “Saint Tropez,” Danny trả lời. “Tốn nhiều tiền quá nhỉ” “Và lần này thì anh không đi cùng đâu nhé,” Beth nói. “Em gái này cũng đàng hoàng đấy, nhưng mở miệng ra là thấy chất “hàng họ” liền,” một giọng nói từ phía quầy bar vọng đến. Bernie lại nhảy dựng lên, và thấy hai gã đang nhìn mình đầy thách thức. “Họ say rồi,” Beth nói. “Kệ họ đi.” “Ồ, tôi không biết,” một gã khác nói. “Rằng đã nhiều lần tôi rất thích cái miệng của em “hàng” mở to như vậy.” Bernie vớ ngay lấy cái vỏ chai, và Danny phải dùng hết sức để lôi anh ngồi xuống. “Em muốn về,” Beth nói dứt khoát. “Em không cần một đám lắm tiền hợm hĩnh làm hỏng bữa tiệc đính hôn của mình.” Danny đứng phắt dậy, nhưng Bernie vẫn ngồi đó, uống champagne. “Nào, Bernie, hãy ra khỏi đây trước khi làm điều gì khiến mình phải hối hận,” Danny nói. Bernie miễn cưỡng đứng dậy đi theo hai người, nhưng vẫn không rời mắt khỏi bốn gã ở quầy bar. Beth cảm thấy dễ chịu hơn khi thấy họ đã quay lưng về phía mình, có vẻ như đang say sưa tán phét. Nhưng ngay lúc Danny mở cửa sau của quán, một gã chợt quay lại. “Về à” hắn hỏi. Rồi rút ví ra và nói thêm, “Khi chú mày xong việc với em gái này thì bọn anh chắc cũng được hưởng sái để tổ chức vụ chơi tập thể đấy nhỉ?” “Đồ cứt đái,” Bernie lên tiếng. “Vậy sao chúng ta không ra ngoài để làm rõ vấn đề này nhỉ?” “Rất sẵn lòng, Đầu trọc ạ”, Bernie nói và bị Danny lôi qua cửa ra ngoài con hẻm nhỏ trước khi anh kịp nói thêm điều gì khác. Beth đóng sập cửa sau lưng và bắt đầu đi bộ dọc con hẻm. Danny túm chặt chỗ khuỷu tay Bernie nhưng chỉ đi được vài bước là đã bị giật ra. “Quay lại giải quyết bọn khốn đó đã.” “Không phải tối nay,” Danny nói, và lại túm tay Bernie kéo đi tiếp. Khi Beth ra đến đường lớn, nàng đã thấy gã mà Bernie gọi là Đầu trọc đã đứng đó, một tay cho ra sau lưng. Gã liếc nàng một cách đểu cáng và lại liếm môi, trong khi đó, một gã khác cũng chạy ra đứng ở đó, hơi thở có phần gấp gáp. Beth quay lại nhìn anh trai mình, thấy Bernie đang đứng choãi chân, rất vững chãi. Và anh mỉm cười. “Mình vào trong ngay,” Beth gào lên với Danny và thấy hai gã còn lại đứng chắn trước cửa sau quán bar. “Con mẹ chúng nó,” Bernie nói. “Đến lúc dạy mấy thằng khốn này một bài học rồi.” “Không, không”, Beth cố cưỡng lại trong khi một gã bắt đầu lao sầm sầm về phía họ. “Anh lo thằng Đầu trọc,” Bernie nói, “còn tôi lo ba thằng kia.” Beth lo sợ ngước lên nhìn, đúng lúc Đầu trọc tung cú đấm trúng vào một bên cằm Danny làm anh loạng choạng lùi lại. Nhưng Danny cũng đã kịp hồi lại để đỡ được cú đấm tiếp theo, làm động tác giả và tặng lại cho Đầu trọc một cú đầy bất ngờ. Gã khuỵu xuống nhưng cũng nhanh chóng đứng dậy và lại lao vào Danny. Hai gã còn lại đứng ở cửa có vẻ không muốn nhập cuộc, và Beth cho rằng cuộc chiến khá công bằng. Nàng chỉ có thể thấy anh trai mình tung ra một cú móc hàm vào đối thủ và gần như làm gã gục ngã. Và trong khi đợi gã đứng dậy trở lại, Bernie quát Beth, “Hãy giúp bọn anh, em gái, gọi taxi đi trước đi. Vụ này sẽ không kéo dài đâu, và chúng ta cần biến khỏi đây.” Beth quay sang phía Danny để chắc rằng anh vẫn đang chiếm ưu thế trước Đầu trọc. Gã đang nằm thẳng cẳng dưới đất, chân tay dang rộng còn Danny ngồi trên người gã, rõ ràng là làm chủ được tình hình. Nàng nhìn hai người lần cuối trước khi ngập ngừng làm theo lời anh trai. Beth chạy ra khỏi ngõ và khi tới đường lớn, nàng bắt đầu tìm taxi. Chỉ phải đợi khoảng hai phút là Beth đã thấy tín hiệu “For Hire”[2] màu vàng quen thuộc. Nàng vẫy xe lại, cùng lúc đó gã đàn ông bị Bernie đánh ngã lảo đảo đi qua nàng và biến vào bóng tối. “Đi đâu, thưa cô?”, tài xế taxi hỏi. “Đường Bacon, Bow,” Beth nói. “Hai người bạn tôi sẽ ra đây ngay bây giờ,” nàng nói thêm khi mở cửa xe. Tay tài xế liếc nhìn qua vai nàng về phía con hẻm. “Tôi không nghĩ cô cần taxi, cô ạ,” anh ta nói. “Nếu họ là bạn tôi, tôi sẽ gọi xe cứu thương ngay lập tức.” Chương 1 “Vô tội.” Danny Cartwright có thể cảm thấy đôi chân mình run rẩy như trước hiệp thứ nhất trong một trận đấu bốc mà anh biết chắc mình sẽ thua. Viên trợ lý ghi lại những lời bào chữa trong cáo trạng rồi ngẩng lên nhìn Danny và nói, “Anh có thể ngồi.” Danny gần như đổ xuống chiếc ghế nhỏ kê ở giữa khu vực dành cho bị cáo, nhận ra phần đầu tiên đã kết thúc. Anh ngước nhìn người chứng nhận ngồi ở phía bên kia phòng xử án, trong một chiếc ghế dựa lưng cao bọc da mau xanh tựa hình dáng tựa như ngai vàng. Trước mặt ông ta là chiếc bàn dài chất đầy các cặp giấy tờ buộc vào nhau, và một quyển sổ mở ra trang giấy trắng tinh. Ngài thẩm phán Sackville nhìn về phía Danny, nét mặt chẳng biểu hiện sự đồng tình hay phản đối. Ông đẩy cặp kính hình bán nguyệt lên khỏi sống mũi mà nói với giọng đầy quyền lực, “Mời bồi thẩm đoàn.” Trong khi tất cả cùng chờ đợi mười hai người cả nam lẫn nữ xuất hiện, Danny cố gắng nắm bắt những dấu hiệu và âm thanh lạ lùng trong phòng xử án số bốn tại Old Bailey. Anh nhìn về phía hai người ngồi ở chỗ mà được bảo là bàn luật sư. Luật sư trẻ của anh, Alex Redmayne ngước lên và trao cho anh một nụ cười thân thiện, nhưng người nhiêu tuổi hơn ngồi ở phía bàn bên kia - mà Redmayne cho anh biết là công tố viên - thì không thèm liếc anh lấy một lần. Danny chuyển ánh mắt về phía khu dành cho người đến tham dự phiên tòa. Bố mẹ anh ngôi ở ngay hàng ghế đầu tiên. Cánh tay vạm vỡ có xăm hình của bố anh gác lên rào chắn bằng gỗ, còn mẹ anh thì cúi đầu xuống. Thi thoảng bà mới ngước mắt lên nhìn đứa con duy nhất của mình. Vụ xử Daniel Arthur Cartwright đã kéo dài vài tháng và cuối cùng đưa đến tòa trung tâm, tức Old Bailey. Với Danny, một khi đã vướng vào chuyện pháp luật, mọi thứ diễn ra theo nhịp độ rất chậm. Và bỗng nhiên, không hề báo trước, cánh cửa ở góc xa của phòng xử án mở ra và người gác cửa xuất hiện trở lại. Theo sau anh ta là bảy người đàn ông và năm phụ nữ - những người được lựa chọn để định đoạt số phận của anh. Họ đi về khu dành cho bồi thẩm đoàn và ngồi vào những chiếc ghế trống - sáu ở hàng trước, sáu ở đằng sau, hoàn toàn xa lạ, không có điểm gì chung ngoài việc được lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Khi tất cả đã yên vị, người trợ lý đứng dậy nói. “Các thành viên bồi thẩm đoàn,” ông ta bắt đầu, “bị cáo Daniel Arthur Cartwright đang đứng trước mặt các vị bị buộc tội giết người. Với tội danh này, bị cáo đã được bào chữa là vô tội. Các vị có trách nhiệm lắng nghe, cân nhắc các bằng chừng và quyết định bị cáo có tội hay vô tội.” Chương 2 N gài thẩm phán Sackville liếc xuống chiếc bàn dài phía dưới ông ta. “Ông Pearson, ông có thể bắt đầu.” Một người đàn ông thấp, tròn trịa chậm chạm đứng lên. QC[3] Arnold Pearson mở tập hồ sơ dầy nằm trên cái bục trước mặt. Ông ta sờ mái tóc giả đã sờn của mình, như để chắc chắn rằng mình đã nhớ đội nó lên đầu, rồi lại sờ ve áo choàng, những động tác đã không thay đổi từ ba mươi năm qua. “Xin phép ngài,” Arnold Pearson bắt đầu bằng giọng nói buồn tẻ, “Tôi đại diện cho tòa án trong vụ này, còn người đồng nghiệp của tôi”, ông ta liếc nhìn cái tên trên tập giấy trước mặt, “ông Alex Redmayme đại diện cho bên bị cáo. Vụ án ở đây là một vụ giết người. Vụ giết ông Bernard Henry Wilson một cách dã man và có toan tính.” Ở khu dành cho người đến dự phiên tòa, bố mẹ của nạn nhân ngồi ở một góc xa trên hàng ghế cuối cùng. Ông Wilson nhìn Danny, không thể che giấu sự thất vọng trong mắt. Bà Wilson nhìn về phía trước, trống rỗng, mặt trắng bệch, khác hẳn lúc gào khóc trong đám tang. Mặc dù những sự kiện bi kịch xung quanh cái chết của Bernie Wilson không thể thay đổi cuộc sống của hai gia đình ở khu Đông - đã có tình bạn keo sơn từ vài thế hệ, nhưng nó đã tạo ra một làn sóng dư luận vượt ra ngoài mười mấy con phố xung quanh đường Bacon ở khu Bow. “Trong suốt tiến trình của phiên tòa này, mọi người sẽ biết bằng cách nào bị cáo” - Arnold Pearson tiếp tục, vẫy tay về phía khu dành cho bị cáo mà không buồn liếc Danny - “lừa được ông Wilson tới một quán bar ở Chelsea vào tối thứ Bảy ngày mười tám tháng Chín năm 1999, nơi anh ta đã tiến hành vụ giết người man rợ và đã được lên kế hoạch trước. Đầu tiên anh ta dẫn em gái ông Wilson” - ông ta lại nhìn vào tập giấy trước mặt - “Elizabeth, tới nhà hàng Lucio ở đường Fullham. Bồi thẩm đoàn sẽ biết rằng Cartwright đã cầu hôn cô Wilson sau khi cô tiết lộ mình đã có bầu. Sau đó anh ta gọi anh trai của cô Wilson - tức ông Bernard Wilson - bằng điện thoại di động và mời ông Wilson đến cùng họ tại Dunlop Arms, một quán bar ở đằng sau khu Hambledon, Chelsea, để cùng chia vui.” “Cô Wilson đã viết lời khai rằng mình chưa bao giờ đến quán bar này, mặc dù Cartwright biết rõ quán, và chúng tôi đưa ra giả thuyết anh ta chọn nó cho một mục đích và mục đích duy nhất: cửa sau của quán mở ra con hẻm yên tĩnh, một địa điểm lý tưởng cho kẻ đang có ý định giết người, một vụ mưu sát mà Cartwright sau đó đã đổ tội lên một nhóm người xa lạ tình cờ cũng là khách tại Dunlop Arms vào đêm đó.” Danny nhìn chằm chằm vào ông Pearson. Làm sao ông ta có thể biết chuyện gì đã xảy ra vào đêm đó, khi mà ông ta không có mặt? Nhưng Danny không quá lo lắng. Xét cho cùng, Redmayne đã đảm bảo rằng câu chuyện theo lời của Danny cũng được xem xét đầy đủ trong suốt quá trình phiên tòa diễn ra và anh không nên quá lo lắng nếu mọi thứ có vẻ u ám khi công tố viên nêu ra các luận điểm của mình. Mặc dù đã được nhắc đi nhắc lại điều này nhưng Danny vẫn lo ngại về hai vấn đề: Alex Redmayne không hơn anh nhiều tuổi và đây mới chỉ là vụ thứ hai anh được làm luật sư biện hộ chính thức. “Nhưng không may cho Cartwright,” Pearson tiếp tục, “bốn người khách có mặt ở Dunlop Arms hôm đó đã kể một câu chuyện khác hẳn, một câu chuyện không chỉ rất thống nhất mà còn được chứng thực bởi người bồi bàn đang làm việc ở quán lúc đó. Phía tòa án sẽ gọi vào năm nhân chứng, và họ sẽ kể cho mọi người rằng họ tình cờ nghe được cuộc cãi vã giữa hai người đàn ông, sau đó được thấy ra khỏi quán bar sau khi Cartwright nói, “Vậy tại sao chúng ta không ra ngoài và làm rõ vấn đề này nhỉ?” Cả năm người đều thấy Cartwright ra ngoài bằng cửa hậu, theo sau là Bernard Wilson và em gái Elizabeth, người rõ ràng đang trong trạng thái kích động. Một lúc sau, một tiếng hét vang lên, ông Spencer Craig, một trong các khách hàng đã rời khỏi bạn hữu và chạy ra ngõ sau, nơi ông ta thấy Cartwright một tay chẹn cổ ông Wilson, tay kia liên tục đâm dao vào ngực ông Wilson. “Ông Craig ngay lập tức đã gọi 999 bằng điện thoại di động của mình. Thời gian cuộc gọi, thưa ngài, và nội dung cuộc gọi đã được đồn cảnh sát Belgravia ghi lại. Vài phút sau, hai cảnh sát đã đến hiện trường và thấy Cartwright quỳ bên xác ông Wilson, với con dao trong tay - con dao mà chắc hẳn anh ta đã lấy từ quán bar, bởi có chữ Dunlop Arms trên chuôi dao.” Alex Redmayne cắm cúi ghi chép lời của Pearson. “Các thành viên bồi thẩm đoàn,” Pearson tiếp tục, lại sờ ve áo, “mọi kẻ sát nhân đều có động cơ, và trong vụ án này, chúng ta không cần nhìn xa hơn vụ giết người đầu tiên Cain giết Abel để nhận ra động cơ đó: đố kỵ, tham lam và tham vọng chính là các thành phần bẩn thỉu nhất, và khi kết hợp với nhau, chúng đã xúi giục Cartwright phải loại trừ người đang đứng trên con đường anh ta đi. Các thành viên bồi thẩm đoàn, Cartwright và ông Wilson cùng làm việc trong ga - ra của nhà Wilson trên đường Mile End. Garagr này do ông George Wilson sở hữu và quản lý, bố của nạn nhân, người đã định nghỉ hưu vào cuối năm nay, và giao lại công việc kinh doanh cho đứa con trai duy nhất của mình, Bernard. Ông George Wilson đã cho lời khai về việc này, và với sự đồng ý của luật sư, chúng tôi sẽ không gọi ông với tư cách nhân chứng. Các thành viên bồi thẩm đoàn, trong quá trình xử án, các vị sẽ biết hai người đàn ông trẻ đã có một thời gian dài ganh đua và đứng đối lập nhau, từ hồi còn ngồi trên ghế nhà trường. Nhưng cùng việc loại bỏ Bernard Wilson, Cartwright đã lên kế hoạch cưới con gái ông chủ và chiếm đoạt công việc kinh doanh đang