🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kẻ Khôn Đi Lối Khác - Alex Banayan
Ebooks
Nhóm Zalo
Mục lục
BƯỚC 1 - RỜI KHỎI HÀNG
Chương một. Dán mắt lên trần nhà
Chương hai. Hãy chọn giá đúng
Chương ba. Phòng chứa đồ
BƯỚC HAI - CHẠY VÀO NGÕ HẺM
Chương bốn. Trò chơi Spielberg
Chương năm. Núp trong nhà vệ sinh
Chương sáu. Thời gian QI
Chương bảy. Kho dự trữ bí mật
BƯỚC BA - TÌM "TAY TRONG" CỦA BẠN
Chương tám. Người thầy trong mơ
Chương chín. Những quy tắc
Chương mười. Cuộc phiêu lưu chỉ đến với những kẻ dám mạo hiểm
Chương mười một. Cắn nhiều hơn bạn có thể nhai Chương mười hai. Đó là cách làm kinh doanh
Chương mười ba. Cuộc sống trên mây
Chương mười bốn. Danh sách những thứ phải tránh Chương mười lăm. Bạn không thể Amazon tốt hơn Amazon Chương mười sáu. Chưa ai từng hỏi
Chương mười bảy. Luôn luôn là màu xám
BƯỚC BỐN - LỘI QUA BÙN
Chương mười tám. Hallelujah!
Chương mười chín. Người ông warren
Chương hai mươi. Motel 6
Chương hai mươi mốt. Hôn ếch
Chương hai mươi hai. Đại hội cổ đông
Chương hai mươi ba. Ngài Kinggg!
Chương hai mươi tư. Viên đạn cuối cùng
BƯỚC NĂM - LỰA CHỌN CÁNH CỬA THỨ BA
Chương hai mươi lăm. Chén thánh: Phần I
Chương hai mươi sáu. Chén thánh: Phần II Chương hai mươi bảy. Cánh cửa thứ ba
Chương hai mươi tám. Tái định nghĩa thành công Chương hai mươi chín. Trở thành thực tập sinh Chương ba mươi. Cuộc chạm trán
Chương ba mươi mốt. Biến bóng tối thành ánh sáng Chương ba mươi hai. Ngồi bên thần chết
Chương ba mươi ba. Kẻ lừa đảo
Chương ba mươi tư. Món quà tuyệt vời nhất Chương ba mươi lăm. Nhập cuộc
Lời cảm ơn
Về tác giả
BƯỚC 1
RỜI KHỎI HÀNG
Cuộc sống, công việc, thành công… giống như việc đi vào câu lạc bộ đêm.
L
uôn luôn có ba con đường để vào trong.
Có Cánh cửa thứ nhất: cửa chính, nơi hàng dài người xếp hàng, uốn lượn qua những dãy nhà; nơi 99% trong đó chờ đợi, hy vọng người tiếp theo là mình.
Có Cánh cửa thứ hai: cửa VIP, nơi tỷ phú, người nổi tiếng và những nhóm người sinh ra trong thế giới đó đi qua.
Nhưng không ai nói cho bạn biết rằng luôn luôn có, luôn luôn có… Cánh cửa thứ ba. Đó là lối vào mà bạn phải rời khỏi hàng, chạy vào ngõ hẻm, đập cửa cả trăm lần, cạy mở cửa sổ, lẻn qua nhà bếp – luôn luôn có cách.
Đó là cách Bill Gates bán phần mềm đầu tiên của mình hay cách Steven Spielberg trở thành đạo diễn trẻ nhất trong lịch sử Hollywood. Tất cả họ đều dùng… Cánh cửa thứ ba.
Chương một
Dán mắt lên trần nhà
“Mời đi lối này…”
Tôi lướt qua sàn nhà bằng đá cẩm thạch rồi rẽ ngang, bước vào căn phòng tràn ngập ánh sáng với hàng cửa sổ trải dọc từ trần nhà xuồng nền. Những chiếc du thuyền lững lờ trôi, từng đợt sóng êm đềm vỗ vào bờ, nắng chiều phản chiếu từ bến tàu khiến cả dãy hành lang ngập tràn thứ ánh sáng rực rỡ tuyệt trần. Tôi theo chân người trợ lý đi dọc hành lang. Nơi đây có những chiếc trường kỷ với loại nệm ngồi xa hoa nhất mà tôi từng biết. Đến cả thìa cà phê cũng sáng lấp lánh hơn tất thảy loại thìa mà tôi từng thấy. Chiếc bàn họp đẹp đẽ như một tác phẩm nghệ thuật do chính tay Michelangelo chạm khắc. Chúng tôi tiến vào một hành lang dài, dọc hai bên tường phủ kín bởi hàng trăm cuốn sách.
“Ông ấy đã đọc hết sách ở đây rồi,” người phụ nữ nói. Kinh tế vĩ mô. Khoa học máy tính. Trí tuệ nhân tạo. Tiêu diệt dịch bại liệt. Người trợ lý lấy xuống một cuốn sách về phân tái chế và đặt vào tay tôi. Tôi cẩn trọng lật từng trang sách bằng đôi tay thấm đẫm mồ hôi. Gần như mọi trang sách đều có những dòng gạch chân hoặc ghi chú nguệch ngoạc bên lề. Tôi không nhịn được phải bật cười – dòng ghi chú nhìn chẳng khác nào chữ viết của một học sinh lớp năm.
Chúng tôi tiếp tục đi dọc theo hành lang cho đến khi người phụ nữ bảo tôi tạm thời đứng đợi. Tôi đứng yên đó ngắm khung cửa kính mờ cao vút. Tôi phải cố kiềm chế không đưa tay sờ thử chiếc cửa xem nó dày thế nào. Trong khi chờ đợi, tôi nghĩ đến tất cả mọi điều đã dẫn tôi tới đây – chiếc khăn quàng đỏ, nhà vệ sinh tại San Francisco, chiếc giày ở Omaha, con gián tại Motel 6, và…
Rồi cánh cửa bật mở.
“Alex, Bill đã sẵn sàng gặp cậu.”
Ông ấy đứng ngay trước mặt tôi, với mái đầu bù xù cùng chiếc sơ mi đóng thùng qua loa, và đang nhâm nhi lon Coca không đường. Tôi muốn thốt lên một điều gì đó nhưng lại chẳng tài nào nói nên lời.
“Chào cậu,” Bill Gates nói, nụ cười làm đôi lông mày khẽ nhướn lên. “Xin mời vào…”
BA NĂM TRƯỚC, KÝ TÚC XÁ, NĂM NHẤT ĐẠI HỌC T
ôi lăn qua lăn lại trên giường. Chồng sách sinh học nằm trên bàn, lẳng lặng ngắm nhìn tôi. Tôi biết lẽ ra mình nên ngồi học, nhưng càng nhìn đống sách, tôi càng muốn trùm chăn lên đầu, bỏ mặc mọi thứ.
Tôi nghiêng người sang bên phải. Tấm áp phích của đội bóng bầu dục Nam California treo ngay phía trên đầu tôi. Khi tôi mới dán tấm áp phích lên tường, màu sắc của nó vẫn còn rất sống động. Nhưng giờ thì dường như nó đã hòa làm một thể với tông xám của bức tường.
Tôi xoay người nằm ngửa và nhìn chăm chăm lên trần nhà tĩnh lặng màu trắng.
Mình làm sao thế này?
Từ khi có ký ức, mọi thứ đã mặc định mai này tôi sẽ trở thành bác sĩ – một lẽ tất nhiên đối với con trai của những người nhập cư Do Thái gốc Ba Tư. Dường như ngay khi tôi ra khỏi bụng mẹ, cái tem “bác sĩ y khoa” đã được in trên mông. Hồi lớp ba, tôi thậm chí còn mặc bộ trang phục hình bàn chải đến trường trong dịp lễ Halloween. Tôi chính là “đứa trẻ được chọn”.
Tôi chưa bao giờ là một học sinh cực kỳ xuất sắc, nhưng học lực vẫn luôn ổn định. Ví dụ, tôi thường xuyên đạt điểm B và hay đọc CliffNotes1. Để bù trừ cho việc hiếm khi đạt điểm A, tôi rất giỏi định hướng. Thời trung học, tôi cố gắng “làm đủ mọi việc theo quy chuẩn” – tình nguyện viên ở bệnh viện, học thêm các lớp khoa học, ám ảnh với kỳ thi SAT. Nhưng tôi quá bận rộn ngụp lặn trong học hành, chẳng đủ hơi sức để dừng lại và suy nghĩ xem mình làm vậy vì ai. Đến khi vào đại học, tôi không thể ngờ rằng suốt một tháng sau đó, tôi thường xuyên ấn tắt báo thức 4-5 lần mỗi sáng, không phải vì quá mệt mỏi mà do tôi quá chán nản. Dù vậy, tôi vẫn tiếp tục ì ạch lết đến lớp, cố gắng hoàn thành đủ các học phần trong chương trình dự bị y khoa, giống như một chú cừu cắm cúi đi theo bầy đàn.
Thế là tôi thấy bản thân mình ở đây: nằm ườn trên giường, dán mắt lên trần nhà. Tôi từng đến giảng đường hòng tìm câu trả lời, nhưng kết quả là tôi lại bật ra hàng tá câu hỏi. Rốt cục tôi thích cái gì? Tôi muốn tập trung vào lĩnh vực nào? Tôi muốn làm gì với cuộc đời mình?
Tôi lại trở mình sang hướng khác. Đống sách sinh học giống như những tên giám ngục nhà tù Azkaban2, hút cạn sinh lực và niềm hạnh phúc ra khỏi tôi. Tôi càng kinh sợ phải mở chúng ra bao nhiêu thì tôi càng nghĩ về bố mẹ nhiều bấy nhiêu – những người đã chạy xuyên qua sân bay Tehran, trốn đến Mỹ làm người tị nạn, hy sinh tất cả để tôi được học hành.
Khi tôi nhận được thư mời nhập học từ Đại học Nam California (USC), mẹ nói rằng tôi không thể tiếp tục đi học vì gia đình không đủ khả năng tài chính. Dù nhà tôi cũng không thuộc dạng nghèo khó và tôi lớn lên ở Beverly Hills, nhưng giống như nhiều gia đình khác, chúng tôi có hai cuộc sống. Tuy sống ở một khu vực giàu có, bố mẹ tôi vẫn phải dùng khoản vay thế chấp thứ hai để trang trải chi phí. Chúng tôi cũng đi du lịch, dù sau đó tôi thỉnh thoảng lại thấy thông báo cắt ga dán trước cửa nhà. Lý do duy nhất khiến mẹ tôi đồng ý cho tôi theo học ở USC là ngay trước hạn nộp hồ sơ nhập học, bố tôi trằn trọc suốt đêm, bật khóc và nói với mẹ tôi rằng ông sẽ làm tất cả để trang trải chi phí.
Và đây là cách mà tôi trả ơn bố ư? Nằm ườn trên giường và lấy chăn phủ kín đầu?
Tôi liếc nhìn đầu bên kia căn phòng. Bạn cùng phòng của tôi, Ricky, đang ngồi làm bài tập về nhà bên chiếc bàn học bằng gỗ nhỏ xíu, nhả ra các con số như một cái máy. Tiếng bút chì của cậu ấy rít trên giấy như đang cười nhạo tôi. Cậu ấy thực sự có một hướng đi cho riêng mình. Tôi thì ước gì mình cũng có. Nhưng đối diện tôi lại chỉ có cái trần nhà vô tri chẳng thể nói chuyện.
Tâm trí tôi trôi đến anh chàng mới gặp hồi tuần trước. Anh này tốt nghiệp ngành toán học của USC một năm trước. Anh ấy cũng
từng ngồi bên chiếc bàn giống như Ricky, cũng từng nhả ra những con số giống Ricky, và giờ thì đang bán kem cách trường vài cây số. Tôi bất giác nhận ra tấm bằng đại học giờ đây chẳng thể đảm bảo được tương lai.
Tôi quay lại nhìn mấy cuốn giáo trình. Học là việc cuối cùng tôi muốn làm.
Tôi cuộn mình. Nhưng bố mẹ đã hy sinh tất cả để việc duy nhất tôi phải làm là học.
Cái trần nhà vẫn yên lặng.
Tôi lật người và vùi mặt vào gối.
TÔI LÊ BƯỚC ĐẾN THƯ VIỆN vào buổi sáng hôm sau, cắp nách mấy cuốn sách sinh học. Nhưng dù có cố gắng đến mấy thì năng lượng bên trong tôi cũng chỉ lay lắt ở mức cạn kiệt. Tôi cần một cú hích, thứ gì đó có thể kích thích tôi bước tiếp. Thế là tôi rời khỏi ghế, lang thang dọc theo một giá sách và lấy ra cuốn sách về Bill Gates. Tôi nghĩ biết đâu một người thành công như Gates có thể khơi gợi nguồn cảm hứng mới trong tôi. Và quả thật đúng là chuyện đó đã xảy ra, dù không hoàn toàn giống với tưởng tượng của tôi.
Đây là người đã sáng lập công ty của mình ở độ tuổi tôi hiện tại, và phát triển nó thành một tập đoàn giá trị nhất toàn cầu, cách mạng hóa cả một nền công nghiệp, trở thành người giàu nhất hành tinh, rồi từ chức CEO của Microsoft để trở thành nhà từ thiện hào phóng nhất Trái đất. Nghĩ về thành công của Bill Gates giống như việc bạn đứng dưới chân núi Everest và ngưỡng vọng nhìn lên đỉnh núi. Tất cả những gì tôi nghĩ là: Ông đã đi những bước đầu tiên lên núi như thế nào?
Trước khi kịp nhận ra, tôi đã đọc tiểu sử của hết danh nhân này đến vĩ nhân khác. Steven Spielberg tiến lên đỉnh Everest của nghề đạo diễn như thế nào? Làm sao mà một cậu nhóc không trúng tuyển vào trường điện ảnh lại trở thành đạo diễn trẻ nhất ở một xưởng phim lớn của Hollywood? Làm thế nào mà Lady Gaga, người từng làm phục vụ bàn ở New York khi 19 tuổi, có được hợp đồng thu âm đầu tiên?
Tôi cứ đi tới đi lui tại thư viện để tìm kiếm tất cả những cuốn sách có thể cho tôi câu trả lời. Nhưng vài tuần sau đó, tôi vẫn ra về với hai bàn tay trắng. Chẳng có cuốn sách nào nói về giai đoạn cuộc đời mà tôi đang trải qua. Khi không ai biết đến tên tuổi hay đồng ý gặp họ, những vĩ nhân này làm thế nào để gây dựng được sự nghiệp? Suy nghĩ ngây thơ của một cậu trai 18 tuổi trong tôi lên tiếng: Hừm, nếu chưa có ai viết cuốn sách mà tôi muốn đọc, vậy tại sao tôi lại không tự mình viết nó?
Đó là một ý tưởng ngu ngốc. Đến một bài luận cuối khóa tôi viết còn bị phê bằng mực đỏ đến nửa trang. Thế là tôi quyết định dừng lại.
Nhưng ngày qua ngày, ý tưởng đó vẫn cứ bám riết lấy tôi. Thứ tôi quan tâm không phải là viết một cuốn sách, mà là một “sứ mệnh” – hành trình giải mã những câu hỏi đó. Tôi tưởng tượng nếu như mình có thể nói chuyện với Bill Gates, ông chắc hẳn sẽ cho tôi cả một Chén Thánh đầy ắp lời khuyên.
Tôi chia sẻ ý tưởng này với bạn bè và phát hiện ra mình không phải là người duy nhất đang dán mắt lên trần nhà. Họ cũng khao khát những câu trả lời. Nếu như tôi có thể đại diện cho họ thực hiện sứ mệnh này thì sao? Tại sao tôi không thử gọi điện cho Bill Gates,
phỏng vấn ông cùng một số vĩ nhân khác, đưa những phát hiện của tôi vào một cuốn sách và chia sẻ nó với thế hệ của mình? Thách thức lớn nhất, theo tôi mường tượng, chính là làm sao để có đủ tài chính. Việc di chuyển đến gặp và phỏng vấn họ sẽ tiêu tốn rất nhiều, mà tôi lại không có tiền. Tôi thậm chí còn đang ngập đầu với khoản học phí và các khoản tiền cho lễ Bar Mitzvah3. Nhất định phải có cách.
HAI ĐÊM TRƯỚC KỲ THI CUỐI KHÓA MÙA THU, tôi quay lại thư viện trong giờ nghỉ giải lao và lướt Facebook. Đó là lúc tôi bắt gặp bài viết của một người bạn về chiếc vé miễn phí đến chương trình Hãy chọn giá đúng. Chương trình này được ghi hình tại một trường quay cách trường tôi chỉ vài cây số. Đó cũng là một trong những chương trình tôi xem khi còn nhỏ vào mỗi lần bị ốm phải nghỉ học ở nhà. Người chơi được lựa chọn từ đám đông khán giả, tất cả sẽ được xem một sản phẩm, nếu họ có thể đoán được mức giá thấp hơn gần nhất với mức giá đúng, họ sẽ thắng cuộc. Tôi chưa từng xem hết chương trình, nhưng điều đó có thể khó đến mức nào chứ?
Nếu như… nếu như tôi tham dự chương trình và chiến thắng, tôi có thể thực hiện sứ mệnh của mình thì sao?
Đúng là ngớ ngẩn. Chương trình diễn ra vào sáng mai. Tôi thì phải ôn thi cuối kỳ. Nhưng ý nghĩ tham gia cứ vởn vơ mãi trong đầu. Để thuyết phục bản thân rằng đó là một ý tưởng ngu ngốc, tôi mở sổ tay rồi liệt kê những viễn cảnh tốt nhất và xấu nhất.
NHỮNG VIỄN CẢNH XẤU NHẤT
Trượt kỳ thi cuối kỳ
Phá hỏng cơ hội được học trường y khoa
Mẹ sẽ ghét tôi
Không… bà sẽ giết tôi
Trông béo trên TV
Mọi người sẽ cười nhạo tôi
Tôi thậm chí còn không được tham gia
VIỄN CẢNH TỐT NHẤT
Thắng đủ tiền để thực hiện sứ mệnh
Tôi tìm kiếm trên mạng để tính toán cơ hội thắng cuộc. Trong 300 khán giả thì có 1 người thắng. Tôi dùng điện thoại di động tính toán: 0,3٪.
Thấy chưa? Đấy là lý do tại sao tôi không thích toán học. Tôi nhìn vào con số 0,3% trên điện thoại rồi lại nhìn vào chồng sách sinh học trên bàn. Tất cả suy nghĩ của tôi chỉ xoay quanh câu Nếu như…? Tôi cảm giác có ai đó buộc dây thừng quanh bụng tôi và từ từ thít chặt.
Tôi quyết định làm việc vô cùng lý trí, đó là học.
Nhưng tôi không học để ôn thi. Mà tôi học cách thắng Hãy chọn giá đúng.
