🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kể Chuyện Danh Nhân Việt Nam – Tập 5: Danh Nhân Quân Sự Việt Nam Ebooks Nhóm Zalo TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM 1 nhà xuất bản trẻ BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM HOAN NGHÊNH BẠN ĐỌC GÓP Ý PHÊ BÌNH NHÀ XUẤT BẢN TRẺ 161b Lý Chính Thắng - Quận 3 - TP. Hồ Chí Minh Điện thoại: 9316211 - 8465595 - 8465596 - 9316289 Fax: 84.8.8437450 E-mail: [email protected] Website: http://www. nxbtre.com.vn 4 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM LỜI NÓI ĐẦU Nhìn lại 4.000 năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta phải chiến đấu chống ngoại xâm gần như thường xuyên và đã chiến thắng oanh liệt. Trong Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thật sự đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Có được quyền tự do và độc lập ấy, dân tộc ta, từ buổi đầu dựng nước đến nay đã đổ biết bao xương máu.…Những người con đã hy sinh vì Tổ quốc, bao giờ cũng được các thế hệ sau ngưỡng mộ và ghi nhớ công ơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở rằng: “Dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Lịch sử nước ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. Chúng ta có quyền tự hào về những trang sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung v.v… Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”. Trong chiều hướng ấy, nhà thơ Lê Minh Quốc cố gắng thực hiện tập sách Danh nhân quân sự Việt Nam - với mục đích ôn lại những trang sử chiến đấu oanh liệt đã làm rạng rỡ non sông, đất nước ta. Tuy nhiên, do khuôn khổ có hạn của một tập sách mỏng, bước đầu 5 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM chỉ mới giới thiệu hai mươi nhân vật tiêu biểu. Đó là danh tướng Ngô Quyền - người chỉ huy tài ba đã chôn vùi quân Nam Hán năm 939 trên dòng sông Bạch Đằng với chiến thuật đóng cọc dưới lòng sông và đã chiến thắng vẻ vang giặc ngoại xâm phương Bắc chấm dứt 1.000 năm đen tối của thời kỳ Bắc thuộc. Tiếp theo là anh hùng Đinh Bộ Lĩnh - người có công dẹp loạn 12 sứ quân để thống nhất đất nước (968). Là Lê Hoàn - người đã chỉ huy cuộc kháng chiến đánh tan đại quân Tống (981). Là Lý Thường Kiệt với lối đánh chủ động tấn công, đánh phủ đầu để phá tan âm mưu bành trướng của giặc Tống. Là danh tướng Trần Hưng Đạo ba lần lãnh đạo quân dân Đại Việt đánh bại giặc Nguyên Mông đã từng sải vó ngựa suốt từ châu Âu sang châu Á mà không ai dám đối địch. Là danh tướng Lê Lợi đã đánh giặc Minh từ lúc binh lực còn non yếu đến lúc tập hợp được lực lượng lớn mạnh, đánh từ vùng rừng núi Lam Sơn hiểm trở đến vùng đồng bằng rộng rãi, đã đánh từ nhỏ đến lớn, dùng kế lâu dài từ quân sự đến ngoại giao để giành lại từng tấc đất của Tổ quốc. Là danh tướng Nguyễn Huệ với chiến thuật thần tốc, tiến nhanh, đánh mạnh, dùng đòn bất ngờ áp đảo lực lượng hùng hậu của giặc Xiêm, Thanh để chiến thắng oanh liệt. Công cuộc đánh giặc cứu nước là trách nhiệm của toàn dân, bất kể trẻ già trai gái thuộc vùng miền nào. Trong thời kỳ thực dân Pháp mới xâm lược nước ta, nhìn về lực lượng kháng chiến trong Nam tập sách này đề cập đến những anh hùng như Trương Định, Võ Duy Dương, Nguyễn Trung Trực đã dựng cờ nghĩa, chiêu mộ nhân dân đánh giặc đến hơi thở cuối cùng.…Những trận đánh dưới quyền chỉ huy của các danh tướng này đã làm vẻ vang trang sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Trong giai đoạn Cần Vương, tập sách viết về công trạng của chiến tướng Tôn Thất Thuyết - người đứng đầu phe chủ chiến, đã châm ngòi nổ cho trận đánh vang dội tấn công vào Đồn Mang cá, Tòa Khâm sứ Pháp trong đêm 4/7/1885. Sau khi kinh thành Huế thất thủ, ông đã đưa vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở lập chiến khu chiến đấu lâu dài. Bắt đầu từ giây phút này, lịch sử nước nhà đã chính thức mở ra giai đoạn Cần vương 6 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM hào hùng, nhân sĩ hào kiệt từ Nam chí Bắc đã đồng lòng đứng lên đánh giặc xâm lược theo lời kêu gọi từ Chiếu Cần Vương. Nhìn về phía lực lượng kháng chiến ở ngoài Bắc giai đoạn này, tập sách đề cập đến công nghiệp của anh hùng Đinh Công Tráng, người đã cùng các ông Phạm Bành, Hoàng Bật Đạt, Trần Xuân Soạn… dựng nên chiến khu Ba Đình (Thanh Hóa). Kế tiếp là những nhân vật lẫy lừng khác như Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật, là một trong những người đầu tiên hưởng ứng Hịch Cần Vương năm 1885 và lập nên chiến khu Bãi Sậy. Vai trò của cụ Tán Thuật khiến ta nhớ đến anh hùng Phan Đình Phùng, trong thời điểm này cũng là người có công thống nhất các lực lượng kháng chiến ở Nghệ Tĩnh. Cụ Đình nguyên Phan Đình Phùng, người đã bền gan chống Pháp ròng rã suốt mười năm trời ở chiến khu Vụ Quang, Ngàn Trươi (Hà Tĩnh). Hoặc Phó bảng Nguyễn Duy Hiệu, người có công lớn thống nhất lực lượng kháng chiến Cần Vương ở ba tỉnh Quảng Nam - Quảng Ngãi - Bình Định. Chỉ riêng việc ông thành lập Tân tỉnh- một tỉnh lî mới đối mặt với La Qua của ngụy triều, tạo nên một căn cứ địa hùng mạnh- mà theo nhận định của Công sứ Huế J. Baille là “gần như một quốc gia” thì cũng chứng tỏ bản lĩnh của một danh tướng! Trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, chúng tôi chọn giới thiệu trước Đại tướng nổi tiếng của nước ta là danh tướng Võ Nguyên Giáp. Tất nhiên, vẫn còn rất nhiều danh nhân quân sự khác rất xứng đáng cho thế hệ sau học tập, nhưng do khuôn khổ có hạn của tập sách mỏng, chúng tôi sẽ tiếp tục đề cập trong các tập sau. Nhân đây chúng tôi xin được nhắc lại, bộ sách KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM do nhà thơ Lê Minh Quốc thực hiện đã phát hành các tập: Danh nhân quân sự Việt Nam, Danh nhân khoa học Việt Nam, Các vị Tổ ngành nghề Việt Nam, Danh nhân Sư phạm Việt Nam, Danh nhân văn hóa Việt Nam, Các vị nữ danh nhân Việt Nam, Những nhà cải cách Việt Nam, 7 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Danh nhân cách mạng Việt Nam, Những người Việt Nam đi tiên phong, Những nhà chính trị Việt Nam và sẽ còn phát hành các tập tiếp theo, mời các bạn tìm đọc. Để bộ sách thật sự hữu ích cho bạn đọc - nhất là các bạn thanh thiếu niên - chúng tôi rất mong được sự chỉ giáo, giúp đỡ chân tình của các học giả uyên bác, của các nhà sử học và của các bạn đọc xa gần để tập sách ngày một hoàn hảo hơn. Trước hết xin bạn đọc ghi nhận ở đây sự biết ơn sâu xa của chúng tôi. NHÀ XUẤT BẢN TRẺ 8 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM Ngô Quyền Dậy sóng Bạch Đằng, chôn vùi quân Nam Hán Vào một buổi sáng nắng ấm, trong dinh của ông Ngô Mân người đang giữ chức Châu mục của đất Đường Lâm (nay thuộc Ba Vì - Hà Tây) vang lên tiếng khóc của đứa trẻ mới lọt lòng mẹ. Lạ thay! Lúc ấy trong căn nhà ngập đầy ánh sáng. Nhưng lạ hơn là trên lưng đứa trẻ ấy có ba nốt ruồi lớn. Ông Ngô Mân nhìn đứa con mới sinh có tướng mạo khác thường và thầm nghĩ: “Con ta sau này sẽ làm chúa một phương”. Nghĩ vậy, ông đặt tên con là Quyền. Thời gian trôi qua, Ngô Quyền lớn như Tượng vua Ngô Vương Quyền (897-944) thổi. Gương mặt cậu khôi ngô, mắt sáng quắc, dáng đi khoan thai như hổ. Và đặc biệt là cậu có sức khỏe hơn người. Tương truyền là Ngô Quyền có thể một mình nâng được chiếc vạc lớn - mà dăm bảy người 9 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM lực lưỡng khiêng cũng không xong! Ông Ngô Mân ra sức rèn luyện võ nghệ cho con để sau này có thể nối nghiệp của ông. Lúc bấy giờ, quân Nam Hán đang xâm lược nước ta. Cha con của dòng họ Khúc đang tập hợp hào kiệt khắp nơi để chống lại ách cai trị của nhà Nam Hán. Dưới quyền của họ Khúc có danh tướng Dương Đình Nghệ đang dấy binh ở đất Ái Châu (Thanh Hóa). Ông Ngô Mân đã dẫn Ngô Quyền tiến cử cho danh tướng này. Buổi đầu tiên gặp gỡ, nhìn Ngô Quyền, Dương Đình Nghệ tỏ ý hài lòng. Để thử tài, ông chỉ vào đôi chim đang đậu trên nhành cây cao trước mặt và nói: - Liệu ngươi có thể đuổi được con chim kia bay đi mà con đứng bên cạnh không hay biết gì cả? Ngô Quyền cúi đầu: - Bẩm tướng quân! Con có thể làm được điều đó. Nói xong, chàng liền lấy cung tên ra, ngắm về hướng đôi chim. Trong chớp mắt, một mũi tên lao vút. Một con chim giật mình bay đi. Nhưng lạ thay, con chim bên cạnh vẫn không hay biết gì, vẫn hồn nhiên đứng rỉa cánh! Ông Nghệ khen: - Tuyệt lắm, ta không ngờ ngươi có thể sử dụng cung tên thành thục đến thế! Bỗng từ phía sau lưng ông có tiếng nói vang lên: - Thưa bố, bố đã khen quá lời. Con của bố nào có kém gì đâu! Người vừa nói đó là Kiều Công Tiễn - con nuôi của Dương Đình Nghệ. Vừa dứt lời, Tiễn giương cung lên. Nhanh như chớp, một mũi tên đã lao vào ngực con chim tội nghiệp. Tiễn hí hửng: - Thưa bố, một mũi tên của con đã bắn ra thì phải đổi lấy một mạng sống! Dương Đình Nghệ quay mặt đi và nói: - Ta thật đáng trách. Vì một thú vui riêng mà phải thấy cảnh máu đổ đầu rơi. 10 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM Sau đó, ông nói với Tiễn: - Tiễn ạ! Con hãy lui ra ngoài. Tiễn hậm hực quay lưng bỏ đi. Dương Đình Nghệ quay lại nói với Ngô Quyền: - Tiễn là đứa thiếu lòng nhân. Sau này con nuôi của ta sẽ phản ta. Nay ta mến tài của ngươi, ngươi hãy theo phò tá! Ngô Quyền cúi đầu: - Thưa tướng quân, được theo tướng quân lao vào chốn binh đao để mưu nghiệp lớn thì dẫu có chết con cũng cam lòng. Đây cũng là ý nguyện của bố con. Đó là vào một buổi chiều râm mát trong năm 917, lúc Ngô Quyền mới tròn 20 tuổi. Đi theo phò Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền tỏ ra là người có tài cầm quân, võ nghệ tinh thông, lừng tiếng khắp vùng. Lúc bấy giờ, con gái của Dương Đình Nghệ là Dương Như Ngọc cũng đã lớn. Ông đang tìm người tài ba để gả chồng. Nhân dịp đầu xuân, trời rét ngọt, ông tổ chức nhiều cuộc thi để các nha tướng dưới quyền mình tranh tài và qua đó kén chọn rể. Cuối cùng, chỉ còn hai người đủ sức tranh tài cuộc thi là Ngô Quyền và Kiều Công Tiễn. Theo thể lệ của cuộc thi, mỗi người vừa phi ngựa, lại vừa phóng lao vào mục tiêu. Ai ném trước và trúng đích thì sẽ thắng. Mọi người nô nức xem tài của hai nha tướng trẻ tuổi. Một hồi trống vang lên giòn giã. Từ điểm xuất phát, hai con ngựa cùng xoải vó lao về phía trước. Con bạch mã của Ngô Quyền lao nhanh với tốc độ khủng khiếp, bỏ xa con hắc mã của Công Tiễn. Quyết không để thua, Tiễn liền nghĩ đến một trò ma mãnh để kìm chân đối thủ. Không một chút chần chừ, Tiễn nhanh nhẹn rút cung tên ra. Một mũi tên từ đằng sau cắm phập vào chân con bạch mã. Ngựa hí lên như điên cuồng và giảm dần tốc độ. Từ đằng sau, con hắc mã đã vượt lên. Tiễn cất tiếng cười đắc thắng. Biết ngựa mình đã bị hại, lập tức, Ngô Quyền phóng cây lao về phía trước. Nó xé gió lướt đi. Trong nháy mắt đã cắm đích xác vào mục tiêu là hình nộm bằng rơm 11 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM ở đằng trước mặt. Không ai có thể tưởng tượng được với một khoảng cách khá xa như thế, mà Ngô Quyền có thể phóng lao được chính xác như vậy! Hình nộm bằng rơm ngã ngửa ra phía sau với tiếng hò reo cuồng nhiệt của mọi người. Lúc đó, con bạch mã cũng từ từ khuîu chân xuống. Máu chảy đỏ cả một dặm đường dài… Công Tiễn mặc dầu phóng ngựa lên trước, nhưng cũng đành bất lực xuôi tay! Sau cuộc tranh tài này, cô Dương Như Ngọc được gả cho Ngô Quyền. Điều này càng khiến Công Tiễn thêm cay cú, tức tối. Ngày xuân cũng qua mau. Cả nước lại nô nức tập trung vào việc rèn vũ khí, tập luyện võ nghệ để chuẩn bị chiến đấu. Năm 931, danh tướng Dương Đình Nghệ từ đất Châu Ái (Thanh Hóa) kéo quân đi đánh thành Đại La (nay thuộc Hà Nội). Quân Nam Hán thua to phải cút về nước. Dương Đình Nghệ khôi phục lại giang sơn, xưng là Tiết độ sứ. Ông giao cho các tướng lĩnh trấn giữ các nơi. Ngô Quyền được giao giữ đất Châu Ái - quê hương Dương Đình Nghệ. Trước ngày lên đường Ngô Quyền hỏi: - Thưa bố! Con xin hứa sẽ giữ yên nơi đó để chiêu mộ anh tài, muôn dân an cư lạc nghiệp. Nhưng còn Công Tiễn sao chưa được bố giao cai quản vùng nào? Dương Đình Nghệ trầm ngâm: - Tiễn là kẻ bất nhân, không thể trấn giữ một cõi riêng nào được cả. Tốt nhất cứ để nó ở bên ta, ta rèn cặp cho đến khi nó thay đổi tâm tính đã. Mặc dầu biết ý định của bố nuôi như thế, nhưng Công Tiễn vốn là kẻ bất trung, bất nghĩa nên hắn tìm mọi cách để thực hiện âm mưu đen tối. Vào tháng 3 năm 937 Dương Đình Nghệ đang nằm ngủ trong cung thì có bóng đen lẻn vào. Bóng đen ấy chính là Công Tiễn, hắn nhẫn tâm giết bố nuôi để tước đoạt ngôi báu. Nghe tin này, Ngô Quyền rất căm giận. Từ Châu Ái, ông cùng với em vợ là Dương Tam Kha quyết tâm kéo quân đi trừng phạt quân nghịch tặc. Quân đi đến đâu hào kiệt nơi đó theo giúp rất đông. 12 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM Hoảng sợ trước đại binh của Ngô Quyền, tên phản phúc đã nghĩ ra sách lược xuẩn ngốc. Hắn bí mật cho người đem vàng bạc, châu báu sang đút lót nhà Nam Hán để xin cứu viện. Hành động hèn hạ này đặt cơ đồ Tổ quốc trước nguy cơ mất vào tay giặc phương Bắc! Được sự cầu cứu, chúa Nam Hán là Lưu Cung như mở cờ trong bụng, muốn nhân cơ hội ngàn vàng này mà cất quân đi xâm lược nước ta. Dù có người khuyên can, Lưu Cung vẫn bỏ ngoài tai mọi lời khuyên, ông ta đã vội vàng phong cho con trai là Vạn Thắng Vương Hoằng Thao làm Tĩnh Hải Tiết Độ sứ rồi lại phong làm Giao Vương - ý muốn sau khi cướp được đất Giao Châu thì Hoằng Thao sẽ làm vua - để xâm lược nước ta. Thế là theo lệnh của cha, cuối năm 938 Hoằng Thao đã chỉ huy trên 200 chiến thuyền vượt biển tiến vào đất nước ta. Còn vua Nam Hán thì cầm binh đóng ở Hải Môn (Quảng Đông - Trung Quốc) để sẵn sàng tiếp ứng. Tình thế lúc này đặt Ngô Quyền trước một khó khăn: vừa phải lo giải quyết thù trong vừa phải lo đối phó với giặc ngoài. Nếu không khéo để hai lực lượng phối hợp với nhau thì nguy cơ mất nước chỉ trong gang tấc. Bởi vậy sau khi cân nhắc kỹ, Ngô Quyền quyết định giết Công Tiễn để rảnh tay đối phó giặc ngoại xâm. Tháng 11/938, ông chỉ huy lực lượng hùng hậu gần 5 vạn quân ùn ùn kéo về thành Đại La. Viện binh Nam Hán chưa kịp sang thì đầu Công Tiễn đã bị bêu trên cổng thành! Số phận của kẻ tráo trở đã kết thúc nhục nhã như thế! Dẹp xong nội loạn, Ngô Quyền liền lo ổn định tình hình trong nước và gấp rút tổ chức cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán. Khi nghe tin chiến thuyền của Hoằng Thao đang chuẩn bị tiến (1) Sông Bạch Đằng: Do vị trí quan trọng của con sông này trong lịch sử nước nhà nên chúng tôi xin nêu một vài tài liệu để bạn đọc tham khảo thêm. Nhà nghiên cứu Đinh Xuân Vịnh cho biết: “Khúc sông này dài hơn 20km ở tỉnh Hải Dương cũ, từ Do Nghi đến Phả Lễ, trên tiếp với sông Giá và sông Đá Bạch, dưới thông với sông Nam Triệu - ở phía đông huyện Thủy Nguyên, nay giới hạn giữa huyện Thủy Nguyên và huyện Hải An (TP. Hải Phòng) với huyện Yên Hưng (tỉnh Quảng Ninh). Trong lịch sử còn có tên nữa là sông Vân Cừ, sông Rừng, có bến phà Rừng (Sổ tay địa danh Việt Nam - NXB Lao Động - 1996, trang 25). Theo nhà sử học Đào Duy Anh: “Chúng tôi đoán sông Bạch Đằng ngày xưa chính là khúc sông từ ngã tư đò Rừng ngày nay tiếp với sông Chanh”. (Đất nước Việt Nam qua các thời đại - NXB Thuận Hóa, trang 259). Trước đây, khi biên soạn Địa Dư chí, sử thần Nguyễn Trãi viết “Vân Cừ là tên sông, tên khác của sông ⮲ 13 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM vào sông Bạch Đằng (1), ông cho gọi các tướng lĩnh để bàn kế hoạch đối phó. Từ nhiều nguồn tin đã thu nhập được và kinh nghiệm chiến đấu, ông quả quyết: - Hoằng Thao là đứa trẻ ngu dại. Nó đem binh từ xa đến, quân sĩ mệt mỏi, lại nghe tin Công Tiễn đã bị giết, không còn kẻ làm nội ứng thì đã thất kinh hồn vía. Còn quân ta thì sức đang mạnh, địch với quân mỏi mệt thì tất phá được. Ngẫm nghĩ một lúc, ông nói tiếp: - Nhưng đừng quên rằng, nó có lợi thế ở chiến thuyền. Nếu ta không phòng bị trước thì chuyện thắng thua chưa thể biết được. Nay ta có kế hoạch này… Nghe ông trình bày kế hoạch, ai nấy đều khâm phục và đồng tình hưởng ứng. Theo đó, dân quân đã lao vào cuộc chiến. Kẻ lên rừng chặt gỗ lim, gỗ táu, người vạt nhọn đầu rồi sau đó bịt sắt lại. Tất cả những cây cọc nhọn hoắt ấy, Ngô Quyền đã sai dân quân lợi dụng lúc thủy triều xuống đem đóng ở cửa sông Bạch Đằng. Điều này cho thấy, Ngô Quyền là người rất thông thạo về thủy chiến, ông hiểu rõ luồng lạch của dòng sông như đường chỉ tay trên bàn tay của mình. Sau này các nhà thủy văn đã đo đạc: “Hạ lưu sông Bạch Đằng thấp, độ dốc không cao nên chịu ảnh hưởng của thủy triều khá mạnh. Lúc triều dâng, nước trải đôi bờ khoảng vài kilômét. Lòng sông đã rộng, lại sâu từ 8m-18m. Triều lên xuống vào độ nước cường, nước rút hơn 30cm trong một giờ, ào ào xuôi ra biển, lưu tốc từ 0,26-0,89/gy, mực nước chênh lệch cao nhất và thấp nhất cũng trên 3m”(1) Bạch Đằng. Tiền Ngô Vương bắt Hoằng Thao, Hưng Đạo Đại vương bắt Ô Mã Nhi đều ở chỗ ấy” (NXB Sử Học - 1960, trang 34). Nhưng “Dựa vào tình hình phân bố các đền thờ Ngô Quyền và các tướng lĩnh của ông tham gia trận này có thể dự đoán chiến trường chính đã diễn ra ở vùng cửa sông Cấm phía Nam Hải Phòng, chứ không phải đích thực là sông Bạch Đằng ngày nay, như tình hình đã diễn ra năm 1288 trong cuộc chiến tranh chống Nguyên lần thứ 3. Theo hướng giả thiết trên, vừa qua phòng Bảo tồn bảo tàng thuộc Sở Văn hóa thông tin Hải Phòng kết hợp với Khoa Sử trường Đại học Tổng hợp đã phát hiện được một số bãi cọc ở khu vực này, được ngờ là của Ngô Quyền. Kết hợp với nhận định của một số ngành khoa học khác, như địa mạo, thủy văn, giả thuyết trên càng có thêm sức thuyết phục. Tuy nhiên, cho đến nay đó vẫn chỉ là một giả thiết mà thôi” (Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm - NXB Quân Đội Nhân Dân -1983, trang 76). (1) Những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam chống phong kiến Trung Quốc xâm lược - NXB KHXH, trang 199). 