🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Kể Chuyện Danh Nhân Việt Nam – Tập 3: Danh Nhân Khoa Học Việt Nam Ebooks Nhóm Zalo TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM 1 Biểu ghi biên mục trước xuất bản được thực hiện bởi Thư viện KHTH TP.HCM Lê Minh Quốc Danh nhân khoa học Việt Nam / Lê Minh Quốc. - Tái bản có chỉnh sửa, bổ sung. - T.P. Hồ Chí Minh : Trẻ, 2009 250tr. : tranh ảnh, hình vẽ ; 24cm. - (Kể chuyện danh nhân Việt Nam ; T.3) 1. Danh nhân -- Việt Nam. 2. Nhà khoa học -- Việt Nam. I. Ts. II. Ts: Kể chuyện danh nhân Việt Nam. 959.7092 -- dc 22 L433-Q16 nhà xuất bản trẻ BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM 4 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM LỜI NÓI ĐẦU Trong Bình Ngô đại cáo, nhà văn hóa Nguyễn Trãi khẳng định: “Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần xây nền độc lập; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có”. Vâng, “hào kiệt lúc nào cũng có”. Đây là một thực tế về sức sống trường tồn, mạnh mẽ của dân tộc ta, non sông đất nước ta. Non sông, đất nước ta trải qua hơn 4.000 năm văn hiến đã sinh ra biết bao người con ưu tú. Hầu như trong mọi lĩnh vực đều có nhiều danh nhân đóng góp công đức to lớn. Đó là những con người trí tuệ thông minh, nghị lực phi thường, có tinh thần yêu nước nồng nàn đã cống hiến tất cả tinh hoa của đời mình cho Tổ quốc. Những con người ưu tú ấy mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc ta trong quá trình hơn 4.000 năm dựng nước và giữ nước. Nhằm góp phần giúp thế hệ trẻ hôm nay và mai sau thấm nhuần công đức và học tập những tấm gương danh nhân ấy, Nhà xuất bản Trẻ chủ trương thực hiện bộ sách nhiều tập “Kể chuyện danh nhân Việt Nam” với nhiều chủ đề khác nhau. Trong tập sách này, chúng tôi đề cập đến các nhân vật đã có nhiều cống hiến lẫy lừng trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, kỹ thuật. Do khuôn khổ có hạn của một tập sách, chúng tôi chỉ giới thiệu được những danh nhân tiêu biểu, và sẽ tiếp tục trong các tập sau. Về thứ tự của nhân vật, trước mắt chúng tôi sắp xếp theo năm sinh, không xếp theo alphabet. Trong tập sách này là các danh nhân Lương Thế Vinh, Vũ Hữu 5 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM – hai nhà toán học thế kỷ XV; Lê Quý Đôn – nhà bác học vĩ đại của thế kỷ XVIII, Hồ Nguyên Trừng – người đã đúc súng thần công; hoặc Cao Thắng đã chế tạo được súng trường theo kiểu của Pháp. Bên cạnh đó chúng tôi còn giới thiệu một số nhân vật hiện đại như giáo sư Trần Đại Nghĩa – người đã chế tạo súng Bazooka trong kháng chiến chống Pháp; hoặc giáo sư Tạ Quang Bửu, bác sĩ Đặng Văn Ngữ, bác sĩ nông học Lương Định Của, nhà toán học Lê Văn Thiêm, Hoàng Tụy, nhà vật lý hạt nhân Nguyễn Văn Hiệu… đều là những nhân vật có nhiều đóng góp quan trọng trong lĩnh vực khoa học nước nhà. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đề cập đến những bậc lương y như từ mẫu. Họ đã để lại nhiều công trình nghiên cứu y khoa rất có giá trị. Trong dòng phát triển của nền y học dân tộc nước ta đã có những bậc danh y cũng đều tâm niệm như thế. Ngay từ đời nhà Lý (1090-1224) triều đình đã tổ chức Ty thái y, sang triều nhà Trần (1225-1399) đã phát triển lên thành Viện thái y. Rồi sau khi đánh đuổi giặc Minh, nhà Lê (1428-1788) cũng rất chú trọng đến việc phát triển nền y học nước nhà; bộ Luật Hồng Đức đã đặt quy chế nghiêm ngặt về nghề y v.v... So với nền y học của phương bắc, chúng ta tự hào cũng có bản sắc riêng – trong lời ăn tiếng nói của nhân dân còn ghi nhận: Đó có Hoàng cầm, Hoàng kỳ Đây có Chỉ xác, Trần bì kém chi Qua thực tế, ông cha ta đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm phòng bệnh, chữa bệnh như “Cơm no chớ có chải dầu / Đói lòng chớ có tắm lâu tật nguyền”; “Nhiều tiền hoàng cầm hoàng kỳ, ít tiền trần bì, ngũ sắc”; “ Sạch sẽ là mẹ sức khỏe”; “Cứu bệnh như cứu hỏa”; “Đau bụng lấy cùm cụm mà chườm/ Nhược bằng không khỏi hoắc hương với gừng”; hoặc “Đậu xanh, đu đủ, của chua/ Có tính rã thuốc chớ cho uống cùng” v.v… Rõ ràng đây là một nhận thức khoa học nhằm bảo vệ sức khỏe mà ông cha ta đã tổng kết từ thực tế của đời sống. Nay, chúng tôi viết về Thánh Y Hải Thượng Lãn Ông – người 6 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM đã phát huy chủ trương của Tuệ Tĩnh thiền sư “Nam dược trị Nam nhân” và để lại công trình khoa học có trị lâu bền Hải Thượng y tôn tâm lĩnh mà trong Hội nghị kỷ niệm 250 năm ngày sinh của ông do Bộ Y tế tổ chức tại Hà Nội năm 1970 đã khẳng định: “Bộ sách quý đó không những đã trở thành ông thầy mẫu mực cho các thầy thuốc ở nước ta trong hàng trăm năm trước đây và người chỉ dẫn cách phòng và chữa bệnh cho đông đảo nhân dân lao động mà còn vạch ra những vấn đề rất sâu sắc về tư tưởng, quan điểm, nội dung và phương pháp đáng nghiên cứu, đáng học tập cho các nhà y học và khoa học của nước ta hiện nay và sau nay”. Kế tiếp là các danh y như Hoàng Đôn Hòa - thầy thuốc đời nhà Lê, tác giả của quyển sách thuốc Hoạt nhân toát yếu- sau khi mất được nhân dân tôn thờ là “cứu người công đức khắp cõi bao la”; là Nguyễn Hữu Đạo – thầy thuốc cũng dưới đời nhà Lê – đã viết quyển Mạch học, Y lý tinh ngôn đóng góp không nhỏ cho nền y học nước nhà; là Quốc thủ danh y Trịnh Đình Ngoạn – người có công dựng Y miếu Thăng Long từ năm 1774; là thầy thuốc Nguyễn Tử Siêu đã dành hết cả cuộc đời cho mục tiêu “cứu nhân độ thế”... Trong các nhân vật thời hiện đại, chúng tôi đề cập đến những bác sĩ đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, y học ích nước lợi dân. Đó Phạm Ngọc Thạch – một thầy thuốc đã có công chế tạo ra thuốc B.C.G chết phòng lao. Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện – người đã hướng dẫn cho nhân dân biết thở đúng cách để phòng, trị bệnh theo phương pháp dưỡng sinh và cũng là người sáng lập trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em. Bác sĩ Hồ Đắc Di, Đỗ Xuân Hợp – ngoài nhiều công trình cống hiến quý báu cho nền y học nước nhà, còn là những giáo sư mẫu mực có công lớn đào tạo nhiều thế hệ thầy thuốc sau nầy. Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng đóng góp nhiều công trình y học và cũng là người đề ra phương pháp dưỡng sinh trong nhân dân… Bác sĩ Tôn Thất Tùng – người Việt Nam phát minh phương pháp cắt gan có quy phạm. Bác sĩ Đặng Văn Ngữ – người chế ra nước lọc Penicillin. Tuy là những bác sĩ được đào tạo theo Tây y nhưng các bác sĩ trên cũng là những người đã ý thức “Phát huy chặt chẽ Đông 7 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM y và Tây y trong công tác y tế trên mặt trận phòng chữa bệnh, sản xuất thuốc men, đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học” theo chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình biên soạn chúng tôi tham khảo nhiều tư liệu, có ghi rõ trong phần sách tham khảo. Ngoài hình ảnh chụp thực tế, chúng tôi còn sử dụng nhiều hình ảnh minh họa khác - nhằm giúp cho bạn đọc hiểu rõ hơn về nhân vật đề cập trong sách này. Ảnh minh họa chủ yếu được sử dụng từ nhiều nguồn khác nhau, như tranh khắc gỗ của Henri Oger – cựu sinh viên trường đại học Sorbonne – thực hiện đầu thế kỷ XX, hoặc các ảnh chụp từ đầu thế kỷ XX, kể cả một số ảnh sưu tập trên internet mà chúng tôi không rõ tác giả. Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến với các tác giả tập sách, tác giả ảnh đã thực hiện nhằm giúp cho chúng tôi thuận lợi hơn về mặt tư liệu khi biên soạn. Nhân đây cũng xin được nhắc lại, tập Danh nhân Khoa học Việt Nam là tập sách nằm trong bộ sách nhiều tập Kể chuyện danh nhân Việt Nam do nhà thơ Lê Minh Quốc biên soạn; được phân chia theo chủ đề: Danh nhân khoa học Việt Nam, Các vị tổ ngành nghề Việt Nam, Danh nhân sư phạm Việt Nam, Danh nhân văn hóa Việt Nam, Danh nhân quân sự Việt Nam, Các vị nữ danh nhân Việt Nam, Danh nhân Cách mạng Việt Nam. Để bộ sách thật sự hữu ích cho người đọc – nhất là các bạn thanh thiếu niên – chúng tôi rất mong được sự chỉ giáo, giúp đỡ chân tình của các học giả uyên bác, của các nhà sử học và của các bạn đọc xa gần để bộ sách này ngày một hoàn hảo hơn. Trước hết xin độc giả ghi nhận ở đây sự biết ơn sâu xa của chúng tôi. NHÀ XUẤT BẢN TRẺ 8 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM VŨ HỮU Nhà toán học trứ danh của thế kyÛ XV Tại làng Mộ Trạch, huyện Đường An (sau đổi là Bình Giang, nay thuộc Hải Dương) có cậu bé nổi tiếng thông minh, đĩnh ngộ, tên là Vũ Hữu. Về năm sinh của Vũ Hữu, mỗi tài liệu ghi mỗi khác. Theo Công dư tiệp ký của tiến sĩ Vũ Phương Đề soạn năm 1755: Xét gia phả riêng và Đăng khoa lục thì Vũ Hữu sinh năm Tân Dậu (1441) và cho biết thêm: “Bố ông là Bá Khiêm làm An phủ phó sứ lộ Quy Hòa, Cổng làng Mộ Trạch - quê hương nhà toán học Vũ Đức 9 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM có nhiều âm đức, sinh hạ năm con trai và một con gái đều được vinh hiển. Lúc sinh thời, Bá Khiêm ở một ngôi nhà cũ, các học trò gọi là Truy Viễn tử đường. Trước nhà có một cây thông cổ thụ, cao lớn ngất trời. Tùng Hiên tiên sinh (tên hiệu của Hoàng giáp Vũ Cán) bảo đó là một trong tám cảnh đẹp ở xã Mộ Trạch”. Thuở nhỏ, nhà ông bác của Vũ Hữu có cây mít to, nhiều quả. Một người láng giềng có tính tham lam, ban đêm lẻn sang hái trộm rồi đem ra chợ bán. Ông bác thấy mất, vội chạy ra chợ, thoạt nhìn, biết ngay là mít của mình. Nhưng người bán mít cãi lấy cãi để còn ông không có cách gì để chứng mình người bán là kẻ ăn trộm, chỉ còn biết tiếc của kêu trời. Cậu bé đi theo ông bác liền nói: - Bác chờ cháu một chút, cháu sẽ tìm ra chứng cớ ngay thôi! Nói xong, cậu vụt chạy về nhà, lát sau đem ra chợ toàn là cuống mít! Cậu nói với người bán mít: - Ông cứ chắp những cái cuống này vào những quả mít kia, nếu đúng khớp thì mít là của bác tôi. Mọi người làm theo lời cậu bé. Quả nhiên cuống nào quả nấy, chẳng sai chút nào! Chỉ với trí thông minh, lanh lợi như thế cậu bé đã tìm ra kẻ trộm dễ như lật bàn tay. Từ đó dân chúng trong vùng ai cũng biết tiếng cậu bé thần đồng Vũ Hữu, nổi tiếng học giỏi và tính toán nhanh. Có lần ông được bố dẫn sang chơi nhà người bạn. Ông chủ nhà có cái điếu thuốc lào khảm bạc, làm tinh vi, chạm trổ khéo léo mà cả vùng không ai có. Hai ông già gặp nhau ngồi chuyện trò tâm đắc. Sau khi rít một hơi thuốc lào, ông bố Vũ Hữu nói: - Nếu mà cái nõ điếu này cũng làm bằng bạc thì quý biết bao nhiêu nhỉ? Ông chủ nhà đáp: - Ấy, tôi cũng định thế. Nhưng chưa biết phải mua bao nhiêu bạc thì vừa, nên còn chần chừ mãi. 10 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM Rồi như sực nhớ điều gì, ông ta nói tiếp: - À này bác, nghe nói thằng con trai của bác giỏi tính toán lắm! Sao không để nó tính thử xem sao? Thế là cậu bé Hữu đang chơi ngoài sân được bố gọi vào. Cậu bé liền cầm lấy chiếc nõ điếu nhưng vẫn chưa tìm ra được cách đo, bỗng ông chủ nhà rót chén trà đưa cho cậu: - Uống chén trà cho minh mẫn đầu óc rồi hãy tính toán cháu ạ! Bằng hai tay, cậu bé đỡ chén nước, nhưng chưa vội uống ngay. Không hiểu nghĩ sao, cậu lại đặt chén nước trà xuống bàn rồi lại nghiêng ấm rót thêm cho thật đầy. Nước sóng sánh chỉ chực trào ra khỏi miệng chén. Cậu reo lên: - Cháu đã có cách tính rồi! Đoạn cậu đặt cái chén trà vào trong tách, rồi thả chiếc nõ điếu vào đó, nước tràn lênh láng ra tách. Chẳng ai hiểu tại sao cậu bé làm như thế. Cậu lại rót nước trong tách vào ly khác, rồi đưa ly cho ông chủ nhà: - Thưa bác, số bạc cần mua để đúc chiếc nõ điếu bằng đúng khối nước trong chén này ạ! Vậy là bằng con đường suy luận sáng tạo, cậu bé Vũ Hữu đã biết cách tính thể tích của những vật khó đo lường. Lớn lên nhờ miệt mài học tập, nghiên cứu, cậu đã đỗ Hoàng giáp lúc 23 tuổi và ra làm quan dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497). Vũ Hữu đã có những tính toán sắc sảo được người đương thời ca tụng và lưu truyền đến ngày nay. Một lần, nhà vua quyết định cho sửa lại mấy cửa thành Thăng Long được xây từ thời nhà Lý đã hư hỏng nặng. Nhà vua quyết định giao cho quan đại thần tính toán vật liệu và định ngày khởi công. Thế nhưng, mấy vị quan này cứ đo đạc và tính toán mãi mà không xong. Biết Vũ Hữu là người giỏi toán, nhà vua gọi và giao nhiệm vụ. Chỉ nội trong ngày, ông đã trình lên vua bản tính toán số gạch cần phải có để xây lại thành. Tại sao ông có thể tính toán nhanh như vậy? Các quan đại thần khẽ tâu: 11 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM - Tính toán mà vội vàng như vậy, sợ rằng làm ẩu? Vũ Hữu tâu lại: - Tâu bệ hạ! Số vật liệu đã tính toán xong. Nếu thiếu hay thừa một viên gạch thì thần xin chịu tội! Các quan đại thần thấy Vũ Hữu tính toán số gạch sai lệch với họ quá nhiều thì lấy làm bực tức lắm. Họ tìm cách phá đám để Vũ Hữu phải bẽ mặt mà chịu tội. Đúng ngày khởi công, ông đưa mắt nhìn đống gạch đã sắp xếp vuông vắn, có đánh dấu trước thì thấy thiếu một viên. Ông liền tâu vua để xin bổ sung ngay một viên gạch khác. Các quan đại thần căng mắt ra để nhìn Vũ Hữu đang đôn đốc đám thợ lành nghề đang thi công, họ bảo nhau: - Phen này, cứ căn vào bộ luật Hồng Đức thì Vũ Hữu chỉ có nát thây! - Đúng thế, làm sao xây mà không thừa không thiếu được một viên gạch chứ? Có lẽ thần toán thì cũng chẳng tính nổi đâu! Trong lúc đó, Vũ Hữu cứ lẳng lặng với công việc của mình. Chẳng bao lâu, cổng thành đã xây xong và số gạch còn thừa đúng một viên. Các quan đại thần lấy làm hỉ hả lắm, họ reo lên thích thú: - A! Ngài tính toán giỏi nhỉ? Vẫn còn thừa đúng một viên đấy chứ? Khi họ đưa viên gạch này lên cho vua, ngài nhận xét: - Sao lại thế nhỉ? Viên gạch này lại khác kích thước với các viên gạch đã dùng! Vũ Hữu tâu: - Tâu bệ hạ! Bệ hạ thật anh minh và tinh tường. Quả thật đúng như vậy. Thần đã tính toán đúng số gạch để sửa sang các cửa. Nhưng khi kiểm tra chung, thần thấy phía mặt kia, tường còn chắc chắn, chỉ cần thay vào đó một viên gạch là ổn thôi. Thần đã ước lượng viên gạch đưa vào lỗ hổng ấy nên như thế nào, và ra lệnh làm viên gạch khác cỡ. Chính là viên gạch này đây ạ! 12 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM N h à v u a n g ờ rằng, Vũ Hữu tính toán sai nên chống chế như vậy chăng, liền sai thợ đem viên gạch thừa gắn vào chỗ mà Vũ Hữu dự định, không ngờ viên gạch vừa khít với lỗ hổng! Bấy giờ, nhà vua mới hài lòng mà các vị quan đại thần cũng không bắt bẻ được. Vua rất lấy làm khen ngợi bảo rằng: - Thật là thần toán! “Mộ Trạch tinh hoa” được thế hệ sau tôn vinh Rồi thưởng cho Vũ Hữu hơn trăm mẫu ruộng tốt để biểu dương tài năng của ông. Do giỏi toán như thế nên Vũ Hữu đã dành nhiều công sức để biên soạn tác phẩm Lập thành toán pháp, trong đó ông hướng dẫn cách đo ruộng đất, tính toán việc làm nhà cửa v.v… phổ biến rộng rãi trong cả nước. Ra làm quan từ năm 1463 được hưởng nhiều bổng lộc của triều đình, nhưng Vũ Hữu sống rất thanh liêm, cuộc sống gia đình cần kiệm, ông có câu thơ tự bạch: Thấm thoát tròn năm quan trải khắp, Trâu mổ thì có thiếu trâu cày. Ông làm đến Thượng thư bộ Hộ, tước Tùng Dương Hầu. Lúc gần 90 tuổi vẫn còn được triều đình tín nhiệm giao làm Nguyên lão đại thần. Không những thông minh trong toán học, ông còn khôn khéo trong việc ứng xử. Tương truyền có lần sứ Tàu sang