🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kể Chuyện Danh Nhân Việt Nam – Tập 8: Các Vị Nữ Danh Nhân Việt Nam Ebooks Nhóm Zalo Biểu ghi biên mục trước xuất bản được thực hiện bởi Thư viện KHTHTP.HCM Lê Minh Quốc Các vị nữ danh nhân Việt Nam / Lê Minh Quốc. - Hồ Chí Minh : Trẻ, 2009 270tr. ; 24cm. - (Kể chuyện danh nhân Việt Nam ; T.8) 1. Danh nhân -- Việt Nam. 2. Nữ anh hùng -- Việt Nam. I. Ts. 959.7092 -- dc 22 L433-Q16 nhà xuất bản trẻ HOAN NGHÊNH BẠN ĐỌC GÓP Ý PHÊ BÌNH NHÀ XUẤT BẢN TRẺ 161b Lý Chính Thắng - Quận 3 - TP. Hồ Chí Minh Điện thoại: 9316211 - 8465595 - 8465596 - 9316289 Fax: 84.8.8437450 E-mail: [email protected] Website: http://www. nxbtre.com.vn 4 LỜI NÓI ĐẦU Trong lịch sử bốn ngàn năm giữ nước và dựng nước, đất nước ta đã xuất hiện nhiều phụ nữ anh hùng và tài hoa. Họ có những đóng góp quan trọng, có thể sánh với nam giới, thậm chí còn hơn cả nam giới ở một vài lĩnh vực nào đó. Đây là điều rất đáng tự hào. Lâu nay, chúng ta vẫn ý thức rằng, không có mặt trời thì hoa không nở, không có phụ nữ không có thế giới. Do đó, tìm hiểu vai trò và sự đóng góp của phụ nữ ở bất cứ thời điểm nào cũng là điều cần thiết và qua đó, chúng ta có thể học tập ở họ những đức tính cao quý khác mà nam giới khó có thể sánh được. Khi biên soạn tập sách Các vị nữ danh nhân Việt Nam, nhà thơ Lê Minh Quốc cố gắng đóng góp phần nhỏ vào mục đích trên. Tuy nhiên, do khuôn khổ có hạn, trước mắt tập sách đề cập đến những vị nữ danh nhân như chị em Hai Bà Trưng đã khởi binh đánh đuổi giặc phương Bắc, nói như sử gia Lê Văn Hưu thì Hai Bà đã “xưng vương dễ như trở bàn tay” và “trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay làm tôi tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao?”. Nữ tướng Lê Chân, chiến đấu dưới ngọn cờ chính nghĩa của Hai Bà Trưng, lập nên những chiến công hiển hách và được tấn phong là Thánh Chân công chúa. Nhưng đến nay ít người biết rằng, chính bà là người phụ nữ đầu tiên mở đất Hải Phòng và dựng lên trang sử oanh liệt. Những phụ nữ bước ra chiến trường như thế không hiếm trong lịch sử nước ta, ta còn có thể kể đến Bà Triệu - người đã thể hiện khí phách của mình: “muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông” mà không phải đấng nam nhi nào cũng có được. Nhìn suốt chiều dài của lịch sử, ta nhận thấy hình ảnh người phụ nữ trong thế kỷ XX đã có nhiều bước tiến bộ khác trước rất nhiều, họ 5 không còn phải ru rú trong xó bếp với quan niệm cổ hủ “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” mà đã ý thức bước ra ngoài xã hội, cùng nam giới đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Nhà văn hóa Nguyễn Đổng Chi cho rằng: “Lịch sử văn hóa, tư tưởng Việt Nam trước, nay và sau có thể tóm tắt bằng một chữ đánh”. Sau truyền thống đánh giặc của Bà Trưng, Bà Triệu… Sau này chúng ta lại có hàng loạt những phụ nữ nối tiếp truyền thống “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Đó là vợ ba Cai Vàng, nữ tướng Bùi Thị Xuân, liệt nữ Cô Giang, liệt nữ Trần Thị Trâm, Lê Thị Đàn, Võ Thị Sáu, nữ tướng Nguyễn Thị Định. Những tấm gương hy sinh oanh liệt hoặc mưu trí trong lúc cầm quân của họ muôn đời sau vẫn còn khiến mọi người khâm phục. Tùy theo điều kiện, mỗi phụ nữ có cách chọn lựa khác nhau đặng cống hiến nhiều nhất tài năng của mình cho đất nước, cho cộng đồng. Nếu bà Nguyễn Thị Minh Khai trực tiếp tham gia Nam kỳ khởi nghĩa thì bà Cao Thị Khanh, bà Đạm Phương nữ sử... chiến đấu trên diễn đàn văn chương, báo chí; bà Năm Phỉ hoạt động lãnh vực sân khấu... Cho đến nay cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vẫn là điểm son chói lọi trong lịch sử nước nhà, nó đã chứng minh tấm lòng yêu nước của con dân dưới ách nô lệ quyết đòi quyền sống, dù phải hy sinh tính mạng... Trong tập sách này chúng tôi cũng đề cập đến những phụ nữ tiêu biểu khác như mẹ Suốt, tên gọi thân thương dành cho bà mẹ có cái tên bình dị là Nguyễn Thị Suốt, quê ở Quảng Bình, đã chèo đò đưa bộ đội qua sông dưới bom đạn Mỹ mà không run sợ. Sự đóng góp của mẹ đã được Quốc hội nước ta tuyên dương Anh hùng. Có thể khẳng định, trong cuộc kháng chiến thần kỳ vừa qua, mỗi người Việt Nam yêu nước, từ nhiều góc độ khác nhau đã có những cách đóng góp riêng. Với suy nghĩ đó, chúng tôi còn đề cập đến Ni trưởng Huỳnh Liên; hoặc một nữ sinh Sài Gòn chọn cái chết là tự thiêu để phản đối chiến tranh phi nghĩa, đánh thức lương tri yêu chuộng hòa bình của loài người. Đó là chị Phan Thị Mai mà hiện nay bút hiệu của chị được đặt tên đường: Nhất Chi Mai. Chúng tôi cũng không quên những bậc nữ lưu nổi tiếng trong các lĩnh vực khác. Đó là thiền sư Diệu Nhân ở thế kỷ XI, với bài kệ nổi 6 tiếng để lại cho đời sau, được giới nghiên cứu văn học nước nhà xếp vào các nữ tác gia tiêu biểu của đời Lý. Hoàng thái hậu Ỷ Lan, người được nhân dân đồng hóa với nhân vật cô Tấm trong cổ tích và cũng là người giúp vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông trong việc trị nước. Bà Nguyễn Thị Duệ uyên bác đời nhà Mạc - một người phụ nữ đầu tiên thi đậu Tiến sĩ trong lịch sử khoa bảng Việt Nam. Cho dù trong xã hội thời trước người phụ nữ không có cơ hội lều chõng để đem tài năng ra giúp nước, nhưng bà đã giả trai để ra thi thố với các đấng mày râu đương thời! Ta còn có thể kể đến nữ sĩ Đoàn Thị Điểm - một trong những người đã có công dịch tác phẩm Chinh phụ ngâm từ chữ Hán ra chữ Nôm. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương với những bài thơ sử dụng ngôn ngữ dân tộc đạt đến đỉnh cao, nhà thơ Xuân Diệu và người đời sau ca ngợi là “Bà chúa thơ Nôm”. Bà Huyện Thanh Quan - nữ sĩ tài hoa với những áng thơ trang nhã, điêu luyện mà nhiều thế hệ sau vẫn còn thuộc nằm lòng. Nữ sĩ Sương Nguyệt Anh - con gái của cụ Đồ Chiểu, người phụ nữ tiết hạnh đã đứng ra làm tờ báo Nữ giới chung đầu tiên dành cho nữ giới. Cũng trong giai đoạn này, ta còn có thể kể đến bà Bang Nhãn một nữ sĩ tiêu biểu của đất Quảng Nam ở giữa thế kỷ XIX mà lâu nay do thiếu tài liệu nên chưa nhiều người biết đến. Tất nhiên chúng tôi không thể không đề cập đến vai trò của bà Từ Dũ - người mẹ đã nghiêm khắc lấy lòng nhân dạy con nên người - dù người con ấy là vua Tự Đức mà lịch sử còn phán xét, nhưng đức độ của bà rất tiêu biểu cho hình ảnh các bà mẹ Việt Nam trong phép dạy con. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà bệnh viện sản phụ lớn nhất tại TP. Hồ Chí Minh đã đặt tên của bà như một sự nhắc nhở cho các bà mẹ tương lai trong ý thức giáo dục con sau này. Thật đáng kính phục cho tấm lòng nhân hậu của người phụ nữ Việt Nam, có người dù không phải là bậc nữ sĩ có nhiều áng văn bất hủ trong văn học sử, hoặc là người cầm quân thao lược đánh đông dẹp bắc, nhưng đời sau vẫn nhớ mãi vì đã để lại cho hậu thế tấm gương sáng về việc làm từ thiện. Người đó là bà Cả Mọc và bà cũng là người đầu tiên thành lập Hội Tế Sinh nuôi dưỡng trẻ em ở Hà Nội mà trong 7 tác phẩm của mình nhà văn Vũ Trọng Phụng đã ca ngợi bà với tất cả sự ngưỡng mộ v.v... Xin được nhắc lại, Các vị nữ danh nhân Việt Nam là tập sách sách thuộc bộ KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM do nhà thơ Lê Minh Quốc biên soạn. Đến nay, theo yêu cầu của độc giả, Nhà Xuất Bản Trẻ đã xuất bản các tập Danh nhân khoa học, Danh nhân quân sự, Các vị tổ ngành nghề, Danh nhân sư phạm, Các vị nữ danh nhân, Những nhà cải cách, Danh nhân cách mạng, Những người Việt Nam đi tiên phong, Danh nhân văn hóa. Điều này cho thấy bạn đọc trẻ ngày nay vẫn quan tâm đến nhân vật và sự kiện của lịch sử nước nhà. Để bộ sách thật sự hữu ích cho bạn đọc - nhất là các bạn thanh thiếu niên - chúng tôi rất mong được sự chỉ giáo, giúp đỡ chân tình của các học giả uyên bác, của các nhà sử học và của các bạn đọc xa gần để bộ sách này ngày một hoàn hảo hơn. Trước hết xin quý độc giả ghi nhận nơi đây sự biết ơn sâu xa của chúng tôi. NHÀ XUẤT BẢN TRẺ 8 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM HAI BÀ TRƯNG Bậc liệt nữ đầu tiên trong lịch sử nước nhàø Bà Trưng quê ở Phong Châu Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên Chị em nặng một lời nguyền Phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân Ngàn tây nổi áng phong trần Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên Hồng quần nhẹ bước chinh yên Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thành Đô kỳ đóng cõi Mê Linh Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta Những câu thơ trong Đại Nam quốc sử diễn ca tưởng chừng còn âm vang mãi, đọc hoài vẫn không chán, nghe mãi vẫn thấy hay. Chiến công của bậc nữ lưu đầu tiên trong lịch sử nước ta vẫn còn chói lọi đến thiên thu. Sử gia Lê Văn Hưu đã bình luận những câu sắc bén: “Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước, xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thể nước Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước nhà Ngô, trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay làm tôi tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao? Ôi! Có thể gọi là tự vứt bỏ mình 9 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM vậy”. Thật vậy, ngay từ năm 221 trước công nguyên, nhà Tần sau khi thống nhất toàn Trung Quốc đã đem 50 vạn quân xâm lược phương Nam. Chẳng bao lâu, nhà Tần suy yếu, nhà Hán lên chiếm ngôi báu. Lợi dụng thời thế loạn lạc, viên quan nhà Tần là Triệu Đà chiếm giữ cả ba quận Nam Hải, Quế Lâm, Tượng, lập nước Nam Việt. Sau đó Triệu Đà cầm quân đi đánh nước Âu Lạc ta, nhưng đánh mãi không xong vì ngoài tinh thần quật khởi dân tộc ta còn có thành Cổ Loa kiên cố, có nỏ thần Kim Quy. Vì vậy, Triệu Đà xảo quyệt dùng kế hoãn binh với An Dương Vương, rồi lập mưu đánh cắp nỏ thần. Nhờ vậy, Triệu Đà mới chiếm được nước Âu Lạc rồi sát nhập vào Nam Việt - chia làm hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Từ năm 111 trước công nguyên vua Vũ Đế nhà Hán sai hai chục vạn quân sang đánh nhà Triệu và sau khi chiếm được nước Nam Việt, chúng đổi thành Giao Chỉ bộ rồi chia làm 9 quận. Từ đó cho đến năm 39 sau công nguyên, là thời kỳ mà sử nước ta gọi là thời kỳ “Bắc thuộc lần thứ nhất”. Dưới ách thống trị tàn khốc của nhà Hán, dân tộc ta không ngừng đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc. Ròng rã suốt 150 năm đó, tinh hoa và khí phách của dân tộc đã hun đúc nên tinh thần quyết chiến quyết thắng mà đỉnh cao chính là cuộc khởi nghĩa của chị em Hai Bà Trưng ở Mê Linh (tức vùng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng - Vĩnh Phú ngày nay). Theo thần tích và truyền thuyết thì mẹ Hai Bà Trưng là bà Man Thiện - cháu chắt bên ngoại Hùng Vương. Dù góa chồng Tượng thờ Bà Trưng Trắc 10 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM sớm, nhưng bà vẫn đảm đang việc nuôi dạy hai con theo tinh thần yêu nước và thượng võ. Gia đình bà sống bằng nghề nuôi tằm, kéo tơ, do đó, khi sinh con, bà đã đặt tên con đầu là Trắc (trứng chắc) và con thứ là Nhị (trứng nhì). Nhờ sự chăm sóc chu đáo của mẹ, hai chị em lớn lên đều khỏe mạnh, giỏi võ nghệ, tính khí hùng dũng. Bấy giờ, nước Nam Việt ta đã bị nhà Hán xâm lược, chúng đổi tên là Giao Chỉ và chia làm chín quận. Đứng đầu mỗi quận có một viên Thái thú trông Tượng thờ Bà Trưng Nhị coi về chính trị và một viên Đô úy chỉ huy lực lượng quân sự. Năm 34, vua Hán Quang Vũ sai Tô Định sang làm Thái thú quận Giao Chỉ. Hắn vốn là kẻ tham lam, độc ác nên ai ai cũng oán giận. Trong khi đó, đến tuổi thanh xuân, bà Trưng Trắc đã kết hôn với Thi Sách (1) con trai lạc tướng ở Chu Diên (tức vùng nằm dọc sông Đáy, sông Hồng ngày nay). Cuộc hôn nhân này khiến Tô Định giật mình vì biết rằng đằng sau đó là sự liên kết giữa hai thế lực của hai vùng đất rộng lớn nhằm lật đổ ách thống trị của nhà Hán. Do đó, Tô Định đột ngột đem quân về Chu Diên bắt giết Thi Sách. Vốn là con nhà tướng, từ lâu căm 1 Về tên chồng bà Trưng, gần đây có nhà nghiên cứu căn cứ vào sách Thủy kinh chú, Hậu Hán thư cho rằng tên là Thi, chứ không phải là Thi Sách. (Phương pháp sử học, NXB Sao Mai 1974, của Nguyễn Phương và tạp chí Kiến thức ngày nay số ra ngày 10-3-1998). Vấn đề này giới sử học chưa có ý kiến chính thức. Tuy nhiên, chúng tôi cũng nêu ra để bạn đọc tham khảo, khi tiếp cận thông tin mới trong vấn đề sử học. 11 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM thù nhà Hán nên hai chị em bà Trưng nhân cơ hội này dấy binh khởi nghĩa. Như vậy, hành động chính nghĩa của Hai Bà vừa vì tình riêng mà cũng vừa vì nghĩa lớn. Trưng Nhị được cử đi liên hệ với hào kiệt bốn phương, còn Trưng Trắc chiêu mộ binh sĩ luyện tập cung kiếm, võ nghệ ngày đêm. Thiên hạ khắp nơi nhiệt liệt hưởng ứng. Điều lạ lùng đáng khâm phục là dưới ngọn cờ của Hai Bà Trưng đã tập hợp được nhiều nữ tướng như: Lê Chân, Bát Nạn, Nàng Nội, Lê Ngọc Trinh, Thiền Hoa, Lê Thị Liễu, Ả Là, v.v… Đây không phải là những tên tuổi được kể lại theo truyền thuyết mà những nữ tướng này hiện nay còn được nhân dân ở các xã tại Vĩnh Phú lập miếu đền tưởng niệm. Theo truyền thuyết dân gian thì nơi Hai Bà Trưng tập luyện binh sĩ chính là tại xã Lâu Thượng gần Ngã Ba Hạc (Vĩnh Phú). Tại đây, người dân kiêng “húy ngài”, nên từ “nhị” được nói lại thành “nhợi” hay “nhội”. Còn làng Giỏ (xã Kinh Kệ, huyện Phong Châu) là nơi Hai Bà Trưng đóng quân. Mùa xuân năm 40, Hai Bà ra quân để quét sạch quân giặc Hán tham tàn. Trước hết, nghĩa quân đã vào viếng đền thờ Xuân Dung, công chúa con vua Hùng, khấn các vua Hùng và công chúa âm phù cho thắng trận. Sau đó, Hai Bà tiến quân về núi Hùng làm lễ tổ tiên, Trưng Trắc đã đọc bốn lời thề mà dân gian còn ghi lại trong Thiên Nam ngữ lục: Một xin rửa sạch nước thù Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng Ba kẻo oan ức lòng chồng Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này Sau lời phát nguyện này, tiếng chiêng, cồng, trống ầm ầm nổi lên(1). Trên bành voi oai phong lẫm liệt, Hai Bà đã thúc quân ra trận. Theo 1 Theo Tạp chí Xưa & Nay của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (số 65 phát hành 7-1999) thì trong quyển Hoàng bà Phả lục do tiến sĩ Phạm Quý Truật soạn đời Lê Cảnh Trị (1663-1671) có viết rằng trước lúc xuất quân, Hai Bà Trưng đã đọc bài Hịch: “Nay Tô Định làm Thái thú Giao Châu, tham tài hiếu sắc, hiếp vợ giết chồng, thần dân đều cùng oán giận, trời đất không thể dung tha. Ta nay vâng mệnh trời, thuận lòng người, dấy nghĩa diệt loài vô đạo họ Tô, hào khí ngất trời, đuổi giặc ngoại xâm giặc Hán, dựng cờ tự chủ ở nước Nam. Trống khuya quật cường vang bốn cõi. Hịch văn đến đâu không kể thổ hào trai gái, đều nên tự khởi nghĩa binh, hãy chiếm lấy châu quận phủ huyện hạt mình, cắt đứt viện trợ quân lương của giặc, sau sẽ chọn quân binh nhuệ đến Hát Môn tiêu diệt giặc Hán. Hịch này truyền ra toàn quốc đều rõ”. 