🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kể Chuyện Danh Nhân Việt Nam – Tập 4: Danh Nhân Văn Hóa Việt Nam
Ebooks
Nhóm Zalo
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
1
nhà xuất bản trẻ
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
HOAN NGHÊNH BẠN ĐỌC GÓP Ý PHÊ BÌNH NHÀ XUẤT BẢN TRẺ
161b Lý Chính Thắng - Quận 3 - TP. Hồ Chí Minh Điện thoại: 9316211 - 8465595 - 8465596 - 9316289 Fax: 84.8.8437450
E-mail: [email protected]
Website: http://www. nxbtre.com.vn
4
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
LỜI NÓI ĐẦU
Khi viết Lịch triều hiến chương loại chí, nhà bách khoa Phan Huy Chú (1762-1840) có lời án trong phần Nhân vật chí mục Nhà nho có đức nghiệp, quyển XI - như sau: “Các danh nho xưa nay rất nhiều, dường như không thể kể xiết. Nhưng những người đọc sách, đỗ đạt, mà đức vọng văn chương không rõ rệt để kê cứu, đều không chép. Chỉ nhặt lấy những người hơn cả, trước sau vài chục ông. Hoặc đạo đức nổi tiếng, hoặc khí tiết rõ rệt, hoặc giỏi về trước thuật, hoặc chuyên về văn chương, tuy tài giỏi không như nhau, nhưng đều có tiếng trên đời. Tóm lại, những người ấy không hổ là bậc danh nho cho nên chép rõ hành trạng các bậc đó”.
Nay chúng tôi ngồi trước án sách, trang nghiêm lật lại trang sách của người xưa, tưởng chừng như còn nghe lời nói ấy vang vọng bên tai. Học tập người xưa, chúng tôi cũng viết về những bậc danh nhân văn hóa của nước nhà. Mạo muội làm điều này cũng không ngoài mục đích giúp cho độc giả - nhất là bạn đọc thanh thiếu niên - hiểu rõ hơn công đức của các bậc tiền nhân. Với một tập sách mỏng, chúng tôi chưa thể viết được hết các bậc “có tiếng trên đời” trong lãnh vực văn hóa. Xin sẽ trở lại với những tập sau.
Trong Bình Ngô đại cáo, mà người đời đã đánh giá là “Thiên cổ hùng văn”, nhà văn hóa lỗi lạc Nguyễn Trãi có viết:
Nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
5
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Điều này khẳng định, nước ta vốn có truyền thống văn hóa lâu đời. Dù các thế lực ngoại xâm từ hàng ngàn năm nay đã thực hiện chính sách đồng hóa về mọi mặt nhưng cuối cùng chỉ chuốc lại sự bại vong. Sức mạnh văn hóa của dân tộc ta bền bỉ, trường tồn như sức sống của một dân tộc. Những giá trị vật chất và tinh thần do tiền nhân sáng tạo ra trong quá trình lịch sử mãi mãi là niềm tự hào của các thế hệ sau.
Trong tập sách này chúng tôi cố gắng nêu bật công đức của các danh nhân như anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Khi đánh giặc, ông đã cùng Lê Lợi đã vận dụng sức mạnh của văn hóa dân tộc:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
để đạt mục đích cuối cùng là “Xã tắc từ đây bền vững”. Trong số các nhân vật được UNESCO công nhận Danh nhân văn hóa thế giới, ngoài Nguyễn Trãi chúng tôi còn đề cập đến thi hào Nguyễn Du - người đã để lại một tác phẩm có giá trị là viên ngọc quý Truyện Kiều, không chỉ làm rạng rỡ nền văn hóa nước nhà mà còn có tiếng vang trên thế giới; Chủ tịch Hồ Chí Minh - một vĩ nhân lỗi lạc của thế kỷ XX mà cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã phát biểu “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”.
Trong nhiều giai đoạn khác nhau của lịch sử, chúng tôi đề cập đến danh nhân Phạm Đình Hổ - tác giả của nhiều công trình nghiên cứu có giá trị về lịch sử, ngôn ngữ, đại lý, thơ ca... mà lâu nay chúng ta chỉ mới biết qua Vũ trung tùy bút. Tiếp theo, chúng tôi đề cập đến Nguyễn Khuyến - thi sĩ số một của làng quê, của mùa thu Việt Nam và cũng là cây bút trào phúng xuất sắc nhất thời đại mà ông đã sống. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng giới thiệu những đóng góp của các danh nhân khác như nhà thơ Phan Văn Trị, nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi, nhà văn Nam Cao, họa sĩ Nguyễn Phan Chánh... với những công trình có giá trị lâu bền trong kho tàng văn hóa của nước nhà.
Chúng tôi cũng không quên đến nhà thơ trào phúng Tú Xương -
6
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
người đã để lại một sự nghiệp văn học để tạo nên cốt cách trào phúng và trữ tình mà ít nhà thơ nào sánh kịp. Trong số các “môn đệ” của Tú Xương, chúng tôi giới thiệu nhà thơ Tú Mỡ - một cây bút trào phúng rất nổi tiếng trên văn đàn những năm 1930 của thế kỷ XX. Tiếng cười độc đáo của ông là biết kế thừa cái hay của các thi sĩ đàn anh và vận dụng ca dao, tục ngữ. Điều làm nên tên tuổi Tú Mỡ là ông đã cười rất ác vào cái ông nghị... gật mà trước và sau ông chưa có ai vượt qua nổi!
Trong tập sách này, chúng tôi còn viết về bác Ba Phi. Năm 2002, một hội thảo khoa học “Chuyện kể bác Ba Phi” được tổ chức tại Cà Mau với 36 tham luận của các học giả, nhà nghiên cứu trong cả nước. “Tựu trung mọi người đều nhất trí đánh giá chuyện kể của bác Ba Phi là một di sản văn hóa phi vật thể của Nam Bộ cần được trân trọng gìn giữ cho muôn đời sau như ta đã gìn giữ chuyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn... trước đây. Các chuyện kể của bác Ba Phi bắt nguồn từ sự phong phú, giàu có của sản vật tự nhiên vùng U Minh những ngày đầu được người dân khai phá và bác Ba Phi chỉ là một người nâng bức tranh sản vật vô cùng phong phú ấy lên tầm thẩm mỹ văn học” (Báo Tuổi trẻ chủ nhật số ra ngày 8/12/2002). Tương tự, làm sao ta có thể quên được Vũ Trọng Phụng, nhà văn của nhiều tác phẩm hiện thực phê phán như Số đỏ, Giông tố... và nhiều tập phóng sự có giá trị hiện thực được phong tặng “Ông vua phóng sự đất Bắc”. Ngoài ra, khi viết tiếp những nhân vật lừng danh của thế kỷ XX, chúng tôi còn đề cập đến nhà triết học Trần Đức Thảo, người đã từng tranh luận thắng thế với nhà văn, nhà tư tưởng J.P. Sartre tại Paris và để lại nhiều tác phẩm triết học có giá trị. Là nghệ sĩ đa tài Văn Cao, người đã viết ca khúc bất hủ Tiến quân ca, được Quốc hội nước ta chọn làm Quốc ca. Là nhà dân tộc học Từ Chi, người đã dành tâm huyết một đời để nghiên cứu về văn hóa Mường, về làng xã Việt Nam đã có nhiều đóng góp to lớn mà học giả người Pháp là GS. Georges Condomimas đã đánh giá là “một nhà bác học lớn” của Việt Nam.
Có thể khẳng định các nhân vật trên đều có những nỗ lực đáng quý, đáng trân trọng trong việc bảo vệ, phát huy di sản văn hóa của nước nhà bằng nhiều việc làm thiết thực, nghiêm túc và có giá trị lâu
7
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
bền. Điều này có ý nghĩa không nhỏ khi chúng ta đang phấn đấu xây dựng một nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc. Do khuôn khổ tập sách có hạn nên chúng tôi sẽ tiếp tục đề cập đến nhiều danh nhân văn hóa khác trong những tập sau.
Nhân đây chúng tôi xin được nhắc lại, bộ sách KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM do nhà thơ Lê Minh Quốc thực hiện đã phát hành các tập: Danh nhân quân sự Việt Nam, Danh nhân khoa học Việt Nam, Các vị Tổ ngành nghề Việt Nam, Danh nhân Sư phạm Việt Nam, Danh nhân văn hóa Việt Nam, Các vị nữ danh nhân Việt Nam, Những nhà cải cách Việt Nam, Danh nhân cách mạng Việt Nam, Những người Việt Nam đi tiên phong, Những nhà chính trị Việt Nam và sẽ còn phát hành các tập tiếp theo, mời các bạn tìm đọc. Để bộ sách thật sự hữu ích cho bạn đọc - nhất là các bạn thanh thiếu niên - chúng tôi rất mong được sự chỉ giáo, giúp đỡ chân tình của các học giả uyên bác, của các nhà sử học và của các bạn đọc xa gần để tập sách ngày một hoàn hảo hơn. Trước hết xin bạn đọc ghi nhận ở đây sự biết ơn sâu xa của chúng tôi.
NHÀ XUẤT BẢN TRẺ
8
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
Nguyễn Trãi
Khí phách và tinh hoa của dân tộc
Nắng gắt. Trên con đường
mòn gập ghềnh, khúc khuỷu,
những người tù lê từng bước
chân mệt mỏi. Tiếng chim kêu
khắc khoải. Tiếng thúc giục inh
ỏi của đám cai tù. Tiếng roi vun
vút quất xuống lưng người tù
đến rớm máu. Rồi tiếng than
khóc của thân nhân người tù nức
nở vang lên. Tất cả tạo nên một
âm thanh nặng nề, đau đớn. Cả
hàng ngàn người tù băng rừng,
lội suối lên ải Nam Quan. Bây
giờ, họ đã đến nơi. Ngọn lau nơi
vùng biên giới Hoa - Việt dường
như trắng hơn, bạc hơn và cũng
cứng cỏi hơn. Đoàn người được dừng lại nghỉ ngơi để chuẩn bị vượt qua biên giới. Nhiều người
Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi (1380 -1442)
khóc òa lên, họ biết chỉ trong giây lát nữa hình ảnh Tổ quốc chỉ mãi mãi còn lại trong ký ức. Trong đám lau trắng kia có ba cha con người tù đang ngồi. Người cha nghiến răng bảo đứa con lớn:
9
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
- Hữu qui phục quốc thù khốc hà vi dã! Con là đứa có học, con hãy làm theo lời cha.
Nghe cha nói, người con rưng rưng nước mắt. Thấy vậy, người cha vỗ vai con rồi ôn tồn:
- Con hãy quay về tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là hiếu. Đi theo cha khóc lóc mới là hiếu hay sao?
Lời khuyên răn của cha khiến người con như tỉnh ngộ, liền đưa tay chùi sạch những dòng lệ nóng và hứa sẽ thực hiện theo. Cha con chưa tâm sự được nhiều, bỗng tiếng tù và vang lên như dao xoáy vào lòng người. Họ bịn rịn chia tay. Nắng vẫn gắt. Không dám đứng nhìn cảnh em trai mình đang theo cha vượt qua biên giới, người con trai quay về. Tiếng chim vẫn kêu khoắc khoải...
Sự việc này diễn ra vào tháng 6/1407 khi cha con Hồ Quý Ly bị giặc Minh đánh bại, chúng đã bắt một số triều thần nhà Hồ đưa về Trung Quốc. Người cha khuyên răn con những lời tâm huyết nói trên chính là Nguyễn Phi Khanh. Còn người con quay về để thực hiện lời dạy của cha là Nguyễn Trãi - sau này đã trở thành một nhân vật tiêu biểu cho tinh hoa và khí phách của dân tộc Việt Nam, “con người viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời” (Lê Quý Đôn); con người mà “âvăn chương mưu lược gắn liền với sự nghiệp kinh bang tế thế” (Phan Huy Chú); con người “như một ông tiên trong tòa ngọc, có tài làm hay, làm đẹp cho Nước từ xưa chưa có bao giờ” (Nguyễn Mộng Tuân).
Tổ tiên Nguyễn Trãi vốn quê ở xã Chi Ngại, huyện Phượng Sơn (nay là huyện Chí Linh, Hải Dương), sau chuyển về làng Ngọc Ổi huyện Thượng Phúc (nay làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Tây). Ông sinh năm 1380, có hiệu là Ức Trai. Cha ông là Nguyễn Ứng Long (tức Nguyễn Phi Khanh) và mẹ là Trần Thị Thái, con gái của Trần Nguyên Đán. Thuở hàn vi, Nguyễn Ứng Long làm nghề dạy học, được quan Tư đồ Trần Nguyên Đán mời về dạy học cho con gái. Cô học trò Trần Thị Thái yêu thầy và thường làm thơ Nôm trêu ghẹo. Chuyện này cũng thường tình, thầy trò cùng đang độ tuổi thanh xuân nên
10
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
tỏ ra quyến luyến cũng là điều dễ hiểu. Mối quan hệ này ngày càng khắng khít, chẳng bao lâu cô Thái có mang. Chuyện vỡ lở, Nguyễn Ứng Long bỏ trốn. Trong khi đó, biết sự tình này, quan Tư đồ Trần Nguyên Đán - chắt của danh tướng Trần Quang Khải - lại trầm tĩnh lạ thường. Ông cho người gọi Ứng Long về và bảo:
- Người xưa cũng đã từng có như thế. Chắc anh biết chuyện Trác Văn Quân và Tư Mã Tương Như rồi chứ? Cũng từ tình yêu, vì tình yêu mà lưu danh đến đời sau. Nếu anh làm được như vậy là nguyện vọng của ta.
Trước thái độ rộng lượng, phóng khoáng của Trần Nguyên Đán, Nguyễn Ứng Long ra sức học tập và thi đậu Thái học sinh (tiến sĩ). Nhưng do quy định khắt khe của triều Trần, con nhà thường dân dù lấy con gái hoàng tộc cũng không dùng đến. Có tài năng nhưng không được trọng dụng, ông lui về dạy học ở làng Nhị Khê. Nguyễn Trãi là đứa con trai của cuộc tình duyên phóng khoáng tuyệt vời ấy. Năm 1400 Hồ Quý Ly phế bỏ vua Trần Phế Đế, lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Ngu và mở khoa thi Thái học sinh. Nguyễn Trãi đậu ở khoa thi này và ra làm quan với nhà Hồ, được giữ chức Chánh Chưởng đài Ngự sử. Năm 1401, Nguyễn Ứng Long đổi tên là Nguyễn Phi Khanh ra làm quan với nhà Hồ, giữ chức Học sĩ Viện Hàn Lâm kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Rồi nhà Hồ mất vào tay giặc Minh. Sau khi từ biệt cha ở ải Nam Quan, Nguyễn Trãi quay về với “mười năm phiêu bồng”. Trong suốt thời gian từ năm 1407 - 1416 sử sách chưa biết rõ Nguyễn Trãi ở đâu, có tài liệu cho rằng thời gian đó ông bị giam lỏng ở thành Đông Quan, và cũng có tài liệu cho rằng ông lưu lạc sang Trung Quốc. Sau thời gian đó, có tài liệu cho rằng ông đã xuất hiện tại đại bản doanh của nghĩa quân Lê Lợi vào năm 1416; và tham gia hội thề Lũng Nhai để chuẩn bị khởi nghĩa. Nhưng ngược lại, có tài liệu cho rằng mãi đến năm 1421, Nguyễn Trãi mới đến Lỗi Giang (Thanh Hóa) tìm gặp Lê Lợi - chủ soái của phong trào Lam Sơn để dâng tập Bình Ngô sách. Trong cương lĩnh cứu nước của Nguyễn Trãi có nói đến chiến lược “đánh vào lòng người” thay cho chiến lược “đánh vào thành” tức là đánh vào tinh thần và ý chí xâm lược của giặc. Ngoài ra,
11
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
ông đã đề xuất chiến lược Giương làm cờ nhằm tụ tập bốn phương, đoàn kết mọi lực lượng kháng chiến của quần chúng trong cả nước. Từ đây biến mọi lực lượng này thành một lực lượng trực tiếp tham gia kháng chiến dưới ngọn cờ của nghĩa quân Lam Sơn. Nhờ vậy ban đầu lực còn yếu nhưng dần dần thế của nghĩa quân mạnh lên, có thể lấy yếu chống mạnh, lấy ít đánh nhiều. Sách lược bình Ngô của ông đã được anh hùng Lê Lợi đồng tình. Vì vậy ông đã được trao chức Tuyên phụng đại phu Hàn Lâm viện thừa chỉ, rồi được giữ lại bên cạnh Lê Lợi để cùng bàn mưu tính kế đánh giặc Minh.
Trước lúc phất cờ khởi nghĩa, để gây niềm tin và tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân, nghĩa quân Lam Sơn có mẹo dùng mỡ viết trên lá cây dòng chữ “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”. Kiến theo vết mỡ đục dần và dòng chữ đó đã hiện ra khiến dân chúng đều tin rằng đó là chữ của thần nhân, nên đều
một lòng hướng về nghĩa
quân. Dưới ngọn cờ Lam
Sơn, Nguyễn Trãi đã thay
mặt Lê Lợi viết nhiều thư
giao thiệp với tướng giặc,
tất cả được tập hợp lại trong
Quân trung từ mệnh tập - thể
hiện rất rõ chiến lược và sách
lược “mưu phạt tâm công”
của Nguyễn Trãi. Đây là tác
phẩm đã thể hiện năng lực
của một nhà tư tưởng, nhà
biện luận thiên tài. Ông vừa
nêu bật cuộc kháng chiến
chính nghĩa của nghĩa quân
Lam Sơn, vừa tố cáo tội ác
xâm lược của giặc, vừa kiên
quyết đánh chúng nhưng
cũng vừa khuyên chúng Tượng thờ Nguyễn Trãi tại Lam Kinh (Thanh Hóa)
12
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
đầu hàng... Tất cả đều nhằm mục đích kết thúc sớm cuộc chiến tranh để đỡ tổn thất xương máu.
Cuộc kháng chiến chống quân Minh phát triển theo ba thời kỳ. Thời kỳ ở vùng thượng du Thanh Hóa (1418-1423) kết thúc bằng việc đình chiến. Nguyễn Trãi đã tiến hành cuộc đấu tranh ngoại giao để kéo dài thời gian hòa hoãn, tránh được mưu mô quỷ quyệt của giặc. Sau khi “bên ngoài giả thác hòa thân” để “bên trong lo rèn chiến cụ” thì nghĩa quân bước sang thời kỳ thứ hai. Đó là thời kỳ tiến đánh thành Nghệ An để mở rộng vùng giải phóng phía Nam theo kế hoạch của danh tướng Nguyễn Chích. Lúc nghĩa quân vây thành Nghệ An và đánh tan viện binh của Lý An, Nguyễn Trãi đã viết thư dụ Phương Chính giao chiến khi hắn cố thủ trong thành: “Ta nghe bậc danh tướng quý nhân nghĩa mà rẻ quyền mưu. Lũ mày thì quyền mưu cũng chẳng đủ, còn nói gì nhân nghĩa? Ngày xưa thư mày gửi đến cho ta thường cười ta núp ở chỗ núi rừng không dám ra giao chiến ở đồng bằng đất phẳng. Nay ta đã đến đây, ngoài thành Nghệ An đều là chiến trường cả. Mày bảo đó là núi rừng hay đồng bằng? Mày đóng kín cửa ngồi xó trong ấy, có khác gì mụ già không? Ta e lũ mày không trốn đâu khỏi cái nhục cân quắc”. Đúng như lý lẽ phân tích của Nguyễn Trãi, số phận của Phương Chính đã diễn ra như thế. Sau những chiến thắng vang dội - từ toàn phủ Nghệ An được giải phóng đến nền thống trị của giặc ở Thanh Hóa hoàn toàn sụp đổ - nghĩa quân Lam Sơn đã bước qua thời kỳ thứ ba. Đó là thời kỳ phát triển cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trên quy mô cả nước và kết thúc cuộc chiến tranh. Nguyễn Trãi đã góp phần không nhỏ bằng đường lối ngoại giao kiên trì, khôn khéo. Ông đã phân tích cho chúng thấy nguy cơ thất bại như trong thư gửi Vương Thông năm 1427: “Nay tính hộ các ngươi có sáu điều phải thua:
- Nước lụt chảy tràn, tường rào đổ lở, lương cỏ thiếu thốn, ngựa chết quân ốm. Đó là điều thua thứ nhất.
- Xưa Đường Thái Tông bắt Kiến Đức mà Thế Sung ra hàng. Nay những nơi quân ải hiểm yếu, vừa quân vừa voi của ta đóng giữ đầy
13
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
đủ, viện binh có tới thế nào cũng thua. Viện binh mà đã thua thì lũ các ngươi tất bị bắt. Đó là điều phải thua thứ hai.
- Ở nước các ngươi, quân mạnh ngựa tốt nay đóng cả miền Bắc để phòng bị quân Nguyên, không rỗi chuyển về Nam được. Đó là điều phải thua thứ ba.
- Luôn động can qua, liên tiếp đánh dẹp, người sống không vui, nhao nhao thất vọng. Đó là điều phải thua thứ tư.
- Gian thần chuyên chính, chúa yểu giữ ngôi, xương thịt hại nhau, gia đình sinh biến. Đó là điều phải thua thứ năm.
- Nay ta dấy binh, trên dưới cùng lòng, anh hùng thí sức, sĩ tốt càng luyện, khí giới càng tinh, vừa cày ruộng vừa đánh giặc. Còn bọn mày trong thành mệt mỏi, chuốc lấy diệt vong. Đó là điều phải thua thứ sáu”.