thách vua 13 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Lê đấu cờ. Ở làng của Vũ Hữu có người giỏi cờ là Vũ Huyên được tiến cử để giúp vua. Nhưng giúp như thế nào để sứ Tàu không biết? Vũ Hữu bèn hiến kế: cho Vũ Huyên cải trang làm tên lính vác lọng, trên lọng chọc thủng một lỗ để ánh nắng có thể xuyên qua được. Vũ Huyên đứng gần lọng và mách nước cho nhà vua bằng cách xoay lọng cho ánh nắng chiếu đúng con cờ cần đi và chỗ phải đến. Nhờ vậy, vua Lê đã thắng cờ với sứ giả Tàu. Vũ Hữu mất năm 1530, cháu ông là Lê Quang Bí có thơ đề vịnh: Hào kiệt nguyện trong tiến sĩ khoa, Chữ cần chữ thận chẳng sai qua. Ti tài thử khắp tài năng rõ, Liêu hữu suy tôn đức nghiệp già. Đường tướng thủ văn so Tống Cảnh, Tấn triều bác vật sánh Trương Hoa. Môn đình rực rỡ xanh màu tía, Tích thiện cho hay bởi những nhà. Ngày nay, ở thôn Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Cẩm Bình (Hải Dương) mọi người vẫn còn tự hào và truyền tụng những câu chuyện về toán học của Vũ Hữu. Như vậy, ở thế kỷ thứ XV nước ta có hai người giỏi toán, viết sách toán đầu tiên để lại cho đời sau là Trạng nguyên Lương Thế Vinh và Hoàng giáp Vũ Hữu. 14 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM Nhà thờ nhà toán học Vũ Hữu (1441-1530) Mộ Vũ Hữu hiện nay tại làng Mộ Trạch 15 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM LƯƠNG THẾ VINH Ông trạng giỏi toán Chúng ta thử làm bài toán đố cách đây trên 550 năm – được chép trong tác phẩm toán học của một ông Trạng nước ta: Kim hữu gia kê nhất đại quần, Đình tiền tụ thực tẩu phân phân. Nhất bùng tam phụ, phụ ngũ tử, Nhất bách thất thập nhất đầu thân. Số nội kỷ đa hùng, phụ tử, Vấn quân bổ toán đắc tường vân? Trạng nguyên Lương Thế Vinh ở đền thờ Trạng, xã Liên Bảo huyện Vụ Bản, Nam Hà (Nghĩa là: Nay có gia đình nhà gà quây quần đông đủ, tụ tập ăn thóc trước sân, chúng chạy nhảy lung tung. Cứ 1 con gà trống có ba 3 gà mái, 1 con gà mái có 5 con gà con. Đếm đi đếm lại tất cả được 171 vừa đầu vừa thân. Trong số đó có bao nhiêu gà trống, gà mái, gà con, hỏi anh có tính toán rõ ràng được không?). Người đặt ra bài toán này là Lương Thế Vinh. Ông sinh năm 1442, tự Cảnh Nghị, hiệu Thụy Hiên, người làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, đạo Sơn Nam (nay thuộc làng Cao Phương, huyện Vụ Bản - Nam Định, giáp tỉnh Hà Nam). Ngay từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, tính tình phóng khoáng, hoạt bát, hay khôi hài. Ông 16 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM đỗ Trạng nguyên năm 1463 và do giỏi tính toán, có viết sách nghiên cứu về toán như Đại thành toán pháp nên mọi người thường gọi là Trạng Lường. Người ta kể lại rằng: Khi vinh quy bái tổ võng lọng về làng, các quan lại, lý dịch ở địa phương mũ áo chỉnh tề ra lộ chính để đón. Nhưng Lương Thế Vinh lại bảo mọi người rẽ ra đường tắt, qua bãi chăn trâu - nơi mà ngày xưa ông từng chăn trâu, từng chỉ cho bạn bè cách câu cá, bẫy chim, chơi thả diều... Thế là đoàn người gồm võng lọng xa giá lẫn trẻ chăn trâu về làng trong tiếng reo hò vui vẻ. Tính cách của ông Trạng Lương Thế Vinh đã để lại nhiều giai thoại rất thú vị. Tương truyền, có lần ông sang làng Phúc Khê, huyện Thanh Lan (Thái Bình) thăm người bạn thân là Quách Đình Bảo. Sức học của hai người cũng ngang ngữa nhau, chẳng hạn, khoa thi Hương năm 1462, ông Vinh đậu giải nguyên, còn ông Bảo chỉ đậu thứ hai. Đến kỳ thi Hội, ông Bảo đậu Hội nguyên, còn ông Vinh chỉ đậu thứ hai trong số 44 người. Từ chỗ mến tài nhau mà cả hai thân thiết, thường gặp gỡ trao đổi nhau về kinh sách. Khi Lương Thế Vinh đến đầu làng, dưới bóng đa râm mát, ngồi nên chõng tre uống bát nước chè, ông nghe người trong làng kháo với nhau: - Này các bác ạ! Làng ta thật đại phước. Năm nay, sẽ có người đỗ trạng đấy! Bà chủ quán nhổ toẹt bả trầu xuống đất rồi hỏi lại: - Sao bác lại biết thế? Bác nông dân cười khà: - Cứ trông cậu Bảo thì rõ! Đã ba tháng nay cậu Bảo đóng cửa học tập ôn thi, chứ không tiếp ai cả! Cậu ta chong đèn học thâu đêm đến quên ăn quên ngủ… Nghe vậy, uống xong ngụm nước chè, Lương Thế Vinh đứng dậy cười nói: - Ối dào! Còn những ba tháng nữa mới đến ngày thi mà cậu ta học như thế thì ai theo cho kịp? Tôi định sang tìm gặp bạn để trò chuyện, nhưng bạn bận học như thế thì còn đâu thời gian để tán gẫu. Xin nhờ bác nói giúp là tôi có sang chơi. 17 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Nói xong, ông đi thẳng. Chủ quán hỏi tên nhưng ông không đáp. Mấy ngày sau, ông Bảo vừa cầm sách học vừa đi lửng thửng ra quán nước, nghe bà chủ quán thuật lại, giật mình thầm nhĩ: - Người này chỉ có thể là Lương Thế Vinh, nhân đây ta sang thăm bạn để xem bạn đã ôn tập đến đâu rồi! Vài ngày sau ông Bảo sang thăm bạn. Không ngờ khi đến nơi thì ông Vinh đi vắng. Hỏi đi đâu thì người nhà mới chỉ tay ra ngoài cánh đồng lộng gió. Ra đến nơi, ông Bảo ngạc nhiên khi thấy bạn mình đang reo hò thả diều cùng trẻ con chăn trâu liền kinh ngạc kêu lên: - Thi cử đến nơi rồi mà bạn ta vẫn còn vui chơi thoải mái như thế được sao? Chao ôi! Tài học như vậy thì ta theo sao kịp? Nói xong, Bảo lủi thủi đi về và càng quyết tâm ra sức học tập. Nhưng đến kỳ thi Đình năm 1463, không như mọi năm, năm nay đích thân vua Lê Thánh Tông ra đề bài văn sách, ngài hỏi về “Đạo trị nước của các bậc đế vương”. Với đề thi này, đòi hỏi các thí sinh không chỉ thuộc làu kinh sử mà phải có sự suy nghĩ sáng tạo riêng. Nhờ không theo lối học vẹt, làm theo “bài văn mẫu” (!) mà bài làm của Lương Thế Vinh hơn hẳn các thí sinh khác. Ông đã xứng đáng được chấm nhất, đoạt học vị Trạng nguyên; còn Quách Đình Bảo chỉ đậu Thám hoa – kém ông hai bậc. Như thế đủ thấy rằng, ngay từ thuở trẻ Lương Thế Vinh đã có một lối học phải đào sâu suy nghĩ ngoài những điều mà trong sách đã viết – tư duy này phù hợp với một người say mê về toán học. Thời còn nhỏ, có lần lấy bưởi làm trò chơi đánh phết, chẳng may trái bưởi rơi xuống hố sâu. Cả đám trẻ chăn trâu tìm đủ mọi cách mà không lấy trái bưởi lên được, Lương Thế Vinh đã lấy nón chạy đến vũng nước, múc nước đổ xuống hố. Vừa làm cậu vừa ứng khẩu đọc: - Bưởi ơi! Nghe tao gọi Đừng làm cao Đừng trốn tránh Lên với tao Vui tiếp nào! 18 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM Chẳng mấy chốc quả bưởi trồi lên và nằm gọn trong tay Lương Thế Vinh. Có lần cậu cùng bọn trẻ chăn trâu ngồi hóng mát dưới bóng cây cổ thụ. Bọn trẻ đố nhau làm cách nào để biết cây cao bao nhiêu – với điều kiện là không được leo lên cây, dùng dây thòng xuống đất mà đo. Không ai có thể tính được, đều lắc đầu chịu thua. Lương Thế Vinh nhặt cây tre dài 1 mét, rồi dựng đứng lên để đo bóng cây tre, đo được nó dài 0 mét 50. Sau đó cậu tiếp tục đi đo chiều dài của bóng cây đang đổ dài trên mặt đất. Lẩm nhẩm tính toán một lát, cậu nói: - Bóng cây đổ dài xuống đất đo được 3 mét. Vậy chiều cao của cây là 6 mét. Cách tính độc đáo của Lương Thế Vinh rất chính xác – mà sau này chúng ta biết ông áp dụng cách tính của các tam giác đồng dạng. Sau khi đỗ Trạng Nguyên, ông ra làm quan, lúc đầu được giao nhiệm vụ soạn thảo giấy tờ giao thiệp với nhà Minh. Thời Hồng Đức (1470-1479), ông giữ chức quan giáo dục, làm Hàn lâm viện thị giảng, Nhập thị kinh diên, làm Tư vấn ở Sùng Văn quán, giữ chức Sái phu (sửa chữa và bình phẩm thơ văn) trong Hội Tao Đàn của vua Lê Thánh Tông. Như vậy đủ biết, ông hay chữ và uyên bác biết chừng nào. Nhưng Lương Thế Vinh còn là một nhà toán học đầy tài năng, đã thấy được ý nghĩa quan trọng của toán học. Ông từng nói: “Thần cơ diệu toán vạn niên sư” (nghĩa là: Ai tính toán giỏi là người thầy muôn đời). Với suy nghĩ đó, ông đã dành nhiều tâm huyết để biên soạn sách Đại thành toán pháp – tổng kết những kiến thức toán của thời đó và cả những phát minh của ông. Mở đầu sách, ông có đề bài thơ khuyên mọi người: -Trước thời phải biết cách thương lường, Tính toán bình phân ở cửu chương. Thông hay mọi nhẽ điều vinh hiển, Học lấy tinh tường giúp Thánh vương. Lần đầu tiên ở nước ta vào thế kỷ XV, có cuốn sách dạy các kiến thức về số học như các phép cửu chương (nhân) các phép bình phương (khai căn), đồng phân (chia đều), phương pháp đo lường 19 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM bóng (phương pháp tam giác đồng dạng), hệ thống đo lường (cách cân, đong, đo, đếm…); cách đo điền, đo diện tích các hình vuông, chữ nhật, tam giác, hình tròn… Về tập Đại thành toán pháp, năm 1721, Phạm Hữu Chung cũng có viết một tập sách toán Cửu chương lập thành tính pháp, khắc in dưới đời vua Lê Dụ Tông - nhưng căn bản vẫn dựa trên tập sách của Lương Thế Vinh. Rồi tiến sĩ Phan Huy Ôn (1755-1786) cũng tiếp thu từ hai quyển sách toán trên để viết quyển Chỉ minh lập thành toán pháp. Như thế, rõ ràng tập sách của Lương Thế Vinh rất quan trọng và có ảnh hưởng đến đời sau. Chính vì thế, trong sách toán của Phạm Hữu Chung đã tôn vinh Lương Thế Vinh với những dòng nhận định chính xác: Việt Nam sinh thánh trị trường Nam Sơn, Thiên Bản, Cao Hương sinh hiền Đĩnh sinh Lương thị trạng nguyên Quán thông lục nghệ, Nam thiên văn tài Soạn chương cửu thuật tính lai Nhân thu tiết yếu bình, sai giản, trường, Cửu, bát, thất, lục, cửu chương Tứ, tam, nhị, nhất hợp phương tính bài Trứ minh cứ tiện kê khai Xử kỳ toán sĩ, thuật lai sở cầu… Trong sách toán của Lương Thế Vinh, chẳng hạn, cách tính diện tích hình thang, ông viết: - Tam giác bị cụt đầu Diện tích tính làm sao? Cạnh trên, cạnh dưới cộng vào Đem nhân với nửa bề cao khắc thành Ở mỗi phần, mỗi phương pháp, ông đều có bài thơ Nôm cho người đọc dễ nhớ – như khi cộng hai phân số cùng mẫu số, ông viết: Cộng hai phân số cùng số dưới (mẫu số) Cứ cộng phần trên (tử số) lại với nhau 20 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM Bộ sách của Lương Thế Vinh lừng lẫy cả nước ngoài. Khi sứ thần nhà Minh sang nước ta, nghe tiếng ông không những giỏi văn chương mà còn có trí thức uyên bác về khoa học, bèn hỏi: - Có phải ông là người làm sách Đại thành toán pháp? Ông khiêm tốn trả lời: - Vâng, đúng vậy. Để thử tài ông, sứ thần nhà Minh vung tay chỉ về phía trước, nơi ấy có con voi đang đứng: - Vậy quan Trạng nước Nam thử cân con voi kia nặng bao nhiêu? Không một chút nao núng, ông đáp: - Được! Dứt lời, ông lấy chiếc cân, nói quản tượng dắt voi đi về phía bờ sông. Sứ thần nhà Minh thấy ông cầm cái cân nhỏ bé như thế bèn phì cười: - A! Xem ra cái cân đó chỉ cân được cái đuôi con voi mà thôi! Bỏ mặc ngoài tai những lời chế giễu, ông sai lính dắt voi xuống một chiếc thuyền đang neo gần bờ. Voi nặng, thuyền đằm xuống nước. Ông liền đánh dấu mép nước ngay mạn thuyền. Mọi người chẳng hiểu ra làm sao cả. Ông ôn tồn nói: - Thôi, mau dẫn voi lên bờ rồi đổ đá hộc vào thuyền cho ta! Những người lính khiêng đá bỏ vào thuyền, khi thuyền đằm ngang mực đã đánh dấu, ông cho dừng lại. Lương Thế Vinh chỉ vào đống đá đang chất trong thuyền, nói với sứ thần nhà Minh: - Cứ lấy đá trong thuyền đem cân thì sẽ biết voi nặng bao nhiêu! Ai nấy đều khâm phục cách tính của ông. Dù vậy, sứ thần nhà Minh lại cắc cớ xé một tờ giấy trong một quyển sách đưa cho ông: - Thế quan Trạng có đo được tờ giấy này dày bao nhiêu không? Cầm lấy tờ giấy mỏng, gió thổi phất phơ, Lương Thế Vinh nghĩ thầm: “Giấy thì mỏng mà ly chia ở thước lại quá thô. Làm sao mà đo?”. Thấy ông đứng trầm ngâm suy nghĩ, quan Tàu đắc chí cười lớn: 21 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM - Ha ha! Nhà toán học thiên tài Tổ Xung Chi của nước tôi dù có sống dậy cũng không đo được đâu quan Trạng ạ! Ông điềm đạm nói: - Ngài cho tôi mượn quyển sách! Quan Tàu tiếp tục chế giễu: - Chà! Quan Trạng ngờ rằng kết quả đã ghi sẵn trong sách à? Không đâu! Lương Thế Vinh chỉ mỉm cười, chứ không trả lời. Cầm sách trên tay, ông lấy thước đo cuốn sách rồi nhẩm tính ngay kết quả. Quan Tàu hết sức sững sờ: - Quan Trạng đoán mò cũng giỏi đấy nhỉ? Lương Thế Vinh nghiêm mặt: - Ngài lầm rồi. Việc này rất dễ, ta chỉ cần đo bề dầy của cả cuốn sách rồi chia đều cho số tờ là tìm ra đáp số. Có gì là khó đâu! Quan Tàu ngửa mặt lên trời than thở: - Danh đồn không sai, nước Nam quả lắm người tài. Ngoài việc viết sách toán, Lương Thế Vinh còn biên soạn cả sách về nghệ thuật như Hí phường phả lục, về Phật học như Thiền môn khoa giáo. Ra giúp nước một thời gian dài, ông không ham công danh phú quý, đến lúc già thì xin treo ấn từ quan để về quê nhà vui thú điền viên. Có giai thoại kể rằng, lần nọ Lương Thế Vinh phù giá vua Lê Thánh Tông du thuyền trên sông. Biết ông là người giỏi bơi lội nên nhà vua giả đò say rượu và đẩy ông rơi tỏm xuống sông để mua vua. Không ngờ một lát sau cũng không thấy ông trồi lên, nhà vua đâm ra hốt hoảng. Không lẽ vì trò đùa của mình mà giết hại một người tài đức? Ngài lập tức sai lính nhảy xuống sông, rồi bủa cả lưới để tìm ông Trạng. Không ngờ, khi bị nhà vua đẩy ngã xuống sông, Lương Thế Vinh vội bơi một mạch rất xa rồi ẩn náu trong lùm cây. Đợi đến lúc vua tôi đều thất vọng lo lắng, ông mới trồi đầu lên và leo lên thuyền. Vua Lê Thánh Tông mừng rỡ hỏi thế nãy giờ thần ở đâu thì ông tâu: 22 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM - Thần xuống nước thì gặp cụ Khuất Nguyên, cụ hỏi thần xuống đây làm gì thì thần đáp là chán đời muốn chết. Cụ liền mắng: “Tao gặp vua nhu nhược, vô đạo thì mới nhảy xuống sông tự vẫn, chứ mày gặp minh quân sao lại làm cái trò này?”. Thần nghe vậy nên mới quay về đây ạ! Nghe lời “nịnh khéo” như thế vua Lê Thánh Tông bật lên tiếng cười khoái trá. Nhưng ít ai biết rằng, đằng sau tiếng cười ấy là ngài đang suy nghĩ về điều mà ông Trạng giỏi toán đang khuyên mình: phải giữ trọn đạo làm vua, xứng đáng là bậc minh quân trị nước! Trong sử sách nước nhà thật hiếm có ông trạng nào khôn khéo như vậy. Lúc vui thú điền viên, không còn vướng bận việc triều đình, ông đã dành nhiều thời gian để chế ra bàn tính đầu tiên của Việt Nam. Ông nặn những hòn bi bằng đất có khoan lỗ ở giữa, phơi khô, xâu vào một cái dũi. Rồi ông làm hai xâu, việc tính toán thuận lợi hơn. Tiếp đó, ông làm nhiều xâu, buộc cạnh nhau thành một bàn tính. Bàn tính của ông đã thay thế cách tính quen thuộc mà dân gian lúc đó thường dùng là “bấm đốt ngón tay” hoặc dùng một sợi dây có những nút thắt làm công cụ tính toán. Đại loại như khi đi vay một đấu thóc, người ta thắt thêm một nút, khi trả được thì cởi nút ấy ra v.v… Sau này, khi bàn tính Trung Quốc nhập vào nước ta thì nó không khác gì bàn tính của Lương Thế Vinh. Trở về quê nhà, Lương Thế Vinh sống chan hòa với mọi người. Tương truyền có lần đang ngồi nghỉ chân ở quán nước đầu làng, đoàn khiêng võng quan huyện đi ngang qua đó, bọn lính lệ thấy ông - tưởng là một nông dân quê mùa - nên đã bắt ông ra khiêng. Lương Thế Vinh không nói gì, dù tuổi cao sức yếu nhưng ông vẫn tuân lệnh. Khi khiêng võng đến vũng bùn, ông vờ trượt chân hất quan huyện ngã chỏng gọng. Quan huyện tức giận, quát: - Lính đâu! Thằng già này láo! Quất một trăm hèo cho ta! Những tên lính lệ vừa vung roi lên thì ông nói: - Khoan đã, anh vào làng gọi hộ thằng học trò tôi là Thám hoa Trần Bích Hoành ra khiêng võng hầu quan huyện! 