12 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM kế hoạch, nữ tướng Thánh Thiên và Lê Chân đi tiền đạo vây phủ Thái thú, quyết bắt cho bằng được tên Tô Định. Hai Bà Trưng cùng nữ tướng Bát Nạn đi trung quân. Còn phía sau là dân quân vận tải lương thực đi theo. Quân đi đến đâu người theo đến đấy như đi trẩy hội. Hai Bà Trưng qua tranh dân gian Trước khí thế ngút trời của đoàn quân khởi nghĩa, Tô Định kinh hoàng phải trốn chạy về Nam Hải để chịu tội với vua Hán: Ngàn tây nổi áng phong trần Ầm ầm binh mã tới gần Long Biên Hồng quân nhẹ bước chinh yên Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thành Đọc lại vần thơ mà chúng ta tưởng như còn nghe tiếng ngựa hí, quân reo của ngàn xưa vọng lại. Nghĩa quân đi đến đâu, giặc khiếp sợ bỏ chạy đến đó. Các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố… cũng đều nhất tề nổi dậy theo lời kêu gọi của Hai Bà. Chỉ trong một thời gian ngắn, nghĩa quân đã lấy lại được 65 huyện thành! Chính quyền đô hộ ngót 150 năm của nhà Hán sụp đổ trong chớp mắt! Tài cầm quân của chị em Bà Trưng thật đáng khâm phục. Sau chiến thắng oanh liệt này, Hai Bà được nhân dân suy tôn làm vua, xưng là Trưng Vương. Để phòng ngự, Hai Bà đã phong nữ tướng Thánh Thiên làm Thái bảo chư hầu - đóng quân trấn giữ Hợp Phố - đề phòng ở phía bắc; phong cho Đô Lương làm trấn thủ Cửu Chân, Nhật Nam - đề phòng giặc đi đường biển từ phía nam đánh lên; phong nữ 13 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM tướng Lê Chân làm thống xuất quân đội ở Giao Chỉ. Còn Hai Bà đóng đô ở Mê Linh và 2 năm liền xá thuế cho dân. Với chiến thắng này, Lịch sử Việt Nam (NXB KHXH - 1971) có lời bình luận xác đáng: “Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng nổ ra làm chấn động cả trời Nam. Từ trong ngọn lửa của cuộc nổi dậy oanh liệt ấy, tỏa ra chân lý lịch sử này: Một dân tộc dù nhỏ nhưng tự mình đã dựng nên và làm chủ đất nước với số phận mình, là bất khuất. Không một sức mạnh nào tiêu diệt được nó. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà là kết tinh của cả một quá trình đấu tranh, khi âm thầm, lúc công khai của nhân dân Việt Nam. Đấy là một phong trào nổi dậy của toàn dân, vừa quy tụ vào cuộc khởi nghĩa ở Hát Môn do Hai Bà Trưng đề xướng, vừa tỏa rộng trên toàn miền Âu Lạc cũ”. Nhận được tin thắng trận của Hai Bà Trưng, vua nhà Hán vô cùng tức giận liền sai Phục Ba tướng quân là Mã Viện đem hơn một vạn quân tinh nhuệ sang cướp lại nước ta. Mã Viện vốn là danh tướng của nhà Đông Hán. Thời trai trẻ, y thường nói: “Làm trai ở đời phải nên lập công nơi biên ải, nên để cho da ngựa bọc thây mang về. Chứ chết trong tay đàn bà con trẻ ở chốn cố hương thì nào có ích gì!”. Tháng 4 năm 42, Mã Viện hùng hổ kéo quân vượt biên giới. Khi vừa tới Hợp Phố, nữ tướng Thánh Thiên đã nhanh chóng bất ngờ đánh tập kích, Mã Viện phải cho lui quân rồi ngầm qua Quỷ Môn Quan (ải Chi Lăng) lên xuống vùng Lục Đầu rồi tiến ngược lên Lăng Bạc (Tiên Sơn - Hà Bắc). Như vậy, ngay từ lúc mới chân ướt chân ráo ló mặt sang biên giới, quân tinh nhuệ Mã Viện đã bị đánh một trận đích đáng. Nghe tin Mã Viện đang ở Lãng Bạc, Hai Bà Trưng cùng nữ tướng Lê Chân liền đem quân nghênh chiến - nhằm chủ động đánh giặc từ xa để bảo vệ quốc đô Mê Linh. Quân giặc do hành quân đường xa, chưa kịp nắm được địa hình, địa vật nên đã nao núng trước sức tấn công của khởi nghĩa. Bấy giờ, thời tiết đang chuyển dần sang mùa hè nóng bức, giặc không chịu được phong thổ càng đâm ra chán ngán. Chính Mã Viện sau này có tâm sự với bọn tướng sĩ dưới quyền rằng: - Ngày trước khi ta còn hàn vi, muốn lập nghiệp lớn, em họ ta là Thiếu Du thương ta vất vả có bảo rằng: “Người ta ở đời miễn là được cơm no áo ấm. Ham giàu sang, thích sự nghiệp chỉ khổ mình thôi!”. 14 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM Ta không cho thế là phải. Nhưng lúc sang Giao Chỉ ở miền Lãng Bạc, đóng quân nơi đất lạ, giặc chưa diệt được mà trời thì dưới nước lụt, nên mây mù, khí độc bốc lên ngùn ngụt, ngẩng trông lên thấy chim diều hâu đang bay sà xuống nước chết, ngẫm lại lời của Thiếu Du mới thấy là đúng. Những lời của chính Mã Viện thốt ra, chứng tỏ danh tướng của nhà Đông Hán khi giao chiến với Hai Bà Trưng cũng phải hoang mang, khiếp sợ. Dù vậy, lực lượng của giặc còn đông, thạo nghề cung kiếm nên cuối cùng chúng cũng giành được thế áp đảo. Hai Bà Trưng cho lui quân về Cấm Khê (nay thuộc huyện Yên Lạch - Vĩnh Phúc). Mã Viện đem quân đuổi theo. Những trận đánh long trời lở đất lại nổ ra. Ở nhiều chiến tuyến khác, các nữ tướng của Hai Bà Trưng cũng anh dũng chống cự. Để tiếp ứng cho Hai Bà Trưng, nữ tướng Thánh Thiên và bảo tướng Đô Lương kéo quân chi viện, nhưng chưa đến nơi thì bị giặc đánh tan tác. Còn nữ tướng Lê Chân cho quân lấp suối ngăn sông để chặn đường tiến của giặc. Nhưng rồi, vì sức yếu, quân ta trên các chiến tuyến khác đều tan vỡ. Để giữ toàn vẹn khí tiết của bậc nữ lưu anh hùng, khi chạy về đến xã Hát Môn (nay thuộc huyện Phú Thọ, Hà Tây), Hai Bà Trưng đã gieo mình xuống sông Hát Giang (nơi sông Đáy tiếp giáp với sông Hồng Hà) để tự vận. Về sau các nữ tướng của Hai Bà Trưng cũng chọn cái chết oanh liệt như thế. Về thời gian Hai Bà Trưng hy sinh thì theo truyền thuyết dân gian là ngày mồng 8-3, nên ở đền Hát Môn diễn ra lễ hội vào ngày này. Nhưng một số đền lại thờ vào ngày khác. Chẳng hạn đền Đông Nhân (Hà Nội) lại mở hội vào ngày mồng 6-2 vì ngày này theo truyền thuyết của làng, Hai Bà Trưng đã hóa ra tượng gỗ nổi trên mặt nước trôi qua làng và được dân làng vớt về thờ. Còn theo thần tích của đền Gia Phúc (huyện Vĩnh Lạc - Vĩnh Phúc) thì khi gieo mình xuống dòng Hát Giang, hai giải yếm của Hai Bà trôi trên sông Nguyệt Đức, được nhân dân nơi đây vớt lên để thờ. Hoặc truyền thuyết dân gian vùng Vĩnh Phú lại cho rằng, khi thua trận, Hai Bà đã ngự giá lên núi Hy Sơn rồi biến mất. Những truyền thuyết này cho thấy nhân dân ta rất ngưỡng mộ và tôn kính Hai Bà Trưng. Hiện nay, tại đền Gia Phúc còn có bức hoành phi 15 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM ghi câu: “Lạc Hồng chính thống”, đền Xuân Đài lại ghi “Nữ Trưng anh kiệt”. Nhiều người vẫn còn nhớ câu đối rất hay ở đền Gia phúc: - Đại tướng quân quyền, lục thập dư thành quy thống nhất; Vi anh hùng chúa, tứ thiên niên quốc chính khai tiền. (Cầm quyền đại tướng, hơn sáu mươi thành thu về một mối; Làm chúa anh hùng, bốn ngàn năm độc lập mở màn đầu). Lễ hội Hai Bà Trưng trước năm 1945 Cổn miện xưng vương kế Lạc Hồng. - Trâm hoa tự tướng tôi Tô Mã; (Bậc nữ nhi làm tướng đánh đuổi Tô Định và Mã Viện Áo mão lên ngôi vua, nối tiếp dòng dõi Lạc Hùng). Các câu đối, hoành phi này đã nêu lên chiến công hiển hách của Hai Bà Trưng - những người phụ nữ anh hùng đã kế tiếp được truyền thống dựng nước và giữ nước của các vua Hùng. Hiện nay, trên toàn khu vực sông Hồng chỉ mới tìm thấy hai tấm bia ca ngợi công đức của Hai Bà Trưng. Cả hai tấm bia này đều có tên là “Trưng Vương sự tích bi ký” và đặt tại đền Đồng Nhân (Hà Nội). Bia thứ nhất do tiến sĩ Vũ Hoán Phủ (tức Vũ Tông Phan), hiệu Đường Xuyên soạn năm 1840, trong đó có câu như: “Trí tuệ như thế ai mà sánh kịp, tài lược như thế ai mà sánh kịp, nghĩa khí như thế ai mà sánh kịp. Chị em một nhà, anh hùng muôn 16 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM thuở, Hai Bà quả là bậc người hiếm có trong nữ giới và việc làm của Hai Bà cũng khó mà có được trong nữ lưu. Các đấng trượng phu làm việc vốn không cần bàn luận thành bại, mà việc làm của Hai Bà lại không nên lấy thành bại để luận bàn. Nghìn đời sau, đọc trong sử cũ, khiến mọi người đều tăng thêm chính khí. Đến bản triều, Hai Bà vẫn được thờ cúng ở các đền miếu của các triều vua. Ngoài ra, miếu thờ Hai Bà đâu cũng có, ấy là do uy thiêng của Hai Bà lưu truyền lại”. (Bản dịch của Lê Thước và Trần Huy Bá). Còn tấm bia thứ hai do Đốc học Hà Nội là cử nhân Dương Duy Thanh soạn năm 1848, trong đó có câu: “Trong khoảng vũ trụ, sự nghiệp kỳ lạ phần nhiều sinh ra từ những khách trượng phu. Phận gái mà làm nên sự nghiệp lạ, chẳng cũng là bậc nữ trượng phu đó sao? Như thế lại càng đáng ghi lắm. Nhớ Hai Bà Trưng, người Châu Phong, cha là Lạc tướng, tổ là Hùng Vương. Kể về dòng dõi kẻ thường không sánh kịp. Huống nữa Hai Bà đem tấm thân ngọc trắng giá trong, ôm cái chí tang bồng, hoài bão không phải vừa. Hành động lớn lao chẳng ở đấy thì ở đâu?” (Bản dịch của Hoa Bằng). Tương truyền, đền thờ Hai Bà ở đâu cũng đều linh ứng. Đời vua Lý Anh Tông (1138-1175) gặp năm trời đại hạn, ruộng đất không cày cấy được, nhà vua sai Uy Tĩnh thiền sư đến đền Hai Bà để cầu mưa. Quả nhiên hôm ấy trời mưa tầm tã, vua thấy linh ứng bèn ra lệnh xây lại đền nguy nga hơn và phong tặng là Trinh linh nhị phu nhân. Đến đời Trần lại gia phong là Uy liệt chế thắng Thuần Trinh, Bảo Thượng lưỡng phu nhân. Với truyền thống cao đẹp “uống nước nhớ nguồn” ở nước ta suốt bao thế kỷ nay, trong các lễ hội truyền thống tưởng nhớ công lao các vị anh hùng dân tộc, có lễ hội Hai Bà Trưng diễn ra ở ba nơi: Hội đền Hát Môn ngày 8-3, giỗ Vua Bà; ngày 4-9 hội quân, lập đàn thề; ngày 24 tháng chạp hội mừng thắng trận. Còn Hội đền Hạ Lôi (xã Hạ Lôi, huyện Mê Linh, Vĩnh Phúc) tổ chức ngày 6 tháng giêng có lễ khao quân, rước kiệu… và Hội đền Đồng Nhân (phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng - Hà Nội) diễn ra từ ngày 3 đến 6-2 hằng 17 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM năm. Đặc biệt ở hội đền Hát Môn, trong lễ vật cúng Hai Bà có bánh trôi -tục gọi là bánh tù tì - xuất phát từ truyền thuyết khi quân của Hai Bà Trưng chuẩn bị khởi nghĩa, có một bà lão nghèo đã dâng cả hàng bánh trôi để ủng hộ. Hai Bà đã vui vẻ nhận và chia cho quân sĩ cùng ăn trước lúc ra trận. Còn tướng giặc Mã Viện, sau khi cướp được nước ta, y cho dựng cây cột đồng có khắc sáu chữ: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (cây trụ đồng đổ thì người Giao Chỉ tuyệt diệt). Hiện nay, không rõ cây trụ đồng ấy chỗ nào, vì mỗi người đi qua đều ném vào một hòn đá, lâu ngày, biến thành gò đá, xóa mất dấu tích! Cho dù cây trụ đồng mất đi, nhưng tội ác của Mã Viện khi chỉ huy cuộc viễn chinh xâm lược vẫn còn đó. Và ngàn năm sau vẫn còn đó chiến công hiển hách của người phụ nữ Việt Nam dám đứng lên phất cờ lật đổ ách thống trị của kẻ thù phương Bắc! Chiến công này có tầm vóc rất quan trọng trong lịch sử nước nhà. Nhà sử học Nguyễn Văn Tố đã từng nói: “Bổn phận chúng ta là phải tôn Hai Bà Trưng lên bậc liệt nữ thứ nhất của nước nhà và ghi năm 40-43 vào Niên biểu chính. Mỗi khi chép sử hay dạy Đền thờ Hai Bà Trưng (Ảnh: Võ An Ninh) 18 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM sử, nghĩa vụ của ta là phải nhớ lấy rằng trừ thời lập quốc ra không kể, nước Nam ta đã có tinh thần tự chủ ngay từ hồi Hai Bà Trưng, tức là từ đầu thế kỷ thứ nhất, chứ không phải từ thời Tiền Lý về thế kỷ thứ VI”. Và trong tập thơ Vịnh sử thi tập của tiến sĩ Đặng Minh Khiêm - người mở đầu cho loại thơ vịnh sử Nam bằng chữ Hán - viết từ thế kỷ XV có bài tứ tuyệt vịnh Hai Bà Trưng rất hay: Sinh tiền dũng mãnh nêu Mai Lĩnh Hiển thánh làm mưa lại có công Dòng dõi Mê Linh dòng võ tướng Nữ nhi liệu được mấy anh hùng? (Bản dịch của Tổng tập văn học Việt Nam, tập 6) 19 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM LÊ CHÂN Vâng mệnh vương, dẹp xâm lăng, lừng danh nữ tướng Hải Phòng là thành phố cảng nằm bên bờ vịnh Bắc bộ. Hải cảng của thành phố này được xây dựng từ năm 1876 và cũng là một trong những thương cảng lớn của đất nước ta. Nhớ đến Hải Phòng, lập tức trong trí nhớ của ta vang lên giai điệu “Thành phố hoa phượng đỏ” của nhạc sĩ Lương Vĩnh (phổ thơ Hải Như) da diết và nồng ấm tình cảm: “Tháng năm, rợp trời hoa phượng đỏ. Ôi! Hải Phòng thành phố quê hương. Ta yêu thành phố quê ta như yêu chính người thương yêu nhất. Những hẹn hò bên bờ sông Lấp, những Tượng thờ bà Lê Chân tại đền Nghè (Hải Phòng) con đường tấp nập áo thợ ngày đêm, những Bến Bính, Xi Măng, Cầu Rào, Cầu Đất, Lạc Viên... Những cái tên nghe chẳng thơ đâu, nhưng với ta vô cùng oanh liệt. Ôi! Thân thiết tự hào quê hương...”. Niềm tự hào ấy sáng mãi theo năm tháng. Và càng tự hào hơn khi ta biết người đầu tiên mở đất và dựng lên trang sử oanh 20 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM liệt trên đất Hải Phòng chính là một nữ tướng. Bà tên là Lê Chân - một tướng tài của Hai Bà Trưng, được tấn phong là Thánh Chân công chúa. Theo bản thần tích hiện còn lưu giữ ở Đền Nghè (thuộc quận Lê Chân), Lê Chân là con ông Lê Đạo (có tài liệu ghi Lê Thái Bảo) và bà Trần Thị Châu (có tài liệu ghi Hoàng Thị Châu), quê ở An Biên, huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn, xứ Hải Dương (nay thuộc xã An Thủy, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh). Sống trong làng, ông bà Lê Đạo luôn được láng giềng quý mến, kính trọng, bởi họ lấy nghề làm thuốc làm mục đích cứu nhân độ thế và thường đóng góp tiền của để làm cầu đường, tô tượng đúc chuông... Thế nhưng ngoài bốn mươi xuân họ vẫn chưa có con nối dõi. Theo thần tích “Một hôm ông bà tới chùa Yên Tử cầu Phật, rồi mơ thấy một thiên sứ nói rằng, Ngọc Hoàng sẽ cho một vị tiên nữ giáng trần, làm con trong bốn mươi năm, gia đình sẽ được vinh hiển. Rồi một hôm bà dậy sớm ra đồng, thấy một dấu chân to, bèn ướm chân mình vào, trở về cảm động mà có thai, mãn kỳ kinh sinh ra một gái (ngày 8 tháng 2) cực kỳ sinh đẹp, bà nhớ tới dấu chân, bèn đặt tên Chân”. Thương con, ông bà Lê Đạo đã mời thầy về dạy dỗ cho con thành tài. Không chỉ xinh đẹp, Lê Chân còn sáng trí, thông minh, học một biết mười, học đến đâu nhớ đến đó và nổi tiếng nhất trong vùng về “đàn, thơ, cung, kiếm”. Quả là một trang nữ nhi tài sắc vẹn toàn. Lớn lên, Lê Chân càng xinh đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”, đến nỗi “chim sa, cá lặn, nguyệt thẹn, hoa nhường”. Lúc Lê Chân lớn lên trong sự đùm bọc, yêu thương của cha mẹ nước nhà đã mất vào tay giặc phương Bắc. Trong lịch sử nước ta, thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất bắt đầu từ năm 111 trước Tây lịch. Đó là năm vua Vũ đế nhà Hán sai quân sang đánh nhà Triệu, lấy nước Nam Việt rồi đổi thành Giao Chỉ bộ và chia làm 9 quận. Mỗi quận có một quan thái thú cai trị và lại có quan thứ sử giám sát các quận. Năm 34, vua Quang Vũ sai Tô Định sang làm thái thú quận Giao Chỉ. Tô Định là kẻ tàn bạo, tham lam, ngay cả sử nhà Hán cũng đánh giá y là kẻ “thấy tiền là giương mắt lên”. Không chỉ thế, y 21 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM còn hoang dâm, háo sắc. Tiếng đồn về tài sắc cô con gái của ông bà họ Lê đã đến tai Tô Định, lập tức, y muốn cưỡng làm tì thiếp. Trước thái độ nghênh ngang, hống hách của y, Lê Chân đã bỏ trốn. Điên cuồng như chó dại, không cướp được nhan sắc của của giai nhân, y hèn hạ tìm cách ám hại ông bà Lê Đạo. Hành động tàn ác của y đã khiến Lê Chân, dù “yểu điệu thục nữ” nhưng cũng quyết nuôi chí phục thù. Biết không thể đối đầu cùng lực lượng hùng mạnh, Lê Chân tìm cách trốn thoát đến nơi khác lập nghiệp. Với những người cùng chí hướng, cùng mang nặng tâm tư thù nhà, nợ nước, không thể đội trời chung với tên thái thú lòng lang dạ sói Tô Định, Lê Chân đã giong thuyền đến vùng đất An Dương - cạnh sông Cửa Cấm (Hải Phòng ngày nay). Thấy nơi này đất đai màu mỡ, sông ngòi chằng chịt, lau sậy um tùm, địa thế hiểm trở, thuận tiện cho việc lập căn cứ chống giặc bà đã quyết định ở lại. Bà là người trước nhất nhìn thấy nơi này có vị trí quan trọng trong việc xây dựng căn cứ quân sự cũng như tăng gia sản xuất, có thể đảm bảo được công tác hậu cần nếu tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài. Vì thế, bà cho người tìm về quê cũ đón gia quyến và người thân tới để xây dựng trang ấp mới. Nhớ quê cũ bà đặt tên cho quê mới là An Biên. Nghe tin, nhiều nam thanh nữ tú vùng Đông Triều, Kinh Môn, Thủy Nguyên... đã tìm đến hội tụ dưới cờ nghĩa của bà. “Với sức người sỏi đá cũng thành cơm”, dăm năm sau, vùng đất hoang vu này đã trở thành nơi sầm uất, khách thập phương nườm nượp tìm đến giao thương, buôn bán. Không những thế, bà còn ngầm liên kết với các hào kiệt xa gần để tạo nên một thế lực vững mạnh. Những dân quân dưới quyền của bà, thời bình là những người “tay cày tay cuốc” làm ra lúa gạo, nhưng trong thời chiến lại là những nghĩa quân dũng cảm cầm vũ khí đối đầu với “hòn tên mũi đạn”. Họ được huấn luyện thông thạo về thủy chiến, để tùy lúc có thể phối hợp với bộ binh đánh tan những âm mưu của giặc. Sự lớn mạnh của vùng đất này, không thể lọt ra khỏi tầm mắt của Tô Định. Y đã sai quân đến đến bao vây, nhưng do cảnh giác nên nghĩa quân đã phát hiện và chủ động đánh trả oanh liệt. Quân giặc Hán khiếp sợ tài cầm quân của nữ tướng Lê Chân nên gọi là “Cá Kình biển Đông”. 