Nói như nhà bác học Phan Huy Chú thì những lá thư dụ hàng của thiên tài Nguyễn Trãi đã “có sức mạnh như mười vạn quân”. Những chiến công lừng lẫy ở Chúc Động - Tốt Động (1426), ở Chi Lăng - Xương Giang (1427) là kết quả của tấn công quân sự dưới sự chỉ huy của anh hùng Lê Lợi và đường lối “mưu phạt tâm công” của Nguyễn Trãi. Thật lạ lùng cho dân tộc Việt Nam, một dân tộc yêu hòa bình, không bao giờ hiếu chiến, dù đang trên thế “sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay” nhưng nghĩa quân Lam Sơn vẫn sẵn sàng mở đường cho chúng rút lui an toàn và giữ thể diện triều Minh. Nguyễn Trãi viết: “Nếu như muốn kéo quân về nước thì cầu đường sửa xong, thuyền ghe sắm đủ, thủy lục hai đường, tùy theo ý muốn, đưa quân ra cõi, yên ổn muôn phần”. Tư tưởng nhân nghĩa này đã được anh hùng Lê Lợi đồng tình, do đó, ngày 16/12/1427 ở phía Nam thành Đông Quan, Vương Thông phải tuyên thệ rút quân về nước:
Tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh
Sửa hòa hiếu cho hai nước
Tắt muôn đời chiến tranh
Chỉ cần vẹn đất, cốt sao an ninh
(Bài phú núi Chí Linh)
14
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
Tháng giêng năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, bỏ quốc hiệu Đại Ngu của Hồ Quý Ly lấy lại quốc hiệu Đại Việt. Nguyễn Trãi được ban tước Quan phục hầu và được ban quốc tính Lê Trãi. Vâng lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã viết tác phẩm Bình Ngô đại cáo một “áng văn hùng tráng suốt thiên cổ” (thiên cổ hùng văn). Các nhà sử học đều đồng tình ghi nhận Bình ngô đại cáo là Tuyên ngôn độc lập thứ hai, hàm ý bài thơ của Lý Thường Kiệt làm trong lần đánh giặc Tống năm 1077 là bản Tuyên ngôn độc lập thứ nhất và Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Ba Đình ngày 2/9/1945 là bản cuối cùng. Người xưa đọc Bình Ngô đại cáo có cảm giác “đọc không chán miệng” (Phạm Đình Hổ), và cho rằng “Hùng văn trong thiên hạ không ai hơn được nữa, đó là sông Giang, sông Hàn trong các sông và sao Ngưu, sao Đẩu trong các sao vậy” (Tô Thế Huy), còn thời đại chúng ta và ngàn năm sau đều tự hào đó là khúc ca hùng tráng bất hủ của dân tộc:
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Nhưng hào kiệt đời nào cũng có...
Thời gian này Nguyễn Trãi tiếp tục viết Phú núi Chí Linh, Lam Sơn thực lục, Hạ tiệp ca ngợi công đức của Lê Lợi đối với nền độc lập, tự chủ của dân tộc. Ngoài ra ông còn thay mặt vua để viết chiếu, thư từ giao thiệp với nhà Minh, về sau được tập hợp trong tập Ngọc đường di cảo
tiếc rằng nay đã thất lạc. “Chủ đề hầu như xuyên suốt tập di cảo này
15
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
là tinh thần tận tụy vì
dân, coi “thương dân”
là mục đích và nguyên
tắc của mọi hành động
cũng như suy nghĩ của
kẻ trị nước, và lấy việc
nhận thức sức mạnh
“lật thuyền” của dân
làm một phương châm
tư tưởng để người làm
cha mẹ dân tự răn mình
trong mọi hành vi xử
thế của họ” (Từ điển
văn học, tập II, trang
88). Năm 1433 Lê Lợi
băng hà. Nguyễn Trãi
viết văn bia Vĩnh Lăng
“ghi thịnh đức vào đá
để truyền mãi không
mòn” công đức của Lê
Lợi. Lê Thái Tông lên
nối ngôi. Thời kỳ này
triều Lê đang dần dần khủng hoảng, vì mâu thuẫn lục đục trong nội bộ giai cấp thống trị đã bắt đầu phát sinh. Biết không thể chung sống hoặc chống lại với những phe phái đang mưu toan lũng đoạn quyền chính nên năm 1439 Nguyễn Trãi xin cáo quan về nghỉ tại Côn Sơn. Thời gian này, tâm hồn ông không vui:
Còn có một lòng âu việc nước,
Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung.
Do đó, sống trong cảnh “gió thanh hây hẩy gác vàng, người như một tiên ông trong tòa ngọc” nhưng lúc nào ông cũng đau đời và tóc bạc trắng: “Tóc hai phần bạc bởi thương thu - Tóc nên bạc bởi lòng ưu ái - Âu chi tóc đã bạc mươi phần” nhưng:
16
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
Bui chỉ có lòng trung hiếu cũ,
Mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen.
Trong thời gian này ông đã hoàn thành tập thơ Quốc âm thi tập, phần lớn tập thơ này gồm 254 bài chủ yếu được sáng tác lúc ở Côn Sơn. Với tác phẩm này, về sau nhà thơ Xuân Diệu khẳng định đó là “tác phẩm mở đầu nền thơ cổ điển Việt Nam” và Nguyễn Trãi “là nhà thơ lớn”. Nhưng rồi, Nguyễn Trãi cũng không thể ở mãi nơi “Am quạnh, hương thiêu, đọc ngũ kinh”. Năm 1440, Lê Thái Tông thấy quyền lực của mình đang lung lay vì bọn gian thần nên vời ông ra nhậm chức trở lại. Ngoài chức vụ cũ, ông còn được phong thêm chức mới và được đặc trách hai đạo Đông, Bắc. Nhân dịp này ông dâng Biểu tạ ơn: “Quần ngôn mặc kệ kẻ gièm pha, thánh ý cứ bền tín nhiệm”. Điều này cho thấy trong quần thần vẫn còn kẻ “gièm pha” ganh ghét ông. Do đó, ông “Cảm mà chảy nước mắt. Mừng mà sợ trong lòng”.
Rồi nỗi sợ hãi ấy thật sự đến với Nguyễn Trãi qua vụ án oan khốc “Lệ Chi Viên”. Ngày 1/9/1442, vua Lê Thái Tông đi duyệt võ ở Chí Linh, do là người đứng đầu cai quản miền Đông, Bắc nên Nguyễn Trãi có nhiệm vụ đón tiếp khi vua đến vùng này. Duyệt võ xong, vua đến nhà riêng của Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, sau đó về Đông Kinh. Khi đi có cả Nguyễn Thị Lộ - vợ lẽ yêu của Nguyễn Trãi, đang giữ chức Lễ nghi học sĩ trong triều - cũng theo hầu vua. Ngày 7/9/1442 xa giá của vua Lê Thái Tông về đến Trại Vải (tức Lệ Chi Viên) ở làng Đại Lại, huyện Gia Bình (nay thuộc huyện Gia Lương - Hà Bắc) để nghỉ lại. Không ngờ, tối hôm đó, nhà vua bị cảm và đến sáng thì băng hà. Tai họa đã đổ ập xuống đầu Nguyễn Trãi. Bọn gian thần nhân cơ hội này vu cáo Nguyễn Thị Lộ và Nguyễn Trãi dùng thuốc độc giết vua. Bị buộc tội, Nguyễn Thị Lộ nhảy xuống sông tự trầm. Ngày 19/9/1442 cả dòng họ Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc. Vị khai quốc công thần triều Lê đã rơi đầu vì chính cái triều đình mà ông đã đem toàn bộ tâm huyết để cống hiến. Phải đợi đến 20 năm sau, năm 1464 nỗi oan khuất này mới được giải tỏa. Vua Lê Thánh Tông - con Lê Thái Tông - đã xuống chiếu giải oan cho ông và nói: “Lòng dạ Ức Trai sáng vằng vặc như sao Khuê” (Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo) và truy tặng cho ông tước Tán
17
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
trù bá. Ba năm sau, nhà vua lại xuống chiếu cho Trần Khắc Kiệm đi tìm di cảo thơ văn của Nguyễn Trãi - nhờ vậy một phần thơ văn mới được lưu lại. Rồi năm 1868 bản in Ức Trai di tập do Dương Bá Cung sưu tập trong gần 50 năm được khắc in. Với tác phẩm này, Nguyễn Năng Tĩnh cho rằng: “âVăn chương của tiên sinh tinh vi, thâm thúy, rộng rãi, chính đáng, cứng rắn, là tự tiên sinh rèn luyện và phát huy được. Tiên sinh vốn không có ý đúc chuốt văn chương, nhưng một khi lời nói thổ lộ đều sáng sủa đẹp đẽ, dồi dào, không cái gì có thể che lấp được”. Còn Ngô Thế Vinh khẳng định: “Công lao của ông đã không thể che giấu được thì thơ văn của ông còn lại, dù một mảnh giấy hay một chữ cũng không nên để bị tiêu tan trong chỗ khói tàn củi nát vậy”. Nói như Phạm Quý Thích thì công đức của Nguyễn Trãi để lại cho đời: “Công cao bằng núi Lam có nghìn ngọn chót vót”.
Thật vậy, hậu sinh chúng ta có quyền tự hào về Nguyễn Trãi, một con người vĩ đại nhiều mặt trong lịch sử nước ta, là biểu hiện của tinh
Tượng tôn vinh danh nhân Nguyễn Trãi tại Quebec ở Canada
18
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
Đền thờ Nguyễn Trãi tại Côn Sơn (Hải Dương)
hoa và khí phách của dân tộc ta. Tương truyền, năm 1407 khi từ biệt cha ở ải Nam Quan - nơi cha ông là Nguyễn Phi Khanh và em ông là Nguyễn Phi Hùng bị đày sang Trung Quốc - Nguyễn Trãi đã đứng đó rỏ những giọt nước mắt thương khóc. Từng dòng lệ nóng chảy ra như suối. Sau này, khi nghĩa quân Lam Sơn quét sạch bóng giặc Minh xâm lược, để tưởng nhớ tấm lòng trung hiếu của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, nhân dân đã đào một cái giếng nơi Nguyễn Trãi đã đứng. Không ngờ, đào trúng mạch nước, giếng rất trong, nước rất ngọt. Từ đó, nhân dân vùng ải Bắc gọi giếng này là Giếng Nước Mắt. Phải chăng đây là một truyền thuyết nhằm chia sẻ với nỗi oan khuất của Nguyễn Trãi sau vụ án Lệ Chi Viên? Đó là nỗi hận mà dường như Nguyễn Trãi đã linh cảm được. Ông đã viết:
Họa phúc có mầm đâu một buổi,
Anh hùng để hận mấy nghìn năm.
19
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Bây giờ, nỗi hận ấy đã đi qua. Tên tuổi Nguyễn Trãi trường tồn cùng non sông đất nước ta.
Nhà nước ta đã tổ chức long trọng lễ kỷ niệm nhân 600 năm ngày sinh của ông. Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã quyết định tổ chức kỷ niệm ông một Danh nhân Văn hóa thế giới. Theo đánh giá của UNESCO, Nguyễn Trãi là người có đóng góp xuất sắc không chỉ cho văn hóa dân tộc mà còn cho sự phát triển văn hóa chung của nhân loại, là đại diện, biểu trưng cho một nền văn hóa thế giới đa bản sắc, vừa thấm đẫm văn hóa dân tộc, vừa thắm đượm tinh hoa văn hóa nhân loại.
20
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
Nguyễn Du
Tiếng thơ vang vọng đất trời
Cho đến thời điểm này, ba danh nhân văn hóa lừng danh của Việt Nam: Nguyễn Trãi (1380-1442), Nguyễn Du (1765-1820) và Hồ Chí Minh (1890-1969) đã được UNESCO công nhận là Danh nhân Văn hóa thế giới. Trong ba danh nhân này, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người rất thích Truyện Kiều của Nguyễn Du và Người thường vận dụng trong nhiều hoàn cảnh cụ thể. Trong Di chúc, Người viết: “Còn non, còn nước, còn người/ Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”; hoặc trong diễn văn kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Người nói: “Công ơn Đảng như bể rộng trời cao/ Ba mươi năm ấy biết bao nhiêu tình”; hoặc khi đón Tổng thống Xucácnô sang thăm nước ta: “Bây giờ mới gặp nhau đây/Mà lòng đã chắc những ngày thanh niên”. Rồi khi tiễn vị nguyên thủ quốc gia này lên máy bay, Người đã đọc câu Kiều: “Cánh hồng bay bổng tuyệt vời/ Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm”...
Không riêng gì Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu Truyện Kiều mà hầu như người Việt Nam nào cũng yêu, cũng nhớ ít nhất dăm câu thơ Kiều của thi hào Nguyễn Du. Mà những câu thơ ấy đã ăn sâu vào trong máu thịt đến nỗi khi đọc câu thơ ấy, người ta không nhớ đến tác giả. Nhà thơ Tế Hanh có viết bài thơ “Bài học nhỏ về nhà thơ lớn” kể lại một kỷ niệm khi ông về huyện Nghi Xuân quê hương của thi hào. Lúc ông hỏi thăm một bà cụ nhà của Nguyễn Du nơi đâu thì bà cụ ngớ người ra: “Nguyễn Du nào tôi chẳng nhớ tên?”. Nhưng khi nói, đó là người viết kiệt tác Truyện Kiều thì bà cụ vội vã chỉ đường ngay và đọc luôn
21
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Tượng thi hào Nguyễn Du tại khu lưu niệm Nguyễn Du (Hà Tĩnh)
mấy đoạn thơ Kiều, kể luôn vanh vách về cuộc đời thăng trầm của Kiều. Từ đó, nhà thơ Tế Hanh ngẫm nghĩ: “Bà cụ không nhớ tên Nguyễn Du, có gì đâu đáng trách/ Một cái tên như bao cái tên thường/ Nhưng cụ đã gửi lòng trong áng sách/ Theo dõi đời Kiều từng đoạn từng chương.../ Cuộc gặp gỡ tình cờ đem cho tôi bài học/ Như thể qua hai trăm năm nhà thơ nhắn lại bây giờ/ -Hãy đi con đường vào trái tim bạn đọc/ Người ta có thể quên tên người làm thơ, nhưng đừng để quên thơ...”.
Theo thông báo của Hội đồng Hòa bình thế giới số ra tháng 12/1964, trong phiên họp tại Berlin (Cộng hòa Dân chủ Đức) từ ngày 6 đến ngày 9/12/1964, Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới đã chính thức quyết nghị kỷ niệm 200 năm năm sinh thi hào Nguyễn Du trong năm 1965, cùng với 8 danh nhân văn hóa khác trên thế giới: Nhà thơ Quintus Horatius Flaccus (La Mã) trước công nguyên; nhà thơ Dante Alighieri (Ý); nhà thơ Lomonosov (Nga); nhà thông thái Ai Hayssam (Ả Rập); nhà cải cách xã hội Jan Hus (Tiệp Khắc); nhà soạn nhạc Sibelius (Phần Lan); nhà thơ Yeats (Ialăng) và nhà y học Finlay (Cu Ba).
Bấy giờ trong hoàn cảnh đất nước còn chiến tranh nhưng cả hai miền Nam - Bắc đều tổ chức trọng thể đón nhận sự kiện vẻ vang này.
22
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
Tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra quyết định số 135TTg/Vg thành lập Ban tổ chức kỷ niệm Nguyễn Du mà trưởng ban là ông Hoàng Minh Giám - Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin, cùng lúc Ban bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam cũng ra chỉ thị “Về việc kỷ niệm Nguyễn Du”. Tại miền Nam, trong vùng giải phóng, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng thành lập Ban tổ chức kỷ niệm Nguyễn Du mà trưởng ban là bác sĩ Phùng Văn Cung. Trong vùng tạm chiếm, ngày 3/10/1965 tại Sài Gòn, giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch - Tổng ủy viên Văn hóa Xã hội kiêm Ủy viên Giáo dục của chế độ cũ đã đọc diễn văn khai mạc Tuần lễ kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du. Cùng lúc, nhiều nước như Liên Xô, Trung Quốc, Triều Tiên, Tiệp Khắc, Rumani, Bungary, Ba Lan, Đức, Miến Điện, Cu Ba, Pháp v.v... cũng tổ chức kỷ niệm thi hào đất Việt với nhiều hoạt động phong phú và đây cũng là dịp Truyện Kiều được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, không có quyển sách nào có số phận lạ lùng như Truyện Kiều. Cho đến nay chưa ai có thể thống kê được tác phẩm này đã in đến lần thứ bao nhiêu, có bao nhiêu dị bản.
Kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du tại miền Bắc (1965)
23
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Và cũng chưa ai có thể thống
kê được đã có bao nhiêu tập
sách, bài viết nghiên cứu về
Nguyễn Du và Truyện Kiều
hoặc có bao nhiêu sáng tác
của người đời sau đã lấy
cảm hứng từ Nguyễn Du và
Truyện Kiều.
Nguyễn Du cất tiếng khóc
chào đời tại kinh đô Thăng
long (Hà Nội) tự Tố Như,
hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu
Hồng Lam liệp hộ. Dòng dõi
Nguyễn Du quê gốc ở làng
Canh Hoạch, huyện Thanh
Oai, trấn Sơn Nam (nay Hà
Áp phích trong lễ kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du tại miền Nam (1965)
Tây) nhưng từ thế kỷ thứ XVI vì lý do chính trị nên tổ tiên thi hào phải chạy vào làng Tiên
Điền, huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh) lập nghiệp và nổi tiếng thành đạt:
Bao giờ ngàn Hống hết cây
Sông Rum hết nước họ này hết quan
Thân phụ Nguyễn Du là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm (1668-1776) là nhà thơ, nhà sử học lừng danh, từng giữ chức Tể tướng rồi làm Thượng thư bộ Hộ ngất ngưởng trên danh vọng, đó là một nhân vật mà trong Lịch triều hiến chương loại chí, nhà bác học Phan Huy Chú nhận xét: “Ông có tài lược văn võ, trải thờ ba triều, quanh quẩn chỗ ngự đài, vào làm tướng văn ra làm tướng võ, ở ngôi Tể tướng 15 năm, xếp đặt gọn mọi việc bề bộn, đối xử tiếp ứng lúc nào cũng như lúc nào, Ân vương (Trịnh Doanh) thường khen là người có đức vọng tài trí. Ông là bậc nguyên lão trong nước, làm rường cột cho triều đình, công cao danh vọng, đương thời ai cũng khen ngợi”. Ông Nguyễn
24
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
Nghiễm có nhiều vợ. Chánh thất là bà Đặng Thị Dương - người “nâng khăn sửa túi” cho Nguyễn Nghiễm lúc mới 16 xuân xanh, sinh được hai con là Nguyễn Khản và Nguyễn Điều. Còn bà vợ thứ ba của ông là Trần Thị Tần (1740-1778), người trấn Kinh Bắc (nay Bắc Ninh) kém ông 32 tuổi đã sinh được một gái và bốn trai là Nguyễn Trụ, Nguyễn Nễ, Nguyễn Du và Nguyễn Ức. Là con thứ bảy của Nguyễn Nghiễm nên thuở nhỏ mọi người gọi Nguyễn Du là cậu Chiêu Bảy.
Thời niên thiếu, Nguyễn Du sống tại kinh thành Thăng Long trong gia đình đại quý tộc. Sau này, cháu ruột Nguyễn Du là nhà thơ Nguyễn Hành (1771-1823) có cho biết lúc ấy: “Trước cửa, những người xe ngựa võng lọng chầu chực hàng ngày; trong nhà, hạng nô bộc cũng được ăn thịt, mặc áo gấm”. Nhưng Nguyễn Du sống trong nhung lụa không dài. Năm ông lên 10 thì cha mất, năm 12 tuổi thì mẹ cũng về suối vàng, phải về sống với ông anh cả cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. Lúc này, ông Khản đang giữ chức Tả thị lang bộ Hình kiêm Hiệp trấn xứ Sơn Tây, nhưng chỉ vài năm sau thì cơ nghiệp này cũng “bèo dạt mây trôi”. Để hiểu thêm những bước thăng trầm của dòng họ Nguyễn Du trong thời gian:
Triển lãm về
Nguyễn Du và
Truyện Kiều tại
Sài Gòn (1965)
25
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Khi xưa phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
thì ta phải lật lại những trang “thâm cung bí sử” của thời đó. Sự việc như sau: Nắng chiếu thẳng vào trong phủ chúa, Ân vương Trịnh Sâm (1737-1782), quê Thanh Hóa, con trai của Minh đô vương Trịnh Doanh, mới vươn vai thức dậy. Ông bực mình, gọi thái giám Khuê Trung hầu vào, mắng: “Đêm qua, ta cho gọi Ngọc Khoan vào hầu, sao ngươi lại đưa Ngọc Hoa thay thế?”. Quan thái giám liền sụp lạy: “Bẩm, thần đáng tội chết nhưng xin chúa thượng tha lỗi, vì mấy hôm nay thần cứ băn khoăn mãi về giấc mộng của Ngọc Hoa. Nàng có tâm sự với chị nàng bên cung của Ân vương là nằm mộng thấy thần nhân ban cho tấm lụa hồng, trên có vẽ cái đầu rồng màu đen. Điềm ấy chắc sinh thánh nhân. Vì thế, khi chúa thượng cho vời Ngọc Khoan thì thần cứ nghĩ là Ngọc Hoa...”. Ấy là quan thái giám nhận tiền đút lót của Ngọc Hoa mà bịa ra như thế! Nghe lời phân bua, Trịnh Sâm nhếch mép: “Rồng là biểu tượng của nhà vua, nhà chúa, nhưng lại là rồng vẽ chứ không phải rồng thật. Đã thế, chỉ có đầu mà không có đuôi thì chẳng phải là điềm lành...”