14 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM Như vậy trước hết là phải đóng cọc sao để lúc thủy triều lên thì không ai còn nhìn thấy nữa. Thứ hai là phải làm sao để thuyền giặc vượt qua bãi cọc vào đúng lúc nước triều vẫn che lấp cọc, nhưng sau đó là phải rút để cọc nhô lên khỏi mặt nước nếu không sẽ mất tác dụng. Lợi dụng điều này, Ngô Quyền đã dàn binh bố trí một trận đánh mở đầu cho truyền thống vùi chôn quân giặc trên sông Bạch Đằng - mà sau này các nhà sử học gọi là “nghệ thuật thủy chiến Bạch Đằng”. Do kiêu căng và chủ quan nên tướng trẻ Hoằng Thao say sưa suốt ngày, thế nhưng khi nghe tin Công Tiễn đã bị giết, hắn đâm ra hoảng hốt vì không còn người làm nội ứng. Giây lát sau, hắn mới trấn tĩnh lại: - Thôi, cũng không sao. Binh lực ta hùng hậu như thế này thì ai có thể chống chọi nổi? Nói rồi hắn lại thúc quân đi tiếp. Quân giặc đến gần, Ngô Quyền sai tướng Nguyễn Tất Tố chỉ huy 200 thuyền nhẹ chuẩn bị tiến ra cửa sông để khiêu chiến. Còn Dương Tam Kha - em vợ Ngô Quyền - được lệnh chỉ huy quân bên tả ngạn, Ngô Xương Ngập - con trai đầu của Ngô Quyền - và tướng Đỗ Cảnh Thạc có nhiệm vụ chỉ huy đạo quân bên hữu ngạn. Cả hai đạo quân này cùng mai phục hai bên bờ sông để phối hợp với thủy binh đánh tạt ngang vào đội hình quân giặc và sẵn sàng tiêu diệt khi chúng chạy lên bờ. Điều này cho thấy, tầm chiến lược của Ngô Quyền là tiêu diệt hoàn toàn lực lượng giặc, chứ không chỉ đánh bại thủy quân của chúng. Lúc này, thuyền giặc vẫn giong buồm tiến vào trận địa. Gió đông bắc đã nổi lên, càng đẩy thuyền chúng nhanh hơn. Không gặp một sự kháng cự nào, chúng tỏ ra kiêu căng. Bất ngờ, thuyền nhẹ của Nguyễn Tất Tố xuất hiện. Hoằng Thao nhổ bãi nước bọt xuống dòng sông mà cười khinh bỉ khi thấy đối phương xuất quân với loại thuyền nhỏ bé như thế! Thật vậy, càng đánh quân ta càng… thua! Đó là kế sách nhử giặc tiến sâu vào bãi cọc ngầm mà chúng không thể nào phán đoán trước. Khi quân ta giả vờ thua chạy thì tên tướng kiêu ngạo Hoằng Thao đã mắc mưu. Hắn hăm hở thúc quân đuổi theo, vượt qua trận địa cọc 15 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM ngầm mà Ngô Quyền đã cho đóng dưới sông. Rồi lúc thủy triều đang rút, ông cho binh lính quay lại đánh trả. Trước sức tấn công dữ dội của ta, các chiến thuyền của giặc phải quay đầu chạy, nhưng vì nước rút quá nhanh, nên chiến thuyền đã mắc vào cọc sắt. Thuyền bị vỡ và đắm rất nhiều. Cùng lúc đó trên bờ sông một lực lượng khác lại dùng tên tẩm thuốc độc bắn như mưa xuống thuyền của quân Nam Hán. Quân giặc phần bị giết, phần bị chết đuối, thiệt hại hơn quá nửa. Ngay cả tên tướng trẻ kiêu căng Hoằng Thao cũng bị chém chết trên được sông Bạch Đằng. Nghe tin con trai đã bỏ mạng ở đất Giao Châu, vua Nam Hán thất vọng não nề, không còn tâm trí nào để kéo quân sang tiếp viện. Mặc dù không trực tiếp tham gia chiến trận, nhưng vua Nam Hán khiếp sợ đến nỗi cho tên mình Lưu Cung là xấu nên phải đổi sang tên Lưu Yểm. Trận đánh vang dội này, nhà sử học đầu tiên của nước ta là Lê Văn Hưu đã nhận định: “Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới hợp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Thao, làm người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể bảo một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán theo tranh dân gian 16 Lăng thờ Ngô Quyền hiện nay tại Đường Lâm (Hà Tây) TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM vậy”. Còn nhà sử học Ngô Thì Sĩ thì viết: “Chiến thắng Bạch Đằng là vũ công cao cả vang dội đến ngàn thu, không phải chỉ lừng lẫy ở một thời bấy giờ thôi đâu!”. Còn ở thời đại của chúng ta, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo nhận định đây là trận đánh nhanh nhất Việt Nam: “Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung đánh trong mấy tháng, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh đánh trong 9-10 năm; Ngô Quyền chỉ đánh trong mấy ngày và mưu cao của Ngô Quyền là mưu lừa địch, lừa địch đi vào đúng kế của ta. Cho nên mưu cao nhất là mưu lừa địch.Và kế hay nhất là kế điều địch. Lừa địch là tạo ra bất ngờ. Điều địch là tạo ra chủ động. Bất ngờ và chủ động là mạch sống của tác chiến” (Tạp chí Xưa – Nay số TT 1998). Với chiến thắng rực rỡ này, ý chí xâm lược của giặc phương Bắc bị đè bẹp, kết thúc hoàn toàn thời kỳ mất nước của dân tộc ta kéo dài hơn ngàn năm. Mùa xuân năm 939, danh tướng Ngô Quyền lên ngôi, ông bãi bỏ chức Tiết độ sứ và tự xưng Vương. Ông đã chọn Cổ Loa - kinh đô cũ của nước Âu Lạc thời An Dương Vương - làm kinh đô của vương quốc độc lập, tự chủ. Việc Ngô Vương Quyền xưng Vương và 17 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM đặt kinh đô ở Cổ Loa đã mang ý nghĩa quan trọng: nêu cao truyền thống giữ nước, dựng nước lâu đời của dân tộc và biểu thị ý chí quyết giữ vững nền độc lập vừa giành được sau hơn mười thế kỷ đấu tranh ngoan cường chống ngoại xâm. Thời kỳ Bắc thuộc đen tối kéo dài suốt 1.000 năm dưới ách phong kiến phương Bắc đã chấm dứt. Kể từ đây, đất nước ta không còn là một quận huyện của phương Bắc. Nhưng rất tiếc, Ngô Vương Quyền trị vì trên ngôi thật ngắn ngủi, chỉ sáu năm. Ông mất ngày 18 tháng Giêng năm Giáp Thìn (944). Công đức của ông sáng ngời trong sử sách, đúng như nhà sử học Ngô Thì Sĩ nhận định: “Vua Ngô Quyền giết giặc nội phản để trả thù cho chúa, đuổi quân ngoại xâm để cứu nạn cho nước, xây dựng quốc gia, đem lại chính thống, công lao thật là vĩ đại”. 18 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM Đinh Bộ Lĩnh Dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước Nắng nhạt nhòa ngả vào sau núi. Trời chiều. Những đứa trẻ chăn trâu vẫn hào hứng chia quân chơi đánh nhau. Cỏ lau ngút ngàn. Trong những đứa trẻ ấy có một cậu bé bao giờ cũng tỏ ra thông minh, nhanh nhẹn, lắm mưu nhiều kế hơn cả nên phe của cậu thắng luôn. Mỗi lần thắng trận, cậu thường bắt bọn trẻ con khoanh cánh tay làm kiệu để rước, lúc ấy, hai tay cậu cầm cờ lau, còn tả hữu đều có kẻ đi theo hậu vệ trông thật oai vệ. Những người lớn chứng kiến cảnh này, ai nấy đều lấy làm lạ, Tượng vua Đinh Tiên Hoàng (924-979) thường nói với nhau: “Thằng bé này khí vũ khác người, không phải là hạng tầm thường, ngày sau có thể làm được việc lớn”. Cậu bé đó chính là Đinh Bộ Lĩnh, con của ông Đinh Công Trứ - một nha tướng dưới quyền của Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ - sinh năm 924 tại động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là huyện Hoa Lư - Ninh Bình). Đây là 19 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM nơi núi non hiểm trở, bốn mặt đều có núi cao thăm thẳm trông như bốn bức vách, người dân thường gọi là thung Lau. Do cha mất sớm, nhà nghèo nên bà mẹ họ Đàm cho Lĩnh sang ở nhà chú ruột. Tại đây, hàng ngày cậu phải đi chăn trâu. Tương truyền lần nọ, sau khi thắng trận, đang lúc hào hứng, cậu cho các bạn giết trâu để khao quân. Ăn xong, sợ chú đánh, cậu lém lỉnh cho chôn đuôi trâu xuống đất, chỉ để lòi lên đoạn cuối. Sau đó cậu bình tĩnh lùa đàn trâu về. Lúc kiểm trâu, thấy thiếu một con, ông chú nói: - Mày ham chơi để trâu đi lạc rồi! Cậu trả lời: - Không phải đâu chú ạ! Con trâu đã chui xuống đất rồi. Chỉ lòi mỗi cái đuôi thôi! Ông chú quát: - Mày chỉ được cái nói nhảm. Mau dẫn tao ra chỗ đó xem sao! Khi đến nơi ông chú túm lấy đuôi trâu ra sức kéo. Đuôi trâu bật lên thì ông chú cũng ngã oạch về phía sau! Cậu bật cười khanh khách rồi co chân chạy biến về phía bờ sông. Ông chú lồm cồm ngồi dậy, tức lắm, vội đuổi theo! Nhưng khi gần đến nơi thì thấy có con rồng vàng đưa cháu mình qua sông! Khi Đinh Bộ Lĩnh trưởng thành, Ngô Tiên Vương đã băng hà, lúc sắp mất có trăn trối dặn em vợ là Dương Tam Kha phải phụ chính cho con mình là Ngô Xương Ngập. Nhưng Tam Kha tham quyền, bèn cướp ngôi, tự xưng là Bình Vương, rồi nhận em của Xương Ngập là Xương Văn làm con của mình. Hành động thoán nghịch này khiến ai ai cũng căm phẫn. Sợ tai họa trút xuống đầu mình, Xương Ngập chạy về Nam Sách (nay thuộc Hải Dương) trốn trong nhà một cựu thần là Phạm Lệnh Công. Tam Kha sai tướng Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc đem quân đi bắt, sợ quá, Xương Ngập ẩn náu trong núi. Bấy giờ, ở Châu Phong đang có loạn, Tam Kha bèn sai Xương Văn cùng hai tướng Dương, Đỗ đem quân đi chinh phạt. Trên đường đi, Xương Văn nói: 20 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM - Đức của Tiên Vương ta thấm khắp lòng dân, phàm chính lệnh của người ban ra thì ai ai cũng vui lòng làm theo. Nay chẳng may Tiên Vương băng hà, Bình Vương lại làm điều bất nghĩa, dám cướp ngôi của anh em ta, thật là tội lớn! Thế mà lại sai bọn ta đi đánh những làng không có tội, đánh được cũng chẳng vinh dự gì, nếu không được thì làm sao? Hai tướng đáp: - Chúng tôi chỉ theo lệnh của vua! Xương Văn nói: - Cướp ngôi nhà Ngô ta sao gọi là vua? Chi bằng nhân lúc này ta dẫn quân về đánh úp Bình Vương lấy lại cơ nghiệp của Tiên Vương, nên chăng? Hai tướng nghe là phải, đem quân đánh úp Bình Vương. Nể tình cậu cháu, Xương Văn không nỡ giết Dương Tam Kha, chỉ giáng chức. Sự việc này diễn ra vào năm 951. Xương Văn lên ngôi, xưng là Nam Tấn Vương, rồi sai người đón anh là Xương Ngập về triều để cùng lo việc nước. Xương Ngập về xưng là Hậu Ngô Vương. Nếu anh em hòa thuận nhau thì hưởng phú quý sẽ còn lâu dài, nhưng cậy mình làm anh nên Xương Ngập tự ý chuyên quyền, đến nỗi Xương Văn không được tham gia chính sự. Nhà Hậu Ngô từ đó suy yếu dần, các thế lực nổi lên cát cứ nhiều nơi, đánh nhau liên tục để mong giành ngôi đế vương - thiên hạ gọi là “loạn 12 sứ quân”. Giữa lúc nước nhà chia năm xẻ bảy, loạn lạc như thế thì Đinh Bộ Lĩnh đã tập hợp lực lượng và theo phò Trần Lãm (tức Trần Minh (1) Động Hoa Lư: là một thung lũng rộng, bốn bề bao bọc núi, nằm ở sườn phía Nam phần cuối khóm núi ăn vào địa phận huyện Gia Viễn, thuộc dãy núi đá vôi Hòa Bình, cách sông Bôi khoảng 2km về phía Đông, thuộc địa phận xã Gia Hưng, huyện Gia Viễn cũ thuộc Ninh Bình ngày nay. Lòng động bằng phẳng, rộng 16 mẫu (5,76 ha), canh tác hoa màu, thuộc sự quản lý của nhân dân xã Gia Hưng. Động Hoa Lư còn có tên gọi là Thung Lau hoặc Thung Ông. (Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước - Nguyễn Danh Phiệt - NXB KHXH 1990). * Hoa Lư: Huyện ở phía Tây thị xã Ninh Bình, giáp sông Đáy và tỉnh Nam Định ở phía Đông Bắc. Diện tích 137km2. Kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ năm 968 đến năm 1009 dưới triều nhà Đinh và Tiền Lê. Toàn bộ khu kinh thành Hoa Lư xưa, ngày nay thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình (Sổ tay địa danh Việt Nam - Nguyễn Được, Trung Hải - NXB Giáo Dục 1998). 21 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Công). Sau khi Trần Lãm mất, ông đem toàn bộ binh mã về trấn giữ vùng Hoa Lư núi non hiểm trở (1). Sau đó Đinh Bộ Lĩnh sai con là Đinh Liễn đến chỗ anh em Xương Ngập, Xương Văn để triều cống. Nhưng khi Đinh Liễn đến, anh em vua Ngô bắt giữ và đem quân tấn công vào căn cứ Hoa Lư. Hơn một tháng vây hãm, đánh dây dưa mãi, bất phân thắng bại. Cuối cùng, quân Ngô đem treo Đinh Liễn trên cây dựng trước cổng thành rồi sai người nói với Đinh Bộ Lĩnh: - Nếu không chịu hàng thì sẽ giết Đinh Liễn. Đinh Bộ Lĩnh tức giận quát lớn: - Đại trượng phu chỉ mong lập công danh nơi chiến trận, chứ có bắt chước bọn đàn bà xót con đâu! Nói xong, liền sai mười tay nỏ chuẩn bị bắn vào Đinh Liễn. Thấy vậy, anh em vua Ngô kinh hãi bảo nhau: - Ta treo con hắn lên là khiến hắn đoái hoài thương con mà mau đầu hàng. Hắn tàn nhẫn như thế thì treo con hắn lên làm gì nữa! Trước thái độ kiên quyết của Đinh Bộ Lĩnh, anh em vua Ngô kéo quân về. Từ đó, ai ai cũng khiếp sợ trước mệnh lệnh của ông. Ông đã ra quân thì trước sau răm rắp tuân theo, không ai dám trái lệnh. Năm 965, Ngô Xương Văn mất, con là Ngô Xương Xí lên nối ngôi. Nhà Ngô đã kiệt quệ, không ai phục tùng nữa. Ngô Xương Xí cũng chỉ như một sứ quân cai quảng một vùng mà thôi. Trong khi đó, lực lượng của Đinh Bộ Lĩnh ngày một lớn mạnh. Ông cất quân đi đánh các sứ quân khác. Không những chinh phục bằng nghệ thuật quân sự, ông còn sử dụng cả đường lối ngoại giao khôn khéo. Chẳng hạn, sau khi đánh tan sứ quân của Ngô Nhật Khánh (Ba Vì - Hà Nội), ông lấy mẹ của Khánh làm vợ, cho con trai là Đinh Liễn lấy em gái Khánh và gả con gái mình cho Khánh! Ngoài mặt thì Khánh tươi cười nhưng trong lòng vẫn căm thù, đem vợ chạy vào vùng đất Chiêm Thành, đến cửa bể Nam Giới (giáp giới huyện Thiên Lộc và Thạch Hà), Khánh rút dao đâm vào mặt vợ quát: 22 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM - Cha mày lừa hiếp mẹ con ta, ta đâu phải vì có mày mà quên được mối thù ấy đâu! Mày mau về nhà mày, một mình ta đi tìm người cứu ta! Khánh đi cầu viện Chiêm Thành, nhưng mưu đồ đó chẳng nên cơm cháo gì! Còn đối với con trai của Ngô Xương Văn là Ngô Xương Xí thì Đinh Bộ Lĩnh không dụng binh, mà chỉ thu phục bằng nhân tâm. Tương truyền, khi ông hành quân đến Bình Kiều (Triệu Sơn - Thanh Hóa), có một mưu sĩ đến mách bảo: - Xí là người ươn hèn, không cần đánh, chỉ cần mở tiệc khao quân thì Xí tất khiếp sợ mà hàng! Đinh Bộ Lĩnh làm theo kế này thì quả nhiên như thế. Nhưng cũng có truyền thuyết cho rằng, ông đã lấy con gái Dương Tam Kha là Dương Thị Ngọc Vân để thông qua mối quan hệ này mà hàng phục được Xương Xí. Còn những sứ quân khác, không hàng phục được thì ông đem quân đánh quyết liệt. Như sứ quân Kiều Công Hãn hùng cứ ở Phong Châu (Bạch Hạc - Vĩnh Phú) bị ông vây đánh, không chống cự nổi phải kéo quân về phía Nam. Trên đường đi nghe tin sứ quân Ngô Nhật Khánh đã đầu hàng, Hãng bèn đưa quân về Châu Trường (nay thuộc huyện Mỹ Lộc - Nam Định). Đến nơi thì trời đã trưa, phía Tây có một cái quán, bà chủ họ Phạm mời vào nghỉ chân. Chủ quán đem rượu hoàng hoa và gỏi cá xanh ra chiêu đãi. Hãn nói: - Ta từ xa xôi đến đây, sao bà lại đãi ta hậu thế? Bà đáp: - Đêm tôi nằm mộng thấy có người bảo rằng, sáng ngày có vị đại nhân đến, nên khoản đãi tử tế, vị đại nhân ấy, có lẽ là tướng quân chăng? Hãn ngồi im lặng. Nghĩ vận mình đã mất, đang đăm chiêu lo lắng như thế thì nghe tin quân của Đinh Bộ Lĩnh kéo đến. Hãn vội cởi áo gấm, lấy vàng bạc trên ngựa đưa cho bà chủ quán rồi đi đến cầu phía Nam. Đến nơi đó thì mất! Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc - vốn là danh tướng nhà Ngô - cũng không 23 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM chống cự được sức tấn công như vũ bão của anh hùng động Hoa Lư. Thạc trấn giữ Đỗ Động (Thanh Oai - Hà Tây) đặt bản doanh tại đất Trại Quyền rồi xây dựng đồn lũy kiên cố. Một hôm, quân do thám của Đinh Bộ Lĩnh cho biết Thạc đang ở đồn Bảo Đà, còn Trại Quyền chỉ có một tướng dưới quyền đang canh giữ. Đây là thời cơ thuận lợi để tiêu diệt đối phương, Đinh Bộ Lĩnh bàn với tướng sĩ: - Thạc là người mưu lược, ta chỉ có thể thắng bằng kế, chứ không thể thắng bằng lực. Lợi dụng đêm tối, ông chia quân làm bốn mũi đánh vào Trại Quyền, chia cắt lực lượng của Thạc không cho cứu ứng được nhau. Thạc hay tin thì trở tay không kịp. Trong khi đó, quân của Đinh Bộ Lĩnh ra sức giữ lấy Trại Quyền, đôi bên đánh nhau suốt gần năm trời nhưng bất phân thắng bại. Một hôm, trong trận giao chiến, Thạc bị mũi tên lạc làm sát thương, lại bị sốt liên miên, chẳng bao lâu thì mất. Dẹp xong sứ quân của Đỗ Cảnh Tạch, Đinh Bộ Lĩnh tiếp tục đánh sứ quân của Nguyễn Siêu đang trấn giữ ở Tây Phù Liệt (Thanh Trì - Hà Nội). Ngày 6/6/967, các tướng nhà Đinh là Nguyễn Bồ, Nguyễn Thục, Cao Sơn, Đinh Thiết đem quân đi đánh Nguyễn Siêu. Đánh nhau long trời lở đất, máu chảy thành sông, thây nằm chật đất, nhưng cũng không thắng nổi. Đinh Bộ Lĩnh nghe tin này thì giận lắm. Ông sai tướng Nguyễn Bặc đem 10 ngàn quân đi tiên phong, lại sai Thập đạo tướng quân Lê Hoàn đem 8 ngàn quân đi tiếp chiến, còn ông thân chinh thống lĩnh toàn quân. Ông ra lệnh cho quân sĩ, hễ nghe tiếng pháo nổ thì phải liều chết mà xông lên đánh địch. Nghe tiếng tăm của ông, Nguyễn Siêu dẫu hoảng sợ nhưng cũng chủ động dàn binh bố trận ở những nơi hiểm yếu. Ngày 28/6 có một tu sĩ tên là Đỗ Khả Tiên từ phương Bắc đến, bày mưu cho Nguyễn Siêu: - Tôi nghe ở phía Tây có đại tướng quân hào kiệt hơn người, ở Bắc có trung tướng quân là bậc anh hùng trong đám anh hùng đời nay. Sao tướng quân không nắm lấy cơ hội này? Nghiệp lớn có thể mưu tính được đấy! Nguyễn Siêu vốn tổ tiên là người Phúc Kiến bên Tàu, nghe một đạo 24 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM sĩ người phương Bắc phân tích tình thế như vậy thì càng bùi tai, vội tin theo ngay. Nguyễn Siêu, chia quân làm hai lực lượng. Một lực lượng ở lại giữ thành lũy. Một lực lượng đi cầu viện binh. Đến rằm tháng 7, nước sông lên to, đi ngang qua xã Đông Phù Liệt thì gặp sóng cao gầm thét, thuyền đi cầu viện của Nguyễn Siêu bị đắm sạch! Đinh Bộ Lĩnh nghe tin này, nửa đêm sai võ sĩ Nguyễn Đoàn dẫn hơn mười người, ngầm lẻn vào trong thành của đối phương, thừa gió phóng hỏa, lửa cháy ngút trời, bụi khói mù mịt. Quân của Nguyễn Siêu hoảng hốt, hồn xiêu phách lạc, đạp lên nhau mà chạy. Cuối cùng chỉ có Ngọc Giả, Nguyễn Triệu, Ngọc Cầu dẫn thoát hơn một ngàn tàn quân về được bản doanh của Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du (Tiên Sơn - Hà Bắc). Sứ quân Nguyễn Siêu tan rã. Thừa thắng, Đinh Bộ Lĩnh đem quân đi đánh sứ quân của Tiệp. Tiệp vốn người cao to, nói năng rổn rảng như kim khí va chạm, ai nghe cũng sợ. Nhưng Đinh Bộ Lĩnh chỉ đánh một trận là đại quân của Tiệp tan tác binh mã. Với lối đánh thần tốc và thắng lợi giòn giã nên thiên hạ suy tôn ông là Vạn Thắng Vương! Có những sứ quân như Lã Đường ở Tế Giang (Văn Lâm - Hải Dương), Nguyễn Khoan ở Tam Đái (Yên Lạc - Vĩnh Phú) chỉ vì khiếp sợ oai danh của ông mà vứt bỏ khí giới, không dám chống chọi! Như vậy, chỉ sau một, hai năm lúc nhà Hậu Ngô chấm dứt (967) thì Đinh Bộ Lĩnh đã hoàn thành sứ mệnh đánh tan 12 sứ quân để thống nhất Tổ quốc. Năm 968, ông lên ngôi Hoàng đế - thường gọi là Đinh Tiên Hoàng, đặt niên hiệu Thái Bình, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Đinh Tiên Hoàng là ông vua đầu tiên của nước ta tự đặt niên hiệu để sánh với niên hiệu của Hoàng đế phương Bắc! Trong ca dao thời đó có câu: Xem lên trăng bạc trời hồng Dạo miền sơn thủy bẻ bông Thái Bình Là ý nói từ đây nước Nam ta do người Nam ta làm chủ, niên hiệu Thái Bình của Đinh Tiên Hoàng đã thu giang sơn gấm vóc về một mối. Những người đồng cam cộng khổ với ông trong năm tháng gian khổ đều được ông định phẩm hàm quan văn, quan võ như Nguyễn Bặc 25 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM làm Định Quốc Công, Đinh Liễn làm Nam Việt Vương, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân v.v… Lúc bấy giờ, bên Trung Quốc nhà Tống đã chiếm được thiên hạ, sợ quân Tống sẽ kéo quân xâm lược nước ta, Đinh Tiên Hoàng đã sai Đinh Liễn sang triều cống để giữ hòa hiếu giữa hai nước. Tuy là người có nhiều cải cách tích cực để củng cố nền độc lập, nhưng Đinh Tiên Hoàng đã phạm sai lầm là bỏ con trưởng Đinh Liễn để lập con út là Hạng Lang làm Thái Tử. Đinh Liễn tức giận giết Hạng Lang gây nên mối loạn trong hoàng tộc. Có lẽ, nhìn thấy sự mất đoàn kết trong tộc Đinh nên tên thái giám Đỗ Thích một hôm nằm mơ thấy sao rơi vào mồm, nghĩ là trời báo mộng cho mình sắp lên ngôi vua! Hắn nhân cơ hội thấy cha con vua Đinh say rượu nằm trong hoàng cung bèn lẻn vào giết hại, rồi trốn trên máng nước. Nhưng hắn đã bị đình thần bắt và đem xử tội. Đó là năm 979, con trai Đinh Tiên Hoàng là Đinh Toàn, mới sáu tuổi được tôn làm vua. Mọi quyền hành đều ở trong tay Thập đạo tướng quân Lê Hoàn. Biết được tin này, nhà Tống cất quân sang xâm lược nước ta. Trước tình thế như vậy, danh tướng Phạm Cự Lượng cho họp ba quân trong cung điện rồi nói: “- Bây giờ quân nghịch sắp vào cõi mà vua thì còn bé, lấy ai mà thưởng phạt cho công minh? Dẫu chúng ta có làm hết sức lập được chút công nào, thì rồi ai sẽ biết cho? Chi bằng nay ta tôn Thập đạo tướng quân lên làm vua rồi ra đánh thì hơn”. Nghe nói vậy, quân sĩ đều hô vạn tuế! Vợ Đinh Tiên Hoàng là Thái hậu Dương Vân Nga thấy trên dưới đều thuận tình nên mới sai lấy áo long cổn mặc cho Lê Hoàn. Lê Hoàn lên làm vua, sẽ là người đánh tan quân Tống và mở ra nhà Tiền Lê. Còn Đinh Toàn bị giáng làm Vệ vương mà sử gọi là Phế đế. Như vậy, nhà Đinh làm vua được hai đời cả thảy 12 năm (968 - 980). Xét về công lao của Đinh Tiên Hoàng, các nhà sử học đều đánh giá cao. “Thắng lợi của Đinh Bộ Lĩnh là thắng lợi của xu hướng thống nhất quốc gia, thắng lợi của tinh thần dân tộc và ý chí độc lập mạnh mẽ của nhân dân” (Lịch sử Việt Nam - NXB KHXH, trang 144). Chủ tịch Hồ Chí Minh khi viết Lịch sử nước Nam cũng dành những lời tốt đẹp: 26 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM Đến hồi thập nhị sứ quân Bốn phương loạn lạc muôn dân cơ hàn Động Hoa Lư, cõi Tiên Hoàng Nổi lên gầy dựng triều đàng họ Đinh Ra tài kiến thiết kinh dinh Hiện nay, tại Hoa Lư (Ninh Bình) vẫn còn đền thờ Đinh Tiên Hoàng, trong đó có bài minh (1) ghi ở văn bia ca tụng công đức của ông với những câu sau: Vĩnh cửu vô cương Vua theo điển chương Phúc thọ vô cùng Dân ta mãi mãi Báo quốc biểu dương Đền thờ vua Đinh tại Hoa Lư (Ninh Bình) (1) Minh: Một thể văn vần, có đối hoặc không đối, khắc vào một vật gì, hay dán ở chỗ làm việc, để ghi nhớ sự việc hoặc công lao. (Từ điển văn học - NXB KHXH - 1983, trang 460). 27 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Đền thờ vua Đinh tại Ninh Bình Vạn năm trợ giúp Hậu thế noi gương Công đức đều lớn Trời đất vĩnh trường Hẳn chúng ta chưa quên lời nhận định của nhà sử học Lê Văn Hưu: “Đinh Tiên Hoàng tài năng hơn người, dũng lược nhất đời, đương lúc người Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ một phen cất quân mà 12 sứ quân phục hết. Vua mở nước dựng đồ, đổi xưng hoàng đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đủ. Có lẽ ý trời vì nước Việt ta mà lại sinh bậc thánh triết để tiếp nối quốc thông của Triệu vương chăng”. 28 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM Lê Hoàn Làm mạnh nước Nam - ra uy với người Tống Ngoài trời đang mưa tầm tã. Gió thổi thốc vào mái tranh. Những giọt nước chảy lênh láng trong nhà. Trên chiếc chõng tre người đàn bà họ Đặng đưa tay vuốt bụng. Bà mỉm cười. Một hài nhi đang cựa quậy trong bụng như thì thầm với bà những niềm vui ngây ngất. Đã khuya, nhưng ông Lê Mịch - chồng bà - vẫn còn đi soi ếch ngoài ruộng chưa Tượng vua Lê Đại Hành (936-1005) về. Nằm ngóng đợi chồng, trong giây lát bà chìm dần vào giấc ngủ. Trong giấc mơ, bà thấy từ bụng mình mọc lên một cây hoa sen. Lát sau thì sen nở hoa. Bà ngắt hoa ấy chia cho mọi người cùng ăn. Đang nằm mơ như thế, thì ông Lê Mịch sịch cánh cửa bước vào nhà, bà giật mình thức giấc… Giấc mơ kỳ lạ ấy còn quay lại trong mộng mị của bà nhiều lần. Rồi ngày rằm tháng 7 năm 936 (có sách ghi năm 941) bà sinh ra cậu con trai kháu khỉnh, nơi tai có màu sắc lạ thường. Bà nói: 29 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM - Đứa trẻ này lớn khôn tất nhiên là đại quý, nhưng vợ chồng tôi không được hưởng lộc của nó. Thật vậy, hai năm sau vợ chồng của bà đều qua đời. Đứa trẻ ấy được đặt tên là Lê Hoàn. Một viên quan trong làng, thấy đứa trẻ cùng họ Lê nên đem về nhà dạy dỗ, nuôi nấng. Tương truyền, những đêm đông rét mướt, gió thổi như cắt da, Lê Hoàn nằm phục mà ngủ như hình cối úp nhưng trong nhà tự nhiên lại sáng rực. Viên quan lẳng lặng đến xem thì thấy có con rồng vàng nằm ấp ở trên như che chở cho cậu bé. Biết được điều này ai cũng cho là lạ. Lớn lên, Lê Hoàn đi theo phò giúp cho Đinh Liễn - con trai của Đinh Bộ Lĩnh. Là người khí khái, có chí lớn, có trí dũng nên Lê Hoàn được cha con họ Đinh giao cho cai quản một nghìn quân rồi dần dần được thăng lên đến chức Thập đạo tướng quân. Khi họ Đinh dẹp xong loạn 12 sứ quân và lên ngôi Hoàng đế thì Lê Hoàn cũng được tham gia việc triều chính. Bấy giờ trong dân gian lưu truyền câu sấm: Đỗ Thích thí Đinh, Đinh Lê gia xuất thánh minh Cạnh đầu đa hoạch tứ Đại lộ thiểu nhân hành nghĩa: Đinh, Đinh Đỗ Thích giết Nhà Lê lên trị vì Tranh ngôi nhiều kẻ chết Ngoài đường ít người đi Thật vậy, mùa đông năm 979, cha con vua Đinh đã bị tên thái giám Đỗ Thích sát hại. Gây tội ác xong, hắn lẻn trốn vào trong cung, núp dưới máng xối hơn ba ngày. Khát nước quá, Thích lấy tay hứng nước mưa uống. Các cung nữ thấy vậy mới báo cho Định Quốc công Nguyễn Bặc bắt giết. Sau đó, Nguyễn Bặc cùng Lê Hoàn phụng lập Đinh Toàn - con trai Đinh Tiên Hoàng - lên ngôi. Vì nhà vua còn nhỏ nên Lê Hoàn mới thay thế quyền trị nước và xưng là Phó vương. Thấy vậy, Nguyễn Bặc cùng Đinh Điền bàn với nhau: 30 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM - Lê Hoàn sắp làm việc bất lợi cho vua nhỏ, bọn ta từng hưởng lộc nước, nếu không quét sạch kẻ phản nghịch này thì còn mặt mũi nào trông thấy Tiên đế dưới suối vàng nữa? Rồi cùng nhau đốc suất khởi binh. Lê Hoàn đem quân đánh lại, giết được Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc rồi mắng: - Tiên đế mắc nạn, trong triều ai ai cũng phẫn uất và hổ thẹn. Tại sao ngươi nhân cơ hội này mà dấy binh làm loạn? Nói xong, sai chém đầu Nguyễn Bặc. Bấy giờ, nghe tin Đinh Tiên Hoàng mất, các thế lực thù nghịch lăm le đánh chiếm nước ta. Từ phương Nam, Ngô Nhật Khánh - một trong 12 sứ quân bị đánh tan tác trước đây - liền dẫn đường đưa hơn một ngàn chiến thuyền của quân Chiêm Thành về đánh thành Hoa Lư. Nhưng khi thuyền đi vào cửa bể Đại Nha và Tiểu Khang (nay thuộc Ninh Bình) thì gặp sóng to, gió lớn. Toàn bộ thuyền bị lập úp, Nhật Khánh bị chết đuối. Vua Chiêm thu quân sống sót chạy về nước! Từ phương Bắc, quân Tống cũng chuẩn bị binh mã để tràn vào nước ta. Tên Hầu Nhân Bảo dâng thư lên vua Tống: - An Nam quận vương và con là Đinh Liễn đều bị giết, nước đã gần mất, nhân lúc này có thể đem quân đánh lấy được, nếu bỏ cơ hội này thì chẳng khác gì đánh rơi kim dưới biển, khó tìm kiếm lại được. Còn Lư Đa Tốn thì hiến kế: - An Nam nổi loạn, đó là lúc trời xui khiến, triều đình ta nhân lúc bất ý đem quân đánh úp thì nào khác gì “sét đánh không kịp bịt tai”. Nếu gọi Hầu Nhân Bảo về thì mưu bị lộ, chúng sẽ phòng ngự trước. Chi bằng giao cho Bảo chở ngay lương thực, rồi chọn tướng đem vài vạn quân kéo sang đánh thì mưu sự thành công dễ dàng như bẻ cành cây mục. Tất nhiên không tốn một mũi tên! Vua Tống cho là phải, liền phong Hầu Nhân Bảo làm Lục lộ thủy lộ chuyển vận sứ kiêm tổng chỉ huy quân xâm lược. Tuy nhiên, do đầu óc bệnh hoạn, nghĩ mình là nước lớn, có thể dùng “uy” để trấn áp đối phương nên trước khi xuất quân, vua Tống đã sai Lư Đa Tốn đem thư đe dọa và dụ ta đầu hàng: 31 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM - Thiên triều ta đối với lũ man di mọi rợ chúng mày như người ta có bốn tay chân. Tay chân co duỗi đều theo dòng người, cho nên nói rằng tâm là chủ vậy. Nếu tay chân mà mạch máu ngưng trệ, gân cốt không yên thì phải lấy thuốc thang mà trị. Trị không khỏi thì phải châm cứu cho khí huyết lưu thông. Dù biết uống thuốc thì đắng miệng, châm cứu thì rách da, nhưng cũng phải làm thế vì tổn hại ít mà lợi ích lại nhiều. Làm vua thiên hạ cũng giống như thế. Trong thư còn viết thêm: - Nghĩ đến Giao Chỉ nhà ngươi xa xôi nơi chân trời, cũng giống như một ngón tay trên thân thể con người mà thôi. Một ngón tay bị đau thì thánh nhân không thể không nghĩ đến. Vì vậy, ta mở đường ngu tối cho ngươi, ban bố giáo hóa của ta, ngươi có theo không?... Ngươi không nên nấp vào xó tối để ta phải bực mình mà dùng kế cắt thịt, chặt xương, giết hết nước ngươi thì lúc ấy hối hận sao kịp? Dù nước ngươi có ngọc, ta cũng ném chìm dưới suối. Núi của ngươi có vàng, ta cũng vứt vào bụi rậm. Đâu phải là tham châu báu của ngươi đâu! Huống chi dân ngươi đi chân thì ta có xe ngựa. Dân ngươi uống nước sông thì ta đã có cơm rượu. Dân ngươi cắt tóc thì ta có mũ áo. Dân ngươi nói như chim thì ta đã có thi thư để dạy cho ngươi lễ nghĩa vậy. Càng đọc, Lê Hoàn càng tức giận. Không kìm được cơn nóng trước những lời lẽ xấc xược trong thư, ông đập tay xuống bàn: - Kiêu ngạo đến thế là cùng! Chưa hết, trong thư còn viết: - Ngươi nên quy phục, không nên làm điều xiên quàng mà vơ phải tội. Ta đang chuẩn bị xe ngựa quân lính, sắp sửa các thứ chiêng trống. Nếu quy phục thì ta tha cho, nếu trái mệnh thì ta quyết đánh. Theo hay không, lành hay dữ là do ngươi tự nghĩ lấy. Với những lý lẽ ngạo mạn như thế, Lê Hoàn biết rằng không thể nói chuyện hòa hiếu giữa hai nước nên ông gấp rút tổ chức lực lượng kháng chiến. Mặt khác để có thời gian chuẩn bị, ông sai Giang Cự Vọng đem thư sang nhà Tống, nói dối là thư của Đinh Toàn xin nối 32 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM ngôi mà thực ra tìm cách để quân Tống hoãn binh. Vua nhà Tống đọc thư xong, trả lời: - Họ Đinh ở ngôi vua đã ba đời, trẫm muốn cho Toàn làm Thống quân mà ngươi làm phó, nếu Toàn không có tài, còn có tính trẻ con thì nên đưa mẹ con Toàn về với ta, ta tất ưu đãi, sẽ cho ngươi được làm vua. Hai đường ấy người chọn lấy một. Nhận được thư, Lê Hoàn không trả lời. Trước nguy cơ xâm lược của nhà Tống, tướng sĩ đã tôn Lê Hoàn lên ngôi, xưng là Lê Đại Hành hoàng đế. Tháng 3 năm Tân Tî (981), quân Tống tấn công vào nước ta bằng ba hướng: Hầu Nhân Bảo kéo sang Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ tiến đến Tây Kết (Hải Dương) và Lưu Trừng đem quân sang hướng sông Bạch Đằng. Lê Đại Hành đích thân đem binh thuyền ra chống giữ sông Bạch Đằng, sai binh lính cắm cọc gỗ ngăn cửa sông như trước đây Ngô Quyền từng thực hiện. Trên các ngả đường tiến quân của giặc, ông đều bố trí lực lượng để chống cự. Ngay từ đầu, giặc đã vấp phải sự đánh trả quyết liệt của quân ta. Là vị tướng từng trải trận mạc, Lê Đại Hành biết rằng nếu đánh trực diện vào lực lượng hùng hậu binh mã của giặc thì quân ta không thể nào chống chọi nổi. Chi bằng dùng mưu dụ chúng vào chỗ hiểm yếu, sau đó, tập trung binh lực giáng xuống đầu chúng một đòn đích đáng! Khi Hầu Nhân Bảo từ biên giới Lạng Sơn tràn vào nước ta, chúng đã gặp ngay tuyến phòng ngự khá vững khắc, nhưng chỉ sau vài trận giao chiến thì quân ta được lệnh rút lui. Thấy đối phương