rất phát đạt cho mình. Tuy nhiên, mọi việc diễn ra không như dự tính của Cartwright, và khi bị bắt, anh ta đã cố đổ mọi thứ lên đầu một người ngoài cuộc vô tội, người đã chạy vào ngõ để xem chuyện gì khiến cô Wilson phải hét lên. Nhưng thật không may cho Cartwright, đó không không phải là một phần kế hoạch của anh ta, bởi có tới bốn người khác cũng có mặt khi toàn bộ sự việc xảy ra.” Pearson mỉm cười với bồi thẩm đoàn. “Các thành viên bồi thẩm đoàn, một khi các vị nghe lời khai của họ, các vị sẽ không còn nghi ngờ về việc Daniel Cartwright đã phạm phải tội giết người một cách tàn ác.” Ông ta quay sang ngài thẩm phán. “Phần khởi tố ban đầu đã kết thúc, thưa ngài.” Ông ta vuốt ve áo thêm lần nữa trước khi nói thêm. “Nếu ngài cho phép, tôi xin được gọi nhân chứng đầu tiên.” Ngài thẩm phán Sackville gật đầu, và Pearson nói với giọng chắc nịch. “Cho gọi ông Spencer Craig.” Danny Cartwright nhìn về bên phải và thấy người gác tòa ngồi ở cuối phòng xử án mở cửa, bước ra hành lang và hô lớn, “Ông Spencer Craig.” Vài phút sau, một người đàn ông mặc áo khoác kẻ xanh, sơ - mi trắng với cà - vạt hoa cà, cao, cỡ tuổi Danny bước vào. Trông gã khác nhiều so với lần đầu họ gặp mặt. Danny đã không nhìn thấy Spencer Craig trong sáu tháng qua, nhưng không ngày nào anh không hình dung về gã một cách cực kỳ rõ ràng. Anh nhìn gã đầy thách thức, nhưng Craig không hề liếc về phía Danny, như thể anh không tồn tại. Craig đi qua phòng xử ánh như một người biết chắc mình đang đi đâu. Khi dừng lại ở bục nhân chứng, gã lập tức cầm ngay cuốn Kinh thánh lên và đọc lời thề mà không thèm nhìn vào mẩu giấy để trước mặt. Pearson mỉm cười với nhân chứng quan trọng nhất của mình, trước khi liếc xuống dãy câu hỏi đã mất cả tháng trời để chuẩn bị. “Tên ông là Spencer Craig?” “Vâng, thưa ngài,” gã trả lời. “Và ông sống ở số bốn mươi ba khu nhà Hambledon, London SW3?” “Đúng, thưa ngài.” “Ông làm công việc gì,” Pearson hỏi, như thể ông ta không biết gì hết vậy. “Tôi là luật sư.” “Về lĩnh vực nào?” “Án hình sự.” “Vậy là ông rất quen thuộc với các vụ án giết người?” “Không may là đúng như vậy, thưa ngài.” “Bây giờ, tôi sẽ đưa ông về buổi tối ngày mười tám tháng Chín năm ngoái, khi ông cùng một nhóm bạn tới nhâm nhi ở bar Dunlop Arms ở khu nhà Hambledon. Có thể ông sẽ cho chúng tôi biết rõ những gì xảy ra vào tối hôm đó.” “Tôi và các bạn lúc đó đến uống mừng sinh nhật thứ ba mươi của Gerald…” “Gerald?” Pearson ngắt lời. “Gerald Payne”, Craig nói. “Anh ấy là bạn cũ, từ thời tôi còn học ở Cambridge. Chúng tôi đã dành cả tối vui vẻ với nhau, cùng thưởng thức một chai vang.” Alex Redmayne ghi lại - anh muốn biết chính xác là bao nhiêu chai. Còn Danny muốn hỏi từ “vui vẻ” nghĩa là gì. “Nhưng rất buồn là buổi tối đã không kết thúc một cách vui vẻ,” Pearson bình phẩm. “Còn hơn thế nữa,” Craig trả lời, vẫn không liếc về phía Danny. “Vậy ông hãy cho tòa biết chuyện gì đã xảy ra sau đó,” Pearson nói, và nhìn xuống tờ ghi chú. Craig lần đầu tiên quay mặt về phía bồi thẩm đoàn. “Chúng tôi, như tôi đã nói, đang ngồi uống rượu mừng sinh nhật thứ ba mươi của Gerald, thì tôi nghe thấy hai giọng nói, có vẻ to tiếng. Tôi quay lại và thấy một người đàn ông đang ngồi tại bàn ở góc xa với một cô gái trẻ.” “Ông có thấy người đàn ông đó trong phòng xử án ngay lúc này không?” Pearson hỏi. “Có,” Craig trả lời, chỉ về phía khu dành cho bị cáo. “Xong rồi sao?” “Anh ta đột nhiên nhảy dựng lên,” Craig tiếp tục, “bắt đầu quát tháo và chỉ ngón tay vào một người đàn ông khác vẫn ngồi trên ghế. Tôi nghe thấy một người nói: ‘Nếu anh nghĩ rằng tôi vẫn tiếp tục gọi anh là bạn khi anh lấy tất cả từ bố tôi, thì anh hãy quên chuyện đó đi.’ Cô gái trẻ cố làm anh ta bình tĩnh trở lại. Tôi định quay lại với các bạn mình, vì vụ cãi nhau đó đâu liên quan đến tôi - thì bị cáo quát lên, “Vậy tại sao chúng ta không ra ngoài và làm rõ chuyện này?”. Tôi tưởng họ đùa, nhưng người nói câu này đã cầm ngay một con dao ở trong quán…” “Cho phép tôi ngắt lời một chút, ông Craig. Ông thấy bị cáo cầm dao ra khỏi quán bar?” Pearson hỏi. “Vâng, tôi có thấy.” “Chuyện gì xảy ra sau đó?” “Anh ta đi về phía cửa sau, điều đó làm tôi ngạc nhiên.” “Tại sao ông lại ngạc nhiên?” “Bởi vì Dunlop Arms là quán quen của tôi, và tôi chưa thấy người này ở đây bao giờ.” “Tôi không chắc mình hiểu ý ông, ông Craig,” Pearson nói, nắm rõ từng từ trong câu hỏi của mình. “Cửa hậu bị khuất nếu ngồi ở góc phòng, nhưng có vẻ anh ta biết rõ mình đang đi đâu.” “A, tôi hiểu rồi,” Pearson nói. “Mời ông tiếp tục.” “Rồi sau người kia cũng đứng dậy và đuổi theo bị cáo, cùng với cô gái trẻ ra phía cửa sau. Tôi không nghĩ thêm về chuyện này nữa, nhưng một lúc sau tất cả chúng tôi đều nghe thấy tiếng hét.” “Tiếng hét?” Pearson nhắc lại. “Tiếng hét kiểu gì?” “Rất lớn, tiếng hét của phụ nữ.” Craig trả lời. “Và ông đã làm gì?” “Ngay lập tức tôi rời khỏi các bạn và chạy ra ngõ xem cô gái có gặp nguy hiểm gì không.” “Và cô ấy đang gặp nguy hiểm thật?” “Không, thưa ngài. Cô ấy hét lên với bị cáo, van xin anh ta dừng lại.” “Dừng lại cái gì?” Pearson hỏi. “Đánh người đàn ông kia.” “Họ đang đánh nhau à?” “Vâng, thưa ngài. Người tôi thấy đầu tiên chỉ ngón tay và quát tháo lúc đó đang ấn người kia vào tường, tay đè lên cổ anh ấy.” Craig quay về phía bồi thẩm đoàn và giơ tay trái lên diễn tả lại động tác. “Và ông Wilson có cố gắng tự vệ không?” Pearson hỏi. “Ông ấy cố hết sức, nhưng bị cáo đã đâm dao vào ngực ông ấy, liên tục.” “Anh đã làm gì lúc đó?” “Tôi gọi số khẩn cấp, và họ hứa sẽ cho cảnh sát và xe cứu thương đến ngay.” “Họ có nói gì nữa không?” Pearson hỏi, và lại nhìn xuống tờ ghi chú. “Có,” Craig trả lời. “Họ bảo tôi không được tiếp cận người cầm dao, hãy trở vào quán ngồi chờ tới khi cảnh sát đến.” Gã dừng lại. “Và tôi đã nghe theo lời chỉ dẫn đó.” “Các bạn anh phản ứng thế nào khi anh quay lại và kể cho họ nghe những gì anh đã thấy?” “Họ muốn ra ngoài xem có giúp gì được không, nhưng tôi nói cảnh sát đã khuyên nên ở trong quán, và tôi cũng nghĩ trong những trường hợp này thì tốt nhất là nên bảo họ về nhà.” “Trong những trường hợp này?” “Tôi là người duy nhất chứng kiến toàn bộ sự việc và tôi không muốn họ gặp nguy hiểm nếu người cầm dao trở lại quán bar.” “Rất đáng khen,” Pearson nói. Ngài thẩm phán cau mày với Arnold Pearson. Alex Redmayne lại ghi gì đó vào tờ giấy. “Ông phải chờ bao lâu thì cảnh sát đến?” “Chỉ một lát là tôi nghe thấy tiếng còi xe, và vài phút sau là một cảnh sát mặc thường phục đã vào quán bằng lối cửa sau. Ông ta cho tôi xem phù hiệu và tự giới thiệu là Thanh tra Fuller, hạ sĩ. Ông ta cũng thông báo rằng nạn nhân đã trên đường tới bệnh viện gần nhất.” “Rồi sau đó thế nào?” “Tôi cho lời khai đầy đủ, và hạ sĩ Fuller nói tôi có thể về nhà.” “Anh có về nhà không?” “Có, tôi về nhà, chỉ cách Dunlop Arms khoảng trăm mét, và lên giường, nhưng không ngủ được.” Alex viết xuống mấy chữ: khoảng trăm mét. “Cũng dễ hiểu thôi,” Pearson nói. Ngài thẩm phán cau mày lần thứ hai. “Nên tôi ngồi dậy, sang phòng làm việc và viết ra tất cả những gì đã xảy ra vào buổi tối hôm đó.” “Tại sao ông lại làm vậy, ông Craig, khi đã cho cảnh sát lời khai đầy đủ?” “Do kinh nghiệm đứng ở vị trí như ngài, ngài Pearson, rằng các bằng chứng được đưa ra ở bục nhân chứng này thường rời rạc, chắp vá, thậm chí không đúng sự thật, trong khi đó phiên xử thường diễn ra vài tháng sau khi tội ác đã được thực thi.” “Khá đúng”, Pearson nói, và lật sang một trang giấy khác. “Anh biết Daniel Cartwright bị bắt vì tội mưu sát Bernard Wilson khi nào?” “Tôi đã đọc khá tường tận về chuyện này trên tờ Evening Standard vào ngày thứ Hai tuần sau đó. Bài báo viết ông Wilson đã chết trên đường tới bệnh viện Westminster ở khu Chelsea, và Cartwright bị bắt vì tội giết người.” “Và ông có nhận ra rằng, sự việc này có liên quan tới cá nhân ông?” “Có, và tôi biết rằng tôi sẽ được gọi làm nhân chứng cho phiên tòa sắp tới, nếu Cartwright không nhận tội.” “Nhưng, dù là anh, với tất cả kinh nghiệm của mình về các vụ trọng án, cũng không thể đoán trước được điều này.” “Rõ ràng như vậy,” Craig trả lời. “Chiều hôm sau, hai cảnh sát tới văn phòng tôi để tiến hành cuộc thẩm vấn thứ hai.” “Nhưng rõ ràng anh đã cho khẩu cung và viết lời khai cho hạ sĩ Fuller,” Pearson nói. “Tại sao họ phải thẩm vấn anh lần nữa?” “Bởi vì Cartwright khi đó buộc tội tôi giết ông Wilson, và thậm chí còn quả quyết chính tôi đã lấy con dao trong quán bar.” “Trước buổi tối hôm đó, ông đã bao giờ gặp ông Cartwright hay ông Wilson chưa?” “Chưa, thưa ngài,” Craig trả lời rất thật thà. “Cảm ơn, ông Craig.” Hai người mỉm cười với nhau trước khi Pearson quay lại ngài thẩm phán và nói, “Tôi không còn gì để hỏi, thưa ngài.” Chương 3 T hẩm phán Sackville nhìn sang luật sư ngồi ở đầu bàn phía bên kia. Ông rất quen thân với bố của Alex Redmayne, người gần đây đã rời khỏi chức thẩm phán tòa tối cao về nghỉ hưu, nhưng đứa con trai chưa một lần được xuất hiện trước mặt ông. “Ông Redmayne,” ông kéo dài giọng, “ông có cần đối chất với nhân chứng này không?” “Dĩ nhiên là tôi rất muốn,” Redmayne vừa trả lời vừa sắp xếp lại các ghi chép của mình. Danny nhớ lại không lâu sau khi bị bắt, một cảnh sát đã khuyên anh tìm cho mình một luật sư. Nhưng chuyện này cũng không phải dễ dàng. Anh nhanh chóng nhận ra rằng luật sư, cũng như thợ máy ở garage tính tiền theo giờ và anh chỉ có thể nhận được những gì anh đủ khả năng chi trả. Anh có thể trả đến mười ngàn bảng, tất cả số tiền anh tích cóp được trong mười năm qua, số tiền mà anh định đặt cọc căn hộ tầng hầm ở khu Bow, nơi Beth, anh và đứa con sắp chào đời sẽ sống ở đó sau khi kết hôn. Mỗi đồng tiền trong số đó đã bị tiêu đi từ rất lâu trước khi vụ án được xét xử ở tòa. Luật sư mà anh chọn, một ông Makepeace nào đó đòi năm ngàn bảng đưa trước và năm ngàn bảng khi ông ta giao vụ án cho Alex Redmayne, người sẽ đại diện cho anh trước tòa. Danny không hiểu tại sao mình phải cần tới hai luật sư để làm cùng một công việc. Khi sửa xe, anh chẳng bao giờ phải nhờ Bernie nâng ca - pô để anh nhìn vào động cơ, và anh rõ ràng cũng không đòi đặt cọc trước khi sờ vào túi đồ nghề của mình. Nhưng Danny thích Alex Redmayne ngay lần đầu gặp mặt, không phải chỉ vì anh ta cũng ủng hộ đội West Ham. Anh ta có giọng nói của người ở tầng lớp trên, đã tốt nghiệp Oxford và anh ta chưa một lần coi thường anh. Khi ông Makepeace đọc hồ sơ vụ án và nghe những gì Danny phải nói, ông ta đã khuyên thân chủ của mình nhận tội ngộ sát. Ông ta tự tinh rằng mình có thể thương lượng với tòa tối cao, qua đó để Danny nhận một cái án sáu năm. Danny không đồng ý. Alex Redmayne thì bắt Danny và vợ chưa cưới kể đi kể lại những gì xảy ra tối hôm đó, và anh ta nhặt ra những chi tiết mâu thuẫn trong câu chuyện. Anh không tìm thấy gì, và khi Danny hết tiền thì Alex Redmayne nhận bào chữa cho anh. “Ông Craig,”, Alex Redmayne bắt đầu, không sờ ve áo hay tóc giả. “Tôi chắc rằng không cần phải nhắc nhở rằng ông đã tuyên thệ, và bên cạnh đó là những nghĩa vụ và trách nhiệm mà một luật sư phải có.” “Cẩn trọng ngôn ngữ, ông Redmayne,” ngài thẩm phán ngắt lời. “Hãy nhớ rằng thân chủ của anh đang bị xử, chứ không phải nhân chứng.” “Chúng ta sẽ xem ngài còn cảm thấy thế nữa không, thưa ngài, khi ngài đã có được kết luận cuối cùng.” “Ông Redmayne,” giọng ngài thẩm phán sắc lại. “ông không có trách nhiệm nhắc nhở vai trò của tôi trong phòng xử án này. Công việc của ông là hỏi nhân chứng, còn của tôi là giải quyết các vấn đề luật pháp phát sinh, và sau đó cả hai chúng ta sẽ để bồi thẩm đoàn đưa ra phán quyết.” “Nếu ngài vui lòng,” Redmayne nói và quay lại với nhân chứng. “Ông Craig, ông và bạn bè đến Dunlop Arms lúc mấy giờ tối hôm đó? “Tôi không nhớ chính xác thời gian,” Craig trả lời. “Vậy để tôi cố gắng vận động trí nhớ của ông. Bẩy giờ? Bẩy rưỡi? Tám giờ?” “Gần tám giờ, tôi cho là như vậy.” “Vậy là ông đã uống khoảng ba tiếng cho tới khi thân chủ của tôi, vợ chưa cưới và bạn thân của anh