Chương hai
Hãy chọn giá đúng
B
ất cứ ai từng xem Hãy chọn giá đúng dù chỉ 30 giây và nghe người dẫn chương trình nói “XIN MỜI XUỐNG SÂN KHẤU!”, hẳn đều biết những người chơi thường ăn mặc rất bắt mắt và có cá tính táo bạo, phù hợp với không khí của một chương trình giải trí. Chương trình khiến người xem tưởng rằng người chơi được lựa chọn ngẫu nhiên trong nhóm khán giả – nhưng vào khoảng 4 giờ sáng, theo như những gì tìm thấy trên Google với từ khóa “làm sao để được chọn làm người chơi Hãy chọn giá đúng”, tôi phát hiện hóa ra việc lựa chọn không hề ngẫu nhiên. Nhà sản xuất sẽ phỏng vấn từng khán giả và chọn ra những người có cá tính nổi trội nhất. Nếu nhà sản xuất thích bạn, họ sẽ ghi tên bạn vào một danh sách rồi đưa cho một nhà sản xuất giấu mặt, người sẽ quan sát bạn từ xa. Nếu nhà sản xuất giấu mặt đánh dấu tích bên cạnh tên của bạn, bạn sẽ được mời lên sân khấu. Chẳng hề có yếu tố may mắn nào ở đây: Thực tế có cả một hệ thống đằng sau.
Sáng hôm sau, tôi lục tung tủ quần áo và lựa chọn chiếc áo sơ mi đỏ rực rỡ nhất phối với một chiếc áo vét rộng thùng thình, và đeo cặp kính mát màu vàng nê-ông. Trông tôi chẳng khác nào một chú chim toucan mập ú. Hoàn hảo. Sau khi lái xe đến trường quay của đài CBS, tôi đỗ xe rồi tiến đến bàn đăng ký. Tôi không biết nhà sản xuất giấu mặt là ai, vậy nên tôi giả định người đó có thể là bất kỳ ai. Tôi ôm các nhân viên bảo vệ, nhảy múa với những người gác cổng và tán tỉnh các quý bà. Tôi thậm chí còn nhảy break-dance, dù tôi không biết nhảy.
Tôi xếp hàng cùng các khán giả khác trong một mê cung những thanh chắn bên ngoài cánh cửa trường quay. Hàng người di chuyển chậm chạp, cuối cùng cũng đến lượt tôi được phỏng vấn. Chính là người ấy. Tôi đã dành hàng giờ để tìm hiểu về anh ấy đêm hôm trước. Anh ấy tên là Stan và cũng là nhà sản xuất chịu trách nhiệm tuyển chọn ứng viên. Tôi biết anh ấy đến từ đâu, anh ấy từng học trường nào – và anh ấy lựa chọn người chơi dựa vào một tập hồ sơ chẳng bao giờ cầm trên tay. Người trợ lý ngồi sau mới là người cầm tập hồ sơ đó. Nếu Stan nhắm trúng ứng viên nào, anh ấy sẽ quay lại nháy mắt với người trợ lý và cô ấy sẽ ghi lại tên ứng viên được chọn.
Người điều phối ra hiệu cho 10 người chúng tôi tiến lên phía trước. Stan đứng cách chúng tôi khoảng 10 bước chân, đi lướt qua từng người một. “Tên bạn là gì? Bạn từ đâu đến? Bạn làm nghề gì?” Mỗi cử chỉ của anh ấy đều có nhịp điệu rất riêng. Đúng ra thì Stan là một nhà sản xuất, nhưng trong mắt tôi, anh ấy là người “bảo kê” gác cổng. Nếu tôi không thể khiến tên mình được ghi vào tập hồ sơ, tôi sẽ không bao giờ được tham gia chương trình. Và ngay bây giờ, gã “bảo kê” đang ở trước mặt tôi.
“Xin chào, em tên là Alex, em đến từ Los Angeles và đang là sinh viên y khoa dự bị ở USC!”
“Y khoa dự bị? Chắc cậu suốt ngày ngập trong bài vở. Làm sao mà cậu có thì giờ ngồi xem Hãy chọn giá đúng?”
“Xem… cái gì? À! Đấy là lý do em ở đây phải không?”
Anh ấy thậm chí còn chẳng thèm cho tôi một nụ cười nhạt. Tôi cần phải làm gì đó để giải vây cho mình. Trong một cuốn sách kinh doanh tôi từng đọc, tác giả nói rằng đụng chạm cơ thể là cách khiến mối quan hệ tiến triển nhanh hơn. Thế là tôi nảy ra một ý tưởng. Tôi cần phải chạm vào Stan.
“Stan, Stan, anh lại đây! Em muốn bí mật bắt tay anh!”
Anh ấy trợn tròn mắt ngạc nhiên.
“Thôi nào! Stan!”
Anh ấy bước lên phía trước và chúng tôi đập tay nhau. “Này anh trai, anh làm sai hết rồi,” tôi nói. “Anh bao nhiêu tuổi vậy?”
Stan cười khoái trá và tôi chỉ cho anh ấy cách đập tay bằng nắm đấm rồi bung ra. Anh ấy lại tiếp tục cười, chúc tôi may mắn rồi bước đi. Anh ấy không hề nháy mắt với trợ lý của mình. Cô ấy không viết gì vào tập hồ sơ. Cứ như vậy, cơ hội vụt qua.
Đây chính là một trong những giây phút mà bạn nhìn thấy giấc mơ của mình, gần đến nỗi bạn dường như có thể chạm vào nó, nhưng rồi cứ thế, giấc mơ tan biến như những hạt cát trượt qua kẽ ngón tay. Và điều tệ nhất là bạn biết mình có thể nắm được nó nếu như bạn có cơ hội thứ hai. Tôi không biết điều gì đã thôi thúc, nhưng tôi đã dùng hết sức bình sinh hét lên.
“STAN! STAAAAN!”
Toàn bộ khán giả quay sang nhìn tôi.
“STAAAAAAAAAN! Hãy quay lại đây!”
Stan quay lại và từ từ gật đầu, ánh mắt như đang nói: “Được rồi, nhóc, lại gì nữa?”
“Ừm… ừm…”
Tôi nhìn anh ấy từ đầu đến chân: Anh ấy mặc một chiếc áo len cổ lọ màu đen, quần bò và quàng khăn đỏ. Tôi không biết phải nói gì. “Ừm… ừm…… CÁI KHĂN CỦA ANH!”
Anh ấy liếc mắt nhìn tôi. Giờ thì tôi thực sự không biết nói gì. Tôi hít một hơi thật sâu, nhìn anh ấy và nói: “STAN, EM LÀ MỘT NHÀ SƯU TẬP KHĂN ĐẦY THAM VỌNG, EM ĐÃ CÓ 362 CHIẾC
KHĂN TRONG TỦ QUẦN ÁO CỦA MÌNH, VÀ EM ĐANG THIẾU MỘT CHIẾC GIỐNG CỦA ANH! ANH MUA NÓ Ở ĐÂU VẬY?” Không khí căng thẳng tan biến và Stan phá lên cười. Cứ như thể anh ấy biết rõ tôi đang muốn làm gì, và anh ấy cười tôi vì động cơ hơn là vì lời nói.
“Ồ, vậy thì tôi có thể tặng cậu chiếc khăn này!” anh ấy đùa, rồi cởi chiếc khăn ra và đưa nó cho tôi.
“Không, không, không,” tôi nói. “Em chỉ muốn biết anh mua nó ở đâu thôi!”
Anh ấy nở một nụ cười và quay sang người trợ lý. Cô ấy viết gì đó vào tập hồ sơ.
Tôi đứng bên ngoài cánh cửa trường quay và chờ nó mở ra. Một người phụ nữ bước vào và tôi phát hiện cô ấy đang nhìn lướt qua bảng tên của mọi người. Chiếc phù hiệu ló ra khỏi túi quần sau. Cô ấy ắt hẳn là nhà sản xuất giấu mặt.
Tôi nhìn vào mắt người phụ nữ, làm mặt hài và gửi đến vài nụ hôn gió mãnh liệt. Cô ấy phá lên cười. Rồi tôi nhảy điệu sprinkler4 của thập niên 1980, cô ấy lại càng cười to hơn. Cô nhìn vào bảng tên của tôi, lấy một mảnh giấy từ túi quần sau và bắt đầu ghi chép.
Lẽ ra tôi phải cảm thấy vô cùng hạnh phúc, nhưng tôi chợt nhận ra, mặc dù đã dành cả đêm tìm hiểu cách được chọn làm người chơi, tôi lại chẳng hề biết cách chơi. Tôi lấy điện thoại ra và tra Google với từ khóa “cách chơi Hãy chọn giá đúng”. 30 giây sau, một nhân viên bảo vệ đi đến và tước điện thoại khỏi tay tôi.
Tôi nhìn xung quanh, các nhân viên bảo vệ đang thu lại điện thoại của mọi người. Sau khi đi qua máy quét kim loại, tôi ngồi phịch xuống một chiếc ghế dài. Không có điện thoại, tôi cảm thấy như mình đang
chuẩn bị “tay không bắt giặc”. Một người phụ nữ lớn tuổi ngồi cạnh bèn hỏi han tôi.
“Cháu biết chuyện này nghe có vẻ điên rồ,” tôi nói với bà ấy, “cháu tới đây với ý tưởng thắng được chút tiền để thực hiện ước mơ của mình, nhưng cháu chưa từng xem trọn vẹn một số nào của chương trình này, giờ thì họ lấy điện thoại của cháu mất rồi, cháu không cách nào biết được chương trình sẽ diễn ra thế nào, và…”
“Ồ, cháu yêu,” bà ấy nói, khẽ véo má tôi. “Bà đã xem chương trình này 40 năm rồi.”
Tôi liền hỏi xin bà một vài kinh nghiệm.
“Cháu yêu, cháu làm bà nhớ đến cháu trai mình.”
Bà rướn người về phía tôi và thì thầm: “Luôn luôn đoán giá thấp hơn.” Bà giải thích rằng dù đoán giá cao hơn chỉ 1 đô-la, bạn cũng sẽ thua. Nhưng dù cho đoán giá thấp hơn cả 10.000 đô-la, bạn vẫn có cơ hội thắng. Bà càng giải thích, tôi càng có cảm giác như mình đang được tiếp nhận hàng thập kỷ kinh nghiệm vào đầu. Đúng lúc đó thì đèn tắt phụt.
Tôi cảm ơn bà, quay sang anh chàng phía bên trái và nói: “Xin chào, tôi tên là Alex, năm nay 18 tuổi, tôi chưa từng xem trọn vẹn một tập của chương trình này. Anh có lời khuyên nào cho tôi không?” Rồi tôi quay sang một người khác. Rồi sang một nhóm người. Tôi nhảy nhót giữa đám đông và nói chuyện với gần một nửa số khán giả, tổng hợp tất cả trí khôn của họ.
Cánh cửa trường quay cuối cùng cũng mở ra. Khi bước vào trong, tôi cảm giác nơi đây dường như mang trong mình hơi thở của thập niên 1970. Những tấm rèm màu ngọc lam và vàng treo dọc các bức tường. Dàn đèn sân khấu màu xanh lá cây và vàng nhảy múa qua lại quanh căn
phòng, kết lại thành hình khóm hoa và phủ kín bức tường phía sau lưng tôi. Chắc chỉ còn thiếu quả cầu disco nữa là đủ bộ.
Nhạc bắt đầu nổi lên và tôi ngồi xuống ghế của mình. Tôi nhét áo vét và kính mát xuống dưới ghế. Vĩnh biệt chim toucan – Cuộc chơi thực sự đã bắt đầu.
Nếu có một thời khắc tôi muốn cầu nguyện thì đó thực sự là thời khắc này. Tôi cúi xuống, nhắm mắt, đặt một tay lên che mặt. Một giọng nói trầm ấm vọng xuống từ phía trên. Mỗi âm tiết đều như được kéo dài ra. Giọng nói ngày càng vang to hơn. Nhưng đó không phải là Chúa Trời. Đó là Chúa tivi.
“CHÀO MỪNG QUÝ VỊ ĐẾN VỚI TRƯỜNG QUAY BOB BARKER CỦA ĐÀI TRUYỀN HÌNH CBS, HOLLYWOOD, CHƯƠNG TRÌNH HÃY CHỌN GIÁ ĐÚNG! VÀ ĐÂY LÀ NGƯỜI DẪN CHƯƠNG TRÌNH, DREW CAREY!”
C
húa tivi xướng tên bốn người chơi đầu tiên. Không phải người thứ nhất, thứ hai hay thứ ba, tôi cảm giác người thứ tư được gọi tên sẽ là tôi. Tôi rướn người về phía trước, và… người ấy không phải tôi.
Bốn người đứng ở khu vực bục chơi được chiếu đèn sáng rực. Một người phụ nữ mặc chiếc quần bò của mẹ chiến thắng vòng đầu tiên. Cô ấy được bước vào vòng chơi có thưởng. Bốn phút sau khi chương trình bắt đầu, người chơi thứ năm được gọi lên thay thế vị trí của người phụ nữ khi nãy.
“ALEX BANAYAN, XIN MỜI!”
T
ôi đứng dậy và đám đông dường như nổ tung cùng tôi. Khi chạy xuống những bậc cầu thang và đập tay với khán giả, tôi cảm giác như
thể họ là những người họ hàng và tất cả đang cùng tham gia với tôi – họ biết tôi không biết mình đang làm gì, nhưng họ đều rất thích thú với từng khoảnh khắc trôi qua. Tôi bước đến bục chơi của mình, chưa kịp có một giây để thở, Drew Carey đã nói: “Xin mời, phần thưởng tiếp theo.”
“MỘT CHIẾC GHẾ TỰA HIỆN ĐẠI ĐI KÈM VỚI ĐỆM ĐỂ CHÂN!”
“M
ời bạn, Alex.”
Đoán thấp hơn. Đoán thấp hơn.
“600!”
Khán giả phá lên cười, những người chơi còn lại bắt đầu cược giá. Giá chính xác: 1.661 đô-la. Người chiến thắng là một phụ nữ trẻ, cô ấy nhảy cẫng lên và reo hò mừng rỡ. Hầu như tất cả những ai từng đến quán bar ở trường đại học cũng đều từng gặp người như vậy – cô nàng “Woo”. Người luôn “Woo” lên sau khi uống cạn ly tequila bé xíu.
Sau khi cô nàng “Woo” chơi xong phần của mình, vòng tiếp theo lại bắt đầu.
“MỘT CHIẾC BÀN BI-A!”
H
ọ hàng của tôi có một chiếc bàn bi-a. Nó đắt đến mức nào nhỉ? “800 đô-la!” tôi nói.
Những người chơi khác dần ra giá cao hơn. Drew công bố mức giá bán lẻ: 1.100 đô-la. Những người chơi khác đều đoán giá quá cao. “Alex!” Drew nói. “Mời bạn lên đây!”
Tôi chạy lên sân khấu. Drew liếc nhìn lô-gô USC trên chiếc áo sơ mi đỏ của tôi. “Rất vui được gặp bạn,” anh ấy nói. “Bạn học USC à? Không
biết bạn học ngành gì?”
“Quản trị kinh doanh,” tôi nói mà không cần nghĩ. Đó là một nửa sự thật: Tôi cũng học cả quản trị kinh doanh. Nhưng tại sao tôi lại chọn không nhắc tới dự bị y khoa khi đứng trước ống kính truyền hình? Có lẽ tôi hiểu rõ bản thân hơn những gì tôi muốn thừa nhận. Nhưng tôi không có thời gian để đào sâu suy nghĩ, bởi vì Chúa tivi đã tiết lộ giải thưởng.
“MỘT BỒN TẮM SPA!”
Đ
ó là một bồn tắm nước nóng gắn đèn LED, có thác nước trang trí và được thiết kế dành cho sáu người. Đối với một sinh viên năm nhất, giải thưởng này quý như vàng. Nhưng làm sao tôi có thể nhét vừa nó vào căn phòng ký túc? Tôi cũng không biết nữa.
Tôi được xem tám mức giá. Nếu tôi chọn đúng, bồn tắm spa sẽ thuộc về tôi. Tôi đoán giá của nó là 4.912 đô-la. Nhưng giá đúng là… 9.878 đô-la.
“Alex, ít nhất bạn đã có một chiếc bàn bi-a,” Drew nói. Anh ấy nhìn vào ống kính máy quay. “Xin quý vị hãy nán lại. Chúng ta sẽ đến với phần Bánh xe may mắn!”
Chương trình chuyển sang phần quảng cáo. Các trợ lý sản xuất đẩy một bánh xe cao 4,5m lên sân khấu. Nó trông giống một chiếc máy quay xổ số khổng lồ được bao phủ bởi dây đèn lấp lánh.
“Ồ, xin lỗi,” tôi quay về phía một người trợ lý và nói. “Xin lỗi cho tôi hỏi một chút. Ai sẽ là người quay bánh xe này?”
“Ai quay? Chính là cậu đấy.”
Ba người chơi chiến thắng ở vòng đầu sẽ quay Bánh xe may mắn. Trên bánh xe ghi 20 con số: Mỗi số đều là bội của 5, số cao nhất là 100.
Ai quay được số cao nhất sẽ được vào vòng cuối cùng. Người nào quay được đúng số 100 còn được nhận thêm một phần thưởng bằng tiền mặt. Nhạc nền nổi lên, tôi chạy đến vị trí của mình, đứng giữa Quần bò
của mẹ và Cô nàng Woo. Drew Carey bước tới và nâng mic giới thiệu. “Chào mừng các bạn đã trở lại!”
Quần bò của mẹ bắt đầu trước. Cô bước lên phía trước, nắm lấy bánh xe và… TÍCH, TÍCH, TÍCH… 80. Khán giả reo hò và ngay cả tôi cũng biết rằng đó là một con số ngoạn mục.
Tôi tiến lên trước, nắm lấy bánh xe rồi kéo xuống… TÍCH, TÍCH, TÍCH… 85! Đám đông vỡ òa, tiếng ồn lớn đến mức có thể khiến trần nhà rung chuyển.
Cô nàng Woo tiến lên trước, quay và… 55. Tôi vừa định ăn mừng thì chợt nhận ra khán giả bỗng trở nên yên lặng. Drew Carey cho cô ấy quay thêm lần nữa. Tôi biết trò này giống như chơi bài black-jack. Nếu tổng hai lần quay lớn hơn tôi nhưng không vượt quá 100, cô ấy sẽ là người chiến thắng. Cô ấy quay thêm lần nữa và… lại là 55.
“Alex!” Drew reo lên. “Bạn là người bước vào Vòng đặc biệt! Hãy chọn giá đúng sẽ trở lại sau ít phút.”
Tôi được dẫn sang một bên, chờ nhóm người chơi mới chiến đấu để xem ai sẽ là đối thủ của tôi ở vòng cuối. Sau 20 phút, tôi đã biết kết quả cuối cùng. Tên cô ấy là Tanisha, người có một phần chơi đầy ngoạn mục, như thể việc duy nhất cô ấy làm là dạo quanh siêu thị để nghiên cứu giá cả. Cô ấy thắng một bộ hành lý trị giá 1.000 đô-la, một chuyến du lịch Nhật Bản trị giá 10.000 đô-la, và thậm chí còn quay được số 100 hoàn hảo. Đấu với Tanisha chẳng khác nào David đấu với Goliath5, có điều David này đã quên mang vũ khí.