Nào ngờ nhờ ơn “mưa móc” này mà Ngọc Hoa thụ thai, sinh ra quý tử là Trịnh Khải (Tông). Trước tin vui này, bá quan văn võ đem lễ vật đến mừng, nhưng Trịnh Sâm không nhận, thậm chí còn ghét cả đứa con trai mới sinh nữa. Nhưng dù sao, khi có được nam tử thì địa vị của Ngọc Hoa trong cung cũng đã khác trước. Mọi chuyện sẽ đi qua bình thường nếu không có một ngày kia... Một hôm tiệp dư Trần Thị Vinh sai nữ tì Đặng Thị Huệ dâng một khay hoa lên cho Trịnh Sâm. Lập tức, chúa choáng váng, say đắm trước nhan sắc tuyệt trần của Thị Huệ. Từ đó, chúa cho Thị Huệ vào ở ngay trong cung. Do Trịnh Sâm quá cưng chiều nên Thị Huệ ngày càng lộng hành. Gặp chuyện không vừa ý là thị làm mình làm mẩy, vật vã than khóc khiến chúa cũng rối lòng... Chẳng hạn, năm 1774 để khuếch trương thanh thế, Trịnh Sâm sai thống tướng Hoàng Ngũ Phúc vào Nam đánh chúa Nguyễn, rồi thân chinh cầm quân đánh chiếm đất Thuận Hóa, đặt quan cai trị. (Tong số đó có nhà bác học Lê Quý Đôn, chính trong thời gian này
26
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
đã viết tác phẩm rất có giá trị là Phủ biên tạp lục). Khi trở về Bắc, một trong những chiến lợi phẩm Trịnh Sâm đem về là viên ngọc dạ quang rất quý, thường treo ở đầu khăn làm vật trang sức. Có lần, nhìn thấy Thị Huệ mân mê viên ngọc, chúa nhẹ nhàng: “Nhè nhẹ tay kẻo xây xát!”. Lập tức, thị ném thẳng ngọc xuống đất, tru tréo: “Ngọc này chả là cái gì sất! Vào Quảng Nam kiếm trả chúa một hạt khác là xong! Làm gì mà trọng của khinh người đến thế?”. Trịnh Sâm tái mặt, phải van xin, dỗ dành mãi thị mới nguôi giận...
Chung sống với nhau, Thị Huệ may mắn mang thai. Năm 1777, nàng sinh được một con trai, chúa cưng lắm, đặt tên là Cán và bắt đầu dựa vào người có thế lực trong cung là Quận huy Hoàng Đình Bảo để lập mưu đưa con mình vào ngôi Thế tử. Bấy giờ, cho dù Trịnh Khải đã 15 tuổi, nhưng vì nghe lời Thị Huệ nên Trịnh Sâm vẫn cứ chần chừ.... Nhân lúc Trịnh Sâm bị bệnh, Khải liên kết với quần thần trong triều - trong số này có Nguyễn Khản, anh của Nguyễn Du - lập mưu bắt giam mẹ con Thị Huệ, nhưng không ngờ chúa lành bệnh, mọi việc bại lộ. Thế là Khải bị giáng làm con thứ, bị theo dõi nghiêm ngặt; còn Nguyễn Khản cũng bị cách chức và tống giam. Năm 1781, Trịnh Sâm bị bệnh trĩ và mất, Cán lên nối ngôi và nghiễm nhiên Thị Huệ đạt được ước mơ cao nhất về quyền lực! Tất nhiên, Khải không bó tay trước trước “ván cờ” này. Khải nghĩ đến lực lượng có thể giúp mình đoạt được ngôi báu là quân túc vệ. Nguyên trước đây, khi khởi binh giúp nhà Lê trung hưng, tại đất kinh kỳ, cha con họ Trịnh chỉ dùng lính xứ Thanh, lính xứ Nghệ làm “ưu binh” - bọn lính này cậy mình có công lao nên hễ có chuyện gì bất bình là nổi lên làm loạn. Trịnh Khải biết thế nên cấu kết với chúng để lật Cán. Lật Cán xong, Khải lên ngôi thì Nguyễn Khản được trọng dụng, giữ chức Thượng thư bộ Lại, rồi thăng Tham tụng. Trong thời gian này, năm 1783, Nguyễn Du đi thi hương đậu tam trường, nhưng sau đó không đi thi nữa.
Nhưng việc nước vẫn còn rối ren như canh hẹ. Bọn quân túc vệ ỷ mình có công lớn nên kiêu binh làm loạn, cướp phá khắp nơi, văn thần võ tướng và ngay cả Khải cũng phải bó tay không làm gì được chúng. Về phần Nguyễn Khản thì chúng kéo quân đến phá nhà và ông suýt
27
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
bị giết chết. Hoảng sợ, ông phải chạy về ẩn náu ở Nghệ An. Dịp này, Tây Sơn đem quân ra đánh Bắc Hà, chấm dứt cơ nghiệp họ Trịnh.
Trong cơn lốc của thời cuộc, Nguyễn Du về ẩn dật ở Thái Bình, quê vợ, sống trong nhà anh vợ là nhà thơ Đoàn Nguyễn Tuấn - đang làm Thị lang bộ Lại triều Tây Sơn. Thời gian này, Nguyễn Du bắt đầu viết những bài thơ chữ Hán, soạn lại thành tập đặt tựa là Thanh Hiên thi tập. Ít lâu sau, vợ mất, Nguyễn Du trở về sống ở xứ Nghệ, lấy việc đi săn, câu cá làm vui do đó ông lấy biệt hiệu Hồng Sơn liệp hộ (người đi săn ở núi Hồng) và Nam Hải điếu đồ (người đi câu ở biển Nam). Hai bài vè chữ Nôm Thác lời trai phường nón, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu của Nguyễn Du đã cho thấy những nét sinh hoạt dân dã của ông thời đó. Năm 1796, Nguyễn Du toan vào Gia Định, việc bại lộ, bị tướng Tây Sơn là Thận Quận công bắt giam. Nhưng do mến tài Nguyễn Du và thân với Nguyễn Nễ - anh ruột Nguyễn Du nên ông chỉ bị Thận Quận công bị giam ba tháng rồi tha. Trong bài thơ Mi trung mạn hứng (Cảm hứng lan man trong tù), ông viết (Ngô Linh Ngọc dịch):
Tâm sự biết cùng ai giãi tỏ
Non sông sâu thẳm nước sông Lam
Năm 1802, Nguyễn
Ánh dứt được cơ nghiệp
của nhà Tây Sơn và lên
ngôi đặt niên hiệu Gia
Long. Muốn thu phục
nhân tâm người miền
Bắc, Gia Long xuống
chiếu trưng dụng những
nhà dòng dõi cựu thần
nhà Lê ra hợp tác.
Nguyễn Du được vời ra
làm quan vì trước đây,
Sắc vua Gia Long phong cho Nguyễn Du do là con quan lớn nên chức lễ bộ Hữu tham tri
28
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
ông được tập ấm Hoàng tín đại phu trung thành môn vệ úy, tước Thu nhạc bá và được cha cho làm con nuôi viên quan họ Hà không có con trai ở Thái Nguyên. Lúc cha nuôi mất, Nguyễn Du nối võ chức ấy. Nhưng trước cơ hội được Gia Long trọng dụng, Nguyễn Du không mấy hào hứng. Theo Đại Nam chính biên liệt truyện (ĐNCBLT) thì “không thể từ chối, ông bất đắc dĩ phải ra” làm quan triều Nguyễn và có lần bị vua Gia Long quở trách:
- Nhà nước dùng người cứ kẻ hiền tài là dùng chứ không phân biệt Nam, Bắc. Ngươi đã làm đến chức á khanh, biết việc gì phải nói để tỏ cái chức trách của mình, có lẽ đâu lại cứ rụt rè sợ hãi chỉ vâng vâng, dạ dạ hay sao?
Như thế đủ thấy tâm thế của ông không hề muốn dấn thân vào chốn quan trường. Ra làm quan, ông được bổ làm tri huyện Phù Dực ở Thái Bình, ít lâu sau ông cáo bệnh từ chức. Rồi năm 1806, ông lại được triệu vào kinh thụ chức Đông các học sĩ; năm 1809 được bổ làm Cai bạ (tức Bố chính) Quảng Trị; năm 1813 được thăng làm Cần chánh điện học sĩ, sung Chánh sứ sang cống nhà Thanh. Trong thời gian vào kinh làm quan cho đến khi đi sứ, ông đã hoàn thành tập thơ chữ Hán Nam trung tạp ngâm “vẫn là tiếng thở dài của nhà thơ trước một thực trạng mà ông thấy không có gì gắn bó” (Từ điển văn học - NXB KHXH - 1984, tập 2, tr.56). Trong tập thơ này, có bài thơ Độc Tiểu Thanh ký (Đọc bài ký truyện nàng Tiểu Thanh) mà hai câu kết đến nay còn được truyền tụng:
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
Giản Chi dịch:
Ba trăm năm nữa người thiên hạ,
Chả biết còn ai khóc Tố Như?
Lúc phái bộ ta đến Trung Quốc có đến thăm một xưởng sản xuất đồ gốm sứ. Chủ xưởng biết sứ thần Việt Nam là một nhà thơ tài hoa nên đã đưa xem kiểu đĩa Mai hạc (vẽ chim hạc đậu trên cành mai) và
29
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
nhờ đề hai câu thơ. Nguyễn Du không viết thơ thất ngôn bằng chữ Hán mà dùng chữ Nôm của dân tộc để viết hai câu lục bát:
Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ, hạc là người quen
Bút lực của Nguyễn Du thật dồi dào, dù cương vị Chánh sứ với biết bao công việc nhưng ông vẫn hoàn thành tập thơ Bắc hành tạp lục ghi lại những điều mắt thấy tai nghe lúc ở Trung Quốc. Trở về nước, ông được thăng Lễ bộ Hữu tham tri. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện cho biết Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ nhà Thanh về. Nhưng sau này, giới nghiên cứu văn hóa nước nhà không hoàn toàn đồng ý như thế, nêu ra ba ức thuyết: Truyện Kiều được Nguyễn Du viết trong những năm còn ẩn dật ở quê nhà (tức vào khoảng năm 1796-1802); trong thời gian ra làm quan với triều Nguyễn (tức vào khoảng năm 1802-1809); sau khi đi sứ
nhà Thanh về (tức là sau năm 1813).
Qua nhiều cuộc tranh luận từ năm 1943
đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa
có câu trả lời thống nhất. Tương tự như
vậy, tác phẩm nổi tiếng không kém của
ông là Văn tế thập loại chúng sinh (tức
Văn chiêu hồn) cũng chưa xác định
được thời gian cụ thể đã viết năm nào.
Năm 1820, nhà vua lại xuống chỉ sai
Nguyễn Du đi sứ lần nữa, nhưng chưa
kịp đi thì ông bị bệnh mất. Lúc ấy, dù
bệnh nặng nhưng ông vẫn không uống
thuốc. Lúc gần mất, sai người nhà sờ tay
chân xem còn nóng hay lạnh, họ thưa
lạnh cả rồi, Nguyễn Du nói “được” rồi
Tranh vẽ thi hào Nguyễn Du đang viết Truyện Kiều (tranh minh họa trong bản Kiều ký hiệu OR 14844 tại thư viện Anh Quốc)
mất, không trăn trối lại điều gì.
Về kiệt tác Truyện Kiều hiện nay ta vẫn chưa có bản in nào đúng hoặc gần
30
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
đúng nhất với nguyên tác của Nguyễn Du. Tại sao? Tương truyền, sau khi viết xong Truyện Kiều, Nguyễn Du đặt tựa là Đoạn trường tân thanh có đưa cho Tiến sĩ Phạm Quý Thích xem. Phạm Quý Thích có nhuận sắc, khen ngợi hết lời, làm thơ đề từ, đổi tên sách thành Kim Vân Kiều tân truyện và cho khắc ván in ở phố Hàng Gai (Hà Nội), bản in này gọi là bản Hoa Đường vì Phạm Quý Thích người làng Hoa Đường. Bản in đầu tiên này, nay văn khố nước nhà không còn lưu giữ được. Đến nay, bản in cổ nhất còn lưu giữ được là bản Kim Vân Kiều tân truyện do nhà Liễu Vân đường khắc in năm 1781. Sau đó các nhà Thịnh Mỹ đường, Quan Văn đường, Phúc Vân đường... cũng dựa vào bản Nôm đầu tiên mà in lại. Các bản khắc in này được gọi chung là bản “Phường”.
Ngay từ khi mới được in ra, Truyện Kiều đã trở thành một “sự kiện văn học”. Ai ai cũng đọc. Ai ai cũng thích. “Không những chỉ bậc văn nhân tài tử đọc truyện lòng vui sướng, trí thảnh thơi; mà cho đến những người ngu phu bỉ phụ truyền miệng nhau đọc cũng thích thú, vui vẻ khoa tay múa chân” (Nguyễn Văn Thắng - Tựa Kim Vân Kiều án, bản in năm 1830). “Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy” (Mộng Liệng Đường Chủ Nhân). Trong dân gian có câu: “Làm trai biết đánh tổ tôm/ Uống chè Chính Thái xem nôm Thúy Kiều” đã cho thấy việc đọc Truyện Kiều phổ biến sâu rộng biết chừng nào! Với một kiệt tác như thế, nhà vua cũng thích đọc là lẽ thường tình. Ông vua giỏi thơ nhất triều Nguyễn là Tự Đức cũng tường lãm. Có giai thoại kể rằng, khi đocï đến câu: “Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”thì nhà vua cáu tiết phán:
- Giá tên này còn sống thì phải nọc ra đánh ba mươi trượng!
Lại có giai thoại cho rằng, Tự Đức ghét cay ghét đắng Truyện Kiều vì trong đó ít nhất Nguyễn Du đã lôi mình ra mà mắng (!?). Lý do: Tự Đức tên thật Hồng Nhậm, tên cúng cơm là Thì mà trong Kiều lại có những câu liên quan đến chữ “Thì”. Tất nhiên khi đọc hoặc khi viết,
31
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
người ta phải ngắt câu, hoặc viết hoa: “Ra điều trên bộc trong dâu/ Thì, con người ấy ai cầu làm chi.../ Tha ra, Thì cũng may đời/ Làm ra, Thì cũng là người nhỏ nhen...”. Rõ ràng đây chỉ là chuyện “trà dư tửu hậu” cho vui, như hàng trăm hàng ngàn mẩu chuyện tương tự khác mà độc giả đã “vận dụng” Truyện Kiều vào trong đời sống. Thế nhưng có một điều chắc chắn là Tự Đức đã viết bài “tổng từ” và sửa chữa lại đôi chỗ trong văn bản Truyện Kiều và cho khắc in ở kinh đô Huế, gọi là bản “kinh”. Bản “kinh” có 3.258 câu; bản “phường” có 3.254 câu. Thế thì đâu là bản đúng với nguyên tác Truyện Kiều? Đó chưa kể đến các bản chép tay lưu hành trong dân gian. Ngoài ra, tựa sách mỗi nơi khắc in lại ghi cũng khác nhau: Kim Vân Kiều tân tập, Kim Vân Kiều quảng tập, Thúy Kiều truyện tường chú, Kim Vân Kiều truyện, Kim Túy tình từ, Truyện Thúy kiều v.v... Mãi đến sau năm 1954, hầu hết các bản in đều thống nhất lấy tên là Truyện Kiều.
Về lai lịch Truyện Kiều thiết tưởng ta cũng nên biết qua một vài chi tiết: khi đi sứ Trung Quốc hoặc trước đó, Nguyễn Du có đọc bộ tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện (20 hồi) của Thanh Tâm Tài Nhân viết về một nhân vật có thật, sống vào đời Minh. Từ cốt truyện này, Nguyễn Du đã viết lại thành truyện thơ Nôm bằng thể thơ lục bát Đoạn trường tân thanh (Tiếng đau lòng mới). Bộ tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện tầm thường, ngay cả ở Trung Quốc cũng không mấy ai biết đến. Nhưng từ khi Truyện Kiều trở thành kiệt tác trong văn chương nhân loại thì giới nghiên cứu văn học Trung Quốc mới để ý đến bộ tiểu thuyết này và họ thừa nhận giá trị của hai tác phẩm khác nhau một trời một vực, một bên là ngọc và một bên là ngói.
Có thể tóm tắt nội dung Truyện Kiều như sau: “Mở đầu, người kể dành 6 câu thơ để nói về thuyết “tài mệnh tương đố”. Vào chuyện, người kể giới thiệu gia đình họ Vương, dừng lại nói kỹ về nhân vật chính: Thúy Kiều, một thiếu nữ tài sắc toàn vẹn. Nhân tiết thanh minh, chị em nhà họ Vương dắt nhau đi chơi xuân, thấy nấm mồ của kỹ nữ Đạm Tiên không ai thăm viếng, Thúy Kiều khóc thương cho người bạc mệnh; gặp Kim Trọng, một trang phong lưu tài tử, hai bên chưa nói một lời nào mà lòng đã thấy quyến luyến, xao động.
32
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
Kim Trọng tìm cách gặp lại, chàng thuê nhà ở cạnh nhà nàng rồi chờ đợi hàng tháng ròng. Một hôm chàng bắt được chiếc thoa của Kiều đánh rơi, nhân đấy được gặp lại người đẹp, hai bên thổ lộ tâm sự, từ đó họ yêu nhau. Mối tình đầu trong sáng đang độ đằm thắm, bỗng dưng xảy ra chuyện tai ương: đúng lúc chàng Kim về Liêu Dương hộ tang chú thì gia đình Kiều gặp gia biến; có kẻ vu oan cho Vương ông, quan lại không xét thực hư, cứ cho nha lại đến cướp phá nhà Kiều, bắt Vương ông và Vương Quan giam giữ và đánh đập tàn nhẫn. Phải có “ba trăm lạng” hối lộ thì quan lại mới tha.
Trong nhà không còn gì, Kiều buộc phải bán mình chuộc cha. Người ta mối lái cho nàng bán mình làm vợ lẽ Mã Giám Sinh, kỳ thực đây là một gã dắt gái, kết quả là Kiều rơi vào nhà chứa của Tú Bà ở Lâm Tri. Không chịu nhục, nàng rút dao tự tử, nhưng được Tú Bà chạy chữa thuốc thang, lại hứa với nàng sẽ tìm nơi xứng đáng gả chồng để lấy lại tiền mụ đã bỏ ra mua nàng. Kiều được ra ở lầu Ngưng Bích, nhưng vẫn cảm thấy cuộc sống bấp bênh. Một hôm Sở Khanh xuất hiện, tỏ ý muốn giúp nàng bỏ trốn. Nàng tin lời, hiến thân và chạy trốn cùng hắn, hóa ra mắc lừa mưu kế của Tú Bà, bị mụ bắt về đánh đập tàn nhẫn, bắt phải tiếp khách. Từ đấy Kiều lâm vào cảnh ô nhục của một gái lầu xanh nhưng lòng vẫn nhớ về cha mẹ, nhớ về người yêu, hận vì chuyện mình trót phụ anh chàng Kim, băn khoăn không biết Thúy Vân đã thay mình trả nghĩa nối duyên với chàng hay chưa, vẫn trông ngày thoát khỏi nhà chứa.
Trong đám khách làng chơi có Thúc Sinh say mê Kiều, muốn cưới nàng làm lẽ. Sau khi cân nhắc, Kiều nhận lời. Thúc Sinh đưa nàng về nhà. Chẳng bao lâu, cha Thúc Sinh về biết chuyện, đi thưa kiện cửa quan; Kiều thà chịu bị đòn chứ không trở lại lầu xanh; rốt cuộc vì thấy Kiều có tài thơ nên quan thương tình, hòa giải êm chuyện. Đến lượt vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư đánh ghen, cho gia nhân gây hỏa hoạn và bắt cóc nàng đem về tư dinh ở Vô Tích, biến thành nô tỳ, kịp khi Thúc Sinh tưởng nàng Kiều đã chết, quay về thăm vợ cả thì nhận ra Kiều đang là thị tỳ ở đấy.
33
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Chán cảnh bị hành hạ vì ghen tuông, nàng xin đi tu, được Hoạn Thư cho ra tu ở Quan âm các ngay trong vườn nhà họ Hoạn. Một lần Thúc Sinh lẻn ra tâm sự với Kiều, bị Hoạn Thư rình biết. Tuy không bị đánh mắng, nhưng Kiều càng thấy rõ mối nguy hiểm vẫn chờ sẵn chừng nào còn ở trong nhà họ Hoạn, bèn mạo hiểm đang đêm bỏ trốn đến một ngôi chùa khác. Sư Giác Duyên trụ trì chùa này lúc đầu cho Kiều ở tạm, sau có người cho biết chuông khánh Kiều mang theo là của nhà Hoạn Thư, sợ liên lụy, bèn đưa nàng sang lánh ở nhà họ Bạc. Hóa ra Bạc Bà tuy thường xuyên lui tới cửa chùa nhưng cũng là phường nhà chứa. Mụ lập
mưu gả bán giả vờ để đưa
nàng vào lầu xanh một lần
nữa.