ấy đi vào quán.” “Như tôi đã nói trước tòa, tôi không thấy họ vào.” “Gần như vậy,” Redmayne nói, bắt chước Pearson. “Và ông đã uống tổng cộng bao nhiêu rượu, cho đến lúc mười một giờ?” “Tôi không biết. Hôm đó là sinh nhật lần thứ ba mươi của Gerald, nên không ai đếm cả.” “Tốt, như chúng ta xác định là anh đã uống trong ba tiếng, vậy cứ coi là sáu chai vang. Có thể bảy, thậm chí tám?” “Năm chai là tối đa,” Craig trả miếng. “Không quá mức cho bốn người.” “Tôi đồng ý với ông, ông Craig, có một người bạn ông viết trong bản khai là ông ta chỉ uống Coke Diet, còn người khác chỉ uống một hoặc hai ly vì ông ta phải lái xe.” “Nhưng tôi thì không phải cầm vô - lăng,” Craig trả lời. “Dunlop Arms ở ngay khu nhà tôi, tôi sống cách đó chỉ khoảng trăm mét.” “Chỉ khoảng trăm mét?” Redmayne nhắc lại. Khi Craig không trả lời, anh tiếp tục, “Ông nói với tòa rằng ông không nhận ra bất kỳ khách hàng nào trong bar cho tới khi nghe thấy có người to tiếng?” “Chính xác.” “Khi ông khẳng định mình nghe thấy bị cáo nói: “Vậy tại sao chúng ta không ra ngoài và làm rõ chuyện này?” “Cũng chính xác.” “Nhưng có phải là sự thật không, ông Craig, rằng chính là ông đã khởi đầu vụ đánh lộn khi đưa ra một thông điệp khó quên cho thân chủ của tôi lúc anh ấy rời khỏi quán” anh nhìn xuống tờ ghi chú - “Khi chú mày xong việc với em gái này thì bọn anh chắc cũng được hưởng sái để tổ chức vụ chơi tập thể đấy nhỉ?” Redmayne đợi Craig trả lời, nhưng gã vẫn giữ im lặng. “Ttừ việc ông không trả lời, phải chăng tôi có thể thừa nhận rằng mình đã đúng?” “Ông không thể thừa nhận điều gì từ việc này, ông Redmayne. Tôi đơn giản chỉ cho rằng câu hỏi của ông không đáng để trả lời,” Craig khinh khỉnh đáp lại. “Tôi hi vọng ông cảm thấy, ông Craig, rằng câu hỏi tiếp theo đây đáng để trả lời, bởi vì tôi sẽ gợi ý rằng khi ông Wilson nói ông là “đồ cứt đái”, chính ông mới là người nói “Vậy sao chúng ta không ra ngoài để làm rõ vấn đề này nhỉ?” “Tôi nghĩ mấy từ này khá giống kiểu ngôn ngữ được mong đợi xuất phát từ thân chủ của ông,” Craig đáp lại. “Hay từ người đã quá chén và đang thể hiện với đám bạn say xỉn trước mặt một phụ nữ xinh đẹp?” “Tôi phải nhắc ông lần nữa, ông Redmayne,” ngài thẩm phán lên tiếng, “rằng thân chủ của ông mới là người bị xử trong vụ án này, không phải ông Craig.” Redmayne khẽ nhún vai, nhưng khi ngước mắt lên, anh nhận thấy bồi thẩm đoàn đang dõi theo từng lời của mình. “Tôi cho rằng, ông Craig,” anh tiếp tục, “ông khỏi cửa trước và chạy vòng về đằng sau quán bar bởi vì ông muốn đánh nhau.” “Tôi chỉ chạy ra ngõ sau khi nghe thấy tiếng hét.” “Có phải đó là lúc ông lấy con dao ở trong quán?” “Tôi không làm điều đó,” Craig cao giọng. “Thân chủ của ông cầm dao lúc anh ta bước ra ngoài, và tôi đã nói rõ điều này trong tờ khai.” “Có phải là tờ khai với những chi tiết được ông chuẩn bị kỹ lưỡng khi bị mất ngủ trong đêm đó?” Redmayne hỏi. Craig lại im lặng. “Có phải đây là ví dụ nữa cho những thứ không đáng để ông quan tâm?” Redmayne ám chỉ. “Có người bạn nào của ông theo ông ra chỗ con hẻm không?” “Không có ai.” “Vậy là họ không được chứng kiến ông với Cartwright đánh nhau?” “Sao mà họ thấy được, khi tôi và Cartwright không đánh nhau?” “Ông đã có đai xanh quyền anh từ hồi còn học ở Cambridge, phải không ông Craig?” “Craig lưỡng lự. “Đúng vậy.” “Và hồi còn ở Cambridge, ông có bị đuổi học tạm thời vì…” “Chuyện này có liên quan không?” Thẩm phán Sackville hỏi. “Tôi rất sẵn lòng để bồi thẩm đoàn quyết định chuyện này, thưa ngài,” Redmayne nói. Quay lại với Craig, anh tiếp tục, “Có phải ông đã từng bị trường Cambridge đuổi học tạm thời vì dính đến vụ say rượu và đánh lộn với vài người dân ở đó, những người sau này bị ông mô tả với cơ quan chức năng là “một lũ thô lỗ?” “Chuyện đó đã xảy ra nhiều năm rồi, khi tôi vẫn còn chưa tốt nghiệp.” “Và cũng là ông, vài năm sau, vào buổi tối ngày mười tám tháng Chín năm 1999, lại đánh lộn với “một lũ thô lỗ” khác và lần này phải dùng đến cả con dao lấy từ quán bar?” “Như tôi đã nói với ông, tôi không phải người cầm dao, tôi chỉ chứng kiến cảnh thân chủ của ông đâm dao vào ngực ông Wilson thôi.” “Và sau đó ông quay vào quán bar?” “Vâng, tôi quay vào ngay sau khi gọi cứu trợ khẩn cấp.” “Chúng ta hãy cố gắng chính xác hơn nữa nhé, ông Craig. Ông không thực sự gọi cứu trợ khẩn cấp. Sự thực là ông gọi vào điện thoại di động của hạ sĩ Fuller.” “Đúng, ông Redmayne, nhưng có vẻ như ông đã quên rằng lúc báo cáo về vụ án, tôi nhận ra hạ sĩ Fuller đã thông báo cho cứu hộ khẩn cấp. Cho nên, xe cứu thương đã đến trước cả ông hạ sĩ.” “Vài phút trước đó,” Redmayne nhấn mạnh. “Tuy nhiên, tôi tò mò muốn biết sao anh có thể có số điện thoại di động của một cảnh sát cấp thấp dễ dàng như vậy?” “Trước đó không lâu chúng tôi cùng phải làm một vụ buôn bán ma túy lớn, kéo dài vài tháng….” “Vậy ông Fuller là bạn của ông?” “Tôi không biết nhiều về ông ta,” Craig trả lời. “Quan hệ của chúng tôi hoàn toàn trong lĩnh vực chuyên môn.” “Tôi cho rằng, ông Craig, ông biết ông ta đủ rõ để điện thoại và chắc chắn rằng ông ta sẽ nghe câu chuyện theo lời kể của ông trước.” “Thật may là còn bốn nhân chứng khác xác nhận câu chuyện của tôi là đúng.” “Tôi rất mong chờ tới lúc đối chất mấy người bạn thân của ông, ông Craig, và tôi cũng tò mò muốn biết vì sao sau khi quay lại quán bar ông lại khuyên họ về nhà?” “Họ không nhìn thấy thân chủ của ông đâm ông Wilson, vì thế họ không liên quan gì hết,” Craig nói. “Và tôi cho rằng có thể họ sẽ gặp nguy hiểm nếu ở lại.” “Nhưng nếu có người gặp nguy hiểm, ông Craig, đó sẽ là người chứng kiến vụ sát hại ông Wilson, vậy tại sao ông không về cùng các bạn?” Craig lại giữ im lặng, nhưng lần này không phải vì gã thấy câu hỏi không đáng để trả lời. “Có thể lý do thật sự ông bảo họ về,” Redmayne nói, “là vì ông cần họ không có mặt để ông kịp chạy về nhà và thay bộ quần áo còn dính máu trước khi cảnh sát đến nơi? Sau cùng, ông chỉ sống, như ông đã thừa nhận “cách đó trăm mét.” “Có vẻ ông quên, ông Redmayne, rằng hạ sĩ Fuller đến nơi chỉ vài phút sau khi tội ác diễn ra”, Craig đáp trả với vẻ khinh bỉ. “Chính xác là bảy phút sau khi ông điện thoại, ông hạ sĩ mới đến hiện trường, và ông ta cũng mất chút ít thời gian để thẩm vấn thân chủ của tôi trước khi vào quán bar.” “Ông có cho rằng tôi dám mạo hiểm làm thế khi tôi biết rằng cảnh sát có thể đến bất cứ lúc nào?” Craig nói to. “Có,” Redmayne trả lời, “nếu như anh phải ở cả quãng đời còn lại trong tù.” Tiếng rì rầm lan ra trong phòng xử. Mắt các thành viên bồi thẩm đoàn đổ dồn vào Craig, nhưng một lần nữa gã lại không trả lời câu hỏi. Redmayne đợi thêm một lúc trước khi nói tiếp, “Ông Craig, tôi nhắc lại là tôi nóng lòng chờ được đối chất với các bạn của ông, từng người một.” Quay lại với ngài thẩm phán, anh nói, “Tôi không còn gì để hỏi, thưa ngài.” “Ông Pearson?” ngài thẩm nói. “Chắc là ông muốn hỏi thêm nhân chứng chứ?” “Vâng, thưa ngài,” Pearson trả lời. “Có một câu hỏi tôi rất muốn biết đáp án.” Ông ta mỉm cười với Craig. “Ông Craig, ông có phải Siêu nhân không?” “Craig có vẻ bối rối, nhưng nhận ra Pearson đang có ý giúp mình, liền đáp, “Không, thưa ngài. Sao ngài lại hỏi thế?” “Bởi vì chỉ có Siêu nhân, vừa chứng kiến một vụ giết người, mới có thể quay vào quán bar, kể lại cho các bạn, chạy về nhà, tắm rửa, thay quần áo, quay lại quán bar và bình tĩnh ngồi ở đó đợi hạ sĩ Fuller đến.” Vài thành viên bồi thẩm đoàn cố nhịn cười. “Hoặc phải có trạm điện thoại công cộng ngay gần đó.” Pearson đợi họ lấy lại vẻ mặt bình thường rồi tiếp tục. “Ông Craig, cho phép tôi bỏ qua thế giới huyền ảo của ông Redmayne và hỏi ông một câu nghiêm túc.” Ông ta chờ tới khi cặp mắt của mọi người đổ dồn về phía mình. “Theo kết quả của các chuyên viên pháp y của Sở cảnh sát (Scotland Yard), thì dấu vân tay trên chuôi dao là của ông, hay của bị cáo?” “Rõ ràng không phải của tôi,” Craig nói, “nếu không tôi mới là người ngồi ở ghế bị cáo.” “Tôi không còn gì để hỏi, thưa ngài,” Pearson kết thúc. Chương 4 C ánh cửa phòng giam mở ra và một người đưa cho Danny cái khay nhựa chia thành nhiều ô nhỏ để các món ăn mà anh đã chọn trong lúc chờ đợi phiên xử buổi chiều bắt đầu. Alex Redmayne đã bỏ bữa trưa để nghiền ngẫm lại các ghi chép của mình. Phải chăng anh đã đánh giá hơi thấp sự quan trọng của quãng thời gian trống mà Craig có được trước khi hạ sĩ Fuller bước vào quán bar? Ngài thẩm phán Sackville dùng bữa trưa với bồi thẩm đoàn, không buồn bỏ tóc giả ra và cũng chẳng thảo luận gì với nhau, tất cả uể oải nhai trệu trạo phần ăn là thịt và hai đĩa rau. Pearson ăn trưa một mình ở bar Mess trên tầng thượng. Ông ta biết rằng đồng nghiệp của mình đã phạm sai lầm nghiêm trọng khi hỏi Craig về thời gian, nhưng rõ ràng là ông ta không cần phải chỉ ra điều đó. Vừa phân tích vấn đề, ông ta vừa đẩy hạt đậu Hà Lan trong đĩa từ bên này sang bên kia. Chuông đồng hồ điểm hai tiếng, phiên xử bắt đầu trở lại. Ngài thẩm phán Sackville bước vào phòng xử án, ném cho bồi thẩm đoàn một nụ cười mơ hồ trước khi ngồi xuống ghế. Ông nhìn xuống hai luật sư và nói, “Xin chào các ông. Ông Pearson, ông có thể gọi nhân chứng tiếp theo.” “Cảm ơn ngài,” Pearson trả lời và đứng dậy. “Cho mời ông Gerald Payne.” Danny nhìn người đàn ông bước vào, không nhận ra ngay. Gã này cao khoảng một mét bảy mươi sáu, hơi hói, và chiếc áo khoác vải len màu be cắt khéo không thể che giấu sự thật là gã đã giảm khoảng sáu ký kể từ lần cuối gặp Danny. Người gác tòa hướng dẫn gã đi tới bục nhân chứng, đưa cho gã một cuốn Kinh thánh và giúp gã tuyên thệ. Mặc dù phải nhìn giấy đọc lời thế, gã cũng vẫn tỏ ra tự tin y hệt Spencer Craig lúc sáng. “Ông là Gerald David Payne, sống ở số sáu mươi hai khu Wellington, London W2?” “Đúng vậy,” Payne trả lời chắc nịch. “Ông làm việc trong lĩnh vực nào?” “Tôi là quản lý tư vấn địa ốc.” Redmayne viết chữ đại lý bất động sản bên cạnh cái tên Payne. “Ông làm cho công ty nào?” Pearson hỏi. “Tôi là đối tác của Baker, Tremlett và Smythe.” “Có vẻ ông quá trẻ để làm đối tác cho một công ty lớn như vậy nhỉ,” Pearson bình phẩm kiểu rất vô tư. “Tôi là đối tác trẻ nhất trong lịch sử công ty này,” Payne trả lời, cho thấy gã đã được chuẩn bị trước rất chu đáo. Redmayne thấy rõ đã có người tập cho Payne kỹ càng từ rất lâu trước khi gã đứng ở bục nhân chứng. Và với một vài lý do đặc biệt, đó không thể là Pearson, vậy là chỉ còn một đối tượng khả thi nhất. “Chúc mừng ông,” Pearson nói. “Hãy quay lại vấn đề chính, ông Pearson,” ngài thẩm phán lên tiếng. “Tôi xin lỗi, thưa ngài. Tôi chỉ cố gắng tạo sự tín nhiệm của bồi thẩm đoàn với nhân chứng.” “Vậy ông đã thành công rồi,” ngài thẩm phán Sackville nói một cách rõ ràng. “Bây giờ mời ông tiếp tục vấn đề chính.” Pearson kiên nhẫn đặt ra câu hỏi đưa Payne trở lại với những sự việc xảy ra. Phần đúng, gã xác nhận, là Craig, Mortimer và Davenport đều có mặt tại Dunlop Arms buổi tối đó. Phần không đúng, là gã đã không chạy ra ngõ khi nghe thấy tiếng hét. Phần đúng, là cả ba đã về nhà khi được Spencer Craig khuyên nên làm thế. Phần không đúng, là gã chưa bao giờ gặp bị cáo trước đó. “Cảm ơn ông Payne,” Pearson kết luận. “Ông vui lòng ngồi lại đó.” Redmayne chầm chậm đứng dậy, cố tình xếp lại mấy tờ giấy trước khi đặt câu hỏi đầu tiên, một thủ thuật bố anh đã dạy khi họ phải xử lý những phiên xử có tính chất giả dối. “Nếu con bắt đầu bằng một câu hỏi bất ngờ, con trai,” bố anh thường nói, “hãy buộc nhân chứng phải đoán.” Anh đợi đến khi ngài thẩm phán, bồi thẩm đoàn và Pearson đều nhìn vào mình. Chỉ vài giây thôi, nhưng anh biết với người đứng ở bục kia, quãng thời gian đó dài bằng cả thế kỷ. “Ông Payne,” cuối cùng Redmayne cũng lên tiếng, nhìn vào nhân chứng, “hồi còn chưa tốt nghiệp ở Cambridge, có phải ông là thành viên của một hội mang tên Những người lính ngự lâm?” “Đúng vậy,” Payne trả lời, rõ là bối rối. “Phải chăng nguyên tắc của hội này là: Mọi người vì một người, một người vì mọi người?” Pearson đứng dậy trước khi Payne