Trong thời gian nghỉ quảng cáo trước vòng cuối, tôi chợt nhận ra mình chưa từng xem chương trình đến tận phần thi này. Thêm vào đó,
chưa có người chơi nào cho tôi lời khuyên về phần thi này vì chẳng ai nghĩ tôi có thể đi xa đến thế.
Tanisha bước về phía tôi. Tôi đưa tay ra bắt tay với cô ấy. “Chúc bạn may mắn,” tôi nói.
Cô ấy nhìn tôi từ trên xuống dưới. “Phải rồi, bạn hẳn sẽ cần may mắn.”
Cô ấy nói đúng. Tôi cần sự giúp đỡ ngay lập tức, thế là tôi tiến về phía Drew Carey và giơ tay lên. “Drew, tôi rất thích chương trình Whose Line Is It Anyway (tạm dịch: Rút cục là lời của ai) của anh!” tôi vươn tay định ôm nhưng anh ấy lùi lại và ngượng ngùng vỗ vai tôi.
“Drew, không biết anh có thể giải thích cho tôi luật chơi của vòng thi Show-Room Showdown không?”
“Trước tiên,” Drew nói, “tên vòng thi là Showcase Showdown.” Anh ấy giải thích cho tôi như thể đang giải thích cho một học sinh mẫu giáo, và bài nhạc chủ đề lại lần nữa nổi lên. Tôi lao về bục chơi của mình. Sáu chiếc máy quay to như súng máy chĩa thẳng vào mặt tôi. Ánh sáng trắng chói mắt rọi thẳng từ trên xuống. Bên trái tôi là Tanisha đang thoải mái nhảy múa. Trời, tối nay tôi lại phải đến thư viện học tiếp. Bên phải tôi là Drew Carey, đang vừa tiến về phía trước vừa sửa lại cà-vạt của mình. Chúa ơi, mẹ sẽ giết tôi mất. Nhạc nổi lên to hơn. Tôi chợt nhìn thấy bà lão đã véo má mình lúc trước. Tập trung, Alex, tập trung nào. “Chào mừng quý vị trở lại với chương trình!” Drew nói. “Bên cạnh tôi là Alex và Tanisha. Chúng ta sẽ bắt đầu phần thi ngay bây giờ. Chúc hai bạn may mắn.”
“CÁC BẠN CÓ MUỐN ĐI CHUYẾN TÀU LƯỢN SIÊU TỐC ĐẦY MẠO HIỂM KHÔNG? GIẢI THƯỞNG ĐẦU TIÊN, MỘT CHUYẾN VUI CHƠI TẠI CÔNG VIÊN GIẢI TRÍ MAGIC MOUNTAIN Ở CALIFORNIA!”
ới tất cả sự phấn khích, tôi dường như chẳng nghe được thêm điều g V
nữa. Một chiếc vé vào cửa của công viên giải trí có thể đắt đến mức nào? 50 đô-la?Tôi không biết thật ra đó là một gói VIP, với xe limousine đưa đón, vé ưu tiên, ăn uống trọn gói và dành cho hai người.
Về giải thưởng thứ hai, tất cả những gì tôi nghe thấy là “vân vân và vân vân, một chuyến du lịch tới Florida!” Tôi thậm chí còn chưa từng mua vé máy bay. Giá vé máy bay là bao nhiêu nhỉ? 100 đô-la? Không… vài trăm đô-la? Và tôi lại bỏ lỡ chi tiết chuyến đi bao gồm tiền thuê xe và năm đêm ở khách sạn hạng nhất.
“THÊM NỮA, BẠN SẼ TRÔI KHÔNG TRỌNG LƯỢNG VỚI TRẢI NGHIỆM VÔ TRỌNG!”
N
ghe cứ như một trải nghiệm ở lễ hội. Giá của nó có thể là bao nhiêu? Lại khoảng 100 đô-la? Về sau, tôi phát hiện ra đây là cách NASA đào tạo phi hành gia vũ trụ của mình. 15 phút trải nghiệm không trọng lượng có giá 500 đô-la.
“VÀ CUỐI CÙNG… CUỘC PHIÊU LƯU TRÊN BIỂN LỚN, VỚI CHIẾC DU THUYỀN TUYỆT VỜI NÀY!”
C
ánh cửa mở ra, một siêu mẫu vẫy tay, phần thưởng chính là một chiếc du thuyền màu trắng ngọc trai. Sau khi bình tĩnh lại và quan sát kỹ hơn, tôi nhận thấy chiếc du thuyền có vẻ hơi nhỏ. 4.000, không 5.000 đô-la là tối đa? Một lần nữa, tôi không nghe thấy rằng đó là một chiếc du thuyền Catalina Mark II dài gần 5,5m với một toa moóc và một buồng ngủ ở bên trong.
“THẮNG BỘ GIẢI THƯỞNG NÀY, BẠN SẼ KHÔNG CÓ BẤT CỨ MỘT PHÚT GIÂY BUỒN CHÁN NÀO VỚI CHUYẾN ĐI CHƠI Ở MAGIC MOUNTAIN, KỲ NGHỈ Ở FLORIDA VÀ CHIẾC DU THUYỀN MỚI CỨNG. TẤT CẢ SẼ LÀ CỦA BẠN NẾU BẠN CHỌN GIÁ ĐÚNG!”
T
iếng hò reo của khán giả vang dội khắp trường quay. Những chiếc máy quay không ngừng di chuyển qua lại. Khi nhẩm đếm tổng giá trị của bộ giải thưởng, một con số chợt hiện lên trong đầu tôi, tôi cảm giác con số đó có vẻ đúng. Tôi rướn người về trước, nắm lấy mic và bằng tất cả sự tự tin, tôi nói: “6.000 đô-la, Drew!”
Một sự im lặng chết chóc bao trùm cả khán phòng.
Tôi đứng đó, dường như cả mấy phút, băn khoăn không hiểu tại sao khán giả bỗng trở nên yên lặng. Rồi tôi nhận ra Drew Carey vẫn chưa chốt câu trả lời. Tôi hướng về phía anh ấy và trông anh ấy bối rối đến điếng người. Cuối cùng thì tôi cũng hiểu vẻ mặt đó có nghĩa gì. Tôi nhún vai, cầm mic và lúng túng nói: “Tôi… chỉ đùa thôi?”
Khán giả rộ lên một tràng pháo tay. Drew nhanh chóng hồi sinh và hỏi tôi câu trả lời thực sự là gì. Hừm, đó chính là câu trả lời thực sự của tôi. Tôi nhìn chiếc du thuyền, rồi lại nhìn khán giả. “Mọi người, xin hãy giúp tôi!”
Những tiếng la hét của họ cộng hưởng với nhau thành tiếng gầm rú inh tai.
“Alex, chúng tôi cần một câu trả lời,” Drew hối thúc.
Khán giả liên tục hô lên những con số, nhưng tôi hầu như không nghe được gì ngoài một âm th.
“Alex, chúng tôi cần câu trả lời.”
Tôi nắm lấy mic. “Drew, tôi sẽ nghe theo khán giả. 3.000 đô-la!”
Drew lập tức nói: “Bạn biết là có sự khác biệt lớn giữa 3.000 đô-la và 30.000 đô-la chứ?”
“Dĩ nhiên rồi! Tôi chỉ đang đùa với anh thôi,” tôi giả vờ như vừa nói vừa nghĩ. “Tôi cảm thấy giá rơi vào khoảng 20.000 đô-la. Cao hơn 20.000?”
Khán giả hò reo ĐÚNG RỒI!
“30.000?”
ĐÚNG RỒIIIII!
“Thế 29.000 đô-la thì sao?”
KHÔNGGGGG!
“Được rồi,” tôi vừa nói vừa nhìn Drew. “Khán giả nói 30.000 đô-la, vậy tôi đặt 30.000 đô-la.”
Drew Carey chốt mức giá.
“Tanisha,” anh ấy nói. “Đây là bộ sản phẩm của bạn. Chúc bạn may mắn.”
Cô ấy có vẻ rất tự tin và thoải mái. Tanisha không ngừng nhảy múa; còn tôi thì không ngừng đổ mồ hôi.
“MỘT CHIẾC ATV, MỘT CHUYẾN THÁM HIỂM VƯỢT ĐỊA HÌNH Ở ARIZONA, VÀ MỘT CHIẾC XE TẢI MỚI CỨNG, TẤT CẢ SẼ LÀ CỦA BẠN NẾU BẠN CHỌN GIÁ ĐÚNG!”
C
ô ấy ra giá, và đã đến thời điểm quyết định.
“Tanisha, chúng ta sẽ bắt đầu với bạn,” Drew nói. “Một chuyến du lịch đến Phoenix, Arizona, và một chiếc Dodge Ram 2011. Bạn đoán giá 28.999 đô-la. Giá của bộ sản phẩm là… 30.332 đô-la. Chênh lệch 1.333 đô-la!”
Tanisha ngửa người về sau và giơ hai tay lên trời.
Được rồi, tôi nghĩ, tôi vẫn còn 24 giờ trước bài thi cuối kỳ đầu tiên. Nếu tôi lái xe từ trường quay đến thẳng thư viện, tôi sẽ có 6 tiếng để ôn sinh học, 3 tiếng để…
Drew tiết lộ giá cho bộ sản phẩm của tôi và khán giả bùng nổ trận hò reo vang dội nhất trong cả ngày. Các nhà sản xuất chương trình ra hiệu cho tôi cười. Tôi rướn người để kiểm tra giá hiện trên bục chơi. Tôi đã đoán 30.000 đô-la. Giá đúng là… 31.188 đô-la.
Tôi thắng Tanisha, với 145 đô-la khác biệt.
Mặt tôi chuyển từ khiếp sợ trước ngày thi cuối kỳ sang kích động như vừa trúng xổ số. Tôi nhảy khỏi bục chơi, đập tay với Drew, ôm các siêu mẫu và chạy đến chỗ chiếc du thuyền.
Drew Carey xoay một vòng rồi lại nhìn vào máy quay.
“Cảm ơn quý vị đã xem chương trình Hãy chọn giá đúng. Tạm biệt và hẹn gặp lại!”
Chương ba
Phòng chứa đồ
T
ôi bán chiếc du thuyền cho một tay buôn với giá 16.000 đô-la, số tiền tương đương cả triệu đô-la với một sinh viên đại học. Tôi cảm thấy mình thật giàu có, giàu có đến mức tôi liên tục mua đồ ăn ở Chipotle để chiêu đãi bạn bè – guacamole miễn phí cho tất cả mọi người! Nhưng sau kỳ nghỉ, khi tôi quay lại trường cho kỳ học mùa xuân, tiệc vui cuối cùng cũng đến lúc tàn. Tôi khó có thể tập trung vào các lớp học y khoa dự bị khi tôi luôn tưởng tượng mình được gặp gỡ và học hỏi từ Bill Gates thay vì ngồi chôn chân tại trường học. Tôi đếm từng ngày cho đến mùa hè, khi rốt cục tôi cũng có thể tập trung vào sứ mệnh của mình.
Trước khi tan trường, tôi có một cuộc gặp định kỳ với cố vấn học tập của mình. Cô ấy nhấp chuột máy tính và nhìn hết lượt bảng điểm của tôi, nghiên cứu kỹ những mục chưa đạt yêu cầu. “Ồ, anh Alex, chúng ta có một vấn đề nhỏ.”
“Vấn đề gì ạ?”
“Có vẻ như anh đang thiếu tín chỉ. Nếu muốn tiếp tục theo học y khoa dự bị, anh cần học bổ sung môn hóa trong mùa hè này.” “Không!” tôi buột miệng thảng thốt. “Ý em là em đã có kế hoạch khác.”
Cố vấn học tập của tôi từ từ xoay ghế ngồi, quay lưng lại với máy tính và nhìn tôi chằm chằm.
“Không, không, anh Alex. Sinh viên y khoa dự bị không có kế hoạch khác. Một là anh đăng ký học môn hóa học trước thứ Tư tuần sau, hoặc sẽ không còn là sinh viên y khoa dự bị. Hoặc anh đạt yêu cầu, hoặc không.”
Tôi lết về phòng ký túc xá. Tất cả mọi thứ thân quen vẫn còn đó: trần nhà màu trắng, bức áp phích đội bóng bầu dục USC và mấy cuốn sách sinh học. Tuy nhiên, lần này tôi cảm thấy có gì khác lạ. Tôi ngồi vào bàn học và viết một bức email cho bố mẹ để nói với họ rằng tôi sẽ chuyển từ chuyên ngành y khoa dự bị sang kinh doanh. Nhưng dù rất cố gắng, tôi không sao nghĩ được từ gì. Đối với hầu hết những người khác, việc thay đổi chuyên ngành chẳng có gì to tát. Nhưng với tôi, khi bao nhiêu năm bố mẹ luôn nói rằng ước mơ lớn nhất của họ là được dự lễ tốt nghiệp tại đại học y khoa của tôi, mỗi lần tay gõ xuống bàn phím, tôi cảm thấy mình đang dập tắt từng tia hy vọng của họ.
Tôi quyết tâm viết xong bức thư và nhấn gửi đi. Tôi chờ phản hồi từ mẹ, nhưng đợi mãi chẳng thấy. Tôi gọi điện, bà không trả lời. Cuối tuần đó, tôi lái xe về thăm gia đình. Khi vừa bước qua cửa chính, tôi thấy mẹ đang ngồi trên trường kỷ, sụt sịt, trong tay bà cầm một mảnh giấy ăn bị vò nát. Bố tôi thì ngồi bên cạnh. Các chị em gái của tôi, Talia và Briana, cũng ở phòng khách, nhưng khi vừa nhìn thấy tôi thì họ đều tản đi.
“Mẹ, con xin lỗi, nhưng mẹ phải tin con.”
“Nếu không trở thành bác sĩ,” bà nói, “vậy con định làm gì với cuộc đời mình?”
“Con không biết.”
“Con định làm gì với tấm bằng kinh tế?”
“Con không biết.”
“Vậy con định làm gì để sống?”
“Con không biết.”
“Con nói đúng: Con không biết. Con không biết gì hết. Con không biết cuộc sống khắc nghiệt như thế nào. Con không biết bắt đầu cuộc sống mới ở một đất nước xa lạ với hai bàn tay trắng như thế nào. Nhưng mẹ thì biết rất rõ, nếu con trở thành bác sĩ, nếu con có thể cứu người, con có thể ở bất cứ nơi nào. Phiêu lưu không phải là một nghề. Con không thể khiến thời gian quay trở lại.”
Tôi nhìn bố, hy vọng ông sẽ ủng hộ mình, nhưng ông chỉ lắc đầu. Bầu không khí căng thẳng kéo dài hết cuối tuần. Tôi biết mình cần phải làm gì. Và tôi đã làm việc mà tôi vẫn luôn làm. Tôi gọi cho bà tôi.
Bà giống như người mẹ thứ hai của tôi. Khi còn bé, nơi tôi yêu thích nhất chính là nhà của bà. Tôi cảm thấy an toàn khi ở đó. Số điện thoại đầu tiên tôi thuộc lòng là số của bà. Mỗi khi tranh luận với mẹ, tôi sẽ nêu quan điểm của mình với bà và bà sẽ giúp mối quan hệ giữa hai mẹ con tôi giảm bớt căng thẳng. Vì vậy, tôi nghĩ bà sẽ hiểu mong muốn của tôi.
“Bà nghĩ rằng,” bà nói, giọng bà nhẹ nhàng rót vào tai tôi, “… mẹ con nói đúng. Chúng ta đến nước Mỹ và hy sinh mọi thứ không phải để con lại ném đi tất cả.”
“Con không ném thứ gì cả. Con không hiểu vấn đề này có gì to tát.”
“Mẹ con muốn cho con một cuộc sống mà tất cả chúng ta chưa từng có. Người ta có thể dễ dàng lấy đi tiền tài và doanh nghiệp của
con – nhưng nếu con làm bác sĩ, không ai có thể cướp đi tri thức của con.”
“Và, nếu con không thích y khoa,” bà nói tiếp “thì cũng không sao. Nhưng chỉ tấm bằng đại học không đủ để con có tiếng nói ở đất nước này. Con cần phải có bằng thạc sĩ.”
“Nếu chuyện chỉ có vậy thì con nên lấy bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh hay học trường luật.”
“Nếu con nhất quyết muốn theo con đường đó, vậy cũng không sao. Nhưng bà cần nhắc con điều này: Bà không muốn con trở thành một trong những đứa trẻ người Mỹ ‘lạc lối’ và cố gắng tìm kiếm bản thân bằng cách chu du thế giới.”
“Con chỉ thay đổi chuyên ngành thôi! Và con vẫn sẽ lấy bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh hay thứ gì đó tương tự.”
“Được rồi, nếu con quyết định như vậy thì để bà nói chuyện với mẹ con. Nhưng bà cần con hứa rằng dù có chuyện gì, con cũng nhất định học xong đại học và học lên thạc sĩ.”
“Vâng, con hứa.”
“Không được,” bà đanh giọng. “Đừng nói với bà: ‘Vâng, con hứa.’ Hãy nói với bà rằng con jooneh man sẽ lấy bằng thạc sĩ.” Jooneh man là lời hứa trang trọng nhất trong tiếng Ba Tư. Bà yêu cầu tôi phải thề bằng chính mạng sống của bà.
“Vâng, được. Con xin thề.”
“Không,” bà nói. “Con phải nói: jooneh man.”
“Vâng. Jooneh man.”
Thời tiết ấm dần lên và cuối cùng mùa hè cũng đến. Tôi dọn dẹp phòng ký túc và về nhà. Nhưng ngay ngày đầu tiên trở về, tôi đã
cảm thấy bồn chồn. Nếu tôi muốn nghiêm túc với sứ mệnh của mình, tôi cần một nơi làm việc nghiêm túc.
Tối muộn hôm đó, tôi lấy chìa khóa xe mẹ để trên tủ đầu giường, lái xe đến văn phòng của bà, leo lên phòng chứa đồ rồi bật đèn. Nó nhỏ xíu và phủ đầy mạng nhện. Căn phòng chất đầy những tủ ngăn kéo đựng đống tài liệu cũ, cả tá hộp chứa đồ mục nát với một chiếc ghế tựa hỏng nằm chỏng chơ cùng chiếc bàn khập khiễng.
Tôi chuyển mấy hộp chứa đồ xuống xe và đặt chúng trong hầm để xe của gia đình. Buổi sáng hôm sau, tôi chuyển mấy giá sách vào phòng, hút bụi và dán một tấm băng rôn USC trên cửa ra vào. Sau đó, tôi lắp thêm một cái máy in, tự in và cắt danh thiếp có ghi tên cùng số điện thoại của mình. Ngồi xuống ghế, tôi đặt hai chân lên bàn và mỉm cười – tôi cảm giác như mình đang ngồi trong văn phòng ốp kính của một tòa cao ốc ở Manhattan. Mặc dù trên thực tế, nhìn nó giống như gầm cầu thang của Harry Potter hơn.