Đời Kiều tưởng đến hồi
tuyệt vọng thì xuất hiện Từ
Hải, một người phi thường,
“chọc trời khuấy nước”,
nghe danh Thúy Kiều nên
tìm đến. Hai bên trò chuyện
ý hợp tâm đầu, Từ thấy ở
nàng một người tri kỷ, bèn
quyết chuộc nàng ra và cưới
làm vợ. Thúy Kiều có những
tháng ngày hạnh phúc bên
Tranh dân gian Hàng Trống vẽ cảnh “Kiều báo ân báo oán”
Từ Hải, được Từ giúp cho đền ơn trả oán. Thế lực Từ Hải đang mạnh, hùng cứ một
vùng biên thùy, Tổng đốc Hồ Tôn Hiến được triều đình cử đi đánh dẹp, đã không dám dùng binh, Hồ đóng quân, bày chước dụ hàng, tìm cách lung lạc Thúy Kiều. Kiều thật dạ, tin người, nghĩ rằng nếu Từ chấp nhận giải binh đầu hàng thì vẫn được “lộc trọng quyền cao”, riêng với nàng thì “công tư vẹn cả hai bề”, lại được về thăm cha mẹ trong vinh hoa phú quý. Nghe Kiều thuyết phục, Từ Hải lúc đầu còn
34
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
phân vân, sau cũng ưng
thuận, từ đó việc binh
trễ nải. Hồ biết thời cơ,
phục binh giết Từ Hải.
Bị bất ngờ, Từ chết
đứng, cho đến khi Kiều
hối hận đến phục dưới
chân, Từ mới ngã.
Sau đó trong lễ mừng
công, Hồ Tôn Hiến bắt
Kiều đánh đàn hầu
rượu. Y say mê nhan
sắc nàng, nhưng “nghĩ
mình phương diện quốc
gia”, bèn gán nàng cho
viên thổ quan. Đau
đớn, hối hận, nhục nhã,
Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn.
Kiều đánh đàn - tranh của danh họa Trần Văn Cẩn
Giác Duyên được Tam Hợp đạo cô báo trước, thuê người giăng lưới sẵn, vớt được nàng. Kiều cùng Giác Duyên tu ở một am cỏ ven sông.
Đoạn cuối truyện là cảnh đoàn viên, với những diễn biến của nhà họ Vương và chàng Kim từ sau lúc Kiều bán mình chuộc cha, được kể vắn tắt. Chàng Kim trở lại, biết chuyện gia biến của nàng thì đau đớn, vật vã. Nhà họ Vương, theo lời Kiều dặn, cho Thúy Vân lấy chàng thay chị, nhưng rồi chàng vẫn quyết dò tìm tung tích nàng, nhất là sau khi chàng và Vương Quan đã đỗ đạt, vinh hiển. Trên đường đến nhậm chức ở Lâm Tri, hỏi dò dân sở tại mới biết được một đoạn đời Kiều ở lầu xanh tại đấy, lại qua Thúc Sinh mới biết nàng ở với Từ Hải. Rồi có tin Từ Hải đã bị dẹp, cả nhà tới nơi thì biết tin Kiều tự tử chết; đang lập đàn giải oan cho nàng thì sư Giác Duyên đến báo tin nàng còn sống, đang ở am cỏ gần đấy.
35
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Sau 15 năm lưu lạc, Kiều gặp lại cha mẹ và các em. Trong cuộc đoàn viên, cả Thúy Vân lẫn Kim Trọng đều khuyên Kiều nối lại tình xưa; Kiều một mực từ chối nhưng cả nhà thuyết phục hết lẽ, cuối cùng nàng phải nhận lời với điều kiện là lấy nhau nhưng không cùng chung chăn gối. Cuối truyện là những lời người kể chuyện ngợi ca Thúy Kiều “thục nữ chí cao”, phác họa cuộc sống hòa hợp của đôi tình nhân xưa, cuộc sống hòa hợp và vẹn toàn trong phong lưu phú quý, phúc lộc lâu bền của gia đình hai họ Vương và Kim.
Kết thúc tác phẩm, người kể chuyện dành 12 câu thơ diễn giải lại thuyết “thiên mệnh”, thuyết về “nghiệp” và cách ứng xử nên theo. Xung đột trừu tượng giữa “tài” và “mệnh” được giải đáp ở chữ “tâm”. Hai câu cuối cùng tác giả khiêm nhường nói lời thơ ở đây là những “lời quê chắp nhặt dông dài” may ra “mua vui được một vài trống canh” cho người đọc” (Theo Từ điển văn học - từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX - Lại Nguyên Ân chủ biên - NXB Giáo Dục - 1997).
Kể từ ngày Truyện Kiều được phổ biến rộng rãi cho đến nay, thiên hạ vẫn tiếp tục tìm hiểu sức hấp dẫn của nó và nghiên cứu tác phẩm này dưới nhiều góc độ khác nhau. Có lẽ, trên thế giới chỉ có Truyện Kiều là trường hợp duy nhất mà độc giả đã dùng tác phẩm để bói cho số phận của mình. Và bản thân tác phẩm đã được quần chúng sử dụng để trở thành một sinh hoạt văn hóa rất đa dạng. Ta có thể kể đến: bói kiều, tập Kiều, lẩy Kiều, đố Kiều, nhại Kiều, vịnh Kiều... hoặc dùng các thể loại phú, văn tế, văn sách, biểu, từ khúc, ngâm khúc v.v... để viết về Kiều và các nhân vật trong Truyện Kiều. Ngoài ra, Truyện Kiều còn được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh, chèo, cải lương... và cũng là nguồn cảm hứng vô tận cho các họa sĩ vẽ nhân vật, cảnh vật trong tác phẩm này v.v...
Thông thường khi muốn “bói Kiều”, người ta khăn áo chỉnh tề, tay cầm cuốn Truyện Kiều, thành tâm với điều mà mình muốn biết sắp xẩy ra như thế nào, nhìn nén hương đang cháy nghi ngút và khấn: “Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều con tên là... xin cho con biết chuyện X của con sẽ như thế nào, xin ứng vào trang
36
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
(phải hoặc trái), dòng thứ... (tính từ dưới lên hoặc từ trên xuống)”. Khấn xong thì người bói lật trang Kiều để tìm câu ứng nghiệm, tùy theo tâm thế của mình mà suy ngẫm, so sánh, tính già tính non... Tại sao lại dùng Truyện Kiều để bói? Tiến sĩ Đào Nguyên Phổ từ năm 1895 cũng đã đặt câu hỏi như thế và ông lý giải phải chăng văn chương Truyện Kiều là một “khúc tình từ quán tuyệt thiên cổ... cho nên chẳng những làm say lòng người đọc mà còn cảm thông được thần linh nữa?”
“Lẩy Kiều” là dùng câu 6 ghép vào câu 8 - lấy bất kỳ câu nào trong 3.254 câu trong Truyện Kiều miễn là cùng vần để tạo ra một văn bản hàm nghĩa khác; dài ngắn như thế nào là tùy vào nội dung mà người lẩy kiều muốn diễn đạt. Còn “Tập Kiều” người ta cũng ghép như trên, nhưng bên cạnh những chữ nguyên vẹn từ Truyện Kiều còn có những câu, những chữ do người đặt làm ra. Với lối chơi tao nhã như thế này, cả hàng ngàn bài thơ mang nhiều nội dung, chủ đề khác nhau đã ra đời. Điều thú vị là có người đã miêu tả được cả những điều mà sinh thời thi hào Nguyễn Du không ngờ đến. Chẳng hạn như Cái sáo diều: “Cánh hồng bay bổng tuyệt vời/ Đinh ninh hai miệng một lời song song”; hoặc... Xe hơi: “Thênh thang đường cái thanh vân/ Một xe trong cõi hồng trần như bay” v.v...
“Nhại Kiều” là phỏng theo một số câu quen thuộc trong Truyện Kiều để viết ra những câu tương tự, thường là để châm biếm, giễu cợt. Chẳng hạn, với hai câu: “Có tài mà cậy chi tài/ Chữ tài liền với chữ tai một vần”, có người “nhại Kiều” là: Có tiền mà cậy chi tiền/ Có tiền như Mỹ cũng phiền lắm thay”...
Nhưng công phu hơn cả phải kể đến “Kiều tân thời” dài 310 câu của Bạch Diện, in tại Hà Nội năm 1935; “Kiều bình dân học vụ” của Nguyễn Văn Trinh, dài 2.050 lục bát viết từ sau Cách mạng tháng Tám nhằm tuyên truyền cho chủ trương xóa nạn mù chữ...
“Vịnh Kiều” là lấy Truyện Kiều hoặc các nhân vật trong Truyện Kiều làm đề tài để qua đó giãi bày tâm sự hoặc nêu lên quan điểm của mình khi nhận định một vấn đề nào đó. Chẳng hạn bài Vịnh thằng
37
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
bán tơ, cụ Nguyễn Khuyến viết: Thằng bán tơ kia giở giói ra/ Để cho bận đến cụ Viên già/ Muốn êm phải biện ba trăm lạng/ Khéo xếp nên liều một chiếc thoa/ Đón khách lựa màu son phần mụ/ Đem thân chuộc lấy tội tình cha/ Có tiền việc trước mà xong nhỉ/ Thời trước làm quan cũng thế a?” thì đâu phải chỉ vịnh thằng bán tơ mà còn là lời tố cáo tệ nạn tham nhũng của xã hội đương thời.
“Đố Kiều” là người chơi dựa vào cả ý lẫn âm hoặc chỉ âm và ý của câu Kiều để đố. Chẳng hạn: “Cũng liều nhắm mắt đưa chân/ Thử xem con tạo xoay vần ra sao” được giải là “cái kệ” vì đồng âm với “mặc kệ”; hoặc: “Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn/ Khuôn thiên có biết vuông tròn mà hay/ Chẳng duyên chưa dễ vào tay/ Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung” được giải là “cái quạt giấy” v.v...
Cách chơi “câu đối” hoặc “đề vịnh” thì cũng lấy từ các câu thơ trong Truyện Kiều mà sắp xếp thành. Chẳng hạn, có câu đối đề nhà thờ Nguyễn Du:
Khúc đâu lưu thủy hành văn, để tiếng tài tình chung đất nước;
Chốn ấy sơn hồ cổ thụ, nhớ người thanh khí nặng non sông. hoặc đề quán trà của vợ chồng nhà thơ già:
Chung lưng mở một ngôi hàng, khi trà trưa, khi rượu sớm; Vỗ tay nên mười khúc ngâm, này ngọc nhả, này châu phun.
Khảo sát ca dao, dân ca, hát trống quân, hát ví, hát sa mạc, hát giặm... ta cũng thấy nhân vật trong Truyện Kiều được đi vào trong lời ăn tiếng nói của nhân dân. Chẳng hạn, trong hò Nam Bộ: “Đường Sài Gòn trơn như mỡ/ Cát núi Sập lạnh như gương/ Dang tay đưa bạn lên đường/ Gá duyên để gió, khác chi Kim Trọng về để lại khúc đoạn trường cho Kiều nương”.
Trong hò huế ở Bình Trị Thiên: “Sen xa hồ sen khô hồ cạn/ Lựu xa đào lựu ngã đào nghiêng/ Xa em ngày tháng gieo phiền/ Khác nào như Thúy Kiều xa Kim Trọng biết mấy niên cho hết sầu”.
38
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
Trong hò khoan Quảng Nam: “Kể từ ngày xa cách người thương/ Về nhà đài sen nối sáp đọc mấy chương phong tình/ Đọc tới đoạn Thúy Kiều xa cách Kim sinh/ Thôi Oanh Oanh xa Trương Quân Thụy, nghĩ tội tình biết chừng mô!”.
Hoặc trong hát quan họ Bắc Ninh: “Bây giờ tôi mới gặp tình/ Khác gì Kim Trọng thanh minh gặp Kiều/ Tiện đây tôi hỏi một điều/ Đài gương soi đến dấu bèo cho nhau?/ Từ khi ăn một miếng trầu/ Miệng ăn môi đỏ, dạ sầu tương tư...”.
Trong hát đối đáp về nội dung Truyện Kiều cũng là một sinh hoạt rất độc đáo trong dân gian. Chẳng hạn: “ -Truyện Kiều anh thuộc đã thông/ Đố anh kể được một dòng chữ Nho?/ - Hồ công quyết chí thừa cơ/ Lễ tiền binh hậu, khắc cờ lập công/ - Truyện Kiều anh thuộc đã thông/ Đố anh kể được một dòng toàn Nôm? - Này chồng, này mẹ, này cha/ Này là em ruột, này là em dâu/ - Truyện Kiều anh thuộc đã lâu/ Đố anh kể được một câu hết Kiều?/ - Trăm năm trong cõi người ta/ Mua vui cũng được một vài trống canh...”
Ngoài những sinh hoạt văn hóa phổ biến như trên, ta còn thấy có người còn tìm cảm hứng trong Truyện Kiều bằng những cách chơi cầu kỳ hơn như: “Án Kiều” do Nguyễn Văn Thắng (1803-?) soạn bằng văn Nôm, gồm 22 bản án soạn cho 22 nhân vật trong truyện với lời kết tội, khen thưởng; Nguyễn Liêng Phong cũng viết “Kim Vân Kiều tập án”... Còn “Truyện Kiều gọt” là cách chơi khá lạ lùng của cử nhân Hà Mai Khôi, người Thái Bình, chưa rõ năm sinh và năm mất đã tóm lược Truyện Kiều bằng thể thơ 4 chữ, có 142 đoạn thơ (568 câu) theo lối “tập Kiều”. Chẳng hạn: “ Có nhà viên ngoại/ Vốn dòng nho gia/ Một trai con rốt/ Hai ả Tố Nga/ Đủ mùi ca ngâm/ Nổi danh tài sắc/Phú quý ai bì/ Phong lưu rất mực/ Vân xem trang trọng/ Nét ngài nở nang/ Kiều càng sắc sảo/Ngọc thốt đoan trang...”.
Nhà nho Phạm Mạnh Danh (1866 - 1942) lại kỳ công hơn nữa, đã viết hàng trăm bài thơ mà ông gọi là “Kiều tập thơ cổ”: lấy bất kỳ những câu thơ cổ điển của các thi nhân Trung Quốc, ghép lại thành bài thơ tứ tuyệt; rồi dùng thơ Kiều mà dịch nghĩa những câu thơ ấy.
39
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Phạm Quỳnh nhận xét: “Hơn ngàn câu thanh cao diễm lệ trong thơ cổ chữ Hán, đối chiếu với hơn ngàn câu bóng bẩy chải chuốc trong Truyện Kiều của ta, ghép vần ghép điệu, lựa ý lựa lời, Nôm với chữ (Hán), Chữ (Hán) với Nôm, phảng phất xa gần, tựa hồ dịch mà không phải dịch, rất có công phu, thật cũng tài tình, âu cũng là để thỏa cái thị hiếu văn chương, biểu (lộ) cái cốt cách thanh nhã của một khách chơi thơ sành sỏi vậy”. Chẳng hạn, Phạm Mạnh Danh đã ghép:
Ngọc tác phu cơ, băng tác thần, (Tân Liêu Trai)
Hối tương tĩnh chất điếm phong trần. (Bách Mỹ) Đa nhân lợi hại đa phùng kiếp, (Thuyết Đường)
Nhược vị hồng nhan tích thử nhân. (Bách Mỹ)
và dùng thơ Kiều để “dịch”: “Tiếc thay trong giá, trắng ngần/ Đến phong trần cũng phong trần như ai/ Tẻ vui cũng một kiếp người/ Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru?”. Nhà thơ Vũ Hoàng Chương cũng có cách chơi mà ông gọi là “thơ truyền Kiều” mà người chơi gọi là “người truyền” do quan niệm: Truyện Kiều được coi là như một kiến trúc trường giang, đặt trên nền tảng ngôn ngữ chứ không phải văn tự, do đó 3.254 câu lục bát của Nguyễn Du chỉ là một chuỗi liên tiếp 22.778 tiếng (không có vấn đề chấm câu hay viết hoa v.v...). “Người truyền” sẽ lấy ra từng chuỗi nhỏ từ 6 tiếng trở lên, bất cứ ở quãng nào trên chuỗi mẹ (dài tới 22.778 tiếng của Truyện Kiều) để kết hợp lại thành một kiến trúc nhỏ mang tên “thơ truyền Kiều”, mà ý nghĩa có thể khác hẳn, không lệ thuộc vào nội dung của Truyện Kiều. Chẳng hạn, một bài “thơ truyền Kiều” của “người truyền” Vũ Hoàng Chương: “cạn tóc tơ gà đà gáy sáng/ thôi bây giờ kẻ ngược người xuôi/ tài tình chi lắm cho trời đất/ ghen cánh hồng bay bổng tuyệt vời/(Bài truyền số 4)”... Đặc biệt nhà nghiên cứu Phạm Đan Quế lại bày tỏ tấm lòng yêu lời thơ trác tuyệt của Nguyễn Du đã bỏ công sức để làm “Truyện Kiều đọc ngược” cũng dài 3.254 câu thơ như nguyên bản. Chẳng hạn, đây là đoạn “tái hồi Kim Trọng”, ông đã sắp xếp: “Lời quê chắp nhặt dông dài (câu 3253)/ Mua vui cũng được một vài trống canh (câu 3254)/ Nàng rằng: Phận thiếp đã đành (câu 3145)/Có làm chi nữa cái mình bỏ đi (câu 3146)/ Chở che đùm bọc thiếu gì (câu 3185)/ Trăm năm danh tiết cũng vì
40
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
đêm nay (câu 3186)/ Tẻ vui cũng tại lòng này (câu 3209)/ Hay là khổ tận đến ngày cam lai? (câu 3210)...”.
Không những thế, ngay từ khi tác phẩm mới được khắc in có nhiều người mê đến nỗi dịch toàn bộ nội dung Truyện Kiều... ra chữ Hán! Hoặc có người viết “hậu Truyện Kiều” như Đào Hoa Mộng ký diễn ca của Hà Đạm Hiên, trong đó có nhân vật Lan Nương - Nguyễn Sinh là hậu thân của Thúy Kiều - Kim Trọng v.v...; Hoặc Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh sẵn sàng đúc nhà vàng cho nàng Kiều! Về sau, học giả Đào Duy Anh đã soạn Từ điển Truyện Kiều; nhà nghiên cứu Phạm Đan Quế viết Tìm hiểu điển tích Truyện Kiều; nhà giáo Nguyễn Văn Y sưu tập khá đầy đủ Thơ Vịnh Kiều; nhà nghiên cứu Thái Kim Đỉnh sưu tập Thơ văn quanh Truyện Kiều; nhà giáo Lê Thu Yến cũng sưu tập Nguyễn Du và Truyện Kiều trong nguồn cảm hứng của người đời sau (từ năm 1930 đến nay); nhà thơ Phạm Thiên Thư viết Đoạn trường vô thanh (dài 3.296 câu thơ lục bát), nhà thơ Trần Thanh Vân viết “Đoạn trường nhất thanh” (dài 1.028 câu thơ lục bát)... cũng là một cách “nối tiếp” Truyện Kiều;
Bên trong
đền thờ
Nguyễn Du
(Hà Tĩnh)
lập năm
1940
41
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Phần mộ Nguyễn Du trước khi trùng tu (1991)
nhà nghiên cứu Vũ Văn Kính viết Tìm nguyên tác Truyện Kiều; các danh họa Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân... cũng từng vẽ nhân vật trong Truyện Kiều v.v... Gần đây, nhà thơ Nguyệt Đình viết thư pháp 3.254 câu thơ Kiều, tập sách này nặng đến... 75 kg! Nhạc sĩ Nguyễn Văn Nam viết bản giao hưởng số 7 Chuyện nàng Kiều, nhạc sĩ Vũ Đình Ân viết hợp xướng bốn bè Truyện Kiều v.v...
Ảnh hưởng của Truyện Kiều không chỉ đối với người đọc đương thời mà càng về sau càng tỏa sáng và sức thu hút rất mãnh liệt khó có thể kể xiết. Có thể nói, mỗi từ, mỗi câu trong Truyện Kiều đều là nguồn cảm hứng vô tận cho người thưởng thức, lẫn người nghiên cứu. Do đó, khó ai có thể “vỗ ngực xưng tên” rằng mình là người am hiểu Truyện Kiều nhất. Ma lực Truyện Kiều chính là chỗ đó. Chắc chắn sau này sẽ có thêm nhiều công trình nghiên cứu khác, hoặc những cảm hứng sáng tạo khác, mà người ta còn tìm thấy ở Truyện Kiều.
Sau khi Nguyễn Du mất, vua Minh Mạng thương tiếc ban 20 lạng bạc, 2 cây gấm Tàu, 30 cân sáp ong và 300 quan tiền lo việc tang lễ. Thi hài của Nguyễn Du được chôn ở cánh đồng Bàn Đá, xã An Ninh, huyện Quảng Điền (Thừa Thiên); bốn năm sau, hài cốt được đưa về
42
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
chôn cất tại cánh đồng Cùng, nơi giáp ranh giữa hai xã Xuân Mỹ và Tiên Điền, huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh) ngày nay.