22 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM Mùa xuân năm 40, khi nghe tin Hai Bà Trưng “phất cờ nương tử”, dấy binh đánh quân xâm lược, bà Lê Chân đã đưa toàn bộ nghĩa quân gia nhập vào đại quân. Trong cuộc khởi nghĩa này, ngoài bà Lê Chân còn có sự góp sức của các anh hùng hào kiệt bốn phương, các nữ tướng như Thánh Thiên, Thiều Hoa, Bát Nạn, Nàng Nội, Ả Là, Lê Ngọc Trinh... Có lẽ trong công cuộc giữ nước của nhân dân ta, chưa có một cuộc ra quân nào mà nữ giới đóng một vai trò quan trọng đến như thế. Ta có thể liên tưởng đến “đội quân tóc dài” trong cuộc Đồng khởi (Bến Tre) của thập niên 60 trong thế kỷ XX, nhưng sự ra quân rầm rộ ấy cũng không thể sánh được thắng lợi giòn giã, chiến công vang dội dưới quyền chỉ huy của Hai Bà Trưng. Trong cuộc khởi nghĩa này, bà Lê Chân cùng bà Thánh Thiên được cử làm tướng tiên phong, đi vây đánh phủ Thái thú. Hào khí của nghĩa quân dâng cao như sóng, Tô Định bị đuổi đến tận quận Nam Hải! Giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc, y phải cải trang bằng cách cạo sạch “mày râu nhẵn nhụi”, rồi cùng đám tàn binh phải chạy trối chết. “Theo dân gian truyền tụng lại, đạo quân Hai Bà quy tụ ở Mê Linh, khởi sự đánh chiếm đô úy trị của Thái thú Tô Định đóng tại đây. Sau đó từ Mê Linh kéo quân đến đánh huyện Tây Vu, tức thành Cổ Loa. Rồi từ Cổ Loa vượt qua sông Đuống xuôi dòng sông Dâu đánh phá quận trị quận Giao Chỉ, bấy giờ đóng ở thành Luy Lâu. Quân của Hai Bà cả thủy, bộ, với đàn voi dũng mãnh đã nhanh chóng phá được thành. Các quan lại, Thứ sử, Thái Thú, tướng tá, quân sĩ nhà Hán hoảng sợ, không dám chống cự, bỏ chạy thoát thân. Tên Thái thú tham lam, gian ác Tô Định trốn chạy về quận Nam Hải. Các Lạc tướng ở các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố nghe tin quân Hán thất bại thảm hại, cũng đều nổi dậy cùng đạo quân của Hai Bà đánh chiếm các quận huyện, đập tan chính quyền đô hộ của nhà Hán ở các nơi. Các quận huyện khác như Thương Ngô, Uất Lâm... cũng đều nổi dậy theo về quân Hai Bà” (1). Với khí thế thần tốc ấy, đại quân Hai Bà Trưng thu về 65 thành 1 Lịch sử Việt Nam, tập 2 - Hội đồng Khoa học Xã Hội TP.HCM, Viện Khoa học Xã Hội TP.HCM biên soạn - NXB Trẻ - 2004 - trang 135. 23 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM trì dễ dàng như lật bàn tay. Chiến công oanh liệt này vang dội đến ngàn sau. Hai Bà Trưng lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh (Vĩnh Phúc). Việc phòng thủ, củng cố an ninh quốc gia được đề ra cấp bách. Trưng Vương sai Thánh Thiên đóng quân ở Hợp Phố phòng mạn Bắc, Đô Dương giữ Cửu Chân phòng mặt Nam, Lê Chân với trọng trách “Chưởng quản binh quyền nội bộ” đóng đại bản doanh ở Giao Chỉ và trấn thủ miền Đông Bắc. Bà Lê Chân đã không phụ lòng tin của Hai Bà Trưng, với nhiệm vụ được giao bà chứng tỏ là người có uy tín và thành thạo địa hình, thông hiểu tập quán của dân chài miền biển. Khi trấn thủ miền Đông Bắc, bà đã dốc công, hết lòng với nước với dân.Việc tuần tra, kiểm soát các thuyền bè ra vào được thực thi nghiêm ngặt. Ngoài việc canh giữ biên cương, bà còn chăm lo phát triển trang ấp. Bà đã tuyển thêm dân binh, mở lò tập võ, luyện vật, phát triển việc trồng cây, chăn nuôi, đánh bắt tôm cá, xây dựng thôn xóm ngày một trù phú, đông vui. Những việc làm của Lê Chân trên vùng đất mới đã cố kết dân tình, giữ vững nền tự chủ vừa giành được. Nhưng giặc phương bắc không để nước reo vui trong khúc khải hoàn ca: Uy thanh động đến Bắc phương Hán sai Mã Viện lên đường tiến công (Đại Nam quốc sử diễn ca) Mùa hè năm 41, vua Quang Vũ sai danh tướng Mã Viện làm Phục Ba tướng quân chỉ huy đại binh sang đánh nước ta. Nghe tin, Hai Bà Trưng đã cho triển khai lực lượng sẵn sàng chiến đấu. Mã Viện đã bị nghĩa quân đánh những đòn thất điên bát đảo... Bà Lê Chân cùng với Hai Bà Trưng và nhiều tướng lĩnh khác đã tham gia những trận đánh ác liệt ở vùng hồ Lãng Bạc (Bắc Ninh ngày nay), trận đánh phá vây ở Cấm Khê (ngày nay có thể là vùng thung lũng Suối Vàng ở chân núi Vua Bà, trong dãy Ba Vì - Hà Tây). Nhưng rồi do quân yếu thế cô, Hai Bà Trưng đã tuẫn tiết ở cửa sông Hát Môn, còn bà Lê Chân cũng hi sinh anh dũng. 24 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM Về cái chết oai hùng của bà Lê Chân, các tài liệu ghi khác nhau: bà gieo mình xuống sông Hát; bà hy sinh ở chiến trường Lạt Sơn (nay thuộc xã Thanh Sơn, huyện Kinh Môn, Hải Dương) trong một trận chiến không ngang sức với quân giặc, ngày 25 tháng chạp năm 43. Theo thần tích, lúc ấy thi hài của bà hóa thành một phiến đá nổi, trôi về tận cửa sông Cấm. Dân xã An Biên rước phiến đá về lập đền Nghè Bia ca ngợi công đức bà Lê Chân tại đền Nghè thờ phụng, trải qua các triều bà được phong thượng đẳng phúc thần. Ngày nay đền nằm trên phố Lê Chân, quận Lê Chân, cách Nhà hát lớn thành phố Hải Phòng khoảng 600m, được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Lúc đầu, đền Nghè mới chỉ là một ngôi miếu nhỏ lợp gianh nứa. Năm 1919, tòa hậu cung của đền được xây dựng, năm 1925 được trùng tu, năm 1926 xây thêm toà Tiền Bái. Đây là một tổng thể di tích lịch sử có giá trị lịch sử gồm voi đá, ngựa đá, sập đá, bia đá ghi tiểu sử của vị Nữ tướng anh hùng Lê Chân. Các tòa kiến trúc thể hiện nghệ thuật điêu khắc điêu luyện, mang tính truyền thống của nhiều thế kỷ trước. Tượng Nữ tướng Lê Chân được đặt ở chính giữa hậu cung. Tương truyền, đền thờ của bà rất linh thiêng. Dưới đời vua Trần Anh Tôn, bà cũng ngầm “phù vận nước” nên được nhà vua gia phong Nam Hải Uy Linh. Hiện trong đền Nghè còn có lưu giữ được các câu đối nêu cao công đức của bà (Nguyễn Duy Niên dịch): Vâng mệnh vương, dẹp xâm lăng tiếng lừng nữ tướng; Ra oai trời, trấn bãi biển ơn giúp nhân dân. 25 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Đền Nghè hiện nay tại Hải Phòng Hàng năm, tại đền mở hội lớn vào 3 ngày (tính theo âm lịch): ngày 8/2 là ngày sinh của nữ tướng Lê Chân; ngày 15/8 là ngày nghĩa quân thắng lớn và ngày 25 tháng chạp là ngày bà hy sinh. Tấm gương oanh liệt của bà Lê Chân cùng các nữ tướng khác chiến đấu dưới cờ nghĩa của Hai Bà Trưng mãi mãi là niềm tự hào trong lịch sử nước nhà. Bất cứ trong thời đại nào, hễ đất nước mất vào tay ngọai xâm thì phụ nữ Việt Nam cũng cũng tích cực đóng góp máu xương của mình để giành lại non sông gấm vóc. Những liệt nữ ấy sống muôn thuở cùng non sông đất nước, sống muôn năm trong sự ngưỡng mộ của đời sau. 26 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM BÀ TRIỆU Người muốn cưỡi sóng đạp gió, chém cá kình biển đông Trời sẩm tối. Từ cánh rừng già, có một nữ nhi ngồi trên lưng ngựa thong thả về xuôi. Vó ngựa vang lên đều đặn. Trong bóng nắng chập choạng cuối ngày, gương mặt của nàng ửng hồng. Nhan sắc ấy từng làm nhiều người mê đắm. Mặt đẹp như hoa. Tóc mượt như mây. Mắt sáng như châu ngọc. Môi đào. Mũi hổ. Đầu báo. Đã thế, thân hình nàng lại cao lớn và có giọng nói âm vang như tiếng chuông. Người tầm thường tất không có dung mạo như thế. Vó ngựa vẫn vang đều đặn. Bà Triệu qua tranh dân gian Bỗng từ trong bóng tối, sau gốc cây lớn, một con cọp đủng đỉnh bước ra. Rồi nhanh như chớp, nó phóng về phía nữ nhi với những chiếc móng nhọn hoắt! Bị tấn công bất ngờ, con ngựa hí vang, hoảng sợ đến nỗi quî bốn chân xuống đất. Còn nữ nhi không một 27 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM chút nao núng, nàng nhảy vào sau ụ mối và nhanh nhẹn giương cung về phía đối thủ. Một mũi tên xé gió vút đi… cắm phập vào mắt của con cọp dữ. Đòn hiểm ác này khiến nó trở nên dữ tợn lạ thường. Nó gầm lên tưởng như rung chuyển cả đại ngàn rồi lao về phía cô gái! Nhưng không kịp nữa rồi. Nàng đã tuốt gươm sáng quắc. Những đường gươm điêu luyện múa trong gió, tưởng như vây kín lấy thân hình uyển chuyển của nàng. Chỉ trong chớp mắt, mũi gương đã đâm chính xác vào họng cọp dữ. Máu chảy như thác. Nó hộc lên một tiếng rồi quay mình bỏ chạy. Nàng đuổi theo và kết thúc số phận của nó bằng những đường gươm sắc bén. Trời đã tối. Chỉ còn lại tiếng gió âm vang u u từ rừng sâu thổi về. Nàng đưa tù và lên miệng, thổi một hơi dài. Nghe tiếng gọi của chủ, con ngựa từ đằng xa chạy lại. Nàng đặt cọp lên lưng ngựa rồi thong thả dắt về nhà. Thấy nàng bước vào, người anh trai đến đỡ xác con cọp bê bết máu ném xuống sân rồi lắc đầu ngán ngẩm: - Sao? Lần này thì em ở luôn lại nhà chứ? Không đáp lại câu hỏi của anh, nàng bật lên tiếng cười hào sảng. Hiểu tính tình ngang bướng của em gái, người anh lẳng lặng đi xuống nhà sau. Cha mẹ mất sớm, chỉ còn hai anh em. Trước đây vì bà chị dâu làm điều sai trái, nàng tức giận đánh chết nên người anh không bằng lòng. Nàng bèn chia bếp vào rừng ở, tự làm để sống. Nhưng rồi, tình cốt nhục ruột thịt cũng không nỡ bỏ nhau. Lần này, nàng về ở luôn tại nhà. Người anh khấp khởi mừng vì có thể khuyên em cưới chồng để ổn định cuộc sống riêng tư. Nhưng niềm mong mỏi của người anh trở nên vô ích. Từ khi quay về lại nhà, nàng bỏ tiền của ra để chiêu hiền đãi sĩ. Họ gặp nhau thường bàn luận những chuyện đại sự! Những người mưu lược, những kẻ tráng kiện đêm ngày bàn tính việc dấy binh, dựng cờ khởi nghĩa! Ban đầu, người anh lấy làm khó chịu thường khuyên bảo nàng rằng phận nữ nhi, đàn bà không nên tham gia vào những chuyện đội đá vá trời như thế. Nàng cứng cỏi đáp lại: 28 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM - Người ta sống trong chốn bụi hồng, như mầm cây như nhánh cỏ cây. Từ lúc tươi tốt đến lúc héo hắt chỉ trong nháy mắt. Từ lúc thanh xuân đến lúc già cỗi nhanh chóng như lật bàn tay. Vậy phải để tâm làm những việc lớn. - Thế thì phải làm việc lớn như thế nào? Nàng đáp: - Em chỉ muốn cưỡi gió đạp sóng, chém cá kình lớn ở biển đông, quét sạch bờ cõi, cứu dân ra khỏi cảnh chìm đắm trong vòng nô lệ. Chẳng lẽ, em lại bắt chước người đời cúi đầu khom lưng làm tì thiếp kẻ khác, cam tâm phục dịch nơi xó bếp sao? Người anh dù giật mình trước câu nói khí phách ấy, nhưng cũng nhẹ nhàng bảo: - Nhưng là phận gái thì em phải lập gia đình chứ? Nàng lắc đầu đáp: - Cả nước làm con hầu đầy tớ cho giặc phương Bắc, thì ai xứng đáng là chồng của em? Người anh không trả lời được, nhưng từ đó ngấm ngầm ủng hộ việc làm của em mình và thường tự hào: “Em gái ta có chí khí ấy, há chẳng phải sau Hai Bà Trưng thì nay có em ta đó sao!”. Lúc bấy giờ, người anh có bốn thủ hạ tâm phúc là Vương Thiện, Lãnh Long, Bao Thúc và Tốn Thận đều là những tay khỏe mạnh, trí dũng mưu lược. Trước chính sách cai trị hà khắc, độc ác của kẻ thù phương Bắc, họ đề nghị chàng khởi sự. Chàng đắn đo, nói: - Giặc thường luôn luyện tập võ nghệ, lực lượng đông đúc, nhuệ khí đang hăng. Còn ta là đám quân mới tập hợp, võ nghệ chưa quen, binh khí chưa nhiều. Nếu có ra quân thì chỉ mươi ngày là bại vong, lúc ấy hối còn kịp sao? Chi bằng hãy bền gan đợi thời cơ. Chàng vừa dứt lời thì bỗng nghe từ đàng sau một tiếng nói vang lên như tiếng chuông: - Thời cơ ấy chỉ có để dựa vào chính sức lực của mình. Việc làm 29 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM hợp với đạo trời thì đấy chính là thời cơ. Nếu anh khởi binh, thì em tuy bất tài nhưng cũng xin dẫn một đội binh mã xung phong đi trước. Quay lại phía sau, thấy em gái mình, chàng nói: - Ta cũng hiểu lẽ ấy, nhưng thế giặc đang vững như bàn thạch, việc động binh không thể nôn nóng được! Nàng đáp: - Người cầm quân tài giỏi xưa nay đều phải biết tùy cơ ứng biến để quyết được thua trong khoảnh khắc. Nay giặc tung hoành ngang dọc trên đất nước ta, dưới mắt chúng thì dân Nam ta không có ai đáng mặt anh hào, chỉ là cỏ rác, sâu bọ. Binh pháp có nói: “Xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị”, ra quân bất ngờ, đánh lúc giặc chưa phòng bị thì tất thắng. Lẽ nào anh lại quên? Nghe em mình nói, chàng gật gù cho là đúng. Chàng quyết tâm cùng em dựng cờ khởi nghĩa. Từ đó, hào kiệt khắp nơi quy tụ ngày một thêm đông. Họ đưa nhau lên đỉnh núi Nưa (Thanh Hóa) mài gươm, luyện võ. Từ đó, cứ đêm đêm người dân trong làng lại nghe trên núi có những tiếng nói âm vang, kỳ quặc, chỉ phát ra từ lúc giờ Tý đến giờ Sửu mà thôi. Họ đốt đuốc đi lên núi thì cũng chẳng thấy có gì lạ. Duy chỉ từ trong tảng đá to đã phát ra tiếng nói: Có bà nữ tướng Vâng lệnh trời ra Trị voi một ngàn Dựng cờ mở nước Lệnh truyền sau trước Theo gót bà Vương Ai ai cũng lấy làm lạ trước điềm trời đã sai đá báo tin. Nguyên trước đây, có một con voi trắng một ngà, từ trên rừng xuống quấy phá dân làng. Mọi người tập hợp gươm giáo để đánh đuổi nó. Khi chạy vào rừng, nó sa chân xuống bãi lầy. Bị lún chân trong bùn nhão, nó rống lên những tiếng dị thường và tìm mọi cách để thoát khỏi nơi tử địa. Lúc nó rút được chân lên thì mọi người dùng dây chão, xiết làm 30 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM thòng lọng, ném vào chân nó riết chặt và kéo lên! Được đà, con voi hất văng mình lên mặt đất rồi đâm vào đám đông. Trước sự hùng hổ, dữ tợn của con voi một ngà ai nấy đều kinh hoàng bỏ chạy. Lúc này một người con gái xuất hiện, nàng bình tĩnh cầm chiếc búa phóng lên đầu con voi để trị tội. Bị những nhát búa đánh trúng huyệt, con voi lồng lộn, nó cuốn vòi về phía sau để hất tung đối thủ. Nhưng nàng đã lanh lẹ né tránh và bồi thêm những nhát búa nữa. Con voi đau đớn vội quỳ chân xuống, chịu thua. Từ trên mình voi, nàng nhảy phắt về phía trước mặt nó. Nhìn thấy nàng, con voi cụp mắt, tỏ vẻ quy thuận. Nàng cất tiếng bảo làm gì nó cũng ngoan ngoãn làm theo. Sau đó, nàng đưa voi lên núi để tập luyện. Do đó, khi nghe lời trong đá vọng ra, ai nấy đều hào hứng và đi theo nàng rất đông. Công việc đang tiến hành thì chẳng may anh của nàng bị bạo bệnh mà chết. Mọi người thấy nàng có tài, có sức, mưu lược hơn người nên đồng lòng tôn nàng làm minh chủ. Đó là Triệu Thị Trinh, sinh ngày 2/10 năm Bính Ngọ (226). Bà là em gái của Triệu Quốc Đạt, vốn dòng hào trưởng ở Quân An, Cửu Chân (nay là Thiệu Hóa – Thanh Hóa). Sau khi dập tắt cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, năm 43, nhà Đông Hán đặt lại ách thống trị trên đất nước ta và mở ra thời kỳ mà sử ta gọi là: “Bắc thuộc lần thứ hai (43-544)”. Trong khoảng thời gian đó, vào đầu thế kỷ thứ 3, chính quyền nhà Đông Hán tan rã và phân ra làm ba nước: Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô. Nước ta trở thành một quận lệ thuộc nhà Đông Ngô và lúc này, cái tên Giao Chỉ dưới thời nhà Hán được đổi là Giao Châu. Năm 248, Triệu Thị Trinh làm lễ tế cáo trời đất rồi xuất quân đi đánh giặc. Lúc ra trận, bà ngồi trên bành voi một ngà, mặc áo kim cát, lấy lụa buộc ngang hông, đầu chít khăn vàng, chân đi guốc ngà nên rất oai phong và được tôn là Nhụy Kiều tướng quân. Bà dẫn quân xông pha trận mạc, tả đột hữu xung rất oanh liệt khiến bọn giặc phương Bắc phải khiếp sợ. Chúng thường nói với nhau: “Múa gươm chống cọp thì dễ, nhưng giáp mặt với Vua bà thì thật khó”. Thậm chí chúng còn thất kinh hồn vía không dám gọi thẳng tên bà mà gọi là 31 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Lệ Hải Bà Vương. Nghĩa quân của Bà Triệu thắng trận giòn giã, giết chết Thứ sử Châu Giao. Rồi các quận Giao Chỉ, Cửu Chân cũng đều nhất tề đứng dậy hưởng ứng theo cuộc khởi nghĩa này. Giặc phương Bắc lo sợ phải phái danh tướng Lục Dận làm thứ sử Giao Châu đem 8 nghìn quân sang nước ta. Tương truyền, trước sức mạnh như vũ bão của nghĩa quân dưới tài năng chỉ huy của một người con gái, Lục Dận đã nghĩ ra mưu kế cực kỳ đê tiện, biết Bà là người “ái khiết úy ô” nghĩa là yêu cái gì trong sạch, ghét cái gì dơ bẩn nên từ tướng đến quân của Lục Dận đều… lõa thể khi giao chiến đối mặt với quân của bà. Kinh tởm trước lối chiến thuật hèn hạ ấy, bà phải lui voi. Giặc lập tức đuổi theo. Khi lên đến núi Tùng Sơn (thuộc Phú Điền, Hậu Lộc, Thanh Hóa) quyết không để sa vào tay giặc bà đã rút gươm tuẫn tiết - sau khi khấn với trời đất: “sinh vi tướng, tử vi thần”. Đó là ngày 21/2 năm Mậu Thìn (248). Bà mất đi nhưng khí phách oai hùng ấy sống mãi với non sông nước Việt muôn đời. Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu năm 248 đã được sử nhà Ngô ghi nhận là: “toàn thể Giao Châu đều chấn động”. Trong nhân dân còn lưu truyền câu ca dao nói lên sự tôn kính và ủng hộ cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu: Ru con con ngủ cho lành Để mẹ gánh nước rửa bành con voi Muốn coi lên núi mà coi Coi bà Triệu tướng cưỡi voi bành vàng Hoặc: Tùng Sơn nắng quyện mây trời Dấu chân bà Triệu rạng ngời sử xanh Về sau Thủ khoa Nguyễn Đôn Dự có thơ rằng: Phải đánh vì chưng giặc đến nhà, Cờ đề chữ Triệu giục voi ra. Giận nòi giống Việt về tay nó, Cho tướng quân Ngô biết mặt Bà. 32 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM Tam quốc nhân tài đây có một, Nhị Trưng nữ tướng nữa là ba. Còn trời còn đất còn non nước, Còn chuyện anh hùng gái nước ta. Gái nước Nam ta anh hùng như thế, do đó, không phải ngẫu nhiên mà sử bên Tàu dù khâm phục Bà Triệu nhưng vẫn cố tình bôi nhọ khi gọi bà là Triệu Ẩu - tức mụ già họ Triệu (chứ không ghi tên thật) hoặc bịa ra chi tiết vú bà dài ba thước phải vắt ngang vai khi xuất trận… (!?) Hiện nay, tại núi Tùng Sơn (thuộc địa phận làng Phú Điền, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) vẫn còn lăng mộ và đền thờ Bà Triệu. Ngàn năm trôi qua, trên quê hương Bà vẫn còn lưu truyền câu đối (khuyết danh) ca ngợi công đức của Bà: Trông bành voi, Ngô cũng lắc đầu, sợ uy Lệ Hải Bà Vương, những muốn bon chân về Bắc quốc; Ngồi yên ngựa, khách đi hoài cổ, tưởng sự Lạc Hồng nữ tướng, có chăng thẹn mặt khách nam ni. Tương truyền dưới thời vua Lý Nam Đế (544-548) khi đem quân đi dẹp giặc Lâm Ấp, ông có trú lại núi Tùng Sơn một đêm. Đêm ấy Đền thờ Bà Triệu tại Thanh Hóa 33 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM ông nằm mộng thấy Bà Triệu đội mũ trận, mặc áo giáp vàng, xin tòng quân đánh giặc. Vua hỏi tại sao thì Bà đáp: “Vào thời nhà Ngô, thiếp đã nhiều lần trải qua chiến trận, chưa từng thua, nhưng không may bị giặc đánh lừa. Nay xin đi theo giúp chút công lao bé nhỏ”. Quả thật, sau đó vua Lý Nam Đế thắng trận giòn giã, quay trở về, ngài cho xây lăng mộ Bà Triệu nguy nga hơn và sắc phong là Giản chính phu nhân. Các đời vua sau cũng đều phong tặng thêm nhiều mỹ hiệu khác. Cho đến nay, trong đền thờ Bà Triệu có tất cả 29 đạo sắc phong, trong đó có 5 đạo sắc của triều Lý, 15 đạo sắc triều Lê và 9 đạo sắc của triều Nguyễn. Phía trước lăng mộ Bà còn ghi câu đối khắc vào đá: Giang sơn hữu chủ Phong nguyệt vô biên Dịch: Sông núi có chủ Trăng gió không cùng Hiện nay tại Thanh Hóa, lễ hội đền Bà Triệu tổ chức trọng thể hằng năm từ ngày 19 đến ngày 24 tháng 2 âm lịch với đầy đủ nghi thức mang đậm đà bản sắc của lịch sử, văn hóa truyền thống Việt Nam. 34 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM Ỷ LAN Cô Tấm giúp vua trị nước Trong lịch sử Việt Nam Lý Thánh Tông là một trong những bậc minh quân có lòng nhân từ. Ngài thường nói: “Trẫm ở thâm cung, đốt nhan, mặc áo hồ cừu mà còn rét khổ đến thế này, nghĩ đến tù nhân trong ngục thất, họ còn bị rét lạnh bội phần. Vậy các ngươi phải cung cấp cho họ đủ chăn chiếu và đồ ăn thức uống”. Ngài là con trai của vua Lý Thái Tông (1028-1054) có tên húy là Nhật Tôn, sinh ngày 25/2 năm Quý Hợi (1023). Mãi đến năm 40 tuổi, ngài vẫn chưa có con trai nên lấy làm lo Tượng thờ bà Ỷ Lan tại Bắc Ninh lắng vì sợ sau này không có người thừa kế ngôi báu. Mùa xuân năm 1063, nhà vua đi cầu tự. Đoàn xa giá của nhà vua về đến chùa Dâu (Thuận Thành - Hà Bắc) dân làng nô nức rủ nhau đi xem đông vui như ngày hội. Trong chuyện cổ tích nước ta có truyện Tấm Cám. Nàng Tấm vì ở với mẹ ghẻ, bị bạc đãi, ngày hội mà nàng không có quần áo 35 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM đẹp để đi trẩy hội. Thì bấy giờ ở làng Thổ Lỗi (xứ Kinh Bắc xưa) (1) cũng có một cô thôn nữ hiền thục, nhưng nàng ở với bà mẹ kế hiền lành (2) chứ không ác độc như bà mẹ ghẻ của nàng Tấm. Lúc đoàn xa giá đi ngang qua, cô thôn nữ vẫn điềm nhiên đứng hái dâu. Nắng ấm áp ngày xuân. Tiếng chim hót ríu rít. Nàng vừa hái dâu vừa cất lên tiếng hát ngọt ngào đằm thắm: Tay cầm bán nguyệt xênh xang Chăm lo việc nước mở mang cõi bờ (3) Tiếng hát bay lững lờ trong vòm trời. Nhà vua thoáng nghe đã giật mình, sai quan quân cho vời nàng đến. Đứng khép nép dưới gốc cây lan, nàng đã trả lời trôi chảy những câu hỏi của nhà vua. Thấy nàng vừa có nhan sắc, vừa thông minh, lịch lãm nên ngài cho nàng nhập cung. Để kỷ niệm buổi ban đầu gặp gỡ, ngài đã đặt cho nàng tên Ỷ Lan (dựa vào cây lan). Từ đó, sử gọi nàng là Ỷ Lan, chứ không nhắc đến tên thật. Theo tài liệu của nhiều nhà nghiên cứu thì Ỷ Lan tên thật là Lê Thị Khiết, năm lên mười tuổi thì mẹ mất. Vài năm sau, cha cưới vợ kế nhưng ít lâu sau thì qua đời. Từ đó, nàng sống thuận hòa với mẹ kế. Tên thật của bà biết được là do các nhà nghiên cứu dựa vào truyện nôm diễn ca về sự tích Ỷ Lan “Lý triều đệ tam Hoàng thái hậu cổ lục thần tích quốc ngữ diễn ca văn” của tác giả Trương Thị Ngọc Trong. Trong đó có đoạn: Lỗi hương chốn ấy có nhà họ Lê Kiệm cần riêng một thú quê Tĩnh nương điều mấy phu thê phỉ nguyền Phúc lành mừng lại gặp duyên Chiêm bao xà hủy đôi phen thêm mừng 1 Làng Thổ Lỗi có tên nôm là làng Ghênh. Làng này sau đổi tên là Siêu Loại thuộc phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc. Qua nhiều lần thay đổi ranh giới địa lý, hiện nay Thổ Lỗi được xác định là thôn Như Quỳnh, xã Ngọc Quỳnh, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên. 2 Cũng có sách không nói việc Ỷ Lan có mẹ kế mà chỉ sống với cha. 3 Câu hát này được “khúc xạ” qua nhiều thời kỳ và nhiều nơi trên đất nước ta. Câu lục thì hầu như được giữ nguyên, nhưng câu bát có thay đổi đôi chút. Ở Ninh Bình cho rằng đó là câu mà bà Dương Vân Nga đã hát khi gặp gỡ Đinh Bộ Lĩnh: “Tay cầm bán nguyệt xênh xang/ Một trăm ngọc cỏ lai hàng tay ta”. Ở Long Châu - Yên Phong (Kinh Bắc) còn gán cho bà Xuân - nhũ mẫu của con chúa Trịnh “Tay cầm bán nguyệt xênh xang/ Tay cầm bán nguyệt sửa sang cõi bờ”, v.v… 36 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM Hoài thai đã đủ mười trăng Dốc xinh một gái xem bằng tiên nga Phương phi, mặt liễu, mày hoa Má đào mũi hạnh da ngà lưng ong … Mẹ cha mừng rỡ xiết đâu Nâng niu vàng ngọc thể đâu khác thường Lạch trong như nước, như gương Song thân mới đặt Khiết nàng nga linh Theo truyền thuyết địa phương thì bà sinh ngày 7-3 năm Giáp Thân (1044), nếu đúng vậy thì nhà vua lớn hơn bà 21 xuân. Nhập cung làm vợ vua Thánh Tông, bà đã đem lại cho nhà vua điều mà ngài đang mong ước. Đó là năm 1066, bà sinh hoàng tử Càn Đức, người con mà nhà vua bấy lâu trông đợi. Chính vì thế Càn Đức đã được phong Thái tử ngay sau đó. Nhà vua đạt được ước nguyện nên sung sướng phong Ỷ Lan phu nhân là Nguyên phi - đứng đầu các cung phi - chỉ sau Hoàng hậu. Từ đây, Nguyên phi Ỷ Lan đóng một vai trò quan trọng trong việc trị nước của vua Lý Thánh Tông. Năm 1069, nhà vua thân chinh đi đánh dẹp giặc ngoại xâm ở phương Nam. Trước khi ra trận, nhà vua giao cho bà chăm lo quốc sự, kỷ cương của nhà nước. Bà đích thân đi xuống các vùng nông thôn hẻo lánh để tìm hiểu dân tình thế thái. Khi phát hiện bọn quan lại tham ô đục khoét của dân, bà thẳng tay trừng trị. Có lần giả làm thương nhân đi mua thóc gạo, phát hiện tên quan cậy thế đã oa trữ để bán giá cao lúc mất mùa đói kém, bà đã giáng hắn xuống làm thứ dân. Thiên hạ trong nước đều khâm phục đức độ, bản lĩnh của bà khi thay vua trị nước. Bấy giờ, vua Lý Thánh Tông kéo quân vào phương Nam, đánh mãi nhưng không dẹp được giặc giã, ngài chán nản rút về. Khi chưa về đến kinh đô, nghe dân chúng ca ngợi Nguyên phi Ỷ Lan trị nước giỏi, ngài nói với ba quân: - Nàng là một người đàn bà ở chốn dân dã mà có tài như thế, ta đường đường là đấng nam nhi, há chẳng làm được gì sao? Thế là ngài cất quân đi đánh tiếp. Tấm gương của người vợ đã 37 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM khiến ngài tăng thêm quyết tâm và thắng trận giòn giã. Ngày 17 tháng 7 năm đó, quân đội của nhà vua trở về Thăng Long và có bắt theo vua nước Chiêm Thành là Chế Củ. Ông vua bại trận này đã xin dâng ba châu: Địa Lý, Ma Lệnh, Bố Chính để chuộc tội. Như vậy, từ năm 1069 đất nước ta đã kéo dài đến phía Bắc tỉnh Quảng Trị ngày nay. Đó là công lao của vua Thánh Tông, trong đó, bà Ỷ Lan đã có những đóng góp không nhỏ. Dưới đời vua Lý Thánh Tông việc giáo dục có nhiều thay đổi, chắc hẳn có tác động không ít của bà Nguyên phi. Sự kiện lớn lao nhất là năm 1070, nhà vua cho dựng Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử và tứ phối của Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử; ngoài ra còn tạc tượng 72 vị tiền hiền là học trò giỏi của Khổng Tử. Năm 1072, vua Lý Thánh Tông mất, thái tử Càn Đức lên nối ngôi lúc 6 tuổi, tức Lý Nhân Tông - và bà Ỷ Lan được tôn làm Hoàng thái phi. Năm 1073 bà được tôn làm Linh Nhân Hoàng thái hậu. Năm 1075 Khuê Văn Các - Văn Miếu được xây dựng thời Hoàng Thái hậu triều đình cho mở khoa thi đầu tiên lấy tên là thi Nho học tam trường - người đỗ thủ khoa là Lê Văn Thịnh. Qua năm sau, triều Lý lại xây dựng Quốc Tử Giám bên cạnh Văn Miếu cho con em tầng lớp quan lại quý tộc và học sinh giỏi của cả nước đến học. Ba sự kiện quan trọng này chứng tỏ nước ta có trường đại học từ năm 1070 và tạo điều kiện thuận lợi để phát huy tinh thần hiếu học trong công chúng. 38 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM Lợi dụng trong nước ta có sự thay đổi (vua còn nhỏ, nội bộ triều đình có sự tranh giành quyền lực), nhà Tống chuẩn bị sai quân sang xâm lược nước ta. Hoàng thái hậu Ỷ Lan đã chủ động hàn gắn mối bất hòa. Trước hết, bà sai người vào Nghệ An đón Tả gián nghị Đại phu Lý Đạo Thành trở về làm Thái sư cùng bà điều khiển triều đình. Sau đó bà cho huy động sức dân chuẩn bị kháng chiến. Mặt khác, bà chấp thuận để danh tướng Lý Thường Kiệt và Tông Đản chủ động đem 10 vạn quân sang tận đất Tống đánh tan các kho lương thực, vũ khí của giặc. Nhờ thu xếp mọi việc ổn thỏa, nên toàn dân ta đã đánh bại giặc Tống, đem lại chiến công hiển hách năm 1077. Với tư cách là nhiếp chính cho vua Lý Nhân Tông, Hoàng thái hậu Ỷ Lan đã có cơ hội để làm được nhiều việc ích nước lợi dân. Nếu dưới đời vua Lý Thánh Tông nhân lúc đói kém, đại hạn mất mùa bà đã mở kho thóc phát chẩn mà dân biết ơn tôn bà là Quan Âm nữ thì bây giờ bà lại làm tiếp một việc mà chưa ai làm được. Đó là bà phát tiền ở nội phủ chuộc các con gái nhà nghèo đem thân cầm bán về gả cho người góa vợ. Sử thần Ngô Sĩ Liên có lời bàn xác đáng về việc làm nhân đức này của bà đã “đổi mệnh cho họ”. Ngoài ra, để khuyến khích nhân dân chăm lo việc phát triển nông nghiệp, bà đã nói với vua Lý Nhân Tông: - Gần đây, ở trong hương ngoài ấp có nhiều người làm nghề mổ trộm trâu. Trăm hộ cùng quẫn, mấy nhà phải cày chung một con trâu. Như vậy làm sao nghề nông phát triển được? Trước đây ta từng nói đến việc ấy, nhà nước đã có lệnh cấm. Nhưng nay tệ giết trâu lại nhiều hơn trước! Vâng lời mẹ, vua Lý Nhân Tông ban hành lệnh cấm mổ trâu bò, ai vi phạm thì bị phạt 80 trượng! Có thể nói bà Ỷ Lan đã đóng vai trò quan trọng trong việc giúp vua trị nước. Khác với thân phận phụ nữ khác khi ở trên đỉnh cao của danh vọng, bà Ỷ Lan không lấy việc trau chuốt nhan sắc làm trọng mà bà thường xuyên học tập để nâng cao hiểu biết của mình. Chỉ trong một thời gian ngắn, bà đã nghiên cứu thấu đáo về đạo Phật, khiến nhiều người phải kinh ngạc. Trong Thiền uyển tập anh có ghi lại cuộc tọa đàm về Phật học giữa bà với các 39 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM nhà sư uyên bác tại chùa Khai Quốc (Thăng Long) năm 1096. Trong lúc đàm đạo với các bậc túc tăng kỳ lão, bà hỏi: - Phật và Tổ nghĩa thế nào? Ai hơn ai kém? Phật trụ phương nào? Tổ ở thành nào? Đến nước ta từ bao giờ? Việc truyền đạo ai trước ai sau? Mọi người niệm tên Phật đạt tâm ấn của Tổ chưa rõ là những ai? Rồi bà lại hỏi: - Về giáo tông thì chưa nói tới, nhưng còn hai phái thiền tông thì có gì chứng thực không? Những câu hỏi của bà đặt ra không một ai trả lời được, duy chỉ có nhà sư Trí Thông trả lời rành mạch. Nghe xong, bà hài lòng ban cho nhà sư hiệu là Thông Biện đại sư, sau lại thỉnh vào đại nội phong làm quốc sư. Vốn là người hiểu sâu sắc về Thiền tông nên bà có làm bài kệ (1) Ngộ đạo: Sắc thị không, không tức sắc Không thị sắc, sắc tức không Sắc, không đều chẳng quản Phương đắc khế chân tông Nghĩa là: Sắc là không, không tức sắc Không là sắc, sắc tức không Sắc không đều chẳng quản Mới được hợp chân tông Với bài kệ này, hiện nay, Viện Văn học nước ta đã xếp bà Ỷ Lan vào hàng các tác gia văn học thời Lý Trần. Ỷ Lan Hoàng thái hậu mất ngày 25/7 năm Đinh Dậu (1117) hỏa táng tại Thọ Lăng, phủ Thiên Đức (xứ Kinh Bắc xưa) được nhà vua ban tên thụy là Phù thánh Linh Nhân Hoàng thái hậu. Nhân dân nhớ công đức của bà đã lập đền thờ tại nhiều nơi. Tại Hà Nội, đền thờ bà 1 Kệ: thể loại văn học Phật giáo, thường là thơ, tóm tắt tư tưởng của bài thuyết pháp để dạy đệ tử, còn gọi là thi kệ. Có bài ngắn như câu tục ngữ, có bài như thơ tuyệt cú, có bài dài đến 48 dòng. Kệ thường dùng để ngâm tụng sau đoạn giảng kinh. (Từ điển thuật ngữ văn học - NXB Giáo dục 1992, trang 106). 