Trong tuần đầu tiên ấy, hàng chục thùng các-tông từ Amazon được giao tới. Tôi xé vỏ hộp và lấy ra những cuốn sách tôi đã mua bằng số tiền thưởng của Hãy chọn giá đúng. Tôi xếp tất cả sách về Bill Gates thành một hàng. Một hàng khác là sách về các chính trị gia, rồi một hàng về doanh nhân, nhà văn, vận động viên, nhà khoa học và nhạc sĩ. Tôi dành hàng giờ ngồi trên sàn để sắp xếp từng cuốn sách lên giá, mỗi cuốn sách như một viên gạch, tạo dựng nền tảng cho tôi.
Ở hàng trên cùng, tôi chỉ đặt một cuốn sách, bìa sách hướng ra ngoài giống như trong một ngôi đền thiêng: Delivering Happiness (Tỷ phú bán giày)6 của tác giả Tony Hsieh (Hsieh có vẻ phát âm là shay), CEO của Zappos. Khi cơn khủng hoảng “tôi muốn làm gì với
cuộc đời mình” lần đầu ập xuống, tôi đang làm tình nguyện viên trong một buổi họp báo, nơi người ta phát sách của anh ấy. Tôi không hề biết anh ấy là ai hay công ty của anh làm về lĩnh vực gì, nhưng sinh viên đại học chẳng bao giờ nói “không” với đồ miễn phí nên tôi cũng lấy một cuốn. Về sau, khi bố mẹ cáu gắt với quyết định thay đổi chuyên còn tôi thì giằng xé không biết liệu quyết định của mình là đúng hay sai, tôi vô tình nhìn thấy cuốn sách của Tony Hsieh trên bàn. Vì tựa đề của cuốn sách có từ “hạnh phúc”, tôi lựa chọn đọc nó với mục đích giải trí. Nhưng rồi tôi không thể rời mắt khỏi cuốn sách. Càng đọc về hành trình của Tony Hsieh – về những bước ngoặt trong suy nghĩ của anh trước những khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua – càng khiến tôi cảm thấy bản thân tiềm ẩn nguồn sức mạnh lớn lao nào đó mà mình chưa nhận thức được. Đọc về ước mơ của anh đã tiếp thêm động lực để tôi theo đuổi ước mơ của chính mình. Đó là lý do tôi đặt cuốn sách lên giá trên cùng. Mỗi khi cần nhắc nhở bản thân rằng mọi việc đều có thể thực hiện, tôi chỉ cần ngước lên giá sách và nhìn nó.
Đến khi hoàn thành những bước sửa sang cuối cùng cho phòng chứa đồ, tôi chợt nhận ra mình chưa từng tự hỏi rốt cục ai là những người “thành công nhất”. Làm thế nào để tôi quyết định mình sẽ phỏng vấn ai cho sứ mệnh của mình?
Tôi gọi điện cho những người bạn tốt nhất của mình, giải thích với họ về vấn đề tôi đang gặp phải và nhắn họ đến gặp tôi ở phòng chứa đồ. Tối hôm đó, họ bước vào phòng, lần lượt từng người như khi đang giới thiệu đội hình thi đấu trong một trận tranh tài.
Corwin đến đầu tiên: mái tóc rối bù của cậu rũ qua vai, trên tay thì cầm một chiếc máy quay phim. Chúng tôi gặp nhau ở USC, nơi
cậu theo học ngành dựng phim. Tôi cảm giác lần nào bắt gặp cũng thấy cậu đang ngồi thiền hoặc nằm rạp trên mặt đất, nhìn chằm chằm vào kính ngắm của máy quay. Corwin là cặp mắt sáng tạo của chúng tôi.
Tiếp theo là Ryan: chăm chú vào màn hình điện thoại và nghiên cứu kết quả thống kê của giải bóng rổ nhà nghề Mỹ như thường lệ. Chúng tôi gặp nhau hồi lớp bảy, trong lớp học toán và cậu ấy chính là lý do tôi có thể thi đỗ. Cậu ấy là người giỏi số má nhất trong nhóm.
Tiếp theo đến Andre: cũng đang nhìn xuống điện thoại, với tư cách một người bạn của Andre, tôi chắc chắn cậu chàng đang nhắn tin cho cô bạn gái nào đó. Chúng tôi trở thành bạn bè khi 12 tuổi, và từ lúc đó, tôi đã biết cậu là một tay sát gái.
Tiếp đến là Brandon: đang cầm và đọc một cuốn sách bìa màu da cam khi cậu bước vào. Brandon có thể đọc hết một cuốn sách chỉ trong một ngày. Cậu là bách khoa toàn thư sống của nhóm.
Và cuối cùng là Kevin: với nụ cười rạng rỡ, sự xuất hiện của cậu khiến cả căn phòng bừng lên sức sống mãnh liệt. Kevin chính là năng lượng gắn kết cả nhóm. Cậu chính là hiện thân của ngọn lửa Olympic.
Chúng tôi ngồi xuống sàn và bắt đầu suy nghĩ: Nếu có thể tự sáng tạo ra trường đại học của riêng mình, chúng tôi mong muốn ai sẽ là giảng viên?
“Kiểu như, Bill Gates sẽ dạy môn kinh tế,” tôi nói. “Lady Gaga dạy âm nhạc…”
“Mark Zuckerberg dạy về vi tính,” Kevin reo lên.
“Warren Buffett là môn tài chính,” Ryan nói.
Chúng tôi tiếp tục thảo luận suốt nửa tiếng. Người duy nhất chưa nêu bất kỳ cái tên nào là Brandon. Khi tôi hỏi cậu đang nghĩ gì, cậu chỉ giơ quyển sách có bìa màu da cam lên.
“Đây là người mà ông cần nói chuyện,” Brandon nói, ngón tay chỉ vào tên tác giả. “Tim Ferriss.”
“Ai cơ?” tôi hỏi.
Brandon đưa cuốn sách cho tôi.
“Đọc đi,” cậu nói. “Anh ấy sẽ trở thành người hùng của ông.” Chúng tôi tiếp tục suy nghĩ – Steven Spielberg môn điện ảnh, Larry King môn truyền thông và chẳng bao lâu sau, danh sách đã hoàn thiện. Sau khi bạn bè ra về, tôi viết lại những cái tên đó lên một tấm thẻ và đặt nó vào trong ví để tiếp thêm động lực cho bản thân. Sáng hôm sau, tôi nhảy khỏi ra giường, cảm thấy tràn đầy quyết tâm hơn bao giờ hết. Tôi lấy tấm thẻ ra khỏi ví và chăm chú nhìn vào những cái tên. Sự tự tin rằng đến cuối hè tôi có thể phỏng vấn tất cả những người nổi tiếng đó đã tiếp cho tôi thêm động lực. Nếu lúc đó tôi biết trước cuộc hành trình sẽ thế nào – và khiến tôi nản chí và tuyệt vọng ra sao – có lẽ tôi đã chẳng bắt đầu. Nhưng thực ra, đó lại là lợi thế của sự ngây thơ.
BƯỚC HAI
CHẠY VÀO NGÕ HẺM
Chương bốn
Trò chơi Spielberg
T
ay lăm lăm tờ danh sách, tôi xông thẳng đến phòng chứa đồ, ngồi vào bàn làm việc và mở máy tính xách tay. Nhưng đến khi nhìn chăm chăm vào màn hình, cảm giác ớn lạnh và trống rỗng đột nhiên ập tới. Ý nghĩ duy nhất trong đầu tôi là… Giờ thì sao?
Đây là lần đầu tiên không giáo viên nào nhắc tôi phải đến lớp. Không ai nói với tôi rằng tôi phải học gì và bài tập về nhà là gì. Tôi ghét phải thực hiện theo yêu cầu được giao, nhưng khi thiếu chúng, tôi mới nhận ra mình phụ thuộc vào chúng đến mức nào.
Mãi về sau, tôi mới biết những giây phút này quan trọng đến mức nào với một người khi bắt đầu làm điều gì đó hoàn toàn mới. Thường thì phần khó khăn nhất của việc theo đuổi một ước mơ không phải là việc bạn có đạt được nó hay không – mà là việc vượt qua nỗi sợ những điều bất định khi bạn không có kế hoạch cụ thể. Nếu bạn có một người thầy hay sếp nói cho bạn biết nhiệm vụ của mình, cuộc sống hẳn sẽ dễ dàng hơn nhiều. Nhưng chẳng có ai đạt được ước mơ từ sự an nhàn của những điều chắc chắn.
Vì không biết làm thế nào để bắt đầu các cuộc phỏng vấn, tôi đã dành cả ngày để gửi email cho những người mình quen biết hỏi xin lời khuyên. Tôi viết cho các giảng viên, cho bố mẹ hoặc bạn bè – bất cứ người nào có vẻ có liên quan mà tôi biết. Người đầu tiên đồng ý gặp tôi là một nhân viên phòng hành chính ở USC. Chúng tôi gặp
nhau tại một quán cà phê trong khuôn viên trường một vài ngày sau đó. Khi cô ấy hỏi tôi muốn phỏng vấn ai, tôi lấy tấm thẻ danh sách ra khỏi ví và đưa cho cô ấy. Cô lướt mắt nhìn những cái tên và cười.
“Lẽ ra tôi không nên nói điều này với cậu,” cô ấy hạ giọng, “nhưng hai tuần tới Steven Spielberg sẽ tham dự một sự kiện gây quỹ tại trường điện ảnh. Sinh viên không được tham dự, nhưng…”
Mãi về sau tôi mới biết tầm cỡ của quy định này. Trong ngày đầu tiên đến trường, tất cả sinh viên ngành điện ảnh đều được hiệu trưởng cảnh báo họ sẽ không bao giờ được tham dự các sự kiện gây quỹ và thuyết phục nhà tài trợ. Nhưng lúc đó tôi không hề hay biết điều này, vì vậy câu hỏi duy nhất trong đầu tôi là: “Làm thế nào để em vào được đó?”
Đó là một sự kiện nhỏ, cô ấy nói, và nếu tôi mặc một bộ vét lịch sự, cô ấy có thể giúp tôi tham dự với danh nghĩa “trợ lý” của cô ấy. “Này, tôi không dám chắc có thể xếp cậu ngồi cạnh Spielberg,” cô ấy nói thêm, “nhưng việc giúp cậu có mặt ở đó không quá khó khăn. Sau đó, tất cả phụ thuộc vào chính cậu. Vì vậy, nếu tôi là cậu, tôi sẽ chuẩn bị thật kỹ. Giờ thì hãy về nhà và xem tất cả các bộ phim của Spielberg cũng như đọc mọi điều có thể về ông ấy.” Tôi đã làm đúng như thế. Ban ngày, tôi nghiền ngẫm cuốn tiểu sử dài 600 trang, còn buổi tối thì xem phim của ông. Ngày hôm đó cuối cùng cũng đến. Tôi mở tủ quần áo, khoác lên người bộ vét duy nhất mà tôi có và xuất phát.
KHUÔN VIÊN TRƯỜNG ĐIỆN ẢNH đã trở thành một thứ khác xa với định nghĩa trường học thông thường. Thảm đỏ trải dọc lối đi, những chiếc bàn cocktail chân cao xếp dọc theo khu vườn được tỉa tót gọn gàng, những nhân viên phục vụ trong bộ vét trang trọng, cầm
khay đồ khai vị uyển chuyển qua lại mời khách. Tôi đứng giữa đám đông nhà tài trợ, lắng nghe hiệu trưởng tuyên bố bắt đầu sự kiện. Cô hiệu trưởng không cao hơn chiếc bục là mấy, nhưng sự hiện diện của cô thu hút mọi sự chú ý của đám đông.
Tay run rẩy, tôi chỉnh lại bộ vét và tiến lên phía trước. Đứng ngay trước mặt tôi chừng 3m, vai kề vai là Steven Spielberg, George Lucas, đạo diễn phim Star Wars (Chiến tranh giữa các vì sao), Jeffrey Katzenberg, CEO hãng Dreamworks Animation và diễn viên Jack Black. Lúc mới vào, tôi chỉ hồi hộp, nhưng giờ thì tôi hoàn toàn hoảng loạn. Làm sao có thể tiếp cận Spielberg khi ông đang nói chuyện với người đã tạo ra hai nhân vật Darth Vader và Luke Skywalker nổi tiếng? Tôi nên nói gì? “Xin lỗi, George, xin ông có thể tránh sang một bên được không” ư?
Xuôi theo bài diễn văn của hiệu trưởng, tôi tiếp tục tiếp cận gần hơn. Spielberg lúc này ở gần đến mức tôi có thể nhìn thấy đường may trên chiếc áo vét màu xám than chì của ông. Ông đội chiếc mũ nồi lưỡi trai kiểu cũ, che đi mái đầu lơ thơ tóc, những vết đồi mồi hiền hậu xuất hiện quanh mắt ông. Chính là ông ấy – người đứng đằng sau những tuyệt phẩm như E.T., Jurassic Park (tạm dịch Công viên khủng long), Indiana Jones, Jaws (tạm dịch: Hàm cá mập), Schindler’s List (tạm dịch: Danh sách của Schindler), Lincoln, Saving Private Ryan (tạm dịch: Giải cứu Binh nhì Ryan) – và tất cả những gì tôi cần làm là chờ hiệu trưởng kết thúc bài diễn văn.
Những tràng pháo tay rộ lên, vang vọng khắp sân trường. Tôi cố gắng bước về phía Spielberg, nhưng chân tôi dường như hóa đá. Một khối u chẹn ngay cổ họng khiến tôi chẳng thể thốt nên lời. Tôi
hiểu chuyện gì đang xảy ra. Đây là cảm giác thường thấy khi tôi tiếp cận một bạn nữ mà tôi thích ở trường. Tôi gọi nó là Ngại ngùng. Tôi nhớ lần đầu tiên biết đến Ngại ngùng là khi mới bảy tuổi. Trong giờ ăn trưa, tôi ngồi trên một chiếc bàn ăn dài ở căn-tin trường và nhìn quanh: Ben có khoai tây chiên và bánh ngũ cốc, Harrison có bánh mỳ kẹp thịt gà tây, và đến lượt mình, tôi lấy ra một chiếc hộp nhựa đựng cơm Ba Tư phủ sốt rau xanh cùng đậu tây đỏ hầm. Ngay khi vừa mở nắp, mùi đồ ăn tỏa ra khắp nơi. Lũ trẻ quanh tôi chỉ trỏ và cười nhạo, hỏi có phải tôi ăn trưa với trứng thối không. Từ hôm đó trở đi, tôi giấu hộp cơm trưa trong ba-lô, chờ đến khi chỉ có một mình mới ăn.
Ngại ngùng ban đầu là nỗi sợ bị coi là người khác thường, nhưng tôi càng lớn lên, nó lại càng xuất hiện với nhiều vấn đề hơn. Tôi cảm thấy ngại ngùng khi lũ trẻ ở trường gọi tôi là Banayan béo ú, mỗi lần giáo viên la mắng tôi vì nói khi chưa đến lượt hay mỗi khi bạn nữ cắn môi và lắc đầu từ chối lời thổ lộ rằng tôi thích họ. Những khoảnh khắc này cứ dần tích tụ, cho đến khi Ngại ngùng trở thành một cá thể sống.
Tôi rất sợ bị từ chối và vô cùng xấu hổ khi mắc lỗi. Chính vì thế, Ngại ngùng thường khiến toàn thân tôi tê liệt vào những lúc tồi tệ nhất, khống chế dây thanh quản và biến những từ tôi thốt ra thành tiếng líu nhíu lắp bắp. Và tôi chưa từng bị Ngại ngùng khống chế nhiều như lúc tôi đứng cách Steven Spielberg có vài mét. Tôi nhìn chằm chằm vào ông, cố gắng tìm mọi cách để mở lời. Nhưng trước khi tôi tìm ra, ông đã lướt đi.
Tôi quan sát ông dạo quanh, bắt chuyện hết nhóm này tới nhóm khác, mỉm cười và bắt tay mọi người. Cả buổi tiệc dường như xoay
quanh ông. Tôi nhìn đồng hồ: Tôi vẫn còn một tiếng đồng hồ. Tôi vào nhà vệ sinh nam để táp nước lạnh vào mặt.
Điều an ủi duy nhất là tôi biết có lẽ Spielberg cũng hiểu cảm giác tôi đang trải qua. Vì tôi đang cố gắng chơi ông một trò chơi khăm nho nhỏ.
STEVEN SPIELBERG BẮT ĐẦU LẬP NGHIỆP khi ông ở độ tuổi của tôi. Tôi đã đọc rất nhiều giai thoại khác nhau, nhưng theo như Spielberg thì sự thật là thế này: Ông bước lên một chiếc xe buýt du lịch tới Universal Studios Hollywood, đi lòng vòng xung quanh, sau đó xuống xe, lẻn vào một nhà vệ sinh và biến mất phía sau một tòa nhà. Ông nhìn chiếc xe buýt du lịch lái đi xa dần và dành cả ngày ở phim trường của Universal.
Trong lúc đi lang thang, ông bắt gặp một người đàn ông tên là Chuck Silvers, lúc ấy đang làm việc cho Universal TV. Họ nói chuyện một lúc. Khi Silvers biết Spielberg khao khát trở thành đạo diễn, ông đã tặng Spielberg một vé tham quan phim trường trong ba ngày. Spielberg đi đi về về suốt ba ngày tiếp sau đó, rồi đến ngày thứ tư, ông mặc vét và mang theo chiếc cặp tài liệu của bố mình. Spielberg đi đến cổng, giơ một tay và nói: “Chào Scotty!”– và người bảo vệ vẫy tay đáp lại. Ba tháng tiếp theo, Spielberg ngày ngày đến cổng, vẫy tay và đi vào trong.
Ở phim trường, ông tiếp cận những ngôi sao Hollywood cùng các giám đốc sản xuất và mời họ ăn trưa. Spielberg còn lẻn vào trường quay thu tiếng và phòng biên tập, cố gắng tiếp thu mọi thông tin có thể. Trong mắt tôi, đây chính là cách chàng trai bị trường điện ảnh từ chối làm chủ việc học của mình. Có những ngày ông sẽ nhét
thêm một bộ vét vào cặp, ngủ qua đêm tại khu văn phòng, thay bộ đồ mới vào sáng hôm sau rồi lại đi ra phim trường.
Chuck Silvers về sau trở thành người hướng dẫn của Spielberg. Ông khuyên Spielberg bớt làm mấy chuyện tào lao và quay lại khi có một bộ phim ngắn chất lượng cho ông xem. Bắt đầu làm phim ngắn từ năm 12 tuổi, Spielberg đã bắt tay lên kịch bản cho một bộ phim dài 26 phút tên là Amblin’. Sau nhiều tháng điên cuồng quay và chỉnh sửa, cuối cùng ông cũng gửi bộ phim cho Silvers. Bộ phim tuyệt vời đến mức khiến nước mắt của Silvers đã phải lăn dài trên má.
Silvers cầm điện thoại và gọi cho Sid Sheinberg, Phó giám đốc Sản xuất của Universal TV.
“Sid, tôi muốn anh xem cái này.”
“Tôi có cả một chồng phim chết tiệt ở đây… cố lắm thì chắc phải đến nửa đêm mới có thể ra khỏi chỗ này.”