23 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Nghe nói thế, quan huyện mặt tái mét, hoảng hốt sụp lạy dưới chân ông: - Hạ quan có mắt như mù! Xin quan Trạng tha lỗi cho! - Quan huyện cai trị làng này, tôi là dân. Quan bắt dân đi khiêng võng thì có gì mà phải tạ lỗi? Quan huyện vẫn quỳ giữa bùn, Lương Thế Vinh bèn nói: - Thôi, ông đứng dậy đi. Từ rày về sau đừng hạch sách dân nữa nhé! Quan huyện mừng rỡ, lạy tạ rối rít, xin được khiêng võng đưa ông về nhà nhưng ông gạt đi. Lương Thế Vinh mất năm 1510 trong sự thương tiếc của muôn dân. Hiện nay, lăng mộ và đền thờ của ông tại xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản (Nam Hà) được công nhận là di tích lịch sử văn hóa của nước nhà. Trong Hồng Đức quốc âm thi tập còn lưu lại bài thơ điếu ông: - Chiếu thư thượng đế xuống đêm qua, Gióng khánh tiền đài kíp tới nhà. Cẩm tú mấy hàng về động ngọc, Thánh hiền ba chén ướp hồn hoa. Khí thiêng đã lại thu sơn nhạc, Danh lạ còn truyền để quốc gia. Khuất ngón tay thần tài cái thế, Lấy ai làm trạng nước non ta? Bây giờ, xin trở lại với bài toán đố của Trạng Lương Thế Vinh, có đáp số bao nhiêu? Thử giải theo cách giải hiện đại: Gọi số gà trống là x, vậy số gà mái là 3x, và số gà con là 5 nhân 3x bằng 15x. Theo đầu bài ta có: x cộng 3x cộng 15x bằng 171 19x bằng 171 Vậy x bằng 9 tức ta có 9 gà trống Số gà mái 3 nhân 9 bằng 27 24 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM Vạy số gà con là 15 x 9 bằng 135 Các bạn thấy đấy, bài toán đố này có khác gì những bài toán mà các bạn vẫn làm ở trường học hiện đại không? Vậy mà Lương Thế Vinh đã nghĩ ra nó cách đây 550 năm đấy! Hiện nay, tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngành giáo dục có tổ chức giải thưởng mang tên Trạng nguyên Lương Thế Vinh dành cho học sinh hiếu học từ lớp mầm non đến lớp 9. Lễ tôn vinh các học sinh đoạt giải thưởng Lương Thế Vinh 25 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM HOÀNG ĐÔN HÒA Cứu người công đức bao la Chuyện xưa kể rằng, ngày nọ có một hung thần xuống trần gian, hắn vào nhà tên Ngưu và ép buộc: “Một là mày giết mẹ, hai là mày giết anh và thứ ba là uống rượu”. Ngưu vốn là người hiếu thuận, không thể làm được những việc thất đức tày trời như thế nên chọn cách thứ ba. Khi rượu vừa uống vào thì ngũ tạng tứ chi của Ngưu đảo lộn tất cả. Trời đất quay cuồng. Càng uống càng say và Ngưu điên khùng đốt nhà. Lúc ấy: Mẹ hoảng sợ vừa la vừa khóc Ngưu co giò đá phốc ra sân Người anh nổi giận đùng đùng Xông vào quyết dạy thằng khùng một phen Sẵn chiếc búa nằm trên mặt đất Ngưu búa luôn vào óc người anh Xưa nay Ngưu vốn hiền lành Rượu vào nên mới hoá thành trâu điên Đó là một trong những câu chuyện mà danh y Hoàng Đôn Hoà thường kể để răn học trò và kết luận: Gã hung thần cười vang đắc chí Bởi rằng y chính thị ma men Muốn làm thiên hạ hoá điên Chỉ cần tốn một hũ hèm là xong! Ông sống vào thế kỷ XVI, quê quán ở thôn Huyền Khê, xã 26 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM Thanh Oai Trung, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên (Hà Tây), từng thi đậu giám sinh, nhưng không ra làm quan mà ở ẩn để nghiên cứu về nghề thuốc. Dưới thời vua Lê Trang Tông (1533-1548) trong làng xảy ra bệnh dịch, ông đã phát thuốc và cứu giúp lương thực cho nhân dân. Do đó, mọi người xem ông như một vị phúc tinh. Danh tiếng ngày càng vang xa, vì vậy, ông đã lọt vào “mắt xanh” của nhà vua. Đến đời vua Lê Thế Tông (1573-1599) tình hình chiến sự giữa họ Mạc và họ Trịnh vẫn còn sôi động. Hoàng Đôn Hòa được lệnh đi theo phục vụ trong quân của họ Trịnh với chức danh Điều hộ lục quân. Ông đã có sáng kiến chế thuốc Tam hoàn tán mang theo và dùng các phương thuốc có sẵn tại địa phương. Nhờ vậy, binh lính đã vượt qua được các bệnh dịch và sốt rét ác liệt. Sau khi chiến thắng được quân Mạc, với công lao của mình, Hoàng Đôn Hoà được phong tước Lương dược hầu và phong chức Thị nội thái y viện phủ đường. Với những kẻ tầm thường khác thì đây là cơ may để leo lên đỉnh cao của danh vọng, nhưng Hoàng Đôn Hoà không nghĩ thế. Những năm tháng hành quân trong quân đội họ Trịnh dẹp họ Mạc để phù Lê, ông đã tận mắt chứng kiến cảnh máu đổ xương tan của những dân binh. Họ đổ máu cũng không ngoài mục đích giành lấy ngôi báu giữa các thế lực phong kiến. Vì vậy, không để cho bả danh lợi cám dỗ, ông thẳng thắn xin được nghỉ hưu để chuyên tâm về nghề y. Trở về quê nhà, ông cùng với Phương Dung phu nhân tổ chức trồng thuốc Nam và dạy dân chữa bệnh bằng thuốc Nam. Trong cuộc đời của mình, ông đã đúc kết được hơn 200 phương thuốc độc đáo trị những bệnh như phù thủng, hoắc loạn, đau bụng kinh niên, thấp khớp v.v… Trong tác phẩm Hoạt nhân toát yếu (nắm phép cốt yếu cứu người), ông đã phát hiện thêm nhiều vị thuốc Nam như bồ cu vẽ chữa bệnh liệt nửa người, cỏ răng cưa chữa bệnh bị thương ứ máu, gối hạc chữa sưng đau, cây dầu sơn chữa trúng tên thuốc độc, dây gắm chữa phong tê thấp đau chân, đau ngang lưng v.v… Với tác phẩm này, lương y Lê Trần Đức cho biết thêm: “Quyển sách chỉ trình bày một số vấn đề chủ yếu về phòng bệnh và trị bệnh cần thiết cho sự sống của người ta, nên những phương thuốc này 27 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM nhằm chữa bệnh theo chứng dễ áp dụng và mang nhiều tính chất thực tiễn như một cuốn sổ tay dùng thuốc. Trước tác không nói đến lý luận cơ sở hay nguyên nhân bệnh lý, tuy nhiên phân tích dược lý và các tác dụng của các phương thuốc thì thấy được ít nhiều tính chất biện chứng của nó. Hơn nữa qua nội dung hướng dẫn việc dùng thuốc thì chúng ta càng thấy rõ nét một kho tàng kinh nghiệm quý báu. Đặc sắc là trước tác này có sự chọn lọc qua thực tiễn, nên phương thuốc ít mà tinh, không rườm rà như trong các sách phương tễ học hay bệnh học khác, thường làm cho người Một trang trong tác phẩm Hạnh nhân toát yếu qua bản dịch Lê Trần Đức đọc thêm loạn mắt khó nắm. Nhằm mục đích cứu người (hoạt nhân) với một ý nghĩa rộng rãi, trước tác gồm cả các phép dưỡng sinh, hít thở vận động để trị bệnh, tăng sức khoẻ và lời dạy thanh tâm tiết dục, giữ gìn trong sinh hoạt để sống lâu, gắn liền việc chữa bệnh với phòng bệnh...”. Và phương pháp dưỡng sinh của ông gồm bốn điểm chính: “Một là luyện khí, hít thở sâu và đều, để đưa thêm nguồn sống vào cơ thể, thay đổi khí đục, tiếp thu khí mới và làm cho mạch máu chảy đều, với quan niệm sự sống của người ta lấy khí làm gốc, lấy hơi thở làm đầu. Khí là cơ sở của mệnh. Hai là giữ tinh thần được yên lặng. Vậy cần tập trung tinh thần, không nghĩ ngợi gì cả, dẹp hết mọi mối tâm tư suy nghĩ trong khi luyện thở. 28 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM Đồng thời cần bảo đảm cho giấc ngủ được đầy đủ và điều hòa, để lấy lại sức và làm cho tinh thần được yên định. Ba là cần vận động thân thể để cho khí huyết lưu thông điều hòa, nếu ngưng trệ thì sinh bệnh, ví như “nước chảy thì không bẩn, ngõng cửa quay thì không mọt”. Do đó, thân thể phải làm việc để giúp cho sự phân hoá bên trong được điều hoà và làm tinh thần khoan khoái, gân xương vững chắc. Bốn là cần giữ cho trong lòng thanh tĩnh, hạn chế các dục vọng ham muốn thái quá về tiền tài, danh lợi, nữ sắc, làm xúc động tinh thần, và đặc biệt chú trọng việc tiết dục để cho tinh khí khỏi hao tán, thì tinh thần được vững mạnh, tránh được bệnh tật và kéo dài được tuổi thọ”(1). Tác phẩm của danh y Hoàng Đôn Hòa (thế kỷ XVI) Có lẽ, Hoàng Đôn Hoà là một trong những danh y đầu tiên quan tâm đến chữa bệnh cho gia súc. Ông viết: “Mỗi buổi sáng dắt trâu bò ra khỏi chuồng, trước tiên dắt chúng đi uống rồi sau mới cho ăn cỏ, tránh được chứng trướng bụng. Như mùa đông không có cỏ mà phải cho ăn rơm rạ khô, thì nên lấy nước vo gạo rưới cho ẩm rồi sau mới cho trâu bò ăn; như vậy chúng dễ béo mà tránh được chứng (1) Những gương mặt trí thức - tập 2 - NXB Văn hóa Thông tin - 1998 (trang 177). 29 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM táo nhiệt”. Chỉ một chi tiết nhỏ này, cho thấy ông rất am hiểu về đối tượng nghiên cứu của mình. Qua nghiên cứu của ông, ta biết cây tầm sét thì dùng lá chữa trâu bò nổi mụn lở bọng nước, còn rễ chữa ngựa tê chân khi nằm thì không đứng dậy được; cỏ mân châu chữa trâu bò bị dịch; dây tơ hồng chữa trâu bò ngựa bị nghẹn, họng tắc không nuốt được; lá bạc sau chữa trâu bò cày bừa nhọc mệt và thiếu ăn gày tóp; lá xương rồng chữa trâu bò sưng chân long móng; lá bưởi bung chữa trâu bò bị lở sinh giòi v.v… Chắc chắn những phương thuốc này góp phần không nhỏ trong việc cải thiện sức cày, sức kéo trong đời sống nông nghiệp Việt Nam thế kỷ XVI. Với những cống hiến lớn cho nền y học nước nhà, sau khi qua đời, danh y Hoàng Đôn Hoà được nhân dân lập đền thờ. Ngoài ra ông còn được triều đình sắc phong Lương Dược Linh Thông cư sĩ. Hiện nay, tại làng Đa Sĩ, xã Kiến Hưng (Hà Đông) còn lưu lại câu đối ca ngợi: Thần Tung nhạc giáng sinh, giúp nước ân cân lưu phương châu ngọc; Phật Vương xuất thế, cứu người công đức khắp cõi bao la. (Lê Trần Đức dịch) Ngoài ra còn có những tấm hoành phi ghi những chữ vàng chói lọi công đức: Hợp đức của âm dương; Thầy thuốc giỏi giúp nước; Thêm thọ cho dân. Trở lại với câu chuyện khuyên các môn sinh không đam mê tửu sắc, trong tác phẩm Hoạt nhân toát yếu, ông có ghi lại bài thơ (dịch): Trời sinh cái tính lôi thôi Gái thơm cùng rượu sóng đôi hại mình Bệnh tật phát bất thình lình Thuốc như vàng ngọc cứu mình được đâu! Lời răn dạy này không phải đã lỗi thời… 30 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG Thánh y của Việt Nam Mười năm mài một lưỡi gươm Mũi nhọn sắc bén ánh hào quang Sát khí xông lên sao Ngưu, sao Đẩu Uy nghiêm động đến tuyết sương Vào Tần đã là một việc không nên Về Hán vẫn còn phân vân Luống phiêu bạt nơi giang hồ Chí mạnh hóa ra là một người rất ngông cuồng Đó là bài thơ mà một chàng trai đang ngâm dưới ánh trăng sáng tại làng Đặng Xá (Hải Dương). Vừa dứt tiếng ngâm thơ hào sảng tưởng như kinh động cả đất trời, chàng thanh niên vạm vỡ lại múa những đường gươm tuyệt đẹp. Tiếng gươm rít trong gió. Ánh trăng trải đầy trên sân cỏ. Đâu đó có tiếng gà gáy vang lên đột ngột. Chàng thanh niên dừng lại đường gươm. Ngước mặt nhìn bóng trăng, chàng ném gươm xuống đất và lững thững bước vào lều cỏ… Thời thế loạn lạc, liệu có thể tiến thân bằng con đường binh thư? Thánh y Hải Thượng Lãn ông (1720-1791) 31 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Lê Duy Mật ở Thanh Hóa, Nghệ An cùng những người tâm phúc mưu đốt kinh thành để diệt họ Trịnh, nhưng việc bại lộ phải bỏ chạy. Hoàng Công Chất ở trấn Sơn Nam lấy cớ phù Lê diệt Trịnh để dấy binh, người người vác gậy đi đánh phá khắp nơi... Đã thế, thuế má ngày càng nhiều, sưu dịch này một nặng. Đâu đâu cũng có tiếng than khóc… Trong kinh, chúa Trịnh Giang lại hoang dâm vô độ, đến nỗi y mắc chứng bệnh lạ lùng là sợ tiếng sấm sét, do đó, phải chui xuống nhà hầm dưới đất để trú thân, việc nước giao cho bọn hoạn thần! Còn tiến thân bằng khoa cử thì chàng đã ngao ngán. Trước cổng trường thi, các sĩ phu trói gà không chặt đã chen lấn đến nỗi đạp nhau chết! Tương lai mờ mịt. Chàng lại thở dài… Chàng thanh niên này tên là Lê Hữu Trác, còn có tên là Lê Hữu Huân, quê ở làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay thuộc xã Hoàng Hữu Nam, huyện Yên Mỹ, Hưng Yên), nhưng sinh tại quê mẹ ở làng Bầu Thượng (xã Tinh Diễm, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh). Chàng trải qua những năm tháng tuổi thơ sung túc, no ấm. Ông nội là Tiến sĩ Lê Hữu Danh, làm đến chức Hiến sứ, tước Bá. Bác làTiến sĩ Lê Hữu Hỷ, làm Giám sát ngự sử, cũng tước Bá. Chú là Tiến sĩ Lê Hữu Kiều, làm Thượng thư bộ Lễ, tước Quận công. Cha là Lê Hữu Mưu, đậu đệ tam giáp Tiến sĩ, làm Thị lang bộ Công dưới triều Lê Dụ Tông, gia phong tước Bá và truy tặng Thượng thư. Còn mẹ là bà Bùi Thị Thưởng – con gái của Tướng công Bùi Diệm Đăng. Anh ruột của chàng là Lê Hữu Kiển và em là Lê Hữu Dung cũng đều đậu Tiến sĩ và làm quan lớn trong triều. Xuất thân từ hoàn cảnh danh gia vọng tộc, là con thứ bảy nên người đương thời thường gọi Lê Hữu Trác là cậu Chiêu Bảy. Về năm sinh của Lê Hữu Trác, các tài liệu ghi không thống nhất: theo Gia phả ghi ngày 12/11 năm Giáp Thân (27/12/1724), nhưng có tài liệu ghi năm 1721, mới đây nhất có tài liệu xác định là năm 1720. Thuở nhỏ, chàng được cha cho đi học ở kinh thành Thăng Long và nổi tiếng là người học giỏi, thông minh hiểu rộng và ứng khẩu thành thơ. Năm chàng 20 xuân thì cha qua đời, vì vậy chàng phải tạm xếp bút nghiên về quê chịu tang cha và nuôi mẹ. Thời 32 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM gian này tình hình trong nước cực kỳ rối ren: Lê - Trịnh đảo điên, Nguyễn - Trịnh phân tranh. Đâu đâu cũng có tiếng gươm khua. Tiếng than khóc của dân đen vọng đến trời xanh… Lê Hữu Trác hết sức phân vân về con đường lập thân. Về sau, chàng tìm gặp được người thầy họ Võ tại Đặng Xá, huyện Hoài An đậu Hương tiến nhưng không ra làm quan, giỏi về thiên số và binh pháp. Năm đó thầy đã 80 xuân, đem hết sở học truyền cho Lê Hữu Trác. Học xong nghiệp võ, chàng hào hứng tòng quân, quyết chí dẫu thân phơi ngoài sa trường, da ngựa bọc thây cũng cam lòng. Được giao cầm quân, chàng đánh đâu thắng đó. Nhưng dần dần được tận mắt thấy sự thối nát của triều đình, thấy được sự phi lý của cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn đang phân tranh đất nước, thấy được cảnh đau thương mà nhân dân phải gánh chịu nên từ đó, chàng càng oán ghét cuộc chiến tranh phi nghĩa này. Đêm nay, trở về nhà của người thầy họ Võ, ngẫm nghĩ lại những tháng ngày xông pha trận mạc, Lê Hữu Trác cảm thấy tiếc. Chao ôi! Năm tháng thanh xuân của chàng đã đi qua trong cảnh gió tanh mưa máu! Trăng vẫn sáng vằng vặc trên đầu. Chàng trằn trọc mãi. Tiếng gà gáy vang. Mặt trời nhô lên sau ngọn tre. Lúc chàng vào nhà thắp nén nhang lên bàn thờ thầy thì nghe tin dữ. Một tiểu đồng hớt hải báo tin là ở quê nhà, người anh thứ năm của chàng vừa từ trần ở Hương Sơn. Chàng tức tốc về quê chịu tang. Về nhà được ít lâu, thu xếp xong mọi việc thì chàng bị bệnh nặng vì lo lắng nhiều. Thuốc thang mãi không khỏi, nghe tiếng thầy Trần Độc ở Thành Sơn (Nghệ An) là người giỏi thuốc, thi đậu Hương tiến nhưng thi mãi không đậu đại khoa nên lui về ở ẩn, chàng liền tìm đến dưỡng bệnh. Suốt một năm trời ở đây, Lê Hữu Trác đã mượn thầy nhiều sách thuốc để nghiên cứu, càng đọc chàng càng “ngộ” ra rằng chỉ có nghề làm thuốc thì mới thật sự đem lại lợi ích cho mình và cho người. Đặc biệt, chàng được đọc bộ sách Phùng thị cẩm nang bí lục của danh y Phùng Triệu Trương. Do đó khi luận bàn nghề thuốc với thầy, Lê Hữu Trác tỏ ra rất am hiểu lý luận âm dương, về phương dược, về thực tiễn lâm sàng… Trần Độc lấy làm 33 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM kinh ngạc và truyền hết nghề làm thuốc cho chàng. Từ đây, Lê Hữu Trác quyết chí đeo đuổi nghề cứu nhân độ thế mà sau này chàng tự hào: “Làm thuốc giỏi chẳng hơn là tu tiên,tu Phật hay sao?’’