kịp trả lời. “Thưa ngài, tôi cho rằng tìm hiểu quá khứ của thành viên một hội ở đại học không liên quan gì đến những sự kiện xảy ra vào ngày mười tám tháng Chín năm ngoái.” “Tôi có phần đồng tình với ông, ông Pearson,” ngài thẩm phán trả lời. “Nhưng rõ ràng là ông Redmayne đang cung cấp thêm thông tin cho chúng ta.” “Đúng như vậy, thưa ngài,” Redmayne trả lời, cặp mắt vẫn không rời khỏi Payne. “Có phải nguyên tắc của tổ chức này là: Mọi người vì một người, một người vì mọi người?” Redmayne nhắc lại. “Đúng vậy,” Payne trả lời, giọng hơi chút cáu kỉnh. “Các thành viên hội này còn có điểm chung gì nữa?” Redmay hỏi. “Kính ngưỡng Dumas, công lý và một chai vang ngon.” “Cũng có thể là vài chai vang ngon?” Redmayne gợi ý, và rút ra một cuốn sách nhỏ màu xanh nhạt trong đống giấy tờ trước mặt. Anh chậm rãi lật từng trang. “Phải chăng một quy tắc của hội này là nếu một thành viên đang trong tình thế nguy hiểm, tất cả thành viên khác phải có nghĩa vụ đến giúp đỡ anh ta?” “Đúng vậy,” Payne trả lời. “Tôi luôn coi sự trung thành như một tiêu chuẩn, qua đó có thể đánh giá bất kỳ người nào.” “Có thực là,” Redmayne hỏi, “ông Spencer Craig tình cờ cũng là thành viên của Những người lính ngự lâm?” “Đúng.” Payne trả lời. “Anh ấy còn là chủ tịch gần đây nhất.” “Và anh cùng các hội viên khác đã đến giúp đỡ ông ta vào tối ngày mười tám tháng Chín năm ngoái?” “Thưa ngài,” Pearson nói và đứng dậy. “Chuyện này thật kỳ cục.” “Điều kỳ cục, thưa ngài, “Redmayne nói, “là mỗi khi nhân chứng của ông Pearson có vẻ gặp rắc rối, ông ấy đều đứng dậy giúp đỡ họ. Phải chăng ông ấy cũng là thành viên của Những người lính ngự lâm?” Vài thành viên bồi thẩm đoàn mỉm cười. “Ông Redmayne”, ngài thẩm phán nhẹ giọng, “ông cho rằng nhân chứng đang phạm tội khai man trước tòa vì ông ta là thành viên của một hội từ hồi còn ở đại học?” “Nếu như bạn thân ông ta phải sống cuộc sống tù đầy, thưa ngài, thì có, tôi cho rằng ông ta phải nghĩ tới chuyện này.” “Thật kỳ cục,” Pearson nhắc lại, vẫn đứng đó. “Có kỳ cục bằng chuyện tống một người vào tù suốt phần đời còn lại,” Redmayne nói, “vì tội giết người mà anh ta không hề phạm phải?” “Rõ ràng, thưa ngài,” Pearson nói, “chúng ta sắp biết thêm nhân viên phục vụ ở quán bar cũng là thành viên của Những người lính ngự lâm.” “Không,” Redmayne phản ứng, “nhưng chúng ta sẽ bằng lòng rằng nhân viên phục vụ là ngươi duy nhất trong Dunlop Arms không ra ngoài ngõ tối hôm đó.” “Tôi nghĩ ông đã đạt được mục đích,” ngài thẩm phán nói. “Có lẽ đến lúc ông hỏi câu tiếp theo rồi.” “Tôi không còn gì để hỏi, thưa ngài,” Redmayne nói. “Ông có cần hỏi thêm nhân chứng không, ông Pearson?” “Có, thưa ngài,” Pearson nói. “Ông Payne, ông có xác nhận, để bồi thẩm đoàn khỏi nghi ngờ, rằng ông đã không theo ông Craig ra ngoài ngõ sau khi nghe thấy tiếng phụ nữ hét?” “Có, tôi xác nhận,” Payne trả lời. “Trong hoàn cảnh đó tôi không có lý gì phải chạy ra ngoài.” “Rõ là vậy. Tôi không còn gì để hỏi, thưa ngài.” “Ông có thể rời tòa, ông Payne,” ngài thẩm phán nói. Alex Redmayne dễ dàng nhận thấy khi bước ra khỏi phòng xử án, Payne đã không còn giữ được vẻ tự tin như lúc ban đầu. “Ông có muốn gọi nhân chứng tiếp theo không, ông Pearson?” ngài thẩm phán hỏi. “Tôi định gọi ông Davenport, thưa ngài, nhưng có lẽ ngài cũng thấy rằng sẽ hợp lý hơn nếu bắt đầu cuộc đối chất với ông ta vào ngày mai.” Ngài thẩm phán không nhận ra đa số phụ nữ trong phòng xử có vẻ muốn ngay lập tức cho gọi Lawrence Davenport. Ông ta nhìn đồng hồ, hơi lưỡng lự, rồi nói, “Có lẽ đối chất với ông Davenport vào đầu giờ sáng ngày mai là tốt nhất.” “Hoàn toàn đồng ý với ngài,” Pearson nói, ngấm ngầm vui mừng nhận ra sự có mặt của nhân chứng tiếp theo của mình có ảnh hưởng khá mạnh lên năm phụ nữ trong bồi thẩm đoàn. Ông ta cũng hi vọng Redmayne trẻ tuổi sẽ đủ khờ khạo để tấn công Davenport theo cái cách anh ta đã làm với Gerald Payne. Chương 5 S áng hôm sau, những tiếng rì rầm ngóng đợi đã lan tỏa trong phòng xử án khá lâu trước khi Lawrence Davenport chính thức xuất hiện. Khi xướng tên gã, người gác tòa cũng nhẹ giọng đi một chút. Lawrence Davenport bước vào ngay sau đó, đi theo người gác tòa tới bục nhân chứng. Cao khoảng ngoài mét tám, nhưng hơi gầy nên nhìn gã còn cao hơn thế. Gã mặc chiếc áo khoác màu xanh hải quân khá phù hợp vóc người, sơ - mi màu kem, có vẻ như mới được mặc lần đầu. Davenport đã bỏ thời gian cân nhắc xem có nên đeo cà - vạt hay không, và cuối cùng gã nghe theo lời khuyên của Spencer, rằng mặc đồ bình thường đến tòa sẽ tạo ra ấn tượng không thật tốt. “Cứ để họ nghĩ anh là bác sĩ chứ không phải diễn viên,” Spencer đã nói vậy. Davenport chọn chiếc cà - vạt kẻ sọc, mà gã chả bao giờ dùng tới trừ khi phải đứng trước máy quay. Nhưng phụ nữ không quay đầu lại vì quần áo gã mặc trên người. Mà vì đôi mắt xanh sắc sảo, mái tóc dày lượn sóng và cái nhìn vô lại khiến nhiều người trong số họ muốn được chăm sóc, chiều chuộng gã. Dĩ nhiên đó là những người nhiều tuổi. Đám trẻ lại tìm thấy ở đó những hứng thú khác hẳn. Danh tiếng của Lawrence Davenport có được nhờ vai diễn bác sĩ phẫu thuật tim trong phim truyền hình Đơn thuốc. Tối thứ Bảy nào gã cũng lôi kéo được hơn chín triệu người ngồi trước màn hình ti - vi. Fan của gã tỏ ra không quan tâm đến việc gã dành nhiều thời gian tán tỉnh các cô y tá hơn là thực hiện việc ghép đường chảy thay thế cho máu với động mạch vành trong một ca phẫu thuật tim. Sau khi bước vào bục nhân chứng, người gác tòa trao cho gã quyển Kinh thánh và cầm tờ giấy ghi lời tuyên thệ cho gã đọc. Redmayne không thể không nhận ra cả năm phụ nữ trong bồi thẩm đoàn đều mỉm cười với nhân chứng. Davenport đáp lại nụ cười của họ, như thể gã là nghệ sĩ đang được khán giả vỗ tay mời ra sân khấu thêm một lần nữa vậy. Arnold Pearson chậm rãi đứng dậy. Ông ta để Davenport một mình ở bục nhân chứng càng lâu càng tốt, để gã có thêm thời gian tranh thủ mười hai khán giả chính. Alex Pedmayne ngồi rất thoải mái, như thể đợi vở diễn bắt đầu, trong đầu soát lại những phần lời khuyên khác của bố dành cho mình. Danny cảm thấy bị cô lập trong khu dành cho bị cáo hơn bao giờ hết, khi anh nhìn chằm chằm vào gã mà anh nhớ đã thấy rõ trong quán bar đêm đó. “Ông là Lawrence Andrew Davenport?” Pearson hỏi, tươi cười với nhân chứng. “Đúng vậy, thưa ngài.” Pearson quay lại ngài thẩm phán. “Tôi tự hỏi, thưa ngài, liệu tôi có được phép không bắt buộc ông Davenport phải nói ra địa chỉ nhà riêng.” Ông ta dừng lại. “Vì những lý do rất rõ ràng.” “Tôi thấy không vấn đề gì,” thẩm phán Sackville trả lời, “nhưng tôi sẽ yêu cầu nhân chứng xác nhận ông ta đã ở cùng một địa chỉ trong suốt năm năm vừa qua.” “Chuyện đó đương nhiên, thưa ngài,” Davenport nói, chuyển ánh mắt về phía ngài thẩm phán và khẽ cúi đầu. “Ông có thể cũng xác nhận luôn,” Pearson nói tiếp, “rằng ông đã Dunlop Arms vào tối ngày mười tám tháng Chín năm 1999?” “Có, tôi có ở đấy,” Davenport trả lời. “Tôi đến cùng mấy người bạn kỷ niệm sinh nhật lần thứ ba mươi của Gerald Payne. Chúng tôi lớn lên ở Cambridge cùng nhau,” gã nói thêm bằng giọng mệt mỏi, hơi lè nhè rằng mới mình mới khỏe lại sau khi lưu diễn vở nhạc kịch Đồi gió hú. “Và ông có nhìn thấy bị cáo ở đó không,” Pearson hỏi, chỉ tay về phía Danny, “ngồi ở góc kia của quán?” “Không, thưa ngài. Lúc đó tôi không nhận ra anh ta,” Davenport nói nhưng hướng về bồi thẩm đoàn, như thể họ là khán giả trong một vở nhạc kịch vậy. “Tối muộn hôm đó, có phải bạn ông là Spencer Craig đã bật dậy và chạy ngoài bằng lối cửa sau của quán?” “Anh ấy đã làm vậy.” “Sau khi nghe tiếng phụ nữ hét?” “Đúng vậy, thưa ngài.” Pearson lưỡng lự, có ý chờ Redmayne đứng dậy phản đối câu có tính dẫn dắt rõ ràng như vậy, nhưng anh vẫn ngồi yên. Can đảm hơn, ông ta tiếp tục. “Và chỉ một lúc sau ông Craig đã quay lại quán?” Đúng vậy,” Davenport trả lời. “Và ông ta khuyên ông và những người khác cùng nhau về nhà,” Pearson hỏi, tiếp tục dẫn dắt nhân chứng - nhưng Alex Redmayne vẫn chẳng hề nhúc nhích. “Vâng,” Davenport trả lời. “Ông Craig có giải thích vì sao ông ta muốn các ông đi về không?” “Có. Anh ấy bảo có hai người đang đánh nhau ngoài ngõ, và một người cầm dao.” “Phản ứng của ông lúc đó như thế nào?” Davenport lưỡng lự, không chắc mình nên trả lời câu hỏi này thế nào, như thể nó không có trong phần chuẩn bị kỹ lưỡng của gã. “Có thể ông cảm thấy nên đi và xem liệu cô gái trẻ có gặp nguy hiểm gì không?” Pearson lên tiếng gợi ý, hòng gỡ bí cho Davenport. “Đúng, đúng,” Davenport trả lời, bắt đầu cảm thấy khó mà làm trôi chảy được việc này nếu không có chiếc máy nhắc vở tự động bên cạnh. “Nhưng cuối cùng ông nghe theo lời khuyên của ông Craig,” Pearson nói, “và rời khỏi quán bar?” “Đúng, đúng thế,” Davenport trả lời. “Tôi nghe lời Spencer, bởi anh ấy” - gã dừng lại để gây chú ý hơn - “học ngành luật. Tôi tin đó là lời giải thích hợp lý.” Thuộc làu, Alex nghĩ, nhận ra Davenport giờ đã an toàn chui vào cái cũi của mình. “Và ông không hề bước chân ra ngõ?” “Không, thưa ngài, sau khi Spencer đã khuyên chúng tôi dù chuyện gì xảy ra cũng không nên tiếp cận người cầm dao.” Alex vẫn giữ im lặng. “Đúng vậy,” Pearson vừa nói vừa lật trang tiếp theo và nhìn chăm chăm vào khoảng trắng trên tờ giấy. Ông ta đã đi đến câu hỏi cuối cùng nhanh hơn nhiều so với dự tính. Và ông ta cũng không thể hiểu vì sao đối thủ không buồn phản đối khi thấy mình đã dẫn dắt nhân chứng lộ liễu như vậy. Pearson ngập ngừng đóng tập giấy lại. “Vui lòng ở lại bục nhân chứng, ông Davenport,” ông ta nói, “tôi chắc là đồng nghiệp của tôi muốn đối chất với ông.” Alex Redmayne thậm chí không buồn liếc về hướng Lawrence Davenport đang như một diễn viên đưa tay luồn vào mái tóc rất đẹp của mình và tiếp tục mỉm cười với bồi thẩm đoàn. “Ông có cần đối chất với nhân chứng này không, ông Redmayne?” Ngài thẩm phán hỏi, có vẻ như đang trông đợi một cuộc chiến nảy lửa. “Không, thưa ngài,” Redmayne trả lời, không buồn cử động. Vài người trong phòng xử án không giấu nổi vẻ thất vọng. Alex vẫn ngồi yên, nhớ lại lời khuyên của bố, rằng không bao giờ đối chất với nhân chứng được bồi thẩm đoàn ưa thích, đặc biệt khi họ muốn tin những gì các nhân chứng phải nói. Để các nhân chứng đó biến đi càng nhanh càng tốt, và hi vọng trong quãng thơi gian bồi thẩm đoàn đi đến quyết định cuối cùng, ký ức của họ về “màn trình diễn” mà quả thực đó là một “màn trình diễn” - có thể đã nhạt đi nhiều. “Ông có thể rời khỏi bục nhân chứng, ông Davenport,” ngài thẩm phán Sackville nói với đôi chút ngập ngừng. Davenport bước xuống, cố gắng biểu hiện thật hoàn hảo khi đi ngang qua phòng xử án. Ra tới hanh lang đông đúc, gã đi thẳng tới cầu thang dẫn xuống tầng trệt, rảo bước để không fan hâm mộ nào tình cờ làm việc ở đó kịp nhận ra đó thực sự là bác sĩ Beresford rồi chặn đường xin chữ ký. Davenport thấy thoải mái hẳn khi ra khỏi tòa nhà. Gã không thích loại trải nghiệm này, và mừng thầm vì thấy mọi chuyện kết thúc sớm hơn nhiều so với dự tính, chỉ là buổi thử giọng hơn là một vở diễn thực sự. Gã đã không dám thả lỏng dù chỉ một khoảnh khắc, và tự hỏi có phải rõ ràng đêm qua mình đã không ngủ hay không. Đi hết cầu thang ra đến ngoài đường, gã nhìn đồng hồ và nhận ra còn quá sớm mới đến cuộc hẹn lúc mười hai giờ với Spencer Craig. Gã rẽ phải và đi theo hướng Inner Temple, chắc mẩm rằng Spencer sẽ rất vui vẻ khi biết Redmayne không đòi đối chất với gã. Gã vẫn sợ tay luật sư trẻ đó có thể gây áp lực bằng chủ đề sở thích tình dục của gã, mà, nói thật, sẽ là tít lớn trên mọi tờ báo khổ nhỏ ngày mai - nếu gã nói ra toàn bộ sự thật. Chương 6 T OBY MORTIMER vờ như không quen Lawrence Davenport khi gã này đi qua mặt. Spencer Craig đã nhắc nhở họ không được đứng cùng nhau ở nơi công cộng cho tới khi phiên tòa kết thúc. Đêm đó, gã đã gọi điện cho cả ba ngay sau khi về nhà để thông báo rằng hạ sĩ Fuller sẽ liên hệ vào sáng hôm sau để làm rõ vài vấn đề. Chuyện xảy ra đã khiến cho buổi mừng sinh nhật Gerald kết thúc như cơn ác mộng