“Tôi sẽ đặt cuộn phim này lên chồng phim ở buồng chiếu. Anh thực sự nên xem nó tối nay.”
“Anh nghĩ là nó quan trọng đến thế à?”
“Đúng vậy, cực kỳ quan trọng là đằng khác. Nếu anh không xem nó, sẽ có người khác xem.”
Sau khi Sheinberg xem Amblin’, ông đòi gặp Spielberg ngay lập tức.
Spielberg hối hả đến trường quay của Universal và Sheinberg mời ông ký một hợp đồng bảy năm ngay tại chỗ. Và đó là cách Spielberg trở thành đạo diễn trẻ tuổi nhất của một hãng phim lớn tại Hollywood.
Khi đọc câu chuyện đó, tôi nghĩ rằng Spielberg đã chơi “trò kết nối con người” – tạo dựng quan hệ với mọi người ở trường quay. Nhưng từ “tạo dựng quan hệ” khiến tôi nghĩ đến việc trao đổi danh thiếp trong một sự kiện tuyển dụng. Đây không phải là một trò chơi đơn thuần. Đây là Trò chơi Spielberg.
1. Nhảy xuống khỏi xe buýt.
2. Tìm “tay trong” của bạn.
3. Nhờ người đó giúp mình thâm nhập.
Bước quan trọng nhất mà tôi nhận ra chính là tìm được người mang danh “tay trong” – một người trong tổ chức sẵn sàng đặt cược uy tín của mình để giúp bạn bước chân vào đấy. Nếu Chuck Silvers không tặng Spielberg chiếc vé vào cửa ba ngày, hay gọi điện cho Phó giám đốc Sản xuất và thuyết phục ông xem bộ phim, Spielberg sẽ không bao giờ có được hợp đồng đó.
Dĩ nhiên, Spielberg là một thiên tài xuất chúng, nhưng có rất nhiều đạo diễn tham vọng vô cùng tài năng khác. Không phải tự dưng mà ông có được hợp đồng đó trong khi nhiều người khác thì không.
Đó không phải phép lạ. Và đó cũng không phải may mắn. Đó chính là Trò chơi Spielberg.
Tôi nhìn mình trong gương nhà vệ sinh. Tôi biết nếu mình không thể tiếp cận Spielberg khi ông đang đứng trước mặt thì sứ mệnh của tôi sẽ kết thúc ngay trước khi nó bắt đầu.
Tôi lượn quanh buổi tiệc để tìm ông. Lúc Spielberg ở đầu sân bên kia thì tôi chuyển sang phía đối diện. Khi ông dừng lại để bắt chuyện ai đó thì tôi cũng dừng lại và nhìn vào điện thoại. Sau khi
đến quầy bar để lấy một ly Coca, tôi nhìn quanh sân một lượt và chợt thấy bụng quặn thắt – Spielberg đang đi về phía lối ra. Không suy nghĩ nhiều, tôi đặt mạnh ly Coca xuống và đuổi theo ông. Tôi cắt ngang đám đông nhà tài trợ, né những người phục vụ và len lỏi qua các bàn. Spielberg chỉ còn cách lối ra vài bước chân. Tôi đi chậm lại, cố chọn thời khắc hoàn hảo để tiếp cận. Nhưng tôi thực sự không còn thời gian để làm điều đó.
“Xin lỗi, ngài Spielberg. Tên cháu là Alex và cháu là sinh viên trường USC. Cháu có thể… có thể hỏi ngài một câu hỏi trước khi ngài ra xe không?”
Ông dừng chân và quay đầu, lông mày ông nhướn cao, vượt quá cặp kính gọng kim loại. Ông dang hai tay.
Rồi ông ôm chầm lấy tôi.
“Ta đã ở trường hàng giờ và cháu là sinh viên đầu tiên mà ta gặp hôm nay! Rất hân hạnh được nghe câu hỏi của cháu.” Sự nhiệt tình của ông làm cho Ngại ngùng tan chảy. Và trong khi chúng tôi đi đến chỗ người giữ xe, tôi kể với ông về sứ mệnh của mình. Từng câu từng chữ tuôn ra từ trong tiềm thức. Đó không phải là một bài diễn thuyết. Đó là đức tin của tôi.
“Cháu biết chúng ta chỉ mới gặp nhau, thưa ngài Spielberg, nhưng…” – cái u lại khiến cổ họng tôi nghẹn cứng – “ngài sẽ… ngài sẵn lòng thực hiện một buổi phỏng vấn với cháu chứ?”
Ông lại dừng lại, rồi chậm rãi quay về phía tôi. Ông mím môi, đôi mắt nheo lại như cánh cổng sắt nặng nề.
“Bình thường thì ta sẽ từ chối,” ông nói. “Ta không thường nhận lời phỏng vấn, trừ khi gây quỹ hoặc công bố một bộ phim mới.”
Nhưng rồi cặp mắt của ông dịu lại. “Mặc dù bình thường ta sẽ từ chối… nhưng vì lý do nào đó, ta sẽ nói với cháu là có thể.” Ông dừng lại và nhìn lên trời, mắt ông nheo lại, dù trời không nắng lắm. Tôi sẽ chẳng bao giờ biết được lúc đó ông đang nghĩ gì, nhưng rồi ông cũng hạ mắt và nhìn vào tôi chằm chằm. “Hãy thực hiện sứ mệnh của mình,” ông nói. “Hãy dấn thân và thực hiện những cuộc phỏng vấn của cháu. Sau đó, hãy quay lại tìm ta và xem xem chúng ta có thể làm gì.”
Chúng tôi nói chuyện thêm một vài phút nữa rồi ông nói tạm biệt. Ông bước lên xe, nhưng đột ngột quay lại, đối diện với tôi một lần nữa.
“Cháu biết không,” ông nói, còn tôi nhìn ông chăm chú, “có điều gì đó trong cháu nói với ta rằng cháu nhất định sẽ làm được. Ta tin tưởng cháu. Ta tin cháu sẽ làm được.”
Rồi ông gọi trợ lý của mình ra và yêu cầu anh ấy ghi lại thông tin của tôi. Spielberg leo lên xe và lái đi. Trợ lý của ông hỏi xin danh thiếp của tôi nên tôi cho tay vào túi quần sau và lấy ra một trong những tấm danh thiếp mà tôi tự in ở phòng chứa đồ. Một từ duy nhất đột nhiên vang lên.
“KHÔNG!”
Người nói chính là hiệu trưởng trường điện ảnh. Cô vươn tay chen vào giữa hai chúng tôi rồi giật lấy tấm danh thiếp khỏi tay tôi. “Chuyện gì đang xảy ra ở đây?” cô hỏi.
Tôi ước mình có thể bình tĩnh nói: “Ồ, ngài Spielberg yêu cầu trợ lý của mình lấy thông tin của em,” nhưng thay vào đó, tôi chỉ đứng như trời trồng tại chỗ. Tôi liếc mắt nhìn trợ lý của Spielberg, hy vọng anh ấy sẽ giúp tôi giải thích, nhưng ngay khi cô hiệu trưởng vừa
thấy tôi liếc qua phía đó, cô liền ra hiệu cho anh ấy rời đi – tay trắng, không danh thiếp, không số điện thoại hay thậm chí không có cả tên của tôi.
“Lẽ ra cậu nên biết rõ,” cô cáu kỉnh nói, cái nhìn chằm chằm lạnh thấu xương. “Những việc như thế này hoàn toàn bị cấm.” Cô ấy hỏi có phải tôi là sinh viên điện ảnh không, thái độ giận dữ ấy suýt nữa khiến tôi phải giật người lùi lại. Tôi lắp bắp, đến nỗi chính tôi cũng cảm thấy như mình đang thừa nhận đây là lỗi sai của bản thân.
“Tôi đã nói với cậu rồi”, cô đay nghiến, “tôi đã nói ngay từ ngày đầu rằng chúng tôi không dung thứ cho những hành động thế này ở đây!”
Tôi cuống quýt xin lỗi, dù không biết mình phải xin lỗi về việc gì. Tôi nói tất cả những gì có thể để trốn tránh cơn thịnh nộ của cô. Cô hiệu trưởng tiếp tục mắng nhiếc cho đến khi mắt tôi ngấn lệ. Mặc dù cô chỉ cao chưa đến một mét rưỡi, nhưng tôi cảm giác cô ấy sừng sững như một tòa tháp. Một phút sau, cô tức giận bỏ đi.
Nhưng trước khi tôi kịp di chuyển thì cô quay lại và tiến về phía tôi.
Cô nhìn tôi chằm chằm: “Ở đây có quy tắc phải tuân theo.” Cô chỉ tay ra hiệu buộc tôi rời đi.
Chương năm
Núp trong nhà vệ sinh
S
áng hôm sau, tôi thức dậy, giọng nói của cô hiệu trưởng vẫn còn vang vọng bên tai. Mãi đến chiều muộn tôi vẫn chưa thể rũ bỏ hết muộn phiền, thế là tôi lết đến phòng chứa đồ và nhìn giá sách một lượt, cố tìm chút cảm hứng.
Cuốn sách bìa màu da cam nổi bật xuất hiện trước mắt tôi: The 4-Hour Workweek (tạm dịch: Tuần làm việc bốn giờ) của Tim Ferriss. Đó chính là cuốn sách Brandon đã tặng tôi. Tôi cầm nó và ngồi bệt xuống sàn nhà. Ngay khi vừa lật trang đầu tiên, tôi cảm giác như Tim Ferriss đang ngồi bên trò chuyện với mình. Những điều anh viết cuốn hút đến nỗi suốt mấy tiếng tiếp theo, tôi không hề ngẩng đầu lên, trừ lúc với tay lấy bút để đánh dấu những đoạn tôi thích nhất.
Cuốn sách mở màn với cảnh Tim Ferriss thi đấu tại Giải vô địch nhảy Tango thế giới.
Tiếp theo là khoảng thời gian Ferriss tham gia đua xe phân khối lớn ở châu Âu, kick-boxing ở Thái Lan và lặn với bình dưỡng khí ở một hòn đảo tại Panama.
Ngay hai trang sau tôi đọc được một dòng khiến tôi gần như suýt hét lên “Đúng rồi!”: “Nếu bạn đã cầm cuốn sách này lên thì ắt hẳn bạn không muốn ngồi sau bàn làm việc ở văn phòng cho đến năm 62 tuổi.”
Chương hai có tên “Những quy tắc làm thay đổi quy tắc”.
Chương ba nói về việc chiến thắng nỗi sợ.
Chương bốn có một đoạn văn truyền cảm hứng mạnh mẽ đến nỗi tôi tưởng như Tim Ferris đang chuẩn bị đập nát cuộc khủng hoảng “tôi muốn làm gì với cuộc đời mình?” của tôi bằng một chiếc gậy gỗ:
“Bạn muốn gì?” là một câu hỏi chẳng bao giờ nhận lại được một câu trả lời có ý nghĩa và khả thi. Quên câu hỏi đó đi. “Mục tiêu của bạn là gì?” – tương tự như vậy, nó được định sẵn để khiến bạn suy diễn và hiểu lầm. Muốn đặt câu hỏi sao cho chuẩn xác, chúng ta cần lùi lại một bước và nhìn bao quát hơn… Điều gì đối nghịch với hạnh phúc? Phiền muộn ư? Không. Giống như yêu và ghét là hai mặt của cùng một đồng xu, hạnh phúc và phiền muộn cũng vậy… Đối nghịch với yêu là thờ ơ, đối nghịch với hạnh phúc là – đây cũng chính là lý lẽ đanh thép nhất – sự nhàm chán.
Kích động chính là một từ đồng nghĩa nhưng bớt trừu tượng hơn của hạnh phúc, và đó chính xác là thứ bạn nên cố gắng theo đuổi. Đó là phương thuốc vạn năng. Người ta cứ mãi khuyên bạn theo đuổi “đam mê” hay “niềm vui”, tôi nghĩ trên thực tế, họ đang nói đến một khái niệm duy nhất: sự kích động.
Ba trang tiếp theo có tiêu đề “Làm thế nào để có được một cuộc điện thoại với George Bush Sr. (Tổng thống George Bush cha) hay CEO của Google?”
Cảm ơn Chúa!
Tôi lên trên trang web của Tim Ferriss và phát hiện anh còn viết một cuốn sách nữa. Tôi lập tức đặt mua cuốn sách đó. Nếu Tuần làm việc bốn giờ viết về cách giải mã sự nghiệp thì The 4-Hour Body
(tạm dịch: Cơ thể bốn giờ) giải mã sức khỏe của bạn. Tôi lật sang một trang có tên “Chế độ ăn kiêng chú trọng vào tinh bột tiêu hóa chậm: Làm thế nào để giảm 10kg trong vòng 30 ngày mà không cần tập thể thao?”. Nghe qua thì có vẻ như tác giả của chương sách này là một tay tiếp thị dầu rắn7, nhưng Ferriss đã dùng cơ thể mình làm thí nghiệm để chứng minh phương pháp đó có tác dụng, vậy thì tôi còn gì để mất chứ? Câu trả lời của tôi là: giảm rất nhiều – thực sự rất nhiều. Theo chỉ dẫn của anh, tôi đã giảm được hơn 18kg sau mùa hè. Tạm biệt, Banayan béo ú! Cả gia đình tôi đều sốc và lập tức đi theo trào lưu Ferriss. Bố tôi giảm được 9kg; mẹ tôi thì khoảng 23kg; anh họ tôi là 27kg.
Chúng tôi chỉ là một vài trong số hàng triệu người theo dõi Tim Ferriss trên mạng, đọc từng bài viết (blog), thích từng dòng tweet của anh. Mạng Internet đã thay đổi thế giới và thế giới mới này cần những người thầy mới. Tim Ferriss chính là một trong số đó.
Tên anh giờ đây đứng đầu danh sách của tôi. Và Tuần làm việc bốn giờ đã gợi ý cho tôi cách tiếp cận anh.
Khi đọc cuốn sách lần hai, tôi phát hiện một điều ở trang đề tặng mà tôi đã bỏ lỡ trước đó.
10% tiền bản quyền tác giả được dành tặng cho các tổ chức giáo dục phi lợi nhuận, bao gồm DonorChoose.org.
Chờ một chút… DonorChoose…
Tôi đã có “tay trong” của mình.
Hồi còn làm tình nguyện ở buổi hội thảo kinh doanh trong năm nhất đại học, nơi tôi nhận được cuốn sách của Tony Hsieh, tôi từng nhìn thấy một khách mời chống nạng đi cà nhắc, thế là tôi nhanh chóng lại gần và hỏi anh ấy có cần giúp đỡ không. “Không, không,
cậu đừng lo,” anh ấy nói. Anh nói với tôi tên mình là César và là COO của DonorChoose. Chúng tôi liên tục vô tình gặp lại suốt mấy ngày tiếp theo và vẫn giữ liên lạc từ đó đến giờ.
César giải thích DonorChoose là một trang web kết nối mọi người với các lớp học cần hỗ trợ. Những nhà hảo tâm tiềm năng có thể tìm kiếm yêu cầu giúp đỡ từ khắp cả nước – sách tranh cho trẻ em mẫu giáo ở Detroit hay kính viễn vọng cho học sinh trung học ở St. Louis. Bạn lựa chọn dự án phù hợp với mình và ủng hộ tùy tâm.
Sau khi tìm hiểu, tôi phát hiện ra Tim Ferriss và CEO của DonorChoose từng là đồng đội trong đội đấu vật của trường trung học. Thậm chí, Ferriss còn góp mặt trong hội đồng cố vấn của tổ chức phi lợi nhuận này.
Tôi viết email cho César và mời anh đi ăn trưa. Khi chúng tôi gặp nhau, tôi hỏi anh có cách nào giúp tôi liên hệ với Ferriss hay không. César nói anh chắc chắn cấp trên sẽ giúp tôi chuyển lời mời phỏng vấn đến Ferriss.
“Cậu cứ coi như mọi sự đã thành,” anh nói.
Một tuần sau, César gửi email cho tôi và nói rằng sếp của anh đã chuyển lời đến Ferriss. Thêm vào đó, César còn gửi cho tôi một xấp phiếu quà tặng DonorChoose để làm quà cảm ơn cho những người mà tôi phỏng vấn. Mỗi tấm phiếu có giá trị tới 100 đô-la – từ một nhà hảo tâm lớn – thậm chí Stephen Colbert còn tặng những tấm phiếu này cho tất cả khán giả đến tham gia chương trình của mình.
Mùa hè dần trôi, những tấm phiếu quà tặng đã đến tay tôi, nhưng câu trả lời từ Tim Ferriss thì biệt tăm biệt tích. Tôi tìm được địa chỉ email của trợ lý Tim Ferris và gửi cho cô ấy một lời nhắn.
Nhưng tôi vẫn chẳng nhận được hồi âm. Thế rồi, tôi lại gửi thêm một email nữa. Phản hồi vẫn bặt vô âm tín.
Tôi không muốn làm phiền César để nhờ giúp đỡ thêm lần nữa, và không lâu sau, tôi cũng không cần làm việc đó. Đêm muộn hôm đó, khi đang lọc thư trong hộp thư đến, một bức thư quảng cáo ngay lập tức khiến tôi chú ý:
Hội thảo Evernote: Đăng ký ngay | Hội thảo Evernote Trunk có khách mời chính là hai tác giả sách bán chạy – Tim Ferriss và Guy Kawasaki, ngoài ra còn có nội dung cho chuyên viên lập trình và người sử dụng.
Sự kiện này diễn ra tại San Francisco. Nếu tôi có thể gặp Tim Ferriss và nói chuyện trực tiếp với anh ấy về sứ mệnh của mình, tôi dám chắc anh ấy sẽ đồng ý phỏng vấn.
Tôi dùng tiền thắng Hãy chọn giá đúng để đặt vé máy bay. Tôi thậm chí còn kích động đến mức chạy vào Niketown và mua một chiếc túi du lịch hoành tráng màu đen để dành cho những chuyến đi sắp tới của mình. Buổi sáng hôm diễn ra hội thảo, tôi đóng đồ vào túi và khi chạy ra cửa, tôi cầm lấy một tờ phiếu quà tặng DonorChoose trên giá sách, đút vào túi và xuất phát.
Hội trường buổi hội thảo tại San Francisco chật cứng người. Trong tầm mắt, tôi có thể nhìn thấy hàng trăm người trẻ tuổi mặc áo trùm có mũ đang ngó nghiêng tìm kiếm chỗ ngồi. Khi tới gần hơn, tôi thấy rất nhiều người đang kẹp cuốn Tuần làm việc bốn giờ trong tay. Ruột tôi quặn thắt khi nhận ra thực tế hiển nhiên: Tôi không phải là người duy nhất ở đây muốn tiếp cận Tim Ferriss.
Có lẽ phải đến 99٪ dân số thế giới chưa từng nghe đến tên anh ấy. Nhưng với một nhóm nhỏ nhất định, và có lẽ là tất cả mọi người
ở sự kiện này, tên tuổi của Tim Ferriss có khi còn vang dội hơn cả Oprah Winfrey.