Cuối thu năm 2002, với lòng ngưỡng mộ, chúng tôi đã tìm về khu lưu niệm Nguyễn Du. Tại đây, tượng của Nguyễn Du ngồi đĩnh đạc, mắt ngước lên trời xanh như đang tìm thi tứ giữa cõi càn khôn, trên tay cầm ngọn bút lông... Tượng này chỉ mới được dựng năm 2001 và cả khu nhà lưu niệm phía sau tượng vẫn chưa trưng bày gì nhiều, dù đã có kế hoạch hoàn chỉnh. Theo con đường lát gạch Bát Tràng, chúng tôi đến nhà thờ Nguyễn Du. Đây là gian nhà do Tiến sĩ Nguyễn Mai và Hội Khai trí Tiến Đức xây dựng năm 1940. Phía ngoài nhà thờ có ghi dòng chữ Hán “Địa linh nhân kiệt”, hai bên câu đối:
Nhất đại tài hoa, vi sứ vi khanh sinh bất thiểm; Bách niên sự nghiệp, tại gia tại quốc tử do vinh.
Có người tạm dịch:
Một đời tài hoa, lúc đi sứ,
lúc làm quan, sống không
hổ thẹn;
Trăm năm sự nghiệp, khi
việc nước, khi việc nhà,
chết vẫn vinh quang.
Nguyễn Quảng Tuân dịch:
Lúc sinh tiền, một kiếp tài
hoa, đi sứ làm quan đều
chẳng thẹn;
Khi tử hậu, trăm năm sự
nghiệp, với nước với nhà
mãi còn vinh.
Không rõ có phải đây là câu
đối viếng của vua Minh Mạng
hay không, nhưng chắc chắn đã có từ lúc Nguyễn Du mất. Ngoài
Bia tưởng niệm Nguyễn Du do Hội Khai Trí Tiến Đức lập (1943)
43
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
ra còn có câu đối của Tiến
sĩ Nguyễn Mai (có người
tạm dịch):
Trời thái bình non
sông bốn mặt;
Đất văn hiến lễ nhạc
trăm năm.
Đi tiếp một đoạn
đường ngắn chúng tôi
đến Đàn tế và bia đá do
bố và chú bác của Nguyễn
Du lập năm 1762, để thờ
phượng và nhớ ơn cha
mẹ. Phía sau bia đá có
chữ “Phúc”. Nơi đây còn
có cây muỗm và cây bồ
lỗ do ông nội Nguyễn Du
trồng cách đây đã hơn
300 năm, rợp bóng mát.
Đàn tế và bia đá do bố và chú Nguyễn Du lập năm 1762 đề thờ và nhớ ơn cha mẹ
Chúng tôi còn đến thăm nhà Từ văn - nơi bình thơ của các bậc phong lưu tài
tử ngày trước, phía sau là nơi thờ Đức Khổng Tử. Trước sân nhà có một cái khánh làm bằng đá quý, cầm dùi gỗ gõ vào ta nghe phát ra tiếng kêu “boong boong” thanh thoát.
Trong khu di tích rộng trên 2 ha còn có một ngôi đình rất cổ với lối kiến trúc độc đáo. Đây là đình Chợ Trổ từ huyện Đức Thọ được chuyển về đây - vì lúc thi hào sinh ra thì trên xứ Nghệ đã có ngôi đình này. Sự “chuyển hoán” rất hợp lý, gợi cho du khách tưởng như đâu đây vẫn còn bóng dáng của Nguyễn Du. Toàn bộ ngôi đình dược làm bằng gỗ mít, nay đã bóng láng đến diệu kỳ. Bước vào bên trong, chúng tôi thấy có khá nhiều tập Truyện Kiều, sách nghiên cứu về tác phẩm và cuộc đời Nguyễn Du.
44
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
Nếu trước đây thời chống Mỹ cứu nước, nhà thơ Vương Trọng đến viếng mộ Nguyễn Du: “Tưởng rằng phận bạc Đạm Tiên/ Ngờ đâu cụ Nguyễn Tiên Điền nằm đây/ Ngửng trời cao, ngó đất dày/ Cắn môi, tay nắm bàn tay của mình/ Một vùng cồn bãi trống chênh/ Cụ cùng thập loại chúng sinh nằm kề...” thì nay đã khác hẳn. Khu mộ Nguyễn Du được xây dựng rất khang trang, phía trước là nhà bia, sau là mộ ốp đá hoa cương rất đẹp. Từ Nghi Xuân với khu di tích của thi hào Nguyễn Du chúng ta hướng về huyện Nam Đàn - nơi có khu di tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà lòng bồi hồi xúc động. Chỉ riêng xứ Nghệ đã thay mặt dân tộc để gìn giữ hai khu di tích của hai vĩ nhân đã được đã được UNESCO công nhận, quả là một vinh dự to lớn.
Hiện nay, vấn đề “Đi tìm nguyên tác Truyện Kiều” vẫn là mối quan tâm của các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam. Đây cũng tên chủ đề cuộc hội thảo khoa học do Trung tâm Quốc học Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức tại Hà Nội vào ngày 5/3/2003. Chúng tôi đồng ý với ý kiến của Giáo sư Nguyễn Hồng Quang phát biểu: “Với những bản Kiều chữ Nôm, các nhà nghiên cứu cần phải làm việc nghiêm túc, chính xác, nhất là trong việc phiên âm chữ Nôm, kết hợp với những ngành khoa học khác, để làm chính xác vấn đề lịch sử văn bản Truyện Kiều, từ đó có thể phục nguyên một bản Kiều gần với nguyên tác nhất; đối với Truyện Kiều đã phổ biến rộng rãi, được công chúng tiếp nhận hiện nay, các nhà nghiên cứu, nếu thấy cần thiết thì sửa chữa một cách khoa học, hợp lý, nhất là phải phù hợp với thị hiếu, tâm lý chấp nhận của người tiếp nhận hiện nay. Như vậy, từ nay trở đi (thực ra đã có), Truyện Kiều của Nguyễn Du sẽ tồn tại dưới hai dạng: các bản phổ thông, dễ tiếp nhận và những bản Kiều phục Nôm. Đây được xem là một hướng đi hợp lý, khoa học đối với việc nghiên cứu Truyện Kiều” (Xem Thể thao & văn hóa số ra ngày 7/3/2003).
45
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Phạm Đình Hổ
Người để lại cho đời sau
nhiều công trình văn hóa
“Phường Diên Hưng (Hàng
Ngang) và phường Đồng Lạc
(Hàng Đào) là nơi phố hàng áo,
bán các thứ tơ lụa vóc nhiễu rất
nhiều. Phiên chợ là những ngày:
mồng một, mồng sáu, mười một,
mười bốn, rằm, hai mươi mốt,
hai mươi sáu, ba mươi. Phiên chợ
phường Bạch Mã (Hàng Buồm)
cũng là chỗ buôn bán rất huyên
náo. Những quân trộm cắp hay
thừa cơ cướp giật, có khi thò tay
vào túi người ta móc lấy hết cả.
Có khi chúng cố ý làm cho ồn
ào, đổ xô nhau mà chạy để rồi
cắp bọc áo người ta, hoặc khuân
đồ vật hàng hóa. Có khi chúng
huyên truyền là voi lồng ngựa xổ
Nhà Văn hóa Phạm Đình Hổ (1768-1839)
để các người chợ búa và người đi chợ xô nhau chạy; hàng hóa đồ
vật bừa bãi; lúc biết chúng huyên truyền láo thì quân kẻ cắp đã phỗng
46
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
hết cả rồi. Một hôm, ở phường Đông Các (Hàng Bạc) có một bà lớn đi võng mành mành cánh sáo, đày tớ lính hầu rầm rịch, đến trước cửa một nhà hàng bạc, truyền thị tì dừng võng lại để hỏi mua mấy chục nén bạc. Mà giá cả chưa xong, bà lớn trong võng truyền vú già hãy cầm chục nén bạc đem về dinh, trình quan lớn xem qua, sẽ định giá. Chủ nhà hàng không ngờ gì. Một lát, thị tì và lính hầu lẻn dần đi hết, hai tên lính khiêng võng cũng cút mất. Trời đã gần tối, chờ mãi chẳng thấy người vú già cầm bạc trở lại. Nhà chủ mới đến trước võng hỏi bà lớn để đòi bạc, mở mành mành ra xem thì té ra là một mụ lão ăn mày, mù cả hai mắt, mặc áo nhiễu điều, ngồi chễm chệ trong võng, bấy giờ mới hoảng lên không biết nói ra sao. Nhà chủ chỉ bắt được có cái võng, lại là cái võng cũ mà nát, hô giá không đáng mười quan tiền, cho đi tìm khắp mọi nơi không còn thấy tăm hơi đâu cả. Ấy, cái lối ăn cắp lừa dối như thế rất nhiều, không kể hết được. Cái tài giỏi của kẻ gian cũng lắm lối rất buồn cười, xem thế đủ hiểu cái thịnh suy của đời thăng bình vậy”. Đoạn văn ngắn miêu tả lại sự việc lừa gạt của thời buổi mà ta đang sống chăng? Không, đó là sự việc đã diễn ra cách đây hơn hai trăm năm. Thời đó, có một nhà nhà nho chỉ thi đậu tới tú tài, nhưng ông học rộng tài cao, để tâm ghi chép lại những điều mắt thấy tai nghe từ chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh, cách uống chè, ăn mặc... đến quan tang lễ bái v.v... Tập sách này ông đặt tên là Vũ trung tùy bút - nghĩa là tùy theo ngọn bút viết trong khi mưa (1) rất có giá trị cho đời sau, khi chúng ta muốn tìm hiểu đời sống xã hội của thế kỷ XVIII. Nhưng sự nghiệp văn học của ông không chỉ có thế mà bao gồm nhiều thể loại rất phong phú, có giá trị lâu bền. Ta hãy nghe ông tự thuật về cuộc đời của mình: “Ta sinh năm Mậu Tý (1768) niên hiệu Cảnh Hưng. Lúc bấy giờ đấng tiên đại phu ta làm
(1) Tùy bút: Là một thể loại ký. Lối viết tương đối phóng khoáng; nhà văn tùy theo ngọn bút đưa đi, có thể từ việc này sang việc kia, từ liên tưởng này sang liên tưởng kia, để bộc lộ những cảm xúc, những tâm tình, phát biểu những nhận xét về người và cảnh. Cái bản ngã của nhà văn được thể hiện gần như trong thơ trữ tình, Tùy bút là thể giàu chất trữ tình nhất trong các loại ký. Những sự việc, những con người nhắc đến trong tùy bút tuy không kết thành một hệ thống chặt chẽ, nhưng phải nằm trong trật tự hợp lý của dóng cảm xúc, dòng suy nghĩ của tác giả. Giá trị của tùy là ở những suy nghĩ sâu sắc, thâm trầm rút ra từ những sự việc tưởng như riêng tư, bình thường. Sức lôi cuốn của nó còn ở ngôn ngữ trau chuốt, giàu hình ảnh bất ngờ và lý thú, tạo ra một nét thơ riêng (Từ điển văn học,tập 2, NXB Khoa học Xã hội 1984, trang 479).
47
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Hiến sát tỉnh Nam Định mới về. Bà tiên cung nhân ta mới hoài thai ta mà vẫn ăn uống đi lại như thường, đến bảy tám tháng chưa biết là có thai. Năm ta lên sáu tuổi, đấng tiên đại phu ta mới thăng làm Tuần phủ Sơn Tây, bổng lộc đã dư, nhưng những cách chơi cây, đá, hoa, chim, ta không để bụng ham mê. Bà mẫu họ Hoàng thường bảo ta: “ - Về sau có chí muốn gì không?” Ta nói: “Làm người con trai phải lập thân hành đạo, đó là phận sự của mình rồi, không phải nói nữa. Sau này, trưởng thành mà lấy được văn thơ nổi tiếng ở đời để cho người ta biết con cháu nhà nọ nhà kia, chí tôi chỉ muốn như thế mà thôi”. Nhờ bền bỉ với cái chí đó ngay từ thuở nhỏ cho đến lúc xuôi tay nhắm mắt, mà hiện nay, trong văn học sử nước nhà còn ghi lại tên tuổi: Phạm Đình Hổ. Chữ Hổ này có bộ “ngọc” một bên - nghĩa là Hổ trong Hổ phách. Ông sinh năm 1768, có hiệu Đông Dã Tiều, Đan Sơn, tự Tùng Niên và Bỉnh Trực, quê quán của ông ở làng Đan Loan, tổng Minh Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng trấn Hải Dương (nay thuộc Hải Dương).
Phạm Đình Hổ là con trai của nhà khoa bảng Phạm Đạt, là quan triều Lê đến chức Hoằng Tín đại phu Thái bộc tự khanh; mẹ là Phạm Thị Xuyến, con gái của Bảng nhãn Phạm Quang Trạch. Sinh trưởng trong một gia đình quý tộc, thời thơ ấu Phạm Đình Hổ chủ yếu sống ở kinh thành Thăng Long. Nhưng liên tiếp trong khoảng thời gian từ 11 đến 20 tuổi, ông phải chịu bốn cái tang: cha, hai anh và mẹ. Từ đó, gia đình dần dần rơi vào cảnh nghèo túng, thiếu thốn và nghiệp học của ông cũng không mấy thuận lợi - như ông cho biết “Ta khi mới lên chín tuổi, đã đọc sách Hán thư, được bốn năm thì đấng tiên đại phu ta mất. Trong mấy năm cư tang, gối đất đệm rơm, học hành buổi đực buổi cái, đến khi mãn tang rồi mới thôi không học sử nữa mà đến kinh”. Trong Đại Nam liệt truyện có cho biết ông “thi nhiều lần không đậu”, chỉ đậu tới Tú tài. Giữa lúc này, quân Tây Sơn đem quân ra Bắc với ngọn cờ phò Lê diệt Trịnh. Vua Lê Chiêu Thống xin nhường mấy quận để khao quân, nhưng Nguyễn Nhạc bảo: “Vì họ Trịnh chuyên quyền hiếp chế nên chúng tôi ra giúp nhà vua; nếu là đất của họ Trịnh thì một tấc cũng không để lại, nhưng của nhà Lê thì
48
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
một tấc cũng không dám lấy. Xin mong nhà vua gắng sức làm việc, giữ yên cõi đất, đời đời giao hiếu với nhau, ấy là cái phúc của hai nước đấy”. Sau đó, quân Tây Sơn rút về Nam. Ở ngoài Bắc, Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền. Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra Bắc bắt Chỉnh đem giết. Lê Chiêu Thống hèn nhát, nhu nhược chạy sang Tàu cầu cứu quân Thanh. Cơ nghiệp nhà Lê kéo dài 360 năm (1428-1788) đến nay sụp đổ! Sống trong thời gian chứng kiến nhiều biến động như thế, từ một gia đình bổng lộc dư thường trở nên nghèo khó, Phạm Đình Hổ không dự khoa thi nào dưới triều Tây Sơn. Ông đi dạy học, có lúc viết thuê hiếu hỉ các câu đối, trướng, hoành phi... còn vợ làm thợ nhuộm để kiếm sống qua ngày. Nhưng điều khiến chúng ta phải khâm phục là ông đã dành nhiều thời gian vàng ngọc để tự học và không sa vào những thú vui tầm thường,
không vì ngao ngán thế sự
mà lơ là kinh sử.
Ông có tự thuật ngay từ
thuở nhỏ đã “bịt tai lại không
muốn nghe” trước những trò
thanh sắc, cờ bạc, hoặc ai đó
rủ rê chơi đùa và lúc lớn lên
“Các sách kim cổ, thơ cổ, ta
thường xem lắm, không lúc
nào rời tay”. Có thể, Phạm
Đình Hổ từng bắt chước theo
lối học của cha mình ngày
trước mà trong thế phả có
ghi lại: “Các bài vở giáo án
cả văn lẫn võ cha tôi miệt mài
biên soạn từ đêm đến sáng.
Ngài thường nói: chập tối mà
ăn cơm vào không thể thanh
tâm được, cho nên bữa tối ngài thường để đến sau gà gáy giữa đêm, khi đã đọc xong sách mới ăn. Khi đọc sách ngày thường ngồi xổm
49
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
tựa mình, rồi buộc tóc lên xà nhà để phòng ngủ gật. Đó đều là những cái mà người thường không thể kham được”. Nhờ miệt mài học tập vậy mà ông trở thành người hay chữ của đất Bắc - cho dù “Hổ tôi từ năm 1816 trong nhà có chuyện buồn, quá đau đớn vất vả ốm yếu, rồi bị cảm chuyển sang lî, nhiều lần nguy cấp. Mùa xuân 1817, mới hơi đỡ, nhưng mắt mờ răng rụng, tay chân lẩy bẩy”. Thế nhưng, cả cuộc đời lao lực trên trang viết, ông đã để lại nhiều tác phẩm mà ta có thể phân ra như: Thơ văn có Vũ Trung tùy bút, Tang thương ngẫu lục (viết chung với Nguyễn Án) và các tập thơ như Đông Dã học thi ngôn tập, Tùng cúc liên mai tứ hữu...; về sách điển lệ có Lê triều hội điển (6 tập), Bang giao điển lệ - gồm các phép tắc ngoại giao giữa các nước; về lịch sử, địa lý có An Nam chí, Ô châu lục, Ai Lao sứ trình, Kiền khôn nhất lãm...; về các thể loại khác ông có Phạm gia thế phả ghi chép lại gia phả của dòng họ mình, Nhất dụng thường đàm - sưu tầm chữ Hán thông dụng trong sinh hoạt hằng ngày, dịch ra tiếng Việt và sắp xếp thành từng mục như một cuốn từ vựng v.v... Do đó, không phải ngẫu nhiên chỉ một chân sinh đồ (tú tài) mà ông vẫn được vua Minh Mạng vời ra giữ chức hành tẩu Viện hàn lâm! Theo thông lệ thời trước phải đậu cử nhân trở lên thì mới có thể ra làm quan, nhưng trường hợp của Phạm Đình Hổ là ngoại lệ. Bấy giờ, năm 1820, vua Minh Mạng ra Bắc sai Tổng trấn Bắc Thành triệu tập sáu tài năng lừng danh của đất Bắc là Phạm Đình Hổ, Phan Huy Chú, Ngô Thời Du, Đoàn Hồng Nguyên, Đỗ Huy Ngạc... vào kinh chầu hầu. Khi được gặp gỡ, vua Minh Mạng có nói: “Trẫm nghe nói học vấn văn chương ở Bắc Thành có Phạm Quý Thích thứ đến Phạm Đình Hổ” như vậy đủ biết, tiếng tăm của ông đã lừng lẫy. Điều đáng học tập ở ông vua này là biết trọng dụng nhân tài, biết thu thập các công trình nghiên cứu, sách vở còn tản mát trong dân gian sau những năm tháng chiến tranh liên miên, ngài nói với Phạm Đình Hổ: “Muốn biết cách thức trị vì tất phải tham chước sách vở điển tích. Khanh có sách vở gì hoặc thường ngày có trước thuật gì, chuẩn bị cho được dâng trình. Hoặc những người thân cận của khanh có cất giữ hay có trước thuật cũng lệnh cho gửi lên tiến trình. Nếu người ta muốn dâng tiến, khanh nên hỏi mượn người ta, ủy
50
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
cho hữu tì sao chép rối hoàn lại
nguyên bản. Hoặc giả người ta
muốn bán, ta cũng chuẩn cho trả
tiền”. Nhờ chính sách đúng đắn
này mà Lịch triều hiến chương loại
chí (Phan Huy Chú), Gia Định
thành thông chí (Trịnh Hoài Đức)
v.v... và các công trình nghiên
cứu của Phạm Đình Hổ đã lưu
đến ngày nay.
Với Vũ trung tùy bút, Phạm
Đình Hổ đã đánh dấu mốc quan
trọng của thể loại này trong văn
học Việt Nam của khoảng nửa
cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ
XIX. Qua tác phẩm này, xã hội
thời Lê - Trịnh đã hiện lên với
nhiều chuyện, tưởng rằng vặt
vãnh, nhưng nó góp một tiếng nói quan trọng của nhân chứng
Tác phẩm của Phạm Đình Hổ
mà chính sử không nhắc đến. Đó là những chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh, phong tục, trộm cắp, phép thi, tế lễ, cuộc bình văn, cách uống chè... Thử đọc lại một đoạn ngắn liên quan đến sĩ tử ngày trước hẳn khá lạ lẫm đối với ta - vốn là kẻ sinh sau đẻ muộn: “Lệ cũ ai đỗ khoa Đông các, khi vinh quy dân bản tổng phải đến phục dịch; làm nhà tư thất bằng gỗ lim, lợp ngói, độ ba gian, tất cả dân phu trong bản tổng, bản huyện phải đến ứng dịch. Khi Phạm Khiêm Ích đỗ khoa Đông các về vinh quy, ông thương hại người hàng tổng bần cùng, nên miễn cho không bắt chịu cái phí tổn làm nhà nữa. Ai cũng lấy làm cảm ơn, sau tôn ông làm hậu thần, thường năm xuân thu cúng tế, mổ trâu vào đám, báo cái ơn đức ấy. Sau khi nhà Lê mất, hậu thần các làng thường bỏ không cúng tế nữa, duy có giỗ hậu Phạm công thì làng vẫn làm lợn thay trâu bò cúng tế, không dám bỏ. Xem thế mới biết cái ơn di
51
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
ái ở người ta vẫn nhớ mãi không quên.