40 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM đặt tại số 8 ngõ Tạm Thương, trong đền có bức hoành phi “Lý đại mẫu nghi” (mẫu mực đức mẹ đời Lý) và bên ngoài có câu đối: Hương nức nguồn Lê, đất thiêng chung đúc ngời tích thánh: Hiển hách triều Lý, dân ngước uy thanh đón ơn thần. Lễ hội diễn ra vào ngày 25 tháng 7 hàng năm, rồi cứ ba năm tổ chức một hội lớn có nghi thức rước kiệu chở thần vị của bà từ đền ra sông Hồng để chứng giám cuộc đua thuyền, xong lại rước về. Dân kiêng húy chữ Lan mà đọc thành Lơn. Còn tại quê hương của bà thì ở đền Ghênh (Ngọc Quỳnh) lễ hội tổ chức hai lần trong một năm. Từ ngày 5 đến ngày 16 tháng 3 âm lịch lễ mừng sinh nhật của bà và ngày 25 tháng 7 là lễ ngày bà mất. Trong dân gian thường đồng hóa bà Ỷ Lan với nàng Tấm trong chuyện cổ tích, ngoài truyền thuyết kể trên, hương phả của xã Dương Xá, huyện Siêu Loại (Hà Bắc) có ghi lại rằng: Khi vua Lý Thánh Tông đi cầu tự qua sông Nghĩa Trụ thì voi ngựa dừng lại không chịu bước đi. Vua lấy làm lạ, sai tát cạn nước thì có đôi giày hoa ở dưới đáy. Vua Đền thờ bà Ỷ Lan tại Hà Nội 41 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM cho là ý trời, bèn ra lệnh cho con gái thục nữ yểu điệu xa gần đến. Ai ướm bàn chân vừa đôi giày thì sẽ được tuyển vào cung. Lúc ấy, một ông lão bán dầu thấy có người con gái đang hái dâu ngoài đồng, điều lạ Đền thờ bà Ỷ Lan là trên đầu cô gái ấy có vầng sáng màu tía rực rỡ, ông ta liền báo cho nàng biết. Báo xong, ông ta giao hẹn nếu được tuyển vào cung vua thì xin cho rước võng dù của ông ta đi theo. Cô gái đồng ý, nàng đến ướm thử giày thì vừa khéo. Do đó, được vua rước về cung. Bởi có sự tích này nên ngày xưa lễ hội tưởng nhớ đến Ỷ Lan, dân địa phương ở xã Dương Xá đều làm một chiếc võng đỏ và một đôi dù xanh ở trước xe kiệu của bà. Hiện nay, đền Ghênh thờ bà Ỷ Lan tại thôn Như Quỳnh, xã Ngọc Quỳnh, huyện Mỹ Văn, Hưng Yên, được Bộ VHTT ra Quyết định số 74/VH/QĐ ký ngày 2-2-1993 công nhận là di tích văn hóa lịch sử của nước nhà. Gần một ngàn năm trôi qua, công đức của bà vẫn chói ngời trong sử sách. 42 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM DIỆU NHÂN Một thiền sư, một nữ sĩ của thời Lý Từ ngàn xưa, những người phụ nữ Việt Nam đã giữ lấy nề nếp phổ biến, khi chồng chết thì không “đi bước nữa” mà cam chịu sống trong góa bụa để nuôi con nên người. Một trong hằng triệu người phụ nữ thủy chung như thế ta có thể kể đến Lý Ngọc Kiều - con gái đầu của Phụng Càn Vương Lý Nhật Trung. Sinh ra trong một gia đình đại quý tộc, ngay từ thuở nhỏ, bà đã được vua Lý Thánh Tông nuôi dạy trong cung. Tính nết của bà hiền thục, ngôn hạnh đoan trang. Đến tuổi trưởng thành, bà được nhà vua gả cho người đàn ông họ Lê là châu mục Chân Đăng (nay thuộc địa phận các huyện Sông Thao, Tam Thanh - Phú Thọ). Mấy năm sau người chồng mất, nhà vua muốn đưa về lại kinh cho tái giá nhưng bà không chịu. Một hôm bà than: - Ta xem tất cả mọi điều trong thế gian này như mộng ảo, huống gì các thứ vinh hoa phù phiếm mà có thể trông cậy mãi được hay sao? Từ đó, bà đem tất cả tư trang vàng vòng châu báu ra bố thí cho kẻ nghèo hèn, rồi xuống tóc xuất gia. Bấy giờ, thiền sư Chân Không ở hương Phù Đổng, huyện Tiên Du - cùng quê với bà - nổi tiếng là một vị Bồ Tát, vua Lý Nhân Tông nghe tiếng mà viết chiếu chỉ mời về Đại Nội giảng kinh Pháp Hoa, người đến nghe đông như trẩy hội. Thiền sư Chân Không thuộc thế hệ thứ mười lăm của thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi - phiên âm từ tiếng Phạn Vinitaruci (1). 1 Theo Thiền Uyển Tập Anh “Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi là dòng dõi Bà La Môn, gốc ở Nam Thiên Trúc, vân du qua Trung Hoa; vào năm 562 thì đến Tràng An. Vào năm 574 khi Phật giáo bị Võ đế đàn áp thì ông đi về Hồ Nam. Hồi đó, tổ thứ 3 của Thiền tông Trung Hoa là Tăng Xáng đang lánh nạn tại đây, ẩn trên núi Tư Không. Khi gặp tổ, Tỳ Ni Đa Lưu Chi chắp tay ba lần, nhưng tổ vẫn ngồi yên không 43 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Thiền sư Chân Không kém bà Ỷ Lan 5 tuổi, nhưng do xuất gia sớm nên tinh thông kinh kệ. Khi bà cúi đầu xin được làm đệ tử, được ngài đặt cho pháp danh Diệu Hạnh. Không những chuyên tâm học tập trong kinh sách, bà còn tranh thủ mọi lúc, mọi nơi để tiếp thu những lời châu ngọc. Ngày nọ, Thái úy Lý Thường Kiệt, Thứ sử Lạng Châu, Tướng quốc họ Thân đến chùa của ngài xin cúng đường và học hỏi thêm kinh Phật. Tất nhiên, với cơ hội quý báu này ni sư Diệu Nhân cũng có mặt. Những lời nói của thiền sư Chân Không vẫn còn in trong óc và gợi mở ra biết bao điều mà lâu nay bà hằng suy nghĩ. Tiếng gà đã gáy canh ba nhưng bà vẫn còn ngồi trước án sách. Ngoài sân hương ngọc lan thơm dịu. Ngọn gió dùng dằng đi qua. Đêm yên tĩnh lạ thường. Bà nhớ lại lúc một vị tăng hỏi thầy: - Thế nào là đạo huyền? Ngài đáp: - Sau khi giác ngộ rồi mới biết. Nhưng thế nào là “giác ngộ”? Trước đây, bà cũng từng mạo muội hỏi thầy như thế. Thầy có trả lời, nhưng tâm trí còn mê muội nên bà chưa thể nào hiểu hết được. May thay, như hiểu ý bà, vị tăng lại hỏi: - Lời thầy dạy trước đây đệ tử chưa hiểu rõ. Nay thầy lại dạy thế, đệ tử không sao hiểu nổi. Thầy trầm ngâm đáp: - Nếu đến nhà tiên trong động thẳm; Hoàn đan thay cốt được mang về. Hỏi: - Thế nào là hoàn đan? nói. Trong lúc đứng chờ suy tư, bỗng tâm mở ra như gặp điều sở đắc ông liền lạy tổ ba lạy. Tổ cũng gật đầu ba cái. Ông lùi ba bước, thưa với tổ: “- Đệ tử từ trước đến nay chưa có cơ hội, xin hòa thượng đại từ bi cho theo hầu hai bên tả hữu”. Tổ nói: “- Ngươi mau đi về phương Nam tiếp xúc với thiên hạ, không nên ở lâu tại đây”. Ông vâng lời tổ, từ biệt đi về phương Nam, lưu ở chùa Chế Chỉ (Quảng Châu). Trong khoảng thời gian này ông dịch một số kinh như Tượng đầu, Báo nghiệp sai biệt. Đến tháng 3 năm Canh Tý (580) sư sang nước Nam ta, trụ trì chùa Pháp Vân (Bắc Ninh)”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Lang cho biết thêm: “Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi hầu như chỉ chịu ảnh hưởng của Phật Giáo Ấn Độ mà ít chịu anh hưởng Trung Hoa. Đây là một thiền phái rất có tính cách dân tộc Việt Nam, vừa biểu lộ được sinh hoạt tâm linh của Phật Giáo vừa biểu lộ được đời sống thực tế và đơn giản của quần chúng nghèo khổ” (Việt Nam Phật Giáo sử luận - NXB Văn Học -1994, trang 179). 44 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM Theo sách y học thì hoàn đan là viên thuốc đan sa giúp cho con người trường sinh bất tử, nguyên là huyền thuyết của đạo giáo. Thật ra, trên đời này làm gì có bất tử chi dược. Có câu chuyện kể rằng, có người dâng hoàn đan lên cho vua Sở. Viên thị thần đem thuốc vào kinh. Người lính thị vệ chận lại hỏi thuốc có uống được không thì viên thị thần gật đầu. Vậy là người lính giật lấy uống. Vua Sở biết chuyện tức giận, sai chặt đầu tên lính hỗn láo kia. Người lính quỳ xuống tâu: “- Bề tôi có hỏi là uống được không, viên thị thần nói uống được, vậy là tội của viên thị thần chứ nào phải của hạ thần”. Tên lính này đã thông minh biện minh cho tội của mình bằng cách vận dụng ngôn ngữ một cách lắt léo. Đã thế, hắn còn nói thêm: “- Vả lại viên thị thần bảo thuốc trường sinh bất tử, nhưng hạ thần mới uống vào đã bị chết thì phải gọi thuốc ấy là thuốc tử mới đúng”. Nghe hắn đối đáp khôn ngoan như thế nên vua thương tình, không giết. Không rõ có phải lúc đó do thầy sực nhớ câu chuyện ấy không mà bà mà thấy trên môi thầy thoáng nở nụ cười độ lượng: - Nhiều kiếp tối tăm không hiểu thấu; Sáng nay chợt ngộ được khai minh. Vị tăng lại hỏi: - Thế nào là khai minh? Thầy thong thả đáp: - Khai minh chiếu khắp cõi sa hà; Hết thảy chúng sinh thuộc một nhà. - Đệ tử vẫn chưa hiểu rõ. - Nơi nơi đều gặp nó. Cũng như vị tăng, bà cùng mọi người ngơ ngác hỏi: - Khi mà ta không thấy rõ được nó, nhưng lúc nào cũng gặp nó, cũng thấy nó hiện hiện. Vậy nó là cái gì? Thầy đáp: - Lửa bùng thiêu đến mảy tơ Ngàn xanh, mây trắng đến giờ còn bay 45 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM A! Thầy đã nói đến lẽ biến hóa vô thường “sắc sắc không không” của đạo Phật. Tiếng gà đã gáy vang trong bóng đêm tĩnh mịch. Mùi trầm hương thơm nhẹ nhàng. Dĩa dầu vơi dần. Ánh sáng vẫn tỏa ra trước án sách. Bà Diệu Nhân vẫn ngồi thẳng lưng chiêm nghiệm lại những lời dạy của thầy. Bà còn nhớ là vị tăng có hỏi thêm: - Khi sắc thân hư nát hết thì sao? Thầy đáp: - Xuân đến xuân đi ngờ xuân hết; Hoa nở hoa tàn, ấy vẫn xuân. Vị tăng còn nghĩ ngợi như chưa hiểu hết lời dạy của thầy, thầy quát: - Đất bằng qua binh hỏa; Cây cối đượm hương thơm. Vị tăng và mọi người đã “ngộ” ra lẽ huyền vi sâu thẳm của đạo Phật, bèn cúi sụp xuống lạy tạ. Lúc ấy, bà Diệu Nhân thấy tâm trí mình bừng sáng. Ngồi chiêm nghiệm lại lời của thầy, bà không biết là đêm sắp đi qua. Một ngày mới lại bắt đầu. Chuyên tâm học tập không ngừng nên bà dần hiểu sâu sắc con đường của diệu đạo. Nhưng diệu đạo là gì bà cũng chưa thể nắm bắt được. Bà chỉ hiểu rằng khi nào mình đã “ngộ” thì mới chạm được đến diệu đạo. Suốt năm tháng theo thầy học tập, trí tuệ của bà ngày một bừng sáng. Đến lúc thấy bà đã hiểu được những điều tâm yếu của đạo Phật, thầy đưa bà đến trụ trì ở Ni viện Hương Hải (tức chùa Linh Ứng hiện nay ở Bắc Ninh). Tại đây, ngoài thời gian tu tập bà thường vào làng đàm đạo kinh sách với các cụ già, khuyên bảo các em nhỏ những lời hay lẽ phải. Không những thế, bà còn tổ chức trồng những vườn cây thuốc Nam để chữa bệnh cho dân chúng trong làng. Ai ai cũng kính phục tâm đức từ bi của bà. Trong nghiệp tu, bà hành thiền được chính định, thường lặng lẽ và xa lánh thanh sắc ồn ào, trở thành bậc mẫu mực trong hàng ni sư thời bấy giờ. Khắp nơi nghe tiếng bà đều đến cầu học, bà dạy họ tu tập Đại thừa và thường nói: 46 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM - Nếu được trở về nguồn tự tính thì đốn ngộ hay tiệm ngộ cũng sẽ tùy đó mà nhận. Có đệ tử hỏi bà: - Hết thảy chúng sinh cũng đều không vượt qua sinh lão bệnh tử. Vậy tại sao thầy lại kiêng kî thanh sắc? Bà ôn tồn đáp: - Nếu dùng sắc thấy ta Lấy âm thanh cầu ta Người ấy hành tà đạo Một trang trong Thiền uyển tập anh có viết về công đức thiền sư Diện Nhân Không thể thấy Như Lai Đệ tử lại hỏi: - Ngồi yên là thế nào? Bà đáp: - Xưa nay vốn không đi. Lại hỏi: - Không nói là thế nào? Bà đáp: - Đạo vốn không lời. Từ năm 1100, lúc bà 68 xuân thì thầy thiền sư Chân Không viên tịch. Trước lúc mất thầy đọc bài kệ: 47 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM - Hư vô diệu thể vẫn khoe bày, Khắp cõi sa hà, gió dịu bay. Vui nhất vô vi, ai cũng hiểu, Vô vi, nhà ở chính nơi này. (Huệ Chi dịch) Nói như nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn thì sau khi thầy mất: “Từ đó, bà Diệu Nhân thường càng hay băn khoăn suy tường về lẽ thịnh suy, về thân phận con người suốt đời lo lắng về cuộc mưu sinh, ốm đau, già cả và rốt cuộc là cái chết nhọc nhằn. Bà hiểu rằng tất thảy rồi sẽ qua đi, con người làm sao có thể cưỡng nổi cái chết? Nhưng cũng chính vì thế mà Đức Phật chỉ giáo cho ta hiểu con đường phía trước, hiểu cái quy luật tất yếu của tự nhiên. Trong những suy tưởng rất sâu sắc về cõi nhân thế, bà hết sức tâm đắc với bài kệ nói về bốn nỗi khổ trong một đời người theo quan niệm nhà Phật” (Almanach người mẹ và phái đẹp - NXB Văn Hóa - 1990, trang 74). Do đó, ngày mồng 1 tháng 6 năm Hội Tường Đại Khánh thứ 4 (1113), lúc ấy đang lâm bệnh, bà gọi đệ tử đến và truyền lại bài kệ: - Sinh, lão, bệnh, tử Lẽ thường tự nhiên Muốn cầu siêu thoát Càng trói buộc thêm Mê muội: cầu Phật Lầm lẫn: cầu Thiền Chẳng cầu Thiền, Phật Mím miệng ngồi yên. Đọc xong bài kệ thì bà nhắm mắt viên tịch. Rõ ràng qua bà kệ ta thấy bà Diệu Nhân - thiền sư thế hệ thứ mười bảy của thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi - bộc lộ một thái độ an nhiên trước quy luật của tạo hóa. Với bài kệ nổi tiếng này, các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam đã xếp bà vào hàng các nữ tác gia tiêu biểu của thời Lý. Như vậy, trong giai đoạn văn học này, ngoài bà Diệu Nhân ta biết còn có cả Hoàng Thái hậu Ỷ Lan - người cũng để lại bài kệ Ngộ đạo. Riêng bài kệ của bà Diệu Nhân trong Tổng tập văn học Việt Nam (NXB Khoa học Xã hội - 1997, 48 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM tập 1) có nhận xét: “Bài kệ này thể hiện quan điểm “phá chấp” của Thiền tông, nhưng về mặt khách quan lại có ý nghĩa như là sự phản ánh tinh thần của thời đại khi mà dân tộc ta đang phát huy khả năng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với tinh thần độc lập tự chủ “ (trang 293). Hiện nay, trong chùa Linh Ứng còn có tượng thờ Ni sư Diệu Nhân. 49 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM NGUYỄN THỊ DUỆ Tiến sĩ uyên bác triều Mạc Thời trước, khi đi dạo chơi đến đền Sầm Nghi Đống thấy quang cảnh tiêu điều, không nhang khói, rêu ẩm mốc theo thời gian, bà Hồ Xuân Hương phóng bút đề những câu thơ mỉa mai, không thèm trông thẳng, trông lên mà: Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo, Kìa đền thái thú đứng cheo leo. Ví đây đổi phận làm trai được, Thì sự anh hùng há bấy nhiêu! Sự nghiệp anh hùng của nhân vật này như thế nào? Y là tướng của Tôn Sĩ Nghị được lệnh dẫn một đạo quân sang xâm lược nướcta năm 1789. Trong bão táp cuộc tiến công của anh hùng Nguyễn Huệ, không chạy thoát được, y sợ hãi đến nỗi phải thắt cổ tự tử! Về sau, nối lại với quan hệ với Trung Quốc, vua Quang Trung cho phép Hoa kiều ở Thăng Long lập đền thờ y, nay không còn. Có tài liệu cho rằng đền này nằm ở ngõ Sầm Công, phía sau phố Hàng Buồm, nhưng cũng có tài liệu lại khẳng định đền nằm trên gò Đống Đa, tức chỗ đền thờ Trung Liệt ngày nay. Bà Hồ Xuân Hương muốn đổi thành phận trai cũng bởi nhiều lý do, trong đó có một phần bởi thiên hạ còn nặng nề tư tưởng trọng nam khinh nữ. Dưới chế độ phong kiến, thân phận người phụ nữ không được coi trọng. Khi sinh con, người ta quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, sinh con trai thì họ gọi là “lộng 50 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM chương” (chơi ngọc) còn sinh con gái thì gọi rẻ rúng là “lộng ngõa” (chơi ngói)! Nếu các ca kỹ bị xếp vào hàng “xướng ca vô loại” cấm đi thi thì người phụ nữ cũng thế, họ không có cơ hội để lều chõng thi thố tài năng của mình! Thế nhưng, trước thời Hồ Xuân Hương, ở dưới triều nhà Mạc (1527- 1592) có một người phụ nữ quyết cải trang thành nam nhi để lập danh ở đời. Đó là bà Nguyễn Thị Duệ - người đầu tiên thi đậu Tiến sĩ trong lịch sử khoa bảng Việt Nam. Một người dám đem sở học của mình “cạnh tranh” với các đấng mày râu đương thời, lừng lẫy như thế, nhưng các nhà viết sử của ta do quan niệm coi thường người phụ nữ (và cũng do biến động của thời cuộc) nên không ghi chép gì nhiều về sự nghiệp của bà. Duy chỉ trong tập Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề (viết phần tiền biên) và Trần Quý Nha (viết phần tục biên) biên soạn từ năm 1755 là có viết về bà, nhưng cũng sơ lược. Căn cứ vào đó và một vài tài liệu khác ta có thể hình dung ra đôi nét về cuộc đời của bà. Bà Nguyễn Thị Duệ, người xã Kiệt Đặc, huyện Chí Linh (nay là xã Văn An, huyện Chí Linh - Hải Dương). Tương truyền, có một thầy địa lý khi chọn đất cho dòng họ nhà bà đã tiên đoán “Một gương soi ba vua”. Không rõ có phải lời nói này nhằm chỉ vào bà hay không, chứ ngay từ thuở nhỏ, bà đã nổi tiếng là thần đồng, học đâu nhớ đấy, công dung ngôn hạnh hơn người. Bấy giờ loạn lạc trong nước nổi lên khắp nơi. Họ Mạc cướp ngôi nhà Lê chiếm quyền thiên tử, trong nước lòng người không phục, bên ngoài thì nhà Minh muốn lợi dụng tình thế này sang cướp nước ta. Sử gia Tượng Nguyễn Thị Duệ tại Hải Dương 51 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Trần Trọng Kim cho biết: “Đến tháng 11 năm Canh Tý (1540), Mạc Đăng Dung thấy quân nhà Minh sửa soạn sang đánh, sợ hãi quá chừng, bèn để Mạc Phúc Hải ở lại giữ nước, rồi cùng bọn Vũ Như Quế cả thảy hơn 40 người, tự trói mình ra hàng, sang chịu tội ở cửa Nam Quan, lạy phục xuống đất để nộp sổ điền thổ và sổ dân đinh, lại xin dâng đất 5 động. Lại đem vàng bạc dâng riêng cho nhà Minh”. Trong khi đó, công thần nhà Lê nổi dậy đánh họ Mạc, rồi họ Nguyễn dấy binh giúp nhà Lê. Binh đao dậy đất. Tiếng khóc ngút trời. Có thể xem đây là giai đoạn bi đát nhất trong lịch sử nước nhà. Từ cuối năm 1543, nhờ Nguyễn Kim, nhà Lê chiếm được Tây Đô (Thanh Hóa), cai quản từ địa phận đó trở vào gọi là “Nam triều”, còn cả vùng Bắc Bộ trong đó có kinh đô Đông Đô thuộc nhà Mạc gọi là “Bắc triều”. Sau khi Nguyễn Kim mất, trao quyền lực lại cho con rể là Trịnh Kiểm. Từ đó, họ Trịnh chuyên quyền, xem vua Lê chỉ là hư vị lấn át hết mọi quyền hành - mở ra thời kỳ “vua Lê chúa Trịnh”. Họ Trịnh tiếp tục cầm quân đánh họ Mạc những trận thất điên bát đảo. Năm 1592, Mạc Mậu Hợp bị Trịnh Tùng chém bêu đầu ở Thanh Hóa... Không còn cách nào khác, họ Mạc đành xin ý kiến của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm xem giúp về hậu vận. Trạng bảo: “-Ngày sau có biến cố gì, đất Cao Bằng dẫu nhỏ, cũng có thể hưởng phúc vài đời nữa”. Nghe theo lời khuyên này, con cháu họ Mạc rút lên Cao Bằng. Trong chính sử trước đây, ở giai đoạn này nhà Mạc xem như chấm dứt, chỉ tính từ đời Mạc Đăng Dung đến Mạc Mậu Hợp kéo dài 65 năm và cho rằng giai đoạn từ sau năm 1592 đến 1677 không đáng ghi chép nên dù có nhiều khoa thi, có Tiến sĩ chiếm bảng vàng nhưng cũng không được ghi chép đầy đủ. Sau khi họ Mạc rút lên Cao Bằng, Trịnh Tùng vẫn kéo quân đi đánh, nhưng Mạc Kính Cung sang cầu cứu vua Minh. Nhờ sự can thiệp của nhà Minh, vua Lê chúa Trịnh bất đắc dĩ đành phải nhường đất Cao Bằng cho con cháu họ Mạc nương thân - mãi đến năm 1677 mới bị diệt hẳn. Nhờ vậy, họ Mạc củng cố lực lượng, vẫn tiếp tục duy trì các khoa thi hạch hằng năm để chọn nhân tài. Trường hợp của nữ Tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ bị bỏ sót, đời sau ít biết đến là cũng vì những xáo động của thời cuộc bấy giờ và quan niệm chép sử của các sử gia thời trước. 