với tất cả. Mortimer cúi đầu lúc Davenport đi qua. Gã sợ hãi việc tuyên thệ ở bục nhân chứng cả mấy tuần, bất chấp Spencer luôn miệng bảo đảm nếu Redmayne phát hiện ra chuyện gã dùng ma túy thì anh ta cũng không nhắc đến làm gì. Các thành viên Những người lính ngự lâm vẫn giữ được lòng trung thành, nhưng không ai trong số họ buồn giả vờ rằng mối quan hệ bạn bè sẽ còn được như xưa. Và những gì xảy ra tối hôm đó chỉ làm cơn nghiện của Mortimer nặng lên. Trước ngày sinh nhật của Gerald, đám con buôn biết rõ gã chỉ xài ma túy tuần một lần, giờ đây, khi phiên xử càng lúc càng gần hơn, gã đã xài đến hai liều một ngày - ngày nào cũng vậy. “Đừng bao giờ nghĩ đến chuyện… cho tới khi anh bước lên bục nhân chứng,” Spencer đã cảnh cáo gã. Nhưng làm sao Spencer có thể hiểu những gì gã đã trải qua khi chưa bao giờ biết tới mùi vị nghiện ngập: sự sung sướng chỉ kéo dài có vài tiếng, sau đó là thèm khát, đổ mồ hôi, run rẩy, cuối cung là một trình tự khiến hắn có thể một lần nữa rời khỏi thế giới này - cắm kim vào tĩnh mạch, bơm chất lỏng vào để chúng tìm đường tới máu, nhanh chóng chạy lên não, và cuối cùng, hạnh phúc, thỏa mãn - cho tới khi cái vòng tròn đó lại bắt đầu. Mortimer đã đổ mồ hôi. Bao lâu nữa thì run rẩy? Cửa phòng xử án lại mở ra, người gác tòa xuất hện. Mortimer đứng phắt dậy. Gã bấm sâu móng tay vào lòng bàn tay, quyết không thả ra. “Reginald Jackson!”, người gác tòa hô lớn, mặc kệ gã đàn ông cao, gầy đã đứng lên ngay lúc ông ta bước ra. Tay phục vụ ở Dunlop Arms theo người gác tòa đi vào phòng xử. Người Mortimer đã không nói chuyện suốt sáu tháng qua. Mortimer ngồi lại xuống ghế dài, nắm chặt thành ghế, cảm thấy người bắt đầu run rẩy. Gã không chắc mình có thể chịu đựng bao lâu - nỗi sợ Spencer Craig nhanh chóng bị cơn nghiện che lấp. Cho tới khi viên quản lý từ phòng xử án bước ra, quần, áo, tất của Mortimer đã ướt đầm mồ hôi, cho dù đang là một buổi sáng tháng Ba lạnh giá. Cố gắng tập trung, Mortimer có thể nghe thấy Spencer nói, dù gã đang ở cách đó cả dặm đường, trong văn phòng, có thể đang nói chuyện với Lawrence về việc phiên xử đã diễn ra tốt đẹp thế nào. Họ đang đợi gã. Miếng ghép cuối của trò chơi ghép hình. Mortimer đứng dậy và bắt đâu bước đi dọc hành lang, chờ người gác tòa xuất hiện. Gã xem đồng hồ, thâm cầu nguyện một nhân chứng nữa sẽ được gọi trước bữa trưa. Và gã mỉm cười hi vọng khi thấy người gác tòa bước ra hành lang. “Hạ sĩ cảnh sát Fuller!” ông ta hô to. Mortimer lại sụp xuống ghế. Giờ đây, gã đã không thể kiểm soát cơn run rẩy. Gã cần liều ma túy như trẻ con thèm sữa từ bầu vú mẹ. Gã đứng dậy, loạng choạng đi về phía phòng rửa mặt, và nhận ra căn phòng ốp gạch men trắng toát này trống không. Gã chui vào ngăn ở xa nhất và chốt cửa lại. Khe hở ở phía trên và phía dưới cửa làm gã lo lắng, ai đó tình cờ có thể dễ dàng thấy gã đang phạm luật - ngay trong Tòa Hình sự Trung tâm. Nhưng cơn nghiện của gã đã ở mức cao nhất, nơi mọi ý thức bình thường đều bị thay thế bởi sự thèm khát cần được thỏa mãn, cho dù có phải mạo hiểm. Mortimer cởi khuy áo khoác và lôi ra một gói vải nhỏ từ túi trong: bộ dụng cụ. Gã mở ra và đặt nó lên nắp bồn cầu. Một phần của sự kích thích nằm ở lúc pha chế. Gã nhặt cái lọ nhỏ 1mg chứa chất lỏng giá 250 bảng lên. Trong vắt, đúng là hàng cao cấp. Gã tự nhủ không biết mình còn có thể mua thứ hàng đắt tiền này bao lâu trước khi cái khoản thừa kế nho nhỏ ông bố để lại đội nón ra đi hết. Gã đâm kim tiêm vào lọ và kéo pít - tông lên cho tới khi cái xi - lanh nhỏ bằng nhựa đầy ự. Gã dám kiểm tra xem xi - lanh có tắc không, bởi không dám lãng phí dù chỉ một giọt thứ chất lỏng quý giá này. Mortimer dừng lại một lát, quệt mồ hôi trên trán khi nghe thấy tiếng cửa phòng mở ra từ phía xa. Gã không cử động, đợi đến khi người ngoài đó làm xong phận sự. Khi nghe thấy tiếng cửa đóng vào, Mortimer tháo chiếc cà - vạt kiểu cũ ra, vén một bên ống quần lên và bắt đầu tìm tĩnh mạch - việc đã trở nên ngày càng khó hơn. Gã quấn cà - vạt quanh chân trái và siết chặt, chặt hơn, cho tới lúc đường tĩnh mạch màu xanh hiện ra. Một tay giữ chặt cà - vạt, tay kia cầm xi - lanh, gã chọc kim vào tĩnh mạch trước khi chầm chậm ấn pít - tông, cho từng giọt chất lỏng chảy vào mạch máu. Gã thở dài thỏa mãi và trôi nổi sang một thế giới khác - nơi không có sự hiện diện của Spencer Craig. * * * “Bố không muốn nói về chuyện này nữa,” bố của Beth đã nói vào sớm hôm đó, khi ông ngồi vào bàn với đĩa trứng gà và thịt xông khói của trước mặt. Vẫn là bữa sáng vợ ông chuẩn bị mỗi ngày kể từ khi hai người lấy nhau. “Nhưng bố, bố không thể tin Danny có thể giết Bernie như thế. Họ là bạn thân kể từ ngày đầu tiên ở Clem Attle.” “Bố đã thấy Danny mất bình tĩnh.” “Khi nào ạ?” Beth gặng hỏi. “Trên võ đài quyền anh, đối thủ là Bernie.” “Đó là lý do vì sao Bernie luôn chiến thắng anh ấy.” “Có thể lần này Danny thắng vì nó cầm dao.” Beth sững người trước lời buộc tội của bố, nàng không đáp lại. “Và con đã quên,” ông tiếp tục, “chuyện gì xảy ra trên sân thể thao mấy năm trước rồi sao?” “Không, con không quên,” Beth nói. “Nhưng Danny đã đến giải cứu kịp thời cho Bernie mà.” “Khi thầy hiệu trưởng đến thì thấy tay nó đang cầm dao.” “Con quên rồi sao,” mẹ Beth lên tiếng, “rằng Bernie đã xác nhận vấn đề của Danny khi nó bị cảnh sát thẩm vấn sau này?” “Một lần nữa, trong tay Danny lại có dao. Tình cờ quá hả?” “Nhưng con đã nói hàng trăm lần…” “Rằng một người lạ đâm chết anh con.” “Đúng vậy,” Beth trả lời. “Và Danny không chọc tức hắn, không làm hắn nổi khùng lên.” “Anh ấy không làm thế,” Beth nói, cố giữ bình tĩnh. “Và tôi tin con bé,” bà Wilson vừa nói vừa rót cho Beth một ly cà phê. “Bà thì lúc nào chả vậy.” “Vì tôi chưa bao giờ thấy Beth nói dối,” bà Wilson đáp lại. Ông Wilson im lặng, bữa sáng chưa động tới giờ đã nguội ngắt. “Và con vẫn mong chờ bố tin những người khác đang nói dối?” Cuối cùng ông cũng lên tiếng. “Vâng ạ,” Beth nói. “Bố quên rằng con cũng ở đó, nên con biết Danny vô tội.” “Bốn chống một đấy con ạ,” ông Wilson nói. “Bố, chúng ta đừng hơn thua với nhau nữa. Đây là chuyện cuộc đời của Danny.” “Không, chúng ta đang nói chuyện cuộc đời con trai,” ông Wilson nói, cao giọng lên theo từng từ. “Danny cũng là con trai của chúng ta,” mẹ Beth lên tiếng, “trừ khi ông đã quên điều đó.” “Bố quên thật sao,” Beth nói, “Danny là người bố tha thiết muốn con lấy làm chồng, và ai là người bố để tiếp quản công việc ở ga - ra khi bố nghỉ hưu? Vậy cái gì đã làm bố không còn tin tưởng anh ấy nữa?” “Có một điều bố đã không nói với con,” ông Wilson nói, cúi đầu xuống. “Lúc Danny đến gặp bố sáng hôm đó, để thông báo nó chuẩn bị đám cưới với con, bố nghĩ đó là lúc thích hợp để cho nó biết rằng bố đã thay đổi quyết định.” “Quyết định về việc gì?” Beth hỏi. “Việc ai sẽ tiếp quản công việc ở ga - ra khi bố nghỉ hưu.” Chương 7 “T ôi không còn gì để hỏi, thưa ngài,” Alex Redmayne nói. Ngài thẩm phán cảm ơn hạ sĩ Fuller và cho phép ông ta ra về. Hôm nay không phải một ngày tốt với Alex. Lawrence Davenport đã mê hoặc được bồi thẩm đoàn bằng sức quyến rũ và vẻ ngoài bóng bẩy của gã. Hạ sĩ Fuller chứng tỏ mình la một cảnh sát đứng đắn, mẫn cán, báo cáo lại chính xác những gì xảy ra tối hôm đó, và khi Alex gây sức ép bằng mối quan hệ của ông ta với Craig, ông ta chỉ đơn giản nhắc lại từ “lĩnh vực chuyên môn.” Sau đó, khi Pearson hỏi từ lúc Craig gọi số khẩn cấp 999 và Fuller bước vào quán bar, ông ta nói mình không chắc, nhưng cho là khoảng mười lăm phút. Tay phục vụ quán bar, Reg Jackson, nhắc đi nhắc lại như con vẹt rằng anh ta chỉ tập trung vào công việc và không nhìn cũng như không nghe thấy bất cứ điều gì. Redmayne chấp nhận thực tế rằng nếu anh muốn tìm ra kẽ hở nào trong tấm lá chắn mà bốn gã ngự lâm đã dựng nên, thì hi vọng duy nhất sẽ nằm ở Toby Mortimer. Redmayne nắm rõ thói nghiện ngập của gã, dù anh không định đề cập đến nó trước tòa. Anh biết sẽ chẳng có gì khác trong đầu Mortimer khi gã bị đối chất. Redmayne cảm thấy Mortimer sẽ là nhân chứng duy nhất của bên buộc tội sẽ không chịu được áp lực, đó là lý do vì sao anh rất mừng khi thấy gã phải chờ đợi suốt cả ngày ở ngoài hành lang. “Tôi nghĩ vẫn còn đủ thời gian cho một nhân chứng nữa,” ngài thẩm phán Sackville nói sau khi liếc đồng hồ. Arnold Pearson không tỏ ra hào hứng lắm khi gọi đến nhân chứng cuối cùng này. Sau khi đọc chi tiết báo cáo của cảnh sát, ông ta đã định không cho gọi Toby Mortimer, nhưng biết rằng nếu mình làm không khéo, Redmayne có thể sẽ nghi ngờ, thậm chí lôi ông ta ra tòa. Pearson từ từ đứng dậy. “Cho gọi ông Toby Mortimer.” Người gác tòa bước ra hành lang và hô to: “Ông Toby Mortimer!”. Ông ta ngạc nhiên khi thấy người vẫn ngồi ở ghế đã đi đâu mất. Anh ta có vẻ muốn được gọi sớm hơn. Người gác tòa cẩn thận ngó xuống cả dưới gầm ghế nhưng chẳng thấy gì. Ông ta gọi thêm lần nữa, to hơn lần đầu, nhưng vẫn không thấy tiếng đáp lại. Một phụ nữ mang bầu từ hàng ghế đầu ngó xuống, không biết mình có được phép ra giúp người gác tòa không. Cặp mắt ông ta dừng lại ở phía cô ta. “Bà có thấy ông Mortimer không, thưa bà”, ông ta hỏi với giọng nhỏ nhẹ. “Có,” cô ta trả lời, “ông ta vào toilet một lúc trước, nhưng chưa thấy ra.” “Cảm ơn bà.” Người gác tòa đi rất nhanh vào phòng xử án, đến chỗ viên trợ lý. Ông ta lắng nghe cẩn thận rồi lên báo lại cho ngài thẩm phán. “Chúng ta sẽ chờ ông ấy vài phút nữa,” thẩm phán Sackville nói. Redmayne nhìn đồng hồ, cảm thấy sự lo lắng tăng dần lên sau từng phút trôi qua. Vào toilet thì không lâu thế được, trừ khi… Pearson ngả người về phía trước, mỉm cười, và gợi ý với vẻ giúp đỡ, “Hay chúng ta để nhân chứng này lại đến sáng mai?” “Không, cảm ơn ông,” Redmayne trả lời chắc nịch. “Tôi sẵn sàng đợi.” Anh lướt qua các câu hỏi lần nữa, gạch chân các từ quan trọng để không phải nhìn xuống giấy nhiều. Và anh ngước mắt lên đúng lúc người gác tòa bước vào. Ông ta vội vã đi qua phòng xử và thì thầm vào tai viên trợ lý, và ông này chuyển thông tin lên cho quan tòa. Ngài thẩm phán gật đầu. “Ông Pearson,” viên luật sư khởi tố vội đứng dậy. “Nhân chứng cuối cùng của ông gặp vấn đề về sức khỏe, hiện đang trên đường tới bệnh viện.” Ngài thẩm phán không nói thêm, với ống tiêm cắm vào tĩnh mạch bên chân trái. “Vì thế tôi cho dừng phiên xử hôm nay ở đây. Mời hai luật sư đến ngay văn phòng của tôi.” Alex Redmayne không cần đến văn phòng cũng biết rằng con bài tẩy của anh đã bị rút ra khỏi bộ bài. Khi anh đóng tập hồ sơ có ghi Nhân chứng của tòa tối cao, anh đành chấp nhận rằng số phận của Danny Cartwright giờ đây nằm trong tay hôn thê của cậu ta, Beth Wilson. Và anh cũng không dám chắc liệu nàng có nói ra sự thật hay không. Chương 8 T uần đầu tiên của phiên xử đã kết thúc và bốn nhân vật chính đã tận hưởng kỳ weekend theo những cách khác nhau. Alex Redmayne về Somerset nghỉ vài ngày với bố ở Bath. Thậm chí chưa kịp đóng cổng anh đã bị bố hỏi han về phiên tòa, còn bà mẹ có vẻ hứng thú hơn với việc tìm hiểu về cô bạn gái mới nhất của anh. “Cũng hơi có hi vọng,” anh nói với cả hai người. Khi Alex trở về London chiều Chủ nhật, anh đã tập rất kỹ các câu hỏi dành cho Beth Wilson vào ngày hôm sau, với bố anh đóng vai thẩm phán. Không khó với một người lão luyện như ông. Dù sao, đó cũng là những công việc ông đã làm suốt hai mươi năm trước khi về hưu. “Sackville nói lập trường của con khá vững chắc,” bố anh kể, “nhưng ông ta thấy đôi khi con hơi quá mạo hiểm.” “Có thể đó là cách duy nhất để con biết được Cartwright có thực sự vô tội hay không.” “Đó không phải việc của con, “bố anh trả lời. “Cứ để bồi thẩm đoàn quyết định chuyện này.” “Giờ thì giọng điệu của bố y hệt ông Sackville,” Alex nói và cười to. “Công việc của con,” bố anh tiếp tục, phớt lờ lời bình phẩm, “là bảo vệ thân chủ của mình một cách hiệu quả nhất, dù anh ta có phạm tội hay không.” Bố anh đã quên ông đưa ra lời khuyên này năm Alex bảy tuổi và từ đó đã nhắc đi nhắc lại nó hàng ngàn lần. Khi Alex trở thành sinh viên Oxford, ông đã