“Triều Lê đãi học trò rất hậu, nào là trâm, hốt, hoa bào, du nhai, tử yến, lại phong cho cha mẹ, ấm cho con cháu, vinh quy áo gấm về làng, rất vinh dự. Hậu đãi như thế là đủ rồi. Còn đến như làm nhà tư thất, phục dịch việc gì cũng đổ vào đầu dân cả, thì dân hàng tổng chịu làm sao được. Vả lại, người học trò mới đỗ đại khoa, mà cả hàng tổng đến phục dịch, làm nhà cửa cho mình, lại phải mở yến tiệc khao mừng, đãi dân hàng tổng để đền công lao, thế tất phải xoay sở đi vay mượn cho xong việc. Thậm chí có kẻ chỉ dòm lấy con gái nhà giàu mà bỏ vợ tào khang; hoặc chịu tiếng luồn lỏi đi vay lãi mà ký liều vào văn khế. Thói quen ấy tích tệ từ lâu, nên đã có tiếng “ông nghè đeo nợ, bà nghè mua chồng”! Thế mà mong người ta ra làm quan giữ liêm khiết, không trái phép làm càn, thì làm sao được?”. Và đây là một trong chuyện nhố nhăng của thời chúa Trịnh: “Buổi ấy, bao nhiêu loài trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ binh mới khiêng nổi. Lại bốn người đi kèm, đều cầm gươm, đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay... Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm. Họ xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào. Đêm đến, các cậu trèo tường thành lẻn ra, sai tay chân đem lính đến lấy phăng đi để dọa dẫm lấy tiền. Hòn đá hoặc cây cối gì to quá thì thậm chí phải phá nhà hủy tường để khiêng ra”. Thật ghê gớm! Ngay cả nhà của Phạm Đình Hổ ở Hà Khẩu (khu Hàng Buồm ngày nay) trước nhà có trồng cây lê cao mười trượng, hoa trắng xáo thơm lừng; rồi có thêm hai cây lựu nhưng cuối cùng sợ quá, cũng phải chặt đi! Chỉ những dòng chữ ngắn nhưng đã giúp cho ta hình dung ra xã hội thời ấy, lòng dân lúc ấy và khi đọc chính sử, ta cũng dễ hiểu hơn vì sao quân Tây Sơn tiến ra Bắc lật đổ nhà Trịnh trong chớp mắt, dễ dàng như lấy vật mọn trong túi áo. Những trang văn trong Vũ trung tùy bút hấp dẫn người đọc vì tác giả viết ngẫu hứng, tùy theo ngọn
52
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
bút, không có sắp xếp hệ thống nhưng linh hoạt và lôi cuốn người đọc khó dứt ra khỏi trang sách. Nhà nghiên cứu văn học Trương Chính đã nhận định chính xác về tác phẩm này: “So với loại truyện, ký cùng một thời, có giá trị riêng của nó. Về mặt tài liệu, nó không được đầy đủ bằng cuốn Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn, về mặt lịch sử, không hoàn chỉnh và có hệ thống như cuốn Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Thì Chí. Nhưng nó bổ sung cho hai cuốn kia... Ông còn có một phong cách riêng, ít tìm thấy ở người khác. Giọng văn ông thân mật; ông hay nói về những suy tư của mình, và nhiều lúc, nói về những biến thiên trong đời mình, người thân thuộc hoặc bạn bè của mình. Người khác thường tránh điều này, còn ông thì viết ra một cách tự nhiên, không khoe khoang mà cũng không khiêm tốn một cách giả tạo. Ngày nay ta đọc thấy thú vị” (1). Trong cuộc đời mình, Phạm Đình Hổ rất thân với Nguyễn Án. Tình bạn đáng quý này đã để lại cho đời sau tác phẩm Tang thương ngẫu lục (tình cờ chép về những cuộc bể dâu) với gần 90 truyện dài ngắn khác nhau. Họ thân nhau vì cả hai cùng cảnh ngộ, nghèo khó như nhau, cùng con nhà quan rồi gặp thời thế đến độ “tan tác như hoa giữa đường”. Nguyễn Án sinh năm 1770, mất năm 1815 người làng Du lâm, huyện Đông Ngạn (nay huyện Từ Sơn - Bắc Ninh), con trai của tiến sĩ Nguyễn Công Thương. Nguyễn Án từng nhận xét về bạn mình: “Kiều Niên (Phạm Đình Hổ) tính thích ngâm vịnh. Lúc nhỏ hơi biết âm luật, thạo viết câu đối cũng muốn tỏ ra là có tài thơ ở đời. Đến khi hơi lớn, chịu nhiều lo lắng, mấy lần suýt chết... Rồi sau sự phẫn uất, mệt mỏi dần dần phát ra, gột rửa tình chí, bộc lộ trong thơ, rành rành không thể ngăn được”. Cũng như Phạm Đình Hổ, gặp thời thế thay đổi, việc học hành dở dang, Nguyễn Án kiếm sống bằng nghề dạy học, năm 1807 thi đậu khoa thi Hương đầu tiên dưới triều Nguyễn, được bổ làm quan huyện Tiên Minh (nay Tiên Lãng - Hải Phòng). Ngoài tác phẩm viết chung với bạn, Nguyễn Án có để lại tập thơ Phong lâm minh lãi thi tập. Hầu hết những truyện trong Tang thương ngẫu lục là truyện ký, ghi lại chuyện mắt thấy tai nghe và cũng là tài liệu quý trong việc tìm hiểu lịch sử, địa lý, phong tục xã hội thời Lê
(1) Tuyển tập Trương Chính - NXB Văn Học - 1997 - Tập 2, trang 71
53
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
mạt - Nguyễn sơ. Có điều thú vị, chính Nguyễn Án là người mà Phạm Đình Hổ tin cậy nhờ viết tựa cho tập thơ Đông Dã học ngôn thi tập, trong đó có đoạn viết: “Tôi cũng là người khốn cùng mà thơ không hay. Nay được tập thơ của Kiều Niên mới biết người khốn cùng trong thiên hạ mà làm thơ tất phải hay. Nếu như trời bắt khốn cùng suốt đời, buộc phải gắng sức ở thơ để theo kịp các bậc danh gia của nước Việt ta, làm tiếp thêm những cái chưa ai được thấy, thì như vậy, tập thơ của Kiều Niên tất sẽ được truyền tụng, mà bài tựa của tôi nhờ đó cũng được lưu truyền chẳng may lắm sao”. Viết tựa cho bạn mà viết được như thế, nhờ thơ bạn mà tên tôi do viết tựa được đời sau biết đến, thì rõ ràng họ chí thân biết chừng nào. Điều Nguyễn Án đánh giá về thơ bạn quả không sai. Lâu nay, hầu như chúng ta chưa biết nhiều về tập thơ này. Nhờ công trình của hai nhà nghiên cứu Trần Kim Anh (giới thiệu và dịch), Nguyễn Văn Lãng (hiệu đính) thì ta mới có dịp được đọc những bài thơ tuyệt hay của Phạm Đình Hổ. Chỉ xin trích bài “Cô gái làm duyên” để thấy hơi thơ của ông trẻ trung và tươi mát biết chừng nào: “Con ai còn bé tẹo/ Đã làm dáng trước gương /Mày thưa đòi kẻ rậm/ Tóc ngắn cũng tỏa hương/ Trước gió lả lướt đứng/ Uốn éo như đau sườn/ Chẳng biết nơi gấu váy/ Đầy cỏ mây bên đường (Kim Anh dịch). Nếu không được biết trước thì có lẽ, ta tưởng như bài thi được viết trong thế kỷ này. Cách đây trên 300 năm mà có bài thơ với cái tứ độc đáo, tươi trẻ như vậy há chẳng phải là một thi sĩ đích thực sao!
Không rõ trong thời gian ra làm quan với triều Nguyễn có gì đáng nhớ không, nhưng không thấy Phạm Đình Hổ ghi chép lại gì nhiều. Chỉ biết, sau một thời gian không dài, ông đã xin nghỉ hưu, cho dù vua Minh Mạng từng khen ngợi ông “Văn chương vượt trội, tính tình ngay thẳng, không xu phụ quyền trọng, thật đáng khen ngợi” và thăng ông lên đến chức Tế tửu Quốc tử giám. Thật lạ, một người chỉ mới từ chân tú tài mà được nhà vua tin cậy giao giữ chức tương đương như hiệu trưởng một trường đại học ngày nay thì cũng là việc “xưa nay hiếm”. Phạm Đình Hổ mất năm 1839, thọ 71 xuân.
54
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
Phan Văn Trị
Lòng ta sắt đá há lung lay
Với những người làm thơ,
để tạo nên mỹ cảm cho độc
giả, họ tránh dùng những từ
thô tục, thô thiển; hoặc có
những đề tài không “thanh”,
nhưng họ phải tìm cách nói
khác để người đọc tự nghĩ
đến. Nhưng trong cuộc đời,
nhà thơ cũng có lúc “hỉ nộ ái
ố” như mọi công dân khác.
Những lúc ấy, nếu cần thiết
họ cũng bày tỏ thái độ. Ngày
nọ, một trí thức Nam bộ nổi
tiếng hay chữ nhưng ương
ngạch, không khuất phục
trước cường quyền qua chơi
đất Cái Bè, nghe tiếng ông, có quan lớn cho lính gọi vào
Tượng nhà thơ Phan Văn Trị (1830-1910)
dinh nhằm tìm cớ “dằn mặt” trừng trị cho bõ ghét.
Quan lớn ấy là Trần Bá Lộc (1839 - 1899), quê ở Cù Lao Giêng, làng Tân Đức, tổng An Bình, tỉnh Long Xuyên (nay là tỉnh An Giang). Ngay khi giặc Pháp chiếm Gia Định, y theo giặc làm Cai tại Mỹ Tho
55
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
(1861), rồi được thăng Đội nhì (1862), Đội nhất (1864). Đến 19/7/1865 y được làm Tri huyện Kiến Phong (Cái Bè). Do “công lao” đàn áp các lực lượng nghĩa quân ở Tháp Mười, Vĩnh Long, Sa Đéc, Trà Vinh y được quan thầy Pháp thăng Tri phủ (1867), rồi Đốc phủ sứ (1868). Đến 1883, Lộc dẫn quân ra đánh phá các nhóm nghĩa quân ở Bình Thuận, Khánh Hòa - được phong chức Tổng đốc Bình Thuận - Khánh Hòa. Chính y đã bắt anh hùng Thủ Khoa Huân trong Nam, Mai Xuân Thưởng ở ngoài Trung và được lãnh nhiều bội tinh của Pháp, triều đình Huế... Y cất tư dinh lớn tại Cái Bè. Con trai y là Trần Bá Thọ cũng là Đốc phủ sứ Cái Bè, cha con đều là tay sai đắc lực của Pháp, sát hại nhiều sĩ phu yêu nước, đàn áp dã man phong trào chống Pháp ở miền Nam, khét tiếng là “Cọp Cái Bè”.
Dù biết, đang đối mặt với một kẻ cúi đầu làm tay sai cho giặc và dữ tợn như cọp, nhưng bậc trí thức ấy vẫn không nao núng. Lúc ông vừa bước vào sân thì, Lộc thô lỗ buông lời xáo xược:
- Cục cứt!
Ông nhếch mép đọc luôn:
Đương cơn lộn xộn ló đầu ra,
Người thấy, ai mà chẳng sợ va.
Cậy thế, khom lưng ngồi dưới đất,
Biết đâu sắp bị chó liền tha!
Lộc chết trên. Sượng chín người. Y ú a ú ớ như trúng gió độc. Những vần thơ ấy như cú tát vào mặt kẻ thất phu, hợm hỉnh. Còn có bài thơ nào “vịnh” bọn chó săn cho giặc Pháp giết hại đồng bào hay hơn bài thơ này? “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Dù một thời ngất ngưởng trên danh vọng, ăn trên ngồi trốc, nhưng bây giờ nhớ đến Trần Bá Lộc người ta cũng chỉ thấy hiện lên một hình ảnh thối tha như bài thơ trên đã vịnh. Có thể nói, mấy vần thơ ấy đã khắc họa tài tình chân dung của một kẻ làm tay sai cho giặc, ngàn đời không rửa sạch. Than ôi!
Trí thức ấy là Phan Văn Trị, thường gọi Cử Trị. Trước đây và hiện
56
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
nay, hầu hết các sách đều ghi ông người làng Hanh Thông, huyện Bảo An, tỉnh Gia Định. Tuy nhiên, hai nhà nghiên cứu Nguyễn Bá Thế và Nguyễn Q. Thắng căn cứ vào nhiều tư liệu “khẳng định: Phan Văn Trị thuộc dòng dõi Phan Văn Triệu (con Phan Văn Tấn) sinh năm 1830, quán làng Hưng Thạnh, huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre), đậu cử nhân năm 1849 tại trường thi Gia Định (nay Thành phố Hồ Chí Minh) và đến tuổi trưởng thành đã từng “lưu lạc khắp nơi nơi” (1). Theo tài liệu của Di tích lịch sử văn hóa tỉnh Cần Thơ khi viết về Phan Văn Trị, cũng đưa ra những thông tin như trên nhưng cho biết nơi sinh của ông, nay thuộc huyện Giồng Trôm, chứ không phải huyện Ba Tri.
Ít ai ngờ rằng, địa điểm sinh hoạt quen thuộc Nhà văn hóa Thanh Niên (4 Phạm Ngọc Thạch, Q.1, TP.HCM), ngày xưa chính là nơi tổ chức thi Hương. Năm 1849, Phan Văn Trị đã thi tại đây và đậu Cử nhân. Cùng đậu khoa này còn có một nhân vật lừng lẫy không kém là Nguyễn Thông. Mối quan hệ bạn bè của Phan Văn Trị ngoài Nguyễn Thông còn có Hồ Huân Nghiệp, Phạm Như Châu, Lê Xuân Khánh, Phan Văn Đạt, Tôn Thọ Tường... Những trí thức này đã lập ra Bạch Mai thi xã đã để lại những áng thơ trác tuyệt. Việc lập các thi xã là điều không lạ. Trước đó tại Hà Tiên, năm 1736 Mạc Thiên Tứ đã lập Hội Tao đàn Chiêu Anh Các; tại kinh thành Huế, thế kỷ XIX có Mặc Vân thi xã của các ông hoàng triều Nguyễn. Tương truyền, thi bá Cao Bá Quát đã từng đùa:
Ngán cho cái mũi vô duyên
Câu thơ thi xã con thuyền Nghệ An
Thuyền Nghệ thời ấy thường ngược xuôi bán mắm, ý muốn nói những vần thơ ấy “không ngửi được”. Thật ra đây chỉ là một trong những cách trêu nhau của các nhà thơ, chứ không hẳn ông Cao miệt thị thơ của các thi hữu đất Thần kinh. Rồi tại Sài Gòn có Bình Dương thi xã do Trịnh Hoài Đức khởi xướng. Dăm chục năm sau có thêm
(1) Xem tạp chí Văn nghệ Cần Thơ số 16 (1985) chủ đề Nghĩ và viết về Phan Văn Trị.
57
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Bạch Mai thi xã. Các thi nhân lấy tên Bạch Mai do đâu? Một trong “Gia Định tam gia” là Trịnh Hoài Đức đã không tiếc lời ca ngợi Bạch Mai là giống hoa “bẩm linh khí sinh ra, không đem trồng nơi khác được... Mùi hương phảng phất rất thích ý cho kẻ du lãm tìm hoa” và dĩ nhiên sắc hoa trắng tinh khiết ấy tựa như khí tiết của người quân tử mà họ Trịnh cũng từng viết câu thơ “Loài chim hạc tự khoe tiết tháo cao nhã bằng sắc lông trong trắng như hoa mai. Lại hẹn với hoa mai cùng giữ danh thơm vẹn toàn”.
Sở dĩ nhắc như thế, để thấy lúc thời cuộc đã có những đổi thay, xáo trộn thì dù đã từng sinh hoạt chung trong một thi xã, nhưng để bày tỏ lập trường, quan điểm của chính mình thì các thi nhân sẵn sàng lao vào “bút chiến” dữ dội, không khoan nhượng. Ấy là cuộc bút chiến sau này giữa Phan Văn Trị và các bạn thơ của ông đối với Tôn Thọ Tường, lúc Tường ra làm việc với “tân trào”.
Năm 1862, triều đình Huế ký Hiệp ước Hòa bình và Hữu nghị tại Sài Gòn với liên quân Pháp và Tây Ban Nha. Trong 12 điều khoản đã ký, có nội dung “ba tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa và đảo Côn Lôn hoàn toàn thuộc chủ quyền của Pháp” và “Pháp sẽ trả lại tỉnh thành Vĩnh Long với điều kiện triều đình Huế phải chấm dứt các cuộc khởi nghĩa chống đối Pháp ở Gia Định và Định Tường”. Trước tình thế này, các trí thức yêu nước đã khởi xướng phong trào “tị địa”, bất hợp tác với giặc, không sống trên mảnh đất giặc chiếm đóng. Ngay cả phần mộ của thầy Võ Trường Toản an táng tại làng Hưng Hòa (Gia Định) cũng được các môn sinh đưa về làng Bảo Thạnh (Vĩnh Long); Nguyễn Đình Chiểu rời Cần Giuộc về Ba Tri (Bến Tre); Nguyễn Thông ra Bình Thuận; Phan Văn Trị lánh xuống Vĩnh Long v.v... Đừng hiểu hành động “tị địa” giống như Bá Di, Thúc Tề trong Bắc sử, bởi họ không trốn tranh nhân dân, không lẩn tránh phận sự của mình trước thời cuộc mà vẫn liên hệ, giúp đỡ lực lượng kháng chiến. Đất của mình, nhưng mình không thể sống được khi đã bị gót giày quân giặc dày xéo, tâm trạng ấy đau đớn biết chừng nào. Phan Văn Trị rời khỏi Gia Định vào lúc:
58
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
Inh ỏi súng rền cửa Bắc, hãi hùng trăm họ dứt âu ca; Tò te kèn thổi trời Nam, mờ mịt năm canh không tiếng trống.
Hào kiệt tìm phương lánh mặt, sa cơ giá hạc lúc hư kinh; Anh hùng kiếm chốn ẩn thân, sút thế nước cờ cơn lúng túng. Tới Bến Thành trải qua chợ Sỏi, loài tanh hôi lang lệ biết bao nhiêu;
Nơi Chợ Lớn sắp tới Cầu Kho, quân mọi rợ lẫy lừng nên quá lắm (1).
(Gia Định thất thủ vịnh)
Những vần thơ của Phan Văn Trị viết trong giai đoạn này là tiếng kêu thống thiết của một con dân đứng trước thảm họa nước mất, nhà tan. Trong các cuộc hòa đàm, thương lượng với Pháp, triều đình Huế đã phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác. Cứ tưởng, ta nhún nhường, dẫu có chịu thiệt thòi thì cũng sẽ vớt vát được ở điều nọ khoản kia, nhưng không, với âm mưu thôn tính nước ta giặc Pháp không từ bỏ bất cứ một thủ đoạn nào. Chúng tiếp tục tiến đánh các nơi, cuộc chiến ngày một lan rộng. Năm 1867, Vĩnh Long thất thủ, là một nhân chứng của một giai đoạn lịch sử bi thương nhưng hào hùng, Phan Văn Trị đã viết những câu thơ xót xa:
Tò te kèn thổi, tiếng năm ba,
Nghe lọt vào tai dạ xót xa...
Uốn khúc sông Rồng mờ mịt khói,
Vắng hoe thành Phụng ủ rầu hoa.
Tan nhà, căm nỗi câu ly hận,
Cắt đất, thương thay cuộc giảng hòa.
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ,
Ngậm cười, hết nói nỗi quan ta!
(1) Về bài Gia Định thất thủ vịnh, có nhiều tài liệu cho rằng do Phan văn Trị viết. Tuy nhiên trong Gia Định phong cảnh vịnh- Gia Định thất thủ vịnh in năm 1882, Trương Vĩnh Ký ghi “Khuyết danh”.
59
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Hai câu “luận”, nhà thơ đã ám chỉ cuộc thương thuyết của Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp đã đặt bút ký Hiệp ước Hòa bình và Hữu nghị năm 1862. Đánh chiếm Vĩnh Long xong, giặc Pháp đánh chiếm An Giang. Phan Văn Trị viết bài thơ “Cám cảnh An Giang” buồn rười rượi:
Lênh đênh bèo nước biết là đâu,
Đậu bến An Giang thấy những rầu.
Với hai bài thơ này, ta thấy dào dạt tình yêu quê hương và lòng căm thù giặc sâu sắc của một sĩ phu trong gió bụi của thời cuộc. Ngoài ra, trong những lúc vịnh cảnh, tức cảnh và cảm hoài, Phan Văn Trị đã lên án thái độ hèn nhát, tham quyền cố vị của bọn quan lại triều đình. Các bài thơ Con mèo, Con rận, Cá thia thia, Hột lúa, Thú đi câu...
của ông cho đến nay vẫn được truyền tụng ngoài ý nghĩa đó còn vì giá trị nghệ thuật. Nhưng công lao lớn nhất của Phan Văn Trị trên văn đàn cuối thế kỷ XIX ở chỗ ông là chủ soái của một cuộc bút chiến vang dội. Như ta đã biết, sau khi rời Gia Định, Phan Văn Trị về Vĩnh Long, đi An Giang và nhiều nơi khác. Cuối cùng, ông chọn Cần Thơ để sống cho đến cuối đời. Tại nơi “gạo trắng nước trong”, ông đã tập hợp lại các thi hữu trong Bạch Mai thi xã để khởi xướng cuộc bút chiến với Tôn Thọ Tường.
Nhưng trước hết, ta thử tìm hiểu Tôn Thọ Tường là ai?