52 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM Vào thời điểm này, bà Nguyễn Thị Duệ theo cha lên Cao Bằng lánh nạn. Không chỉ an phận với quan niệm phổ biến coi thường phụ nữ, cho phụ nữ chỉ là kẻ lo khuê phòng bếp núc: Có con phải khổ vì con Có chồng phải gánh giang san nhà chồng thì bà không nằng nặc đòi cha mẹ cho đi học. Dù thấy con sắc sảo, thông minh, nhưng cha mẹ vẫn ngần ngại vì các thầy đồ nào có nhận dạy cho nữ nhi! Thế là chỉ còn cách cắt tóc, mặc quần áo cải trang bà làm con trai, cho đổi tên là Du để theo đòi bút nghiên. Bạn trai học cùng lớp không ai phát hiện ra. Càng học, bà càng tỏ ra thông thuộc kinh sử hơn người. Khoa thi Hội của nhà Mạc tổ chức ở Cao Bằng, bà ra ứng thí và đậu đầu, trong khi đó thầy dạy bà chỉ đậu thứ hai. Trong buổi tiệc mừng các vị tân khoa, vua Mạc ngạc nhiên khi thấy chàng Du kia lại có nhan sắc diễm lệ như thiếu nữ, bèn cho gọi tới gặng hỏi. Không thể không nói thật, bà quỳ xuống tâu rõ sự tình. Nhà vua hỏi về kinh sử, bà đáp làu làu, vua hài lòng và sau đó chọn bà đưa vào cung để dạy cho các cung nhân, phi tần. Khi nhà Mạc mất, bà sống ẩn náu trong chùa ở hang núi sâu. Quân của chúa Trịnh đã bắt được bà, thấy bà có nhan sắc định vùi hoa dập liễu. Bà nghiêm nét mặt bảo: - Ta đã như cá nằm trên thớt, các ngươi cho ta được yết kiến với chúa các ngươi, chứ không được vô lễ. Trước lời nói nghiêm khắc, nét mặt trang nghiêm, biết không phải là người tầm thường, chúng giải bà về kinh. Vua Lê Thần Tông (1619- 1634) đã nghe tiếng của bà nên lấy làm vui mừng trước “chiến lợi phẩm” này, ngài phong cho bà chức Chiêu Nghi làm Lễ sư để tiếp tục dạy cho các cung nữ. Tiếng đồn về học vấn của bà quả không sai, mỗi khi nhà vua hỏi ý kiến về một vấn đề gì thì bà đều dẫn kinh sử và sự tích xưa nay để giải đáp rành mạch nên ngài rất hài lòng, thán phục. Và chính bà là người đã có ý kiến quyết định bài thi của tiến sĩ Nguyễn Minh Triết. Chuyện như thế này, thuở hàn vi ông Triết vốn người lận đận trong khoa cử nên đã đến chùa Hương Hải (Chí Linh) để cầu mộng. 53 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Đêm ấy, nằm mơ thấy thần nhân cho câu thơ “Độc thư đáo lão vị thành nhân” - nghĩa là đọc sách đến già vẫn chưa nên danh phận! Một người bạn biết chuyện, cười: “- Chớ lo, tin vui đấy! Có lẽ thần nhân viết là “mùi”, có nghĩa là năm mùi đến sẽ thành nhân, mà tôn huynh đọc nhầm ra chữ “vị” đấy thôi!” Nhưng ông cũng cáu tiết bảo: “- Thần gì mà phán hồ đồ như thế? Ta gắng học để xem thần phán đúng hay danh phận ta bọt bèo như thế!”. Từ đó, ông quyết chí học tập ngày đêm. Trong khoa thi năm Tân Mùi (1631) ông lai kinh ứng thí. Đề thi Hội dài đến 12 mục, nhưng ông chỉ làm đầy đủ được có 4 mục mà thôi. Do đó, quan trường không dám cho đậu, chỉ xếp vào loại dự bị. Khi chấm bài, những quyển trúng được dâng, nhưng chúa không ưng ý. Thế là quan trường mới dâng quyển của ông lên. Xem xong, chúa phán: “- Trong một bài thơ hay một bài phú, chỉ có một câu hay cũng đủ, một câu hay cũng có thể lấy được, chứ huống gì trong này có những bốn mục đều hay”. Các khảo quan thưa: “- Các quyển khác dù làm đầy đủ nhưng bút lực kém, còn quyển này làm còn sót đến 8 mục, nhưng các mục đã làm thì thật xuất sắc không ai bì kịp. Nếu quyển ấy không lấy thì thôi, chứ đã lấy thì phải để lên đầu”. Chúa gật gù: “- Nếu vậy thì cũng được, không có gì phải ngần ngại”. Dù có lệnh như thế, nhưng mọi người cũng ngần ngại. Ngay cả vua Lê cũng chưa tán đồng với quyết định trên, vì trong bài làm của ông có dùng nhiều điển tích mà không phải ai cũng hiểu rõ. Thế là bà Nguyễn Thị Duệ được nhà vua đưa khảo duyệt bài thi này. Xem xong, bà chú giải tỏ tường khiến mọi người thẩy đều nể phục và công nhận cái hay của bài thi này rất xứng đáng đoạt thủ khoa. Nhờ học thức uyên bác của bà mà con đường hoạn lộ của Nguyễn Minh Triết mới mở ra thênh thang, ông được ban tên là Thọ Xuân, sau vì kiêng tên hoàng hậu nên đổi thành Hậu Xuân. Điều bất ngờ khá thú vị là vị tân khoa này lại là người em họ của bà cũng quê ở xã Kiệt Đặc, huyện Chí Linh. Biết chuyện này, ông từng nói: - Bài của tôi cả triều đình không ai xem nổi, chỉ có bà chị Lễ phi tôi mới hiểu rõ thôi. 54 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM Lời nói chân thành của đấng mày râu hay chữ đủ cho ta thấy học lực uyên thâm của bà. Điều đáng quý ở đây là bà Nguyễn Thị Duệ đã dũng cảm vượt ra khỏi quan niệm “lý tưởng” đã hình thành hàng ngàn năm trước vốn chỉ dành cho nam giới: Trai thì đọc sách ngâm thơ Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa Còn phụ nữ thì an phận với: Gái thì giữ việc trong nhà Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa Nhưng bà không những giỏi việc “trong nhà” - mà còn chứng minh được vai trò của phụ nữ đương thời trong xã hội. Vốn là phụ nữ nên bà còn là người có tâm đức khoan dung. Thuở còn hàn vi, anh của bà bị người láng giềng cậy quyền thế giết chết, ai cũng nghĩ nay bà được cận kề nhà vua thì sẽ báo thù. Nhưng tuyệt nhiên chuyện đó bà không hề nhắc đến. Bà Nguyễn Thị Duệ viết nhiều bài thơ văn nhưng tiếc rằng, theo Công dư tiệp ký: “Văn thơ của bà rất nhiều, nhưng nay không còn bài nào. Bà có làm bài Gia ký bằng Quốc âm thuật lại các việc riêng và tự ví mình như Bạc Thị. Bài Gia ký có câu rằng: Kém vì một chút đảo điên So le Bạc Thị vốn duyên Hán hoàng (1) Lại có câu rằng: Nữ nhi dù đặng có lề Ắt là tay thiếp kém gì Trạng nguyên Bài Gia ký ấy gần đây vẫn còn, sau vì loạn lạc mất đi. Bà thực là một người có kỳ tài vậy”. Bà Nguyễn Thị Duệ sống thọ đến 80 xuân. Như vậy, cho đến nay ta mới biết đến các bà Nguyễn Thị Lộ, Ngô Chi Lan, Bà Huyện Thanh Quan... làm Lễ nghi học sĩ và Cung trung giáo tập, bà Đoàn Thị Điểm, Đoàn Lệnh Khương... mở trường dạy học - thì 1 Bạc Thị: bà phi của Hán Cao tổ sinh ra Văn Đế, nhờ có hiền đức nên sau khi Hán Cao tổ mất, bà không bị Lã Hậu đánh ghen. Mà sau khi Lã Hậu chết, con bà được nối ngôi vua, bà được tôn làm hoàng hậu”. 55 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Mộ bà Nguyễn Thị Duệ nay trong danh sách ấy còn có thể kể thêm bà Nguyễn Thị Duệ. Chắc chắn các bậc nữ lưu tài hoa, các nhà giáo nữ uyên thâm như thế còn nhiều, rất nhiều trong tiến trình lịch sử Việt Nam. 56 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM ĐOÀN THỊ ĐIỂM Nữ sĩ tài đức vẹn toàn Triều Lê có ông Lê Công Nẫm làm quan lớn, sinh ra Lê Công Vị. Nhưng ông qua đời lúc Vị còn nhỏ, không có người dạy dỗ, Vị chỉ lêu lổng chơi bời không nối được nghiệp của cha. Lớn lên, Vị lập gia đình và sinh ra Lê Doãn Nghi. Khác hẳn với tính nết của cha, Nghi ham học và nổi tiếng là người hay chữ. Thấy vậy, người mẹ cố sức nuôi con ăn học. Không đủ tiền thì bán ruộng nương. Hễ thấy sách hay, sách lạ, dù có đắt mấy cũng tìm mọi cách để mua cho con. Nhờ sự chăm sóc chu đáo của mẹ, Nghi học ngày càng tiến bộ, khi đi thi hương đậu Hương Cống. Mẹ cưới vợ cho Nghi, cô gái này họ Nguyễn vốn là người quê kệch, họ sinh ra Lê Doãn Sĩ. Một hôm, Nghi nằm mơ thấy giấc mộng lạ, có một vị thần khuyên ông nên đổi sang họ Đoàn. Từ họ Lê, Lê Doãn Nghi đổi sang họ Đoàn là bắt đầu từ giấc mộng ấy. Bấy giờ để vợ con ở lại quê nhà - làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, xứ Kinh Bắc (nay là Bắc Ninh), Nghi lên Thăng Long trú học. Hằng ngày đi ngang qua phường Hà Khẩu (nay là phố Hàng Bạc) thấy trong nhà quan võ Thái lĩnh bá họ Vũ có cô con gái xinh đẹp. Ông đem lòng say đắm. Cô này tướng mạo khoan thai, ăn nói hòa nhã, thêu thùa khéo léo. Khi trở về quê, ông nói thật với mẹ và xin mẹ đi cưới hỏi cho mình. Mọi việc diễn ra tốt đẹp. Cuộc hôn nhân này sinh ra Đoàn Doãn Luân và năm 1705 sinh thêm Đoàn Thị Điểm. Cả hai anh em đều có vẻ phong lưu tuấn nhã, thông minh hơn người. Nếu người anh, ba tuổi đã biết đọc chữ, năm 57 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM tuổi biết đặt câu, mười tuổi biết đọc cách sách thánh hiền thì cô em cũng giỏi giang không kém. Hơn thế, cô lại có dung sắc tươi tắn, cử chỉ điềm đạm, ăn nói văn hoa nên mọi người càng quý mến. Lúc mới lên sáu, một hôm Đoàn Doãn Luân ra câu đối để thử sức học của em: Bạch xà đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm chi; (Rắn trắng ngang đường, ông Quý tuốt gươm mà chém nó) Ở đây Quý là tên của vua Hán Cao Tổ, cô em đối lại ngay với tích của vua Vũ Thuấn: Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng thiên nhi thán viết. (Rồng vàng đội thuyền, vua Vũ trông trời mà than rằng) Năm lên mười hai tuổi, thấy em đang soi gương, người anh bèn trêu: Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm; (Soi gương kẻ lông mày, một nét hóa ra hai nét) Thoáng nghe, cô em đã biết anh mình dùng chữ điểm vừa là nét mà cũng vừa là tên riêng. Không một chút bối rối, thấy anh đang đứng bên bờ ao, cô em đối lại ngay: Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân. (Ra ao ngắm trăng, một vầng hóa hai vầng) Không những giỏi chữ, Đoàn Thị Điểm còn là người khéo léo về nữ công. Tương truyền, nàng sáng chế ra cái thêu hình tam hữu (tùng, trúc, mai) và một cái hình bát quái. Lại có một cái túi bằng vải quí, ngoài thêu hai câu thơ của Lý Bạch, trông cứ đẹp như là ai lấy phấn mà viết lên vậy. Vừa nhan sắc, vừa tài cao nên quan Thượng thư Lê Anh Tuấn muốn nhận nàng làm con nuôi, dự định sau này đưa vào phủ chúa để làm cung phi, nhưng nàng không chịu. Bấy giờ ông Đoàn Doãn Nghi đưa gia quyến về làng Lạc Viên, Kiến An (nay là một quận của Hải Phòng) để dạy học. Năm 1729, lúc nàng 25 tuổi thì cha mất. Trước khi mất, ông Đoàn Doãn Nghi dặn dò hai con phải giữ lấy nghiệp nhà, đừng làm điều gì thất đức, trái đạo lý. Trước đây, 58 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM ông hứa gả con trai Đoàn Doãn Luân cho con gái út của ông tiến sĩ họ Lê - cô này sau khi làm lễ vấn danh thì bị bệnh đậu mùa, mặt rỗ như tổ ong, nhưng Luân vâng lời dạy của cha vẫn cưới cô gái ấy. Họ sống với nhau rất hạnh phúc. Do chị dâu xấu xí như vậy, nên mọi việc giao tiếp của anh, Đoàn Thị Điểm phải đứng ra cáng đáng. Nàng tỏ ra khôn khéo bặt thiệp nên ai cũng khen ngợi. Sau tang cha, nàng theo vợ chồng anh đến cư ngụ ở làng Vô Ngại, huyện Đường Hào (Hưng Yên) là nơi anh mở trường dạy học. Tại đây các công tử nghe tiếng tăm của nàng đã nườm nượp tìm đến, mong sẽ lọt vào “mắt xanh” giai nhân. Ngày nọ, Nhữ Đình Toản, Vũ Diệm cùng bạn hữu tìm đến thăm nàng và chọc ghẹo. Nàng sai người nhà đem trầu cau ra tiếp, trên khay có bức hoa tiên ghi dòng chữ rồng bay phượng múa: Đình tiền thiếu nữ khuyến tân lang; Câu đối này oái oăm ở chỗ, tân lang vừa là trầu cau, và đồng âm với chàng rể mới: “Trước sân, thiếu nữ mời trầu cau (hoặc mời chàng rể mới)”. Những đấng tu mi nam tử lắc đầu nhìn nhau, không ai đối lại được, cuối cùng lặng lẽ bỏ ra về. Rồi nhiều người khác đến dạm hỏi, nhưng nàng cũng không tìm được người xứng ý. Không bao lâu, người anh qua đời. Gia đình lâm vào cảnh túng thiếu, nàng cùng chị dâu cố gắng xoay xở để nuôi mẹ và nuôi hai cháu nhỏ học hành. Lúc này Đoàn Thị Điểm không nghĩ đến chuyện lập gia đình nữa. Cả ngày chỉ nghiên cứu sách thuốc để bốc thuốc chữa bệnh, rồi nối nghiệp cha anh mà dạy học. Thế nhưng, các đấng mày râu vẫn không để cho nàng yên. Một hôm đang ngồi dạy học thì một vị dòng dõi nhà chúa, tước Bỉnh trung công sai người đến cầu hôn. Ngồi trong nhà, nhìn thấy trước sân có khoảng sáu mươi người áo mão chỉnh tề, khiêng kiệu đến, bày biện lễ vật để xin đón dâu, nàng vội chạy xuống nhà sau. Tay chân giậm bùn bê bết, khoác áo thợ cày, tay xách chiếc gầu tát nước, nàng thong dong đi ra đồng trước mặt đám quan quân! Không ai ngờ cả. Đám quan quân sộc vào nhà tìm kiếm nàng nhưng chỉ hoài công vô ích. Cuối cùng, chúng nghĩ ra mẹo bắt mẹ của nàng, đưa lên kiệu mà 59 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM khiêng về kinh. Bỉnh trung công đối xử với bà cụ trọng hậu, tử tế. Y tin chắc rằng với mẹo này thì thế nào Đoàn Thị Điểm cũng phải đến tận nơi. Vậy mà hơn một tháng, nàng vẫn biệt tăm, y ngửa mặt lên trời than thở: “Phú quý không ham, nghèo khó vẫn vui. Nam nhi như thế đã đáng khen, huống chi nàng lại là phận gái”. Rồi sai người đưa bà cụ trở về nhà như cũ. Từ đấy, tăm tiếng của nàng càng vang xa, ai cũng kính trọng. Bấy giờ ở xã Sài Trang, huyện Đường Hào, gia đình người nọ có con gái được đưa vào hậu cung. Họ bèn mời nàng vào cung để dạy cho con gái mình. Để tránh sự phiền toái của những kẻ quyền thế, nàng bèn vào cung dạy học. Tuy nhiên nàng vẫn không quên hiếu đễ với mẹ già, chị dâu, nàng thường xuyên gửi thư từ thăm hỏi. Nhưng cung chúa cũng không phải là nơi nàng có thể đem sở trường của mình để dạy người đời. Ít lâu sau, nàng trở về chốn cũ. Vốn là người giỏi về lý số, bốc dịch, năm 1739, nhân gieo quẻ mà đoán biết làng Vô Ngại sẽ là nơi biến thành vùng chiến địa, các thế lực sẽ giao chiến dữ dội. Vì vậy nàng đưa gia đình ra cư ngụ ở xã Chương Dương bên kia sông Nhị. Nơi đây, nàng dựng trường dạy học, sĩ tử theo học rất đông. Nàng thường nói: “Xem trong lịch sử thấy phận hồng nhan lắm kẻ tài giỏi, nhưng chưa có kẻ nào ra sức dạy học trò đỗ đạt”. Vì vậy nàng quyết tâm làm cho được điều đó. Học trò đến học được nàng dạy dỗ chu đáo, về sau có người làm được ước nguyện của nàng như Đào Duy Doãn đậu tiến sĩ, v.v… Những tưởng từ đây có thể vui với đám môn sinh, nhưng cũng không thể được. Ngày nọ, Hương cống Đặng Trần Côn đến thăm nàng. Côn là người học giỏi, tính tình phóng khoáng và có tài phóng bút thành thơ. Côn đã cao hứng tặng cho nàng bài thơ mới sáng tác, nàng cười: - Trẻ con mới cắp sách đi học đã biết gì! Côn hậm hực bỏ về, quyết chí dùi mài kinh sử để rửa mối hận này. Côn học cả ngày lẫn đêm. Bấy giờ, chúa Uy vương Trịnh Giang (1729-1740) ra lệnh trong thành Thăng Long cấm đốt lửa ban đêm. Vì thế Côn phải đào hầm dưới đất để chong đèn mà học. Nhờ tài năng và kiên gan bền chí, chỉ trong thời gian