Không muốn đặt cược bất cứ thứ gì vào vận may, tôi rảo bước dọc lối đi, cố gắng tìm kiếm một chỗ ngồi gần nhất để có thể tiếp cận Ferriss sau khi anh ấy diễn thuyết. Có một chỗ trống ở gần bậc thang dẫn lên sân khấu, ngoài cùng bên cánh phải. Sau khi tôi ngồi xuống, ánh đèn mờ dần báo hiệu sự kiện bắt đầu – và Tim Ferriss bước lên sân khấu từ phía cánh trái.
Tôi điên cuồng đảo mắt nhìn căn phòng thêm một lượt. Tôi chạy xuống cuối hội trường để cố gắng có một tầm nhìn thuận lợi hơn, và tôi thấy nó: nhà vệ sinh ở cánh trái sân khấu.
Tôi rón rén lẻn vào nhà vệ sinh nam và giấu mình trong một buồng. Núp bên cạnh bệ toa-lét, tôi ghé sát tai vào bức tường đá hoa, lắng nghe bài phát biểu của Ferriss để chọn thời điểm lộ mặt thích hợp. Tôi tiếp tục dán người lên tường, mùi khai xộc thẳng vào mũi. Năm phút trôi qua… rồi 10 phút… cuối cùng thì 30 phút sau, tôi nghe tiếng vỗ tay.
Tôi chạy ù ra khỏi nhà vệ sinh, và thấy anh ấy đang đứng đó, một mình, chỉ cách tôi đúng hai bước chân. Một lần nữa, vào lúc tồi tệ nhất, Ngại ngùng lại thít chặt cổ họng tôi. Trong cơn quẫy đạp tuyệt vọng để phá vỡ trói buộc của Ngại ngùng, tôi thò tay vào túi lấy ra tấm phiếu quà tặng rồi dí vào mặt Ferriss.
“Ồ,” anh ấy giật mình lùi lại. Anh ấy liếc nhìn tấm phiếu. “Tuyệt vời! Làm sao cậu biết về DonorChoose? Tôi ở trong ban cố vấn của tổ chức này đấy.”
À, chuyện hiển nhiên khỏi phải nói.
Ngại ngùng nhanh chóng nới lỏng dây trói và tôi kể với Ferriss về sứ mệnh của mình. Tôi nói tôi hy vọng được phỏng vấn mọi vĩ nhân từ Bill Gates và Lady Gaga đến Larry King và Tim Ferriss.
“Hay ho thật,” anh ấy nói vậy khi tôi nhắc đến tên anh. “Em thực sự nghiêm túc,” tôi đưa tay vào túi còn lại và lấy ra tập giấy in lại những email tôi viết cho anh ấy. “Em đã email trợ lý của anh hàng tuần liền.”
Ferriss nhìn tập giấy và phá lên cười, chúng tôi nói chuyện suốt mấy phút liền về sứ mệnh tôi đặt ra cho bản thân. Cuối cùng, anh ấy nắm chặt vai tôi và nói sứ mệnh của tôi quả thật rất tuyệt. Anh ấy đúng là quá tử tế. Ferriess nói rằng anh ấy sẽ suy nghĩ và trả lời tôi sau vài ngày nữa.
Nhưng khi trở về nhà, vài ngày nhanh chóng trở thành vài tuần, còn tôi vẫn không nhận được lời hồi đáp từ Tim Ferriss. Điều tôi không hề biết là Ferriss đã trả lời thư mời phỏng vấn đầu tiên của tôi từ một tháng trước và gửi lời tới CEO của DonorChoose là: “Cảm ơn, nhưng tôi từ chối.” Tôi đoán ngài CEO không muốn báo tin buồn cho tôi, thế nên tôi không hay biết việc này cho đến tận vài năm sau.
Tôi lại tiếp tục gửi email cho trợ lý của Ferriss, hy vọng nhận được hồi âm. Các sách kinh doanh đều cho rằng kiên trì là chìa khóa của thành công, vì thế tôi cứ viết hết email này đến email khác, tổng cộng, tôi đã gửi đi 31 bức. Khi những bức email ngắn không nhận được hồi âm, tôi chuyển sang gửi một bức thư dài đến 9 đoạn. Tôi viết một bức khác và nói với trợ lý của Ferriss rằng phỏng vấn với tôi “sẽ là một trong những khoản đầu tư thời gian tốt nhất mà Tim từng thực hiện trong một tiếng”. Tôi cố duy trì thái độ tích cực và
biết ơn, luôn kết từng bức thư với câu: “Xin cảm ơn trước!” Nhưng dù cho tôi có cố gắng dùng từ ngữ nhã nhặn thế nào, mọi thứ cũng đều hoài công vô ích. Sau cùng, tôi nhận được một email từ cánh tay phải của Ferris, nói rằng sếp của anh ấy sẽ không nhận lời phỏng vấn với tôi trong thời gian sắp tới và chưa chắc sẽ đồng ý phỏng vấn dù có thời gian.
Tôi không tài nào hiểu được mình đã làm sai điều gì. Ferriss đã nắm chặt vai tôi. Tôi cũng có “tay trong” của mình.
Nếu tôi thậm chí không thể tiếp cận Tim Ferriss thì làm sao tôi có thể tiếp cận nổi Bill Gates?
Tôi tiếp tục gửi thư cho trợ lý của Ferriss, hy vọng có thể thay đổi điều gì đó. Và một ngày, gần như ngoài mong đợi, Ferriss bỗng dưng đồng ý. Anh ấy không chỉ đồng ý mà còn muốn cuộc phỏng vấn diễn ra ngay ngày hôm sau trên điện thoại. Tôi gần như nhảy cẫng lên và reo mừng: “Kiên trì! Thành công rồi!”
Rất lâu sau, khi mọi việc đã trở thành dĩ vãng, tôi mới biết lý do thực sự khiến Ferriss đồng ý. Anh ấy gọi điện cho CEO của DonorChoose và hỏi xem tôi có bị điên hay không. May thay, câu trả lời của vị CEO là mặc dù bề ngoài trông có vẻ thô lỗ, nhưng thực ra tôi là người tử tế. Và điều đó khiến Ferriss đồng ý. Nhưng lúc đó tôi không hề biết, nên tôi hoàn toàn tin rằng dù gặp phải bất cứ điều gì, kiên trì sẽ là câu trả lời cho mọi vấn đề.
CHƯA ĐẦY 24 TIẾNG SAU, tôi được nói chuyện điện thoại với Tim Ferriss. Sổ ghi chép của tôi đầy ắp câu hỏi, và không có gì ngạc nhiên khi câu hỏi đầu tiên là về sự kiên trì. Tôi đã đọc một giai thoại ngắn trong Tuần làm việc bốn giờ rằng Ferriss có được công việc đầu tiên sau khi tốt nghiệp bằng cách gửi email cho CEO của một
công ty mới khởi nghiệp ngày này qua ngày khác cho đến khi được nhận vào làm. Tôi rất muốn biết toàn bộ câu chuyện là như thế. “Không phải một-hai-ba, ú òa rồi cậu được tuyển,” Ferriss nói. Vào học kỳ cuối của năm cuối đại học, Ferriss đã thực hiện dự án tốt nghiệp ở công ty đó để xây dựng quan hệ với vị CEO, người được mời làm khách mời trong một giờ học. Nhưng khi lấy hết can đảm để xin được làm việc cho công ty, anh đã bị từ chối. Ferriss tiếp tục gửi email cho CEO. Sau hàng chục lần nhận được từ chối, Ferriss quyết định dùng đến lá bài cuối cùng. Anh gửi email cho CEO nói rằng anh sẽ “ở gần đó” vào tuần tới – mặc dù trên thực tế anh đang ở New York còn vị CEO đó thì sống ở San Francisco – và nói rằng nếu anh có thể ghé thăm công ty thì thật tuyệt. “Cũng được,” vị CEO trả lời. “Tôi có thể gặp cậu vào thứ Ba.” Ferriss mua một vé máy bay trong ngày, bay tới California và đến văn phòng công ty từ sớm để chuẩn bị cho buổi hẹn. Một trong những vị giám đốc khác của công ty hỏi anh: “Vậy là cậu sẽ thôi không quấy rầy chúng tôi cho đến khi chúng tôi giao việc cho cậu phải không?”
“Đúng vậy,” anh nói, “nếu như ông đã nói theo cách đó.” Anh ấy được nhận việc – và dĩ nhiên là trong bộ phận bán hàng. “Điều quan trọng phải ghi nhớ là,” Ferriss nói với tôi, “tôi chưa
từng cư xử lỗ mãng cũng như không liên tục quấy rầy họ. Tôi không hề gửi email cho họ đến sáu lần một tuần.”
Ferriss đổi giọng, như thể đang ám chỉ điều gì đó, nhưng xấu hổ thay, tôi không hiểu ý anh ấy. Nhưng tôi có thể cảm nhận điều gì đó sai sai vì giọng nói của anh khiến đầu tôi đau đớn như thể vừa bị ai thụi một cú.
“Anh nghĩ cái ranh giới mong manh đó nằm ở đâu?” tôi hỏi. “Khi cậu cảm thấy mình đang quấy rầy ai đó, cậu cần phải dừng lại.” Phát đánh đầu tiên. “Cậu cần phải lịch sự và biết rằng, nếu cậu gửi email cho một người như vậy, cậu cần phải khiêm tốn.” Lại thêm một nhát. “Ranh giới giữa kiên trì và làm phiền rất mong manh.” Một cú đấm móc.
Nếu có nhiều kinh nghiệm phỏng vấn hơn, tôi nghĩ mình nên hỏi sâu hơn để hiểu Ferriss đang thực sự muốn nói gì với mình. Nhưng thay vào đó, tôi lại chọn giải pháp an toàn là nhìn vào sổ ghi chép và tìm kiếm một chủ đề mới.
“Làm cách nào để anh giành được tín nhiệm trước khi trở thành một tác giả nổi tiếng?”
“Ồ, làm tình nguyện cho các tổ chức thích hợp là một cách dễ dàng để giành được sự tín nhiệm,” Ferriss nói.
Giọng của anh nhẹ nhàng hơn, và cũng khiến tôi thư giãn hơn. Ferriss giải thích rằng khi còn là một nhân viên non trẻ, anh làm tình nguyện ở Hội Doanh nhân Khởi nghiệp Thung lũng Silicon, nơi anh được tham gia tổ chức nhiều sự kiện lớn, nó cho anh một lý do chính đáng để gửi email cho những người thành công. Thay vì nói rằng: “Xin chào, tôi là Tim Ferris, sinh viên mới tốt nghiệp,” anh có thể nói: “Tôi là Tim Ferriss, nhân viên tổ chức sự kiện của Hội Doanh nhân Khởi nghiệp Thung lũng Silicon.” Danh xưng chính thống đó tạo nên một sự khác biệt lớn.
“Bước thứ hai là viết và được đăng bài trên các ấn phẩm lớn,” anh nói tiếp. “Có thể đơn giản chỉ là một bài hỏi đáp với ai đó – phỏng vấn và đăng tải bài viết trên các trang mạng cộng đồng.”
Nói cách khác, Ferriss không gây dựng sự tín nhiệm một cách ngẫu nhiên, mà mượn nó bằng cách kết nối bản thân với các tổ chức hoặc ấn phẩm có tên tuổi. Cụm từ “tín nhiệm vay mượn” cứ lởn vởn trong đầu tôi.
Khi Ferriss bắt tay vào viết cuốn sách Tuần làm việc bốn giờ, anh nói, anh chưa từng có kinh nghiệm về xuất bản, vì thế anh gửi email ngẫu nhiên cho những tác giả mà mình không quen biết để xin lời khuyên. Anh nói việc đó rất hiệu quả, vì vậy tôi hỏi anh về kỹ năng gửi email ngẫu nhiên.
Ferriss nói: “Cấu trúc chung của các email mà tôi gửi cho một người bận rộn như sau:
Ông/bà kính mến,
Tôi biết ông/bà thực sự rất bận rộn và nhận được rất nhiều email, vậy nên bức email này sẽ chỉ tốn 60 giây để đọc. [Đây là chỗ cậu giới thiệu bản thân: thêm một hoặc hai dòng để tạo sự tín nhiệm.]
[Đây là chỗ cậu đặt những câu hỏi thật cụ thể.]
Tôi hoàn toàn hiểu rằng ông/bà quá bận để trả lời thư, nhưng thậm chí chỉ một hay hai dòng trả lời cũng khiến tôi có một ngày tuyệt vời rồi.
Chúc ông/bà những điều tốt lành nhất,
Tim”
Ferriss đã cho tôi lời khuyên mà tôi đang thực sự mong mỏi. Anh bảo tôi đừng bao giờ gửi email cho ai đó và mời họ “nói chuyện điện thoại”, “uống cà phê”, hay “xin phỏng vấn”.
“Hãy trực tiếp hỏi điều cậu cần trong email,” anh nói. “Có thể rào trước với một câu đơn giản như: ‘Tôi muốn thảo luận một vấn đề đại loại như thế này. Ông/bà có sẵn lòng thảo luận với tôi không? Tôi nghĩ một cuộc điện thoại sẽ thuận tiện hơn, nhưng nếu ông/bà muốn, tôi cũng có thể hỏi vài câu hỏi trực tiếp qua email.’”
“Và đừng bao giờ viết những câu kiểu như: ‘Đây là việc phù hợp hoàn hảo với ông/bà,’ hay ‘Ông/bà sẽ thực sự thích việc này vì tôi biết điều này hay điều kia về ông/bà.’ Đừng sử dụng những từ ngữ mang tính tuyệt đối hay phóng đại bởi vì…” – anh bật cười, nghe dường như khá mỉa mai, “họ chẳng biết gì về cậu và cậu nào có khả năng quyết định cái gì là phù hợp với họ.”
“Tôi cũng sẽ không kết thúc thư với những cụm từ như ‘Xin cảm ơn trước!’ Nghe khó chịu và ngạo mạn làm sao. Hãy làm ngược lại và nói ‘Tôi biết ông/bà rất bận, vì vậy tôi cũng hiểu nếu ông/bà không thể trả lời thư.’”
“Và dĩ nhiên, cậu phải chú ý tần suất gửi email của mình. Đừng gửi email quá nhiều. Việc đó thực sự…” – anh thở dài một hơi, “không khiến người khác thấy vui vẻ.”
Khi ấy, tôi thực sự không hiểu Ferriss đang cố gắng cứu tôi thoát khỏi chính mình như thế nào. Hơn một năm sau, khi lục lại những email cũ, tôi vô tình bắt gặp những tin nhắn tôi đã gửi cho trợ lý của Ferriss. Đến lúc ấy, tôi mới nhận ra mình ngu ngốc thế nào.
“Được rồi, anh bạn,” Ferriss nói khi cuộc phỏng vấn tiến vào hồi kết. “Tôi phải đi rồi,” anh nói tạm biệt rồi gác máy.
Một phần trong tôi ước mình có thể quay lại thời gian đó, tát tỉnh cái tôi của tuổi mới lớn và giải thích chuyện gì vừa mới xảy ra. Giả
sử lúc đó tôi học được bài học này, mọi chuyện hẳn đã khác xa khi tôi gặp Warren Buffett ở Omaha.
Chương sáu
Thời gian QI
S
teve Jobs từng nói: “Bạn không thể tổng hợp thông tin bằng cách hướng về tương lai. Bạn chỉ có thể làm vậy khi nhìn lại quá khứ. Vì vậy, bạn phải tin rằng thông tin quá khứ sẽ có điểm nào đó kết nối với tương lai.”
Câu nói này mô tả chính xác về buổi hội thảo kinh doanh nơi tôi gặp César. Vào một buổi tối, khi tôi cảm thấy lạc lõng vì chỉ là một cậu sinh viên tình nguyện trong một căn phòng đầy những lãnh đạo doanh nghiệp, một diễn giả, Stefan Weitz, đã mở lời chào để giúp tôi thoải mái hơn. Anh ấy là một giám đốc ở Microsoft và chúng tôi đã nói chuyện một chút vào buổi tối hôm đó. Vào đầu mùa hè, tôi email cho anh ấy về sứ mệnh, và khi chúng tôi cùng ăn trưa, anh khăng khăng rằng tôi phải cho thêm một người vào danh sách của mình.
“Qi Lu.”
Tên của ông được phát âm là Chee Loo và tôi chưa từng nghe nói đến ông. Dù rất cảm ơn sự giúp đỡ của Stefan, tôi nghĩ mình vẫn chưa giải thích sứ mệnh với anh ấy đúng cách.
“Những người mà em đang cố gắng liên lạc chính là những người mà bạn bè em cũng như nhiều người khác muốn học hỏi, họ đều rất nổi tiếng…”
“Tin anh đi,” Stefan nói và giơ tay. “Qi Lu là người cậu cần gặp.”
Anh ấy giúp tôi sắp xếp cuộc phỏng vấn, và đó là lý do tôi xuất hiện ở Seattle vào tuần cuối cùng của mùa hè, rảo bước trên tầng thượng của tòa cao ốc Microsoft. Hôm đó là thứ Bảy, dãy hành lang không một bóng người. Tất cả các bàn làm việc đều trống trơn. Đèn trong văn phòng hầu như đều đã tắt, duy chỉ có một nơi. Từ cuối hành lang, một cái bóng thấp thoáng đằng sau cửa kính đứng lên và di chuyển ra cửa. Qi Lu mở cửa và cúi người ra hiệu mời tôi vào.
Ông có dáng người mảnh khảnh, tuổi khoảng tầm tứ tuần. Qi mặc một chiếc áo phông, đóng thùng trong một chiếc quần bò mài, đeo tất trắng và đi dép xăng-đan. Ông dùng cả hai tay bắt tay tôi và bảo tôi cứ tự nhiên. Thay vì quay lại ngồi bên bàn làm việc, ông kéo một chiếc ghế và ngồi cạnh tôi. Văn phòng gần như chẳng có mấy đồ đạc. Không một bức tranh hay khung bằng khen nào treo trên tường. Tuyệt vời!
Qi Lu lớn lên trong một ngôi làng nhỏ ở ngoại ô Thượng Hải, Trung Quốc, nơi không có điện hay nước máy. Ngôi làng nghèo đến mức nhiều người bị biến dạng vì thiếu dinh dưỡng. Có hàng trăm trẻ em, nhưng cả khu vực chỉ có duy nhất một giáo viên. Khi 27 tuổi, khoản thu nhập lớn nhất Qi Lu từng kiếm được là 7 đô-la một tháng. Sau 20 năm, ông đã trở thành chủ tịch dịch vụ trực tuyến của Microsoft.
Tôi lắc đầu ngờ vực. Gần như không thể nghĩ ra một câu hỏi mạch lạc, tôi giơ hai tay lên và hỏi: “Ngài đã làm thế nào để thành công?”
Qi mỉm cười khiêm tốn và nói khi còn bé, ông từng mơ ước trở thành thợ đóng tàu. Nhưng vì quá gầy so với cân nặng tiêu chuẩn của kỳ sát hạch, ông phải tập trung vào việc học. Ông trúng tuyển
vào Đại học Phúc Đán, một trường đại học hàng đầu ở Thượng Hải, nơi ông theo học chuyên ngành khoa học vi tính – và chính tại đó, ông đã nhận ra điều làm thay đổi cả cuộc đời mình.