nao núng, Hầu Nhân Bảo thúc quân đuổi theo. Kế sách của Lê Đại Hành là nhử cho chúng vào miền Chi Lăng. Đứng ở góc độ địa hình trong binh pháp Tôn Tử thì đây là vùng đất “quải, chi, ải, hiểm”. Với địa hình, địa thế lợi hại này thì Tôn Tử cho rằng “Nếu địch có phòng bị, ta đem quân đến đánh, đánh không thắng khó rút lui và tốt nhất là nên dẫn quân đi nơi khác, không giao chiến với họ”. Vậy mà, khi quân ta tháo chạy, Bảo thừa thắng đuổi theo nên quên đi lời dạy trong binh thư! Chúng đã tự dẫn xác đến trận địa quân ta đã mai phục trước. Kế sách của 33 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Lê Đại Hành nhử giặc như thế đã là khéo, nhưng ông còn khôn khéo hơn khi viết thư trá hàng để giặc càng chủ quan khinh địch! Trong lúc Bảo tưởng mình đã thắng, đánh quî các tuyến phòng ngự của đối phương thì bất ngờ quân ta đồng loạt tấn công. Nói như binh pháp Tôn Tử thì: “Những người thiện chiến luôn tạo thành thế hiểm và đòn đánh mạnh liên tục ở cự ly gần. Thế hiểm như nỏ gương hết cỡ, nhịp gấp như bật lẫy nỏ”. Từ trên những sườn núi mà mỏm đá nhọn hoắt như lưỡi gươm, quân ta đã bắn tên độc, xô đá… xuống đầu những tên giặc phương Bắc hiếu chiến! Cuộc chiến đã diễn ra vô cùng ác liệt. Bị một mũi tên xuyên qua giữa ngực, Hầu Nhân Bảo chết tại trận. Tướng chết như rắn mất đầu, quân Tống hoảng loạn, đạp lên nhau mà chạy. Quân ta đuổi theo, giết gần hết, chỉ còn một đám tàn quân mở đường máu chạy về đất Tống! Khi quân ta đang thắng lớn giòn giã ở Chi Lăng thì đội thủy quân của Lưu Trừng, Giả Thực cũng bị đánh tơi bời ở vùng biển Đông Bắc. Chúng tiến không được mà rút cũng không xong! Trong lúc đó, Trần Khâm Tộ bí mật đưa quân về hướng Tây Kết - nhằm tạo mũi tiến công phía sau lưng đội hình của quân ta. Nhưng chúng chưa kịp thực hiện kế hoạch này thì đã bị dân quân tại chỗ vây đánh quyết liệt. Giặc bị giữ chân tại đây chứ không thể tiến quân sâu được nữa. Sau khi đánh tan quân của Hầu Nhân Bảo, lực lượng này kéo về tiếp tục vây đánh kỳ binh của Trần Khâm Tộ. Theo mô tả của Đại Việt sử ký toàn thư, giặc chết “quá nửa, thây chất đầy đồng”, quân ta “bắt được tướng là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân đem về Hoa Lư”. Bọn Lưu Trừng nghe tin này, không còn bụng dạ nào mà giao chiến nữa, thủy binh của chúng vội vàng rút về nước. Đầu mùa hạ năm 981 chiến sự kết thúc, gần chục vạn quân Tống bị đánh không còn manh giáp. Vua Tống ngậm đắng nuốt cay với thất bại nhục nhã này. Bọn Lưu Trừng, Giả Thực bị quở trách, bọn Vương Soạn, Tôn Toàn Hưng bị phanh thây ngoài chợ! “Cuộc khởi nghĩa chống Tống năm 981 là một thử thách mới đầu tiên về ý chí tự lập tự cường, về sức mạnh tinh thần và vật chất trong kỷ nguyên độc lập tự chủ của dân tộc ta trước mưu đồ bành trướng xâm lược 34 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM của các triều đại phong kiến lớn ở phương Bắc. Bởi thế, thắng lợi của cuộc kháng chiến này không những bảo vệ được nền độc lập của nước nhà mà còn đem lại cho nhân dân ta niềm tự hào, lòng tin vững chắc ở sức mạnh của mình, cổ vũ mạnh mẽ nhân dân ta trong công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước, đưa đất nước ta nhanh chóng trở thành một quốc gia dân tộc văn hiến và cường thịnh. Sử gia Lê Văn Hưu cũng đã nhận xét về chiến thắng này là: “Làm mạnh nước Nam ta và ra uy với người Tống”. Do đó, gần một thế kỷ sau, nhà Tống không dám phát binh đánh ta và buộc phải công nhận nước ta là một vương quốc độc lập” (1). Sau khi đất nước sạch bóng quân thù, Lê Đại Hành sửa sang việc triều chính, đặt luật lệ, v.v… Nhưng kỳ công đáng kể nhất là ông cho đào hệ thống sông ngòi xuyên suốt từ Ninh Bình đến Thanh Hóa. Hệ thống này giúp cho hành trình đường thủy vào Nam tránh được nhiều trở ngại trên biển. Về sau, các đời Lý, Trần cũng tiếp tục kéo dài hệ thống sông ngòi về phía Nam. Đối với nhà Tống, dù hai nước hòa hiếu, nhưng khi bang giao thì Lê Đại Hành cũng giữ thể diện của một quốc vương. Năm 990 vua Tống sai Tống Cảo và Vương Thế Tắc mang tờ chế sang sách phong, Lê Đại Hành nhận tờ chế nhưng không lạy, ông nói thác là do đánh nhau với giặc Man nên té gãy chân! Đã thế, khi tiếp đãi ông sai đem thủy quân và chiến cụ ra để thị uy với người phương Bắc! Các cuộc nổi loạn ở trong nước xảy ra ông đều thân chinh đi đánh dẹp, vì vậy thanh thế rất lừng lẫy. Còn đối với người Chiêm Thành, năm 982, ông thân chinh đi đánh vì nước này ngang nhiên bắt sứ giả của ta khi đi sứ sang đó. Có thể nói, vua Lê Đại Hành là một vị tướng giỏi. Nhà sử học Ngô Sĩ Liên có lời bình luận xác đáng: “Vua đánh đâu được đấy, chém vua Chiêm Thành để rửa cái nhục thiên di bắt giữ sứ thần, đánh lui quân Triệu Tống để bẻ cái mưu tất thắng của vua tôi bọn họ, có thể gọi là bậc anh hùng nhất đời!”. Lê Đại Hành mất năm 1005, con trai là Lê Long Việt lên nối ngôi, nhưng ba ngày sau bị em ruột là Lê Long Đĩnh giết để đoạt (1) Những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam (NXB KHXH, 1984, trang 236) 35 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM ngôi. Đĩnh tàn ác, hoang dâm vô độ, mắc bệnh đến nỗi trong buổi chầu, không ngồi dậy được, phải nằm mà thị triều nên tục gọi là Lê Ngọa Triều, chết năm 1009. Như vậy, nhà Tiền Lê từ Lê Đại Hành đến Lê Ngọa Triều làm vua được ba đời, cả thảy 29 năm (980-1009). Sau đó, nhà Lý lên ngôi. Hiện nay, vua Lê Đại Hành được thờ ở làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa) và ở Trường Yên, huyện Hoa Lư (Ninh Bình). Lễ hội đền thờ Lê Đại Hành tại Trung Lập, có lễ Tế xuân mừng chiến thắng quân Tống năm 981, tổ chức vào ngày mồng 8 tháng 3 âm lịch hằng năm với nghi lễ long trọng. Còn lễ hội ở Trường Yên diễn ra từ ngày 9 đến ngày 11 tháng 3 âm lịch hằng năm, trong ca dao còn ghi lại: Ai là con cháu Rồng Tiên Tháng ba mở hội Trường Yên thì về Đền thờ Lê Hoàn tại làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa) 36 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM Về thăm đền cũ Đinh Lê Non xanh nước biếc bốn bề như xưa Đặc biệt trong lễ hội này, có trò “kéo chữ”. Tốp người tham gia nghe tiếng trống lệnh mà tạo thành hai chữ Thái Bình (niên hiệu vua Đinh Tiên Hoàng) và Thiên Phúc (niên hiệu vua Lê Đại Hành). Danh tướng Lê Hoàn xứng đáng là người kế tục sự nghiệp của Đinh Bộ Lĩnh. Văn bia ở làng Trung Lập ca ngợi công đức của Lê Hoàn - Lê Đại Hành có câu: “Công đức rộng lớn, tưởng nhớ sâu xa, dân trong bốn bể đã lập đền thờ tại quê để bốn mùa đáp đền công ơn…”. 37 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Lý Thường Kiệt Chiến công lẫy lừng trên sông Như Nguyệt Đêm đã khuya. Bóng trăng sáng ngời. Trước sân của ông quan từng giữ chức Sùng Tiết tướng có một thư sinh đang chăm chú ngồi đọc sách. Từ nhà trong, người mẹ bước ra khẽ bảo: - Đêm đã khuya rồi con ạ! Chàng khép sách lại, ngước mặt nhìn mẹ: - Vâng, mời mẹ cứ nghỉ trước. Con cần đọc xong thiên địa hình trong binh thư của Tôn Tử. Bà mẹ bước đến gần chàng nghiêm mặt: - Binh thư là chuyện của thời loạn lạc. Con không muốn lập thân theo đường khoa bảng hay sao? Chàng đứng dậy: - Thưa mẹ, bố con là một tướng võ trong triều, đã từng giữ chức Sùng tiết tướng. Con muốn nối chí của bố. Nghe con nói vậy, người mẹ ân cần hỏi: - Tuấn ạ! Năm nay con đã hai mươi xuân rồi! Con hãy nói rõ chí hướng của con cho mẹ được rõ. Chàng trầm ngâm: - Thưa mẹ, chí hướng của con về văn, chỉ cần học đủ để ký tên. Còn về võ, con muốn như Vệ Thanh, Hoắc Khứ đi xa muôn dặm, lĩnh ấn phong hầu, làm vẻ vang cha mẹ. 38 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM Bài thơ thần của Lý Thường Kiệt tại khu văn hóa du lịch Đại Nam ở Bình Dương Bà mẹ đáp: - Cuộc đời con thì tùy con lựa chọn. Nếu con muốn thì nay mai mẹ sẽ bảo bố con đưa con vào triều để thi thố tài năng. Chàng thư sinh ấy có tên là Ngô Tuấn tự là Thường Kiệt, sinh năm 1019, người ở phường Thái Hòa, thành Thăng Long. Nhờ sự tiến cử của bố, Ngô Tuấn được vua Lý Thái Tông cho giữ chức Kî mã hiệu úy. Vài năm sau, chàng tự tĩnh thân (hoạn) và được thăng chức Hoàng môn chỉ hậu, được vào cấm đình. Dưới đời vua Lý Thánh Tông, năm 1069, biên giới nước ta luôn bị quân Cham-pa tràn sang quấy phá. Trước tình hình đó, nhà vua cho gọi Ngô Tuấn vào để bàn việc đối phó và phong cho chức Thái úy. Khi vua thân chinh đi dẹp giặc thì Ngô Tuấn được phong làm tướng tiên phong. Đại quân của nhà vua đã tiến vào Vijaya (thành Phật Thệ - Bình Định ngày nay) đánh tan 39 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM lực lượng quân sự của Cham-pa. Vì có công lớn trong cuộc chiến đấu này nên sau đó Ngô Tuấn được nhà vua phong chức Phụ quốc thái úy, tước Khai quốc công và cho mang họ của nhà vua, gọi là Lý Thường Kiệt. Mặc dù lên đến đỉnh cao của danh vọng, với chức Thái úy thì được xem như Tể tướng trong triều, nhưng Lý Thường Kiệt vẫn ngày đêm nghiên cứu binh thư, không xao nhãng việc nước. Năm 1072 vua Lý Thánh Tông băng hà, Lý Nhân Tông lên nối ngôi lúc vừa tròn 7 tuổi. Lúc này, nhà Tống ở phương Bắc đang bị nước Liêu, nước Hạ uy hiếp ở vùng biên giới. Do đó, vua Tống với tể tướng Vương An Thạch bàn mưu tính kế: “Nếu quân ta diệt được nước Giao Chỉ (tức nước Đại Việt) thì uy thế của ta sẽ lớn mạnh. Với uy thế này, ta sẽ nuốt tươi nước Hạ. Mà nếu nuốt tươi được nước Hạ thì ai còn dám quấy nhiễu ta nữa!”. Vì vậy, nước ta trở thành mục tiêu xâm lược của nhà Tống. Bấy giờ, nhà vua lên ngôi còn quá nhỏ tuổi, trong triều lại đang có mâu thuẫn giữa nhóm ủng hộ Nguyên phi Ỷ Lan và nhóm ủng hộ Hoàng hậu Thượng Dương đứng đầu là Lý Đạo Thành. Lúc này Lý Đạo Thành đã bị biếm ra Nghệ An. Đây là cơ hội tốt để nhà Tống thực hiện giấc mộng bành trướng. Vận mệnh Tổ quốc như ngàn cân treo sợi tóc. Với cương vị là người đứng đầu triều đình, Lý Thường Kiệt tìm cách đối phó. Trước hết ông bàn với Thái hậu Ỷ Lan mời Lý Đạo Thành về triều cùng lo việc nước. Sau đó qua do thám, biết quân Tống đang tập trung thực lực để xâm lược nước ta ở Châu Ung và Châu Liêm (Trung Quốc), ông đã tâu cùng vua Nhân Tông và thái hậu: - Ngồi im đợi giặc không bằng xuất quân trước để chặn thế mạnh của giặc! Đây là tư tưởng chiến lược táo bạo: phòng ngự bằng tiến công mà người thực hiện đầu tiên chính là thiên tài quân sự Lý Thường Kiệt. Ngày 27/10/1075, một đạo quân do phó tướng Tôn Đản chỉ huy đã vượt biên giới đánh thẳng lên Ung Châu (Nam Ninh - Trung Quốc). Còn đạo quân thứ hai do Lý Thường Kiệt chỉ huy đã bí mật, thần tốc 40 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM vượt đường biển đánh chiếm Châu Khâm và Châu Liêm. Trong cuộc hành quân sang đất Tống, để dân Tống biết được việc làm chính nghĩa của ta, Lý Thường Kiệt đã cho phân phát bài văn: “Lộ bố”: “Trời sinh ra dân chúng, vua có đức thì tin yêu. Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân. Nay vua Tống ngu hèn, không theo khuôn phép thánh nhân, nghe cái kế tham tà của An Thạch, bày ra phép “thanh miêu”, “trợ dịch” khiến trăm họ hao kiệt, lầm than, để thỏa mãn cái mưu nuôi béo thân mình. Số là muôn dân đều dựa vào trời, bỗng sa vào sự độc hại của thói tham lợi. Bề trên cố nhiên phải thương xót. Nhưng việc từ trước, thôi không nói làm gì. Bản chức vâng mệnh quốc vương, chỉ đường Bắc tiến, muốn dẹp yên làn sóng yêu nghiệt, chỉ có cái ý phân biệt quốc thổ, chứ không phân biệt chủng dân. Phải quét sạch cái bẩn thỉu hôi tanh để ca thuở đẹp của ngày Nghiêu, để hưởng hội lành của tháng Thuấn. Nay ta ra quân cốt cứu vớt muôn dân. Hịch văn truyền đến để mọi người đều nghe. Ai nấy hãy tự suy xét, chớ có mang lòng sợ hãi”. Hiểu được việc làm chính nghĩa của ta, dân Tống từ lâu nay vẫn oán ghét nhà Tống nên đã ra sức ủng hộ đại binh của Lý Thường Kiệt và Tôn Đản. Những căn cứ quân sự và hậu cần của nhà Tống đã bị quân ta phá hủy. Như vậy, chỉ trong 124 ngày (từ 27/10/1075 đến 1/3/1076) Lý Thường Kiệt đã hoàn thành chiến lược tấn công để tự vệ, tạo được thế chủ động trong kháng chiến. Với chiến công này nhà sử học Ngô Sĩ Liên có lời bàn xác đáng: “Dàn trận đường đường, giương cờ chính chính, hơn 10 vạn quân hoành hành đi sâu vào nước người, đánh tan ba châu như bẻ cành khô, khi ở đấy thì không ai dám đương đầu, lúc rút về thì không ai dám theo sau, dùng binh như thế là việc hiếm có ở nước ta vậy. Cho nên nước ta thường lấy chiến dịch Ung Liêm làm vũ công thứ nhất xưa nay”. Cuộc tấn công thần tốc đó đã khiến nhà Tống lo sợ và tức giận. Cuối năm 1076 vua Tống cử chánh tướng Quách Quỳ và phó tướng Triệu Tiết chỉ huy lực lượng hùng hậu 41 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM gồm 10 vạn bộ binh, 1 vạn kî binh, 20 vạn dân phu sang đánh nước ta. Ngoài ra chúng còn sử dụng cả thủy binh để hỗ trợ cho bộ binh và kî binh. Kế hoạch tiến quân của chúng là lục quân từ Ung Châu tiến đánh Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh để tiến đến sông Cầu (1). Còn thủy binh, trong khi đó, có nhiệm vụ xuất phát từ châu Liêm, châu Khâm tiến vào nước ta để đưa lục quân vượt sông Cầu đánh về hướng Thăng Long. Để quân ta không đủ lực lượng tập trung phòng thủ biên giới phía Bắc, nhà Tống đã xúi giục vua Chăm-pa đem quân quấy rối ở vùng biên giới phía Nam. Trước tình hình đó, lão tướng Lý Thường Kiệt lúc này đã 67 tuổi với nhiều kinh nghiệm dày dặn trong chiến đấu, đã bố trí kế hoạch kháng chiến đầy mưu trí, dũng cảm và sáng tạo. Việc đầu tiên là ông thân chinh thống lĩnh một đạo thủy binh tinh nhuệ đi vào kinh lý biên giới phía Nam. Tại đây, ông động viên tinh thần chiến đấu cho tướng sĩ và nói rõ cho vua Chăm-pa biết được âm mưu của nhà Tống. Nếu nhà Tống lấy được nước Đại Việt thì chúng cũng không ngần ngại gì mà không nuốt tươi nước Chăm-pa. Hiểu được điều này, vua Chăm-pa không động binh. Trấn giữ được phía Nam, ông nhanh chóng về lại Thăng Long. Ông nhận định, tất cả đường bộ từ hướng đông-bắc tiến về Thăng Long đều phải vượt qua dòng sông Cầu, do đó, ông dựa vào bờ nam con sông này để tổ chức tuyến phòng ngự với quy mô lớn. Chiến tuyến này dài khoảng 160 dặm (80km) từ chân núi Tam Đảo đến sông Lục Đầu. Nó xây dựng theo hình thức đứt đoạn. Những nơi nào giặc có khả năng vượt sông thì ông cho đắp chiến lũy kiên cố. Dưới chân chiến lũy về phía mép sông thì đóng cọc tre, tạo ra những hố chông lợi hại. Trên chiến lũy binh lực của ta được bố trí phòng ngự chu đáo, còn đại binh do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, đóng ở phủ Thiên Đức - khoảng giữa sông Cầu và thành Thăng Long - phía sau chiến tuyến. (1) Sông Cầu: dài 290km thuộc hệ thống sông Thái Bình ở miền Bắc Việt Nam, bắt nguồn từ vùng núi tỉnh Bắc Cạn, ở độ cao 1.173m. Sông chảy qua thị xã Bắc Cạn thành phố Thái Nguyên, các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương rồi đổ vào khúc Lục Đầu Giang ở Phả Lại. Trước đây sông còn có tên khác như sông Nguyệt Đức, sông Như Nguyệt (Sổ tay địa danh Việt Nam - tr.214). 