ngắn, Côn đã hoàn thành tác 60 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM phẩm nổi tiếng Chinh phụ ngâm (dài 478 câu thơ) bằng chữ Hán. Lần này Côn đem đến tặng Đoàn Thị Điểm, đọc xong nàng khen hay và phải chịu Côn là người có tài. Một hôm đang ngồi dạy học thì có đám quan quân đi vào. Họ kính cẩn dâng lên nàng một cái hộp sơn son thếp vàng. Mở hộp ra, nàng thấy trong đó có một phong thư dán kín. Mở ra đọc thì biết đây là lá thư cầu hôn của ông Tiến sĩ Tả thị lang Nguyễn Kiều, người làng Phúc Xá, huyện Từ Liêm (Hà Nội). Đọc xong thư, nàng than: - Khi trẻ, ta mong người tài hoa đến cầu hôn, nhưng không gặp được. Hai mươi năm qua, ta không quan tâm đến việc ấy nữa. Chao ôi! Tài tử gặp giai nhân là điều khó khăn, chi bằng ta rửa sạch lòng trần, giữ lấy sự an nhàn trong tâm hồn há chẳng phải hơn sao? Nay có người lại đến khuấy động lòng ta, chỉ chuốc lấy phiền não mà thôi. Nói xong, nàng từ khước lời cầu hôn ấy. Nhưng Nguyễn Kiều quyết không chịu thua. Đang góa vợ, nghĩ mình là bậc tài hoa, mới 21 tuổi đã đậu tiến sĩ, nay làm quan lớn ngất ngưởng, danh vọng, tăm tiếng khắp kinh thành ai mà không biết đến nên ông cố nài cho bằng được. Hai mươi ngày sau, ông lại sai người nhà đem thư tới. Trong thư viết: “Tôi rất bận việc quan. Vó ngựa đi sứ sang nhà Thanh đã gần ngày phải lên đường. Việc nhà không có ai coi sóc và cai quản. Trước đây vợ tôi là con gái thượng thư Lê Anh Tuấn, mà phu nhân từng làm con nuôi. Do đó vợ tôi với phu nhân há chẳng phải có tình chị em đó sao? Nếu phu nhân bằng lòng đùm bọc gia cảnh của tôi thì thật là may cho cả nhà tôi đó”. Thư viết khẩn thiết, đọc xong bất giác nàng cảm thấy thương xót. Đã thế, đám môn sinh biết chuyện lại tán thành cuộc hôn nhân nên cuối cùng, bất đắc dĩ nàng nhận lời. Sự việc này diễn ra vào cuối năm 1742. Lúc này Đoàn Thị Điểm ba mươi bảy xuân trở thành vợ của tiến sĩ Nguyễn Kiều đã bốn mươi bảy tuổi. Về làm vợ, chưa kịp vui trong chăn ấm gối hồng thì một tháng sau, Nguyễn Kiều được lệnh làm chánh sứ sang nhà Thanh. Ngày trước đi sứ là việc nặng nề, cực nhọc. Họ lấy ngày rời chân khỏi nhà là ngày giỗ, nếu chẳng may bỏ mạng ở dặm đường thiên lý, hoặc nơi đất khách quê người. Chuyến đi này, phái đoàn của Nguyễn Kiều 61 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM phải mất… ba năm mới quay về cố hương! Trong phòng the vò võ đợi chồng, đọc lại Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn đã tặng ngày xưa, bà thấy thân phận của mình như một chinh phụ xa chồng - lúc chồng đi chiến địa: Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một màu Lòng chàng ý thiếp, ai sầu hơn ai? Chàng từ đi vào nơi gió cát Đêm trăng này nghỉ mát phương nao? Xưa nay chiến địa dường bao? Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu Hơi gió lạnh người rầu, mặt dạn Dòng nước sâu ngựa nản chân bon… Vì mối đồng cảm này, bà đem dịch ra quốc âm. Bản dịch Chinh phụ ngâm đang lưu hành hiện nay, từ năm 1926, giới nghiên cứu cho rằng của Phan Huy Ích chứ không phải của bà. Sự việc này vẫn còn đang tranh luận. Nhưng chắc chắn, Đoàn Thị Điểm có dịch một bản Chinh phụ ngâm để gửi gắm tâm sự khi chồng đi công cán nơi xa. Ngoài ra, bà còn để tâm viết tập truyện ký chữ Hán là Truyền kỳ tân phả. Trong đó ghi chép lại những chuyện kỳ quái hoang đường là cái Bản Chinh phụ ngâm cớ để phản ánh thực trạng thối nát của xã hội phong kiến lúc đó. Dù khí cách không mạnh mẽ bằng Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, nhưng văn chương của bà được Phan Huy Chú khen là “hoa lệ, bóng bẩy”. Ba năm sau, 1745, phái đoàn Nguyễn Kiều về 62 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM nước. Bấy giờ bà với chồng mới có dịp vui duyên cầm sắt. Vốn là người tự phụ, Nguyễn Kiều thường cho mình là kẻ tài giỏi hơn người. Thấy vậy, bà thường tìm cách khuyên chồng bỏ lòng kiêu ngạo ấy. Bà sai học trò đi chép đầu bài ở các trường có tiếng tăm, đem về để hai Tờ đầu tác phẩm Truyền Kỳ Tân Phả của bà Đoàn Thị Điểm (khắc in năm 1811) vợ chồng cùng làm. Bao giờ bài làm của bà cũng trội hơn, nhưng Nguyễn Kiều vẫn cố cãi chày cãi cối. Bà thường than: “Ta thường nghĩ những kẻ khoa cao, đậu sớm, chắc có tài đức hơn người. Không ngờ họ chỉ theo đuổi cử nghiệp, chỉ nhờ câu văn chải chuốt mà nổi danh. Trong một ngày, nếu có đọc một nghìn câu như vậy, thì cũng chẳng ăn thua gì đến nghĩa lý đâu! Chồng ta không phải là không biết làm thơ, nhưng về đường kinh luân thì còn kém lắm”. Do đó bà ngầm đợi cơ hội khác để khuyên chồng. Nhân lúc trường Quốc tử giám mở kỳ thi, đầu bài ra là bài phú “Quốc gia như kim âu” (Nhà nước vững như âu vàng). Hai vợ chồng cùng làm bài thi này. Kết quả bài của bà trội hơn về ý tứ, lời văn khéo hơn của chồng. Bấy giờ, ông Kiều mới thật sự thú nhận thua tài của vợ và bỏ đi tính kiêu. Từ đó, vợ chồng càng hòa hợp tương đắc. Mùa hè năm 1748, bà đang ngồi sắp xếp lại thơ văn của vợ chồng để đóng lại thành tập thì một cơn gió thổi tới, cuốn rèm cửa tung lên rồi hất xuống đất. Thấy lạ, bà bấm độn thì biết có chuyện sắp xảy ra. Bà nói với chồng: - Thiếp sắp về suối vàng, còn chàng thì thăng chức nhưng phải đổi vào Nam. 63 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Ông Kiều kinh ngạc, gặng hỏi thêm nhưng bà không đáp. Giây lát sau bà đọc hai câu thơ: Cửa Bắc xe mây điềm thiếp rõ, Bờ Nam mưa ấm tỏ ơn vua. (Hoàng Xuân Hãn dịch) Thật vậy, dăm ba ngày sau, ông Kiều nhận lệnh giữ chức Tham thị ở Nghệ An. Bà không muốn đi theo, nhưng chồng năn nỉ mãi, cuối cùng bà chấp thuận. Trên đường đến Nghệ An, một hôm thuyền dừng lại ở đền Sòng - nơi thờ bà Liễu Hạnh. Đêm ngủ bà nằm mơ thấy trên trời có tiếng chuông khánh rồi một chiếc xe dần dần đi tới, lại có mùi hương lạ sực nức trong thuyền. Bà sực tỉnh dậy, nhớ đến câu thơ “Cửa Bắc xe mây điềm thiếp rõ” nên trong lòng không vui. Đến nơi chồng nhậm chức, bà bị cảm lạnh. Ngày mồng 4 tháng 8 thì bệnh nguy kịch, thầy thuốc chữa mãi nhưng cũng không khỏi. Sáng ngày 11 tháng 9, bà gượng ngồi dậy, ăn mặc chỉnh tề, gọi chồng vào dặn dò vài điều rồi ân cần từ biệt. Xong, bà nằm xuống, lịm đi mà mất. Ông Kiều thương tiếc vô hạn, khóc vợ khô cạn nước mắt, và viết bài văn tế rất cảm động: - Người dẫu trăm thân cũng khôn chuộc, hận đến nghìn đời cũng chẳng cùng. Kìa những người đàn bà ngu bướng, người ta thường sống lâu tuổi hạc da mồi, cớ sao người tài hoa tót bậc dường này mà phúc lộc lại rất mỏng manh? Tội nghiệp thay nương tử, ở yên không có chỗ, nối dõi không có con, ngoài 30 tuổi mới lấy chồng, hơn 40 tuổi đã tạ thế, vùi âm dung ở một chỗ, ném tài nghệ vào khoảng không, trốn bà từ mẫu đã già, bỏ mấy cháu côi còn dại, há chẳng phải Mộ bà Đoàn Thị Điểm tại Quảng Bá (Hà Nội) 64 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM là mệnh trời bất thường mà tạo vật cũng bất công hay sao? Luống để cho người chồng góa bụa, thở ngắn than dài, ruột sầu đau thắt, mắt lệ tuôn rơi. Việc nhà bề bộn, ai người trông nom?Cư xử nhỡ lầm, ai người ngăn bảo? Thơ muốn viết ra, ai người bình phẩm? Sách muốn xem chung, ai người bầu bạn? Mùa thu có trăng, cùng ai thưởng nguyệt! Vẻ đẹp ngày xuân, ai người cùng ngắm? Than ôi! Đường chia hai ngả, duyệt đứt sáu năm, vui ít sầu nhiều, tài dài mệnh ngắn… (Trúc Khê dịch). Sinh thời, khi viết văn làm thơ, bà ký bút danh Hồng Hà nữ sĩ. Tài năng văn chương tót vời của bà được người đời khen là không thua, mà có phần trội vượt hơn cả nữ lưu bên Tàu là Tô Tiểu Muội hoặc Ban Chiêu. Một nữ sĩ có nhan sắc, tài đức vẹn toàn như bà Đoàn Thị Điểm thật hiếm có thay. 65 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM BÙI THỊ XUÂN Khí phách của nữ tướng Tây Sơn Trên con đường đi về đất Bình Khê, một tráng sĩ vội vã phóng ngựa. Vó ngựa gập ghềnh. Bóng nắng nhợt nhạt phủ xuống cánh rừng. Đâu đó có tiếng cọp gầm. Nghe tin anh em Tây Sơn dựng cờ chiêu mộ hào kiệt để khởi nghĩa, tráng sĩ cũng nô nức tìm đến. Lúc chàng đang băng qua cánh rừng thì gặp cọp dữ. Không một chút chần chừ, chàng nhảy xuống ngựa quyết đấu. Tiếng roi vun vút trong gió. Con cọp lồng lên, giương những móng vuốt Tượng Bùi Thị Xuân tại Bình Định nhọn hoắt. Chỉ trong chớp mắt nó lao thẳng vào chàng. Chàng lảo đảo ngã về phía sau, tựa lưng vào gốc cây chống trả lại quyết liệt. Những miếng võ hiểm của chàng khiến cọp dữ rú lên. Nhưng nó không quay đầu chạy mà vẫn tấn công dữ dội. Càng chống trả, tráng sĩ càng kiệt sức. Mồ 66 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM hôi túa ra đầm đìa. Cái chết đến gần trong gang tấc. Bỗng con cọp hộc lên một tiếng khủng khiếp rồi ngã lăn xuống đất. Phát hiện ra con thú hung dữ bị một mũi tên không biết từ đâu cắm vào đúng chỗ hiểm, tráng sĩ kinh ngạc nhìn quanh. Thì ra người vừa cứu mình thoát chết trong đường tơ kẽ tóc lại chính là một thục nữ. Môi nàng đỏ như son. Nét mặt hiền thục, dễ mến. Chàng vội vàng quỳ xuống tạ ơn ân nhân. Trời sụp tối. Cả hai thong thả cưỡi ngựa ra khỏi cánh rừng… Tráng sĩ ấy là Trần Quang Diệu, vốn có tên là Trần Văn Đạt, người ở làng An Hải (nay thuộc quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng), con trai của ông Trần Tấn và bà Phan Thị Hy (1). Còn ân nhân của chàng là Bùi Thị Xuân, người thôn Xuân Hòa - phía Nam sông Côn - thuộc xã Bình Phú, huyện Bình Khê (Bình Định). Nàng là con gái ông Bùi Đắc Chí, gọi Bùi Đắc Tuyên (Thái sư thời vua Quang Toản) bằng chú. Tuyên có chị (hoặc em) lấy vua Quang Trung sinh ra Quang Toản. Sống trong gia đình có truyền thống võ nghệ nên từ thuở nhỏ, nàng đã tập luyện thành thạo nhiều môn võ bí truyền, giỏi bắn cung, cưỡi ngựa và biết huấn luyện cả voi. Sau lần gặp gỡ đó, họ se duyên kết tóc trăm năm. Cả hai cùng chiến đấu dưới ngọn cờ chính nghĩa của anh em Tây Sơn và lập được nhiều chiến công hiển hách. Năm 1789, Trần Quang Diệu được vua Quang Trung cử làm đốc trấn để xây dựng thành Phượng Hoàng trung đô ở Nghệ An. Dự định của nhà vua là sau này sẽ đóng đô ở đây. Trong những năm tiếp theo, bà cùng chồng cầm quân đi đánh các lực lượng chống đối của nhà Lê đang ngóc đầu dậy. Bấy giờ, bọn hoàng thân Lê Duy Chỉ cấu kết với tù trưởng Bảo Lạc (Hà Tuyên), Cao Bằng và cả vua nước Vạn Tường để khởi binh. Bằng mưu lược của mình, bà đã cùng chồng đánh tan lực lượng trên. Tiếng tăm của vợ chồng danh tướng Trần Quang Diệu - Bùi Thị Xuân ngày càng lừng lẫy, họ trở thành chủ tướng của quân đội Tây Sơn. Vó ngựa của họ tung hoành từ Nam chí Bắc. Thế nhưng 1 Từ việc tìm được mộ của mẹ Trần Quang Diệu ở phía Tây Nam hòn Thổ Sơn (thuộc Ngũ Hành Sơn), cách chân núi khoảng 30m trong vườn của ông Trần Xê bằng mộ này được lập vào tháng 3 năm Nhâm Tí, thời chính quyền Tây Sơn quản lý đất Quảng Nam - và qua xác minh nhiều nguồn tư liệu, từ đầu năm 1996 Bảo tàng Đà Nẵng và Hội sử học Đà Nẵng đã ra thông báo như trên (Báo Thanh Niên số ra ngày 16-12-1997). 67 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM cơ đồ của nhà Tây Sơn đang xây dựng thì năm 1792, vua Quang Trung đột ngột băng hà. Quang Toản mới 10 tuổi lên nối ngôi, đặt niên hiệu Cảnh Thịnh, nhưng mọi quyền hành đều nằm trong tay Thái sư Bùi Đắc Tuyên. Lúc này, Bùi Thị Xuân được phong làm Đô đốc và cử vào trấn thủ Quảng Nam. Trần Quang Diệu nhận lệnh vào Diên Khánh đánh Nguyễn Ánh. Do vua còn nhỏ tuổi nên Tuyên ngày càng chuyên quyền khiến đại thần trong triều ngày càng oán ghét. Phụng chính Trần Văn Kỷ mật báo với danh tướng Vũ Văn Dũng: “Thái sư ngôi to nhất các quan, chuyên quyền độc đoán, không có lợi cho xã tắc. Nếu không mưu giết đi thì sau này tình thế càng rối ren”. Dũng bèn cùng Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn Huấn vây bắt Tuyên. Quang Toản bất đắc dĩ phải đồng ý. Tuyên bị tống vào ngục. Con trai Tuyên là Đắc Trụ bị dìm xuống nước chết. Quang Toản không thể can thiệp được, chỉ biết nhỏ nước mắt khóc lóc thương xót. Tình thế ấy đã đặt nữ tướng Bùi Thị Xuân vào chỗ khó xử. Về tình riêng, bà là cháu của Thái sư Bùi Đắc Tuyên, nhưng trước họa Nguyễn Ánh thì sao? Bà vội mật báo cho chồng đang vây thành Diên Khánh. Nghe tin ấy, Trần Quang Diệu cả sợ, bảo với các thuộc hạ: “Chúa không có đức cương quyết, đại thần giết lẫn nhau là có biến lớn đấy. Trong không yên thì làm sao chống đỡ được giặc ngoài?”. Nói xong, Diệu cho rút quân về kinh đô đóng ở bờ Nam sông An Cựu, Dũng đem quân đóng ở bờ Bắc chống cự lại. Lợi dụng cơ hội đại thần Tây Sơn đang chia năm xẻ bảy, Nguyễn Ánh đem quân đánh chiếm lại những vùng đất ở phía Nam. Đang trấn thủ ở Quảng Nam, suy tính mưu kế chống trả lại các đợt tiến quân của Nguyễn Ánh thì nữ tướng Bùi Thị Xuân được lệnh hồi triều. Có phải Quang Toản lấy tình riêng muốn có bà bên cạnh trong lúc này hay mưu của Vũ Văn Dũng muốn hại bà? Dù vậy, bà cũng dàn binh bố trận chu đáo. Nguyễn Ánh cho đây là cơ hội tốt liền đem quân đánh Quảng Nam. Nhưng Ánh vừa kéo quân đến thì bị đánh một trận tơi bời. Thua mua trí đàn bà, Ánh tức tối lui quân và thề sẽ rửa mối nhục này. Đánh thắng một trận oanh liệt, Bùi Thị Xuân kéo quân về Phú Xuân. Trong lúc này trước cảnh nồi da xáo thịt, Quang Toản lo sợ, sai người đi hòa giải. Trần Quang Diệu được phong Thiếu 68 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM phó, Vũ Văn Dũng làm Tư đồ, Nguyễn Văn Danh làm Đại tư mã, Nguyễn Văn Huấn làm Thiếu bảo - đây là tứ trụ đại thần của nhà Tây Sơn dưới thời Quang Toản. Nhưng có người dèm pha rằng: Diệu uy quyền quá to sẽ có mưu phản. Toản tin theo, thu lại binh quyền. Vì thế Trần Quang Diệu trong lòng lo sợ, thường cáo ốm không vào chầu, sai thủ hạ vài trăm người ngày đêm cầm binh khí để tự vệ. Trước đây, năm 1793, lợi dụng lúc nội bộ Tây Sơn đang lục đục, Nguyễn Ánh đem quân đánh chiếm Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc hoảng sợ phải cầu cứu Quang Toản. Toản sai Phạm Công Hưng và Đặng Văn Trấn vào giải vây. Nhưng sau đó, Hưng và Trấn ra lệnh tịch thu kho tàng, binh khí và chiếm giữ lấy thành khiến Nguyễn Nhạc ức quá, thổ huyết mà chết. Vợ Nhạc bảo với con là Nguyễn Bảo: “Khai thác cõi đất này là công của cha mày, nếu sống mà chịu nhục thì chết còn hơn”. Vì thế Bảo làm phản, đem quân đánh úp chiếm lại thành Quy Nhơn, sau đó đầu hàng Nguyễn Ánh. Cay cú trước trò phản phé này, Quang Toản sai Thiếu phó Trần Quang Diệu đi đánh chiếm lại thành Quy Nhơn. Thành này do Võ Tánh và Ngô Tùng Châu - danh tướng Bản đồ Bình Định thời Đô đốc Bùi Thị Xuân 69 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM của Nguyễn Ánh đang trấn giữ. Từ Phú Xuân, Trần Quang Diệu bàn bạc với vợ: - Ta nghe tiếng Tánh và Châu đã lâu. Nay đem quân đánh một trận để xem chúng cầm quân khiển tướng ra sao! Bùi Thị Xuân gật gù đồng ý và hiến kế: - Lúc này giặc trơ trọi giữ thành trong tình thế bất lợi. Ta đem bộ binh nhanh chóng vây thành thì chúng khác nào như cá đang nằm trên thớt? Chúng chờ quân cứu viện từ Gia Định ư? Ta đem thủy binh chặn ở cửa biển Thị Nại. Chúng chỉ còn cách mọc cánh mà bay lên trời! Mùa đông năm đó, quân Tây Sơn đem vài vạn quân tinh nhuệ, hơn một trăm chiến thuyền đồng loạt ra quân. Vũ Văn Dũng đem thủy quân vào cửa biển Thị Nại. Trần Quang Diệu chỉ huy quân bộ, trên đường đi, ông tiêu diệt chốt tiền tiêu ở Thạch Tân. Không đối đầu nổi, Võ Tánh sai phó tướng Nguyễn Văn Thập rút quân để cố thủ trong thành, mặt khác sai Lê Chất mật báo cho Nguyễn Ánh biết tình hình. Trần Quang Diệu bắt đầu bao vây thành. Võ Tánh vẫn ru rú không động binh. Thấy để lâu sẽ bất lợi, Quang Diệu lập mưu: - Tánh không ra quân là dùng kế cầm cự lâu dài để quân ta ngày càng mệt mỏi. Chúng muốn thế thì ta đắp lũy ngoài thành. Thử xem ai hơn ai? Kế hoạch này chẳng khác nào đưa Tánh vào rọ. Khi nghe tin Tánh bị vây, Nguyễn Ánh nói: - Lương thực trong thành còn đủ dùng trong một năm, nay gió đông bắc đang mạnh, không lợi đi đường thủy, đợi đến mùa xuân sang năm cứu viện cũng chưa muộn. Đúng kế hoạch này, mùa xuân năm 1801, Lê Văn Duyệt tấn công quân Tây Sơn ở cửa biển Thị Nại và có thông báo cho Tánh biết. Tánh nhân cơ hội này, mở cửa thành phía Đông đem quân ra giao chiến hòng tìm đường thoát vòng vây, nhưng bị quân Tây Sơn đánh một trận tan tác, lại phải rút lui cố thủ. Cung cấp lương thực cạn kiệt, quân trong thành phải giết cả voi ngựa để ăn. Nguyễn Ánh sai người mang 70 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM thư lẻn vào thành bảo Tánh phá vòng vây, ra hội với đại binh của Duyệt. Tánh thấy không thể được, bèn làm tờ biểu hiến kế: “Tướng giỏi quân mạnh của Tây Sơn đều ở đây cả, Phú Xuân đang bỏ trống. Đây là cơ hội ngàn năm có một. Xin để thành Quy Nhơn ra ngoài không tính đến. Hãy đem quân chiếm lấy Phú Xuân, được vậy thì thần có chết cũng vui lòng nơi chín suối”. Một hôm, phó tướng Ngô Tùng Châu đến hỏi Võ Tánh mưu kế. Tánh chỉ đống củi có đặt thuốc súng dẫn lửa ở phía dưới lầu bát giác, nói: “Kế của ta đấy!”