ngồi ở ghế thẩm phán rồi. “Theo con thì Beth Wilson sẽ là dạng nhân chứng kiểu gì?” Bố anh hỏi. “Có một luật sư hoàng gia tử tế đã từng nói với con,” Alex trả lời, vuốt ve áo khoác của mình với vẻ khoa trương, “rằng anh đừng bao giờ đoán trước nhân chứng sẽ ra làm sao, cho tới khi họ bước lên bục.” Mẹ Alex bật cười. “Đúng vậy,” bà vừa nói vừa dọn đĩa và đi vào nhà bếp. “Và đừng coi thường Pearson,” bố anh nói. “Ông ta giỏi nhất là việc đối chất với nhân chứng của bên bị đấy.” “Có thể coi thường ông QC Arnold Pearson được sao?” Alex hỏi lại, và mỉm cười. “Ồ có, bố đã hai lần bị thua thiệt vì việc đó rồi đấy.” “Vậy là hai người vô tội đã bị kết án vì tội ác mà họ không phạm phải?” Alex hỏi. “Dĩ nhiên là không,” bố anh trả lời. “Cả hai người họ đều bị xử đúng tội, nhưng nhẽ ra bố nên gỡ cho họ. Hãy nhớ rằng, nếu Pearson tìm thấy nhược điểm trong phần biện hộ của con, ông ta sẽ liên tục khoét sâu vào chỗ đó, cho tới khi chắc rằng các thành bồi thẩm đoàn sẽ nhớ điều đó đến già.” “Tôi có thể ngắt lời luật sư đồng nghiệp, để hỏi xem Susan thế nào không?” mẹ Alex vừa rót cà phê cho anh vừa hỏi. “Susan?” Alex nói, quay trở lại hiện thực. “Cô gái hấp dẫn con đưa về gặp bố mẹ hai tháng trước ý.” “Susan Rennick? Con không biết. E là bọn con không liên lạc với nhau nữa. Con không nghĩ rằng luật sư cũng phải xử lý cả chuyện đời tư của người khác. Có trời mới biết sao hồi đó bố mẹ lại lấy được nhau.” “Hồi đó, trong phiên tòa xử vụ Carbarshi, đêm nào mẹ con cũng cho bố ăn no. Nếu bố không cưới bà ấy, chắc chắn sẽ bị chết đói.” “Đơn giản vậy thôi sao?” Alex nói, cười toét với mẹ. “Nào có được thế,” bà trả lời. “Con biết không, phiên tòa đó kéo dài đến hơn hai năm, và ông ấy thua cuộc.” “Không, tôi không thua,” bố anh trả lời, vòng tay qua ôm eo vợ. “Chỉ là nhắc nhở thôi, con trai, Pearson không có vợ, vì thế ông ta có thể dành cả mấy ngày cuối tuần chuẩn bị các câu hỏi hóc hiểm cho Beth Wilson đấy.” * * * Họ không cho anh được bảo lãnh. Danny đã phải ngồi sáu tháng trong nhà tù Belmarsh được canh phòng cẩn mật ở phía Đông Nam London. Hai mươi hai tiếng một ngày phải ở trong căn phòng diện tích hai mét tư nhân một mét tám, đồ đạc chỉ có cái giường đơn, một ghế nhựa, bồn rửa mặt nhỏ và bồn cầu bằng thép. Khung cửa sổ bé tí xíu có chấn song ở trên đầu là chỗ duy nhất anh có thể nhìn ra thế giới bên ngoài. Mỗi buổi chiều họ cho anh ra khỏi phòng giam trong bốn nhăm phút để đi dạo quanh khoảng sân bê tông rộng khoảng một mẫu, được bao bỏi bởi bốn bức tường cao gần sáu mét với hàng rào dây thép ở trên. “Tôi vô tội,” anh nhắc đi nhắc lại khi được hỏi, và các cảnh sát viên cũng như bạn tù lập tức phản đối, “Ai chả nói như vậy.” Khi đi dạo quanh sân sáng hôm đó, anh cố không nghĩ về tuần đầu của phiên xử đã trôi qua, nhưng không thể. Dù không nhìn kỹ từng thành viên của bồi thẩm đoàn, anh vẫn biết họ đang nghĩ gì. Tuần đầu có thể không suôn sẻ, nhưng tối thiểu thì Beth cũng sẽ kể được câu chuyện theo góc nhìn của nàng. Liệu bồi thẩm đoàn sẽ tin nàng, hay họ chấp nhận câu chuyện của Spencer về những gì đã xảy ra? Bố Danny không ngừng nhắc anh rằng luật pháp Anh ưu việt số một thế giới - người vô tội sẽ không phải ngồi tù oan. Nếu điều này là sự thật, chỉ một tuần nữa là anh được tự do. Và anh cố không nghĩ đến khả năng còn lại. * * * Arnold Pearson đã dành cả kỳ nghỉ cuối tuần rời khỏi thành phố, về ngôi nhà thôn dã của mình ở vùng Cotworlds, nơi có mảnh vườn rộng bốn mẫu rưỡi - niềm tự hào và cũng là thú vui của ông ta. Sau khi chăm sóc mấy luống hoa hồng, ông ta ngồi vào đọc cuốn tiểu thuyết đang được khen ngợi, nhưng rồi lại đặt sang một bên trước khi quyết định đi dạo. Dọc qua làng, Pearson cố gắng xua hết khỏi đầu những chuyện xảy ra ở London tuần qua, nhưng vụ án vẫn cứ lởn vởn trong đầu ông ta. Pearson cảm thấy tuần thứ nhất của phiên tòa diễn ra khá tốt đẹp, bất chấp sự thật là Redmayne đã chứng tỏ mình là đối thủ lợi hại hơn mong đợi của ông ta. Vẫn lối ăn nói và tác phong quen thuộc, hẳn là được di truyền cộng thêm một chút năng khiếu bẩm sinh, khiến ông ta nhớ lại bố của Redmayne, người mà theo Pearson, là luật sư biện hộ lợi hại nhất mà ông ta đã từng đối đầu. Nhưng ơn trời, cậu trai vẫn còn non lắm. Nhẽ ra cậu ta nên kéo dài hơn vấn đề thời gian khi Craig còn đứng ở bục nhân chứng. Arnold Pearson đã đếm từng viên gạch lát vỉa hè trên quãng đường từ Dunlop Arms về tới cửa nhà Craig, với một chiếc đồng hồ bấm giây. Ông ta sau đó về nhà mình, cởi quần áo, tắm rửa, mặc bộ đồ mới, trong đầu vẫn tính toán vấn đề thời gian. Arnold nghi ngờ khoảng thời gian đó sẽ không dưới hai mươi phút - cũng không quá ba mươi phút. Sau khi mua vài món đồ tạp phẩm và một tờ báo địa phương trong cửa hàng, Pearson bắt đầu quay lại. Ông ta dừng lại trước bãi cỏ của làng, mỉm cười nhớ lại con số 57 điểm ghi được khi đối đầu Brocklehurst khoảng hai mươi năm trước - hay là ba mươi? Những gì ông ta yêu thích ở nước Anh đều hiện ra ở làng quê cả. Pearson nhìn đồng hồ, thở dài khi nghĩ đến chuyện đến giờ về nhà và chuẩn bị cho buổi sáng hôm sau. Uống trà xong, ông ta vào phòng làm việc, ngồi xuống ghế và xem qua một lượt các câu hỏi đã chuẩn bị cho Beth Wilson. Ông ta chiếm được một chút ưu thế khi được nghe Redmayne hỏi cô ta trước khi đến lượt mình. Như con mèo rình chuột, ông ta sẽ ngồi ở cuối bàn, kiên nhẫn chờ cô ta mắc dù chỉ một sai lầm rất nhỏ. Người có tội luôn mắc sai lầm. Arnold mỉm cười khi nhìn vào tờ Tin chiều Green And Bow, tin chắc rằng Redmayne sẽ không tình cờ đọc được bài báo đăng trên trang bìa từ khoảng mười lăm năm trước. Arnold Pearson có thể không có sự thanh lịch và kiểu cách như ngài thẩm phán Redmayne, nhưng ông ta thay những thứ đó bằng việc kiên nhẫn nghiên cứu hàng giờ liền, qua đó đã phát hiện ra thêm hai phần quan trọng khác trong chứng cứ, chắc chắn đủ để bồi thẩm đoàn tin tưởng Cartwright có tội. Nhưng ông ta cất chúng đi, chỉ dành cho bị cáo - người sẽ đối chất với ông ta vào cuối tuần sau. * * * Ngày Alex đùa cợt với bố mẹ trong bữa trưa ở Bath, Danny đang chạy quanh khoảng sân trong nhà tù Belmarsh và Arnold Pearson ghé qua cửa hàng trong làng, thì Beth Wilson tới gặp bác sĩ. “Chỉ là kiểm tra định kỳ thôi,” bác sĩ trấn an nàng bằng một nụ cười. Nhưng nụ cười nhanh chóng tắt ngấm, thay vào đó là cái nhíu mày. “Cô có gặp cơn stress bất thường nào từ lần khám trước không?” ông ta hỏi. Beth không kể lại tuần trước của nàng đã trôi quá thế nào, để tránh làm ông bác sĩ nặng nề. Không có cách nào ngăn cản việc bố nàng tiếp tục buộc tội Danny, và cấm nhắc đến tên anh trong nhà, dù mẹ nàng vẫn tin lời nàng về những gì xảy ra tối hôm đó. Nhưng liệu bồi thẩm đoàn sẽ phán xét thế nào, như mẹ nàng hay bố nàng? Sáu tháng trở lại đây, chiều Chủ nhật nào Beth cũng đến thăm Danny ở nhà tù Belmarsh, nhưng Chủ nhật này thi không. Luật sư Redmayne đã thông báo nàng không được phép tiếp xúc với Danny nữa, cho tới khi phiên tòa kết thúc. Nhưng còn rất nhiều thứ nàng muốn hỏi anh, và rất nhiều thứ muốn kể cho anh nghe. Sáu tuần nữa đứa bé sẽ ra đời, nhưng trước đó rất lâu Danny đã được trả tự do, và thử thách nghiệt ngã này sẽ kết thúc. Một khi bồi thẩm đoàn đã đưa ra phán quyết cuối cùng, hẳn là bố nàng cũng phải đồng ý rằng Danny vô tội. Sáng thứ Hai, ông Wilson lái xe đưa con gái đến Tòa hình sự trung tâm, thả nàng ở lối chính. Ông chỉ nói ngắn gọn ba chữ lúc Beth bước ra khỏi xe: “Hãy nói thật.” Chương 9 A nh thấy lộn mửa khi ánh mắt hai người gặp nhau. Spencer Craig liếc anh lúc đang ở khu vực dành cho người đến dự tòa. Danny quay lại nhìn gã chằm chằm, như thể anh đang đứng giữa võ đài, đợi tiếng chuông của hiệp đấu thứ nhất vang lên. Beth bước vào phòng xử án, đó là lần đầu anh gặp nàng sau hai tuần. Danny cảm thấy yên tâm khi thấy nàng quay lưng lại phía Craig lúc đứng trong bục nhân chứng. Beth trao cho anh nụ cười ấm áp trước khi đọc lời thề. “Tên cô là Elizabeth Wilson?” Alex Redmayne lên tiếng. “Vâng,” nàng trả lời, hai tay đặt trên bụng, “nhưng mọi người vẫn gọi tôi là Beth.” “Cô sống ở nhà số hai mươi bảy đường Bacon ở khu Bow, Đông London?” “Đúng vậy.” “Và Bernie Wilson, người đã qua đời, là anh trai cô?” “Đúng thế,” Beth trả lời. “Và hiện cô đang là trợ lý riêng cho ngài chủ tịch Công ty Bảo hiểm Hàng hải Drake ở Khu tài chính London?” “Đúng thế.” “Khi nào đứa trẻ ra đời?” Redmayne hỏi. Pearson cau mày, nhưng ông ta biết mình không dám xen vào. “Khoảng sáu tuần nữa”, Beth nói, đầu cúi xuống. Thẩm phán Sackville ngả người về phía trước, mỉm cười với Beth và nói, “Vui lòng nói to hơn, cô Wilson. Bồi thẩm đoàn cần nghe rõ từng từ một.” Nàng ngẩng lên và gật đầu. “Và cô có thể ngồi,” ngài thẩm phán nói thêm. “Phải ở một nơi xa lạ thế này đôi khi khiến người ta mất bình tĩnh một chút.” “Cảm ơn ngài,” Beth trả lời. Nàng ngồi lọt thỏm vào chiếc ghế gỗ trong bục nhân chứng, gần như khuất tầm mắt mọi người. “Mẹ kiếp,” Alex Redmayne khẽ càu nhàu. Bồi thẩm đoàn giờ chỉ có thể thấy được vai Beth, và họ không còn được liên tục nhắc nhở rằng Beth đang mang bầu bảy tháng, hình ảnh Alex muốn găm sâu vào đầu mười hai người sẽ đưa ra phán quyết cuối cùng. Nhẽ ra anh phải ngăn ngay ông thẩm phán Sackville lịch sự kia lại và khuyên Beth không nhận lời cho phép được ngồi. Nếu nàng khuỵu xuống, hình ảnh đó sẽ còn đọng lại trong tâm trí bồi thẩm đoàn rất lâu. “Cô Wilson,” Redmayne tiếp tục, “cô vui lòng cho tòa biết quan hệ của cô và người bị buộc tội.” “Danny và tôi sẽ cưới nhau vào tuần sau,” nàng trả lời. Sự ngạc nhiên lan rộng trong phòng xử án. “Tuần sau?” Redmayne nhắc lại, cố tỏ ra kinh ngạc. “Vâng, hôm qua cha Michael - đức cha giáo xứ chúng tôi đã công bố lễ kết hôn sẽ được làm tại nhà thờ St Mary.” “Nhưng nếu hôn phu của cô bị kết án…” “Anh không thể bị kết án bởi tội ác mà anh không phạm phải,” Beth mạnh mẽ trả lời. Alex Redmayne mỉm cười. Thuộc làu, và thậm chí Beth còn quay mặt về phía bồi thẩm đoàn. “Cô biết bị cáo bao lâu rồi?” “Như tôi nhớ,” Beth nói. “Gia đình anh ấy sống ở bên kia đường nhà tôi. Chúng tôi học cùng trường với nhau.” “Trường phổ thông Clement Attle?” Redmayne nói, nhìn xuống tập hồ sơ đang mở. “Đúng vậy,” Beth xác nhận. “Vậy hai người là bạn thanh mai trúc mã từ nhỏ?” “Nếu đúng như vậy,” Beth nói, “thì Danny cũng không nhận ra, vì anh ấy hiếm khi nói chuyện với tôi lúc ở trường.” Danny mỉm cười nhớ lại hồi đó, về một cô gái nhỏ nhắn tóc tết đuôi sam lúc nào cũng loanh quanh bên anh trai mình. “Nhưng cô đã cố bắt chuyện với anh ấy?” “Không, tôi không dám. Nhưng tôi thường đứng ở đường biên mỗi khi anh ấy chơi bóng đá.” “Anh trai cô và Danny ở cùng một đội.” “Suốt cả quãng thời gian đi học,” Beth trả lời. “Danny là đội trưởng còn anh tôi là thủ môn.” “Danny lúc nào cũng làm đội trưởng à?” “Ồ, vâng. Các bạn học thường gọi anh ấy là đội trưởng Cartwright. Anh ấy là đội trưởng các đội trong trường - bóng đá, cricket, thậm chí cả quyền anh.” Alex nhận thấy một hoặc hai thành viên bồi thẩm đoàn mỉm cười. “Và anh trai cô có mối quan hệ tốt với Danny?” “Danny là bạn thân nhất của anh ấy, “Beth nói. “Họ có thường xuyên cãi nhau, như người đồng nghiệp của tôi nói không?” Redmayne hỏi, nhìn về phía Arnold Pearson. “Chỉ về đội West Ham, hoặc về bạn gái sau cùng của Bernie.” Một thành viên bồi thẩm đoàn cố nén tiếng cười. “Có phải anh trai cô đã hạ gục Danny ngay hiệp đầu trong giải quyền anh ‘Câu lạc bộ các chàng trai phố Bow’ hồi năm ngoái không?” “Vâng. đúng thế. Nhưng Bernie luôn là tay đấm giỏi hơn, và Danny biết điều đó. Danny đã có lần nói với tôi rằng anh ấy sẽ rất may mắn nếu trụ được đến hiệp hai nếu họ gặp nhau ở trận chung kết.” “Vậy là hai người không có cảm giác khó chịu gì với nhau, như lời người đồng nghiệp của tôi, ông Pearson đã khẳng định?” “Làm sao ông ấy biết được?” Beth hỏi lại. “Ông ấy đã gặp người nào đâu.” Danny lại mỉm cười. “Cô Wilson,” ngài thẩm phán nói, không nhẹ nhàng lắm, “mời cô tập trung vào việc trả lời các câu hỏi.” “Câu