. Sau khi lành bệnh, trở về quê nhà, lấy cớ phải phụng dưỡng mẹ già, chàng xin ra khỏi quân đội. Năm 1756, lúc bấy giờ đã ngoài ba mươi xuân, Lê Hữu Trác lên kinh đô tìm thầy để tiếp tục học thêm nghề thuốc nhưng không gặp được thầy giỏi. Không nản chí, ông mua thêm sách chuyên môn rồi trở về Hương Sơn dồn hết tâm lực để nghiên cứu với tâm niệm: “Mình đã trót làm một ông thầy thuốc thì phải làm cho hết cái sức của mình, dựng lên một lá cờ trong y giới”. Để xa lánh với danh lợi tầm thường, ông mai danh ẩn tích, lấy hiệu là Hải Thượng Lãn Ông với ngụ ý tự nhận là “ông già lười trên biển” - ghi lại nguyên quán xã Liêu Thượng, tỉnh Hải Dương vậy. Bên cạnh đó, ông cũng bắt đầu chữa bệnh cho nhân dân trong vùng. Sau hơn mười năm thực hành và thu thập kinh nghiệm, ông đã bắt tay vào viết bộ sách nổi tiếng Y Tôn Tâm Lĩnh gồm 66 quyển. Công trình đồ sộ này, ông đã lao tâm khổ tứ trong vòng ba mươi năm. “Đây là một công trình kế thừa có phê phán và sáng tạo trước tác y học của nhiều thế hệ, một công trình được xem là bộ “bách khoa toàn thư” y học của thế kỷ XVIII và cũng là bộ sách y học xuất sắc nhất trong suốt thời kỳ phong kiến”(1). Trong đó có ba điều cốt yếu: giải thích rõ chân lý y học Việt Nam khác với Trung Quốc; nghiên cứu cây thuốc và phương pháp chữa bệnh bằng thuốc Nam; chép lại những bệnh nan y mà ông đã chữa được, gọi là dương án và những 1. Từ điển văn học - tập I, NXB KHXH 1983 - trang 382. 34 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM bệnh không chữa được, gọi là âm án để đời sau rút kinh nghiệm. Bộ sách quý này được khắc in 115 năm sau khi hoàn thành (1885- 1770) và nay đã được dịch ra chữ Quốc ngữ, dày đến 3.000 trang in! Năm 1962, thực hiện việc trao đổi văn hoá quốc tế giữa Việt Nam và Trung Quốc, Thư viện Quốc gia nước ta có tặng Bắc Kinh đồ thư quán bộ sách này và họ đã viết lời giới thiệu trân trọng: “Sách Lãn Ông Tâm Lĩnh vừa phong phú, vừa phát huy thêm được học thuyết của họ Phùng, vì thế có thể gọi ông là người đã tập hợp được kết quả tốt của mọi nhà làm thuốc, phát huy được nhiều điều mà người trước ông chưa phát hiện, có thể gọi ông là bậc “Thánh thuốc“ của Việt Nam. Nếu ta ví Nguyễn Du là J.W.Goethe của Việt Nam, thì ta cũng có thể gọi Lê Hữu Trác là Lý Thời Trân của Việt Nam’’(2). Sự so sánh này rất chính xác, bởi lẽ Lý Thời Trân (1518-1593) cũng là danh y dưới triều nhà Minh, từng chữa bệnh cho con trai Sở vương Chu An Nghiệm, được tiến cử vào Thái y viện ở Bắc Kinh và là tác giả của bộ y dược Bản thảo cương mục gồm hơn 190 vạn chữ – một cống hiến vĩ đại của ông cho Trung y học. Đương thời, khi Lê Hữu Trác còn sống sách chưa khắc in thì thiên hạ đã chép lại, truyền tay nhau để đọc và lập bàn thờ thờ sống để bày tỏ lòng biết ơn ông. Ngày nay đọc lại bộ sách quý này – chỉ riêng phần tiểu dẫn của tác giả thì chúng ta có thể thấy được phần nào công việc nặng nhọc của bậc Thánh y nước ta. “Tôi bỏ nghề Nho, học nghề thuốc, hơn hai mươi năm nằm gai nếm mật, cố để biết được y lý, còn việc đời hay dở, tôi coi như đám mây trên đỉnh núi. Tôi làm nhà ở nơi vắng người, đóng cửa đọc sách, tìm hết sách của mọi nhà, ngày đêm nghiên cứu, một khi được câu cách ngôn của bậc tiên hiền thì ghi lại để suy nghĩ. Những câu nào lý lẽ ở ngoài câu nói mà tôi suy ra được thì lại tìm cho rộng ra, như vòng tròn không có đầu mối để biết được đến cùng”; hoặc “Tôi tự nghĩ làm thuốc cũng như người cầm binh, thầy thuốc cũng như vị tướng, làm tướng mà không biết binh pháp sao thắng được bên địch, làm thuốc mà không biết tinh dược làm sao cứu được người đời. Nhà cầm binh chia quân đội ra tiền, hậu, tả, hữu, trung còn nhà làm thuốc thì chia 2. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm - NXB Văn Hoá 1984 - trang 427. 35 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM tinh dược ra kim, mộc, thuỷ, hỏa, thổ. Nhà cầm binh chú trọng về trận đồ, về tình hình bên địch, còn nhà làm thuốc phải rõ về âm, dương, hàn, nhiệt của từng vị thuốc để chữa cho những chứng biểu lý, hư, thực của bệnh nhân”. Có thể nói Lê Hữu Trác đã tiếp thu thành quả của người xưa một cách sáng tạo, chứ không nô lệ vào những điều mà tiền nhân đã nghiên cứu. Bất cứ vấn đề gì thì ông cũng tìm cách áp dụng cho phù hợp với hoàn cảnh, với điều kiện tự nhiên. Ông đã nghiên cứu mở rộng thêm, áp dụng nhiều kinh nghiệm mà mình thu thập được, rồi tìm tòi bổ sung những điều mà người xưa còn thiếu sót và hệ thống lại một cách rành mạch. Bậc túc nho Trần Văn Giáp khi nghiên cứu tác phẩm vĩ đại này có những nhận xét lý thú: “Trong phần Dược phẩm, trước hết ông nêu rõ các tên khác nhau của một vị thuốc, công dụng chính để chữa bệnh gì, nếu kết hợp với các vị thuốc khác thì chữa bệnh như thế nào, cấm kî thế nào, cách bào chế thế nào. Việc này so với sách Cẩm nang của họ Phùng thì thật rõ hơn nhiều. Đây là không dám nói “thanh xuất ư lam” nhưng chính là có sáng tạo tính. Có nhiều điều tự ông phát minh ra, như bàn về ở nước ta thì tuyệt không thể dùng bài Ma hoàng quế chi, là những vị thuốc cực nóng, chỉ thích hợp cho người phương Bắc. Cách chữa bệnh dùng thuốc của ông thực là phù hợp với hoàn cảnh và khí hậu phương Nam v.v… Đặc điểm trong công trình nghiên cứu của ông là ông đã sưu tầm được một số cây thuốc sản xuất ở Việt Nam, mỗi vị đều ghi rõ tính chất của nó, dùng chữa bệnh gì, tục gọi là gì đều có chú thích rõ ràng…”(3). Dù đương thời nổi tiếng là bậc danh y, nhưng với tinh thần của một nhà nghiên cứu nghiêm túc, Lê Hữu Trác vẫn là người rất khiêm tốn. Trong tập Âm án và dương án, khi gặp những căn bệnh khó chữa hoặc không chữa được thì ông vẫn ghi lại “để bậc quân tử đời sau thấy ưu điểm của tôi dù không đáng bắt chước, mà chỗ khuyết điểm cũng để lại làm gương, để mọi người đừng quá yêu tôi mà bảo rằng chữa được bệnh chứ không chữa được mệnh”. Xin trích một “dương án” để chúng ta cùng thấy được cách chữa trị của ông: “Một người đánh cá tên là Trạm có thai bảy tháng, phải chứng 3. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập I, trang 428. 36 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM cảm mạo rét nóng như người sốt rét, nhức đầu đau mình, độ hai tuần thì động thai, ngồi đứng không được. Thầy thuốc cho là thai trệ, dùng thuốc đem thai lên thì dềnh lên ngực lại đau thêm. Lại một vị giáng xuống thì thai chạy xuống dưới rốn mà đau bội, tiểu tiện bế vít không đi được, vì thầy thuốc ấy nói đã hạ thì lên cho thăng, thăng vừa không khỏi thì thăng cho nhiều, thăng nhiều cũng không được thì dùng thuốc an thai. Nhưng qua mấy thang thuốc thì đau và động thai hơn trước nhiều. Do đó, người nhà mới tìm tôi điều trị và kể lại như vậy. Tôi buồn cười mà rằng: - Đứa trẻ trong bụng thật như trâu như ngựa, muốn dắt lên dắt xuống thế nào cũng được, sao các thầy không rõ nghĩa ở Nội kinh có nói: “Nếu vì bệnh mà thai động thì chữa bệnh, nếu vì thai mà bệnh thì an thai, nay nhân cảm mạo mà động thai thì phải chữa về bệnh mà thai tự nhiên yên”. Nói xong, tôi đến xem thì người đàn bà đã sinh sáu bảy lần, thiên quý thuỷ đã kém. Vả lại hình thể đen gầy, mặt sạm như tro than, có thể là thuỷ suy hoả thăng, huyết kém âm hư, nay chân thuỷ đã suy thì thai không được yên. Xong, tôi dùng bài “lục vị thang” thêm Sài hổ, Bạch thược để dẹp tạng can; thêm Trí mẫu và Hoàng bá đều sao để dẹp chân hoả. Chỉ uống một thang mà chứng hàn nhiệt ngưng ngay mà thai thì được yên. Tôi biết rằng vì các thầy đã trục và hạ, nên tôi lại cho uống bài “bổ trung” bội Thăng ma để đem lên, thời thai về chỗ cũ mà tiểu tiện thông lợi. Xong lại cho uống bài: “lục vị” bỏ Sài, Thược, Tri, Bá, thêm Mạch đông, Ngũ vị, Đỗ trọng, Tục đoạn và uống xen với thuốc điều tì dưỡng vị, mà để ý nhiều về Sâm, Truật chỉ trong một tuần mà bệnh nhân lại khoẻ như trước”. Còn đây là một “âm án”: “Tên Tiểu là người đi buôn, sau khi ốm mới dậy nhân thương thực cảm phong mà vừa thổ vừa tả, bốn tay chân giá lạnh và đoản khí, đi thuyền về nam đã một ngày một đêm, người nhà đến nói với tôi để xin thuốc, tôi đến xem mạch thì sáu bộ “trầm và vi” tựa như không, tinh thần lại hỗn loạn, tôi biết là chứng nguy không muốn cho thuốc, nhưng vợ y cùng mẹ vợ kêu nài, vả lại vợ y đã có thai ba tháng, hàng ngày sinh nhai chỉ nhờ người chồng. Tôi thương tình cảnh đó mới cho uống bài “Sâm truật phụ”, hết ba thang thì chứng thổ tả ngưng và 37 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM đã thấy có mạch, bốn chân tay đã hơi ấm và đã biết người ngoài. Tôi cho uống bài “Cứu dương thang” mà mỗi lần uống lại cho ăn một bát cháo đặc, được một ngày một đêm thời khí của dạ dày đã trở lại mà ăn uống đã tiến, nhưng lại thấy sốt nóng tự bàn chân bốc lên như lửa đốt, lại khát quá độ. Đó là vì thổ nhiều thì hại chân dương, tả nhiều thì hại chân âm, dù có uống Sâm Phụ hồi dương, nhưng dương không có âm để liễm lại, hoả không có thuỷ để chế đi, cho nên phù việt trở nên mà nóng tự huyệt “dũng tuyền” bốc lên, là âm hoả xông lên trên. Tôi nghĩ như vậy rồi cho uống một thang: hai lạng Thục địa, 3 chỉ Đan sâm, 2 chỉ Mạch môn, 1 chỉ Ngũ vị,1 chỉ Phụ tử, 1 chỉ Ngưu tất, thêm bấc thắp đèn ngày xưa sắc đặc cho uống nhiều, mới có một thang mà khát khỏi ngay, nhưng vẫn nóng như trước lại thêm sợ rét run người lên không chịu nổi. Tôi nghĩ rằng Nội kinh có nói: “Dương hư thời sợ rét, âm hư thời phát sốt” thì chứng này là chứng dương kém ở ngoài, âm kiệt ở trong. Tôi mới cho uống bài “bát vị thang” bỏ Trạch tả thêm Mạch môn, Ngũ vị, Ngưu tất, Cao ban long uống một chén to thì nóng đỡ một nửa, đến thang thứ hai thì người mát, xem mạch thì “hồng và sắc” mà không có thứ tự, thầy thuốc một lần thở ra hút vào mà mạch của bệnh nhân bảy lần phồng lên xẹp xuống, lại lúc thấy lúc không mà không có thần không có lực. Tôi thấy nóng lui mà mạch vẫn không điều hoà, là âm dương ly tuyệt, tôi bảo vợ và mẹ y rằng không thể chữa nổi. Nhưng họ thấy bệnh đã đỡ quá nửa, ngờ là tôi không thấy tiền thuốc đầy đủ nên bỏ dở không chữa, rồi đem quần áo, đồ đạc ở trong thuyền đến nhà tôi mà nói rằng: “Nhà đói khổ chỉ có những thứ này để bù vào tiềân thuốc”. Tôi vừa thẹn vừa giận nói cho họ biết là nói thật chứ không phải vì buộc lợi. Vợ y thưa rằng: “Sống chết chỉ lạy nhờ tôn ông đâu dám tìm thầy thuốc khác”. Tôi trả những đồ vật họ đem đến, rồi đem bài “bát vị” đã cắt cho trước kia, cho uống xen với bài “quy tì”. Uống được mấy hôm thì tinh thần bệnh nhân mạnh nên ăn uống thêm bội. Nhưng tôi ngờ là giả tượng, vì những chứng hư yếu lắm mà dùng thuốc để bổ tiếp thì mạnh dần mới là tốt. Chứ trường hợp này như ngọn đèn sắp tắt mà cháy mạnh, quả nhiên, mấy hôm sau bệnh nhân khí tuyệt. Thở ra hít vào không nổi. Gia đình bệnh nhân đến nói, tôi cho uống Sâm, Phụ thì thở ngược lên thật mạnh rồi chết. 38 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM Về chứng này, tôi chữa hằng tuần khó nhọc, không đáng kể số tiền thuốc mà nhà bệnh không trả được, chỉ hiềm rằng: không biết vì bệnh nặng mà thuốc còn ít hay là vì tôi chưa nghĩ hết mọi lẽ? Vậy xin ghi lại đây để hỏi các bậc cao minh”. Những câu chuyện mà ông ghi lại như thế đã phản ánh sinh động đời sống của nhân dân ta trong thế kỷ XVIII. Và bây giờ đọc lại, chúng ta thấy phương pháp chữa bệnh của ông không khác gì phương pháp thám chẩn lâm sàng (examen clinice) của các bác sĩ thời nay. Nếu Thiền sư Tuệ Tĩnh – ông Tổ của thuốc Nam – là người đầu tiên xây dựng truyền thống y dược học dân tộc với phương châm “Nam dược trị Nam nhân” thì danh y Lê Hữu Trác cũng tiếp tục nghiên cứu và phát hiện thêm nhiều vị thuốc mà trước đây người xưa chưa đề cập đến. Chẳng hạn, ở phần Lĩnh nam bản thảo, ông đã thừa kế 497 vị thuốc Nam của Tuệ Tĩnh và chép thêm hơn 300 vị thuốc được bổ sung thêm công dụng hay mới phát hiện thêm v.v… Cùng với danh y Tuệ Tĩnh, một lần nữa ông khẳng định ở nước ta có nguồn dược liệu phong phú để chữa bệnh: Thuốc thang sẵn có khắp nơi Trong vườn, ngoài ruộng, trên đồi, dưới sông Hàng ngàn thảo mộc, thú trùng Thiếu gì thuốc bổ, thuốc công quanh mình Đặc biệt trong phần Vệ sinh yếu quyết, ngoài phần hướng dẫn cho nhân dân “biết phép dưỡng sinh, thuận theo quy luật âm dương, điều hoà âm dương thích nghi với thời tiết bốn mùa, biết phép tu thân dưỡng tính, ăn uống có tiết độ, sinh hoạt có chừng mực, không lạm dụng bừa bãi nhọc mệt, cho nên hình thể và tinh thần đều khoẻ mạnh mà hưởng hết tuổi trời khoảng trăm năm mới mất” thì ông đã đưa ra một tổ chức vệ sinh toàn diện từ trong gia đình ra đến xã hội phù hợp với phong tục tập quán của nước ta – những điều này đến thế kỷ XXI vẫn còn giá trị thực tiễn. Thử tưởng tượng hơn 200 năm trước đây, ông đã nhìn thấy: 39 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Một điều trọng yếu không quên Vấn đề nước uống phải nên thế nào? Chớ dùng nước ruộng, nước ao Nước hồ, nước vũng nước nào cũng dơ Chi bằng nước giếng, nước mưa Nước sông, nước suối cũng chưa an toàn Cần nên ngâm thuốc sát trùng “Chanh châu, Quán chúng, Hùng hoàng, Nghê răm” “Phèn chua” lọc nước thêm trong Ao tù, nước rửa cũng không nên dùng Nước ăn chứa đựng trong thùng Cũng nên đậy kín đề phòng bụi rơi Nước mưa nên hứng giữa trời Mái nhà thường có sâu trôi lẫn vào Bể xây thành đáy mọc rêu Nên dùng vôi bột cọ theo cho liền Cá vàng nuôi cảnh cũng nên Phòng khi có độc cá liền chết ngay Cá ăn bọ gậy hằng ngày Vừa là trừ muỗi lợi thay mọi bề Ngoài việc soạn sách, chữa bệnh cứu người, Lê Hữu Trác còn mở trường dạy nghề thuốc cho học trò. Tiếng tăm của ông ngày càng vang dội. Năm 1781, nghe danh của ông, chúa Trịnh triệu ông ra kinh đô Thăng Long để chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm và thế tử Trịnh Cán. Mọi người lấy làm mừng cho ông vì “tiếng tăm động đến cửu trùng, tiền đồ hẳn rất có triển vọng”, nhưng ông thấy “lạnh tóc gáy” không lấy đó làm vui và bảo với học trò: - Cây kia có hoa nên bị người ta hái; người ta có cái hư danh nên lụy về chữ danh. Ví bằng trốn cái danh đi có thú hơn không? Đêm ấy, ông trằn trọc mãi rồi nhủ lòng: - Mình thuở trẻ mài gươm, đọc sách. Mười lăm năm phiêu bạt 40 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM giang hồ, không có cái gì là sở đắc. Mình đã xem công danh là vật bỏ, về núi Hương Sơn dựng lều, nuôi mẹ, đọc sách, mong tiêu dao trong cái vườn đạo lý của Hoàng Đế, Kỳ Bá(4) lấy việc giữ thân mình, cứu giúp người cho là đắc sách lắm. Nay không ngờ lại bị cái hư danh làm lụy đến nông nỗi này. Nhưng rồi, ông cũng phải chấp hành lệnh lên kinh. Chuyến đi này cho thấy Lê Hữu Trác không chỉ là một danh y mà ông còn là một nhà văn xuất sắc bậc nhất vào thời Lê mạt. Ông đã hoàn thành tập bút ký Thượng kinh ký sự (Kể chuyện lên kinh) mang nặng dấu ấn của “cái tôi” mà văn học trước đây thường ít đề cập đến, qua đó nó đã vẽ lại những sự thật của lịch sử thời Lê - Trịnh. Chẳng hạn, khi vào khám bệnh trong phủ chúa, ông miêu tả chính xác và sinh động: “Ở trong tối om, không thấy cửa ngõ gì cả. Đi qua độ 5, 6 lần trướng gấm như vậy, đến một cái phòng rộng, ở giữa phòng có một cái sạp thếp vàng. Một người ngồi trên sạp độ 5, 6 tuổi, mặc áo lụa đỏ. Có mấy người đứng hầu hai bên. Giữa phòng là một cây nến to cắm trên một cái giá bằng đồng. Bên sập đặt một cái ghế sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Một cái màn là che ngang sân. Ở trong có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít. Đèn sáp chiếu sáng, làm nổi màu mặt phấn và màu áo đỏ. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt. Xem chừng Thánh thượng thường ngồi trên ghế rồng này”. Bắt mạch khám bệnh cho Trịnh Cán thì ông thấy “tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò”, còn Trịnh Sâm thì “mình gầy, da khô, nước tiểu vàng, đại tiện không tiêu, bụng đầy, thỉnh thoảng ợ hơi. Lại có cơn sốt, miệng khát lưỡi nẻ, ho thất thanh”. Sống trong nhung lụa, vật chất thừa mứa, nhưng cha con chúa Trịnh lại mang những căn bệnh ngặt nghèo nầy. Một trong những nguyên nhân ban đầu mà ông nhận định vì “ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên phủ tạng yếu đi”. Trước đây, trong sách của mình, ông đã căn dặn: Còn như phú quý nhàn cư Ngày đêm yến tiệc ăn no lại nằm 4. Hoàng Đế và Kỳ Bá theo truyền thuyết là hai vị tổ sư của y học đã làm ra bộ Nội kinh. 41 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Rượu say rồi lại nhập phòng Khỏi sao tích trệ phạm phòng chết non Những căn bệnh này các thầy thuốc ở kinh đô phải bó tay. Sau khi khám bệnh, bốc thuốc xong, mặc dù được chúa Trịnh kính nể, trọng dụng nhưng ông chỉ canh cánh một nỗi lòng nhớ quê nhà và xin được trở về cố hương. Mãi một năm sau ông mới toại nguyện “xin xỏ năm lần bảy lượt mới được buông tha”. Những ngày này ông sống thong dong, tiếp tục dạy học trò và làm thuốc cứu người. Trong tập Thượng kinh ký sự, ông sung sướng phóng bút: ”May sao, lời thề núi cũ không quên, tuy thân mắc vào vòng danh lợi, nhưng vẫn không bị danh lợi mê hoặc. Ra đi thung dung, trở về ngất ngưởng. Lại về núi cũ, lại nằm yên trên đá, lại ngủ dưới hoa. Đang khi mơ màng, lại nghe đến việc xảy ra, giật mình bừng tỉnh. Tôi nghĩ bụng: mình không đến nỗi bị thiên hạ chê cười, chỉ nhờ “không tham” đó thôi”. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác mất năm 1791. Cũng như Thiền sư Tuệ Tĩnh, ông được nhân dân ta tôn vinh là “Đại y tôn Việt Nam”. Đúc kết tâm nguyện của mình về y đức, ông đã để lại “Cách ngôn dạy người làm thuốc” - nổi tiếng không kém gì Lời thề của danh y Hippocrate(5). Thiết nghĩ, những lời vàng ngọc của Hải Thượng Lãn Ông cho đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị: 1. Học thuốc phải thấu hiểu cả nho lý, rỗi nên xem những sách thuốc của các bậc lương y thời trước, để gặp bệnh biết thông biến, mới khỏi sai lầm. 5. Hippocrate: danh y nổi tiếng thế giới, người Hy Lạp, sinh và mất tại đảo Cos khoảng năm 460-375 trước công nguyên. Lời thề của bậc danh y này như sau: “Tôi xin thề trước thần Apollon- thần chữa bệnh, trước Esculape - thần y học, trước thần Hygie và Pannacée, trước sự chứng giám của tất cả nam nữ thiên thần, là tôi sẽ đem hết sức lực và khả năng để làm tròn lời thề và những điều cam kết sau đây: • Tôi sẽ xem những thầy học của tôi ngang hàng với các bậc sinh thành ra tôi. Tôi sẽ chia sẻ với các vị đó của cải của tôi và khi cần tôi sẽ phụng dưỡng. Tôi sẽ coi con thầy như anh em ruột thịt của tôi và nếu họ muốn học nghề y, tôi sẽ dạy cho họ mà không giấu nghề, không đòi hỏi gì cả. Tôi sẽ truyền đạt cho họ những nguyên lý, những bài học truyền miệng và tất cả các vốn hiểu biết của tôi cho các con tôi, các con của thầy dạy tôi và cho tất cả các môn đệ cùng gắn bó bởi một lời cam 42 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM 2. Nếu nhà bệnh có mời, nên tuỳ bệnh nặng nhẹ mà đi xem, chớ thấy người phú quý mà đi trước, nhà bần tiện mà đi sau. 3. Xem mạch cho đàn bà, con gái, nhất là gái goá và các ni cô, phải bảo một người đứng bên cạnh để tránh sự hiềm nghi. 4. Đã là nhà làm thuốc phải để ý giúp người, mà không nên vắng nhà luôn, nhất là đi hành lạc. 5. Gặp chừng bệnh ngặt, muốn hết sức cứu vãn, nhưng nói cho người nhà có bệnh biết trước là bệnh khó chữa, rồi hãy cắt thuốc. 6. Thuốc phải chọn vị tốt và bào chế đúng phép, chứ không được cẩu thả. 7. Gặp người đồng nghiệp, người học hơn mình thời thờ làm thầy, người cao hơn mình thì kính cẩn, người kém mình nên khuyên bảo thêm, dù gặp người kiêu ngạo cũng nên khiêm nhường. 8. Chữa bệnh cho người nghèo và quan quả cô độc, ta càng thêm lưu ý, nhất là người con hiếu, vợ hiền hay nghèo mà bị bệnh, thời ngoài sự cho thuốc, ta có thể trợ cấp thêm, nếu không đủ ăn, như thế mới là nhân thuật. (tiếp theo) kết và lời thề đúng với y luật mà không truyền cho một ai khác. • Tôi sẽ chỉ dẫn mọi chế độ có lợi cho người bệnh tùy theo khả năng và sự phán đoán của tôi, tôi sẽ tránh mọi điều xấu và bất công. • Tôi sẽ không trao thuốc độc cho bất cứ ai, kể cả khi họ yêu cầu và cũng không gợi ý cho họ. Cũng như vậy, tôi sẽ không trao cho bất cứ phụ nữ nào những thuốc gây sẩy thai. • Tôi sẽ suốt đời hành nghề trong sự vô tư và chân chất. • Tôi sẽ không thực hiện những phẩu thuật mở bàng quang mà dành công việc đó cho những người chuyên môn. • Dù bất cứ thế nào tôi cũng vì lợi ích của người bệnh, tránh mọi hành vi xấu xa, đồi bại, nhất là tránh cám dỗ phụ nữ và thiếu niên tự do hay nô lệ. • Những điều mắt tấy tai nghe trong lúc hoặc ngoài lúc hành nghề, tôi sẽ giữ kín không tiết lộ với bất cứ ai. • Nếu tôi làm trọn lời thề này, tôi sẽ được nguời đời quý mến. Nếu tôi phản bội lời thề thì sẽ gánh chịu mọi tai họa. 43 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM 9. Khi bệnh nhân khỏi, chớ cầu trả lễ nhiều, nên để họ tuỳ ý vì làm thuốc là thuật thanh cao, thời phải có tiết thanh cao. 10. Tôi xét, làm thuốc là nhân thuật giữ tính mạng cho người, vậy không nên mưu lợi. Ngạn ngữ có câu: “Ba đời làm thuốc hay tất đời sau có người làm nên khanh tướng”. Tôi thường thấy các thầy thuốc tầm thường, hoặc nhân cha mẹ người bệnh ốm ngặt, hoặc nhân lúc nguy cấp về đêm tối, mà bệnh dễ chữa bảo là khó, bệnh khó bảo là không chửa được, thế là lập tâm bất lương, hơn nữa đối với người cao cấp thì ân cần để tính lợi, đối với người nghèo túng thời lạnh nhạt coi thường, cho việc làm thuốc như nghề buôn bán, thời không đáng kể. Cổ nhân có nói: “Không làm quan giỏi cũng làm thầy thuốc giỏi” vậy tôi chỉ nghĩ sao cho không hổ với lương tâm, nên bệnh nào không thể chữa được, thời báo trước cho nhà có bệnh biết. Nếu gặp những người tiếc của coi thường tính mệnh, hay là không đủ ăn mặc, thời tôi lại chu cấp thêm”. Năm 1970, Bộ Y Tế nước ta đã tổ chức trọng thể kỷ niệm 250 năm sinh của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Nhà nghiên cứu Văn Tân - Viện Sử học - trong bài tham luận của mình đã rút ra sáu bài học: 1. Lê Hữu Trác làm việc theo phương pháp tư tưởng độc lập suy nghĩ; ông đọc sách người xưa với một thái độ phê phán nghiêm túc; ông đã vận dụng lý luận y học cổ của Trung Quốc vào thực tiễn Việt Nam một cách sáng tạo. 2. Cũng như Tuệ Tĩnh, Lê Hữu Trác có ý thức dân tộc, ông chủ trương dùng thuốc Nam để chữa bệnh cho người Việt Nam. Chủ trương của ông phù hợp với nguyện vọng và túi tiền của dân nghèo, vì nó làm cho dân nghèo có điều kiện chữa bệnh. 3. Ý thức phục vụ bệnh nhân của Lê Hữu Trác đáng treo gương cho muôn đời soi chung. Lê Hữu Trác đi chữa bệnh không vì danh lợi mà vì người bệnh. Vì người bệnh, ông không quản đường xa, không quản gió mưa, không quản đêm tối. 44 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM 4. Lê Hữu Trác đặc biệt quan tâm đến vệ sinh phòng bệnh, và coi đó là biện pháp ngăn chặn cho bệnh khỏi xảy ra. 5. Lê Hữu Trác là nhân vật biết tự trọng. Ông không chịu luồn cúi ai, và cũng chẳng muốn cho ai luồn cúi mình. Ông vui vẻ với cuộc sống thanh bạch. 6. Lê Hữu Trác là nhà văn có giá trị của thế kỷ XVIII, tác phẩm Tượng Hải Thượng Lãn Ông tại Bệnh viện Y học Dân tộc TP.HCM Đền thờ Hải Thượng Lãn Ông tại Hưng Yên Tượng thờ ông Tổ thuốc Nam Tuệ Tĩnh và Thánh y Hải Thượng Lãn Ông tại Bảo tàng Y học cổ truyền TP.HCM 45 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Thượng kinh ký sự của ông phản ánh được sinh hoạt của bọn phong kiến thống trị ở Thăng Long vào những ngày trước cuộc nổi loạn của kiêu binh”. Đây là niềm vinh dự cho Tổ quốc ta khi sinh ra người con vĩ đại đã có đóng góp cho y học thế giới và làm rạng rỡ y học nước nhà. Công đức của bậc danh y Lê Hữu Trác mãi mãi trường tồn cùng lịch sử của non sông đất nước ta, mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc ta. 46 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM LÊ QUÝ ĐÔN Nhà bác học vĩ đại của thế kỷ XVIII Một buổi trưa nắng, lũy tre xanh xạc xào trong gió. Bên dòng sông xanh biếc có một quán nhỏ nằm dưới gốc đa, chủ nhân là một bà lão đang ngồi nhai trầu bỏm bẻm. Khách là một thư sinh ngoài hai mươi, có lẽ từ xa mới đến. Bước vào quán, trong khi đợi cơm, theo thói quen khách với tay lấy quyển sổ đang treo trên vách xuống xem. À thì ra đây là quyển sổ nợ. Khách vừa đọc xong thì cơm cũng vừa dọn lên. Ăn xong, khách đi ngay. Buổi chiều, khi khách quay lại trên con đường này thì nào ngờ quán đã cháy rụi. Bà lão bán quán đang ngồi khóc tỉ tê, khách tới an ủi, thì bà mếu máo nói: - Quyển sổ nợ cháy mất rồi. Chả nhớ ai nợ bao nhiêu để mà đòi! Khách đứng ngẫm nghĩ một lát, rồi lấy bút ra ghi lại tên từng người, với số tiền nợ. Bà lão nửa tin nửa ngờ đi đòi thì quả nhiên không sai, không sót một ai. Ai nấy đều kinh ngạc cho trí nhớ phi thường này. Người đó chính là thần đồng Lê Quý Đôn, sinh ngày 2.8.1726 tại làng Phú Hiếu, huyện Diên Hà (nay thuộc xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, Thái Bình) là con trai của tiến sĩ Lê Phú Thứ. Mới hai tuổi, ông đã biết viết chữ “hữu” (có) và chữ “vô” (không), năm tuổi đã đọc được nhiều bài trong Kinh Thi, mười một tuổi đọc Kinh Dịch, mười bốn tuổi thì đọc hết Tứ Thư, Ngũ Kinh… Có lần ông nghịch ngợm ham chơi, bị cha lăm lăm chiếc roi mây: - Rắn đầu rắn cổ! Sao bố đã bảo mà con không vâng lời? 47 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Không ngờ cậu bé tám, chín tuổi nghe cha mắng như thế liền ứng khẩu tạ tội bằng bài thơ Đường luật - mà mỗi câu đều có tên là một thứ… rắn: - Chẳng phải liu điu, vẫn giống nhà, Rắn đầu biếng học lẽ không tha. Thẹn đèn hổ lửa, đau lòng mẹ, Nay thét mai gầm, rát cổ cha. Ráo mép chỉ quen tuồng dối trá, Lằn lưng, cam chịu vọt năm ba. Từ rày Châu Lỗ chăm nghề học, Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia! Với sức học uyên bác và trí nhớ siêu phàm như thế, Lê Quý Đôn thi đâu đỗ đó. Năm 17 tuổi ông đi thi hương đỗ Giải nguyên, 26 tuổi đi thi Hội đỗ Hội nguyên, rồi vào thi Đình đỗ Bảng nhãn. Tương truyền, sau đó, Liêu đình hầu Lê Hữu Kiều có mời các tân khoa về nhà mình ở Liêu Xá (nay thuộc Hải Dương). Gần làng Liêu Xá có cái cầu đá, cạnh cầu có tấm bia khắc bài thơ thất ngôn bát cú. Mọi người chậm rãi thả lỏng cương ngựa qua cầu. Về đến nhà, trong bữa tiệc thết đãi, ông Lê Hữu Kiều mới hỏi rằng, có ai nhớ được bài thơ khắc trên tấm bia không? Chà! Các vị tân khóa ngớ ra, có người chỉ nhớ lõm bõm một đôi câu, có người Bia Tiến sĩ năm 1752, Lê Quý Đôn đậu Bảng nhãn không nhớ được gì! Bấy giờ, Lê Quý Đôn mới đọc làu làu bài thơ đó. Ai cũng ngạc nhiên và khen cho trí nhớ của ông Bảng nhãn. Thì ra đó là cách thử tài của các vị tân khoa, nhờ vậy Lê Quý Đôn đã được Liêu đình hầu gả con gái. Qua giai thoại này, cho thấy một phẩm 48 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM chất của nhà bác học này là ông luôn chăm chú quan sát những gì diễn ra trước mắt mình. Phẩm chất này về sau còn được ông áp dụng trong các công trình khoa học của mình. Sau khi thi đậu, Lê Quý Đôn được bổ làm Thị Thư ở Viện hàn lâm, rồi làm ở Ban toản tu quốc sử, sau đó được cử đi điều tra trấn Nam Sơn, rồi biệt phái sang phủ chúa. Năm 1757 được thăng chức Thị giảng Viện hàn lâm, năm 1760 khi vua Lê Ý Tông mất, ông được cử làm phó sứ cùng Trần Huy Mật cầm đầu phái đoàn sang Trung Quốc báo tang. Điều đáng kể trong chuyến đi này là khi về đến Quế Lâm, ông đã viết thư cho quan đầu tỉnh Quảng Tây, phản đối việc Thanh triều đã dùng chữ “di quan” (quan lại mọi rợ) để gọi sứ bộ ta trên văn thư của họ. Trước sự ngoại giao ứng đối, biện bác sắc sảo khiến nhà Thanh phải đuối lý, chấp nhận đề nghị của ông, ra thông báo cho các địa phương Trung Quốc, khi nói về sứ bộ của nước ta phải đổi thành bốn chữ “An Nam cống sứ”. Cuộc đời làm quan của Lê Quý Đôn nhìn chung không có gì trắc trở, nhưng nếu chỉ có thế thôi thì chắc ngày nay không mấy ai còn nhớ đến ông. Điều đáng nhớ và học tập ở ông là một sức làm việc không mệt mỏi, ông đã “học, học nữa, học mãi” để trở thành nhà bác học lẫy lừng ở thế kỷ XVIII. Trong sách Kiến văn tiểu lục, ông viết: - Tôi vốn là người nông cạn, lúc còn bé thích chứa sách, lúc trưởng thành ra làm quan, xem lại sách đã chứa trong tủ, vâng theo lời dạy của cha, lại được giao du nhiều với các bậc hiền sĩ đại phu. Thêm vào đấy phụng mệnh làm việc công, bốn phương rong ruổi: mặt Bắc đi sang sứ Trung Quốc, mặt Tây bình định Trấn Ninh, mặt Nam trấn thủ Thuận Quảng (Thuận Hóa - Quảng Nam). Đi tới đâu cũng để ý tìm tòi, làm việc gì mắt thấy tai nghe cũng đều dùng bút ghi chép, lại phụ thêm lời bình luận sơ qua, giao cho tiểu đồng dựng vào túi sách. Do tuân thủ nghiêm ngặt phương pháp làm việc như thế nên ông đã có nhiều cống hiến cho nước nhà. Phan Huy Chú (1782-1840) đã nhận xét: “Ông tư chất khác đời, thông minh hơn người, mà vẫn giữ tính nết thuần hậu, lại chăm học không biết mỏi. Tuy đỗ đạt vinh hiển, tay vẫn không rời quyển sách. Bình sinh làm sách rất nhiều. Bàn về kinh sử 49 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM thì sâu sắc rộng rãi, mà nói về điển cố thì đầy đủ rõ ràng. Cái sở trường của ông vượt hơn cả, nổi tiếng ở trên đời”. Rồi 165 năm sau, giáo sư Nguyễn Lộc - người cùng thế hệ với chúng ta nhận xét: “Lê Quý Đôn là một nhà bác học có kiến thức hết sức uyên bác và đa dạng. Có thể nói ông là người đã thâu tóm được mọi mặt trí thức của thời đại lúc bấy giờ. Căn cứ vào những tác phẩm nghiên cứu về lịch sử rất có giá trị của ông như Đại Việt thông sử, Phủ biên tạp lục, Kiến văn tiểu lục, Bắc sứ thông lục v.v... hoàn toàn chúng ta có thể gọi ông là nhà sử học. Căn cứ vào những tác phẩm, nghiên cứu về triết học cũng không kém giá trị của ông như Kinh thư diễn nghĩa, Dịch kinh phu thuyết, Xuân Thu lược luận, Quân thư khảo biện v.v...