42 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM Ngày 18/1/1077 giặc Tống đến được bờ bắc sông Cầu - sau khi bị quân ta chặn đánh quyết liệt. Đúng như nhận định của Lý Thường Kiệt, giặc Tống không thể tiến quân trước chiến tuyến kiên cố ở phía nam sông Cầu. Theo kế hoạch của giặc thì lúc này thủy binh của tướng Dương Tùng Tiên sẽ phối hợp với tướng Quách Quỳ, Triệu Tiết để đưa quân vượt sông tiến về Thăng Long, hoàn thành chiến thuật “đánh nhanh, thắng nhanh” mà vua Tống đã chỉ đạo! Nhưng chúng không ngờ rằng, lúc này, thủy binh của ta - do Lý Kế Nguyên chỉ huy - đang bí mật mai phục ở ven vùng biển đông bắc trên sông Đông Kênh. Khi chiến thuyền của chúng tiến vào thì bị quân ta bất ngờ tấn công, không chống đỡ nổi, phải rút lui. Trong khi đó Quách Quỳ chưa thấy thủy binh tới thực hiện đúng hiệp đồng để đưa quân qua sông thì tỏ ra nôn nóng. Quỳ quyết định chọc thủng chiến tuyến để tự vượt sông. Chưa biết tính kế hoạch ra sao thì tướng Miêu Lý báo cáo là quân Đại Việt đã trốn khỏi trận địa(!) và xin đem quân vượt sông đột phá để mở đường cho đại binh tiến công. Quách Quỳ lập tức đồng ý. Chúng bắc cầu phao vượt qua sông Như Nguyệt với tư tưởng huênh hoang: “Một trận đánh tan quân Đại Việt”! Lợi dụng đêm tối, vào đầu tháng 2/1077, từ bờ phía bắc quân Tống bí mật bắc cầu phao qua sông. Mờ sáng hôm sau, chúng tập trung lực lượng vượt sông và đột phá được một đoạn ở chiến tuyến phía nam. Thừa thắng, chúng thẳng đường tiến về Thăng Long. Nhưng mới đến vùng Yên Phụ, Thụy Lôi (Đông Anh - Hà Nội) cách Như Nguyệt 6km thì bị quân ta cắt đứt. Giặc chống cự không nổi phải quay lại, nhưng bây giờ thì đã mất đường rút lui! Trước tình hình đó, Triệu Tiết ra lệnh đưa bè sang sông để cứu đạo quân của Miêu Lý. Nhưng các mảng bè đó đều bị quân ta đánh lui, do đó, chúng phải liều mạng nhảy xuống sông để bơi về bờ bắc! Như vậy, trận tấn công thứ nhất của giặc Tống đã bị đập tan. Sau thất bại này, Quách Quỳ không dám mạo hiểm nữa, phải chờ thủy binh để phối hợp vượt sông. Chờ mãi không thấy thủy binh, chẳng còn cách nào khác, Quỳ tập trung các phương tiện vượt sông 43 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM để gấp rút tổ chức cuộc tấn công thứ hai. Rút kinh nghiệm thất bại lần trước, lần này, chúng không dùng cầu phao mà tổ chức đóng bè lớn để đưa quân qua sông. Mỗi bè này chở được khoảng 500 quân. Hết tốp này đến tốp khác đổ bộ qua bờ nam. Nhưng vừa ló mặt sang thì trên chiến lũy quân ta bắn tên, đạn xuống như mưa. Hàng vạn quân giặc bị chết tại trận. Do đó, trận tấn công lần hai cũng thất bại thảm hại. Hai lần tổ chức vượt sông đều thất bại, Quách Quỳ hết hy vọng chọc thủng chiến tuyến kiên cố của Lý Thường Kiệt, y ra lệnh cho toàn quân “án binh bất động” và “ai bàn đến chuyện đánh thì sẽ bị chém”. Rõ ràng, giặc Tống đã mất thế chủ động tấn công mà trở nên lúng túng bị động trong chiến thuật. Nhận thấy tình thế lúc này cho phép quân ta từ chiến thuật phòng thủ chuyển sang thế phản công chiến lược, Lý Thường Kiệt quyết định đánh sang bờ bắc để tiêu diệt toàn bộ quân xâm lược Tống. Theo kế hoạch của ông, các hoàng tử Hoằng Chân và Hoằng Văn chỉ huy 400 chiến thuyền từ Vạn Xuân (Hà Bắc) tiến về uy hiếp quân Tống ở hướng đông. Nghe tin, Quách Quỳ liền huy động 5.000 kî binh về hướng này để chống cự. Như thế, chúng đã mắc mưu của Lý Thường Kiệt, khi ông hạ lệnh cho tung quân ra để thu hút toàn bộ lực lượng của chúng về hướng này. Làm xong nhiệm vụ, quân ta rút về bờ nam. Giặc Tống hí hửng tưởng mình đang thắng lợi thì lúc đó, ngay trong đêm tối, Lý Thường Kiệt chỉ huy vượt sông bất ngờ đánh úp vào doanh trại của giặc. Sáu phần mười quân giặc bị tiêu diệt! Đòn phản công có ý nghĩa quyết định của Lý Thường Kiệt đã đè bẹp ý chí xâm lược của giặc. Lúc này, Quách Quỳ ngửa mặt lên trời than: - Ta không đạp đổ được sào huyện của quân Đại Việt, không bắt được vua Đại Việt để báo mệnh triều đình. Đó là bởi trời! Thôi, ta đành liều một thân ta, chịu tội với triều đình để cứu mười vạn sinh linh còn sống sót! Nói xong, Quỳ hạ lệnh rút quân. Sợ quân ta tập kích, chúng chỉ dám đi vào ban đêm, giẫm xéo lên nhau mà chạy! Đó là tháng 3/1077. Giặc Tống rút lui đến đâu thì Lý Thường Kiệt cho quân tiến 44 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM Bài thơ thần của Lý Thường Kiệt theo thu hồi đất đai đến đó. Riêng thủy binh của tướng giặc Dương Tùng Tiên vẫn bị chặn ở ngoài biển, không hay biết gì cả. Mãi đến khi nhận được lệnh triệu hồi của của nhà Tống thì mới biết cuộc chiến tranh đã thất bại! Với danh tướng Lý Thường Kiệt, mặc dù thuở trai tráng, ông nói chỉ muốn học “đủ ký tên” - nhưng thật ra ông là một người văn võ song toàn “văn ngang Y Doãn, võ sánh Hoắc Quang”. Trong cuộc kháng chiến chống giặc Tống, ngoài Lộ Bộ, đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật dân vận, ông còn viết bài thơ bất hủ: Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Hiện nay nhiều người đã dịch là: Đất nước Đại Nam, Nam đế ngự, Sách trời định phận rõ non sông. Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm? Bây hãy chờ coi, chuốc bại vong. (Ngô Linh Ngọc dịch) 45 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Sông núi nước Nam, Nam đế chủ, Cõi bờ định rõ tại thiên thu. Cớ sao nghịch tặc dám xâm phạm? Bay liệu, rồi đây chuốc bại hư. (Bùi Văn Nguyên dịch) Sông núi nước Nam, vua Nam ở Rành rành định phận ở sách trời. Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm, Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. (Lịch sử Việt Nam, tập 1) Tương truyền, một đêm trước khi mở cuộc phản công trên toàn tuyến dọc sông Như Nguyệt, quân sĩ đã nghe từ trong đền thờ hai vị phúc thần Trương Hống, Trương Hát - danh tướng cũ của anh hùng Lăng thờ danh tướng Lý Thường Kiệt tại huyện Hà Trung (Thanh Hóa) 46 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM Triệu Quang Phục - vọng lên tiếng ngâm thơ hào hùng, sang sảng, khiến quân dân Đại Việt càng thêm tin tưởng vào cuộc chiến đấu chính nghĩa của mình còn giặc Tống thì sợ hãi đến vỡ mật! Thơ của Lý Thường Kiệt nhưng đọc ở đền thần uy linh hiển hách nên đời sau gọi là Thơ thần. “Thế là Thần hiển linh đọc thơ, “phối hợp tác chiến” đúng vào thời điểm khi người mở cuộc phản công đánh quân xâm lược. Văn chương chưa hoàn toàn tách khỏi lĩnh vực huyền thoại, nhưng huyền thoại đẹp biết bao! Câu chuyện không thật mà vẫn nói rất nhiều sự thật. Thơ của người đã biến thành thơ của thần, mặc dầu người ở đây sinh thời vẫn nổi tiếng ghét mê tín dị đoan và về sau uy danh lừng lẫy chẳng kém gì thần” (Văn học Việt Nam trên những chặng đường chống phong kiến Trung Quốc xâm lược - Viện văn học - NXB KHXH 1981). Với hoàn cảnh ra đời của bài thơ thần nổi tiếng này thì rõ ràng, ở đây, Lý Thường Kiệt chứng tỏ là người rất am hiểu về binh thư. Ông đã biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa nghệ thuật tấn công bằng quân sự và nghệ thuật binh vận bằng thơ ca. Trong lịch sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, bài Thơ thần của Lý Thường Kiệt được xem là “Bản tuyên ngôn độc lập” lần thứ nhất của Tổ quốc ta. Sau chiến thắng giặc Tống, Lý Thường Kiệt vẫn tiếp tục giúp vua trong công cuộc xây dựng đất nước. Lúc ngoài 70 tuổi, ông vẫn còn cầm quân đi dẹp loạn Lý Giác ở xứ Nghệ. Tương truyền, Giác có yêu thuật, làm cỏ cây biến thành binh mã, không ai dẹp nổi. Mãi đến lúc Lý Thường Kiệt ra tay thì mọi việc mới yên. Tháng 6 năm Ất Dậu (1105) ông qua đời, thọ 87 tuổi, vua Lý Nhân Tông truy tặng chức Nhập nội điện đô tri hiển, hiệu Thái úy bình chương quân quốc trọng sự, tước Việt quốc công. 47 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Trần Quốc Tuấn Linh hồn của cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông thế kỷ XIII Vào thế kỷ XIII, trong gia đình vương quyền vọng tộc An Sinh Vương Trần Liễu có chuyện lạ. Bà vợ của ông là người phụ nữ đoan trang, hiền thục một đêm nằm mơ thấy có vị thần tự xưng là Thanh Tiên đồng tử xin đầu thai làm con. Từ đó bà có thai. Khi sinh con thì trong nhà đầy gió thơm, ánh sáng chói lòa! Lúc đó có một vị đạo sĩ từ xa chống gậy đến nhà. Trần Liễu hỏi: “- Tiên sinh từ xa đến đây chẳng hay có điều gì răn dạy?”. Người ấy đáp: “- Đêm qua, tôi xem trên trời thấy có Tượng danh tướng Trần Quốc Tuấn tại Nam Định (?-1300) ngôi sao sa xuống nơi này nên đến đây xin coi”. Trần Liễu ngạc nhiên: “- Ngôi sao nào nhỉ?”. Giây lát sau ông bồng đứa 48 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM con trai mới sinh ra, vừa thấy hài nhi, vị đạo sĩ lui chân xuống bậc thềm, vái lạy và nói: “- Người này dung mạo như Thanh Tiên đồng tử. Ngày sau ắt cứu nước giúp đời làm rạng rỡ non sông”. Nói xong, liền biến mất. Ai ai cũng lấy làm kinh ngạc. Đó là câu chuyện truyền thuyết về sự ra đời của Trần Hưng Đạo, một võ tướng hiển hách đời Trần. Tên thật của ông là Trần Quốc Tuấn, tước Hưng Đạo Vương. Không rõ Trần Quốc Tuấn sinh năm nào. Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, ông có khả năng sinh khoảng từ năm 1229 đến năm 1232. Ngay từ nhỏ, ông đã tỏ ra là người ham thích nghiên cứu binh thư, học một hiểu mười, mới bảy tuổi đã biết bày bát quái trận đồ và làm thơ. Tương truyền, ông có viết bài thơ tiên đoán công nghiệp của mình sau này: Bốn bảy sao trời in tấc dạ, Sáu tư dịch tượng hiểu trong lòng. Lục hoa đồ trận cùng thông suốt, Sát Thát (1) cùng ai sánh võ công? Trong dòng họ Trần thì Trần Liễu là anh ruột của Trần Cảnh - cả hai là con của Trần Thừa. Nguyên trước đây có ông tổ tên là Kình đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay là xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc - Nam Định) sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề chài lưới đánh cá. Vận mệnh của lịch sử đã thay đổi dòng họ này. Dưới thời Lý Cao Tông (1176-1210), nhờ có công dẹp loạn Quách Bốc nên dần họ tạo được thế lực trong triều Lý. Bà Trần Thị Dung - cô ruột của Trần Liễu - trở thành vợ của Lý Huệ Tông. Nhờ vậy, các nhân vật trong dòng họ Trần như Trần Thủ Độ được làm Điện tiền chỉ huy sứ, Trần Tự Khánh được giao quản lĩnh quân đội hoàng gia… Sau khi Lý Huệ Tông điên, con gái là Lý Chiêu Hoàng mới 7 tuổi lên nối ngôi. Vì vua còn nhỏ nên mọi quyền hành nằm trong tay Trần Thủ Độ. Vốn là người có tầm nhìn xa cho cơ đồ dòng họ Trần nên Trần Thủ Độ đưa cháu mình là Trần Cảnh vào triều. Ít lâu sau, ông tác thành cho Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh nên duyên chồng vợ. (1) Sát Thát: Thát gọi tắt tên Thát Đát, phiên âm chữ Tatar hay Tartar vốn là tên một bộ lạc Mông Cổ, nhưng người ta thường để chỉ chung người Mông Cổ. 49 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Sự việc chưa dừng lại đó. Trần Thủ Độ tiếp tục “đạo diễn” cho Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng. Năm 1225, Trần Cảnh lên ngôi trở thành ông vua đầu tiên của triều Trần tức Trần Thái Tông. Họ chung sống với nhau 12 năm nhưng vẫn chưa có con để nối ngôi. Vậy là một lần nữa Trần Thủ Độ lại ra tay. Ông chú ép cháu giáng hoàng hậu Lý Chiêu Hoàng xuống làm công chúa để lấy chị dâu của mình là bà Thuận Thiên (vợ của anh ruột Trần Liễu) đang có thai ba tháng! Hành động khắc nghiệt của ông chú Trần Thủ Độ đã khiến hai anh em thù oán lẫn nhau. Để trả thù nỗi đau này, Trần Liễu trông chờ vào người con trai là Trần Quốc Tuấn nên ra sức tìm thầy giỏi về dạy cho con. Lớn lên, Trần Quốc Tuấn nổi tiếng là người văn võ song toàn. Tài năng hơn người nhưng đức độ cũng hơn người. Một hôm, ông đang cỡi ngựa thong thả đi trong hoàng cung bỗng gặp Thái sư Trần Thủ Độ. Chưa kịp cúi chào thì Thái sư đã nghiêm mặt: - Ngươi không có việc gì làm sao? Tiếng nói rắn rỏi vang lên như dò xét một điều gì đó. Trần Quốc Tuấn đã thấy sự nghi ngại, liền xuống ngựa, quỳ tâu: - Bẩm! Xin Thượng phụ Thái sư chỉ giáo. Cháu là phận tôi, chỉ xin lấy chữ trung làm trọng. Thái sư không nói gì, lặng lẽ bước đi. Sáng hôm sau, ông cho gọi Trần Quốc Tuấn vào triều và giao nhiệm vụ đi trấn ải phương Bắc. Việc làm này nhằm đưa vị tướng trẻ thao lược tài ba án ngữ biên giới để giữ yên bờ cõi, nhưng thật ra là biện pháp để hoàng tộc bớt đi một mối lo ngại. Nhưng Trần Quốc Tuấn thì không quan tâm đến chuyện đó. Là vị tướng giỏi, đến nơi được giao phó, ông đã xây dựng quân đội và nghiên cứu địa hình để bảo vệ dọc tuyến biên cương. Sau nhiều lần đi kiểm tra, ông quyết định về triều để báo cáo tình hình, dù chưa có chiếu chỉ của nhà vua. Mọi người khuyên can ông là không nên đi, vì trở về đường đột như vậy ắt gây nên sự hiểu lầm. Suy nghĩ một lát, ông chậm rãi nói: 50 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM - Ta cũng biết điều đó. Nhưng tình hình ngoài ải mà triều đình không biết rõ thì nguy cho xã tắc. Để tránh mọi nghi ngờ của hoàng tộc, ông không đem theo gươm giáo, chỉ dẫn một thư sinh cùng ông về triều. Gặp Thái sư Trần Thủ Độ, ông tâu: - Giặc phương Bắc sớm muộn gì cũng sẽ tràn vào nước ta, cần phải có kế sách phòng giặc. Thái sư hỏi về kế sách giữ nước như thế nào thì ông đối đáp trôi chảy. Thái sư hài lòng nói: - Rồi đây xã tắc sẽ trông cậy vào cháu ta! Những lời bẩm báo của Trần Quốc Tuấn rất đúng lúc. Năm 1252, chúa Mông Cổ là Mông Kha (Mông-ke) sai em là Hốt Tất Liệt (Khu bi-lai) và tướng Ngột Lương Hợp Thai (U-ri-ang-khai-đai) đã đánh chiếm nước Đại Lý (Vân Nam -Trung Quốc). Lãnh thổ của đế quốc Mông Cổ đã mở rộng đến sát biên giới nước ta. Năm 1257, chúa Mông Cổ mở những cuộc tiến công thần tốc nhằm tiêu diệt triều Nam Tống. Đạo quân của Ngột Lương Hợp Thai ở Vân Nam được lệnh tiến xuống đánh chiếm nước ta. Âm mưu của chúng là lấy nước ta làm bàn đạp để tấn công bất ngờ vào hậu phương phía Nam của nhà Tống. Sinh mệnh của Tổ quốc ta như ngàn cân treo sợi tóc. Tâm hồn Trần Quốc Tuấn ngổn ngang biết bao suy nghĩ. Ông không sợ thế lực của giặc đang mạnh như vũ bão, dù chúng từng tuyên bố: “- Nơi nào quân ta đi qua thì nơi đó ngay cả ngọn cỏ cũng không mọc nổi”. Nhưng ông sợ khi nhớ đến lời của cha đã trăn trối. Trước lúc mất, tháng 4/1251, An Sinh Vương Trần Liễu gọi ông vào trao cho cây gậy gia bảo rồi dặn dò: - Con không vì cha mà lấy được thiên hạ, thì dưới suối vàng cha chết không nhắm mắt. Nói xong thì tắt thở. Lời trối trăn của cha đã khiến ông suy nghĩ mãi. Ông đem kể lại cho hai gia nô ruột thịt là Dã Tượng và Yết Kiêu. Hai người này can: 51 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM - Làm kế ấy tuy được phú quý một thời, nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay đại vương há chẳng đủ phú quý hay sao? Chúng tôi thề chết làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu. Chỉ xin lấy người làm thịt dê là Duyệt làm thầy mà thôi. A! Kẻ gia nô còn nói được lời trung hiếu như thế nào? Duyệt là kẻ chỉ bán thịt dê theo Sở Chiêu Vương chạy loạn ra nước ngoài. Khi Vương quay về nước ban thưởng cho Duyệt thì Duyệt khẳng khái nói: “- Nhà vua mất nước, tôi không được giết dê, nay vua về nước, tôi lại được làm nghề giết dê. Tước lộc như thế là đủ, còn mong được vua ban thưởng gì nữa?”. Câu nói của hai gia nô trung thành đã khiến Trần Quốc Tuấn cảm động đến ứa nước mắt. Một lần khác ông lại hỏi con trai mình là Hưng Vũ Vương Trần Quốc Hiển: - Xưa nay ai cũng muốn có thiên hạ để truyền cho con cháu. Con nghĩ sao về việc này? Hưng Vũ Vương cúi đầu: - Việc đó, dẫu đối với người khác họ cũng không nên làm huống chi đối với người cùng một họ. Trần Quốc Tuấn cho là phải. Nhưng người con thứ ba là Hưng Nhượng Vượng Trần Quốc Tảng lại có ý khác: - Ngày xưa, Tống Thái Tổ vốn chỉ là một lão nông làm ruộng, vậy mà có thể thừa cơ dấy vận, chiếm được ngôi báo để truyền cho con cháu. Huống chi… Tảng chưa nói hết câu thì ông đã tuốt gươm ra, hét: - Ta từng nghe, Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế. Do Vu giơ lưng chịu giáo che chở cho Chiêu Vương. Dự Nhượng nuốt than báo thù cho chủ. Thân Khoái chặt tay cứu nạn cho nước. Nay nước đang đứng trước nạn ngoại xâm, ngươi lại manh tâm như vậy sao? Loạn thần đều do tặc tử gây ra. Chém! Trước cơn giận dữ của ông, Hưng Vũ Vương hay tin vội chạy đến xin cha tha tội chết cho em, bằng không mình xin chịu tội thay. Ông nguôi giận, nói với các con: 52 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM - Sau này khi ta chết, phải đợi lúc đậy quan tài rồi mới cho Tảng vào viếng! Điều này cho thấy, Trần Quốc Tuấn đã biết dẹp thù riêng vì lợi ích chung của Tổ quốc. Giữa lúc kẻ thù phương Bắc chuẩn bị xâm lược nước ta, ông có thể lợi dụng cơ hội này để dấy quân chống lại triều Trần theo lời trăn trối của cha, nhưng ông đã không thực hiện. * * * “Không một dòng suối, một con sông nào không tràn đầy nước mắt. Không một ngọn núi, một cánh đồng nào không bị quân giặc giày xéo!”