Ông bắt đầu nghĩ về thời gian. Cụ thể hơn là khoảng thời gian ông cảm thấy mình lãng phí cho việc ngủ. Ông ngủ khoảng 8 tiếng một ngày, nhưng lúc đó ông nhận ra rằng có một thứ bất biến trong cuộc sống: Dù bạn là nông dân chân lấm tay bùn hay Tổng thống Mỹ quyền lực, bạn cũng chỉ có 24 giờ một ngày.
“Nói cách khác,” Qi nói, “Chúa dường như rất công bằng với tất cả mọi người. Câu hỏi đặt ra là: Liệu bạn có thể tận dụng được món quà của Chúa hay không?”
Ông đọc về cách những người nổi tiếng trong quá khứ điều chỉnh thói quen ngủ của mình và bắt tay phát triển phương pháp của chính ông. Đầu tiên, ông cắt giảm một giờ ngủ, rồi thêm một giờ, rồi một giờ nữa. Có thời điểm, mỗi đêm ông chỉ ngủ có một giờ. Ông buộc mình phải tỉnh táo bằng việc tắm nước cực lạnh, nhưng rồi cũng không thể tiếp tục duy trì việc đó. Dần dà, ông phát hiện số giờ ngủ tối thiểu ông cần để có thể hoạt động tốt nhất là bốn giờ một đêm. Từ đó đến nay, ông không hề ngủ quá con số đó.
Sự kiên định là một phần bí mật của ông.
“Giống như việc lái xe,” Qi nói với tôi. “Nếu cậu duy trì tốc độ 100km/giờ, chiếc xe sẽ không bị hao mòn quá nhiều. Nhưng nếu cậu liên tục tăng tốc và thường xuyên nhấn phanh, động cơ sẽ nhanh chóng bị hỏng hóc.”
Mỗi sáng, Qi thức dậy lúc 4 giờ, chạy bộ 8km và đến văn phòng lúc 6 giờ. Ông chia thành nhiều bữa nhỏ trong ngày, hầu hết là rau và hoa quả. Ông làm việc 18 tiếng một ngày, 6 ngày một tuần. Và
Stefan Weitz còn nói với tôi rằng năng suất làm việc của Qi cao gấp đôi mọi người. Họ gọi đó là “Thời gian Qi”.
“Thời gian Qi” nghe có vẻ giống một lối sống cuồng tín, thậm chí là thiếu lành mạnh. Nhưng khi nhìn nó qua lăng kính của ông, tôi nghĩ nó giống một phương tiện để tồn tại hơn là một thí nghiệm lập dị. Thử nghĩ mà xem. Trong vô vàn sinh viên xuất chúng ở Trung Quốc, Qi còn có cách nào khác để có thể vượt lên tất cả? Nếu bạn giảm số giờ ngủ còn một nửa, từ 8 giờ xuống 4 giờ, rồi nhân số giờ tiết kiệm được với 365 ngày, bạn sẽ có thêm 1.460 giờ – hay tương đương thêm hai tháng trong một năm.
Hồi còn ở độ tuổi 20, Qi dành thời gian tiết kiệm được để nghiên cứu tài liệu, viết bài phân tích và đọc sách, phấn đấu cho giấc mơ lớn nhất của mình – du học Mỹ.
“Ở Trung Quốc,” ông nói, “nếu muốn đi Mỹ, cậu phải vượt qua hai bài kiểm tra. Chi phí thi là 60 đô-la. Tôi nghĩ thu nhập hằng tháng của tôi khi đó chỉ khoảng 7 đô-la.”
Bỏ ra tám tháng thu nhập chỉ để thi sát hạch.
Dù vậy, Qi không nản chí và tất cả nỗ lực của ông đã được đền đáp vào một buổi tối Chủ nhật. Thông thường, ông hay dành ngày Chủ nhật để đạp xe về làng thăm gia đình, nhưng hôm đó trời mưa tầm tã cộng với việc tiêu phí hàng giờ đồng hồ di chuyển, nên Qi quyết định lưu lại trong phòng ký túc xá. Tối hôm đó, một người bạn ghé qua nhờ Qi giúp đỡ. Một vị giảng viên khách mời đến từ Đại học Carnegie Mellon chuẩn bị có bài giảng về kiểm thử mô hình, nhưng vì trời mưa to, số lượng sinh viên tham dự vô cùng ít. Qi đồng ý đến buổi học, và trong giờ, ông đã nêu một số câu hỏi giá trị. Sau đó, vị
giảng viên khen ngợi những điểm mà Qi đề cập và hỏi liệu ông đã từng nghiên cứu về chủ đề này chưa.
Không chỉ từng nghiên cứu, Qi còn xuất bản năm bài viết về chủ đề ấy. Đó là sức mạnh của Thời gian Qi. Nó giúp ông trở thành người chuẩn bị kỹ càng nhất trong lớp học.
Vị giảng viên bày tỏ mong muốn được xem những bài viết đó. Qi chạy nhanh về phòng ký túc xá để lấy chúng. Sau khi đọc hết những bài viết, ông hỏi Qi có muốn du học ở Mỹ không.
Qi giải thích khó khăn tài chính của mình và vị giảng viên nói ông sẽ miễn bài thi đó cho Qi. Qi nộp hồ sơ dự tuyển, và vài tháng sau, một lá thư được gửi đến tay ông. Carnegie Mellon trao cho Qi một suất học bổng toàn phần.
Mỗi khi tôi đọc về Bill Gates, Warren Buffett hay những biểu tượng thành công rực rỡ khác, tôi đều tự hỏi bao nhiêu phần trong thành công của họ là kết quả của những sự việc dường như ngẫu nhiên đến diệu kỳ. Nếu buổi tối Chủ nhật đó trời không mưa, Qi đã ở nhà với gia đình, đã không gặp vị giảng viên, và mọi chuyện sau đó đã không xảy ra. Song, việc năm bài nghiên cứu được đăng của Qi thì không hề ngẫu nhiên. Tôi hỏi Qi về may mắn, và ông nói rằng ông tin may mắn không hoàn toàn ngẫu nhiên.
“May mắn giống như một chiếc xe buýt,” Qi nói. “Nếu cậu lỡ một chuyến, sẽ luôn có chuyến tiếp theo. Nhưng nếu chưa chuẩn bị sẵn sàng, cậu sẽ không thể lên xe được.”
HAI NĂM SAU KHI HỌC XONG CHƯƠNG TRÌNH tại Đại học Carnegie Mellon, Qi được một người bạn mời đi ăn trưa. Nhưng trên bàn ăn ngày hôm đó lại có một vị khách lạ. Người đó hỏi Qi đang
làm gì và ông đáp mình đang là chuyên viên nghiên cứu thương mại điện tử của IBM.
Người này thì đang làm việc cho Yahoo, một mạng xã hội rất nổi tiếng ở thời điểm đó với hệ thống liên kết đồ sộ. Anh ấy mời Qi ghé thăm văn phòng vào thứ Hai và ông đồng ý. Khi Qi đến trụ sở của Yahoo, một hợp đồng lao động đã được đặt sẵn trên bàn.
Yahoo có kế hoạch bí mật là xây dựng một diễn đàn thương mại điện tử và đang tìm kiếm nguồn nhân lực. Qi quyết định đầu quân cho công ty, tham gia vào dự án đó và dành toàn bộ thời gian cho việc lập trình. Trong vòng ba tháng, ông liên tục cắt giảm thời gian nghỉ ngơi cho đến khi chỉ còn 1-2 giờ ngủ một đêm – ông làm việc hăng say đến mức bị mắc hội chứng ống cổ tay8 và phải đeo nẹp. Nhưng Qi cảm thấy như vậy rất xứng đáng, bởi vì cuối cùng ông đã tạo ra cái mà ngày nay được biết đến là Yahoo Shopping (trang Mua sắm của Yahoo).
Qi được thăng chức và trở thành trưởng nhóm của dự án quan trọng tiếp theo: Yahoo Search (trang Tìm kiếm của Yahoo). Đó lại là một thành tựu xuất sắc khác, nhưng Qi vẫn không hề buông lỏng. Ngoài việc nhận thêm nhiều dự án kỹ thuật khác, Qi dành cuối tuần “đóng đinh” ở thư viện, đọc hàng chồng sách về lãnh đạo và quản lý.
Tôi nhận ra Thời gian Qi không chỉ đơn thuần là ngủ ít hơn. Mấu chốt của nó nằm ở việc hy sinh – hy sinh khoái lạc ngắn hạn cho thành tựu dài hạn. Chỉ trong vòng tám năm ở Yahoo, Qi trở thành phó chủ tịch, quản lý hơn 3.000 kỹ sư.
Sau gần một thập kỷ làm việc cho Yahoo, Qi quyết định 10 năm là thời điểm phù hợp để ông có thể tạm thời nghỉ ngơi. Trong tuần làm việc cuối cùng ở Yahoo, các nhân viên của Qi đã truyền tay
nhau và mặc chiếc áo phông in dòng chữ: “Tôi đã làm việc với Qi. Còn bạn?” ở bữa tiệc chia tay.
Khi Qi đang cân nhắc việc quay trở lại Trung Quốc để sum họp với gia đình thì nhận được một cuộc điện thoại từ CEO của Microsoft, Steve Ballmer. Microsoft đang cân nhắc việc xây dựng một công cụ tìm kiếm. Qi gặp Ballmer và quyết định hoãn kế hoạch trở về Trung Quốc để chấp nhận lời đề nghị làm chủ tịch dịch vụ trực tuyến của Ballmer.
Trôi theo câu chuyện về những ngày tháng làm việc thâu đêm để tạo ra công cụ tìm kiếm Bing của Qi, một cảm giác kỳ lạ bỗng gợn lên trong tôi. Đầu óc tôi bắt đầu lãng đãng trôi dạt và chợt một ký ức xa xôi lóe lên.
Lúc đó, tôi mới năm tuổi. Do nửa đêm gặp ác mộng nên tôi trèo xuống giường và đi vào phòng của bố mẹ. Đi dọc theo hành lang, tôi nhìn thấy ánh sáng màu xanh chớp tối chớp sáng len lỏi xuyên qua chân cửa phòng họ. Tôi thò đầu vào và nhìn thấy mẹ đang ngồi bên chiếc bàn nhỏ của bà, tay không ngừng gõ máy tính. Nhiều ngày trôi qua, hôm nào tôi cũng sẽ bò ra khỏi giường và bí mật quan sát mẹ làm việc khi mọi người trong nhà đều đã ngủ. Không lâu sau, tôi phát hiện việc kinh doanh xe ô tô cũ của bố đã phá sản, nghĩa là giờ mẹ tôi sẽ phải gánh vác cuộc sống của cả gia đình. Có lẽ, dù theo cách của riêng bà, sự hy sinh của mẹ cũng giống như sự hy sinh của Qi Lu.
Chỉ đến lúc này, khi nghe Qi Lu tâm sự, tôi mới hiểu lý do mẹ khóc khi tôi nói sẽ bỏ khoa y. Đối với bà, tôi đang quay lưng với tất cả những nỗ lực xương máu ấy. Cảm giác tội lỗi về hành động vô
ơn mình đã làm khiến lòng tôi quặn thắt. Rồi Qi dẫn dắt cuộc hội thoại đến một điểm mà tôi không ngờ tới nhất.
“Tiện thể,” ông nói, “cảm ơn cậu vì đã quyết tâm thực hiện sứ mệnh này. Điều tạo động lực cho cậu theo đuổi sứ mệnh này ít nhiều giống với tôi. Đó là việc từng giây từng phút giúp mọi người hiểu biết nhiều hơn, làm được nhiều hơn và phát triển hơn. Tôi nghĩ những gì cậu đang làm phần nào là một ví dụ rất tuyệt vời.”
Ông bày tỏ mong muốn giúp đỡ tôi nếu có thể. Tôi rút tấm thẻ danh sách những người mà mình muốn phỏng vấn ra khỏi ví và đưa cho ông. Qi gật gật đầu khi ngón tay từ từ di chuyển xuống dưới danh sách.
“Người duy nhất tôi quen biết ở mức độ cá nhân,” ông nói, “là Bill Gates.”
“Ngài có… ngài có nghĩ rằng ông ấy có hứng thú không?” “Có, cậu nhất định có cơ hội nói chuyện với ông ấy. Tôi sẽ nói về cuốn sách của cậu với ông ấy.”
“Cháu có thể viết một bức email không?”
Qi mỉm cười. “Tôi rất sẵn lòng chuyển bức email đó đến ông ấy.”
Chương bảy
Kho dự trữ bí mật
“BILL GATES CHẾT TIỆT!” Corwin hét lên.
Rồi cậu nâng ly lên để ăn mừng tin vui. Brandon, Ryan và tôi cũng nâng ly lên. Chúng tôi cụng ly và tiếp tục ăn mừng trong phòng ăn suốt đêm.
Năm thứ hai đại học có khởi đầu không thể tuyệt hơn. Tôi hạnh phúc đến nỗi phải kiềm chế không nhảy chân sáo khi đi vào lớp. Các tiết học lý thuyết thậm chí cũng trở nên thú vị hơn. Vài ngày sau, khi đang trên đường đến thư viện, tôi nhận được một email từ trợ lý của Qi Lu trên điện thoại.
Chào Alex,
Tôi đã liên hệ với văn phòng của Bill Gates và rất tiếc là họ không thể chấp nhận lời mời của cậu…
Tôi đọc lại tin nhắn một lần nữa, nhưng đầu óc tôi từ chối chấp nhận nó. Tôi gọi điện cho Stefan Weitz, “tay trong” ở Microsoft. Anh giải thích với tôi rằng có lẽ Bill Gates không đích thân từ chối tôi; Chánh văn phòng của ông ấy thường là bên quyết định những việc thế này.
“Anh có cách nào giúp em gặp được Chánh văn phòng không?” tôi hỏi. “Em chỉ cần đúng năm phút. Hãy giúp em nói chuyện riêng
với ông ấy.”
Stefan bảo tôi bình tĩnh và anh ấy sẽ thử xem có thể làm được gì.
Nhưng tôi không thể ngồi yên. Tối hôm đó, tôi quyết định hướng mọi bức xúc của mình vào Thời gian Qi. Qi không tạo nên Thời gian Qi – ông đã lựa chọn nó. Và giờ đây, tôi cũng lựa chọn điều đó. Mỗi buổi sáng, tôi lao ra khỏi giường lúc 6 giờ, đi thẳng đến bàn làm việc và gửi email ngẫu nhiên, hỏi xin phỏng vấn từng người trong danh sách của tôi. Khi tất cả họ đều từ chối, tôi chuyển sang tiếp cận những người nằm ngoài danh sách ban đầu của mình. Tôi thậm chí còn dậy sớm hơn và làm việc chăm chỉ hơn, nhưng điều đó chỉ dẫn đến việc tôi bị từ chối nhanh hơn gấp hai lần. Không, không, không, không, không, không, không.
Một số lời từ chối khiến tôi tuyệt vọng hơn bình thường, như lời từ chối tôi nhận được từ Wolfgang Puck. Tôi đã trả lời một câu hỏi nhỏ trên Twitter, thắng vé đến tham dự một sự kiện ẩm thực và tôi có cơ hội tiếp cận người đầu bếp được tôn vinh ngày hôm đó. Khi được mời phỏng vấn, ông nói: “Tôi rất sẵn lòng. Cậu hãy đến nhà hàng của tôi và chúng ta sẽ phỏng vấn sau bữa trưa!” Ông ôm tôi như thể một người bạn cũ. Ngày hôm sau, tôi cũng gửi email cho người đại diện của ông ấy như thể chúng tôi là bạn cũ.
Này *****,
Tôi là Alex, một sinh viên đến từ USC. Tôi đã nói chuyện với Wolfgang tối qua trong sự kiện thảm đỏ LAFW và ông ấy bảo tôi liên hệ với chị để hẹn một buổi phỏng vấn. Ông ấy nói tốt nhất là tôi đến ăn trưa ở “nhà hàng” (thành thật mà nói, tôi không hề biết ông ấy đang nói đến nhà hàng nào! haha)…
Cô ấy không trả lời, nên tôi đã gửi email thêm một, hai, ba, thậm chí bốn lần. Hiển nhiên là tôi vẫn chưa rút kinh nghiệm từ bài học với Tim Ferriss. Đại diện của Puck trả lời sau một tháng. Này Alex,
Đúng là chúng tôi đã nhận được email của bạn, nhưng mà này, tôi đã suy nghĩ kỹ làm sao để đưa ra một câu trả lời phù hợp. Vì thế anh bạn à, tôi nghĩ bạn sẽ coi đây như một lời góp ý chân thành, tôi khuyên bạn khi liên hệ với những người thành công nhất trên thế giới, đừng nói: “Này Larry King”, hay “Này George Lucas”. Thông thường, những email kiểu đó nên bắt đầu bằng câu: “Ngài King kính mến” hay “Ngài Lucas kính mến” để thể hiện sự kính trọng.
Nhưng ôi, tôi đi lạc đề mất rồi…
Tôi đã nói chuyện này với Wolfgang trước chuyến đi New York của ông ấy, và mặc dù việc này nghe có vẻ là một cơ hội tốt, nhưng rất tiếc, ông ấy sẽ không có thời gian cho nó vì lịch làm việc kín mít từ giờ đến cuối năm do việc khai trương chuỗi nhà hàng CUT ở London cùng với nhiều sự kiện khai trương khác ở Khách sạn Bel Air. Wolfgang nhờ tôi chuyển lời tới bạn rằng ông ấy rất tiếc nhưng không thể tham dự phỏng vấn được…
Khi những ngày mùa thu chầm chậm đến, tôi ngày càng cảm thấy nản lòng, mỗi lời từ chối cứ từng chút, từng chút lại đánh tan lòng tự tôn của tôi. Thức dậy trước cả khi mặt trời ló rạng chỉ để bị từ chối, điều đó khiến tôi cảm thấy như thể mình đang nằm trên đường để một chiếc xe tải cán lên người, sau đó nó quay đầu rồi cán tôi thêm lần nữa. Nhưng có một người không khiến tôi tuyệt vọng, và tôi phải cảm ơn Chúa vì ông ấy, bởi có lẽ chính ông là người cứu rỗi sứ mệnh này.
Hầu hết mọi người biết đến Sugar Ray Leonard với tư cách quán quân quyền Anh sáu lần vô địch thế giới cùng nụ cười rạng rỡ trong quảng cáo của 7 Up và Nintendo. Nếu am hiểu môn thể thao này, bạn sẽ biết đến ông như một nghệ sĩ quyền Anh nhanh nhẹn, khéo léo, người đã trở thành nguồn cảm hứng toàn cầu ở Olympics năm 1976.
Sau khi tham dự sự kiện ký tặng sách của ông và bị nhân viên bảo vệ đẩy sang một bên, tôi sử dụng mẫu email ngẫu nhiên của Tim Ferriss để liên hệ với một nhân viên quan hệ công chúng của Sugar Ray. Chúng tôi gặp nhau và cô ấy trở thành “tay trong” của tôi. Tôi viết một lá thư cho Sugar Ray và bày tỏ, đối với một cậu thanh niên 19 tuổi như tôi, sau khi đọc tiểu sử của ông, tôi cảm thấy lời khuyên của ông chính là thứ mà thế hệ chúng tôi đang rất cần. Không lâu sau khi “tay trong” của tôi chuyển lá thư, Sugar Ray mời tôi đến nhà.