hỏi gì cơ?” Beth nói, giọng hơi lúng túng. Ngài thẩm phán liếc mắt xuống quyển sổ tay. “Giữa anh trai cô và bị cáo có cảm giác khó chịu gì với nhau không?” “Không,” Beth trả lời. “Như tôi đã nói với mọi người, họ là bạn tốt của nhau.” “Cô cũng nói với tòa, cô Wilson,” Redmayne nói, cố lái nàng quay lại vấn đề chính, “rằng Danny không bao giờ nói chuyện với cô hồi con đi học. Vậy mà bây giờ hai người đã đính hôn và chuẩn bị làm đám cưới.” “Đúng vậy,” Beth nói, ngước nhìn Danny. “Lý do gì dẫn đến sự thay đổi này?” “Khi Danny và anh trai tôi rời khỏi Clem Attle, họ cùng làm việc trong ga - ra của bố tôi. Tôi tiếp tục học lên lớp sáu và sau đó vào Đại học Exeter.” “Và cô đã tốt nghiệp với tấm bằng danh dự môn tiếng Anh?” “Vâng,” Beth trả lời. “Sau khi tốt nghiệp, công việc đầu tiên của cô là gì?” “Tôi làm thư ký tại Công ty Bảo hiểm Hàng hải Drake trong Khu tài chính London.” “Chắc chắn là cô có thể tìm được một vị trí tốt hơn thế rất nhiều, với khả năng chuyên môn của mình.” “Có thể vậy,” Beth thừa nhận, “nhưng trụ sở của Drake nằm trong Khu tài chính và tôi không muốn đi làm quá xa nhà.” “Tôi hiểu. Cô làm việc cho công ty này mấy năm rồi?” “Năm năm,” Beth trả lời. “Và trong quãng thời gian này, cô đã được thăng chức từ thư ký lên trợ lý riêng của ngài chủ tịch?” “Vâng.” “Có bao nhiêu thư ký ở Bảo hiểm Drake?” Redmayne hỏi. “Tôi không nắm được con số cụ thể,” Beth đáp, “khoảng hơn một trăm người.” “Nhưng chỉ có cô lên được vị trí cao nhất?” Beth không trả lời. “Sau khi rời đại học trở về sống ở London, cô gặp Danny lúc nào?” “Ngay sau khi tôi bắt đầu làm việc ở Khu tài chính,” Beth nói. “Một sáng thứ Bảy, mẹ tôi nhờ mang bữa trưa ra ga - ra cho bố. Danny cũng ở đó, đầu chui xuống dưới nắp máy. Ban đầu, tôi nghĩ anh ấy không nhận ra vì chỉ có thể thấy chân tôi, nhưng anh ấy đã ngẩng lên và đập đầu khá mạnh vào ca - pô.” “Và đó là lần đầu tiên anh ấy rủ cô đi chơi?” Pearson đứng dậy. “Thưa ngài, có phải nhân chứng đang được nhắc vở, từng dòng một, như đang diễn tập một vở kịch nghiệp dư?” Không tệ, Alex nghĩ thầm. Thẩm phán Sackville có thể đã đồng ý với ông ta, nếu như chưa từng thấy Pearson chơi trò này vài lần trong mười năm qua. Tuy nhiên, ông vẫn ngả người về phía trước nhắc nhở. “Ông Redmayne, từ lúc này, vui lòng đặt câu hỏi cho nhân chứng và không nên đưa ra các câu trả là mà ông hi vọng hay mong chờ cô Wilson sẽ đồng ý với chúng.” “Tôi xin lỗi, thưa ngài,” Redmayne nói. “Tôi sẽ cố không làm ngài phật ý nữa.” Thẩm phán Sackville cau mày, nhớ lại bố của Redmayne cũng nói thế, với thái độ thiếu tôn trọng y hệt như vậy. “Lần tiếp theo cô gặp bị cáo là khi nào?” Redmayne hỏi Beth. “Ngay tối hôm đó. Anh ấy mời tôi đến vũ trường Hammersmith,” Beth nói. “Anh ấy và anh trai tôi thường tới Palais mỗi tối thứ Bảy - mỗi mẫu đất ở đây còn nhiều chim hơn cả một khu đầm lầy, Bernie hay nói thế.” “Sau lần đầu tiên, hai người có thường xuyên gặp nhau không?” Redmayne hỏi tiếp. “Gần như ngày nào cũng gặp.” Nàng dừng lại. “Cho tới khi họ bắt giam anh ấy.” “Bây giờ tôi sẽ đưa cô về buổi tối ngày mười tám tháng Chín năm ngoái,” Redmayne nói. Beth gật đầu. “Tôi muốn cô tự mình kể cho bồi thẩm đoàn nghe chính xác những gì xảy ra tối hôm đó.” “Danny đưa ra ý kiến,” Beth ngẩng lên nhìn Danny và mỉm cười, “rằng chúng tôi nên đi ăn tối ở khu West End nhân một sự kiện đặc biệt.” “Một sự kiện đặc biệt?” Redmayne nhắc lại. “Vâng. Danny chuẩn bị cầu hôn tôi.” “Sao cô biết chắc điều đó?” “Tôi nghe anh trai nói với mẹ rằng Danny đã bỏ ra hai tháng lương để mua nhẫn.” Nàng giơ tay trái lên để bồi thẩm đoàn có thể thấy viên kim cương lấp lánh trên vòng nhẫn. Alex đợi tiếng xì xầm lắng xuống rồi hỏi tiếp, “Và anh ấy đã cầu hôn cô?” “Vâng,” Beth trả lời. “Anh ấy thậm chí còn quỳ xuống.” “Và cô đã đồng ý?” “Dĩ nhiên tôi đồng ý rồi,” Beth nói. “Tôi biết chúng tôi sẽ lấy nhau ngay lần đầu gặp anh ấy.” Pearson ghi lại sai lầm đầu tiên của nàng. “Chuyện gì xảy ra sau đó?” “Trước khi rời nhà hàng, Danny gọi điện báo tin cho Bernie. Anh ấy nhận lời đến với chúng tôi để cùng nhau ăn mừng.” “Mọi người định gặp nhau ăn mừng ở đâu?” “Bar Dunlop Arms ở dãy nhà Hambledon khu Chealsea.” “Tại sao mọi người lại chọn quán này?” “Danny đã đến đó một lần, sau trận West Ham gặp Chelsea ở sân Stamford Bridge. Anh ấy bảo tôi quán đó rất hay, và anh ấy nghĩ tôi sẽ thích.” “Mọi người đến nơi lúc mấy giờ?” “Tôi không chắc,” Beth nói, “nhưng không thể trước mười giờ.” “Và anh trai cô đã đợi hai người ở đó?” “Ông Redmayne lại làm thế, thưa ngài”, Pearson phản đối. “Tôi xin lỗi, thưa ngài,” Redmayne nói. Anh quay lại với Beth. “Khi nào thì anh trai cô đến nơi?” “Anh ấy đã ở đó rồi,” Beth trả lời. “Cô có nhận ra ai khác trong quán không?” “Có,” Beth nói, “tôi thấy diễn viên Lawrence Davenport - Bác sĩ Beresford - đứng ở quầy bar cùng ba người nữa.” “Cô có quen ông Davenport không?” “Dĩ nhiên là không,” Beth nói. “Tôi chỉ thấy ông ấy trên ti - vi.” “Vậy là cô rất hào hứng khi thấy ngôi sao truyền hình vào tối nhận được lời cầu hôn?” “Không tôi không bị ấn tượng mạnh đến thế. Tôi nhớ lúc đó mình đã nghĩ trông ông ta không bảnh trai như Danny.” Vài thành viên bồi thẩm đoàn đã nhìn kỹ hơn người đàn ông tóc ngắn, hơi xù, râu ria chưa cạo, mặc chiếc áo phông West Ham đã lâu không được là. Alex sợ rằng sẽ không nhiều thành viên bồi thẩm đoàn đồng ý với nhận xét của Beth. “Chuyện gì xảy ra sau đó?” “Chúng tôi uống một chai champagne, và sau đó tôi nghĩ nên đi về nhà.” “Cô có về không?” “Không, Bernie gọi chai thứ hai, và khi nhân viên phục vụ đến mang vỏ chai đi, tôi nghe có người nói “Toàn thứ bỏ đi.” “Danny và Bernie phản ứng thế nào?” “Họ không nghe thấy, nhưng tôi thấy một người đàn ông ở quầy bar cứ nhìn chằm chằm vào mình. Anh ta nháy mắt, rồi mở miệng và thè lưỡi ra liếm vòng quanh môi.” “Người nào đã làm vậy.” “Ông Craig.” Danny nhìn về khu dành cho người đến dự phiên tòa và thấy Craig quắc mắt nhìn Beth, nhưng thật may là nàng không thể thấy gã. “Cô có nói lại cho Danny không?” “Không, vì rõ ràng anh ta đã say rồi. Vả lại, nếu lớn lên ở East End, ông sẽ còn được nghe những thứ bẩn thỉu hơn thế nhiều. Và tôi biết chắc Danny sẽ phản ứng thế nào nếu tôi để anh ấy biết.” Pearson liên tục ghi chép. “Nên cô mặc kệ anh ta?” “Vâng,” Beth nói. “Nhưng sau đó vẫn là người này quay lại với các bạn và nói ‘ Em gái này cũng đàng hoàng đấy, nhưng mở miệng ra là thấy chất ‘hàng họ’ liền’. Bernie nghe thấy câu này. Rồi một trong bốn người họ nói, ‘Tôi không biết rằng đã nhiều lần tôi rất thích cái miệng của em “hàng” mở to như vậy, ’ và tất cả cùng cười to. Nàng dừng lại. “Ngoại trừ ông Davenport có vẻ hơi xấu hổ.” “Bernie và Danny vẫn cười à?” “Không, Bernie vớ chai champagne và đứng dậy quay về phía anh ta.” Pearson chép lại chính xác lời nàng. “Còn Danny kéo anh ấy ngồi xuống và bảo mặc kệ bọn họ.” “Anh ấy có nghe theo không?” “Có, chỉ bởi tôi muốn về nhà. Khi chúng tôi đi ra ngoài, tôi nhận thấy một người trong bọn họ vẫn nhìn tôi chằm chằm. Anh ta hỏi, ‘Về à’, rồi ‘Khi chú mày xong việc với em gái này thì bọn anh chắc cũng được hưởng sái để tổ chức vụ chơi tập thể đấy nhỉ? ’” “Chơi tập thể?” Thẩm phán Sackville nhắc lại, vẻ kinh ngạc. “Vâng, thưa ngài. Đó là khi một nhóm đàn ông làm tình với một phụ nữ,” Redmayne trả lời. “Đôi khi vì tiền.” Alex dừng lại chờ ngài thẩm phán viết xong. Anh nhìn bồi thẩm đoàn, không ai trong số họ tỏ ý muốn có lời giải thích thêm. “Cô chắc rằng anh ta nói đúng như thế chứ?” Redmayne hỏi. “Đó không phải thứ tôi dễ dàng quên ngay được,” Beth trả lời chắc nịch. “Và vẫn chỉ có một người nói?” “Vâng,” Beth trả lời, “ông Craig.” “Lần này Danny phản ứng thế nào?” “Anh ấy vẫn mặc kệ họ - người say mà - nhưng anh trai tôi đã không kiềm chế được khi ông Craig nói thêm, “Vậy sao chúng ta không ra ngoài để làm rõ vấn đề này nhỉ?” “Vậy sao chúng ta không ra ngoài,” Redmayne nhắc lại, “để làm rõ vấn đề này nhỉ?” “Và ông Craig có đi cùng ba người ra ngoài không?” “Không, chỉ vì Danny đã đẩy anh trai tôi ra ngõ trước khi anh ấy kịp trả đũa, và tôi ngay lập tức đóng cửa lại khi ra đến bên ngoài.” Pearson nhặt cái bút đỏ lên và gạch chân câu đẩy anh trai tôi ra ngõ. “Vậy là Danny đã cố gắng đưa anh trai cô ra khỏi quán bar mà không gây thêm phiền phức gì nữa?” “Vâng,” Beth nói. “Nhưng Bernie vẫn muốn quay vào để giải quyết ông ta.” “Giải quyết ông ta?” “Vâng,” Beth nói. “Nhưng cô đã đi từ ngõ ra đường lớn?” “Vâng, nhưng trước khi tôi ra đến nơi thì đã thấy một người ở quầy bar đứng chặn đường.” “Ai thế?” “Ông Craig.” “Lúc đó cô làm gì?” “Tôi chạy lại với Danny và anh trai tôi. Tôi xin họ quay lại quán bar. Lúc đó tôi nhận ra hai người nữa - một trong đó là ông Davenport - đã đứng chắn ở cửa sau của quán. Tôi quay lại thì thấy người nữa đã đến cạnh bạn ông ta ở đầu ngõ phía kia, và họ đi về phía chúng tôi.” “Sau đó thì sao?” Redmayne hỏi. “Bernie nói, ‘ Anh lo thằng Đầu trọc còn tôi lo ba thằng kia, ’ nhưng Danny chưa kịp trả lời thì người bị anh tôi gọi là đầu trọc đã chạy lại và đấm vào cằm Danny. Sau đó họ lao vào đấm nhau túi bụi.” “Cả bốn người họ đều nhảy vào à?” “Không”, Beth nói. “Ông Davenport vẫn đứng ở cửa sau với một người nữa, cao, gầy, lưng hơi còng, va khi anh trai tôi gần đánh gục người đứng cùng ông Craig, anh ấy đã bảo tôi đi ra ngoài đường gọi taxi, vì anh ấy chắc rằng sự việc sẽ kết thúc nhanh chóng.” “Và cô có làm theo không?” “Có, nhưng chỉ sau khi tôi chắc rằng Danny mạnh hơn ông Craig.” “Và anh ấy?” “Mạnh hơn,” Beth trả lời. “Cô gọi taxi mất bao lâu?” “Chỉ vài phút,” Beth nói, “nhưng khi xe đến, “tôi đã ngạc nhiên khi nghe tài xế nói, “Tôi không nghĩ cô cần taxi, cô ạ. Nếu họ là bạn tôi, tôi sẽ gọi xe cứu thương ngay lập tức.” Rồi anh ta vọt đi luôn. “Đã có nỗ lực nào xác định người tài xế taxi có liên quan này chưa,” ngài thẩm phán hỏi. “Có, thưa ngài,” nhưng vẫn chưa thấy ai ra trình diện.” “Và cô đã làm gì khi nghe tài xế taxi nói vậy?” Redmayne hỏi, trở lại với Beth. “Tôi quay lại thì thấy anh trai mình nằm trên mặt đất. Có vẻ như bất tỉnh. Danny đang dùng tay đỡ đầu anh ấy. Tôi chạy vội vào ngõ, đến bên họ.” Pearson lại chi chép gì đó. “Và Danny có giải thích về chuyện xảy ra không?” “Có. Anh ấy nói họ rất ngạc nhiên khi thấy Craig dùng dao. Anh ấy đã cố giật nó ra khi ông ta đâm Bernie.” “Và Bernie cũng xác nhận điều này?” “Anh ấy có.” “Sau đó cô làm gì?” “Tôi gọi cứu hộ khẩn cấp.” “Hãy suy nghĩ kỹ, cô Wilson, trước khi trả lời câu hỏi tiếp theo. Bên nào đến trước? Cảnh sát hay xe cứu thương?” “Hai nhân viên y tế,” Beth trả lời, không chút do dự. “Khoảng bao lâu sau khi cô gọi điện thì họ đến nơi?” “Bảy, hoặc tám phút.” “Làm sao cô chắc chắn được?” “Tôi không ngừng xem đồng hồ.” “Và bao nhiêu phút sau cảnh sát mới tới?” “Tôi không rõ lắm,” Beth nói, “nhưng tối thiểu cũng phải năm phút sau.” “Và hạ sĩ Fuller đã ở cùng mọi ngươi bao lâu trước khi ông ta vào quán bar thẩm vấn ông Craig?” “Tối thiểu mười phút,” Beth nói. “Nhưng có thể lâu hơn.” “Và đủ lâu để ông Spencer Craig ra khỏi quán, vê nhà cách đó khoảng trăm mét, thay quần áo và kịp quay lại để dựng nên một câu chuyện khác về những gì đã xảy ra trước khi ông hạ sĩ bước vào quán?” “Thưa ngài,” Pearson đứng dậy, “đây là lời vu khống hiểm ác dành cho một người không làm gì hơn ngoài việc thực hiện nghĩa vụ công dân.” “Tôi đồng ý với ông,” thẩm phán Sackville nói. “Các thành viên bồi thẩm đoàn, các vị hãy bỏ qua lời dẫn giải vừa rồi của ông Redmayne. Đừng quên rằng ông Craig không phải bị cáo trong phiên tòa này.” Ông ta nhìn Redmayne, nhưng rõ ràng anh chẳng hề nao núng, nhận ra bồi thẩm đoàn sẽ khó mà quên sự hoán đổi này, và có thể sẽ tạo ra được một số nghi ngờ trong đầu họ. “Tôi xin lỗi, thưa ngài,” anh nói với giọng hối lỗi. “Tôi sẽ không làm thế nữa.” “Mong ông giữ lời cho,” ngài thẩm phán gay gắt nói. “Cô Wilson, trong khi chờ cảnh sát đến, các nhân viên y tế có đưa anh trai cô lên cáng và chở đến bệnh viện