. Những tiếng than khóc kinh hoàng khi vó ngựa chinh chiến của quân đội Thành Cát Tư Hãn (Tê-mu-jin) phóng qua. Những dân tộc từ Âu sang Á phải cúi đầu làm nô lệ khi quân viễn chinh Mông Cổ bách chiến bách thắng tiến đánh. Loài người đang sống trong tiếng gươm khua, ngựa hí và ngập tràn nước mắt. Với khí thế khủng khiếp đó, quân Mông Cổ tiến đánh nước Đại Việt ta. Cả nước sắm sửa vũ khí sẵn sàng chiến đấu. Trần Quốc Tuấn được nhà vua tin tưởng giao cho trọng trách đem quân thủy bộ trấn giữ vùng biên giới. Cuộc đọ sức lần đầu tiên diễn ra vào năm 1258. Dưới quyền chỉ huy của tướng Ngột Lương Hợp Thai (U-ri-ang kha-đai), hơn 3 vạn quân Mông Cổ như thác lũ tràn xuống nước ta. Dù bị vị tướng trẻ Trần Quốc Tuấn chặn đánh ngay từ đầu, nhưng binh lực hùng hậu của chúng cũng đủ sức để tiến đến Bình Lệ Nguyên (Vĩnh Phú). Không một chút nao núng, quân ta dàn binh bố trận để chặn giặc bên bờ sông Cà Lồ. Vua Trần Thái Tông thân chinh đốc quân, ông đã làm đúng điều mà binh thư đã dạy: “Bày trận sát nước, chờ địch sang sông nửa chừng mà đánh”. Đây cũng là chiến thuật mà danh 53 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM tướng Lý Thường Kiệt đã thực hiện thành công khi ngăn quân Tống ở sông Như Nguyệt năm 1077. Có khác chăng là ở bên bờ này, Lý Thường Kiệt tổ chức phòng ngự bằng ba trăm chiến thuyền sẵn sàng hỗ trợ cho bộ binh. Còn vua tôi nhà Trần lại giấu thuyền ở bến Lãnh Mỹ - để phòng khi trận tuyến bị giặc chọc thủng thì có thuyền để rút lui. Quả thật, giặc Mông Cổ đã vượt qua tuyến phòng ngự của ta, tràn qua sông. Vua Trần dự định phái quân đội của Thăng Long lên nghênh chiến, nhưng tướng Lê Phụ Trần kịp thời can: “- Nếu bệ hạ làm như vậy, nào khác gì người dốc hết tiền trong túi để đặt vào canh bạc cuối cùng? Hạ thần nghĩ rằng, bệ hạ nên cho quân lánh đi, không nên khinh thường giặc”. Vua Trần nghe theo ý kiến này, kéo quân về Thăng Long, sau đó rút khỏi Thăng Long để về trấn giữ vùng Thiên Mạc (Hải Dương). Địa thế này cho phép quân ta tiến bằng đường thủy lên Thăng Long để tập kích vào đội hình của giặc. Vận mệnh Tổ quốc đang nguy ngập. Nhà vua ngồi trên chiếc thuyền con, chèo đến thuyền Thái úy Nhật Hiệu - em ruột nhà vua - để hỏi kế sách. Thái úy run sợ giặc nên bối rối thò ngón tay trỏ xuống nước viết vào cánh lái hai chữ: “Nhập Tống” - khuyên nhà vua nên chạy sang nhà Tống! Lại hỏi: “- Thế quân rút đâu hết rồi?”. Nhật Hiệu tâu: “- Bẩm! Thần có cho gọi nhưng chúng nó không chịu đến!”. Nhà vua ngao ngán, buồn rầu quay thuyền sang hỏi Thái sư Trần Thủ Độ. Lúc này, Thái sư tin ở tài cầm quân của Trần Quốc Tuấn, tin ở sự đoàn kết một lòng của quân dân nên tuyên bố đanh thép: “- Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”. Câu nói đầy khí phách này còn chói lọi ngàn năm trong sử sách. Sau khi vượt sông Cà Lồ, Ngột Lương Hợp Thai hiên ngang dẫn quân vào kinh thành Thăng Long. Nhưng than ôi! Chúng chỉ gặp cảnh vườn không nhà trống! Do chủ quan thực hiện kế hoạch đánh nhanh, tiến nhanh nên chúng chỉ mang đủ lương thực đến Thăng Long, dự định sau đó cướp bóc tại chỗ - đúng như nguyện vọng của Thành Cát Tư Hãn từng nói với chúng: “- Cái khoái lạc nhất trên đời là thắng địch, đuổi địch, cướp của cải của họ, chiếm thê thiếp của họ”. Nhưng 54 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM bây giờ lâm vào tình thế oái oăm này, chúng thiếu thốn lương thực trầm trọng. Không còn cách nào khác, Ngột Lương Hợp Thai cho rút quân ra Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng, khoảng phía trên cầu Long Biên - Hà Nội). Chớp lấy thời cơ này, vua tôi nhà Trần tập trung toàn bộ lực lượng đến tập kích. Ngày 29/1/1258, vua Trần Thái Tông cùng các tướng lãnh nhà Trần đem hàng trăm chiến thuyền ngược sông Hồng để tiến về Thăng Long. Hai phần ba quân giặc đã bị tiêu diệt tại Đông Bộ Đầu. Đám tàn quân còn lại tháo chạy về hướng Vân Nam. Quân nhà Trần không đuổi theo. Nhưng dọc đường chúng lại bị dân binh thuộc dân tộc Mường dưới quyền chỉ huy của Hà Bổng chận đánh tơi bời. Chúng không dám chống cự lại. Do đó, nhân dân mới gọi là “giặc Phật” - mỉa mai giặc gì mà hiền như… Phật vậy! Sơ đồ cuộc kháng chiến Nguyên Mông lần thứ nhất (1258) 55 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Trong trận đọ sức đầu tiên, giặc Mông đã bị vua tôi nhà Trần đuổi thẳng cổ ra khỏi bờ cõi. Đất nước lại ca khúc khải hoàn. Vua tôi nhà Trần lại kéo nhau trở về Thăng Long. Bấy giờ, vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho con là Trần Hoảng (tức vua Trần Thánh Tông), còn mình xưng là Thái thượng hoàng để cùng lo việc nước. * * * Dù thất bại nặng nề ở nước Đại Việt ta, nhưng quân Mông vẫn đủ sức đánh bại nhà Tống của Trung Quốc. Năm 1260, Hốt Tất Liệt lên làm vua, đổi quốc hiệu là Nguyên. Khiếp sợ trước uy lực của nước ta, chúng chưa vội động binh xâm lược mà tạm thời hòa hoãn. Năm 1277 vua Trần Thánh Tông đem quân đi chinh phạt người Man, người Lạo ở động Nẫm Bà La (thuộc vùng Quảng Bình) có cả Thượng tướng Trần Quang Khải - con thứ ba của vua Trần Thái Tông cùng đi. Khi sắp ra quân thì sứ thần nhà Nguyên đến, nhà vua cho vời Trần Quốc Tuấn vào triều và phong ông làm chức Tư đồ để ứng tiếp sứ giả. Vốn là người cẩn trọng, ông cúi đầu thưa: - Việc ứng tiếp sứ thần, tôi xin đảm nhận. Còn việc phong chức Tư đồ tôi xin từ chối. Nhà vua hỏi tại sao thì ông đáp: - Nay bệ hạ đi đánh giặc phương xa có Thượng tướng theo hầu, lại phong chức để tôi thay công việc của Thượng tướng, tôi e rằng đối với tình nghĩa trên dưới có chỗ chưa ổn thỏa. Trong cuộc sống Trần Quốc Tuấn luôn có cách xử thế khéo léo, thận trọng như thế và luôn đặt lợi ích chung lên trên quyền lợi riêng của mình. Năm 1281, vua Trần Nhân Tông sai chú họ là Trần Di Ái cùng các quan Lê Mục, Lê Tuân sang triều cống nhà Nguyên. Chúng ngang ngược phong cho Trần Di Ái làm Lão hầu, Mục làm Hàn lâm học sĩ, Tuân làm Thượng thư rồi sai Sài Thung đem 1.000 quân hộ tống về nước. 56 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM Tự cho mình là nước lớn, là “thiên triều”, Thung ngạo mạn, vô lễ cứ phóng ngựa đi vào cửa Dương Minh. Quân ta ngăn cản thì hắn dùng roi ngựa quất họ đến tóe máu đầu. Đến cửa Tập Hiền thấy giăng đầy màn trướng, hắn mới chịu xuống ngựa. Vua sai Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải đến tiếp, hắn nằm khềnh không thèm dậy. Biết chuyện, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn xin vua đến đó để xem hắn còn giở trò gì nữa. Trước khi đi, ông gọt tóc, mặc áo vải. Đến nơi ông ung dung đi thẳng vào trong phòng. Thung bật người ngồi dậy vì tưởng ông là nhà sư đến từ phương Bắc. Ông điềm đạm ngồi xuống pha trà, cùng đàm đạo với hắn. Sau một người hầu của Sài Thung nhận ra ông, liền cầm mũi tên nhọn hoắt đâm vào đầu ông, máu chảy ra lênh láng. Nhưng lạ thay! Mặt của ông không biến sắc, thái độ vẫn ung dung, tự tại. Thung phải kinh ngạc. Khi ông ra về, Thung phải ra tận cửa để tiễn. Tình hình ngày một căng thẳng hơn. Tháng 8/1282, tướng giặc Toa Đô (Sogatu) đem quân đi đánh nước Chiêm Thành - mục đích của cuộc tiến quân này là nhằm chiếm lấy vị trí làm bàn đạp tấn công nước ta từ phía Nam, phối hợp với đạo quân từ phương Bắc đánh xuống. Kế hoạch này không thành công trước sức chống trả dũng cảm của nhân dân Chiêm Thành. Cuối cùng Toa Đô đành đóng quân ở phía nước này (nay là Quảng Trị - Thừa Thiên) để uy hiếp nước ta. Triều Trần lập tức mở Hội nghị Bình Than - triệu tập cả triều đình cùng vương hầu khắp nơi để bàn kế hoạch cứu nước. Trên đường xuôi thuyền về Bình Than, thuyền của Trần Quốc Tuấn đang lướt gió thì bất ngờ ông thấy một thuyền rồng khác đang phất phới cờ bay - đó là thuyền của Thượng tướng Trần Quang Khải. Ông cầm cây gậy gia bảo chỉ sang thuyền của Thượng tướng và bảo lính đưa sang đó. Bỗng thuyền của Thượng tướng gươm giáo sáng lòe, như chuẩn bị tham gia chiến trận. Trần Quốc Tuấn chưa rõ chuyện gì thì con rể là Phạm Ngũ Lão đã bẩm: - Thưa Quốc phụ! Người cầm cây gậy quốc bảo chỉ sang thuyền Thượng tướng rồi lại ghé sang đó. Con e rằng, mọi người lại hiểu lầm về mối bất hòa ngày trước. 57 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Ông trầm ngâm: - Ta có bao giờ nghĩ đến chuyện cũ đâu! Nói xong, ông cầm cây gậy gia bảo - ngày xưa cha đã trao để nhắc đừng quên mối thù - ném xuống dòng sông! Ông ngửa mặt lên trời nói như than khóc: - Vì cậy gậy này mà hội vận thống nhất ý chí giết giặc có thể bị lung lay. Xin cha nơi chín suối hiểu cho lòng con và hội vận giang sơn lúc này. Hành động đó không qua tầm mắt quan sát của Thượng tướng Trần Quang Khải, nhờ đó, Trần Quang Khải hiểu hơn tấm lòng của Trần Quốc Tuấn - người anh con bác ruột - đối với vận mệnh triều Trần. Trong Hội nghị Bình Than, mọi người đều nô nức muốn được tham gia giết giặc. Ngay cả Trần Quốc Toản, mới 15 tuổi, không được dự Hội nghị đã bóp nát trái cam trong tay lúc nào không hay biết. Trong Hội nghị này, vua Trần đã trao cho Trần Quang Khải làm Thượng tướng Thái sư, Trần Quốc Tuấn được phong làm Quốc công tiết chế thống lĩnh toàn bộ quân đội. Sau đó, Trần Quang Khải đã sang thuyền của Trần Quốc Tuấn để ngồi đánh cờ. Biết tính người em con ông chú của mình lười tắm. Trần Quốc Tuấn đã sai lính nấu nước thơm và tự tay mình cởi áo và lau rửa giúp. Nghĩa cử này khiến Trần Quang Khải cảm động nói: - Tôi được Quốc công tắm cho thì quả là chuyện hiếm có. Trần Quốc Tuấn vui vẻ đáp: - Còn tôi được tắm cho Thượng tướng thì cũng là chuyện hiếm có vậy. Cả hai cùng cất tiếng cười sảng khoái. Việc làm này góp phần xóa tan mối hiềm khích xưa nay. Tướng sĩ nhìn vào đó thêm phấn chấn tinh thần vì sự đoàn kết, thân mật của hai vị thống soái tối cao. Ngoài tài cầm quân, Trần Quốc Tuấn trở nên vĩ đại và được người đời sau ngưỡng mộ như bậc thánh vì ông đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên quyền lợi riêng của gia đình bằng cách chủ động củng cố khối đoàn 58 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM kết trong nội bộ. Sau đó, để xây dựng khối đoàn kết trong toàn quân, toàn dân ông đã viết Hịch tướng sĩ và Binh thư yếu lược. Với bài Hịch nổi tiếng có thể sánh với áng thiên cổ hùng văn xưa nay, ông đã giáo dục cho binh lính tư tưởng không sợ giặc, phải biết nhục khi đất nước bị xâm lăng và phải sẵn sàng đánh giặc cứu nước: “Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc của ngươi cũng về tay kẻ khác. Chẳng những gia quyến ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị bắt đi. Chẳng những thân ta kiếp này bị nhục rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà đến gia thanh các ngươi không khỏi mang tiếng là tướng bại trận”. Được sự kích thích của bài hịch này, các tướng sĩ đã xâm vào tay hai chữ “Sát Thát” - giết giặc Nguyên. Tương truyền khi ông viết xong bài Hịch này, vua Trần Nhân Tông muốn xem ngay. Ông lo lắng suy nghĩ: “- Ngày mai mới dâng lên cho nhà vua thì bao giờ các tướng sĩ ngoài trận mạc mới được đọc?”. Biết nỗi lo lắng của ông, môn khách Trương Hán Siêu liền thưa: - Bẩm xin Quốc công tiết chế cứ đi nghỉ dưỡng sức, sớm mai còn hồi cung. Phần tiếp theo xin để tôi lo. Trương Hán Siêu đã tập hợp hàng trăm thư sinh của mình lại. Ông đọc một đoạn văn cho họ viết. Lát sau, ông đánh trống bảo dừng rồi xem bài, chọn ra mười người chữ đẹp, nét gần giống nhau và đọc cho họ viết mười bản Hịch. Khi Trần Quốc Tuấn thức dậy thì mọi việc đã hoàn tất. Nhờ vậy, khi nhà vua đang đọc Hịch thì ngoài biên ải các tướng sĩ cũng đang đọc từng dòng chữ hừng hực lòng căm thù: “- Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, nước mắt đầm đìa, ruột đau như cắt, chỉ giận không được ăn thịt nằm da, nuốt gan uống máu quân thù, tuy trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm”. Còn với tác phẩm Binh thư yếu lược, Trần Quốc Tuấn có công đặt nền tảng đầu tiên cho toàn bộ quá trình xây dựng hệ thống binh pháp chống xâm lược của dân tộc ta và là người tạo bước ngoặt quan trọng của lịch sử khoa học quân sự nước nhà. Cho đến nay, hai tác phẩm trên của Trần Quốc Tuấn vẫn còn ý nghĩa thời sự đối với hậu thế. Đầu năm 1285, giặc Nguyên tiến sát đến biên giới nước ta, nhà Trần tìm cách đối phó. Nếu trước đây, Hội nghị Bình Than tổ chức là 59 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM nhằm đoàn kết tầng lớp quý tộc và các tướng lĩnh cao cấp thì nay triều Trần lại tổ chức Hội nghị Diên Hồng để mở rộng khối đoàn kết trong toàn dân. Trước câu hỏi: “- Nên hòa hay nên đánh?” thì cảm động thay các bậc phụ lão tóc bạc trắng đều đồng thanh: “- Quyết đánh!”. Vạn người như một. Tiếng vang đánh thép như được bật ra từ một cửa miệng vậy. Toàn dân nhất trí chấp hành mệnh lệnh kháng chiến: “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến, phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng”. Mệnh lệnh này được viết trên những tấm bảng lớn, treo khắp mọi nơi. Cuối tháng 1/1285, Thoát Hoan cất quân lên đường, chúng phao tin là mượn đường nước ta để sang đánh nước Chiêm Thành. Trần Quốc Tuấn với cương vị Tiết chế thống lĩnh quân đội chỉ huy tất cả 20 vạn quân, ông dàn binh bố trận để chống lại lực lượng 50 vạn quân của Thoát Hoan. Tràn qua vùng biên ải nước ta, các đội quân của Phạm Ngũ Lão đã đánh trả quyết liệt, nhưng cũng không ngăn chận được giặc. Chúng tràn xuống gần Nội Bàng (Lục Ngạn - Hà Bắc). Biết Trần Quốc Tuấn đóng đại bản doanh tại đây, Thoát Hoan chiêu dụ ông đầu hàng nhưng thất bại. Ngày 2/2/1285, chúng chia quân làm sáu mũi tấn công vào Nội Bàng. Vốn là người tinh thông binh pháp, Trần Quốc Tuấn nhận thấy về tương quan lực lượng thì ta không đủ sức chống chọi với thế giặc đang mạnh đang hăng. Nếu quyết cầm cự thì chỉ tiêu hao sinh lực một cách vô ích nên hạ lệnh rút quân về Vạn Kiếp. Bấy giờ, Yết Kêu đang giữ thuyền tại Bãi Tân trên sông Lục Nam, ông dự định dẫn quân rút theo đường núi nhưng Dã Tượng nói: - Bẩm Đại Vương, Yết Kiêu chưa thấy ngài thì chưa dời thuyền. Thật vậy, Yết Kiêu không hèn nhát bỏ chạy trước. Khi đến Bãi Tân, ông thấy người gia nô trung thành vẫn đứng đợi, bất chấp mọi hiểm nguy. Ông cảm động nói: - Chim hồng hộc muốn bay cao, tất phải nhờ sáu trụ xương cánh. Nếu không chỉ là loại chim tầm thường thôi. Nói xong, ông lên thuyền mà đi, giặc đuổi theo nhưng không kịp. 60 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM Nghe tin đại binh của Trần Quốc Tuấn rút về Vạn Kiếp (Chí Linh - Hải Dương), vua Trần Nhân Tông hoang mang, chèo thuyền đến tận nơi cho vời ông đến và nói: - Thế giặc hùng hổ như vậy, chống cự với nó thì muôn vạn sinh linh bị tàn sát hay là trẫm đầu hàng để cứu vớt muôn dân? Ông khẳng khái đáp: - Bệ hạ nói câu ấy thật là lời nhân đức, nhưng tôn miếu xã tắc thì sẽ ra sao? Nếu bệ hạ muốn hàng thì xin hãy chém đầu tôi đi đã, rồi hãy hàng! Nghe câu khí khái này, nhà vua yên lòng cho chấn chỉnh đội ngũ để sẵn sàng giết giặc. Biết Trần Quốc Tuấn tập trung binh mã hùng hậu ở Vạn Kiếp, Thoát Hoan cho rằng đây là cơ hội tốt tiêu diệt toàn bộ sinh lực của đối phương để kết thúc cuộc chiến. Do đó, Trần Quốc Tuấn quyết định thoát khỏi vòng vây này, chứ không giao chiến với chúng. Tuy nhiên, kế hoạch rút lui của ông là một chiến thuật: trước hết các đội thủy binh ở Lục Đầu quay lại phía sau cắt đường giao thông của giặc - để bộ binh rút lui an toàn. Cùng lúc, hơn một ngàn chiến thuyền của vua Trần ở Thăng Long sẵn sàng ứng cứu khi có lệnh. Ngày 11/2/1285, giặc tấn công Vạn Kiếp từ nhiều phía. Trần Quốc Tuấn chủ động chỉ huy đánh trả và cho quân rút lui dần. Sau ba ngày cầm cự, quân ta xuôi theo sông Đuống để về Thăng Long. Tại đây, một trận tuyến mới được xây dựng ở phía Nam sông Hồng -nhằm bảo vệ cho hoàng tộc, nhân dân trong kinh thành tản cư, thực hiện kế hoạch “vườn không nhà trống”. Ngày 17/2/1285, giặc tiến đánh dữ dội. Trần Quốc Tuấn cho quân rút về vùng Thiên Trường (Nam Hà) và dựng chốt tiền tiêu ở Thiên Mạc (Hải Dương) để ngăn chặn bước tiến của giặc. Kinh thành Thăng Long lọt vào tay giặc. Nhưng chúng thất vọng vì không tìm được gì để bổ sung cho binh lực của chúng. Giữa lúc cả nước đứng lên đánh giặc thì một số hoàng tộc nhà Trần hèn nhát như Trần Ích Tắc, Trần Kiện, Trần Tú Viên… hèn hạ đầu hàng giặc để lại 61 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM tiếng xấu ngàn thu. Trong khi đó, Đỗ Khắc Chung tình nguyện vào tận sào huyệt của Ô Mã Nhi để điều tra tình hình giặc. Ông đối đáp khôn ngoan, gan dạ khiến tướng giặc phải thốt lên: “- Nước Nam còn những con người khí phách như thế thì chúng ta chưa dễ chiếm lấy được”. Khi quân ta rút chạy, giặc không bỏ lỡ cơ hội đuổi theo truy kích, nhưng chúng vấp phải sức chiến đấu ngoan cường của đạo quân Trần Bình Trọng. Trong cuộc chiến đấu ở Thiên Mạc để bảo vệ cho quân ta rút lui an toàn - Trần Bình Trọng đã sa vào tay giặc. Biết ông là người nghĩa khí, có tài nên Thoát Hoan dụ hàng, nhưng trước sau ông chỉ im lặng. Cuối cùng, chúng đem miếng mồi danh lợi ra để nhử ông: “- Vậy ngươi có muốn làm vương đất Bắc không?”