Tôn Thọ Tường sinh năm 1825 tại huyện Bình Dương (Gia Định), con trai của ông Tôn Thọ Đức - Tuần phủ hai tỉnh Bình Thuận và Khánh Hòa. Sinh ra trong một gia đình danh gia vọng tộc, thuộc công thần nhà Nguyễn nên Tường ra kinh đô xin “tập ấm” - tức con cháu nối theo chức của cha mà được hàm Ấm sinh, Ấm thọ hay Ấm tôn. Tường được triều đình ban cho ấm hàm về võ vì nội tổ là công thần phái võ. Nhưng Tường không hài lòng bởi theo quan niệm đương thời:
Văn thì cửu phẩm đã sang
Võ thì tứ phẩm còn mang gươm hầu
nên xin đổi sang hàm văn, dù phải xuống bậc thấp, nhưng triều
60
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
đình không thuận tình. Tường chán nản bỏ về Gia Định. Đến năm 1855, Tường ra thi Hương ở trường thi Gia Định nhưng “Thi không ăn ớt thế mà cay” (Tú Xương - Buồn hỏng thi). Khoa thi sau, Tường không ra thi nhưng vẫn “ngứa nghề”, bèn chơi ngông thi mướn cho con nhà quyền thế “văn dốt võ dát”. Chuyện bại lộ, Tường bị giải về kinh đô. Đường hoạn lộ xem như “đứt bóng”, nhưng may mắn triều đình tha tội cho cậu học trò nghèo. Có giai thoại: Trên đường ra kinh chịu tội, Tường làm bài thơ:
Trải bảy mươi hai trạm tới kinh,
Bao nhiêu tân khổ bấy nhiêu tình.
Vì nhà túng rối nên quyền biến,
Phép nước răn đe há dám khinh.
Gió bụi, đất từng quen với mặt,
Nắng mưa, trời có thấu cho mình.
Chín trùng cao vọi dầu soi xét,
Ơn xuống mai khi gặp phước linh.
Bài thơ này thấu đến tai vua Tự Đức, vốn là người cũng yêu thơ nên không những rộng lòng tha tội mà ngài còn ban cho Tường ít tiền lộ phí trở về quê.
Trở về quê, Tường bắt đầu sinh hoạt trong Bạch Mai thi xã. Nhưng thời cuộc không để cho các thi nhân tìm vần thơ dưới cội mai trắng. Tiếng súng nổ vang trời. Hiệp ước năm 1862 đã ký. “Tàu khói chạy mây tuôn sông mấy khúc, lạt lờ Bến Trâu; Dây thép giăng chớp nhoáng đất ngàn trùng, ngã xiêu thành Phụng” (Gia Định thất thủ vịnh). Giữa lúc các sĩ phu khởi xướng phong trào “tị địa”, Tường vẫn ở lại Gia Định. Có lần đi ngang qua chùa Cây Mai, nơi đã từng cùng thi hữu xướng họa, Tường bùi ngùi:
Những tay rượu thánh thi thần cũ,
Trông cảnh bao nhiêu, tiếc bấy nhiêu!
Tiếc thì tiếc thế, nhưng Tường cũng cắm mặt xuống đất mà ra cộng tác với “tân trào”, được bổ chức tri phủ Tân Bình, từ đây mọi người quen gọi “Phủ ba Tường”. Trong thời điểm, thân phận như Tường
61
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
còn có Tiến sĩ Phan Hiển Đạo - đốc học tỉnh Định Tường, vì cả tin vào luận điệu “Pháp - Việt đề huề” của Pháp.
Nếu so sánh giữa Tường vào Đạo thì ta thấy Đạo có tư cách hơn. Bởi sau khi biết đã chọn sai đường, Đạo tự lấy làm xấu hổ và lánh về Vĩnh Long vì Định Tường đã mất vào tay giặc Pháp, không còn là đất của triều đình nữa. Đến Vĩnh Long, Đạo có viết thư xin được gặp đại quan Phan Thanh Giản để phân trần. Nhận thư, ông Phan phê tám chữ “Thất thân chi nữ, hà dĩ vi trinh” (Con gái đã thất thân, sao cho là trinh được?). Vị tiến sĩ này vừa xấu hổ vừa tức giận, bỏ về quê nhà ở Chợ Giữa (Mỹ Tho) suốt mấy năm liền không dám bước chân ra khỏi ngõ. Sau đó, Đạo chọn lấy một cái chết khắc nghiệt là uống thuốc độc tự tử nhằm giải quyết chính sự dằn xéo ngay trong thâm tâm mình.
Tường không thế.
Tường đã viết bài thơ Từ Thứ quy Tào nhằm biện hộ rằng mình cũng là người yêu nước như ai, nhưng chỉ loại “cây còi” không đáng kể, huống chi đất nước vẫn còn nhiều “cột cả”:
Ở Hán vẫn còn nhiều cột cả,
Về Tào chi sá một cây còi.
Thế thì, dù có theo Tây cũng chẳng đến đâu, chỉ xin làm kẻ dại, đứng ngoài vòng quốc sự. Phan Văn Trị không đồng ý, vặn lại:
Về Tào miệng ngậm như bình kín,
Trân trọng lời vàng đáng mấy thoi?
Ý muốn nói, “nói thế thì biết thế, nhưng lời ấy có đáng tin cậy không?”. Tường lại viết bài thơ Tôn phu nhân quy Thục, ngụy biện dù có làm cho Tây nhưng vẫn nhớ nước, cũng như gái dù đi lấy chồng nhưng vẫn nhớ đến nhà và nói thẳng không úp mở:
Ai về nhắn với Chu Công Cẩn,
Thà mất lòng anh đặng bụng chồng.
Phan Văn Trị “họa” lại, dù thế nào đi nữa cũng không thể quên được cương thường:
62
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết,
Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng.
Đỉnh điểm của cuộc xướng họa để trở thành cuộc bút chiến dữ dội chính là từ 10 bài thơ Tự thuật của Tường. Nay dẫn nguyên văn bài thơ thứ nhất để thấy được thái độ, bản lĩnh chính trị của đôi bên. Tường “xướng”:
Giang san ba tỉnh hãy còn đây,
Trời đất xui chi đến nỗi này.
Chớp nhoáng thẳng bon dây thép kéo,
Mây tuôn đen kịt khói tàu bay.
Xăng văng chậm tính, thương đôi chỗ,
Khấp khởi riêng lo, biết những ngày.
Miệng cọp hàm rồng chưa dễ chọc,
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay.
Với bài thơ này, Tường đã lộ rõ mặt của một kẻ ngoảnh mặt với phe kháng chiến, khiếp sợ trước sự thắng thế của giặc và khuyên mọi người đừng như trẻ con chọc tay vào miệng cọp, hàm rồng. Trước luận điệu hèn nhát, lệch lạc này, Phan Văn Trị đã “đập” lại đích đáng:
Hơn thua chưa biết đó cùng đây,
Chẳng đã, nên ta phải thế này.
Bến Nghé quản bao cơn lửa lớn,
Cồn Rồng dầu mặc bụi tro bay.
Nuôi muôn giết thỏ còn chờ thủa,
Bủa lưới săn nai cũng có ngày.
Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ,
Lòng ta sắt đá há lung lay!
Ông đã tố cáo tội ác của giặc và khẳng khái bày tỏ quan điểm của mình. Từ cuộc bút chiến giữa Phan Văn Trị và Tường, các sĩ phu yêu nước khác cũng lao vào trận bút. Những danh nho như Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt, Bùi Hữu Nghĩa... cũng có thơ “họa” rất hay. Có lẽ đây là cuộc bút chiến kéo dài nhất trong thi ca Việt Nam
63
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Mộ nhà thơ
Phan Văn Trị
tại Châu Thành
(Cần Thơ)
xưa nay. Nếu tính từ điểm khởi đầu năm 1862 - năm Tường ra làm việc cho Pháp, đến lúc chí sĩ Phan Châu Trinh “họa” sau khi Tường đã hóa người thiên cổ thì nó kéo dài cả non nửa thế kỷ. Điều thú vị là qua cuộc bút chiến này, có những người trước lầm đường thì nay cũng quay về với chính nghĩa. Chẳng hạn, trường hợp của cai tổng Lê Quang Chiểu.
Qua các bài thơ bút chiến, ngoài tài năng thi ca của từng người tham gia, nó còn là tuyên ngôn về quan điểm sống và thái độ sống trong bối cảnh lịch sử đang diễn ra. Thế hệ hậu sinh chúng ta nhìn lại cuộc bút chiến dữ dội đó, có thể thấy được những dằn vặt đau đớn, những đấu tranh không khoan nhượng của một tầng lớp kẻ sĩ sống trong buổi đất nước đang lần lượt mất vào tay ngoại bang. Ý nghĩa sâu sắc của cuộc bút chiến này không phải các sĩ phu “đánh” cá nhân của Tường mà thực chất là cuộc đấu tranh, tấn công vào tầng lớp cầu an, có tư tưởng đầu hàng, sợ giặc. Không thể phủ nhận tài năng thi
64
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
ca của Tôn Thọ Tường và nhiều người cộng tác với Pháp, nhưng tiếc họ đã chọn sai đường. Đương thời có người làm thơ ca ngợi:
Lớp sau Thanh Giản tiếng đồn
Là Phan Hiển Đạo với Tôn Thọ Tường
Ông thời nho nhã văn chương
Ông thời thi phú tót đường diệu công
Ông về thác Vĩnh Kim Đông
Ông ra giúp Pháp bụng đồng tương tri
Một còn một mất trọn nghì
Nghìn thu bia miệng Nam kỳ danh nho
“Bia miệng vẫn còn trơ trơ” của hậu sinh đối với Tôn Thọ Tường là tiếng xấu, là sự dè bĩu... Thương thay! Trong lúc đó, Phan Văn Trị và không ít sĩ phu khác đã chọn cho mình một thế đứng theo đúng quy luật biện chứng của dòng chảy lịch sử, xứng đáng là những ngọn cờ đầu dòng thơ yêu nước Nam bộ nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Bài học của Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường không chỉ gói gọn trong một giai đoạn của lịch sử, nó còn gợi cho ta nhiều vấn đề để suy nghĩ.
Nhà thơ Phan Văn Trị mất ngày 22/6/1910. Hiện nay, phần mộ của ông rộng khoảng 600m2 tại ấp Nhơn Lộc 1, xã Nhơn Ái, huyện Châu Thành cách trung tâm thành phố Cần Thơ 16km, được Bộ Văn hóa Thông tin ra quyết định số 154 VHQĐ ngày 21/1/1991 công nhận Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia.
65
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Nguyễn Khuyến
Người đạt đến mẫu mực
của thi ca cổ điển Việt Nam
Trưa nắng gắt. Vòm tre
uốn mình trong cơn gió. Đâu
đó vọng lên tiếng gà gáy
trưa yên ả. Buổi bình văn
vừa xong thì lũ học trò láo
nháo như ong ùa ra cửa. Các
cậu tung tăng chân sáo trở
về nhà, có vài cậu còn nấn
ná, chưa về vội mà tụ tập ở
dưới gốc đa đầu làng chơi
đánh đáo. Tiếng cười hồn
nhiên, vui vẻ khoấy động
cả một vùng quê yên tĩnh.
Trong khi đó, có một cậu bé
vẫn lầm lũi bước, cậu đến
Nhà thơ Nguyễn Khuyến (1835-1909)
quán hàng nước để lấy cái dậm mà sáng nay cậu gửi ở
đó. Cầm lấy cái dậm cậu bước nhanh ra đồng, lúi húi kiếm con tôm, con cá để phụ mẹ vào bữa ăn chiều. Mồ hôi chảy ròng ròng trên khuôn mặt non nớt thư sinh. Vừa làm cậu vừa sực nhớ lại câu chuyện sáng nay. Nhà cậu nghèo, không đủ tiền góp gạo nên khi bạn bè giúp cho
66
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
ăn thì cậu phải chịu khó nấu bếp vậy. Lúc xuống bếp thổi cơm cậu vẫn ngóng tai nghe những lời giảng của thầy, những lời hay ý đẹp ấy cậu đều ghi nhớ nằm lòng. Nhưng sáng nay nghe lời giảng của thầy hay quá, cậu hứng chí quậy mạnh chiếc đũa cả trong nồi cơm đang sôi. Chẳng may, ông đầu rau đổ lăn kềnh, cả nồi cơm đổ nhào xuống bếp. Sợ bị mắng, cậu ôm mặt khóc hu hu và khi bạn bè hỏi nguyên cớ thì cậu thành thật kể lại. Không ai tin cả nên mới vặn hỏi lại là trong lúc ấy thầy dạy những gì? Không ngờ, cậu đã trả lời vanh vách. Ai cũng phục cho trí nhớ và sự hiếu học của cậu. Cậu học trò nghèo có trí nhớ phi thường nhưng lận đận đó tên thật là Nguyễn Thắng.
Nguyễn Thắng sinh ngày 15/11/1835 tại làng Ngòi (tức làng Văn Khê), xã Hoàng Xá, (nay thuộc xã Yên Trung) huyện Ý Yên - Nam Định, còn quê nội ở làng Và (tức Vî Hạ), xã Yên Đổ, (nay thuộc xã Yên Trung), huyện Bình Lục - Nam Định. Nguyễn Thắng là con trai của cụ Nguyễn Tông Khởi, từng đậu ba khóa Tú tài nên dân trong làng quen gọi là cụ Mền Khởi và bà Trần Thị Thoan. Ngay từ nhỏ, Nguyễn Thắng đã tỏ ra là người say mê đèn sách. Năm 1852, lúc 17 tuổi, chàng đã lập gia đình với con gái ông Nguyễn Gia Thung, người cùng làng và cũng cùng một cảnh nghèo như nhau. Đây cũng là năm mà Nguyễn Thắng cùng cha đi thi Hương. Bấy giờ, nhà nghèo quá, không thể để chồng và cha thiếu trước hụt sau nên người vợ trẻ phải mới chạy vạy vay mượn thêm ít tiền. Nhưng chạy vạy mấy nơi mà không được. Không còn cách nào khác, nàng bèn bán cái yếm mới mặc trong cưới được 5 quan tạm đủ cho cả hai lên đường. Chi tiết cảm động này khiến ta nghĩ đến sự thủy chung, tính nết hiền hậu, biết quên mình để lo cho chồng con rất đặc thù của phụ nữ Việt Nam. Nhưng khoa thi này Nguyễn Thắng không đậu. Qua năm sau, trong làng có bệnh dịch nên cha, em ruột cùng bố mẹ vợ của Nguyễn Thắng cũng lần lượt qua đời. Chàng muốn bỏ học, đi dạy học để giúp đỡ cho gia đình, nhưng bà mẹ không chịu, bà bảo:
-Nhà con nối đời nho học, nếu con chịu khó theo đó học hành thì mẹ dù đói rét cũng cam tâm. Nếu chỉ vì cái lợi nhỏ trước mắt mà bỏ dở sự nghiệp trước đây thì sau này còn mặt mũi nào nhìn cha ông nơi chín suối?
67
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Cùng với con dâu, bà mẹ già tiếp tục dệt vải thuê để nuôi con ăn học. May thay, trong lúc này hiểu rõ gia cảnh của người học trò hiếu học nên ông nghè Vũ Văn Lý đã độ lượng gọi chàng đến vừa dạy học vừa nuôi ăn không lấy tiền. Như rồng gặp mây, như cá gặp nước, được sự cưu mang của thầy Lý, Nguyễn Thắng càng quyết chí học tập để đền ơn tri ngộ này. Cùng lúc, thỉnh thoảng chàng còn xuống tập văn ở trường của cụ Hoàng giáp Phạm Văn Nghị. Nhưng oái oăm thay, dù có trí nhớ đặc biệt và sức học hơn người, liên tiếp trong các khoa thi năm 1855, 1858, 1861, Nguyễn Thắng dự thi Hương nhưng đều không đậu - chàng đã nói trong bài thơ tự trào chua chát:
Bốn khoa thi cử không đâu cả,
Một khóm vườn hoang bán sạch rồi.
Mang tiếng học trò lừng vũ trụ,
Nghĩ tôi, tôi gớm cái thân tôi.
Trong những tháng năm này tình hình chính trị đang có nhiều xáo động. Từ năm 1858, thực dân Pháp đã nổ súng tấn công Đà Nẵng - mở đầu cho chiến tranh xâm lược nước ta. Là một kẻ sĩ sống trong giai đoạn bi đát của lịch sử, chắc chắn Nguyễn Thắng cũng mang tâm trạng nôn nóng thi đậu để có dịp thi thố tài năng giúp nước. Thời gian thấm thoắt trôi qua. Năm 1864, Nguyễn Thắng lại lên đường ra Hà Nội thi Hương. Khi lên Hà Nội, do nghèo nên Nguyễn Thắng chỉ xin nằm dưới bếp nhà trọ, chứ không có tiền thuê chỗ ngủ nghỉ như những sĩ tử khác. Lúc xướng danh yết bảng, Trần Bích San trúng Tam nguyên, còn Nguyễn Thắng đậu đầu cử nhân trường thi Hà Nội - trúng Giải nguyên. Bạn bè náo nức chạy tìm ông để báo tin vui. Nhưng khi đến nơi, mọi người đều bất ngờ thấy ông Giải nguyên đang gối đầu lên mấy cuốn sách, trên mình trùm chiếc áo the nâu đã bạc phếch, nằm còng queo ngủ ngon lành trên chiếc chõng tre trơ trọi sau bếp! Tin vui này lập tức truyền về đến quê nhà. Bấy giờ, người vợ tào khang của Nguyễn Thắng đang xắn váy lội đồng, mò cua bắt ốc... Mọi người ra gọi bà về để đón chồng vinh quy, nhưng bà tham công tiếc việc, sợ mất buổi công, cứ cặm cụi giữa trưa nắng. Chị em giục mãi, bà mới chịu bỏ việc để về đón
68
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
chồng. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà sau này, khi bà mất, ông có làm câu đối (1) khóc thống thiết:
- Nhà chỉn cũng nghèo thay, nhờ được bà bay hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tả chân đăm đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc!
Bà đi đâu vội bấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá tọa, gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm?
Qua năm sau, 1865, Nguyễn Thắng vào Huế thi Hội nhưng trượt. Ba năm sau nữa, ông tiếp tục thi Hội nhưng vẫn không đậu và ở lại Huế vào học Quốc tử giám. Dùi mài kinh sử trong một năm, nhưng khoa thi kế tiếp ông vẫn không chiếm được bảng vàng. Để tự khuyến khích mình cần cố gắng nhiều hơn nữa nên thời gian gian này ông đổi tên thành Khuyến. Phải nỗ lực nhiều hơn nữa, việc đổi tên là ông đã tự dặn cho mình như thế. Ý thức việc học như con thuyền ngược nước, nếu không tiến thì chỉ có lùi nên ông không nản chí, không một phút xao nhãng kinh sử. Sự gắng công ấy rồi cũng được đền bù xứng đáng. Mãi đến năm 1871, vượt qua hai lần đậu đầu trong các kỳ thi Hội, thi Đình, ông mới chiếm được học vị Hoàng giáp. Vua Tự Đức đã ban cho cờ biển, hai chữ “Tam nguyên” (ba lần đậu đầu bảng) và bổ làm Toản tu Sử quán trong triều. Ngày vu quy bái tổ, bà mẹ ông cầm tay con mà ứa nước mắt:
- Cha con dạy dỗ con mà không kịp thấy con thành đạt; nay mẹ được chứng kiến cảnh vẻ vang này mà không thấy cha con, lòng đau dạ xót lắm.
(1) Câu đối: Một thể văn đặc biệt có quy mô nhỏ, mỗi đơn vị tác phẩm (được gọi là câu) gồm hai vế (thực chất là hai câu) đối xứng nhau về từ loại, âm thanh và ý nghĩa, dùng để biểu lộ tư tưởng, tình cảm, thái độ trước một con người, một sự việc hoặc một cảnh vật, một đối tượng nào đó mà chủ thể (tác giả) quan tâm chú ý. Câu đối dùng để đọc, hoặc dán, khắc (trang trí ở nơi trang trọng) để tỏ chí, đối đáp, chúc mừng, ghi công, viếng người chết hoặc đùa vui, cười nhạo... Sức mạnh của câu đối là tính chất khái quát cao, súc tích.... Câu đối là thể loại văn học Trung Quốc du nhập vào Việt Nam từ lâu đời. Đặc điểm của tiếng Việt về ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng rất thuận lợi cho việc làm câu đối, trở thành phương tiện phổ biến của cả văn học viết lẫn văn học truyền miệng, là món ăn tinh thần truyền thống, một thú chơi tao nhã, phù hợp với nhiều trường hợp, hoàn cảnh và sinh hoạt xã hội khác nhau” (Từ điển thuật ngữ văn học - NXB Giáo Dục 1992, trang34)
69
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Nếu là một người chỉ biết lấy việc ra làm quan là mục đích cuối cùng của cuộc đời, thì Nguyễn Khuyến có thể vinh thân phì gia trên bước đường hoạn lộ. Nhưng Nguyễn Khuyến sinh ra trong gia đình có truyền thống nho học, đặt mục đích thi đậu là để đền ơn vua, trả nợ nước, chứ không phải kiếm một chỗ ăn trên ngồi tróc, đục khoét dân lành. Vận nước lúc này như thế nào? Năm 1873, giặc Pháp đánh chiếm Hà Nội lần thứ nhất, thành Hà Nội thất thủ, danh tướng Nguyễn Tri Phương nhịn ăn mà chết. Năm 1875, anh hùng Thủ Khoa Huân tuẫn tiết. Năm 1882, Pháp đánh Hà Nội lần thứ hai, danh tướng Hoàng Diệu tự treo cổ để giữ khí tiết của một người trung hiếu. Năm 1883, vua Tự Đức băng hà. Tình hình trong nước càng rối ren như canh hẹ, chỉ trong vòng bốn tháng mà thay đổi đến ba vua: Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phước! Triều đình nhà Nguyễn đã ký hiệp ước Harmand với 27 điều khoản mà khoản thứ nhất là: “Nước Nam chịu nhận nước Pháp bảo hộ, có việc gì giao thiệp với ngoại quốc thì phải do nước Pháp chủ trương”. Thế nhưng, theo tinh thần kháng chiến của bố cáo Cần Vương mà vua Hàm Nghi đã khởi xướng, sĩ phu trong nước nô nức hưởng ứng lập chiến khu, dựng cờ đại nghĩa quyết đánh lại đội quân xâm lược nhà nghề. Sau khi bắt được vua Hàm Nghi và đày sang Algérie (châu Phi), giặc Pháp đã đưa bù nhìn Đồng Khánh lên ngôi. Đứng trước thời cuộc nhiễu nhương như thế, Nguyễn Khuyến đã xuất xử như thế nào? Không đủ dũng khí như Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Xuân Ôn... đã xướng nghĩa Cần Vương; cũng không đủ hèn hạ, tán tận lương tâm bán mình cho giặc để vùi đầu trong cái bả vinh hoa như Hoàng Cao Khải, Nguyễn Thân... Nguyễn Khuyến đã lấy cớ đau mắt, chọn lấy con đường từ quan để về quê. Nếu ông chỉ xa lánh thời cuộc với nếp sống ẩn dật để làm thơ vịnh trăng, tuyết, mây, hoa... thì cho dù những bài thơ ấy tuyệt tác đến bao nhiêu, có lẽ bây giờ chúng ta cũng không cần thiết phải nhớ đến.