… hoàn toàn có thể gọi Lê Quý Đôn là nhà triết học. Căn cứ vào những sáng tác và công trình biên soạn rất công phu của ông như Toàn Việt thi lục, Hoàng Việt văn hải, Quế Đường thi tập, Quế Đường văn tập v.v... hoàn toàn có thể gọi Lê Quý Đôn là nhà hoạt động văn học. Và căn cứ vào những tri thức được phản ánh trong các công trình trước tác khác của ông, nhất là trong bộ Vân đài loại ngữ, còn có thể gọi ông bằng nhiều danh hiệu khác nữa như nhà chính trị học, nhà kinh tế học, nhà xã hội học, nhà nông học, nhà địa lý học, nhà ngôn ngữ học v.v... (Từ điển văn học – NXB Khoa học xã hội 1984, tập I, tr.386). Số lượng tác phẩm của ông có trên 40 bộ bao gồm hằng trăm quyển để lại cho đời sau, nhưng qua binh lửa, chiến tranh, loạn lạc nay còn lại không quá một nửa. Học trò ông là tiến sĩ Bùi Huy Bích nhận xét về thầy mình: “Thông minh nhất đời, học rộng các sách, soạn ra văn chương đủ dạy đời và lưu truyền về sau, nước ta trong vài trăm năm nay mới có một người như thầy”. Đời sau, nhà giáo Dương Quảng Hàm đánh giá: “Tuy tác phẩm của ông đã mất đi nhiều, nhưng những bộ còn lại cũng là một kho tài liệu để ta khảo cứu về lịch sử, địa dư và văn hóa nước ta”. Rõ ràng Lê Quý Đôn là một thiên tài, nhưng ở ông, chúng ta thấy 99 phần trăm để tạo nên điều đó chính là mồ hôi và sức lao động cật lực. Miệt mài, cần cù học, đọc và ghi chép. Chẳng hạn, với bộ Vân đài loại ngữ ông đã trích dẫn cả thẩy 557 cuốn sách! Hoặc khi biên soạn Đại Việt thông sử, ông sử dụng nhiều tài liệu – kể cả các thần 50 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM phả, các bi ký do đó nó chứa đựng được nhiều tài liệu mà các bộ sử khác không có. Bộ sách này gồm 30 quyển, chép tiểu sử, công tích, nghi lễ… của 11 đời vua từ Lê Thái Tổ đến Lê Nghi Dân - trong thời gian trên 100 năm! Hoặc khi biên soạn Toàn Việt thi lục, ông đã sưu tầm được 2.391 bài thơ của 175 tác giả từ đời Lý đến đời vua Lê Tương Dực! Công việc này, ông phân bố khoa học và ghi chép cẩn trọng. Phương pháp làm việc của ông là không ngừng học hỏi và ghi chép. Năm 1776 khi được cử làm chức Hiệp trấn Thuận Hóa, ông đã bắt tay vào việc Một trong tác phẩm Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn nghiên cứu tìm hiểu phong tục, vật sản, di tích… của xứ Đàng Trong này. Khi có người đến than phiền với ông là quan lại trong làng xã bắt phải nộp thuế sơn dầu. Chưa hiểu sơn dầu là gì, ông liền mời người đó vào dinh để tìm hiểu cặn kẽ, hiểu đến đâu ông ghi chép đến đó. Sau đó ông trực tiếp đến tận nơi quan sát đặc sản này. Nhờ cách làm việc như thế chỉ trong vòng sáu tháng ông đã hoàn thành bộ sách Phủ biên tạp lục - mà tiến sĩ Ngô Thì Sĩ đã nhận xét: “Sách này chép về hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam, ghi rõ núi sông, thành ấp, ngạch lính, thuế má, nhân tài, sản vật cùng các đời chúa Nguyễn với việc đánh dẹp, đóng quân rõ ràng như những ngón tay trên bàn tay…”. Ngày nay, đọc lại tác phẩm của ông, trong phần Tựa, chúng ta càng hiểu tấm lòng của ông khi lao vào công việc nặng nhọc này. Khi viết Lê triều thông sử ông chủ trương: “Phép làm sử là phải nhặt đủ không bỏ sót, để cho người ta sau khi mở sách ra xem, 51 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM rõ được manh mối, biết được đầu đuôi, tuy không tận mắt thấy tai nghe, mà rõ ràng như chính mình được thấy”. Do đó, ông đã phải xử lý một khối lượng tư liệu đồ sộ. Dù được người đương thời ca ngợi không tiếc lời, nhưng lúc nào ông cũng khiêm tốn học hỏi, trong lời tựa Dịch kinh phu truyện, ông viết: “Tôi ngu hèn học kém, kính đọc lời dạy của thánh nhân, nghiên cứu truyện nghĩa của họ Trình họ Chu, xét thêm những lời chú thích của tiên nho, có khi xúc động mà phát minh ra, nói thêm mấy lời, tất cả 5 quyển chỉ cốt để sửa lấy tấm thân cho được ít lỗi lầm, còn như đem thi thố ra sự nghiệp thì đâu dám nói đến”. Hoặc trong lời tựa của Thư kinh diễn nghĩa, ông cho biết: “Tôi thật ngu lậu, nghiền ngẫm lâu năm, hiểu qua nghĩa lớn, mỗi khi đọc thấy ý vị dạt dào, lý thú vô cùng, chỗ nào xúc động mà phát minh thì tùy bút chép ra, trưng dẫn các truyện ký, bàn bạc việc xưa nay, đều là muốn làm ẩn chứng cho sách của thánh nhân”. Vậy đó, ông viết sách đâu phải để lưu hành, để nổi tiếng mà chính là để tự răn mình và học hỏi thêm. Quan niệm này đáng quý biết chừng nào. Và cũng chính vì quan niệm rạch ròi như thế nên sách của ông biên soạn chu đáo, đầy đủ từng chi tiết, chứ không qua loa, đại khái… Tương truyền ngày nọ có người khách lạ tìm đến ông và đưa tờ giấy, chỉ ghi vỏn vẹn ba câu: “Trương phàm khuyến tửu chi ca. Phụ mễ dầu hà chi thán. Kỳ tích hà như?”, nghĩa là: Khúc hát mời rượu trong thuyền. Lời than lội sông gánh gạo. Tích ấy như thế nào?”. Đọc xong, nghĩ mãi không ra ông bèn hẹn người ấy ba ngày sau quay lại. Sau hai ngày tra cứu cũng không thể tìm ra điển tích cả hai câu này, ngày thứ ba ông xếp sách vở bước ra khỏi nhà, ông lang thang trên bờ sông Nhị. Lòng nhẹ nhàng khi đón gió thổi về lồng lộng, lại thấy cánh buồm đang xuôi gió, bất chợt ông nhớ đến câu trong thôn dã: Thuận buồm xuôi gió Chén chú chén anh Nước ngược chèo quanh Mày tao ngươi tớ 52 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM Ông bất giác cười lớn, sảng khoái vì đã tìm ra tích “Trương phàm khuyến tửu chi ca”. Từ đó, ông cho rằng tích “Phụ mễ dầu hà chi thán” nhất định cũng ở trong lời ăn tiếng nói trong dân gian. Quả thật, chiều hôm đó, khi quay về nhà, ông nghe người hàng xóm cất lên tiếng ru con: Con còn lặn lội bờ sông Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non... Ông mừng khôn xiết. Đúng ngày khách quay về, ông viết ra giấy đưa khách: “Thuận buồm xuôi gió Chén chú chén anh Nước ngược chèo quanh Mày tao ngươi tớ” Phải chăng tích nọ Có đúng hay không? “Cái cò lặn lội bờ sông Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non” Lời than lòng dạ héo hon Ra ngoài chữ nghĩa dấu son thánh hiền Rõ ràng, không chỉ học trong sách, khảo cứu trong sách mà Lê Quý Đôn còn có ý thức “khảo sát điền dã”, đi thực tế để ghi chép túi khôn trong trong nhân dân nhằm bổ sung kiến thức. Sách của Lê Quý Đôn biên soạn, trước tác giúp ích cho muôn đời đã đành, nhưng trong đời thường ông cũng không từ nan một việc gì nếu có lợi cho đất nước. Tương truyền có lần sứ Trung Quốc gửi thông điệp sang nước ta vỏn vẹn chỉ… một chữ! Không ai hiểu họ muốn nói điều gì cả. Triều đình phải mời Lê Quý Đôn vào. Đọc xong chữ ấy, ông tâu vua gửi cho họ một tấm “áo cầu” (áo làm bằng da sang trọng). Không một ai trong triều hiểu tại sao phải làm như thế, nhưng vẫn tuân theo hướng dẫn của ông. Quả nhiên khi nhận được áo, sứ nhà Thanh đến ngay. Vua liền cử ông ra tiếp. Ông viết bốn chữ: 53 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM - Phi xa bất đông Nghĩa là: Không phải chữ xa (xe) cũng không phải chữ đông (phía đông). Sứ nhà Thanh đọc xong bốn chữ ấy vội vàng trả lại áo rồi vái bốn vái. Đến lúc này, mọi người mới vỡ lẽ ra rằng, sứ nhà Thanh viết không phải chữ xa, cũng chẳng giống chữ đông là lấy tích trong câu thơ Mao Khâu: Hồ cừu mung lung, phi xa bất đông, thúc hề bá hề, thực bất dữ đông. Nghĩa là: Áo rách tứ tung, đánh xe Tấm biển “Văn hiến gia truyền” tại từ đường dòng họ Lê Quý Đôn do vua Lê ban tặng qua đông, anh em chẳng tới, mà giúp nhau cùng. Hóa ra, sứ Tàu muốn ngụ ý họ không có áo đại lễ, nên không dám đến. Đó là nội dung bức thư có tính chất ngoại giao, thế mà Lê Quý Đôn đã giải được. Cả triều đình thở phào nhẹ nhõm mà sứ nhà Thanh phải khâm phục nước Nam ta có người tài giỏi. Nhưng một con người dù giỏi thế nào thì vẫn có những lĩnh vực không hiểu biết bằng người khác. Đây chính là bài học sâu sắc mà Lê Quý Đôn đã nhận được từ thời tuổi trẻ. Tương truyền, sau khi mới đỗ Bảng nhãn, ông cho treo ngoài cửa tấm bảng: “Thiên hạ nghi nhất tự vấn lai” (Ai có chữ gì nghi ngờ cứ đến đây mà hỏi). Bấy giờ cha của Lê Quý Đôn vừa mất, trong nhà rộn rịp sửa soạn tang lễ, bỗng có một ông già chống gậy vào viếng. Thấy không phải khách quen ông bèn hỏi lai lịch. Ông lão đáp: - Cháu còn nhỏ không biết, lão là bạn học với cha cháu, nhà nghèo đường xa nên ít đi lại. Hôm nay nghe tin cụ nhà mất nên mới đến có câu đối viếng. Cháu đem giấy bút ra để lão đọc cho cháu viết. 54 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM Lê Quý Đôn vâng lời, cầm bút đợi. Ông lão đọc: - Chi… Lê Quý Đôn không rõ chữ chi nào nên dùng đằng đợi: chi là chung, là biết, là cành… cả chục chữ chi với nghĩa khác nhau, nên ông ngập ngừng chờ đọc tiếp chữ sau để viết. Ông lão thấy thế liền giục: - Chi… Lê Quý Đôn lễ phép thưa: - Bẩm cụ, chữ chi nào ạ? Ông lão thở dài: - Trời ơi! Cháu đỗ đến Bảng nhãn mà chữ chi không biết viết! Thế cháu treo ngoài cửa tấm bảng kia để làm gì? Nghe ông lão nói, Lê Quý Đôn xám mặt. Ông lão đọc luôn hai vế câu đối: Ngôi nhà từ đường dòng họ Lê Quý Đôn tại Thái Bình (chụp năm 1979) 55 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Chi chi tam thập niên dư, xích huyện hồng châu kim thượng tại; Tại tại sổ thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy tử hà chi. (Thấm thoắt hơn ba chục năm, xích huyện, hồng châu nay vẫn đó. Hỡi ôi xa ngoài vạn dặm, đào hoa, nước chảy, bác về đâu?). Kết quả là về sau Lê Quý Đôn cho gỡ tấm bảng đã treo ngoài cổng. Và ông càng cố tâm học hỏi không ngưng nghỉ cho đến khi qua đời năm 1784. Chẳng rõ giai thoại này hư thực ra sao. Có lẽ, thấy Lê Quý Đôn là bậc uyên bác nên thiên hạ mới đặt ra giai thoại này để nhắc nhở rằng, dù giỏi bao nhiêu, học bao nhiêu thì cũng chẳng bao giờ đủ cả. Ôi! Sở học mênh mông biết chừng nào! 56 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM NGUYỄN HỮU ĐẠO Làm thuốc để đức cho đời Gần kinh thành Thăng Long, dưới mái nhà tranh ở làng Đống (nay thuộc xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm - Hà Nội), một thư sinh đang ngồi đọc sách dưới ánh trăng rằm chiếu sáng ngời. Chàng đọc say sưa như không nghe tiếng trống ếch rộn ràng của trẻ con ngoài kia đang rước đèn trung thu. Lúc trẻ con kéo qua trước nhà chàng, chúng reo hò ầm ĩ đã khiến chàng bừng tỉnh. Chàng sực nhớ đến trung thu năm xưa. Lúc ấy, mẹ chàng đang bệnh. Bà nằm trên chiếc chõng tre ọp ẹp, thở một cách khó nhọc, nhưng lúc ấy chàng vẫn chúi mũi vào trong kinh sử, quyết học để giật lấy bảng vàng! Sau khi đậu được Tú tài, trở về làng thì mẹ đã mất. Con đường hoạn lộ thênh thang đã mở ra trước mắt, nhưng bây giờ, đối với chàng thật vô nghĩa. Chữ hiếu không đền đáp được khiến chàng ray rứt mãi. Từ đó, chàng không ra làm quan mà ở nhà nghiên cứu về nghề thuốc. Chàng nghĩ, cứu sống được người, chữa bệnh cho người cũng là cách báo hiếu cho mẹ vậy. Chàng trai hết lòng vì đạo hiếu và đạo làm người đó là Nguyễn Hữu Đạo – một danh y nổi tiếng của thế kỷ XVIII. Về cuộc đời của ông sử sách xưa nay viết rất vắn tắt ngay trong quyển Góp phần xây dựng lịch sử ngành dược Việt Nam (NXB Y Học - 1985) cũng chỉ viết vỏn vẹn đôi dòng: “Ông phụ trách y học huấn khoa dưới thời Lê Hiến Tông (1774) đã viết hai tập sách Mạch học bằng quốc âm và Y lý tinh ngôn về lâm sàng bệnh học, phân tích những chứng trạng đặc biệt đối với mỗi loại bệnh kèm theo phương thang kinh trị thích 57 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM đáng” (trang 71). Vì vậy, cuộc đời riêng của ông, và ngay cả năm sinh, năm mất của ông cũng không ai được biết. Tuy nhiên, căn cứ trong quyển Hà Nội di tích và văn vật (Sở VHTT Hà Nội 1994) và nhiều tài liệu khác chúng ta có thể hình dung ra công nghiệp của ông đối với sự nghiệp y học nước nhà. Năm tháng trôi qua. Tài năng của Nguyễn Hữu Đạo càng vang xa. Ngày nọ, vợ của Tổng trấn Sơn Tây lâm bệnh nặng mà các thầy thuốc nổi tiếng nhất trong vùng đều bó tay, không thể cứu chữa nổi. Nghe tiếng tăm của ông, viên Tổng trấn nầy cho vời đến. Khám bệnh xong, ông bốc thuốc cho người bệnh. Chỉ uống vài thang thì cơn bệnh đã bị đẩy lùi nhanh chóng. Viên Tổâng trấn vui mừng khôn xiết, hậu tạ vàng bạc hậu hĩnh nhưng ông đều lắc đầu từ chối, trước sau chỉ đáp: - Cứu sống được người thì tôi đã nhận được đức. Vậy tôi còn nhận lợi làm gì để mất đức mà không khéo lại mất cả danh nữa! Ông thầy thuốc Nam (trong đầu thế kỷ XX của học sinh trường vẽ Gia Định) 58 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM Không còn cách nào khác, viên Tổng trấn đành sai người đưa ông về quê và luôn nghĩ đến cơ hội để trả ơn ân nhân của mình. Cơ hội ấy đã đến. Đó là lúc vua Lê Hiển Tông (1740- 1786) bị bệnh, viên Tổng trấn đã tiến cử Nguyễn Hữu Đạo. Chữa trị cho nhà vua lành bệnh, ông được phong Thượng ngự y trong Viện thái y của triều đình. Dù ngất ngưởng trên danh vọng mà nhiều người ham muốn, nhưng ông vẫn không cho đó là điều may. So với những ông vua khác trong lịch sử phong kiến nước ta thì Lê Hiển Tông là người trị vì lâu nhất: 47 năm! “Bí quyết” của vị vua này là không quan tâm đến chính sự, mọi việc đều giao cho nhà chúa - từ chúa Trịnh Doanh đến Trịnh Sâm - quyết định. Lúc này chiến tranh, loạn xảy ra liên miên, đời sống dân nghèo vang rền những tiếng than khóc. Nhưng cũng chưa thảm bằng thân phận những người lính. Lao vào cuộc chiến tranh phi nghĩa của các thế lực phong kiến, bên cạnh hòn tên mũi đạn thì đói rét, bệnh tật đã giết họ chết dần chết mòn. Biết được điều này, Nguyễn Hữu Đạo xin được phục vụ trong quân đội. Theo các Đạo sắc do vua Lê Hiển Tông phong tặng ngày 25/5 năm Cảnh Hưng 43 (1782) mà dòng họ còn giữ được thì năm 1774, ông được phái đi phục vụ việc đánh dẹp hai xứ Thuận Quảng (Thuận Hoá và Quảng Nam) do tướng Hoàng Ngũ Phúc chỉ huy. Chắc chắn trong chuyến hành quân vào Nam lần này, Nguyễn Hữu Đạo có điều kiện tìm hiểu, nghiên cứu những bài thuốc Nam mà dân đàng Trong đang lưu truyền. Việc làm nghiêm túc này sẽ bổ sung, mở rộng cho thực tiễn và lý luận về y học mà ông đang quan tâm. Vì lập được nhiều công lao nên ông được triều đình thưởng chức Huấn khoa, rồi được thăng Tướng sĩ thứ lang y học huấn khoa phủ Trường Khánh. Theo Đạo sắc thứ hai đề ngày 21/4/1786 thì ông là một danh y có công trong việc trông nom sức khoẻ cho gia thần, chăm chỉ làm thuốc ở Thái y viện nên được thăng chức Tiến công thứ lang Thái y viện lương y chính hạ. Suốt năm tháng hành nghề, ông đã viết sách thuốc truyền lại đời sau. Khi già, ông xin nghỉ hưu tại quê, dù nhà vua muốn ông cư ngụ tại Kinh đô để lúc cần là triệu được ngay. Nhưng ông vẫn cố xin về 59 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM quê nhà, xa lánh chốn phồn hoa để dồn tâm lực cuối đời cứu dân nghèo. Do đó, nói là nghỉ hưu, nhưng thật ra ông vẫn tiếp tục hành nghề. Hằng ngày, ông vẫn đi thăm bệnh cho dân chúng nhưng không nhận bất cứ thù lao nào. Ngoài ra, ông còn hướng dẫn dân trong vùng trồng cây thuốc và dạy cho họ biết dược tính của từng loại cây thuốc Nam. Chẳng hạn, lá móng tay đắp mụt nhọt mới phát, nhân hạt gai dầu chữa bệnh táo bón, lá cây phèn đen chữa bệnh thổ Dụng cụ bào chế thuốc Nam ngày xưa (rút trong tập Đông y lược khảo) tả, hoặc rễ lựu hạt cau dùng để trục giun v.v… Những tháng ngày này, triều đình vẫn thường đem xe ngựa về đón ông ra kinh đô để xem mạch, bốc thuốc cho các hoàng hậu, hoàng tử, công chúa trong cung cấm. Có lần vua Hiển Tông đi kinh lý, có đến thăm ông tại quê. Thấy ông từng làm quan to trong triều với bao bổng lộc, nhưng nay về hưu lại sống rất thanh bần nên nhà vua ái ngại hỏi: - Khanh làm quan mà liêm khiết như thế thì con cháu sống thế nào được? Ông cúi đầu đáp : - Tâu bệ hạ! Thần có ruộng, con cháu cày cấy đủ ăn. Thần cần tích nhiều đức để lại cho con cháu đời sau, chứ nào ham giàu. Nghe ông trả lời thật thà như vậy, nhà vua thở dài: - Ta vẫn biết vậy. Nhưng khanh sống thanh bạch như trong nhà chùa khiến ta khó nghĩ qua! 60 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM Trở về triều nhà vua sai công quỹ phát 3.000 quan tiền, giao cho một văn quan đến xem đất, cắm hướng nhà. Lại sai một võ quan làm đốc công, đem 3 con voi đến đắp nền nhà cho ông, hẹn 100 ngày phải xong. Ngôi nhà này làm xong, xây bằng gạch Bát Tràng, có 36 hàng cột gỗ dâu đen. Khi ông qua đời, ngôi nhà này được sử dụng làm nơi thờ phụng bậc danh y. Hiện nay, tại nhà thờ Nguyễn Hữu Đạo vẫn còn nhiều câu đối và bài thơ mà vua Lê Hiển Tông tặng, khắc trên gỗ được giữ gìn cẩn thận. 61 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM TRỊNH ĐÌNH NGOẠN Quốc thủ danh y Uống nước nhớ nguồn. Đó là đạo lý của con người. Là một nước văn hiến, dân tộc ta đã xây dựng đạo lý ấy thành một truyền thống tốt đẹp. Chỉ 60 năm sau khi dời kinh đô ra Thăng Long, năm 1070, vua Lý Thánh Tông đã cho dựng Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử và Tứ phối là Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử cùng tạc tượng 72 vị tiền hiền là học trò giỏi của Khổng Tử. Rồi sáu năm sau, vua Lý Nhân Tông cho xây dựng Quốc tử giám. Đây là hành động tích cực nhằm đề cao tinh thần hiếu học của một dân tộc hiếu học. Cùng với tinh thần hiếu học, dân tộc ta đã có một nền y học lâu đời từ thời Hùng Vương dựng nước. Trong bia của Y miếu nước ta có ghi rõ: “Nguyên lúc mới có loài người chưa biết thuốc thang, thời ấy có Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế nối nhau làm vua lo đời cứu dân, nghiên cứu sâu rộng, biên chép sách thuốc, làm ra phương thư, diễn sách Linh Khu, sử dụng thuốc men, từ đó đạo y mới được sáng lập. Nhờ có y học mà gầy gò trở lại béo tốt, tàn tật được lành mạnh, người ta khỏi bị chết non, sống đến cõi thọ, muôn đời sau có thầy dạy cho học tập, phát huy rộng rãi phương pháp chữa bệnh cứu người được đầy đủ. Tới nay, nhân dân được chịu công ơn các bậc thánh ấy thật là to lớn, mà từ xưa đến nay chưa ai làm miếu thờ các bậc thánh đó để xuân thu tứ thời hưởng sự báo đáp của dân. Thế mà những thần tượng dị đoan lại chiếm những nơi đất đẹp làm đền lộng lẫy, cúng thờ nhảm nhí, còn những bậc thánh nhân chân chính thì không có nơi thờ. Những người hiểu biết phải lấy thế làm buồn. Đó không phải là một sự thiếu sót ư?”