. Ông đã đấm vào mặt chúng bằng câu nói anh hùng: “- Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Thoát Hoan hèn hạ chém đầu Trần Bình Trọng. Để cứu nạn nước trong cơn nguy khốn, vua Trần Nhân Tông quyết định dùng chước hoãn binh bằng cách đem công chúa An Tư gả cho Thoát Hoan. Trở về Thiên Trường, Trần Quốc Tuấn đã dàn binh bố trận để chuẩn bị cho cuộc phản công. Thượng tướng Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật được lệnh vào án ngữ Nghệ An. Nguyễn Thế Lộc tiếp tục hoạt động ở vùng biên giới Lạng Sơn - Chi Lăng. Kế sách đã cắt đứt mối liên lạc giữa Thoát Hoan với Toa Đô ở phía Nam và Nạt Nốc Lạt Đinh ở phía Bắc - khi cả hai đạo quân lớn này đều nhận được lệnh phối hợp tác chiến với Thoát Hoan. Sau đó, Trần Quốc Tuấn cùng Phạm Ngũ Lão đem một nghìn chiến thuyền lên đóng ở Vạn Kiếp. Thế trận của Trần Quốc Tuấn khiến Thoát Hoan vô cùng lo lắng, hắn bị “treo lơ lửng ở quãng giữa” và bị các cánh quân của ta cô lập. Để phá vỡ thế trận này, Thoát Hoan cho tập trung binh lực đánh xuống Thiên Trường và hạ lệnh cho Toa Đô phá chiến thuyền đang án ngữ ở Nghệ An. Cánh quân của Trần Nhật Duật không chống chọi nổi, giặc tràn xuống Thanh Hóa. Hai cánh quân của giặc cùng phối hợp để tấn công Thiên Trường. Căn cứ của bộ chỉ huy cuộc kháng chiến tại Thiên Trường bị đe dọa nghiêm trọng. Trần Quốc Tuấn đưa quân từ Vạn Kiếp về phá sức tấn công của giặc. Trong tình hình giặc 62 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM đã tỏa ra chiếm đóng như vậy, Trần Quốc Tuấn đã dùng nghi binh để đánh lạc hướng của giặc. Vào đầu tháng 3.1285, ông đưa vua Trần đi thuyền ngự ra Ngọc Sơn (Móng Cái - Quảng Ninh). Nhận được tin này, giặc lập tức dẫn quân đuổi theo. Nhưng Trần Quốc Tuấn lại hộ giá vua bỏ thuyền đi bộ đến Thủy Chú (Yên Hưng). Vì vậy khi giặc đuổi kịp thuyền ngự thì ông đã đưa vua Trần ra sông Nam Triệu (Thủy Nguyên - Hải Phòng) để vượt biển vào Thanh Hóa! Không bắt được bộ chỉ huy kháng chiến, Thoát Hoan giận dữ điên người, vội sai Toa Đô tiến quân truy kích. Mới vừa ở Nghệ An ra, ròng rã mấy năm đánh quân Chiêm Thành mà không chiếm được nước này, rồi lương thực thiếu thốn, nay nhận lệnh ngược vào Thanh Hóa nên quân của Toa Đô đâm ra chán nản, mệt mỏi. Nhận biết như vậy, Trần Quốc Tuấn hội bàn với các tướng lĩnh để tìm cách phản công. Ông nhận định: - Quân giặc nhiều năm đi xa, quân nhu chở đi vạn dặm thì rất mệt nhọc, chán nản. Nếu ta chủ động đánh một đòn phủ đầu thì tất phá được sức giặc. Bấy giờ, Thoát Hoan đang đóng đại binh tại Thăng Long, Toa Đô đóng tại Thiên Trường. Trần Quốc Tuấn vạch ra chiến lược là phải nhổ sạch những doanh trại của giặc đang đóng dọc khúc sông Hồng, để sau đó, đánh thẳng lên Thăng Long. Hơn nữa thủy chiến vốn là sở trường của quân ta, nhưng lại là sở đoản của giặc. Đây là nhận định có tầm vóc chiến lược để thay đổi cục diện của chiến trường. Tháng 5/1285, Trần Nhật Duật dẫn quân ra đến bến Hàm Tử (Hưng Yên) thì gặp chiến thuyền của Toa Đô. Ông liền tiến đánh một trận dữ dội. Giặc đương đầu không nổi phải tháo chạy về Thiên Trường. Tin thắng lợi này được cấp báo cho Trần Quốc Tuấn, ông chỉ đạo: - Quân ta đang thắng, khí lực đang hăng. Giặc mới thua tất nao núng tinh thần. Vậy nên nhân chớp lấy cơ hội này tiến đánh Thoát Hoan để khôi phục kinh thành. Thượng tướng Trần Quang Khải tình nguyện vượt sông Hồng để nhận nhiệm vụ này. Cùng lúc, Trần Quốc Tuấn chỉ huy một đạo quân 63 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM khác vòng qua các lộ phía Bắc để tiến về Vạn Kiếp. Không như lần trước - hồi tháng 3/1285 - lần này ông quyết định đánh đồn A Lỗ trên bờ sông Luộc - chốt tiền tiêu của Thoát Hoan. Đây cũng là trận đánh mở màn cho chiến dịch tổng phản công diễn ra vào tháng 5/1285. Tướng giặc giữ đồn này là Lưu Thế Anh đã bị quân ta đánh tan tác, hắn phải bỏ đồn dẫn quân chạy về Thăng Long. Đến Vạn Kiếp, Trần Quốc Tuấn tổ chức trận địa mai phục nơi đây và các nơi hiểm yếu khác. Thiên tài quân sự của ông đã bộc lộc rõ ở chiến thuật này. Bằng mẫn cảm, tài năng của danh tướng từng trải trận mạc, ông tiên đoán tổng phản công này ta tất thắng. Giặc dứt khoát phải thoát thân bằng hướng Vạn Kiếp - thì lúc đó, Vạn Kiếp và các nơi đã mai phục không khác gì sợi dây thòng lọng khổng lồ mà giặc sẽ đưa cổ vào! Cuối tháng 5/1285, Thượng tướng Trần Quang Khải đã đưa các chiến thuyền của ta đến Chương Dương (Thường Tín - Hà Tây). Cùng với các tướng Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, ông đã chỉ huy một trận đánh vang dội. Giặc chống cự không nổi phải bỏ chạy. Thừa thắng, quân ta xông lên tiến đến thành Thăng Long. Trần Quang Khải cho quân dựng trại ngay chân thành để uy hiếp. Thoát Hoan dẫn quân ra giao chiến thì bị ta đánh úp, phải bỏ thành để vượt qua sông Hồng. Đây là giây phúc hào sảng nhất của cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên lần thứ hai. Binh mã của ta trùng trùng điệp điệp tiến vào kinh thành. Tôn miếu xã tắc còn đây, nhưng hoang tàn đổ nát. Vương triều còn đây, nhưng nồng nặc khói súng. Trần Quang Khải mở tiệc khao quân, uống chén rượu mừng chiến thắng, ông phấn chấn đọc bài thơ tứ tuyệt: - Đoạn sáo Chương Dương độ Cầm Hồ Hàm Tử quan Thái bình nghi nỗ lực Vạn cổ thử giang san nghĩa là: Chương Dương cướp giáo giặc Hàm Tử bắt quân thù 64 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM Thái Bình nên gắng sức Non nước ấy nghìn thu (Trần Trọng Kim dịch) Tin thắng trận lập tức được cấp báo cho vua Trần và Trần Quốc Tuấn. Lúc này, Toa Đô đang đóng ở Thiên Trường - cách Thoát Hoan khoảng 200 dặm - nên chúng chưa hay tin thất trận. Trần Quốc Tuấn thân chinh đi tiêu diệt bộ phận còn lại của giặc. Ngày 21/6, Toa Đô cùng Ô Mã Nhi cho thuyền theo đường biển tiến lên vùng Thiên Mạc. Ba ngày sau, đại binh của Trần Quốc Tuấn tiến đánh dữ dội. Ở bến Đại Mang, tướng giặc Trương Hiển cầm cự không nổi phải đầu hàng. Tại Tây Kết, tướng Toa Đô bị chém đầu. Không dám chỉ huy lực lượng còn lại để chống đối, nửa đêm, Ô Mã Nhi cùng Lưu Khuê dùng thuyền nhẹ tách ra biển để trốn về nước! Lại nói về đại quân của Thoát Hoan. Sau khi rời khỏi Thăng Long để tháo chạy, chúng lập tức bị quân ta đuổi theo truy kích. Đúng như nhận định của Trần Quốc Tuấn, giặc rút chạy về hướng Vạn Kiếp mà quân ta đã mai phục từ trước. Bị đánh bất ngờ, đội hình của giặc hoàn toàn tan rã. Những mũi tên tẩm thuốc độc của ta bắn như mưa xuống đầu giặc. Quá khiếp sợ, bại tướng Thoát Hoan đã phạm một sai lầm nghiêm trọng để nhục đến thiên thu đó là chui vào trong ống đồng, sai lính đặt trên xe ngựa để phóng chạy về bên kia biên giới. Đầu tháng 7/1285 đất nước ta sạch bóng quân thù. * * * Một đế quốc rộng lớn từ bờ Thái Bình Dương đến bờ Hắc Hải - chiếm toàn bộ nước Nga, một số nước Đông Âu, miền Trung Á, Ba Tư và toàn bộ Trung Quốc - đặt nửa thế giới dưới ách thống trị vậy mà phải đại bại dưới quyền chỉ huy của Thống soái Trần Quốc Tuấn. Đó là mối nhục mà Hốt Tất Liệt (Khu-bi-lai) không thể ngờ được. Do đó, kẻ thù quyết tâm rửa nhục. Chúng rậm rịch kéo quân sang nước ta lần 65 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Sơ đồ cuộc kháng chiến Nguyên Mông lần thứ 2 (1285) 66 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM thứ 3. So với hai lần trước thì lần này, chúng tăng cường thêm thủy binh, thêm một chiến thuyền vận tải lương thực. Trước lúc xuất trận, binh lực hùng hậu của đội quân viễn chinh được dặn dò: “- Không được cho Giao Chỉ là một nước nhỏ mà khinh thường”. Ba hướng quân của chúng là Thoát Hoan từ Lạng Sơn tiến xuống, Ái Lỗ từ Vân Nam theo sông Hồng tiến vào, thủy quân Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp với 600 chiến thuyền theo hướng Bạch Đằng tiến xuống Vạn Kiếp. Ngoài ra, còn có thuyền vận tải lương thực do tên cướp biển lừng lẫy Trương Văn Hổ chỉ huy đi theo sau. Nghe tin, 50 vạn quân viễn chinh sắp tràn xuống nước ta, vua Trần Nhân Tông đã cho vời Trần Quốc Tuấn đến để hỏi kế sách giữ nước. Ông suy nghĩ một lúc rồi đáp: - Nước ta xưa thái bình lâu ngày, không tập luyện chiến trận, nên lần trước chúng vào thì có kẻ sợ hãi trốn tránh hoặc đầu hàng giặc. May nhờ có uy linh của tổ tông và thần võ của bệ hạ nên đánh đâu được nó, quét sạch bờ cõi. Năm nay, nó lại sang dân quân ta đã quen chiến trận thì đủ sức chống chọi. Trong khi đó, nó hành quân xa xôi tất mỏi mệt, lại còn nơm nớp cái thất bại của Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán tử trận thì không còn hồn phách đâu mà chiến đấu. Nhà vua vẫn chưa an tâm, hỏi tiếp: - Có thật như vậy không? Ông mỉm cười đáp: - Tâu bệ hạ, giặc Nguyên sang đây thì ta đánh chúng nhàn hơn lần trước. Xin bệ hạ đừng lo. Nhà vua muốn chọn thêm tráng đinh khỏe mạnh để bổ sung cho quân đội, nhưng Trần Quốc Tuấn không đồng ý vì theo ông: “Quân quý ở tinh nhuệ, chứ không quý ở số nhiều”. Cuối năm 1287, giặc ào ạt tiến vào nước ta. Khác với lần trước, Trần Quốc Tuấn chỉ đạo tướng sĩ đồng loạt tấn công ở các hướng có giặc, thì lần này, ông chủ trương lấy địa bàn sông biển phía đông và đông - bắc làm chiến trường chính chống giặc. Chủ trương này chứng tỏ Trần Quốc Tuấn chọn thủy quân của giặc làm đối tượng tác chiến - đánh quî ý đồ của Hốt Tất Liệt khi tăng cường thủy binh để khắc phục điểm yếu của quân Nguyên. 67 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Do chủ động trước nên khi giặc vừa ló mặt sang thì quân ta đã kịp thời chận đánh quyết liệt, vừa tổ chức rút lui để bảo toàn lực lượng. Vì vậy, đến ngày 2/1/1288, Thoát Hoan đã đưa quân tiến được đến Vạn Kiếp. Còn ở vùng biển đông - bắc chiến thuyền của Ô Mã Nhi cũng đang hiên ngang lướt sóng để tiến vào vùng biển Móng Cái. Cách đó 10km, tại Mũi Ngọc, thủy quân của ta đã đón sẵn. Tuy nhiên với một lực lượng nhỏ, quân ta không ngăn được đường tiến của giặc. Sau đó, Ô Mã Nhi tiếp tục xua quân vào vùng An Bang (Quảng Yên). Lực lượng thủy quân lớn dưới quyền chỉ huy của Trần Khánh Dư xông ra giao chiến nhưng đánh không nổi phải rút chạy. Trần Khánh Dư đã dự đoán đúng là thuyền chiến của giặc đi qua tất thuyền lương sẽ theo sau. Vì vậy ông thu thập lực lượng dàn trận phục kích, quyết đánh đoàn thuyền lương của giặc để chuộc tội. Tháng 1/1288, đoàn thuyền này tiến vào vùng biển Hạ Long, lọt vào trận địa quân ta đã mai phục. Thủy quân ta đồng loạt tấn công ở Vân Đồn (Cửa Lục - Quảng Ninh). Trương Văn Hổ hoảng hốt đưa thuyền về hướng đất liền, nhưng đến Lục Thủy (Cửa Lục) thì lại bị bộ binh ta chận đánh. Với trận này, Trương Văn Hổ khiếp đảm trèo lên chiếc thuyền nhỏ chạy trốn về Hải Nam! Quân ta thu được vô số chiến lợi phẩm, làm phá sản kế hoạch tiếp tế lương thực của quân Nguyên. Trong khi đó đại quân bộ của giặc đã đến Vạn Kiếp. Thoát Hoan xây dựng nơi đây thành một căn cứ quân sự vững chắc, rồi tiến quân về Thăng Long. Quân ta tạm thời rời khỏi kinh thành, sau khi thực hiện kế sách “vườn không nhà trống”. Do đó, giặc vào Thăng Long không cướp bóc được gì đáng kể. Chúng điên tiết đốt phá chùa chiền, đào bới lăng mộ nhà Trần, giết người già trẻ con, tàn phá sản nghiệp trăm họ, không có tội ác nào mà chúng không nhúng tay vào. Ô Mã Nhi đã bắn tin đe dọa vua Trần: - Ngươi chạy lên trời ta theo lên trời, ngươi chạy xuống đất ta theo xuống đất, ngươi trốn lên núi ta theo lên núi, ngươi lặn xuống nước ta theo xuống nước. Suốt gần hai tháng đóng ở Thăng Long, mấy chục vạn quân Nguyên lâm vào cảnh thiếu lương thực. Cứ nghĩ thuyền lương của Trương Văn 68 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM Hổ đang trên đường tiến vào nước ta, nên ngày 10/2/1288 Ô Mã Nhi được lệnh đem thủy quân đi đón. Khi chúng đến cửa Đại Bàng (Hải Phòng) thì bị quân ta chận đánh. Hơn 300 chiến thuyền bị thiệt hại nặng. Dù vậy, Ô Mã Nhi cũng quyết phá vòng vây để đi tìm đoàn thuyền lương thực. Đến An Bang thì hắn mới biết tin thuyền lương thực đã bị đánh và Trương Văn Hổ đã cút về nước tự bao giờ! Quá thất vọng, Ô Mã Nhi theo đường sông Bạch Đằng trở về Vạn Kiếp. Nhận được tin này, Thoát Hoan cũng khiếp đảm, đầu tháng 3/1288 hắn phải bỏ Thăng Long để rút về căn cứ Vạn Kiếp. Kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh xem như phá sản - khi mà lương thực mất sạch và một bộ phận thủy quân đã bị tiêu diệt. Trong khi đó, Trần Quốc Tuấn cho quân liên tục tập kích vào trại giặc. Bị tấn công ban đêm, chúng co cụm lại cố thủ, đợi sáng mới kéo quân ra thì lúc đó quân ta đã biến mất! Lối đánh thoắt ẩn thoắt hiện của nghệ thuật chiến tranh du kích khiến giặc mất ăn mất ngủ. Thoát Hoan gần như phát điên lên. Hắn nghĩ đến những đòn phản công mạnh mẽ sắp diễn ra như Hàm Tử, Tây Kết, Chương Dương từng giáng xuống đầu chúng. Vậy chỉ còn cách rút quân là thượng sách. Nhưng rút bằng đường nào? Cuối cùng chúng tính toán: đoàn kî binh của A Bát Xích (A-ba-tri) đi tiên phong mở đường Lạng Sơn, Thoát Hoan chỉ huy bộ binh đi sau. Còn thủy quân của Ô Mã Nhi, Nhàn Tiếp thì rút về theo hướng sông Bạch Đằng - có một đoàn kî binh đi dọc theo sông để hộ tống. Đoán được ý định này, Trần Quốc Tuấn kiên quyết không cho chúng tháo chạy một cách dễ dàng. Phải tiêu hao binh lực nặng nề thì chúng mới từ bỏ âm mưu xâm lược lần nữa. Vậy giữa thủy binh và bộ binh của giặc trên đường rút lui thì ta tập trung lực lượng để tiêu diệt đạo quân nào? Ông suy nghĩ: “Giặc cậy trường trận, ta cậy đoản binh, đoản chế trường”. Nếu đánh vào bộ binh của chúng là đánh vào chỗ mạnh, chỗ chúng sở trường. Hơn nữa đạo quân này còn mấy chục vạn quân, hầu như còn nguyên vẹn từ lúc viễn chinh sang nước ta. Vì vậy, ông quyết định đánh đội thủy binh, bởi thủy chiến là sở trường của quân đội ta. Suy nghĩ chín chắn như thế nên Trần Quốc Tuấn quyết định về vùng Bạch Đằng để trực tiếp nghiên cứu thế trận. 69 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Ông đã vận dụng một cách sáng tạo nghệ thuật thủy chiến, mà đỉnh cao là chiến thắng Bạch Đằng của anh hùng Ngô Quyền đánh quân Nam Hán năm 938. Hơn ai hết, ông hiểu sâu sắc những điều binh pháp đã dặn: “Địa hình là điều kiện hỗ trợ cho việc dùng binh. Đoán rõ ý định của địch, nghiên cứu địa hình khó khăn, hiểm trở, tính toán đường xá xa gần, đặt kế hoạch thắng lợi, đó là chức trách của người làm tướng”. Trên dòng sông mà người xưa đã mô tả: “Núi cao biển tua tủa như gươm giáo kéo lấy từng mây. Thuồng luồng cuộn thủy triều cuốn làm sóng bạc”. Trần Quốc Tuấn đã dàn binh bố trận không phải quyết chiến bằng thủy chiến mà là phục kích thủy chiến. “Những tài liệu khảo sát gần đây cho biết: các trận địa cọc của Trần Quốc Tuấn được bố trí nhằm chận ngang qua các cửa sông này. Đó là những bãi cọc cửa sông Chanh, cửa sông Kênh, cửa sông Rút. “Việc bố trí trận địa cọc được tiến hành khẩn cấp. Vào những ngày tháng 3 còn giá lạnh, quân dân Đại Việt đã đem hết sức mình, bí mật và nhanh chóng chuyển những cây gỗ lim to tập trung về ba cửa chi lưu. Cọc lim được lấy cách đấy không xa, ở ngay cánh rừng Yên Hưng bên tả ngạn sông Bạch Đằng. Quân sĩ và nhân dân miền Đông Bắc đã về đây lao động khẩn trương hạ hàng ngàn cây lim, đục đẽo và tu sửa theo kích thước đã định. “Bãi cọc chính nằm ở giữa sông Chanh sát liền với sông Bạch Đằng là bãi cọc Yên Giang. Hàng cọc đóng ngang qua sông Chanh theo hướng Nam-Bắc. Di tích của bãi cọc này đã được phát hiện và khai quật. Bãi cọc dài gần 120m, rộng 13m. Hầu hết các cọc đều to và vững chắc, có đường kính từ 20cm đến 30cm và dài từ 1,50m trở