gần nhất?” “Có, họ đã làm tất cả những gì có thể,” Beth nói, “nhưng tôi biết đã muộn. Anh ấy mất quá nhiều máu.” “Cô và Danny cũng đi theo xe cứu thương đến bệnh viện?” “Không, tôi đi một mình, bởi hạ sĩ Fuller muốn hỏi Danny vài vấn đề.” “Điều đó có làm cô lo lắng?” “Có, bởi Danny cũng bị thương. Anh ấy…” “Ý tôi không phải vậy,” Redmayne lên tiếng, không muốn Beth tiếp tục câu nói. “Cô có lo rằng cảnh sát có thể coi Danny là nghi phạm?” “Không,” Beth nói. “Tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện này. Tôi đã khai với cảnh sát những gì xảy ra. Trong bất kỳ tình huống nào tôi cũng xác nhận những gì anh ấy đã kể.” Nếu Alex nhìn về phía Pearson, anh sẽ thấy một nụ cười thoáng xuất hiệt trên mặt tay luật sư kỳ cựu. “Rất tiếc là anh cô đã qua đời trên đường từ Chelsea tới Bệnh viện Westminton?” Beth bắt đầu nghẹn ngào. “Vâng, tôi gọi điện cho bố mẹ, họ đến ngay nhưng cũng đã quá muộn.” Alex đợi nàng trấn tĩnh lại rồi hỏi tiếp. “Sau đó Danny có đến bệnh viện với mọi người không?” “Anh ấy không đến.” “Tại sao thế?” “Bởi vì cảnh sát vẫn tiếp tục hỏi cung Danny.” “Cô gặp lại anh ấy khi nào?” “Sáng hôm sau, ở đồn cảnh sát Chelsea.” “Đồn cảnh sát Chelsea?” Redmayne nhắc lại, giả vờ ngạc nhiên. “Vâng. Ngay sáng hôm đó cảnh sát đến nhà tôi. Họ nói đã bắt Danny và buộc tội anh ấy giết Bernie.” “Chuyện đó hẳn là một cú sốc khủng khiếp.” Arnold Pearson nhổm lên. “Phản ứng của cô trước tin này thế nào?” Redmayne hỏi nhanh. “Không thể tin nổi. Tôi nhắc đi nhắc lại rất rõ ràng những gì đã xảy ra, nhưng rõ là họ không tin.” “Cảm ơn cô, cô Wilson. Tôi không còn gì để hỏi, thưa ngài.” Danny thở dài nhẹ nhõm khi Beth bước khỏi bục nhân chứng. Nàng mỉm cười lo lắng với anh khi đi ngang qua chỗ dành cho bị cáo. “Cô Wilson,” ngài thẩm phán nói trước khi nàng đến cửa. Beth quay lại nhìn ông ta. “Cô có thể vui lòng quay lại bục nhân chứng? Tôi có cảm giác ông Pearson muốn hỏi cô một hai câu.” Chương 10 B eth chậm chạp quay lại bục nhân chứng. Nàng thấy bố mẹ đang ngồi ở phía sau, và thấy Craig đang giận dữ nhìn mình. Nàng muốn thể hiện thái độ lại với hắn, nhưng điều đó hoàn toàn vô nghĩa, và không gì làm Craig thoải mái bằng việc biết gã đã gây được sức ép lên nàng. Beth bước lên bục nhân chứng, càng thêm quyết tâm hơn. Nàng cố đứng, nhìn Arnold Peason vẫn đang ngồi trên ghế bằng ánh mắt đầy thách thức. Có lẽ ông ta sẽ không hỏi gì nàng nữa thì sao. Tay công tố viên già chậm rã đứng dậy. Không buồn liếc Beth, ông ta bắt đầu xếp lại giấy tờ, rồi uống một ngụm nước, cuối cùng cũng nhìn về phía nàng. “Cô Wilson, sáng nay cô ăn gì?” Beth hơi lưỡng lự, khi mọi người trong phòng đổ dồn mắt vào nàng. Alex Redmayne chửi thầm. Anh biết Pearson đang cố làm nàng mất cảnh giác với câu hỏi đầu tiên này. Chỉ có thẩm phán Sackville không tỏ ra ngạc nhiên. “Tôi uống trà và ăn trứng luộc,” Beth cố kiềm chế. “Không thêm món gì nữa à, cô Wilson.” “Có, vài lát bánh mì.” “Mấy tách trà?” “Một, không, hai tách,” Beth nói. “Hay là ba?” “Không, chỉ hai thôi.” “Và mấy lát bánh mì?” Nàng lại lưỡng lự. “Tôi không nhớ.” “Cô không nhớ mình đã ăn gì sáng nay, vậy mà cô có thể nhắc lại chi tiết từng câu cô nghe được vào sáu tháng trước.” Beth lại cúi đầu xuống. “Cô không chỉ nhớ từng từ ông Craig nói tối hôm đó, mà cô còn nhớ rõ cả việc ông ta đã nháy mắt với cô, rồi thè lưỡi liếm vòng quanh môi.” “Có, tôi vẫn nhớ,” Beth khăng khăng. “Vì ông ta đã làm thế.” “Vậy chúng ta hãy cùng kiểm tra trí nhớ của cô thêm một chút vậy, cô Wilson. Khi người phục vụ quán bar lấy vỏ chai champagne về, ông Craig nói, ‘Toàn thứ bỏ đi.’” “Đúng vậy.” “Nhưng ai mới là người nói” - Pearson cúi xuống nhìn vào tờ giấy - “‘ Rằng đã nhiều lần tôi rất thích cái miệng của em “hàng” mở to như vậy’?” “Tôi không chắc là ông Craig hay một người khác trong đó.” “Cô ‘không chắc’. ‘Một người khác trong đó’. Ý cô là bị cáo, Catwright?” “Không, một người khác ở quầy bar.” “Cô đã nói với đồng nghiệp của tôi rằng cô không phản ứng, vì đã nghe thấy những thứ còn bẩn thỉu hơn ở East End.” “Đúng vậy.” “Thực ra, đó là nơi cô lần đầu tiên nghe thấy câu nói đó, phải không, cô Wilson?” Pearson nói, sờ vào ve chiếc áo thụng đen. “Ý của ông là gì?” “Đơn giản là cô chưa bao giờ nghe thấy ông Craig nói câu đó trong quán bar ở Chelsea, cô Wilson, nhưng cô đã nghe Cartwright nói ở East End nhiều lần, bởi đó là thứ ngôn ngữ anh ta hay sử dụng.” “Không, là ông Craig nói những lời đó.” “Cô cũng nói rằng cô ra khỏi Dunlop Arms bằng cửa sau.” “Vâng.” “Tại sao không ra bằng cửa trước, cô Wilson?” “Tôi muốn lặng lẽ ra ngoài và không muốn gây thêm rắc rối nữa.” “Vậy là cô đã gây một số rắc rối rồi?” “Không, chúng tôi không gây ra rắc rối nào.” “Vậy tại sao không ra bằng cửa trước, cô Wilson? Nếu làm thế, cô sẽ thấy mình đứng trên con phố đông đúc, và có thể lặng lẽ bỏ đi, đúng từ của cô, mà không gây thêm rắc rối nữa.” Beth im lặng. “Bây giờ cô có thể giải thích ý của anh trai cô là gì,” Pearson xem ghi chép của mình, “khi nói với Cartwright, ‘ nếu anh nghĩ rằng tôi sẽ gọi anh là ngài, thì anh nên quên điều đó đi.” “Anh ấy đùa thôi,” Beth nói. Pearson nhìn vào hồ sơ một lúc rồi nói, “Xin lỗi cô, cô Wilson, nhưng tôi không thấy chút hài hước nào trong câu đó.” “Đó là vì ông không xuất thân từ East End,” Beth nói. “Ông Craig cũng vậy,” Pearson đáp lại, trước khi nhanh chóng nói thêm. “và sau đó Cartwright đẩy ông Wilson về phía cửa sau. Đó là lúc ông Craig nghe thấy anh trai cô nói, ‘Vậy sao chúng ta không ra ngoài để làm rõ vấn đề này nhỉ’?” “Là ông Craig nói: ‘Vậy sao chúng ta không ra ngoài để làm rõ vấn đề này nhỉ’, bởi đó là kiểu người ở khu West End hay nói.” Thông minh đấy, Alex nghĩ, vui mừng khi thấy nàng đã hiểu được ý đồ của anh và cố gắng nắm vững nó. “Và khi cô ra ngoài,” Pearson nói nhanh, “cô đã thấy ông Craig đợi sẵn ở phía kia của con hẻm?” “Đúng thế.” “Mất bao lâu thì cô trông thấy ông ta?” “Tôi không nhớ,” Beth trả lời. “Lần này thì cô không nhớ.” “Cũng không lâu lắm,” Beth nói. “Cũng không lâu lắm,” Pearson lặp lại. “Chưa đến một phút?” “Tôi không chắc được. Nhưng ông ta đã đứng ở đó.” “Cô Wilson, nếu cô rời khỏi Dunlop Arms bằng cửa trước, đi qua một đoạn phố đông đúc, băng qua một đoạn hẻm dài nữa trước khi xuất hiện ở cuối ngõ, cô sẽ thấy khoảng cách đó phải gần hai trăm mét. Và cô cho rằng ông Craig vượt qua khoảng cách đó dưới một phút?” “Ông ta đã làm được thế.” “Và một lát sau bạn ông ta cũng ra đến nơi,” Pearson nói. “Đúng thế,” Beth đáp lại. “Và khi cô quay lại, hai người kia, ông Davenport và ông Mortimer cũng đã đứng ở trước cửa sau?” “Đúng vậy.” “Tất cả chỉ diễn ra trong vòng chưa đầy một phút, cô Wilson?” Ông ta dừng lại. “Cô hình dung ra bốn người đã có dự tính trùng khớp về mặt thời gian như thế từ lúc nào?” “Tôi không hiểu ý ông,” Beth nói, nắm chặt chỗ vịn tay ở bục nhân chứng. “Tôi lại nghĩ cô hiểu rất rõ, cô Wilson, nhưng vì bồi thẩm đoàn, để tôi nói thêm, rằng hai người ra khỏi quán bar từ cửa trước, vòng ra đằng sau tòa nhà, còn hai người kia ra chặn ở cửa sau, tất cả đều chưa tới một phút.” “Có lẽ là hơn một phút.” “Nhưng cô đã định đi rồi mà,” Pearson nhắc nàng. “Vậy nếu sự việc diễn ra trong hơn một phút, cô đã phải ra tới đường cái và biến mất trước khi họ kịp đến đó.” “Giờ tôi nhớ rồi,” Beth nói. “Danny cố giúp Bernie lấy lại bình tĩnh, nhưng anh trai tôi vẫn muốn quay lại quán bar để đánh ông Craig, nên sẽ phải mất hơn một phút.” “Hay anh trai cô muốn đánh chính ông Cartwright,” Pearson hỏi, “và cho ông ta biết rõ ai là ông chủ khi bố cô về hưu?” “Nếu Bernie muốn làm thế,” Beth nói, “anh ấy đã có thể hạ gục Danny chỉ bằng một cú đấm.” “Không thể, nếu ông Cartwright có dao,” Pearson đáp lại. “Ông Craig mới là người có dao, và chính ông ta đâm Danny.” “Làm sao cô dám chắc điều đó, khi cô không tận mắt chứng kiến?” “Bernie đã nói cho tôi biết.” “Cô có chắc là Bernie nói, chứ không phải Danny?” “Tôi chắc chắn.” “Xin lỗi cô Wilson vì phải hỏi đi hỏi lại cô, nhưng đây là giả thuyết của tôi, và tôi sẽ trung thành với nó.” “Không sao, vì đó là sự thật.” “Lúc đó cô rất sợ anh trai mình sẽ chết, phải không cô Wilson?” “Vâng, anh ấy mất quá nhiều máu, và tôi nghĩ rằng anh ấy có thể không sống nổi,” Beth trả lời và bắt đầu nức nở. “Vậy tại sao cô không gọi cứu thương, cô Wilson?” Alex đã bối rối về chuyện này từ lâu, và anh tự hỏi liệu nàng sẽ trả lời thế nào. Beth im lặng, nên Pearson lại hỏi tiếp, “khi mà anh trai cô bị đâm liên tục nhiều nhát như vậy?” “Tôi không có điện thoại di động,” nàng thốt ra. “Nhưng hôn phu của cô có cơ mà,” Pearson nhắc nàng, “nên anh ta trước đó mới gọi được cho anh trai cô, mời đến chung vui với hai người ở quán bar.” “Nhưng xe cứu thương đã đến chỉ sau vài phút,” Beth trả lời. “Và tất cả chúng ta đều biết ai đã gọi cứu hộ khẩn cấp, phải không, cô Wilson,” Pearson nói, nhìn bồi thẩm đoàn chằm chằm. Beth cúi đầu xuống. “Cô Wilson, cho phép tôi nhắc lại một vài nửa - sự - thật khác mà cô đã nói với đồng nghiệp của tôi.” Beth mím môi. “Cô nói ‘Tôi biết chúng tôi sẽ lấy nhau ngay lần đầu gặp anh ấy.” “Vâng, đó là những gì tôi nói, và chính xác là vậy,” Beth trả lời, vẻ bướng bỉnh. Pearson nhìn xuống tờ ghi chép của mình. “Cô cũng nói rằng theo cô, ông Davenport ‘không bảnh trai bằng’ ông Cartwright.” “Ông ta không thể bằng Danny,” Beth nói. “Và trong bất kỳ tình huống rủi ro nào, “tôi cũng xác nhận những gì anh ấy kể.” “Đúng vậy.” “Cho dù câu chuyện có thế nào đi chăng nữa.” “Tôi không nói vậy,” Beth cãi. “Tôi không có ý đó,” Pearson nói. “Tôi chỉ ám chỉ rằng cô sẽ nói bất cứ điều gì để bảo vệ chồng mình.” “Nhưng anh ấy chưa phải chồng tôi.” “Sẽ là chồng cô, nếu anh ấy được tha bổng.” “Đúng vậy.” “Từ tối anh trai cô bị giết đến nay đã bao lâu rồi?” “Hơn sáu tháng.” “Cô có thường xuyên gặp Cartwright trong quãng thời gian này không?” “Chiều Chủ nhật nào tôi cũng đến thăm anh ấy,” Beth tự hào nói. “Giờ thăm nom kéo dài bao lâu?” “Khoảng hai tiếng.” Pearson nhìn lên trần nhà. “Vậy là hai người,” ông ta tính nhẩm, “có năm mươi tiếng ở cùng nhau trong sáu tháng qua.” “Tôi không bao giờ nghĩ như thế,” Beth nói. “Nhưng giờ thì có rồi đấy, cô có đồng ý rằng thế là quá đủ để hai người tập với nhau nhiều lần, và khi lên tòa thì cô đã thuộc làu mọi thứ rồi.” “Không, không phải thế.” “Cô Wilson, khi cô vào thăm ông Cartwright trong tù” - ông ta dừng lại - “trong suốt năm mươi tiếng, có bao giờ hai người nói chuyện về vụ án?” Beth lưỡng lự. “Tôi tin là có.” “Dĩ nhiên là có rồi,” Pearson nói. “Vì nếu không, làm sao cô có thể giải thích chuyện cô nhớ rõ mọi chi tiết xảy ra vào đêm đó, và từng câu nói của từng người có liên quan, trong khi lại quên sáng nay mình đã ăn những gì.” “Dĩ nhiên tôi nhớ những gì xảy ra vào tối anh tôi bị giết, ông Pearson. Làm sao tôi có thể quên? Nhưng dù thế nào thì Craig và các bạn ông ta cũng có nhiều thời gian hơn thế để chuẩn bị cho câu chuyện của họ, bởi họ không có giờ thăm tù hay bất cứ hình thức ngăn cấm nào về thời gian hay địa điểm gặp nhau.” “Hoan hô,” Alex nói, đủ lớn để Pearson nghe thấy. “Chúng ta hãy quay lại con hẻm và kiểm tra trí nhớ cô thêm lần nữa, cô Wilson,” Pearson nói, nhanh chóng đổi đề tài. “Ông Craig và ông Payne, đã đi tới ngõ trong vòng chưa đầy một phút, bắt đầu tiến lại phía anh cô, không khích bác gì mà lao vào đánh luôn.” “Đúng vậy,” Beth nói. “Đánh hai người họ chưa từng gặp trước tối hôm đó.” “Vâng.” “Và khi trở nên yếu thế hơn, ông Craig rút ra con dao từ không khí và đâm vào ngực anh trai cô.” “Không phải từ không khí. Ông ấy đã lấy nó từ trong quán bar.” “Chứ không phải Danny là người lấy dao từ trong quán bar?” “Không, nếu Danny lấy tôi sẽ thấy ngay.” “Nhưng cô cũng không thấy ông Craig lấy con dao từ trong quán bar?” “Tôi không thấy.” “Nhưng cô lại thấy ông ta, chưa đầy một phút sau, đã đứng ở đầu kia con hẻm?” “Đúng vậy.” “Lúc đó tay ông ta có cầm dao không?” Pearson ngả người ra phía sau đợi Beth trả lời. “Tôi không nhớ.”