. 62 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM Nước ta, các đấng vua trước chỉnh đốn việc thờ cúng, lúc đầu có để ý xét đến, truyền cho Viện Thái y tìm đất, lãnh tiền công để xây dựng Y miếu, không phải là không dốc lòng tôn trọng, nhưng các bậc ở thời ấy không lấy làm cẩn, không Vâng lệnh làm ngay, để đến nổi nhân dân không có chỗ chiêm ngưỡng”. Vậy Y miếu của dân tộc ta được xây dựng vào năm nào? Sứ mệnh vẻ vang này được lịch sử trao cho danh y Trịnh Đình Ngoạn. Ông là người làng Định Công, huyện Thanh Trì (Hà Nội) sống trong thế kỷ XVIII dưới thời vua Lê Hiển Tông (1740-1786), tự là Nghiêm Thận Ngoạn, tước Ngoạn Trung Hầu, giữ chức Thái Y Viện chưởng viện là tác giả quyển sách thuốc có giá trị Cương mục yếu ước chân kinh điêu luận. Với tác phẩm này, ông có công bổ sung các phương thuốc chữa thương hàn và một số bệnh do khí táo phát sinh. Suốt đời tận tuî với công việc, ông ý thức việc xây dựng Y miếu nhằm tôn vinh các bậc tiên thánh trong ngành là một trong những “việc cần làm ngay”. Trước hết ông, tìm một khu đất công ở phường Bích Câu, về phía tây Phương Thành, phía trái Văn Miếu và có một cái ao trong suốt vòng quanh rất hữu tình hợp lý: Xanh xanh dãy liễu ngàn thông Cỏ hoang lối mục rêu phong dấu tiều Một vùng non nước đìu hiu Phất phơ gió trúc dập dìu mưa hoa (Bích Câu kỳ ngộ) Ý muốn của ông là Y miếu xây dựng cạnh Văn Miếu sẽ nhắc nhở những cho thiên hạ rằng, công đức của thầy thuốc cũng được sánh ngang với thầy dạy chữ vậy. Việc làm này xuất phát từ tấm lòng của một cá nhân, chứ không phải từ chỉ đạo của triều đình nên Trịnh Đình Ngoạn e rằng không đủ kinh phí để thực hiện. Do đó, ông mới tâu lên nhà vua. May mắn, nhà vua không những đã chuẩn y đề xuất của ông mà còn ban thêm 10 mẫu ruộng làm tự điền cho việc hương khói tế tự. Còn bà Hoàng thái hậu ban cho 2 nén bạc. Noi theo gương tốt này các cung tần mỹ nữ cũng ủng hộ thêm – 63 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM người cho 1 nén bạc, kẻ cho 10 quan tiền v.v… Còn những vị lang y trong Thái y viện “mừng thấy công việc hiếm có này” cũng kẻ ít, người nhiều “đem hết hằng tâm” mà đóng góp. Cuối cùng, Trịnh Đình Ngoạn bỏ thêm 600 quan tiền riêng nữa là đủ để lo xây cất. Y miếu Thăng Long là một di tích lịch sử củøa nền y học cổ truyền còn tồn tại qua bao thăng trầm của lịch sử. Trong quyển Góp phần xây dựng ngành dược Việt Nam (NXB Y Học 1985) của D.S Trương Xuân Nam cho biết: “Nó nằm trên đường số 9-A số 224 khu phố Đống Đa - song song với đường Trần Quý Cáp hay đường Ngô Sĩ Liên, thông qua đường Quốc tử giám. Khu đất này rộng 747 mét vuông, thửa số 420, tờ bản đồ số 13 khu K, bằng khoán số 380 của Sở quản lý nhà đất Hà Nội” (trang 78). Tham khảo thêm tác phẩm Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Uẩn (NXB Hà Nội 1995) thì: “Y miếu cũng chỉ mới được xây dựng vào năm 1930 do giới Đông y quyên tiền để làm, không phải ở nền Y miếu thời Hậu Lê tức là chỗ đã thay bằng chùa Phổ Giác, mà tại một chỗ đất khác gần đó. Miếu làm giữa vườn rộng trồng cây thuốc Nam” (trang 862, tập II). Như vậy, Y miếu hiện nay nằm khiêm tốn ở số 9 Ngô Sĩ Liên, sát bên chùa khoảng chục mét, phía trước có gắn tấm bảng Di tích lịch sử đã được xếp hạng là Y miếu đã được xây dựng sau này. Còn Y miếu thời Lê Hiển Tông thì hoàn thành vào năm 1774 mà trong bia có ghi lại: “Trong mấy tháng đã xây xong, phượng múa rồng ngoi, cung tường lộng lẫy, rường cột hiên ngang, có nơi chiêm ngưỡng thật tôn kính” - gồm hai lớp nhà thượng đường và hạ đường nối liền nhau, tường gạch vách ngói. Trong miếu, có bài vị giữa thờ Tam thánh tiên hiền là Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế - tương truyền là ba vị tổ Đông y của Trung Quốc. Còn tả hữu hai bên thờ tiên y Việt Nam là Tuệ Tĩnh thiền sư và Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Việc làm của danh y Trịnh Đình Ngoạn đã được người đương thời ca ngợi: “Việc như thế, các bậc danh y thời đại trước chưa ai làm được, mà nay chỉ có quan tước Hầu làm được, thực là có công với đạo Y không phải là ít”; và họ đã dựng bia vì: “Thường nói, bia là để ghi công lạ, truyền việc hay, không phải là không có tác dụng. 64 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM Y miếu Thăng Long Ở đời có những người có hoài bão khác thường, công lao hiếm có, chẳng những khen không ngớt miệng mà còn khắc vào bia đá, vì rằng muốn cho bền như vàng ngọc để lưu truyền mãi mãi, thì chính nay thấy có quan Chưởng viện họ Trịnh được xứng đáng làm việc ấy. Việc dựng bia này có thể thôi không làm được ư !”. Và cũng theo văn bia này thì chúng ta có thể thấy được đôi nét về công nghiệp của danh y Trịnh Đình Ngoạn: “Dòng dõi nho y rộng thông kinh sử, sánh với các bậc Nho, Minh, Thế, Đức, nghiên cứu tinh phương thuốc của các nhà - ngang với hàng Chu, Lý, Trương, Lưu (1) am hiểu hết quy mô về y đạo. Cứu người chữa bệnh, thực chân truyền Kim quỷ, Thanh nang. Tích đức lập công, thực nhân thuật Hạnh lâm, Quýt tĩnh. Thường ngày đem tâm đắc chữa bệnh cho nước cho dân từ các triều trước, ơn trên đề bạt thường được khen thưởng, nay phục vụ thuốc thang được vua cho là Quốc thủ danh y và ban cho chức Chưởng lục cung Thái y viện, thật là đặc ân đó trên đời hiếm có”. Và dưới văn bia còn có khắc bài Minh: (1) Danh y Trung quốc: Chu Đại Khê, Lý Đông Viên, Trương Cảnh Nhạc, Lưu Hoàn Tố. 65 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Tước hầu vĩ đại Tài giỏi tuyệt vời Quốc thủ nổi tiếng Gia truyền lâu đời Miếu thờ tiên thánh Để tiếng lâu dài Từ trước hiếm có Việc này sáng ngời Xin khắc bia đá Để nhớ công người Căn cứ vào tác phẩm Cương mục yếu ước chân kinh điêu luận thì danh y Trịnh Đình Ngoạn đã chế ra một số phương thuốc như: Nhuận phế cứu tảo thang chữa bệnh ho khan thổ huyết; Sinh âm khoan kết thang chữa bệnh hỏa uất, đại tràng táo kết, táo bón; Nhuận chi thang chữa bệnh táo cực sinh phong, tay chân co giật; Kiêm nhuận hoàn chữa miệng lưỡi sinh viêm, đại tiểu tiện ra máu v.v… Công đức của ông thật lớn lao. Hiện nay, Y miếu Thăng Long là di tích lịch sử có tính chất quốc gia Bàn thờ chính trong Y miếu Thăng Long duy nhất của nền y học cổ truyền dân tộc. Hằng năm, vào tháng giêng âm lịch các thầy thuốc Đông y và cán bộ y tế đã họp mặt ở đây để tưởng nhớ và nguyện phấn đấu theo gương các đại danh y. Đây là một truyền thống tốt đẹp của y giới Việt Nam. Truyền thống ấy cũng nằm trong ý nghĩa sau này Nhà nước ta lấy ngày 27/2/1955 – ngày mà Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Hội nghị cán bộ Y và Dược của hai ngành Quân y và Dân y - làm “Ngày thầy thuốc Việt Nam”. Trong thư này, Bác Hồ viết: 66 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM - Trước hết là phải thật thà đoàn kết. Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết thì vượt được mọi khó khăn, giành được nhiều thành tích. Đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới. Đoàn kết giữa tất cả những người trong ngành y tế từ các bộ trưởng, thứ trưởng, bác sĩ, dược sĩ cho đến các anh chị em giúp việc. Bởi vì công việc và địa vị tuy có khác nhau, nhưng người nào cũng là một bộ phận cần thiết trong ngành y tế, trong việc phục vụ nhân dân. - Thương yêu người bệnh. Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô các chú. Chính phủ phó thác cho các cô các chú việc chữa bệnh tật và giữ sức khỏe của đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang. Vì vậy, cán bộ cần phải thương yêu săn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn. “Lương y phải như từ mẫu”, câu nói ấy rất đúng. - Xây dựng một nền y học của ta. Trong những năm nước ta bị nô lệ, thì y học cũng như các ngành khác đều bị kìm hãm. Nay chúng ta đã độc lập tự do, cán bộ cần giúp đồng bào, giúp Chính phủ xây dựng một nền y tế thích hợp với sự nhu cầu của nhân dân ta. Y học càng phải dựa trên nguyên tắc: khoa học, dân tộc và đại chúng. Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc bắc. Để mở rộng phạm vi y học, các cô các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu và phối hợp thuốc “đông” và thuốc “tây”. Nhìn lại việc làm của Quốc thủ danh y Trịnh Đình Ngoạn với những công trình nghiên cứu về y học của ông, chúng ta càng tự hào về ông, về những thầy thuốc chân chính. Đó là những tấm gương sáng của tiền nhân, mà Bác Hồ đã nhắc nhở các thế hệ thầy thuốc chúng ta phải học tập, noi theo... 67 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM NGUYỄN HỮU THẬN Người làm ra lịch hiệp kỷ sử dụng từ năm 1813 đến năm 1945 Năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long và vài năm sau mới sai sứ sang nhà Thanh báo tin – vì theo lệ khi có vua kế vị, ta phải sang sứ sang Tàu báo tin vua cũ đã mất (hoặc bị truất phế hoặc vì lý do gì đó) và xin phong vua mới. Sau đó sứ Tàu mới đem sắc thư sang làm lễ phong, bấy giờ vua ta mới thành một quốc vương chính thức đối với họ. Tương truyền, khi phái đoàn của ta vào bái kiến vua Gia Khánh (Thanh Nhân Tông), một cận thần của triều Thanh đột ngột hỏi: - Quốc vương các ông đặt hiệu là Gia Long, có phải ý muốn ngang hàng với hai hoàng đế thiên triều là Càn Long và Gia Khánh không? Chánh sứ của ta từ tốn đáp ngay: - Thưa không phải, nước chúng tôi phía Nam có Gia Định, phía Bắc có Thăng Long nên vua chúng tôi mới đặt hiệu như thế. Câu trả lời khôn ngoan, khéo léo, thông minh khiến nhà Thanh phải khen tài ứng đối, vừa giữ được hòa khí vừa không nhục quốc thể. Người ứng đối ấy là ai? Trước đây ở vùng Quảng Trị thường lưu truyền những bài toán đố: - Anh đi thì quế chưa trồng Anh về quế đã đâm bông trăm ngành Một ngành mười tám bông xanh Ba bông bốn trự (tiền) đố anh mấy tiền? 68 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM Hoặc: - Mai anh đi chợ Gửi một quan tiền Mua lấy thanh yên Vừa cam vừa quýt Cam ba đồng một Quýt một đồng năm Thanh yên một trái năm đồng Chẳng nhiều chẳng ít, một trăm chẵn chòi Ai là người đã đặt những bài toán ấy? Đó là Nguyễn Hữu Thận. Trong Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn không ghi tên ông vào phần nhân vật đời Nguyễn – mà chỉ ghi tên con ông (!). Người đó là Nguyễn Hữu Thận sinh tháng 4/1757, quê ở làng Đại Hòa, tổng An Dã, huyện Đại Lăng, phủ Triệu Phong (Thừa Thiên - Huế) hiệu Chân Nguyên, tự Ý Trai. Ông còn là người có công làm ra lịch, được nhân dân gìn giữ để sử dụng trong vòng 112 năm ở nước ta (từ 1813 đến 1945). Ngày xưa, nước ta có những cơ quan nghiên cứu về thiên văn, chẳng hạn thời Trần có Thái sử cục lịnh, thời Lê có Thái sử cục, thời Lê - Trịnh có Tư thiên giám, sau đó là Khâm thiên giám… Các cơ quan thiên văn này, đồng thời cũng là nơi làm lịch. Ví dụ thời Lê - Trịnh đặt tên lịch là lịch Khâm Thụ (nghĩa là mệnh lệnh của trời). Năm 1780 khi xưng vương ở Gia Định, để tỏ rõ chính thống, Nguyễn Ánh đã ban hành lịch gọi là lịch Vạn Toàn (nghĩa là tính được chu đáo) và khi lên ngôi thì lịch này vẫn được sử dụng. Trong Lịch triều hiến chương loại chí, ở phần Lễ nghi chí, nhà bách khoa Phan Huy Chú có viết: “Hàng năm, Tư Thiên giám tính trước lịch công bố năm sau, đến tháng 6 viết ra hai bản dự thảo, một bản dâng lên vua và khải với chúa xin lãnh tiền công mua giấy mực để in. Bản lịch dự thảo dâng lên, vua xem xong rồi giao cho Trung thư giám viết lại, xong giao cho trị giám việc khắc in. Khi bản khắc xong, Tư Thiên giám vâng lịnh đối chiếu xem xét rồi cho in. Trong tháng 12 chọn ngày dâng lên, vua chuẩn 69 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM y, đến ngày 24 tháng 12, là lễ Tiến lịch. Sáng ngày hôm ấy công hầu bá và các quan văn võ theo chỉ chúa, đều đủ phẩm phục, vào triều làm lễ. Làm lễ xong, Tư thiên giám bưng cái án lịch ở trước ngự tọa sang tiến ở phủ chúa. Quan Lễ khoa đem lịch ban cho các quan. Các quan quỳ xuống để nhận, giơ lịch lên ngang trán rồi lui ra”. Tài liệu này đã cho thấy ý nghĩa quan trọng của việc làm lịch thời ấy. Tư thiên giám sang đời Nguyễn được đổi tên là Khâm thiên giám. Cách làm lịch của ta hồi đó vẫn theo phép lịch Đại Thống (nhà Minh) hoặc lịch Thời Hiến của nhà Thanh. Trong sách Ý Trai toán pháp nhất đắc lục, Nguyễn Hữu Thận cho biết là từ thuở 8 tuổi, ông đã được thân phụ dạy cửu chương hoặc giảng cho nghe về phép lịch Đại Thống của nhà Minh. Lớn lên, qua kiểm nghiệm của thực tế ông thấy lũ lụt, hạn hán thì năm nào cũng có nhưng lịch Đại Thống lại dự báo không đúng. Vậy làm sao sửa chữa, bổ cứu để cải tiến hầu giúp ích cho bà con nông dân? Câu hỏi ấy cứ âm ỉ trong lòng ông suốt năm tháng hoa mộng của tuổi trẻ. Cơn lốc của thời đại đã cuốn ông trong biến động của thời cuộc. Khi ngọn cờ đào chính nghĩa của Nguyễn Huệ từ phía Nam kéo ra đánh đuổi chúa Trịnh khỏi Thuận Hóa, ông hăm hở ra giúp nhà Tây Sơn và làm đến chức Hữu thị lang bộ Hộ. Năm 1801 khi Nguyễn Ánh chiếm được Phú Xuân thì ông phải “hiệu thuận” - theo triều đại mới “đới công chuộc tội”(!). Buổi đầu ông làm Chế cáo ở Viện hàn lâm, rồi làm Thiêm sự ở bộ Lại. Ít lâu sau làm Cai bạ ở Quảng Ngãi. Năm 1809 ông lại trở về triều nhậm chức Hưu tri tham bộ Lại, vài tháng sau được cử làm Chánh sứ cùng với hai phó sứ là Lê Đắc Tần và Ngô Tuấn sang Trung Quốc. Chuyến đi này đã khiến ông rộn lên niềm vui và ước mơ của thời trai trẻ: lịch số và toán học. Do đó, trong suốt chuyến đi sứ ông đã dành nhiều thời gian lưu tâm, tìm kiếm để mua cho bằng được hai