Điều làm nên bản lĩnh, nhân cách của con người và thơ của Nguyễn Khuyến chính là ông đã đau đời, đã đối kháng lại xã hội nửa thực dân nửa phong kiến. Một nỗi đau, nỗi nhục của con dân mất nước cất lên tiếng kêu rướm máu trong thơ. Nhà thơ Xuân Diệu có viết chính
70
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
xác: “Mất nước là mất tất cả. Từ đây cụ Nguyễn Khuyến gửi tâm huyết của mình vào thơ, nhất là vào thơ chữ Hán; chữ Hán cô đúc hơn, và kín đáo ít phổ cập hơn, bởi phải che mắt bọn thực dân và chó săn của chúng. Vì không phải Nguyễn Khuyến cáo về hưu mà được yên thân dễ dàng đâu. Theo ý quan thầy Pháp, Vũ Văn Bảo, Tổng đốc Nam Định, con thầy học cũ của Nguyễn Khuyến, khuyên cụ trở ra làm quan: cụ phải cho con mình là Nguyễn Hoan, đỗ phó bảng, ra làm quan thay mình. Sau đó, Hoàng Cao Khải, kinh lược Bắc Kỳ, để quản chế cụ, mời cụ đến dinh riêng của hắn, ngồi dạy học. Đau thương thay, người ta kể lại rằng: Cụ Nguyễn Khuyến không đến nỗi đau mắt nặng đến thế, đến lòa; nhưng muốn thoát khỏi làm đĩ trong lầu xanh của con mụ Tú Bà: giặc Pháp và vua ngụy, cụ phải nhân đau mắt làm như là mình lòa hẳn. Người ta còn kể: Tại dinh công sứ Hà Nam, có lần Nguyễn Khuyến được đưa vào để chào có tính cách trình diện với tên công sứ Pháp và thực chất để hắn kiểm tra; cụ giả bộ sửa soạn áo khăn tề chỉnh, rồi hướng vào một cái cột, cụ vái mấy cái: “- Lạy cụ lớn ạ!”. Mọi người phải bật cười. Cụ xin lỗi vì mắt mình lòa, không trông thấy rõ” (1). Nhưng như thế vẫn chưa yên, Hoàng Cao Khải vâng lời quan thầy nhiều lần mời mọc Nguyễn Khuyến ra làm quan, cũng như y từng đốn mạt nhân cách là viết thư chiêu dụ Phan Đình Phùng ra hàng! Để từ chối mà không mang lụy vào thân, ông đã viết bài thơ Ưu phụ từ - thác lời vợ của anh chàng “Xóm bên Đông có phường chèo trọ” mà hai câu kết là:
Vua chèo còn chẳng ra chi
Huống hồ quan nhọ khác chi thằng hề!
Khải thừa biết là hai câu đắc địa này ám chỉ mình, vì y là người làng Đông Thái (Nghệ An), nhưng cũng không thể bắt bẻ vào đâu được. Trong bài thơ Ngày xuân dặn các con viết năm 1888, cụ trút vào đó tâm sự đau đời, ray rứt trước thời cuộc mà mình bất lực:
Tuổi thêm, thêm được tóc râu phơ,
(1) Thơ văn Nguyễn Khuyến - NXB Văn Học - 1979 - Xuân Diệu giới thiệu, trang 91.
71
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Nay đã năm mươi có lẻ ba.
Sách vở ích gì cho buổi ấy,
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
Xuân về ngày loạn càng lơ láo,
Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ.
Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng,
Sao con đàn hát vẫn say sưa?
Với tâm sự này thì việc Nguyễn
Khuyến ngồi dạy học cho con trai
tên Việt gian Hoàng Cao Khải
cũng là một cực hình. Có lần vào
dịp cuối năm, Khải sang thăm nơi
gia sư Nguyễn Khuyến đang ngồi
dạy cho con mình. Thấy nhà học
nghiêm cẩn, quy củ thì y hài lòng
lắm nhưng lạ thay, không thấy
treo một bức hoành phi, câu đối
nào cả. Y hỏi, Nguyễn Khuyến từ
tốn đáp:
- Tôi đã viết sẵn, nhưng chưa
có lệnh của cụ lớn nên chưa cho
treo đấy thôi!
Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh chọe Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi (Vịnh Tiến sĩ giấy - thơ Nguyễn Khuyến)
Nghe bậc đại khoa nói vậy, Khải mừng rỡ:
- Thế thì quý hóa quá! Xin cụ
cứ treo lên để tôi được đọc đầu tiên.
Nguyễn Khuyến chỉ chờ có thế, thong thả lấy câu đối trong án thư cho treo lên tường. Câu đối rằng:
- Sự học chẳng phải chơi, sáng cặp, tối rèn, mổ bụng con nhét chữ;
Nuôi thầy đâu có bỡn, năm hết tết đến, bổ đầu bố lấy tiền.
72
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
Khải càng đọc càng giận run người, nhưng cũng đành ngậm bồ hòn làm ngọt, đánh trống lảng:
- Chỉ có cụ Tam Nguyên mới làm được đến thế.
Thật vậy, những cái xấu xa, nhố nhăng diễn ra trong cái xã hội nửa người nửa ngợm của buổi giao thời, Nguyễn Khuyến đã đưa vào thơ một cách tài tình. Ẩn đằng sau những câu chữ là tiếng cười thâm hậu, đau đớn, cười đấy mà cũng là khóc đấy - như ông giễu tiến sĩ giấy:
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhe,ï
Cái giá khoa danh thế mới hời.
Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh chọe
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!
Lời cảnh báo sâu sắc này đâu phải đã lỗi thời. Hay khi chứng kiến Hội Tây được tổ chức hằng năm trên đất nước ta thuở ấy - nhằm mừng ngày cách mạng Pháp (14/7/1789) - ông chỉ thấy:
Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo,
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom ghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!
Những câu thơ trào lộng này khiến ai đọc cũng ngậm ngùi, cũng tủi nhục, cũng đau khi nhìn lại một giai đoạn bi đát của lịch sử nước nhà. Phải thấm nỗi đau, nỗi nhục ấy thì Nguyễn Khuyến mới có thể hạ những câu như từng đường gươm sắc bén. Trong đời sống hằng ngày, ông vốn là bậc hay chữ nên nhiều người đã đến xin chữ, đó là câu đối
73
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
viếng hoặc mừng nhà mới hoặc khai trương cửa hàng... Có lẽ, nhờ vậy mà Nguyễn Khuyến là người viết câu đối nhiều nhất trong các nhà thơ cổ điển Việt Nam chăng? Bấy giờ ở huyện Bình Lục có cô Trần Thị Lan, nhà nghèo bỏ quê ra Hải Phòng kiếm sống. Nhờ có nhan sắc nên vớ được chú khách buôn, nhưng cuộc nhân duyên nửa chừng đứt đoạn, ả lấy tên cố đạo phá giới là Croibier Huguet (còn gọi Cố Hồng). Từ đây mọi người quen gọi ả là Tư Hồng. Cậy thế chồng, Tư Hồng trúng thầu phá nốt mảng tường thành Hà Nội, lấy gạch xây nhà cho thuê nên phất lên rất nhanh. Và bằng nhiều mánh khóe khác, như buôn gạo lậu thuế, bị phát giác thì nói dối là đem cứu trợ đồng bào lũ lụt miền Trung! Nhờ thế, Tư Hồng đã được triều đình nhà Nguyễn
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo (thơ Nguyễn Khuyến)
ban cho hàm tứ phẩm. Trong buổi tiệc linh đình mời bá quan văn võ đến dự, Tư Hồng đã nhờ Nguyễn Khuyến viết giúp cho câu
đối. Ngao ngán trước nhân tình thế thái, ông đặt bút viết:
- Tứ phẩm sắc phong, hàm cụ lớn
Trăm năm danh tiếng, của bà to!
và:
- Có tàn, có tán, có hương án thờ vua, danh giá lẫy lừng băm sáu tỉnh;
Nào biển, nào cờ, nào sắc phong cho cụ, chị em hồ dễ mấy lăm ngươi.
Cái thâm thúy ẩn đằng sau từng câu chữ. Tưởng rằng khen, mà khen thật đấy chứ nếu chỉ đọc thoáng qua. Đọc kỹ lại thì thấy Nguyễn Khuyến chửi rất đau, rất tục nhưng lại rất thanh, rất nhã. Bút pháp
74
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
của bậc đại khoa công phu thâm hậu là thế. Thế nhưng, đối với người dân quê thiệt thà, tốt bụng thì trong tình làng nghĩa xóm, khi họ xin chữ thì ông viết rất trang trọng tuyệt hay. Chẳng hạn bên hàng xóm có người thợ nhuộm, chẳng may chồng chết sớm sang xin ông câu đối về thờ. Ông đặt bút viết ngay:
- Thiếp kể từ khi lá thắm xe duyên, khi vận tía, lúc cơn đen, điều dại, điều khôn, nhờ bố đỏ;
Chàng ở dưới suối vàng có biết, vợ má hồng, con răng trắng, tím gan, tím ruột với trời xanh.
Câu đối hoàn chỉnh, tuyệt vời không chê vào đâu được, nhà thơ đã lấy nghề nghiệp của thợ nhuộm với đủ sắc màu để nói lên tình cảm thống thiết của người vợ khóc chồng. Không chỉ là một nhà thơ đối kháng lại xã hội thời Pháp thuộc với bút pháp trào phúng bậc thầy, Nguyễn Khuyến còn là nhà thơ trữ tình xuất sắc nhất khi miêu tả thiên nhiên, sinh hoạt của nông thôn Việt Nam. Chỉ riêng ba bài thơ Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm đã là tuyệt bút, điển hình cho mùa thu Việt Nam được nhìn qua lăng kính của một người gắn bó với nông thôn từ trong máu thịt. Thử đọc lại bài thơ Thu ẩm:
Năm gian nhà nhỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đốm lập lòe.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh dưới trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy,
Độ năm ba chén đã say nhè.
Và hãy nghe nhà thơ Xuân Diệu bình câu thơ hay nhất trong bài là”Làn ao lóng lánh bóng trăng loe” với tất cả sự tinh tế, nhậy cảm của một người cũng làm thơ: “Là câu thơ của một thi sĩ thật có tài, bóng trăng vàng từ mặt nước ao sáng lóe ra, bốn chữ l khá nặng (làn lóng lánh loe) gợi chất vàng nước kim loại, ba dấu sắc thanh khứ (lóng lánh bóng) gợi ánh bắn đi, từ loe với âm oe gợi cái gì tròn (tròn xoe),
75
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
như cái ao chẳng hạn. Lịch sử văn học thế giới, qua mấy nghìn năm, đã biểu dương từng câu thơ một của các nhà thơ có tài. Một câu thơ của Nguyễn Khuyến về cảnh sắc Việt Nam như thế, là một câu thơ hiếm có” (SĐD, trang 49). Có một đặc điểm chú ý trong thơ Nguyễn Khuyến là qua các tập Quế Sơn thi tập, Quế Sơn Tam nguyên thi tập...
chúng ta thấy có những bài thơ chữ Hán được ông dịch ra thơ Nôm - phải chăng ông ý thức rằng, có sử dụng tiếng Việt của dân tộc thì ông mới biểu đạt được những cảm giác, cảm xúc tinh tế nhất khi cảm nhận ngoại vật? Những bản dịch ấy thanh thoát, tự nhiên, uyển chuyển, mềm mại chứng tỏ Nguyễn Khuyến là bậc thầy trong sử dụng, sáng tạo ngôn ngữ của dân tộc.
Năm tháng trôi qua. Tâm hồn một bậc túc nho luôn đau buồn trước chuyển biến của thời cuộc. Không đau buồn sao được, khi Nguyễn Khuyến buộc phải làm gia sư dạy con quan Kinh lược Hoàng Cao Khải - một người mà ông khinh ghét về tài năng, nhân cách - sợ bị ngờ vực lôi thôi nên đành chấp nhận. Không buồn sao được khi năm 1893, vỡ đê sông Hồng, vùng Hà Nam bị lụt lớn; rồi 13 năm sau, năm 1905 lại lụt nữa, ông ngao ngán: “Bóng thuyền thấp thoáng vờn trên vách/ Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà” (Vịnh lụt). Thế nhưng, Tuần phủ Hưng Yên kiêm Khâm sai quân thứ Bắc Kỳ Lê Hoan lại hào hứng tổ chức hội Tao Đàn và mở cuộc thi Vịnh Kiều tại Hưng Yên để qua đó, tham dò thái độ chính trị của sĩ phu và nhằm tạo ra không khí giả tạo”thái bình thịnh trị” của tân trào! Điều oái oăm cho Nguyễn Khuyến - lúc bấy giờ đã 70 xuân - được “mời” vào Ban giám khảo, vì cụ là bậc đại khoa mà cũng là nhà thơ danh tiếng nhất bấy giờ. Cuộc thi này Chu Mạnh Trinh chiếm giải nhất về thơ Nôm. Tuy nhiên, khi đọc bài “Vịnh Sở Khanh” của Chu Mạnh Trinh có câu:
- Làng nho người cũng coi ra vẻ,
Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay.
Nguyễn Khuyến thẳng thắng phê:
- Rằng hay thì thật là hay
Nho đối với xỏ, lão này không ưa.
76
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
Nhắc lại chi tiết này để chúng ta thấy được sự công phu của việc chọn lựa từng con chữ khi làm thơ. Với Nguyễn Khuyến không thể từ chối trước lời mời mọc lẫn đe dọa của tên Việt gian khét tiếng - kẻ từng cầm quân truy quét nghĩa quân Yên Thế và bị Đề Thám đánh tơi bời trong nhiều trận thất điên bát đảo - nên cụ phải chấp nhận. Nhưng điều đáng kính trọng ở nhân cách của một người “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”, “Nghĩ người cố cựu vắng dần mà đau”, “Năm canh máu chảy đêm hè vắng”... là ở chỗ không vì khiếp sợ quyền lực của chúng mà nhân đó dám bày tỏ chính kiến của mình. Hôm kết thúc cuộc thi, giữa lúc đông đảo quan khách, Nguyễn Khuyến đã điềm nhiên đọc bài thơ “Kiều bán mình” - như ném một cái tát đích đáng vào mặt Lê Hoan:
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ,
Thời trước làm quan cũng thế a?
Bài thơ mắng cay độc đến thế, nhưng tên Việt gian không bắt bẻ gì được. Từ đó, hắn mang thêm biệt hiệu đáng khinh bỉ “thằng bán tơ”. Dù không trực tiếp cầm vũ khí chống lại thực dân và bọn tay sai, nhưng qua thơ, Nguyễn Khuyến đã kết thúc số phận của chó săn ngay lúc chúng vẫn còn nắm quyền lực. Vào những ngày cuối cùng của cuộc đời, Nguyễn Khuyến vẫn sống trong tâm trạng buồn bã. Cứ vào lúc nắng chiều thoi thóp bóng hoàng hôn, một mình cụ bước ra sân ngồi trầm ngâm bên hòn non bộ nhìn hai ông phỗng. Cụ rót mình chén rượu và thêm hai chén mời kẻ đối ẩm. Nhưng hai ông phỗng thì không thể uống được. Cụ nâng ly của mình nhấp môi, buồn rầu xoa đầu hai ông phỗng, rồi lần lượt uống nốt hai chén rượu kia. Xong, cụ ngồi thừ người và trên má lăn xuống những những giọt nước mắt. Tuổi già giọt lệ như sương... Con cháu rất thương, nhưng không biết phải an ủi thế nào cả. Trong thời gian này, Nguyễn Khuyến đã viết bản Di chúc bằng chữ Hán và tự dịch ra chữ Nôm - trong đó có những câu cảm động:
- Ơn vua chửa chút báo đền
Cúi trông hổ đất, trông lên thẹn trời
Sống không để tiếng đời ta thán
77
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Chết được về quê quán hương thôn
Mới hay trăm sự vuông tròn
Sống lâu đã trải, chết chôn chờ gì?
Đồ khâm liệm chớ nề xấu tốt
Kín chân tay đầu gót thời thôi
Cỗ đừng to lắm con ơi
Hễ ai chạy lại, con mời người ăn
Tế đừng có viết văn mà đọc
Trướng đối đừng gấm vóc mà chi
Minh tinh con cũng bỏ đi
Mời quan đề chủ con thì không nên
Môn sinh chớ bổ tiền đạt giấy
Bạn của thầy cũng vậy mà thôi
Khách quen chớ viết thiếp mời
Ai đưa lễ phúng con thời chớ thu
Chẳng qua nợ để cho người sống
Chết đi rồi còn ngóng vào đâu!
Lại mang cái tiếng to đầu
Khi nay bày biện, khi sau chê bàn
Cờ biển của vua ban ngày trước
Khi đưa thầy con rước đầu tiên
Lại thuê một lũ phường kèn
Vừa đi vừa thổi mỗi bên dăm thằng
Việc tống táng nhung nhăng qua quýt
Cúng cho thầy một ít rượu hoa
Đề vào mấy chữ trong bia
Rằng: “Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”
Qua bài thơ này ta có thể thấy được nghi thức tang lễ của Việt Nam ta - như trong đám tang thì gia chủ có mời phường kèn, người đến viếng có mang theo trướng, câu đối... và quan niệm của Nguyễn Khuyến muốn giản dị hóa - như cụ dặn phải bỏ đi minh tinh là mảnh lụa, vải hoặc giấy ghi tên hiệu, tên thụy, tuổi và chức tước, địa vị của người đã khuất, sau đó, đem dán vào một cái khung bằng tre, nứa
78
TẬP 4: DANH NHÂN VĂN HÓA VIỆT NAM
hoặc cây nêu (gọi là cây triệu) rất cao rước đi trước quan tài, mai táng xong thì đốt; đề chủ là viết tên hiệu người đã khuất vào thần chủ (cái thẻ bằng gỗ để thờ) tượng trưng cho linh hồn - việc viết như thế rất quan trọng nên thông thường phải mời người có chức tước... Sự giản dị này cũng là phẩm chất cao đẹp của nhà nho Việt Nam thời trước. Theo tài liệu mới nhất của TS. Nguyễn Mộng Giao - cháu gọi Nguyễn Khắc, con trai Nguyễn Khuyến bằng ông ngoại - thì trước khi về suối vàng, cụ có dặn dò con cháu: “Khi cụ chết thì tống táng qua loa tại đồng làng, khi cải mộ đưa cụ lên núi Phượng Hoàng đặt mộ. Phải đào đến khi thấy đất trắng tinh như phấn mới được đặt hài cốt cụ xuống. Cụ vẽ cả địa đồ và giao cho ông tôi để làm việc ấy. Truyện kể rằng khi đào huyệt, phải đến ba tầng thang mới thấy đất trắng như phấn và lúc đó mới hạ huyệt được. Cụ Tam nguyên bảo với ông tôi rằng: “Cụ muốn con cháu sau này hun đúc tài năng và sống thật thanh bạch nên đặt mộ cụ vào mạch đất trắng đó”. Tôi không hiểu được bằng cách nào mà ngay từ thời đó cụ đã biết rằng - dưới núi Phượng Hoàng ở độ sâu mươi mét là một tầng đất sét trắng - mà ngày nay phải bằng cách khoan trực tiếp các nhà địa chất mới thấy được” (Báo Lao động& xã hội số ra ngày 4/5/1997). Hiện nay, tại quê hương của Nguyễn Khuyến - xã Yên Đổ, huyện Bình Lục đã xây dựng xong khu tưởng niệm thi hào, đặc biệt nơi đó có tấm bia lớn: dài 1,5 mét (cả chân), dày hơn 10 phân, ngang 80 phân với trọng lượng trên 300 ký; trên đó có khắc bài thơ Thu điếu nổi tiếng:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc đưa làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối buông câu lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Đánh giá về sự nghiệp của Nguyễn Khuyến trong sự vận động và phát triển của văn học nước nhà, đã có nhiều cuộc Hội thảo khoa học
79