. Châu hiểu ý, quay về mặc triều phục, trông về cửa khuyết lạy, rồi uống thuốc độc tự tử. Hai ngày sau, Võ Tánh leo lên lầu bát giác, sau khi hút xong điếu, Tánh châm vào thuốc dẫn lửa. Lửa cháy bùng lên. Tánh chết chiêu trong lửa. Sự kiện này trong Đại Nam liệt truyện của Quốc sử quán triều Nguyễn có ghi lại: “Diệu dẫn quân vào thành, trông thấy thương chảy nước mắt ra, lấy lễ thu chôn, tướng sĩ ở trong thành, giặc (tức quân Tây Sơn) không giết một ai cả”. Chi tiết này khiến chúng ta cảm phục đức độ của chồng bà Bùi Thị Xuân. Trong khi quân tinh nhuệ Tây Sơn đang đóng ở Quy Nhơn thì Nguyễn Ánh làm theo kế sách của Võ Tánh, chỉ để lại lực lượng nhỏ do Nguyễn Văn Thành cầm cự, rồi đem đại binh ra đánh Phú Xuân. Trên đường tiến quân, Ánh tấn công thành Quảng Nam. Nữ tướng Bùi Thị Xuân cấp tốc đem quân vào cứu viện. Giải vây xong Quảng Nam thì hay tin Lê Văn Duyệt thống lĩnh hơn 1.000 chiến thuyền vượt biển đánh vào Thuận An, bà kéo quân ra cứu viện thì bị bao vây. Sau đó quân Nguyễn Ánh chiếm được Phú Xuân. Quang Toản không chống cự nổi phải bỏ chạy ra Bắc. Nữ tướng Bùi Thị Xuân cũng tìm đường ra Bắc. Mùa xuân năm 1802, Quang Toản sai em là Quang Thùy vào trấn giữ Nghệ An, còn mình đem quân đi đánh chiếm lại Phú Xuân. Đô đốc Bùi Thị Xuân được lệnh đem 5.000 quân đi tòng chinh. Khí thế của quân Tây Sơn thật dữ dội, họ đánh lũy Trấn Ninh (cửa ải Quảng Bình ngày nay), chọc thủng lũy Đâu Mâu để vượt qua sông Gianh. Quân Nguyễn Ánh rút lui về Động Hải. Hai bên giao chiến dữ dội. Biết đây là chỗ hiểm yếu, Ánh thúc quân đào hào sâu, đắp thành cao 71 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM và đặt nhiều vũ khí tối tân của phương Tây nên chiếm được ưu thế. Khi quân Tây Sơn tiến lên thì quân Nguyễn Ánh bắn súng lớn và ném đá xuống như mưa, làm bị thương và chết rất nhiều. Quang Toản sợ hãi muốn rút quân, Đô đốc Bùi Thị Xuân đến nắm cương ngựa, nói: - Tâu bệ hạ! Quân ta dẫu không chống cự nổi nhưng khí thế đang hăng. Giặc đang mạnh nhưng tinh thần cũng sa sút lắm. Chi bằng ta cố đánh. Thành bại về ai chưa thể nói trước được. Quang Toản cho là phải, bèn thúc quân đánh tiếp. Mãi đến trưa, nghe tin thủy quân đã bị đánh bại, Toản hoảng sợ cho quân tháo lui! Quang Toản chạy ra Thăng Long, giao Đô đốc Bùi Thị Xuân ở lại Nghệ An cản sức tiến quân của Nguyễn Ánh và đợi hợp binh với chồng. Lúc này, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng đang ở Quy Nhơn nghe tin bèn đem 3.000 binh đinh, 80 thớt voi chiến vượt đường sang Ai Lao để tiến ra Nghệ An. Nhưng họ vừa đến huyện Hương Sơn thì Nghệ An đã mất, quân Tây Sơn không còn tinh thần chiến đấu, tự động tan rã. Tại đây, Trần Quang Diệu gặp lại vợ, hai người mừng mừng tủi tủi. Họ bàn với nhau chạy về huyện Thanh Chương, nhưng hai ngày sau thì bị quân Nguyễn Ánh vây bắt. Trong khi đó, Quang Toản biết không chống cự nổi nên cùng với em Quang Thùy, Quang Thiệu và các quan tư mã, đô đốc khác vội vã chạy lên phía Bắc. Khi đến Xương Giang, trong đêm khuya đang ngủ trọ thì bị dân thôn mưu bắt, đóng cũi đưa về Thăng Long. Quang Thùy thắt cổ tự tử. Triều đại Tây Sơn sụp đổ. Nguyễn Ánh lên ngôi năm 1802 và hai năm sau mới đặt niên hiệu Gia Long. Tranh giành ngôi báu, thành bại là chuyện thường tình xưa nay. Nhưng cách trả thù của Gia Long đối với nhà Tây Sơn thật khủng khiếp. Tù binh bị bắt đều chịu cực hình tra tấn tàn khốc. Mộ anh em vua Quang Trung đều bị khai quật, đem giã nát thây, còn đầu thì bị giam trong ngục tối. Ngay cả những vùng đất phát tích của anh em Tây Sơn cũng bị đổi tên, chẳng hạn ấp Tây Sơn đổi thành ấp An Tây, hoặc Quy Nhơn đổi thành Bình Định, v.v… Số phận của vợ chồng danh tướng Bùi Thị Xuân ra sao? 72 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM Sau khi giết Trần Quang Diệu, Gia Long đưa mẹ con bà ra pháp trường Thăng Long. Trước lúc hành quyết, Gia Long sai lính lấy hèo đánh vào khuỷu chân, níu tóc giập đầu bắt lạy, nhưng bà vẫn nhất định không chịu. Gia Long điên tiết hỏi: - Giữa ta với Nguyễn Huệ, ai hơn ai kém? Bà dõng dạc đáp: - Sao lại so sánh như thế? Tiên đế ta lấy áo vải dựng cờ đào, đánh Đông dẹp Bắc, bách chiến bách thắng, đánh Nguyễn thì Nguyễn bại, đánh Trịnh thì Trịnh vong, đánh một trận thì quân Xiêm tan tác, đánh hai trận thì quân Tàu khiếp vía. Sao ngươi lại so sánh như thế? Có khác nào đem rồng ví với giun bọ, lấy biển cả sánh với đầm lầy? Gia Long tím mặt, nhưng cũng nén giận cười gằn: - Tiên đế ngươi anh hùng, nhưng sao người lại chịu trói? Bà ngửa mặt trả lời: - Tiên đế ta mất sớm, nếu không ngươi đã bỏ xác từ lâu rồi! Gia Long tức giận trả thù bằng cách sai thuộc hạ treo ngược con gái của bà, rồi đập đầu vào tường cho đến chết. Còn gì tàn nhẫn hơn, đau lòng hơn khi chính bà phải chứng kiến cái chết tàn khốc của con mình! Trước lúc thần chết đưa lưỡi hái đến để gặt lấy linh hồn thì con gái bà hoảng sợ khóc thét lên: - Mẹ ơi cứu con! Dù thương con đến đứt từng đoạn ruột, nhưng bà cũng chỉ nói: - Đừng khóc! Đừng sợ! Mẹ không cứu được con đâu. Chẳng thà chết còn hơn sống chung với lũ cõng rắn cắn gà nhà! Cũng chưa thỏa cơn giận, Gia Long hạ lệnh lấy vải tẩm sáp bó bà lại, rồi dùng lửa đốt cháy. Bà đã trở thành bó đuốc cháy rực, nhưng không hề hé răng than van! Chính Gia Long chứng kiến cảnh giết người man rợ này, cũng phải khâm phục khí phách lẫm liệt của bà. Lại có truyền thuyết khác về cái chết của Bùi Thị Xuân. Một cố đạo Thiên Chúa giáo là De La Bissachère lúc đó đang ở Phú Xuân, ghi 73 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM lại lời kể của một tín đồ chứng kiến thì bà bị hành hình ở Phú Xuân - chứ không phải ở Thăng Long: “Con gái của bà đã bị vứt cho voi dày. Đến lượt bà cũng chịu nhục hình này. Nhưng trong tư thế hiên ngang, bà tiến thẳng đến trước voi khiến con vật này đứng sững lại như khiếp sợ oai vũ của bà. Bọn đao phủ phải thúc trống và giục bà phải quỳ xuống, nhưng bà vẫn thản nhiên tiến bước. Con voi lui lại. Bọn đao phủ lấy giáo thọc vào đùi voi, bấy giờ con voi mới quặp bà tung lên trời”. Dù chấp nhận một trong hai cái chết như trên thì Đô đốc Bùi Thị Xuân cũng đều xứng đáng là nữ tướng Tây Sơn. Trên quê hương Bình Định còn lưu truyền câu: Ai về Bình Định mà coi Đàn bà con gái cầm roi đi quyền Chắc hẳn khí phách lẫm liệt của nữ tướng Bùi Thị Xuân cũng ảnh hưởng đến tinh thần thượng võ của những người con gái quê hương bà. 74 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM HỒ XUÂN HƯƠNG Nữ sĩ tài hoa bậc nhất trong thơ nôm Hồ Xuân Hương là một chân dung thơ độc đáo vào bậc nhất trong thi ca Việt Nam. Người đời đã xưng tụng bà bằng nhiều ngôn từ mỹ miều và tráng lệ, nhưng có lẽ chỉ bốn chữ bình dị “Bà chúa thơ Nôm” của Xuân Diệu đã khái quát được vóc dáng sừng sững của nữ sĩ tài hoa Hồ Xuân Hương. Dưới ngòi bút của bà, tiếng Việt được thăng hoa một lần nữa, từng con chữ tươi rói ấy tưởng chừng như đang cựa quậy trên trang giấy với tất cả sức sống bền vững. Thơ của bà đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Mới đây nhất, hai dịch giả Phần Lan là Rauni Turkia và Kai Neiminen đã tuyển dịch thơ bà qua tập Những lời hỏi trăng (NXB Nostromo - 1992), họ viết: “Theo tôi, Hồ Xuân Hương là một tác giả có một không hai trong văn học thế giới. Ngôn ngữ trong thơ bà là tiếng Việt giàu nhạc điệu, với lối chơi chữ, sử dụng từ ngữ rất tài tình, thơ của bà luôn mang nhiều nghĩa, chính vì vậy thơ bà rất khó dịch… nhất là khi dịch sang ngôn ngữ phương Tây”. Thật vậy, làm sao có thể dịch được cả hồn lẫn xác của một bài thơ khá tiêu biểu của Hồ Xuân Hương như Hang Cắc Cớ: Trời đất sinh ra đá một chòm, Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom. Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn, Luồng gió thông reo vỗ phập phòm. Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm, Con đường vô ngạn tối om om. 75 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc, Khéo hở hênh ra lắm kẻ dòm! Sử dụng tiếng Việt điêu luyện đến cỡ đó thì quả ít có người sánh kịp. Thế nhưng, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa biết đích xác chân dung bằng xương bằng thịt của bà. Tiểu sử của bà, cho đến nay vẫn còn nhiều ẩn số. Nói như nhà thơ Hoàng Trung Thông thì: Hồ Xuân Hương Nhưng người đó là ai? Thật mỉa mai Không ai biết rõ Như có như không như không như có Nàng ở làng Quỳnh Nàng lại ở phường Khán Xuân Mờ mờ tỏ tỏ Khi thì nói cô là con Hồ Phi Diễn Khi thì lại bảo cô là em Hồ Sĩ Đống Khi thì nói nàng viết chữ Nôm Khi thì nói nàng giỏi giang chữ Hán Trước đây, qua thơ của bà, giới nghiên cứu đã hình dung ra tiểu sử của bà với những đường nét hư cấu, tưởng tượng hơn là có căn cứ xác thực. Chẳng hạn ngay từ thuở nhỏ, bà đã tỏ ra là một người thông minh, đĩnh ngộ và có tài ứng khẩu thành thơ. Một ngày kia, đi chợ về, đường trơn, chẳng may bà trượt chân ngã. Các đấng mày râu thấy vậy, bật lên tiếng cười trêu chọc. Không một chút ngại ngùng, bà đứng dậy “chữa thẹn” bằng hai câu thơ: Giơ tay với thử trời cao, thấp Xoạc cẳng đo xem đất ngắn, dài Hai câu này khiến ai nấy đều kính phục. Ấy là khẩu khí của bậc vương, bậc tướng chứ nào phải tầm thường! Từ nhà của bà, mỗi lần đi đến giếng thơi phải ngang qua nhà thầy đồ. Ngày nọ lũ học trò tinh nghịch chận đường không cho bà đi, chúng bảo phải ứng khẩu bài thơ vịnh cái giếng! Cái trò trẻ con này khiến bà nhoẻn miệng cười 76 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM và đọc ngay: Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông, Giếng tốt thanh thơi, giếng lạ lùng. Cầu trắng phau phau đôi ván ghép, Nước trong leo lẻo một dòng thông. Cỏ gà lún phún leo quanh mép,, Cá diếc le te tách giữa dòng. Giếng ấy thanh tân ai chẳng biết, Đố ai dám thả nạ dòng dòng? Nghe xong, lũ học trò rúc rích cười dù không ngờ bà lại giễu mình tinh tế, hóm hỉnh đến thế. Bà nói: - Nào, các anh thử họa lại xem! Lũ học trò không biết họa làm sao, bèn ù té chạy! Thuở ấy, mới mười bảy, đôi mươi, có nhan sắc lại chưa chồng nên bà thường bị đám văn nhân, lũ học trò trêu chọc. Ngày nọ, bà đi vãn cảnh chùa trong tiết xuân. Khí trời ấm áp. Tiếng chuông siêu thoát. Lòng người yên tỉnh lạ thường. Đằng xa kia, có dăm ba văn nhân tài tử, trong phút cao hứng đã phóng bút đề thơ của mình trên tường. Thấy bà đi ngang qua, một người nói: - Cô em ơi! Trai hai mươi tuổi đương xoan, gái hai mươi tuổi đã toan… về già! Hí! Hí! Có chịu làm vợ anh không? Hí hí! Nghe tiếng cười nham nhở ấy, bà không thèm nhìn mà bước đi một mạch! Thấy vậy, đám văn nhân vội đi theo buông lời chọc ghẹo: - Làm vợ của anh nhé! Không khéo cái già sồng sộc nó thì theo sau đấy! Gìn vàng giữ ngọc mãi, đắn đo lựa chọn mãi thì cũng... già khú thôi! Bà quay lại ôn tồn nói: Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ, Lại đây cho chị dạy làm thơ. Ong non ngứa nọc châm hoa rữa, Dê cõn buồn sừng húc giậu thưa! 77 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Đám văn nhân giật thót người. Không ngờ lại gặp người hay chữ đến thế. Nhưng quyết không để mất mặt đấng tu mi nam tử, họ bảo: - Lộng ngôn vừa vừa phải phải thôi chứ! Cô đã đọc những bài thơ mà anh em chúng tôi ghi ở đền chùa kia chưa mà dám nói thế! Cô có dám họa lại không? Bà đáp: - Thơ họa vận thì không khó mà làm hay thì cũng dễ. Chỉ khi gặp hạn vận(1) thì khó mà họa cho trôi! Nghe bà nói khiêu khích như thế, họ nóng mặt đáp: - Hạn vận nào là khó? Xin mời cô cứ nói. Chúng tôi sẽ họa ngay thôi! Bà tủm tỉm cười: - Vâng, các bác đã dạy thế thì em xin vâng. Này nhé “Lượng cả xin ông chớ hẹp hòi”. Mời các bác họa lại, nhưng cấm dùng hai chữ “hẹp hòi” đấy nhé. Còn “hòi” gì thì cũng được. Đám văn nhân ngồi ngẩn tò te, nghĩ mãi, không biết đáp lại vần gì cho hợp với chữ “hòi”. Một người trong đám họ nhanh trí bảo: - Nếu ra bài vịnh vật thì chúng tôi làm ngay. Chứ hạn vận kiểu này thì chỉ dành cho lũ học trò mới biết võ vẽ dăm ba chữ thánh hiền mà thôi, không xứng với tài năng của bọn tôi. Nghe lời vụng chèo khéo chống ấy, bà bảo: - Thôi được, vậy xin mời các bác thử vịnh cái chuông trong chùa. Nhưng bắt buộc câu thứ hai phải hạ vần “uông” thì mới là người hay chữ! Chà! Gặp phải người “ra điều ràng buộc là tay cũng già” chứ nào phải chơi! Cả đám nhăn mặt ngồi bóp trán mà suy nghĩ mãi. Bà giục hai ba lần nhưng họ vẫn câm như hến. Cuối cùng họ đành phải thú nhận là… thua! Bà nói: 1 Hạn vận: vần của thơ phú đã định trước, phải theo mà làm (Tiếng nói nôm na - Lê Gia, NXB Văn Nghệ, TP.HCM, 1999). 78 TẬP 8: CÁC VỊ NỮ DANH NHÂN VIỆT NAM - Nếu tôi vịnh được thì các bác chịu mất cái gì nào? Làm sao mà vịnh được cái chuông có vần uông nhỉ? Chắc chỉ nói phét đấy thôi! Nghĩ vậy, một người trong đám họ mạnh dạn bảo: - Cô làm được thì anh em chúng tôi xin biếu cô giấy hoa tiên lẫn bút mực! Được lời cam kết như thế, bà mới húng hắng cất giọng: - Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông Nó bảo nhau rằng: “Ấy ái uông”! Ai nấy đều thè lưỡi lắc đầu, khen nức nở hai câu thơ của bà. Giữ đúng lời hứa, họ đưa hết giấy hoa tiên và bút mực cho bà. Thẹn lắm! Ngượng lắm! Họ quay lưng bỏ đi ngay! Nhưng chưa kịp đi thì bà bảo: - Tôi đùa thôi. Chứ ai nào nỡ lấy những thứ này của các bác. Chỉ xin tặng các bác mấy câu thơ nhân dịp gặp gỡ đầu xuân. Nói xong bà đọc luôn: Dắt díu đưa nhau đến cửa thiền, Cũng đòi học nói, nói không nên. Ai về nhắn bảo phường lòi tói, Muốn sống đem vôi quét trả đền! Đám văn nhân đỏ mặt tía tai ù té chạy. Qua ngày sau, không ai còn thấy những bài thơ “lòi tói” mà đám văn nhân đã khệnh khạng viết trên tường nhà chùa nữa. Tăm tiếng của bà ngày càng nổi như cồn. Sau đó, vâng lời mẹ, bà lập gia đình. Nhưng để thử tài người mà mình sẽ nhận làm chồng, bà ra câu đối dán trước cửa và thách đối: - Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới; Trong làng chỉ có một người đối lại được là Tổng Cóc. Sáng mồng một Tết, ông đã sang nhà bà đưa ra vế đối: - Sáng mồng một mở then tạo hóa để cho thiếu nữ rước xuân vào. Bà khen là đối chỉnh và chịu làm vợ Tổng Cóc. Ăn ở với nhau một thời gian, Tổng Cóc mất. Bà có bài thơ khóc chồng, nhưng thật ra là 79