loại sách quý này. Trong Đại Nam liệt truyện của Quốc sử quán triều Nguyễn, quyển 25 “Truyện các quan mục XXII” có ghi lại như sau: “Bọn Thận vào bệ từ, vua dụ rằng: - Bọn người phụng mệnh đi sứ, nên thận trọng về lời lẽ để trọng quốc thể. 70 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM Năm thứ 9, Thận từ nước Thanh trở về, đem quyển “Đại Thanh lịch tượng khảo thành thư” dâng lên. Vua hỏi, Thận tâu nói: - Kính báo cho thần dân biết thời tiết làm ruộng là công việc đầu tiên của người làm chủ một nước. Quyển lịch “Vạn toàn” của nước ta, cùng với quyển “Thời hiến thư” của nước Đại Thanh, từ trước đến giờ đều dùng theo như “Đại thống lịch pháp” của nhà Minh, hơn 300 năm nay chưa có đổi định lại, nên càng lâu càng sai. Khoảng năm Thanh Khang Hy mới tham khảo cách tính lịch của Tây dương, làm thành sách này, về phép đo lường, suy tính rất rõ ràng, so với sách Đại thống càng kỹ lưỡng hơn, mà về phép tính tam tuyến, bát giác tinh diệu, xin giao cho Khâm thiên Lịch nhà Nguyễn (1802-1812) giám, bảo các sinh viên về môn thiên văn xem xét tìm cách tính, thì độ số của trời được đều, mà tiết hậu được đúng vậy”. Bộ sách dâng lên cho vua Gia Long là bộ sách mà lâu nay các nhà thiên văn học của ta đều ước mơ – nó giảng giải rõ về những nguyên lý thiên văn và toán học về lịch, trình bày hướng dẫn các tiết mục phép lịch Thần Hiến và đặt sẵn các biểu đồ lập thành. Đại Nam liệt truyện có viết thêm: “Năm thứ 10, Hộ bộ là Lê Quang Định nói: “Thận trong bụng mưu tính tinh thông, tài ấy có thể đại dụng”. Bèn từ Lại bộ chuyển (Thận) sang hữu tham tri Hộ bộ. Mùa xuân năm thứ 11, (Thận) kiêm phó quản các công việc ở Khâm thiên giám. Năm thứ 14, vua thường cùng với Thận bàn về thiên tượng, nói rằng: “-Ngày sóc ngày 71 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM vọng mà gặp có nhật thực, nên bãi triều hạ và yến thưởng”, để tỏ ý biết sợ hãi tu tính. Thận nhân đó tâu nói: “-Thần suy tính thiên tượng đến tháng 4 và tháng 10 năm Đinh Sửu đều có nhật thực”. Vua nói: “-Nếu quả có, thời 2 lễ hưởng về mùa hạ, mùa đông nên đổi ngày khác mới phải”. Lại bàn đến đạo Thiên Chúa giáo ở Tây dương, Nguyễn Văn Thắng tâu nói: “-Thiên Chúa ra đời tới nay đã được 1815 năm”, vua sai Thận tính thử, thời thuộc về năm Tân Dậu, niên hiệu nguyên thủy thứ 1 đời Hán Bình đế. Năm thứ 15, (Thận) được đổi bổ tả tham tri bộ Hộ lĩnh Hộ tào ở Bắc thành. Năm thứ 16 (1817) tức năm Đinh Sửu, quả có nhật thực. Vua cùng các quan bàn về phép làm lịch nói: “- Chức Khâm thiên giám, duy có học thuật của Nguyễn Hữu Thận mới đủ đương được”. Mùa đông năm ấy, cho triệu (Thận) về, thăng làm Lại bộ thượng thư. Năm Minh Mạng thứ 1, đổi (Thận) sang làm Hộ bộ thượng thư. Năm thứ 2 kiêm quản cả việc ở phủ Nội vụ, rồi kiêm quản cả công việc ở Khâm thiên giám”. Thời gian này, Nguyễn Hữu Thận đã tâu xin làm lịch Hiệp kỷ thay cho lịch Vạn Toàn đang sử dụng chính thống trong cả nước. Bộ lịch của ông được triều đình ban bố bắt đầu sử dụng từ năm 1813. So với những bộ lịch trước đó thì ông đã cải tiến nhiều như thời tiết được báo chính xác, giúp nông dân cày cấy kịp thời vụ v.v… Công việc đang hào hứng đối với ông thì năm 1816 nhà vua lại thăng cho ông lên làm Thượng Thư bộ Lại. Điều này khiến ông không vui. Năm 1820, khi Minh Mạng lên ngôi, ông xin được trở lại công việc mà mình đang đeo đuổi, hai năm sau ông mới được Lịch Niên đại Kỷ Bách trung kinh thời Lê Trung Hưng từ 1624-1785 72 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM giao quản Khâm thiên giám chủ nhiệm sách Vạn niên thư. Lập tức ông tâu vua định tiết khí thời hậu ở kinh đô Phú Xuân, Gia Định và Bắc Thành: theo kinh độ địa lý mà tính giờ mọc lặn của mặt trời và ngày đêm ngắn dài: theo độ cao của địa điểm phía bắc mà định vĩ độ. Những đề nghị này cho thấy tầm nhìn khoa học của Nguyễn Hữu Thận và bộ lịch Hiệp kỷ (nghĩa là: Hợp với cương kỷ của trời) ngày càng chính xác, phổ biến sâu rộng và được sử dụng mãi cho đến năm 1945. Do đó, không phải ngẫu nhiên khi Quốc sử quán triều Nguyễn dù không ghi tên ông vào Đại Nam nhất thống chí, nhưng cũng phải thừa nhận trong Đại Nam liệt truyện với dòng chữ tôn vinh chói lọi: “Hữu Thận cho học thuật, thạo việc làm quan, tính về lịch học, giỏi suy tính, nhà thiên văn học không có ai hơn được”. Có lần vua Minh Mạng bảo triều thần rằng: “Trẫm từ khi lên ngôi đến nay lúc nào cũng nâm nấm, nem nép chỉ sợ chưa hợp ý Trời, nay hạn, dịch làm tai có phải đấng Thượng đế đã khiển trách ta là không có đức vậy ư?” Quan Lại Bộ Thượng thư là Nguyễn Hữu Thận tâu rằng: “Tai trời lưu hành từ đời xưa thường có. Đấng vương giả mỗi khi gặp tai biến biết sợ mà lo thêm sửa đức chính thời tai lại chuyển nguy làm lành vậy”. Điều này cho thấy Nguyễn Hữu Thận đã kín đáo khuyên nhà vua làm thêm nhiều việc đức. Âu đó cũng là thái độ của trí thức trước mệnh nước. Ngoài việc soạn tác phẩm Ý Trai toán pháp nhất đắc lục (Một điều tâm đắc về toán pháp của Ý Trai) đã cho thấy không những giỏi về lịch mà ông còn giỏi cả về toán học. Nói như giáo sư Hoàng Xuân Hãn thì Nguyễn Hữu Thận là một nhà toán học Việt Nam đã bàn luận tới ma phương (carré magique). Tưởng cũng nên nhắc lại rằng, một ma phương cấp n là một hình vuông gồm n2 số nguyên khác nhau được sắp xếp sao cho tổng số các số theo hàng ngang, hoặc theo cột dọc, hoặc theo đường chéo, là bằng nhau, và bằng một hằng số gọi là hằng số ma của hình vuông. Ma phương gọi là chuẩn khi n2 số là n2 số nguyên dương đầu tiên. Người ta chứng minh được rằng hằng số ma của ma phương chuẩn cấp là n(n2+1). Thấy được điều này để chúng ta hiểu hơn về đầu óc uyên bác của Nguyễn Hữu 73 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Thận. Ông mất ngày 12-8-1831, một năm trước ngày mất ông còn viết tác phẩm Lập phương pháp biện ngôn vì “chưa thể thôi khổ công suy nghĩ tìm tòi được” như chính ông cho biết. Thật cảm động xiết bao khi biết năm đó ông đã ngoài 70 xuân, tấm lòng say mê lao động, luôn tìm tòi của ông đáng quý và đáng kính trọng biết chừng nào! 74 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM CAO THẮNG Người chế súng trường 1874 theo kiểu Pháp Địa bộ muốn theo dòng Nhạc Mục, thét nhung bào từng ghê trận oai linh; Thiên tài toan học chước Vũ Hầu, chế súng đạn biết bao chừng cơ trí. Đây là hai câu trong bài Văn tế của cụ Phan Đình Phùng. Ai là người được cụ sánh với Nhạc Phi đời Tống? Với Gia Cát Khổng Minh đời Hán? Người đó chính là anh hùng Cao Thắng (1864-1893) Cao Thắng – cánh tay phải đắc lực của cụ Phan trong cuộc khởi nghĩa Lương sơn. Cao Thắng sinh năm 1864 tại thôn Yên Đức, xã Tuần Lễ (nay xã Sơn Lễ, huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh). Dáng người ông thấp nhỏ, tay chân đều ngắn mà mọi người gọi là tướng ngũ đoản. Từ thuở nhỏ, ông đã thông minh lanh lẹ, dù giỏi chữ văn hay nhưng vẫn không thích theo nghiệp bút nghiên, chỉ thích đọc binh thư và luyện tập võ nghệ để sau này trở thành một chiến tướng. Em ruột ông là Cao Nữu cũng là một người như thế. Năm 1885 khi vua Hàm Nghi xuống hịch Cần Vương thì cụ Phan Đình Phùng được giao lãnh đạo phong trào chống Pháp ở ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Cụ đã cho nghĩa quân lùng bắt tên phản bội Trương Quang Ngọc chém đầu, vì hắn đã dẫn giặc 75 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM Pháp đến bắt vua Hàm Nghi. Do đó, hào kiệt khắp nơi nức lòng tòng quân dưới ngọn cờ của cụ, trong số đó có anh em Cao Thắng. Thấy Cao Thắng là người có chí khí nên anh ruột của cụ là Phan Đình Thuận đã nhận làm con nuôi. Năm 1886 khi cụ Phan ra Bắc để liên lạc với các lực lượng chống Pháp, giao quyền chỉ huy cho Cao Thắng, năm đó ông mới 22 tuổi. Ông ra sức xây dựng lại lực lượng và điều canh cánh trong lòng là làm sao phải chế tạo được vũ khí để đánh lại lực lượng hùng hậu của giặc Pháp. Tương quan lực lượng đôi bên quá chênh lệch. Trong văn tế của cụ Nguyễn Đình Chiểu cho biết, đối phương “giăng dưới nước tàu đồng tàu sắt, súng nổ quá bắp rang”; còn ta “ngoài cật một manh áo vải; trong tay một ngọn tầm vông; hỏa mai đánh bằng rơm con cúi; gươm đao dùng bằng lưỡi dao phay...”. Vì thế nỗi lo của Cao Thắng cũng là điều mong mỏi của nhiều thế hệ kháng chiến chống Pháp. Sau nhiều đêm trằn trọc, Cao Thắng sai nghĩa quân xuống hai làng Trung Lương và Vân Trung (thuộc huyện Can Lộc, Hà Tĩnh) - nơi nổi tiếng với nghề thợ rèn, kêu gọi thợ thầy đi theo cụ Phan. Sự tuyên truyền ấy đã có hiệu quả. Hàng trăm thợ rèn đã mang vác dụng cụ lên chiến khu. Cao Thắng đã đưa họ vào Lệ Động - một khu rừng sâu để bí mật đúc súng. Trong vòng mấy tháng trời mày mò, vừa làm vừa rút kinh nghiệm sửa chữa, những người thợ rèn dưới quyền chỉ huy của Cao Thắng đã đúc được hơn 200 khẩu súng. Loại súng này thì phải nhồi thuốc ở ống rồi có chỗ cò máy để hạt nổ, hễ bóp cò có lửa bật ra thì đạn vụt bay khỏi nòng. Dù chưa thật ưng ý với loại súng này, nhưng loại vũ khí mới đã làm nức lòng các nghĩa quân. Khi xung trận thì ông chia quân làm hai đoàn lính được trang bị súng tự chế. Súng bao giờ cũng được nạp đạn sẵn, hễ 100 khẩu súng đồng loạt bắn xong và dừng lại để nạp đạn thì 100 khẩu súng kia tiếp tục nhả đạn. Cứ luân phiên nhau như thế, thành ra trong trận đánh lúc nào cũng có tiếng súng nổ liên tục, giặc không thể biết nghĩa quân có nhiều súng hay ít. 76 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM Nhờ loại vũ khí này mà thanh thế của cụ Phan lan rộng khắp nơi. Nhưng vốn là người có chí lớn, không bằng lòng với loại súng đã có, Cao Thắng đã nghĩ tới việc phải chế tạo được súng tối tân như súng trường 1874 của Pháp. Ông thường nói: “- Đã làm thì tất phải làm to, mà kiểu súng của ta thì tốn nhiều thời giờ quá, nào phải chùi súng, nạp thuốc súng… làm sao có thể địch lại với giặc Pháp? Muốn đánh với họ, tất phải có khí giới như họ mới được”. Điều khó khăn đối với ông là làm sao có được một khẩu súng Pháp để bắt chước theo? Đang suy tính nát óc để kiếm một khẩu súng Pháp mà chưa có cách gì thì bất chợt, một nghĩa quân đến mật báo là trong ngày mai có hai lính Pháp ở tỉnh thành Nghệ An dẫn một toán lính tập chở mấy hòm bạc lên đồn Phố (thuộc hạt Hương Sơn) để phát lương cho binh lính. Nhận được tin cơ mật này, Cao Thắng vỗ đùi hét lớn: - Trời đã giúp ta phen này! Ông dùng kế “xuất kỳ bất ý công kỳ vô bị” – nhằm lúc người ta không phòng bị mình nhảy ra đánh thì tất thắng. Ông cùng Cao Nữu, Cao Đạt, Nguyễn Niên dẫn hai mươi cảm tử quân mai phục trong rừng rậm hiểm trở. Xế chiều hôm ấy, mọi việc đã diễn ra đúng như dự kiến. Nghĩa quân đã thu được 17 khẩu súng Pháp và 600 viên đạn. Có được súng, Cao Thắng mừng rỡ, ông liền dẫn thợ rèn vào sâu trong núi để bắt đầu công việc chế tạo. Ông tự tháo rời một khẩu súng ra từng bộ phận. Mỗi bộ phận lại lấy thước đo chi ly, rồi nghiên cứu từng công dụng một cách chu đáo. Suốt ngày ông ngồi bên cạnh thợ để đôn đốc và kiểm tra công việc, cứ lấy từng bộ phận của súng Pháp, theo đúng hình thức mà rèn đúc, sai đến đâu lại sửa đến đấy. Công việc nặng nề và khó nhọc này kéo dài hơn một tháng, một khẩu súng đã được chế tạo xong. Nhưng khi sử dụng thì Cao Thắng vẫn chưa ưng ý lắm. Ông bắt phá ra hết để rèn đúc lại. Rèn đi đúc lại mãi mà ông vẫn không nản lòng. Suốt mấy tháng ròng lao tâm khổ tứ, Cao Thắng tìm mọi cách để hoàn thiện khẩu súng theo kiểu Pháp. Chẳng hạn, lò xo trong 77 BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM súng vì không có loại thép cứng thì ông dùng cây gọng dù uốn lại mà làm. Về nòng súng vì sản xuất thủ công, bắn dễ bị vỡ nên ông cho lồng nhiều vòng sắt ở bầu nòng để chắc chắn. Về báng súng thì ông hướng dẫn thợ tiện, thợ mộc ở làng Xa Lang thực hiện. Thiếu sắt thì ông cho thu mua sắt vụn, cày cuốc, móng ngựa… đem về đúc lại. Còn vỏ đạn thì ông cho góp nhặt những mâm đồng, nồi đồng, đập dẹp ra rồi cuốn lại. Để đảm bảo đầy đủ nguyên liệu cho thợ đúc súng, ông kêu gọi nhân dân trong làng chia bớt đồ đồng, đồ sắt trong nhà cho nghĩa quân. Qua mấy tháng trời ròng rã, những Súng trường do Cao Thắng chế tạo người thợ rèn đã đúc được 350 khẩu súng theo đúng kiểu súng Pháp, chỉ riêng thuốc súng thì Cao Thắng chưa có đủ nguyên liệu để làm, tạm thời phải dùng thuốc súng ta. Ghê gớm cho tinh thần của nghĩa quân Phan Đình Phùng, họ đã chế tạo súng chỉ bằng sức lao động, sự thông minh và tài trí, chứ không có máy móc nào cả. Sau khi đúc xong súng, Cao Thắng cho người tâm phúc ra Bắc rước cụ Phan về. Từ đây, thanh thế của nghĩa quân Hương Khê lan rộng khắp nơi và gây cho giặc những đòn thất điên bát đảo. Giặc Pháp kinh hoàng khi biết nghĩa quân sử dụng loại vũ khí tối tân không kém gì súng của chúng. Cao Thắng đã bàn với cụ Phan là mở đường đánh xuống các đồn trại của giặc - để mở rộng phạm vi hoạt động. Ông thưa với cụ Phan: - Quân Pháp lấy Nghệ An để đối địch với ta, vì ở địa thế đó chúng khống chế được Hà Tĩnh, Quảng Bình và chận đường không cho ta giao thông, liên lạc với hào kiệt phía Bắc. Nếu ta cứ lấy núi rừng làm nơi kháng cự lâu dài thì cũng không ổn. Giặc không cần tấn công ta, chúng chỉ bao vây thì ta cũng tuyệt lương thực, bí đường, lần hồi binh mã cũng tan. Chi bằng ta ra tay trước để mở một sinh lộ mới? 78 TẬP 3: DANH NHÂN KHOA HỌC VIỆT NAM Cụ Phan đã thấy được điều này, nhưng cụ vẫn chưa dám quyết định vì nhiều lẽ trong chiến lược, nhưng Cao Thắng vẫn nằng nặc xin đi. Ông quỳ dưới chân cụ và nói những lời tâm huyết: - Đại trượng phu đến chết là cùng, chứ có điều chi mà phòng sợ! Cuối cùng, cụ Phan phải đồng ý trước ý nguyện của ông. Ông chọn những nghĩa quân ngoan cường, trang bị đầy đủ súng ống, được luyện tập thuần thục như binh pháp của người Pháp. Đặc biệt binh phục thì ông cho lính mặc toàn sắc đỏ với quan niệm: “Phương Nam ta thuộc về Hỏa, còn phương Tây thuộc về Kim, nay lấy hỏa khắc kim nghĩa là lấy lửa nung vàng cho chảy ra. Vậy quân phục sắc đỏ là tượng trưng cho hỏa vậy”. Nghĩa quân ào ào xuống núi. Những đồn bót của giặc không chống cự nổi khí thế tiến công như chẻ tre. Đêm 21/11/1893 trong trận đánh đồn Nỏ (tài liệu của Pháp ghi là đồn Nu?) chẳng may ông trúng đạn và hy sinh. Năm đó người anh hùng Cao Thắng mới tròn 29 xuân. Tin dữ đến chiến khu Ngàn Trươi, cụ Phan khóc lóc thảm thiết: - Trời hại tôi. Ông Cao Thắng ơi! Trời hỡi trời! Một sĩ quan Pháp là đại úy Gosselin có tham gia trận đánh này, y nhặt được khẩu súng do Cao Thắng chế tạo đã hết sức kinh ngạc. Sau này trong hồi ký Empire d’Annam, y còn bàng hoàng viết: “Tôi có đem nhiều khẩu súng đó về tận bên Pháp, xem nó giống đủ mọi vẻ như súng của các xưởng binh khí nước ta chế tạo, đến nỗi tôi đưa cho các quan binh pháo thủ ta xem, các ông ấy phải sửng sốt lạ lùng. Nó chỉ khác với súng ta có hai chỗ: lò xo không đủ sức mạnh và trong nòng súng không có xẻ rảnh, vì đó mà đạn bắn ra không xa, không mạnh. Tuy vậy, những khẩu súng này đã từng bắn chết ít nhiều lính khổ xanh, cai đội Pháp và lính tập”. Cái chết của Cao Thắng đã gây xúc động lớn trong nghĩa quân, ngay lập tức cụ Phan truyền lệnh đem thi hài của ông lên Ngàn Trươi để làm lễ an táng. Tướng sĩ khóc như mưa. Chính tay cụ Phan viết hai câu đối và đọc bài văn tế thống thiết: 79