lên, phổ biến trên 2m. Những cọc đóng ở lòng sông dài đến gần 3m. Khoảng cách giữa các cọc trung bình từ 0,90m đến 1,20m. Giữa các hàng cọc có nhiều khúc gỗ nằm ngang, có lẽ do quân ta cài để chặn thuyền giặc. “Bãi cọc ở sông Kênh, sông Rút nhỏ hơn, được nằm theo hướng Nam - Bắc, ngang qua cửa sông. Cách bố trí hai bãi cọc này cũng giống như ở cửa sông Chanh. Cọc lim được cắm đều thành hàng có kích thước lớn, đường kính từ 0,18m trở lên và chiều dài trung bình gần 2m. 70 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM “Cả ba bãi cọc phối hợp với nhau, kéo dài như một phòng tuyến ngầm, chặn ba cửa sông tức ba lối thoát từ sông Bạch Đằng ra biển. Các cọc cắm đều theo một kích thước chung như thế nào để khi thủy triều lên thì nước ngập mênh mông, nhưng khi thủy triều xuống thì bãi cọc nhô ra những bãi chướng ngại ngăn chặn đứng đoàn thuyền địch” (1). Sau 350 năm, Trần Quốc Tuấn lại thực hiện kế sách mà Ngô Quyền đã thực hiện. Nếu có khác chăng là ông đã sử dụng thêm “Một phương thức được dùng trong trận Bạch Đằng để làm rối loạn đội hình chiến đấu của chiến thuyền Nguyên là hỏa công” (2) và bố trí bộ binh mai phục trên đường hiểm yếu để đánh tan đội kî binh theo hộ tống các chiến thuyền của giặc trên dòng Bạch Đằng. Tương truyền, lúc từ sông Hóa, vượt sông để tiếp cận chiến trường thì chẳng may con voi của Trần Quốc Tuấn bị sa lầy. Không thể nào cứu được, ông đành ngậm ngùi từ biệt con voi thân yêu của mình để lên thuyền tiến quân. Đứng chờ chết trên bãi lầy, con voi ngóng nhìn theo bóng dáng chủ tướng anh hùng mà sa những dòng nước mắt. Xúc động trước nghĩa cử trung thành của con vật từng theo mình xông pha trận mạc, ông tuốt gươm chỉ xuống dòng sông mà thề với các tướng sĩ: - Trận này không phá tan giặc Nguyên thì ta không về đến sông này nữa. Nghe lời sắt đá của ông, quân sĩ ai nấy đều thề quyết tâm chiến đấu đến cùng. Ngày 30/3/1288 chiến thuyền Ô Mã Nhi từ Vạn Kiếp nơm nớp rút quân. Dọc đường đi chúng liên tục bị quân ta mở nhiều trận đánh nên mãi đến ngày 8/4/1288 mới đến được đầu sông Văn Giá. Tại đây, đội tiền vệ của Lưu Khuê đi thăm dò lực lượng quân ta và tìm đường an toàn từ sông Giá ra sông Bạch Đằng. Khi mới đến Trúc Động - một vùng núi non hiểm trở thì bị quân ta bất ngờ phục kích. Tuy ít so với lực lượng của giặc nhưng quân ta nghi binh để phô (1) Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc (nhiều tác giả) NXB Quân đội Nhân dân 1976, trang 126-128). (2) Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm (nhiều tác giả) NXB QĐND 1982, trang 252. 71 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM trương thanh thế. Trước đó, mỗi gia đình nộp cho quân đội nhiều mo cau có trát cơm và các bè chuối. Khi hay tin giặc kéo đến, quân ta đóng trên núi thay đổi cờ lệnh năm lần với năm màu sắc khác nhau, lại thả rất nhiều mo cau và thân chuối trôi đầy sông. Đêm tối, đèn đuốc đốt sáng, chiêng trống rộn rịp. Đồng thời quân ta chận đánh phía trước và đánh thọc sườn hai bên, tên bắn như mưa từ trên núi xuống khiến giặc tưởng quân ta đông nên hoang mang lo sợ. Trận đánh ở Trúc Động nhằm mục đích không cho chiến thuyền của giặc vượt qua sông Bạch Đằng trước thời gian đã ấn định. Theo dự tính của Trần Quốc Tuấn thì nước thủy triều dâng cao nhất vào nửa đêm 8/4 là 3,20m và thấp nhất là 0,90m, vậy là độ chênh lệch là 2,30m. Qua ngày hôm sau 9/4 thì thủy triều rút xuống mạnh nhất là lúc giữa trưa, có thể rút 0,30m trong một giờ và nước chảy xiết. Do đó, lúc chiến thuyền Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp từ Đá Bạc xuôi về sông Bạch Đằng thì nước vẫn mênh mông. Cho đến giây phút này, trận địa cọc ngầm vẫn còn bí mật, giặc chưa phát hiện. Lúc chiến thuyền chúng lọt vào ổ phục kích thì Trần Quốc Tuấn áp dụng kế sách mà Ngô Quyền đã thực hiện, ông cho những đội thuyền nhẹ ra khiêu chiến rồi giả vờ thua chạy. Chiến thuyền của Phàn Tiếp hào hứng đuổi theo. Lúc này, thủy triều đang rút dần thì đó cũng là lúc từ các ngách sông các đội thuyền nhẹ của ta đồng loạt lao ra vun vút. Thủy binh của ta đánh dữ dội, đội hình của giặc trở nên rối loạn. Phàn Tiếp vội vã cho thuyền chạy về phía Tràng Kênh và thúc quân lên bờ để chiếm những vị trí cao - nhằm khống chế quân ta nhưng Trần Quốc Tuấn đã tính toán đến cả tình huống này, quân ta có mặt trên núi Tràng Kênh tự bao giờ rồi. Giặc không chiếm được núi. Bấy giờ chiến thuyền của Ô Mã Nhi cũng vừa đổ ra sông Bạch Đằng. Thủy binh của Tiết chế Nguyễn Khoái xông ra đánh, đội hình của giặc rối loạn. Ô Mã Nhi cho chiến thuyền tiến về các hướng cửa sông Chanh, sông Kênh, sông Rút để tìm đường trốn chạy. Chúng không ngờ là đang rút vào vùng tử địa. Trời chuyển dần sang trưa. Nước thủy triều rút xuống càng nhanh. 72 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM Dòng sông Bạch Đằng đột ngột hiện ra những bãi cọc nhọn hoắt. Giặc bàng hoàng khiếp đảm. Chiến thuyền của chúng bị đắm nhiều không kể xiết. Tiến không được mà rút cũng không xong. Lập tức đòn hỏa công của quân ta được tung ra. Đó là những bè lửa được giấu kín trong các lạch nước ở sông Đá Bạc phía thượng lưu bắt đầu lao xuống. Những chiếc bè lửa làm tăng thêm mức độ rối loạn và hoảng sợ của giặc, tạo điều kiện cho thủy binh của ta tiến công. Bị kìm chân trong vùng tử địa, giặc không sao chống đỡ nổi. Các hướng trước mặt, sau lưng, hai bên sườn đều bị quân ta đánh đồng loạt. Theo Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại thì máu giặc lênh láng khiến “nước sông đến nỗi đỏ ngầu”. Một số ít quân giặc cố vùng vẫy chạy lên tả ngạn Yên Hưng để trốn, nhưng mới ngoi ngóp lên bờ thì đã bị quân ta phục sẵn bắt sống. Toàn bộ lực lượng thủy binh của giặc đã bị phá tan trên sông Bạch Đằng. Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Phạm Nhan, Tích Lệ Cơ… đều bị bắt sống. “Với Ngô Quyền năm 938, Bạch Đằng xác lập một truyền thống: truyền thống Bạch Đằng - truyền thống đánh giặc đường thủy và thắng giặc trên chiến trường sông nước. Với Bạch Đằng 1288, quân dân nhà Trần đã đưa truyền thống đó lên đỉnh cao nhất, tới sự hoàn thiện nhất” (1). Hướng rút quân bằng đường thủy của giặc thất bại hoàn toàn. Hơn 400 chiến thuyền của chúng đã bị quân ta tịch thu hoặc đắm trên sông. Trong khi đó, hướng rút quân trên đường bộ cũng không may mắn gì hơn. Nghe tin thủy quân đã bị tiêu diệt, Thoát Hoan vội vã dẫn bọn Trình Bằng Phi, Anh Bát Xích, Trương Ngọc… tháo chạy. Đến ải Nội Bàng, tướng Phạm Ngũ Lão đổ quân ra đánh. Trương Quân bị chém chết trong trận này, khiến Thoát Hoan càng hoảng hốt. Chúng chạy về đến núi Kỳ Cấp thì lại gặp quân ta phục binh ở sườn núi bắn tên độc xuống như mưa! Hàng vạn quân giặc phơi xác trên biên ải nước ta. Mãi đến ngày 19/4/1288, Thoát Hoan mới trốn chạy được về Tư Minh (Quảng Tây - Trung Quốc). (1) Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm (nhiều tác giả) NXB QĐND 1983, trang 259. 73 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Cuộc xâm lăng nước ta lần thứ ba của giặc Nguyên Mông đã bị đánh bại hoàn toàn. Lúc trở về Chiêu Lăng, làm lễ tế trước mộ Thái Tông, nhìn hai con ngựa đá trước mộ chân còn dính bùn như mới vừa tham gia chiến trận về, Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã ứng khẩu hai câu thơ hào sảng: - Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ điện kim âu. (Xã tắc hai phen phiền ngựa đá, Non sông nghìn thuở vững âu vàng). Trong những ngày này, vua Trần Thánh Tông làm bài thơ nói lên khí phách của dân Đại Việt sau ba lần chống giặc Mông Cổ: Nghìn cửa, nghiêm tì hổ Bảy phẩm, đủ cân đai Lính bạc đầu còn nhớ Chuyện Nguyên Phong, kể hoài. (Trần Lê Văn dịch) Sau chiến thắng, tháng 4/1289 vị tướng: “biết phát huy cao độ cố gắng chủ quan, tận dụng mọi điều kiện khách quan thuận lợi, biết tạo ra và lợi dụng chỗ yếu và sai lầm của địch, sáng tạo ra cách đánh hay, có sự chỉ đạo chiến lược sắc bén, biết nhằm phương hướng mục tiêu đúng, chọn thời cơ có lợi, đánh những đòn đau hiểm giành thắng lợi về quân sự” (Võ Nguyên Giáp) là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn được nhà vua tiến phong làm Đại Vương. Bấy giờ, ông đã xấp xỉ tuổi lục tuần, không còn tráng kiện như xưa. Ngày 24 tháng 6 năm 1300 trên trời bỗng có ngôi sao sa cũng là lúc ông bị bệnh nặng. Vua Trần Anh Tông ngự tới thăm ông và hỏi: - Nếu có điều chẳng may, giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào? Ông trả lời: - Xưa kia Triệu Vũ Đế dựng nước, vua Hán đem quân sang đánh, 74 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM Sơ đồ cuộc kháng chiến lần thứ 3 chống quân Nguyên Mông (1287) dân chúng bèn làm kế “vườn không nhà trống”. Rồi đại binh kéo sang châu Liêm, châu Khâm đánh vào Trường Sa, đoản binh thì tập kích phía sau. Đó là một thời. Đời Đinh, Lê đề bạt được bậc hiền tài, cõi Nam vừa hùng cường lên mà phương Bắc thì đang mệt mỏi suy yếu. Trên dưới cùng ý nguyện, lòng dân không chia lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Nhà Lý vừa mở mang cơ nghiệp, quân Tống đã xâm phạm vào bờ cõi. Bèn dùng Lý Thường Kiệt đánh châu Khâm, châu Liêm, mấy lần đến tận Mai Lĩnh. Ấy là có cái thế đánh được vậy. Mới rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây, nhờ vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước dồn sức lại mà bọn chúng đành phải chịu trói, đó cũng là do lòng trời xui nên vậy. Tóm lại, giặc cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Lấy ngắn khống chế dài là lẽ thường của binh pháp. Nếu thấy quân giặc đến ồ ạt như lửa to, gió táp thì đó là tình thế dễ chế ngự. Nếu chúng dùng 75 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM lối tằm ăn lá, hành binh dần dà, không ham của dân, không cốt thắng mau thì phải kén chọn tướng giỏi, liệu xem quyền biến, giống như đánh cờ, phải tùy tình thế mà đưa nước chống cho thích hợp. Phải xây dựng được một “đội quân cha con” rồi mới có thể sử dụng được. Vả lại, khoan sức dân để làm kế “sâu rễ bền gốc”, đó là thượng sách giữ nước vậy. Lời nói của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn còn tỏa sáng đến ngàn sau. Tư tưởng chiến lược phải xây dựng quân đội một lòng như cha con, phải khoan sức dân cũng chính là tư tưởng của Binh thư yếu lược mà ông đã viết xong trong thời kháng chiến. Ngày 20/8 năm Canh Tý (3/9/1300) ông qua đời tại phủ đệ Vạn Kiếp, được tặng Thái sư Thượng Phụ Thượng Quốc Công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương. Trước lúc sắp mất, ông dặn lại các con: - Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi sau san đất và trồng cây như cũ, để người sau không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho xác ta mau mục. Đền Kiếp Bạc nơi thờ Trần Hưng Đạo 76 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM Dù qua đời, nhưng danh tiếng của ông vẫn còn lừng lẫy khắp thiên cổ, ngay cả giặc phương Bắc khiếp sợ không dám gọi tên mà tôn là An Nam Hưng Đạo Vương. Còn nhân dân ta từ lâu nay vẫn không gọi tên ông, thường chỉ gọi Đức Thánh Trần hoặc Trần triều hiển thánh Hưng Đạo Đại Vương. Tương truyền mỗi khi đất nước có giặc, đến lễ ở đền thờ ông, hễ nghe trong tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn. Hiện nay, ông được thờ ở di tích đền Kiếp Bạc (xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, Hải Dương) và nhiều nơi trên đất nước ta. Riêng tại thành phố Hồ Chí Minh có đền thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo tại 36 Võ Thị Sáu, Quận 1. Thơ văn ca ngợi công đức của ông rất nhiều, ở đây, chỉ xin trích dẫn một câu đối khuyết danh (dịch) để chúng ta cùng suy ngẫm về bậc vĩ nhân: - Nếu dân Việt Nam mà sinh ở phương Bắc thì các nước Châu Âu đâu đến nỗi bị vó ngựa Mông Cổ chà đạp hàng ngàn dặm. Ví như bậc thiên tài này sinh ở nhà Tống thì lịch sử Trung Quốc trước đây làm gì có chuyện bị nhà Nguyên đô hộ một trăm năm. Nói về vai trò của Trần Quốc Tuấn trong ba cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông, Lịch sử Việt Nam (tập 1 - NXB KHXH 1971) đã nhận định xác đáng: “Người vận dụng thiên tài chiến lược, chiến thuật cuộc chiến tranh nhân dân đó là Trần Quốc Tuấn. Với tri thức quân sự uyên bác kết hợp với tinh thần yêu nước nồng nàn và lòng trung thành vô hạn với Tổ quốc, ông đã góp phần lớn lao vào việc tổ chức và lãnh đạo kháng chiến, đưa khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam tiến lên một bước vượt mức. Trần Quốc Tuấn là một anh hùng quang vinh của dân tộc, một thiên tài quân sự mà công lao và sự nghiệp cứu nước của ông sẽ sống mãi với lịch sử oai hùng của dân tộc”. (tr.2120). 77 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Lê Lợi Đánh quân Minh hồn xiêu phách lạc Truyền thuyết kể rằng: Ngày xưa, có ông cụ họ Lê một hôm đi chơi qua đất Lam Sơn (nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa), chợt thấy đàn chim bay lượn thảnh thơi trông như hình đoàn người hội tụ. Cụ nghĩ thầm: “- Chỗ này tất là nơi tốt lành”. Sau đó, cụ đưa gia tộc dời nhà đến ở, khai phá ruộng vườn, tự chăm lo cày cấy, được ba năm thì thành sản nghiệp. Từ đấy, dòng dõi của cụ đời đời thay nhau làm hào trưởng ở đất Lam Sơn, kẻ xa, người gần theo có đến hàng ngàn người. Lạ thay, đến đời thứ ba thì trên đất này xuất hiện một con hùm xám thường đứng dưới gốc cây quế không bắt gia súc cũng chẳng làm hại ai. Nhưng đến ngày mồng 6 tháng 8 năm Ất Sửu (10/9/1385) thì không ai còn thấy nó đâu nữa. Đó cũng là ngày ông Lê Khoáng và bà Trịnh Thị Ngọc Thương sinh đứa con út, đặt tên là Lê Lợi. Ngày đó trong nhà có hào quang đỏ chiếu sáng rực, và mùi thơm ngào ngạt khắp làng. Cậu bé Lê Lợi vẻ người tươi đẹp, mắt sáng, miệng rộng, sống mũi cao, bả vai bên trái có đến bảy nốt ruồi đỏ như son. Lớn lên cậu tỏ ra là người thông minh, dũng lược, có dáng đi như rồng như hổ, tiếng nói vang như chuông. Ai ai cũng biết ngay đây là một người phi thường. Năm 1047, Lê Lợi tròn hai mươi hai tuổi thì giặc Minh từ phương Bắc tràn xuống tiêu diệt nhà Hồ. Cha con Hồ Quý Ly bị chúng bắt đem về Trung Quốc. Dưới ách đô hộ của chúng, nhân dân ta rất đau khổ, ngày đêm oán hận. Chúng hãm hiếp phụ nữ, giết đàn ông, hoạn 78 TẬP 5: DANH NHÂN QUÂN SỰ VIỆT NAM trẻ em nhỏ tuổi. Bắt ăn mặc theo lối Tàu để đồng hóa dân ta. Ngoài ra, chúng còn đốc thúc dân lên rừng bắt voi trắng, xuống biển mò trân châu. Thuế má nặng nề dân chịu không xiết. Trước cảnh nước mất nhà tan, Lê Lợi rất đau lòng. Ông chuyên tâm tìm đọc sách binh thư, dốc hết tiền bạc hậu đãi khách khứa để chiêu mộ hào kiệt. Theo truyền thuyết thì một ngày kia, người bạn của ông là Lê Thận, chèo thuyền ra sông đánh cá. Khi kéo lưới thấy nặng, lòng mừng thầm. Nhưng trong lưới không có gì ngoài một cục sắt. Thận quẳng đi mấy lần nhưng lần nào buông lưới vẫn chỉ một cục sắt ấy. Thấy lạ, Thận cầm lên xem. Sau khi gạt lớp bùn đi thì hóa ra đó là một thanh gươm sáng loáng. Thận cầm gươm thì thấy có khắc bốn chữ, nhưng chỉ đọc được hai chữ: “Thuận thiên” - tuân theo mệnh trời! Vậy tất có minh chúa ra đời giúp nước. Thận liền đem thanh gươm ấy trao cho Lê Lợi. Cũng trong ngày đó, đêm đã khuya, nhưng trên cây đa trước nhà Lê Lợi lại có tiếng chân rậm rịch và ánh sáng lấp lánh! Ông thử trèo lên xem không ngờ lại thấy cái chuôi gươm nạm ngọc. Đem đóng vào lưỡi gươm kia thì thấy vừa như đúc. Lê Lợi khấp khởi mừng thầm: - Hẳn là trời đã trao cho ta gươm báu để diệt giặc cứu nước! Nghe tin này, hào kiệt khắp nơi kéo đến tụ hội càng đông, ngày bàn việc cứu nước, đêm luyện tập võ nghệ. Có tên thổ quan tên là Lương Nhữ Hốt cam tâm cúi đầu làm tôi mọi cho giặc, nên khi biết việc làm của Lê Lợi, hắn liền mật báo với bọn giặc Minh: - Bẩm, người chúa đất Lam Sơn đang chiêu hiền đãi sĩ với âm mưu làm phản. Chí người ấy không phải là nhỏ đâu. Bây giờ, mới chỉ là con vật nhỏ trong ao, nếu không diệt đi thì sẽ thành rồng gặp mây! Xin trừ ngay để tránh tai vạ về sau. Giặc Minh nói: - Thiên triều đã đặt chân lên đất này thì ngàn năm sau cũng vững bền như bàn thạch. Ta sợ gì bọn ấy! Chỉ cần cho chúng một chức nhỏ là yên. 79