Ông ra cửa chính gặp tôi trong một bộ đồ thể thao màu đen và giới thiệu với tôi phòng tập tại gia của mình. Giây phút bước vào phòng, tôi cảm thấy mình vừa lạc vào Hang động Kỳ quan trong Aladdin – chỉ khác là những miếng vàng bao phủ quanh hang động không phải thứ kho báu bị chôn vùi, mà là những huy chương vàng và những tấm biển lấp lánh khắc dòng chữ NHÀ VÔ ĐỊCH THẾ GIỚI. Một chiếc túi đấm bốc treo lủng lẳng từ trên trần nhà. Tạ tay và máy chạy nằm xung quanh chiếc trường kỷ xa hoa. Vẻ hào nhoáng toát lên từ những tấm huy chương vàng dường như được đo ni đóng giày cho hình ảnh của Sugar Ray trong mắt tôi – nhưng khi hai chúng tôi ngồi xuống và bắt đầu nói chuyện, tôi liền nhận ra mình chẳng biết chút gì đằng sau hào quang đó.
Sugar Ray kể với tôi rằng ông lớn lên trong một gia đình chín người ở Palmer Park, Maryland. Cuộc sống khó khăn đến mức vào dịp Giáng sinh, món quà duy nhất nằm dưới gốc cây thông chỉ là những trái táo và cam mà bố ông lấy từ nhà kho của siêu thị nơi ông làm việc. Bố ông từng thi đấu quyền Anh hồi còn trong quân chủng hải quân, vì vậy, vào năm lên bảy, Ray quyết định thử sức với môn thể thao này. Ông bước lên sàn đấu của Câu lạc bộ Quyền Anh Nam số 2 ở ngoại ô Palmer Park, và chỉ vài giây sau đã ăn một cú trời giáng. Máu mũi ông chảy ròng ròng. Mỗi bước di chuyển giống như giẫm lên lò than. Ông thất bại bỏ đi, đầu giật lên từng cơn, và trở về nhà với những cuốn truyện tranh của mình.
Sáu năm sau, anh trai ông cố thuyết phục ông thử chơi quyền Anh thêm lần nữa. Ray trở lại phòng tập và lại bị đánh nhừ tử. Tuy nhiên, lần này, ông quyết định tiếp tục. Ông ít tuổi hơn, thấp hơn, gầy hơn và thiếu kinh nghiệm hơn các cậu bé khác, vì vậy ông quyết định mình cần có một ‘vũ khí sắc bén’ riêng biệt.
Một buổi sáng nọ, ông cùng các anh chị em của mình đi bộ đến bến xe buýt. Khi chiếc xe màu vàng dừng lại, tất cả lũ trẻ đều lên xe, chỉ có Ray đứng tại chỗ. Ông ném chiếc cặp sách lên xe, thắt chặt dây giày và khi xe buýt chuyển bánh, ông đuổi theo nó, chạy phía sau nó suốt quãng đường đến trường. Ngày hôm sau, ông tiếp tục làm thế. Nhiều ngày tiếp sau nữa cũng vậy. Ông chạy bất kể trời nóng, mưa hay có tuyết rơi – thậm chí cả những ngày trời lạnh đến nỗi băng đóng ngay trên chóp mũi ông. Ngày này qua ngày khác, ông cứ mải miết đuổi theo chiếc xe buýt.
“Khi ấy, tôi không có kinh nghiệm,” Ray nói với tôi, “nhưng tôi có đam mê, có kỷ luật và có khát vọng.”
Ngay khi từ ngữ sau cùng đó buột khỏi miệng, ông nhìn tôi, ánh mắt có chút kỳ lạ và hỏi điều gì đã tạo động lực để tôi theo đuổi ước mơ của mình. Chúng tôi nói chuyện về sứ mệnh, Sugar Ray khiến tôi cảm thấy thoải mái đến mức tôi thú nhận với ông những thất bại thảm hại khi cố gắng liên hệ phỏng vấn. Ông ấy bảo tôi cho ông xem tờ danh sách. Nhìn tờ danh sách một lượt, Sugar Ray khẽ lắc đầu và mỉm cười, như thể ông nhìn ra điều gì đó mà tôi không nhận thức được. Rồi ông bắt đầu kể cho tôi nghe về một trong những trận đấu lớn nhất cuộc đời mình, bài học rút ra chính xác là điều mà tôi thấy mình cần nghe.
Năm năm sau khi trở thành vận động viên chuyên nghiệp, ông bước vào sàn đấu với “Sát thủ” Thomas Hearns. Vị Sát thủ này không những chưa từng bất bại mà còn chiến thắng hầu hết các trận đấu bằng những cú nốc ao tuyệt đỉnh. Hearns nổi tiếng với cú thọc tầm xa bằng tay trái khiến đối thủ phải ngửa ra sau né tránh, bước tạo đà hoàn hảo cho nỗi kinh hoàng thực sự từ không trung: cú đấm tay phải chết người của Sát thủ.
Hàng chục nghìn khán giả đổ tới Caesars Palace và hàng triệu người khác xem qua truyền hình. Trận đấu được quảng cáo là “Thách thức cuối cùng”. Người thắng cuộc sẽ được xướng danh hiệu nhà vô địch quyền Anh thế giới hạng bán trung9.
Sau khi tiếng chuông khai cuộc rung lên, cú thọc tầm xa bằng tay trái của Sát thủ giáng xuống mắt trái của Sugar Ray. Hết cú này đến cú khác, đến mức mí mắt trái của Ray thâm tím và sưng vù. Sugar Ray lấy lại phong độ ở những hiệp giữa, nhưng cho đến hiệp 12, ông vẫn đang thua điểm. Ông ngồi sụp xuống bệ của mình ở góc
sàn đấu, mắt trái co giật. Ông cố gắng mở mắt to hết cỡ, nhưng vẫn không thể, tình trạng này khiến thị lực mắt trái giảm chỉ còn một nửa. Cách duy nhất để ông chiến thắng là tiến vào trong khu vực tấn công tay phải của Sát thủ. Đó là một ý tưởng điên rồ, nhưng với mắt trái gần như không thể mở to hết cỡ, chiến thuật này trên thực tế chính là tự sát. Huấn luyện viên của Sugar Ray cúi xuống và nhìn thẳng vào ông.
“Cậu đang thua đấy, con trai. Cậu đang thua đấy.”
Những lời này đã làm bùng lên một nguồn sức mạnh chạy dọc cơ thể Ray. 30 năm sau, ngồi trên trường kỷ, ông làm sống lại những lời nói đó một lần nữa.
“Cậu có thể có trái tim nhiệt huyết – không ngừng chiến đấu, chiến đấu và chiến đấu – nhưng não bộ của cậu lại can ngăn: ‘Anh bạn, quên nó đi. Cậu không cần nó.’ Trái tim và não bộ chẳng khi nào đồng bộ; nhưng cậu phải khiến chúng đồng bộ. Tất cả phải được liên kết với nhau. Mọi thứ đều cần liên kết để đạt được tầm đó, đỉnh cao đó.”
“Cậu có thể có một khát vọng, một điều ước, một giấc mơ – nhưng cậu cần khao khát nhiều hơn thế – cậu phải ham muốn nó đến cháy bỏng, đến mức trái tim cậu cảm thấy đau đớn. Hầu hết mọi người không đạt đến mức đó. Họ chưa từng chạm đến thứ mà tôi gọi là ‘Kho dự trữ bí mật’, nơi dự trữ sức mạnh tiềm ẩn của mình. Tất cả chúng ta đều có nó. Nhớ lần một người mẹ đã nâng cả một chiếc xe ô tô cứu đứa bé bị mắc kẹt không, đó chính là sức mạnh ấy.”
Tiếng chuông hiệp 13 vang lên, Sugar Ray bùng nổ lao ra từ góc sân của mình như thể trong mạch máu của ông đang chảy thứ
adrenaline10 tinh khiết và sánh đặc nhất. Ông tung liên tiếp 25 cú đấm và Sát thủ ngã nhào về phía dây chắn, rơi xuống sàn rồi loạng choạng bò dậy. Ray tiếp tục tấn công thần tốc. Sát thủ lại ngã về sau nhưng dây chắn đã cứu nguy cho anh ta lần đó. Hiệp đấu tiếp theo bắt đầu, Ray vẫn tràn trề năng lượng và liên tục tung ra những cú đấm như vũ bão nhắm vào đầu Hearns. Sau đó, chỉ một phút trước khi hiệp 14 kết thúc, Sát thủ người mềm rũ, ngã vào dây chắn. Trọng tài cho dừng trận đấu. Ray đã trở thành nhà vô địch thế giới với một chiến thắng vô cùng thuyết phục.
Sau khi buông một lời kết chuyện lửng lơ, Sugar Ray đứng dậy khỏi trường kỷ, bước về phía cửa và ra hiệu cho tôi đi theo. “Tôi muốn cho cậu xem cái này.”
Chúng tôi đi dọc hành lang lờ mờ sáng. Ông bảo tôi đứng yên rồi biến mất sau khúc quanh. Một phút sau, ông trở lại với chiếc đai vàng quán quân thế giới. Ánh sáng mềm mại lấp lánh nơi góc đai. Sugar Ray bước tới và quấn nó quanh eo tôi.
“Đã bao nhiêu lần người ta bảo ‘Cậu không thể phỏng vấn những người này được đâu’? Đã bao nhiêu lần họ nói ‘Không đời nào’? Đừng để bất cứ ai nói với cậu rằng giấc mơ không bao giờ trở thành hiện thực. Một khi cậu có một viễn cảnh, cậu phải kiên trì. Cậu phải ở trong trạng thái sẵn sàng cho trận chiến. Nhưng vì trận chiến ấy rất gian nan, cậu sẽ thường xuyên phải nghe những lời từ chối. Khi ấy, cậu cần tiếp tục nỗ lực. Cậu cần tiếp tục chiến đấu. Cậu cần tận dụng kho dự trữ bí mật của mình. Điều đó không dễ dàng, nhưng nó có thể xảy ra.”
“Khi xem thư và biết cậu mới 19 tuổi, tôi chợt nhớ lại cảm giác khi mình bằng tuổi cậu. Tôi hào hứng. Tôi kích động. Tôi khao khát.
Tôi muốn chiếc huy chương vàng đó hơn bất cứ thứ gì. Và khi tôi nhìn thấy cậu…” – ông dừng lời và dợm bước về phía tôi, chỉ vào mặt tôi rồi nói tiếp – “đừng để bất cứ ai lấy đi nhiệt huyết đó khỏi cậu.”
BƯỚC BA
TÌM "TAY TRONG" CỦA BẠN
Chương tám
Người thầy trong mơ
R
ất may là tôi đã có cơ hội trò chuyện với Sugar Ray, bởi những lời từ chối thực sự đã đánh tôi nhừ tử trong suốt quãng thời gian còn lại của mùa thu. Kỳ nghỉ vùn vụt qua đi và giờ đã là tháng 1, tuần đầu tiên của kỳ học mùa xuân, cũng như triển vọng tiếp cận những người mà tôi mong ước ngày càng trở nên khắc nghiệt.
Một buổi chiều nọ, tôi đứng trong một bãi đậu xe của tiệm thuốc CVS, tảng mây xám nặng nề lững lờ trôi trên đầu, trong tay cầm một cây kem ốc quế sô-cô-la. Ít nhất là trong lúc cuộc sống khó khăn này, tôi vẫn còn có kem để ăn.
Điện thoại tôi reo lên trong túi. Tôi mở to mắt khi thấy đầu số từ Seattle. Ngay lập tức, ánh sáng xuất hiện, xua tan mây mù đen tối. “Vậy, cậu muốn phỏng vấn Bill, phải không?”
Người bên đầu kia là Chánh văn phòng của Bill Gates. Stefan Weitz, “tay trong” của tôi ở Microsoft cuối cùng cũng giúp tôi có được cuộc điện thoại. Để bảo mật thông tin cá nhân, tôi sẽ không đề cập tên của người ấy.
Tôi định kể cho ông nghe về sứ mệnh, nhưng ông bảo không cần thiết vì Stefan và Qi Lu đã nói trước với ông rồi.
“Tôi rất thích việc cậu đang làm,” vị Chánh văn phòng nói. “Tôi thích sáng kiến của cậu. Tôi rất vui khi biết cậu làm việc này để giúp những người khác và muốn ủng hộ cậu…” – chỉ cần nghe những lời
này cũng đã khiến tôi cảm thấy mình đã thành công đến 99% – “… nhưng, có điều, cậu chỉ mới sẵn sàng 5% thôi. Tôi vẫn chưa thể đề cập việc này với Bill. Cậu chưa đủ đà.”
Đà?
“Cậu xem,” ông ta tiếp tục. “Tôi không thể trình lên Bill lời mời phỏng vấn cho một cuốn sách thậm chí còn chưa có nhà xuất bản đại diện. Thậm chí hồi Malcolm Gladwell liên hệ với chúng tôi về cuốn sách Outliers (Những kẻ xuất chúng)11, chúng tôi còn chưa thể đưa ra câu trả lời chắc chắn. Bây giờ – nếu cậu có thể thực hiện thêm các cuộc phỏng vấn khác, nếu cậu có được hợp đồng xuất bản từ Penguin hay Random House – chúng ta có thể nói chuyện về việc trình nó lên Bill. Nhưng trước khi bất cứ yêu cầu nào tôi kể trên được đáp ứng, tôi nghĩ cậu vẫn cần khoảng thời gian tạo đà dài hơi hơn.”
Rồi ông nói tạm biệt và gác máy, để lại tôi một mình trong sự hoang mang. 5%? Điều tiếp theo tôi nhận ra là thấy bản thân ở trong phòng chứa đồ, hai tay ôm đầu và những lời ông ấy nói vẫn tiếp tục văng vẳng dội vào đầu tôi.
Với tiến độ này, chắc bạn bè của tôi sẽ ngồi trên ghế bập bênh để chờ đến khi sứ mệnh hoàn thành mất. Nếu sự giới thiệu của Qi Lu chỉ có thể cho tôi đến gần Bill Gates hơn 5%, vậy thì tôi chắc hẳn ở mức -20% về khả năng tiếp cận Warren Buffett hay Bill Clinton. Và với tất cả các bài thi và bài tập về nhà ở trường, tôi sẽ…
Đợi đã, Bill Clinton ư…
Một ký ức mơ hồ chợt xuất hiện, khiến đầu tôi râm ran vì phấn khích.
Hình như có ai đó từng nói với tôi hồi hè rằng Bill Clinton và Richard Branson từng phát biểu trên một chiếc du thuyền lớn hay cái gì đó đại loại như vậy? Và người tổ chức sự kiện này là một anh chàng trẻ tuổi thì phải?
Tôi với lấy máy tính xách tay, vào Google rồi gõ “Bill Clinton Richard Branson du thuyền” trong mục Tìm kiếm, và tìm được một bài báo trên FastCompany.com:
Vào năm 2008, Elliott Bisnow, doanh nhân đứng sau một vài công ty đã thành lập Summit Series, một “hội nghị phi hội nghị” đóng vai trò như một diễn đàn giao lưu hỗ trợ của các doanh nhân trẻ. Khởi đầu với một chuyến du lịch trượt tuyết gồm 19 người, tổ chức này giờ đã thu hút hơn 750 người đến tham dự sự kiện gần nhất vào tháng 5. Chương trình xây dựng quan hệ, các buổi diễn thuyết TED, chương trình thể thao mạo hiểm, những sự kiện chỉ dành cho khách mời này đã trở thành trung tâm của khởi nghiệp xã hội. Tính đến nay, Summit Series đã xin được nguồn vốn hỗ trợ lên đến hơn 1,5 tỷ đô-la cho các doanh nghiệp phi lợi nhuận. Các thành viên tham dự gồm có Bill Clinton, Russell Simmons, Sean Parker, Mark Cuban, Ted Turner và John Legend.
Tôi tiếp tục đọc, rồi ngẫm lại: Elliott Bisnow, CEO của Summit Series, người đàn ông đã mang tất cả những nhà lãnh đạo này lại với nhau – lúc đó chỉ mới 25 tuổi. Làm sao anh ấy làm được điều đó khi chỉ xấp xỉ tuổi anh họ tôi?
Tôi gõ “Elliott Bisnow” và đọc lướt các kết quả tìm kiếm. Hàng tá bài báo đề cập đến anh ấy, nhưng không có bài nào viết về anh. Anh ấy có một trang blog với hàng trăm bài viết, nhưng tất cả đều là ảnh – Elliott lướt sóng ở Nicaragua; sóng đôi với các siêu mẫu ở Tel
Aviv; xem đấu bò tót ở Tây Ban Nha; có mặt tại Giải đua xe đạp vòng quanh nước Pháp (Tour de France) tại Bỉ; đứng cạnh nhà đồng sáng lập Twitter và CEO của Zappos ở Nhà Trắng. Ngoài ra, trên blog còn có ảnh anh ấy đang xây dựng lớp học ở Haiti, tổ chức thực hiện bài kiểm tra thị lực ở Jamaica; tặng giày cho trẻ em ở Mexico, thậm chí còn có một video quảng cáo Coca không đường mà anh ấy đóng.
Trong một bài báo, tôi đọc được rằng người sáng lập CNN Ted Turner chính là người hùng của anh ấy, và Elliott mong một ngày nào đó được gặp ông. Rồi sau đó, tôi tìm thấy một bức ảnh chụp Elliott đang bắt tay Ted Turner một năm sau đó tại Liên Hợp Quốc. Tôi cũng thấy những bức hình Elliott Bisnow bên bờ biển Costa Rica hay trên một chiếc nhà thuyền ở Amsterdam. Trong mọi bức hình, anh ấy đều mặc áo phông và quần bò, với bộ râu quai nón lôi thôi cùng mái tóc nâu rậm rạp. Tôi tìm được một bài báo trên Huffington Post có tựa đề “Những anh chàng mê tiệc tùng nhất giới công nghệ”. Elliott xếp thứ sáu. Câu kết của bài báo khiến tôi giật mình ngã ngửa. “Kế hoạch tiếp theo của Bisnow: Mua một ngọn núi trị giá 40 triệu đô-la ở Utah.”
Tôi tiếp tục nhấp chuột đọc từng bài báo, bỏ mất hai bữa ăn mà không hề hay biết. Tôi tìm thấy một bức hình anh ấy trò chuyện vui vẻ với Tổng thống Clinton ở phòng khách của ai đó, một bức khác là hình anh ấy trao cho ngài Clinton một giải thưởng, và bức hình thứ ba là với ngài Clinton trên sân khấu của một sự kiện Summit. Tuy nhiên, không có bất cứ bài viết trên mạng nói về con người của Elliott Bisnow. Nó hệt như trang blog của tên trùm lừa đảo trong bộ phim Catch Me If You Can (tạm dịch: Hãy bắt tôi nếu có thể).